Thứ Ba, 3 tháng 4, 2012

hậu phương miền Bắc trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954 - 1975


Vai trò của hậu phương miền Bắc trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954 - 1975


VAI TRÒ QUYẾT ĐỊNH CỦA HẬU PHƯƠNG LỚN MIỀN BẮC ĐỐI VỚI TIỀN TUYẾN LỚN MIỀN NAM TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MĨ CỨU NƯỚC (1954 – 1975)

Khi bàn về chiến tranh cách mạng, Lênin có một luận điểm nổi tiếng: “Muốn tiến hành chiến tranh một cách nghiêm chỉnh phải có một hậu phương tổ chức vững chắc”. Hậu phương và tiền tuyến có mối quan hệ vô cùng mật thiết. Hậu phương mạnh thì tiền tuyến mạnh. Tiền tuyến đánh thắng sẽ bảo vệ được hậu phương, động viên và tạo điều kiện thuận lợi để hậu phương cũng cố và xây dựng. Ngược lại, việc xây dựng hậu phương vững mạnh có tác dụng quyết định đến thắng lợi ở tiền tuyến.
Như chúng ta đã biết, sau hiệp định Giơnevơ đất nước bị chia cắt thành hai miền với hai chế độ chính trị – xã hội khác nhau. Miền Bắc nước ta hoàn toàn giải phóng đã hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đang tiến hành cách mạng XHCH và xây dựng CNXH. Đó là một chuyển biến cực kì trọng yếu quyết định phương hướng phát triển của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới. Trong khi đó, Miền Nam nước ta còn bị đặt dưới ách thống trị của đế quốc Mĩ và tay sai Ngô Đình Diệm, nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chưa hoàn thành. Nằm trong nhiệm vụ chiến lược chung của cả dân tộc – nhằm chấm dứt tình trạng dất nước bị chia cắt, Đảng đã xác định Miền Bắc là hậu phương lớn và Miền Nam là tiền tuyến lớn. Miền Bắc tiến lên CNXH, thực hiện cải tạo CNXH và bước đầu phát triển kinh tế, xã hội, làm cơ sở tiền đề vững chắc cho cách mạng miền Nam phát triển. Miền Bắc –hậu phương lớn, có vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của cách mạng cả nước, đối với sự nghiệp thống nhất đất nước. Vì thế, Miền Bắc phải có mối quan hệ gắn bó, phối hợp với miền Nam tạo điều kiện cho nhau phát triển. Thắng lợi giành được ở mỗi miền là thắng lợi chung cho cách mạng hai miền.
Ngay sau khi hiệp đinh Giơnevơ về Đông Dương được kí (7/1954), Mĩ đã tiến hành chiến lược chiến tranh đặc biệt (1960 – 1965), chiến tranh cục bộ (1965 – 1968). Đến năm 1968, khi bước vào Nhà Trắng, Nichxơn đề ra chiến lược toàn cầu mang tên mình – “Học thuyết Nichxơn”, Học thuyết này thực hiện đầu tiên ở miền Nam Việt Nam với chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. Trong khi đó, ở Miền Nam lúc này quân và dân ta gặp không ít khó khăn về vũ khí, lương thực thực phẩm, lực lượng chiến đấu... Để giữ vững và phát triển phong trào tấn công địch Đảng và Hồ Chí Minh đã xác định: xây dựng miền Bắc thật sự “vững mạnh và tiến bộ”, “thiết thực chiếu cố miền Nam”, “là nền tảng là gốc rễ của lực lượng đấu tranh”,“Miền Bắc là chỗ đứng của ta. Bất kể trong tình hình nào, miền Bắc cũng phải củng cố”, “Muốn thực hiện cương lĩnh của Mặt Trận, thì chúng ta phải ra sức cũng cố Miền Bắc về mọi mặt, ….Nền có vững, nhà mới chắc, gốc có mạnh, cây mới tốt”. Thực hiện chủ trương chi viện lực lượng, vật chất cho miền Nam, ngay từ tháng 7 năm 1954, Trung ương Đảng đã quyết định thành lập đoàn vận tải trên biển Đông, đặt tên là Đoàn 759. Bộ Chính trị cũng quyết định tổ chức tuyến giao liên vận tải quân sự trên bộ và trên biển (sau này là tuyến đường Trường Sơn, đường Hồ Chí Minh trên biển)để vận chuyển hàng quân sự vào miền Nam, tổ chức đưa cán bộ, bộ đội, chuyển công văn, tài liệu đi lại giữa hai miền. Như vậy, ngay từ đầu Đảng và nhà nước đã nhận thấy được tầm quan trọng, vai trò quyết định của hậu phương lớn miền Bắc với tiền tuyến lớn Miền Nam. Đây là một đường lối hoàn toàn đúng đắn của Đảng.
Từ khi hòa bình lập lại, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta ở miền Bắc đã khắc phục mọi khó khăn gian khổ, hoàn thành cải tạo ruộng đất, kết thúc thắng lợi thời kì khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh và hăng hái thi đua ra sức thực hiện kế hoạch nhà nước “3 năm”, “5 năm”, cải tạo kinh tế, phát triển kinh tế, văn hoá, văn hoá… để nâng cao thêm một bước đời sống vật chất và văn hóa cho nhân dân và hơn hết làm nhiệm vụ hậu phương chi viện cho miền Nam, cùng miền Nam hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc từ đó làm cơ sở vững chắc cho công cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.
Miền Bắc khẩn trương tổ chức động viên sức người, sức của nhằm chi viện nhanh chóng, kịp thời, liên tục đáp ứng yêu cầu của chiến trường miền Nam trong các cuộc tiến công và nổi dậy.Công tác động viên lực lượng ở miền Bắc được thực hiện trên quy mô lớn nhằm tăng cường hơn nữa sức mạnh chiến đấu cho quân đội, đáp ứng yêu cầu bổ sung quân số cho chiến trường miền Nam. Thực hiện lời kêu gọi của Hồ Chí Minh “Mỗi người làm việc bằng hai”, “vì miền Nam ruột thịt” nhân dân miền Bắc từ thành thị tới nông thôn, từ miền xuôi đến miền ngược, đã hăng hái thi đua lao động sản xuất, tiết kiệm tiêu dùng, chi viện cao nhất cho đồng bào và chiến sĩ Miền Nam. Khẩu hiệu “Tay cày tay súng” với các phong trào thi đua như “Sóng Duyên Hải” trong công nghiệp, “Gió Đại Phong” trong nông nghiệp, “Cờ Ba Nhất” trong lực lượng vũ trang, “Hai tốt” trong trường học, “Thầy thuốc như mẹ hiền” trong ngành y tế, “Ba cải tiến” trong các cơ quan, “Ba đảm đang” trong phụ nữ, “Ba sẵn sàng” trong thanh niên…phát triển rộng khắp, trở thành cao trào.
“Trong 15 năm qua Miền Bắc nước ta đã tiến những bước dài chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Đất nước, xã hội và con người đều đổi mới” (Hồ Chí Minh). Miền Bắc đã tạo cơ sở mới về chính trị, kinh tế, quốc phòng để chi viện lực lượng và vật chất cho miền Nam. Với chế độ chính trị ưu việt, với lực lượng kinh tế và quốc phòng lớn mạnh cùng với sự hậu thuẫn của quốc tế Miền Bắc đã trở thành căn cứ địa vững chắc cho cách mạng Việt Nam trong cả nước, tạo tiền đề cho cách mạng miền Nam Việt Nam chuyển hướng, giúp miền Nam vượt qua muôn vàn khó khăn gian khổ, vùng lên đúng lúc, trụ vững trong những lúc ác liệt nhất, hình thành thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp trên cả ba vùng chiến lược. Đây là cơ sở vững chắc để Đảng ta cũng cố và nâng cao quyết tâm chiến đấu chống đế quốc Mĩ xâm lược.
Nhận thấy vai trò của hậu phương lớn miền Bắc đối với chiến trường miền Nam, đế quốc Mĩ đã hai lần tiến hành chiến tranh phá hoại với quy mô lớn, với mức độ đánh phá ác liệt đối với Miền Bắc và đối với tuyến giao thông vận tải chiến lược hòng ngăn chặn sự chi viện của hậu phương lớn đối với miền Nam. Mĩ muốn phá hoại tận gốc tiềm lực quân sự kinh tế của Việt Nam, “kéo lùi miền Bắc Việt Nam trở lại thời kì đồ đá”, làm cho ta không còn khả năng chiến đấu.
Miền Bắc đã tập trung lớn khả năng về lực lượng, phương tiện để khắc phục tại chổ và kịp thời hậu quả của chiến tranh, vượt qua vòng vay phong tỏa của địch để tiếp nhận tốt hàng viện trợ của bên ngoài và tiếp viện theo yêu cầu của tiền tuyến miền Nam. Cuộc chiến tranh phá hoại của Mĩ đến đỉnh cao và hết sức ác liệt vẫn không ngăn được miền Bắc làm nghĩa vụ hậu phương. Dưới bom đạn ác liệt của kẻ thù, miền Bắc vừa chiến đấu vừa sản xuất, tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội trong khói lửa chiến tranh; duy trì, phát triển tiềm lực về mọi mặt, tiếp tục tăng cường lực lượng ngày càng lớn cho tiền tuyến, đồng thời về cơ bản vẫn giữ vững đời sống nhân dân hậu phương ổn định, đảm bảo càng đánh càng mạnh. Từ năm 1965 đến năm 1975, miền Bắc đã động viên hàng triệu lao động, mở rộng lực lượng vũ trang và phục vụ chiến đấu. Trong thời gian diễn ra những cuộc tiến công chiến lược (1968, 1972, 1975), nhân lực động viên ở miền Bắc phục vụ nhu cầu chiến tranh tăng gấp 4 đến 5 lần so với trước. Nhu cầu về nhân lực của nhiều ngành trực tiếp phục vụ chiến tranh cũng tăng lên rất lớn. Nhân lực động viên đến cuối năm 1972 cần tới trên 2 triệu người, chiếm khoảng 30% lao động xã hội miền Bắc, trong đó 70% là nam giới. Tỉ lệ tuyển quân ở xã cao nhất là trên 10% dân số; 70% số hộ gia đình ở miền Bắc có người thân chiến đấu trên các chiến trường. Trên đồng ruộng, phụ nữ chiếm 63% trong số lao động sản xuất trực tiếp. Giai đoạn 1973 – 1975: 50% số quân bộ đội tập trung ở miền Nam là lực lượng do miền Bắc tăng cường. Hai năm 1973-1974, miền Bắc tiếp tục động viên 25 vạn thanh niên vào lực lượng vũ trang, bổ sung cho chiến trường 15 vạn quân; chuyển hàng vạn thương binh, bệnh binh từ các chiến trường về điều trị và giải quyết nhanh chính sách. Năm 1975, năm cuối của cuộc kháng chiến, tổng số nhân lực Miền Bắc động viên theo nhu cầu quốc phòng chiếm tới 30% lực lượng lao động xã hội ở miền Bắc, 60 – 65% số đó vào lực lượng vũ trang. Trên 80% quân số, 81% vũ khí, 60% xăng dầu, 65% thuốc men, 85% xe vận tải trong cuộc tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 là do miền Bắc đưa vào.
Về vật chất: phần lớn vũ khí, thiết bị chiến tranh, lương thực, thuốc men… phục vụ công tác chiến đấu và ổn định vùng giải phóng ở miền Nam là do miền Bắc chi viện. Miền Bắc đã tổ chức tiếp nhận hàng triệu tấn vật chất phương tiện kĩ thuật do nước ngoài viện trợ chuyển vào Miền Nam bằng mọi cách có thể. Trong những năm 1965 – 1968, miền Bắc đã tổ chức vận chuyển vào miền Nam khối lượng vật chất gấp 10 lần so với những năm 1961 – 1964. Trong năm 1970, lắp đặt đường ống dẫn xăng từ miền Bắc vào miền Nam dài 500km, đến cuối năm 1971 nâng lên gần 1000km. Nhờ tuyến dường ống, mùa khô năm 1070.1971, Miền Bắc đã chuyển vào chiến trường khối lượng xăng dầu gấp 10 lần mùa khô 1969 – 1970.
Ngày cũng như đêm, trên mọi nẻo đường từ hậu phương đến tiền tuyến, hàng chục vạn nhân dân và bộ đội sát cánh đánh địch, mở đường và vận chuyển với tinh thần anh dũng, bền bỉ, thông minh và sáng tạo vô song; đảm bảo cho chiến trường đủ súng, đủ đạn, đủ quân, ăn no đánh thắng. Các tuyến đường chiến luợc: Trường Sơn, Hồ Chí Minh trên biển… đã góp phần phát huy sức mạnh của miền Bắc XHCH bằng nhân tố quyết định nhất, kết hợp với sức mạnh tại chỗ của cách mạng miền Nam – nhân tố quyết định trực tiếp, tạo thành sức mạnh tổng hợp to lớn của cả nước, của dân tộc để đưa kháng chiến chống Mĩ cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn. Đường Trường Sơn, đương Hồ Chí Minh là địa bàn chiến lược vững chắc nối liền hậu phương lớn với tiền tuyến lớn, nó là biểu hiện sự liên minh chiến đấu tiêu biểu cho chủ nghĩa dân tộc trở thành một phương hướng chiến lược quan trọng trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Đường Hồ Chí Minh trên biển đã trở thành huyền thoại bất tử, gắn liền với những chiến công hiển hách của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Số hàng do tuyến vận tải đường biển giao cho tiền tuyến lớn Miền Nam tuy không nhiều và bị tổn thất, nhưng có ý nghĩa rất lớn.
Số lượng trên có thể còn nhiều, nhiều hơn nữa, chưa tính những thiệt hại do bị quân địch phát hiện, hàng trăm con thuyền phải tự chiềm xuống đấy đại dương để khỏi bị địch phát hiện, con số thống kê này không nói lên điều gì khác ngoài việc chứng minh vai trò quyết định của hậu phương miền lớn Miền Bắc đối với tiền tuyến lớn Miền Nam trong sự nghiệp kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
Trên nền tảng chế độ xã hội mới được xây dựng trong 10 năm hòa bình (1954 – 1964) được cũng cố và bảo vệ vững chắc trong 10 năm chiến tranh (1965 – 1975), Đảng và nhà nước đã ban hành và thực hiện các biện pháp nhằm làm cho Miền Bắc phát huy đầy đủ, liên tục vai trò tác dụng có ý nghĩa quyết định đối với cộng kháng chiến chống Mĩ.Miền Bắc với khẩu hiệu: “Miền Nam gọi, miền Bắc trả lời”, “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “tất cả vì tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, “Một thân không thể chia đôi/Lửa gươm không thể cắt rời núi song”… đã cũng cố niền tin và nâng cao quyết tâm chiến đấu cho nhân dân miền Nam đấu tranh đánh bại mọi chiến lược chiến tranh đặc biệt, chiến tranh cục bộ, “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mĩ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh, kí Hiệp định Pari, tạo điều kiện thuận lợi cho Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam năm 1975.
Như vậy, có thể kết luận lại rằng: Bên cạnh hậu phương tại chổ: vùng giải phóng và căn cứ vững chắc, "căn cứ lõm", các "cơ sở" ở sâu trong vùng địch, "căn cứ trong lòng nhân dân", hậu phương Miền Bắc là một hậu phương lớn phục vụ đắm lực cho công cuộc đấu tranh chống Mĩ xâm lược ở tuyền tuyến lớn Miên Nam. Lực lượng và vật chất là những nhân tố chiến lược quan trọng trong chiến tranh đã được hậu phương lớn Miền Bắc đáp ứng kịp thời, đầy đủ và liên tục. Nhờ vậy mà lực lượng chiến đấu được khôi phục, thế trận của cách mạng cũng được lấy lại. Mỗi bước ngoặt của chiến tranh, phong trào cách mạng ở Miền Nam gặp không ít khó khăn, nhưng có hậu phương lớn chi viện và chia sẽ đã làm cho cách mạng ở miền Nam phát triển và có bước nhảy vọt. Sự lớn mạnh không ngừng của Miền Bắc không những nâng cao lòng tin tưởng và cổ vũ tinh thần hăng hái cách mạng của đồng bào yêu nước ở Miền Nam mà còn làm cho lực lượng so sánh giữa cách mạng và phản cách mạng trên phạm vi cả nước càng nghiêng về phía cách mạng, tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng miền Nam phát triển mạnh mẽ và giành thắng lợi cuối cùng.
Nhìn lại lịch sử ta có thể khẳng định rằng: Miền bắc là hậu phương lớn mà không thể phân biệt đâu là tiền tuyến, đâu là hậu phương. Cả dân tộc đã kết thành một khối vì khát vọng hòa bình và độc lập, tự do. Không giống như mọi hậu phương của chiến tranh mà chúng ta đã thấy, hậu phương Miền Bắc vừa xây dựng, vừa tích lũy, cung cấp sức người, sức của cho tiền tuyến, vừa chiến đấu bảo về hậu phương vừa cùng miền Nam chiến đấu chống Mĩ xâm lược. Miền Bắc xã hội chủ nghĩa luôn là chiếc cầu nối giữa cách mạng nước ta và cách mạng thế giới. Miền Băc là chổ dựa vững chắc cho cách mạng Miền Nam, đặc biệt những thời kì cách miền Nam bị tổn thất nặng nề.
Trong cuộc chiến đấu bảo vệ miền Bắc không ngừng tăng cường sức mạnh cho miền Nam, quân và dân miền Bắc đã phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân hiếm có trong lịch sử các cuộc chiến tranh, với một nền nghệ thuật quân sự rất sáng tạo và có hiệu lực lớn. Đánh bại các bước leo thang chiến tranh của không quân, hải quân Mĩ, làm thất bại các mục tiêu chiến lược chủ yếu của cuộc chiến tranh của Mĩ, quân và dân hậu phương Miền Bắc đã góp phần rất quan trọng cùng tiền tuyến lớn miền Nam đập tan ý chí xâm lược của đế quốc Mĩ và bè lũ tay sai. Vai trò của miền Bắc XHCN trong cuộc chống Mỹ, cứu nước được Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IV (1976) khẳng định: “Không thể nào có thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nếu không có miền Bắc XHCN suốt 16 năm qua luôn luôn cùng một lúc làm hai nhiệm vụ chiến lược. Đặc biệt từ năm 1965, khi Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khẳng định chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ hàng đầu của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân thì miền Bắc đã dốc vào chiến tranh cứu nước và giữ nước toàn bộ sức mạnh của chế độ XHCN, và đã làm tròn một cách xuất sắc nghĩa vụ căn cứ địa cách mạng của cả nước”.

NGUỒN TÀI LIỆU THAM KHẢO
Về đại thắng mùa xuân năm 1975,Bộ nội vụ các cục văn thư và lưu trữ nhà nước trung tâm lưu trữ quốc gia II, NXB Chính trị Quốc Gia, Năm 2009
Đại cương lịch sử Việt Nam, Trương Hữu Quýnh, NXB Giáo dục, Năm 2003.
Đại cương lịch sử Việt Nam, Đinh Xuân Lâm, NXB Giáo dục, Năm 2003.
Lịch sử Việt Nam từ 1945 đến nay : Giáo trình đào tạo giáo viên trung học cơ sở hệ cao đẳng sư phạm, Trần Bá Đệ, NXB Giáo dục, Năm 2002.
Tiến trình lịch sử Việt Nam/ Nguyễn Quang Ngọc, NXB Giáo dục , Năm 2007.
Web: http://www.cpv.org.vn/cpv/
http://www.lichsuvietnam.vn/
http://www.lichsuvietnam.info/


2. TÌM HIỂU CÔNG CUỘC XÂY DỰNG HẬU PHƯƠNG TRONG CHIẾN ĐẤU CHỐNG CHIẾN LƯỢC “CHIẾN TRANH CỤC BỘ” CỦA ĐẾ QUỐC MỸ (1965 – 1968)
Nguyễn Thị Hồng Quyên (Đh Sư phạm Thái Nguyên, 2009)
1. Lý do chọn đề tài
Hậu phương là nhân tố thường xuyên, quyết định đến thắng lợi của cuộc chiến tranh.
Đó là vấn đề cấp thiết không chỉ có ý nghĩa khoa học mà còn có giá trị thực tiễn đối với việc phát huy sức mạnh của toàn dân, trong công cuộc xây dựng  đất nước hiện nay.
Khi cuộc chiến tranh đã qua đi, đất nước bước vào thời kỳ hoà  bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta càng có thời gian nhìn nhận và đánh giá lịch sử một cách chính xác và khách quan hơn.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề hậu phương tiêu biểu như:
Tác phẩm “Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945 - 1975, thắng lợi và bài học” (NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000)
Tác phẩm “Miền Nam giữ vững thành đồng, Tập 4” của Giáo sư Trần Văn Giàu (NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1970)
Tác phẩm “Hậu phương lớn, tiền tuyến lớn trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước 1954 - 1975” của Giáo sư, Tiến sĩ Phan Ngọc Liên (NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2005)
Tác phẩm “Hậu phương chiến tranh nhân dân Việt Nam 1945 - 1975” (NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1997)
Đến nay chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu vấn đề về công cuộc xây dựng hậu phương trong chiến đấu chống “Chiến lược chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mĩ (1965-1968) trên các mặt: chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế... nhưng đây là nguồn tư liệu quý để chúng tôi tiếp tục hoàn thiện vấn đề nghiên cứu .
3. Đối tượng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng
3.2. Nhiệm vụ
3.3. Phạm vi nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu
4.1. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp lôgic.
4.2. Nguồn tài liệu
5. Kết  cấu đề tài
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề xây dựng hậu phương trong chiến tranh
Chương 2: Công cuộc xây dựng và bảo vệ hậu phương trong chiến đấu chống chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mĩ (1965 - 1968)

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ XÂY DỰNG 
HẬU PHƯƠNG TRONG CHIẾN TRANH
1.1. Cơ sở lý luận của vấn đề xây dựng hậu phương trong chiến tranh
Khái niệm và nhận định về vấn đề xây dựng hậu phương
Theo “Từ điển thuật ngữ lịch sử  phổ thông” do Giáo sư Phan Ngọc Liên (chủ biên): Hậu phương là “vùng giải phóng trong nước có nhiệm vụ kết hợp chặt chẽ với mặt trận làm cơ sở để cung cấp sức mạnh vật chất - quân sự, cổ vũ tinh thần - chính trị cho cuộc chiến đấu” .
Những nhận định của Mác - Lênin và các Nhà nghiên cứu sử học. Nhận định của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước về vấn đề xây dựng hậu phương trong đường lối chiến tranh nhân dân
1.2. Cơ sở thực tiễn của vấn đề xây dựng hậu phương trong chiến tranh
1.2.1. Công cuộc xây dựng hậu phương trước kháng chiến toàn quốc (tháng 9/1945 - tháng 12/1946)
1.2.2. Công cuộc xây dựng hậu phương trong kháng chiến
Hậu phương chiến tranh nhân dân phải được củng cố, xây dựng toàn diện trên tất cả các mặt: Chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế...
Về chính trị:
Có thể nói xây dựng hậu phương về chính trị là kết quả tổng hợp của các lĩnh vực công tác lớn của Đảng trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, văn hoá, giáo dục, y tế... Đó là vấn đề được Đảng và Nhà nước ta quan tâm hơn bao giờ hết.
Kinh tế
-  Nông nghiệp
- Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp
-  Thương nghiệp .
Về văn hoá, giáo dục, y tế...
Có những bước phát triển mạnh mẽ góp phần đắc lực vào sự nghiệp kháng chiến.
Như vậy, công cuộc xây dựng và củng cố hậu phương kháng chiến trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, 
văn hoá, giáo dục, y tế... đã góp phần cung cấp sức người sức của, nhân tài vật lực phục vụ đắc lực cho 
tiền tuyến chiến đấu và chiến thắng. Hậu phương kháng chiến vững mạnh còn thể hiện tài năng lãnh đạo 
của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đồng thời là kết tinh của lòng yêu nước, trí thông 
minh, sức mạnh đoàn kết của toàn quân, toàn dân ta - đó là sức mạnh vô địch đánh bại mọi kẻ thù xâm lược.
. Chương 2:  
CUỘC XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ HẬU PHƯƠNG TRONG CHIẾN ĐẤU
CHỐNG CHIẾN LƯỢC “CHIẾN TRANH CỤC BỘ” CỦA ĐẾ QUỐC MĨ (1965 – 1968)
2.1. Miền Bắc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mĩ, tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội 
và làm tròn nghĩa vụ hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam (1965 - 1968)
2.1.1. Miền Bắc chiến đấu chống “Chiến tranh phá hoại” lần thứ nhất của Mĩ
2.1.2. Miền Bắc tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội và làm tròn nghĩa vụ hậu phương lớn (1965 - 1968)
2.1.2.1. Về chính trị
Nhờ tiến hành công tác giáo dục chính trị cho nhân dân có hiệu quả, Đảng và Nhà nước ta đã xây dựng và 
củng cố được hệ thống chính trị vững mạnh trong xã hội miền Bắc.
2.1.2.2. Về kinh tế   
Nông nghiệp:
Với khẩu hiệu “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người” “Tất cả cho tiền tuyến” 
“Tất cả vì miền Nam ruột thịt ” miền Bắc quyết tâm hoàn thành sứ mệnh hậu phương lớn của mình. 
Ngành nông nghiệp đã đạt được những thành tựu đáng kể
Về công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp
Trong công nghiệp, sản xuất căn bản được giữ vững. Nhờ sự phát triển mạnh mẽ của nông nghiệp đã tạo 
điều kiện cho ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp phát triển mạnh theo phương châm “Tích cực bảo 
vệ và duy trì sản xuất”.
Trên cơ sở các ngành nông nghiệp, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp phát triển mà các ngành kinh tế khác như thương nghiệp, tài chính, ngân hàng, giao thông vận tải... cũng được tạo đà phát triển. Qua đó đảm bảo  cuộc sống, chiến đấu cho nhân dân miền Bắc và chi viện cho chiến trường miền Nam.
2.1.2.3. Về văn hoá, giáo dục, y tế.
Ngành văn hoá, văn nghệ thời kỳ này hoạt động sôi nổi phục vụ đắc lực cho  sự nghiệp kháng chiến chống Mĩ, đáp ứng nhu cầu tinh thần, văn hoá của cán bộ và dân ta.
 Miền Bắc - hậu phương không những đứng vững trước thử thách ác liệt mà còn vươn lên đáp ứng mọi yêu cầu của cuộc kháng chiến.
2.1.3. Hậu phương lớn miền Bắc chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam chiến đấu chống chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mĩ (1965 - 1968)
Thắng lợi to lớn của quân dân miền Nam trong chiến đấu, chiến thắng chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mĩ (1965 - 1968) không thể không nhắc tới hậu phương miền Bắc. Miền Bắc đã dốc vào chiến tranh cứu nước và giữ nước toàn bộ sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa và làm tròn một cách xuất sắc nghĩa vụ hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam.
2.2. Công cuộc xây dựng và củng cố hậu phương ở miền Nam, trực tiếp chống chiến lược “Chiến tranh cục bộ”của đế quốc Mĩ ( 1965 - 1968)
2.2.1. Khái quát về chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mĩ và chủ trương của Đảng ta trong giai đoạn mới
2.2.2. Công cuộc xây dựng và củng cố hậu phương ở miền Nam trực tiếp chống “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mĩ (1965 - 1968)
 Về kinh tế
Trong điều kiện cuộc chiến tranh diễn ra ác liệt, Mĩ - Ngụy luôn tìm cách phá hoại kinh tế, phá hoại vùng giải phóng và ngăn chặn sự chi viện của hậu phương miền Bắc, thì việc duy trì và đẩy mạnh sản xuất, xây dựng vùng kinh tế miền Nam là cuộc chiến tranh quyết liệt.
. * Nông nghiệp 
Cùng với việc thực hiện các chính sách khuyến khích sản xuất, các cấp Uỷ đảng và chính quyền cách mạng đã lãnh đạo và tổ chức nhân dân bám đất, giữ làng, đấu tranh chống địch lấn chiếm và chống địch phá hoại kinh tế.
Nhờ vào những chính sách phát triển sản xuất nông nghiệp của Đảng và Mặt trận, cùng với tinh thần lạc quan, chăm chỉ cần cù, vừa anh hùng trong kháng chiến, vừa anh dũng trong lao động nhân dân ta đã góp phần làm cho bộ mặt đời sống kinh tế vùng giải phóng được cải thiện.
* Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và các ngành khác
        Nhờ có sự phát triển của các ngành nông nghiệp và sản xuất mà công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp cũng có những bước chuyển biến mạnh mẽ.
 Về chính trị
Xây dựng hậu phương vững mạnh về chính trị còn là kết quả tổng hợp của các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá... Thắng lợi của công cuộc xây dựng hậu phương về chính trị còn là kết quả của tinh thần chiến đấu ngoan cường dũng cảm, thông minh sáng tạo, dám xả thân vì nước của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân trên khắp chiến trường. Điều đó đã tạo nên sức mạnh áp đảo kẻ thù để giành thắng lợi về mình.
Về văn hoá, giáo dục, y tế
Sự nghiệp văn hoá giáo dục, y tế... được Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam quan tâm và chú trọng hơn bao giờ hết.
Thắng lợi có ý nghĩa to lớn của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (30 và 31/1/1968) đã khẳng định vị trí to lớn của công cuộc xây dựng và củng cố hậu phương trong chiến đấu chống chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của quân và dân ta. Đó là một hậu phương được tổ chức chặt chẽ theo một đường lối đúng đắn, sáng tạo và bằng những biện pháp có hiệu quả. Vì thế trong những năm (1965 - 1968) ta càng đánh càng mạnh và càng thắng lớn, hậu phương kháng chiến của ta được củng cố, xây dựng và bảo vệ ngày càng vững chắc, toàn diện. Nó góp phần to lớn quyết định vào thắng lợi chung của toàn dân tộc.
KẾT LUẬN 
Xuất phát từ hoàn cảnh thực tiễn đất nước, tiếp thu lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về nghệ thuật quân sự và chiến tranh cách mạng, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí minh hết sức coi trọng công cuộc xây dựng và củng cố hậu phương trong kháng chiến.
Dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh quân dân miền Bắc kiên cường, hăng hái thi đua vừa chiến đấu vừa sản xuất làm tròn nghĩa vụ hậu phương lớn, góp phần cùng quân dân miền Nam làm phá sản hoàn toàn chiến lược “Chiến tranh cục bộ”.
Hậu phương miền Nam có vai trò quyết định lớn tới thắng lợi trên chiến trường. Đảng và Mặt trận giải phóng không ngừng củng cố và xây dựng hậu phương tại chỗ ngày càng vững mạnh, toàn diện.
Đảng ta còn hết sức quan tâm phát triển về kinh tế kháng chiến xây dựng một nền kinh tế vững mạnh, cân đối.
    Củng cố và xây dựng hậu phương trên các mặt giáo dục, văn hoá, y tế... cũng được Đảng ta hết sức chăm lo coi trọng. Nó góp phần nâng cao dân trí, nâng cao sức khoẻ, đời sống văn hoá tinh thần cho nhân dân. Một hậu phương có nền văn hoá tiên tiến, lành mạnh, văn minh cũng chính là yếu tố làm cho hậu phương ngày càng vững mạnh.
Như vậy, vai trò của hậu phương là vô cùng quan trọng không chỉ trong kháng chiến mà còn có ý nghĩa trong sự nghiệp xây dựng đất nước hiện nay.