Thứ Bảy, 19 tháng 5, 2012

THẮNG LỢI CỦACUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC CỦA DÂN TỘC TA VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA NÓ (phần 3)


ĐẠI THẮNG MÙA XUÂN 1975 - SỰ LÃNH ĐẠO
TÀI TÌNH CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
                                                                   Vũ Thị Bích Hạnh
                                                                                    Bộ môn Đường lối CM của ĐCSVN
 
                                                                  
 
 
Trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo là một trong những cuộc kháng chiến kéo dài nhất, oanh liệt nhất, chiến thắng vẻ vang và trọn vẹn nhất. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 với 3 đòn tiến công chiến lược: chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch Huế - Đà Nẵng và chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử - trận quyết chiến cuối cùng, là chiến thắng vĩ đại nhất, không chỉ kết thúc 21 năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ mà còn kết thúc 30 năm chiến tranh cách mạng giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, chấm dứt 117 năm (1858 – 1975) bị chủ nghĩa thực dân cũ và mới đô hộ, mở ra một kỷ nguyên mới: độc lập, thống nhất cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đại thắng mùa Xuân 1975 của dân tộc ta vừa có giá trị nhân bảnmang dấu ấn tổng thể lịch sử, vừa có tầm vóc quốc tế lớn lao và có tính thời đại sâu sắc.
“Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”1
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 được mở đầu ở Buôn Ma Thuột và kết thúc ở Sài Gòn, diễn ra với nhịp độ thần tốc. Chỉ trong vòng 55 ngày đêm, với sức mạnh tổng hợp áp đảo quân sự và chính trị được tích lũy trong nhiều năm, đã đánh tan hơn 1 triệu quân Ngụy, đập tan bộ máy ngụy quyền - chế độ thực dân mới được Mỹ dốc sức xây dựng qua 5 đời tổng thống hoàn toàn sụp đổ. Đại thắng mùa Xuân 1975 minh chứng cho cả nhân loại thấy được con người Việt Nam luôn luôn khát khao độc lập tự do, yêu chuộng hoà bình là một chân lý của lẽ sống. Đại thắng mùa Xuân 1975 và cội nguồn sâu xa
1Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo Chính trị của BCH TƯ Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV
 
 

của kế sách giữ nước, đã chứng minh rằng: Sự lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam là một trong những nhân tố hàng đầu quyết định sự thắng lợi hoàn toàn và trọn vẹn mùa Xuân 1975.
Sau khi hoàn thành việc thay thế thực dân Pháp để chiếm miền Nam nước ta (28-4-1956), đế quốc Mỹ thực hiện chính sách của chủ nghĩa thực dân mới, dựa vào chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, âm mưu chia cắt lâu dài nước Việt Nam, phá hoại sự nghiệp hoà bình thống nhất của dân tộc Việt Nam như đã được quy định tại Hiệp định Geneve (7-1954). Yêu cầu bức thiết đặt ra cho Đảng ta sau tháng 7-1954 là phải vạch ra được đường lối đúng đắn vừa phù hợp với tình hình trong nước vừa phù hợp với xu thế chung của thời đại. Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (khoá II) 15-7-1954 đã xác định rõ kẻ thù chính của cách mạng nước ta là đế quốc Mỹ. Tháng 9-1954 Bộ Chính trị ra Nghị quyết về tình hình mới, nhiệm vụ mới và chính sách mới của Đảng. Nghị quyết đã đề ra những chủ trương cụ thể để chống âm mưu phá hoại của Mỹ, giữ vững thành quả cách mạng, chống những hành động tiến công của địch.
Hội nghị lần thứ bảy (3-1955) và lần thứ tám (8-1955) Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) đã nhận định: Đế quốc Mỹ và tay sai đã hất cẳng Pháp ở miền Nam, công khai lập nhà nước riêng chống phá Hiệp định Giơnevơ, đàn áp phong trào cách mạng. Muốn chống đế quốc Mỹ và tay sai, củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ, điều cốt lõi là phải ra sức củng cố miền Bắc, đồng thời giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam.
Từ ngày 12 đến 22-01-1959 Trung ương Đảng (khoá II) họp Hội nghị lần thứ 15 đề ra Đường lối cách mạng Việt Nam ở miền Nam. Trung ương chủ trương con đường phát triển cơ bản của cách mạng miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Thực hiện đường lối của Nghị quyết 15, toàn miền Nam đã nổ ra phong trào Đồng Khởi cuối năm 1959 đầu năm 1960. Phong trào Đồng Khởi thật sự là một cao trào cách mạng, và bước phát triển nhảy vọt về chất của cách mạng miền Nam, giáng đòn nặng nề vào bộ máy thống trị của Mỹ - Diệm, làm phá sản một hình thức điển hình của chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ ở miền Nam Việt Nam.
Đế quốc Mỹ rất hiếu chiến và ngoan cố không cam chịu thất bại. Nghị quyết 15 đã dự kiến với một đối tượng như vậy và trong điều kiện nào đó “Cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam cũng có khả năng chuyển thành cuộc đấu tranh vũ trang trường kỳ”. Nghị quyết 15 có ý nghĩa lịch sử to lớn, chẳng những đã mở đường cho Cách mạng miền Nam tiến lên, mà còn thể hiện rõ bản lĩnh độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng ta trong những năm tháng khó khăn của cách mạng.
Quá trình đề ra và chỉ đạo thực hiện các nghị quyết, chủ trương nói trên chính là quá trình hình thành đường lối chiến lược chung cho cách mạng cả nước, được hoàn chỉnh tại Đại hội lần thứ III của Đảng.
Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng miền Nam, Đại hội III của Đảng (9-1960) đã quyết định thành lập Trung ương Cục miền Nam gồm những uỷ viên Trung ương trực tiếp chỉ đạo trên chiến trường. Trung ương Cục chính thức hoạt động từ tháng 10-1961. Những nghị quyết quan trọng của Bộ Chính trị năm 1961, 1962, Nghị quyết Trung ương 9 (12-1963) với sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ương Cục, của các cấp bộ Đảng ở miền Nam và với sự chi viện ngày càng tăng của miền Bắc xã hội chủ nghĩa trên đường Trường Sơn, phong trào cách mạng miền Nam có những bước phát triển mạnh mẽ. Chiến thắng Ấp Bắc (2-1-1963), cuộc khủng hoảng của ngụy quyền dẫn tới đảo chính ngày 01-11-1963, Mỹ phải trừ bỏ Ngô Đình Diệm. Kế đó là những chiến thắng lớn ở Bình Giã, Ba Giao, An Lão đến Đồng Xoài đã làm thất bại “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ.
Thất bại trong “Chiến tranh đặc biệt”, từ giữa năm 1965, với bản chất xâm lược ngoan cố, Mỹ đã chuyển sang thực thi chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, ồ ạt đưa quân viễn chinh của Mỹ và các nước đồng minh vào miền Nam, đồng thời mở rộng chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc nước ta.
Trên cơ sở phân tích âm mưu, thủ đoạn chiến tranh mới của Đế quốc Mỹ, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp các Hội nghị lần thứ 11 (3-1965) và Hội nghị Trung ương 12 (12-1965) và Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 17-7- 1966 đã thể hiện quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ. Chiến thắng trong trận đầu đánh Mỹ ở Núi Thành (Quảng Nam) ngày 26-5-1965, Chiến thắng Vạn Tường (Quảng Ngãi) tháng 8-1965, tiếp đó là thắng lợi trong chiến dịch mùa khô 1965-1966, mùa khô 1966-1967 và chiến thắng xuân Mậu Thân 1968 đã làm thất bại chiến tranh cục bộ của Mỹ, chứng minh Mỹ không thể thắng bằng quân sự trong chiến tranh xâm lược Việt Nam, buộc Mỹ phải chấm đứt ném bom miền Bắc (1-11-1968) và ngồi vào bàn đàm phán ở Hội nghị Paris bắt đầu từ ngày 13-5-1968. Cùng với những chiến thắng về quân sự, Đảng chủ trương mở mặt trận ngoại giao, kết hợp vừa đánh vừa đàm theo chủ trương của Hội nghị Trung ương 13 (27-1-1967), Đảng ta cho rằng đấu tranh ngoại giao giữ một vai trò quan trọng, tích cực và chủ động”.
Thất bại trong chiến tranh cục bộ ở miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc, đế quốc Mỹ vẫn ngoan cố kéo dài chiến tranh bằng chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” cực kỳ tàn ác và thâm độc. Trước âm mưu, thủ đoạn chiến tranh xảo quyệt mới của địch, Đảng ta đã đề ra quyết tâm và chủ trương chiến lược hai bước, thể hiện trong Thư chúc mừng năm mới (1-1-1969) của Hồ Chí Minhlà “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào2.
Trong mùa xuân và mùa hè năm 1969, quân dân miền Nam đã có nhiều cuộc tiến công bám đất, bám dân, diệt hàng vạn tên địch hỗ trợ nhân dân nhiều nơi nổi dậy giành quyền làm chủ.
Ở Campuchia và Lào, những năm 1970 - 1971, với sự chi viện của Việt Nam, quân dân các nước bạn đã giành được nhiều thắng lợi lớn ở Đông Bắc Campuchia và vùng đường 9 - Nam Lào, giữ vững và mở rộng vùng giải phóng.
Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và “Đông Dương hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ và tay sai thất bại nghiêm trọng. Trong bối cảnh quốc tế rất phức tạp, ta mở cuộc tiến công Xuân - Hè 1972 trên toàn miền Nam. Mỹ lo sợ thất bại hoàn toàn nên vội vã “Mỹ hoá” trở lại cuộc chiến tranh phát động cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai đối với miền Bắc bắt đầu từ ngày 6-4-1972 và đỉnh cao nhất là cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B52 vào Hà Nội, Hải Phòng 12 ngày đêm cuối tháng 12-1972. Thất bại trong trận “Điện Biên Phủ trên không” buộc Mỹ phải trở lại bàn đàm phán và ký kết Hiệp định Paris (27-l-1973). Ngày 29.3.1973 quân Mỹ ở miền Nam làm lễ cuốn cờ chấm dứt sự có mặt của quân viễn chinh Mỹ ở Việt Nam.
Sau Hiệp định Paris, đế quốc Mỹ vẫn tăng cường viện trợ về quân sự và kinh tế cho chính quyền Sài Gòn, tiếp tục thực hiện chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”. Chính quyền Nguyễn Văn Thiệu được Mỹ trợ giúp đã vi phạm những điều khoản của Hiệp định, lấn chiếm và tiếp tục mở rộng chiến tranh. Trong bối cảnh đó Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III) được triệu tập để quyết định những nhiệm vụ của cách mạng miền Nam. Hội nghị đã nêu rõ con đường cách mạng của nhân dân miền Nam là con đường bạo lực cách mạng. Tư tưởng chỉ đạo của Trung ương Đảng là tích cực phản công, chuẩn bị tiến lên hoàn toàn giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc.
Thực hiện nhiệm vụ do Hội nghị 21 của Trung ương Đảng đề ra, cả nước dốc sức chuẩn bị lực lượng về mọi mặt. Trong nửa cuối năm 1973 và cả năm 1974, cùng với gấp rút củng cố và phát triển lực lượng tại chỗ trên chiến trường,
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000, t.12.
 
 

Đảng chỉ đạo nhiệm vụ tăng cường chi viện của hậu phương miền Bắc. Mức tuyển quân và huy động của cải vật chất ở miền Bắc tăng nhiều lần so với các thời  kỳ  trước.  Hội  đồng  chi  viện  tiền tuyến được thành lập.  Điều đó nói lên
quyết tâm chiến lược của Đảng và nhân dân ta. Định hướng lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng là phải nắm vững tình hình, nắm vững thời cơ, chỉ đạo kiên quyết và khôn khéo. Đến cuối năm 1974, việc chuẩn bị về mọi mặt đã tạo nên sự chuyển biến căn bản trong thế và lực của ta trên chiến trường. Bộ Chính trị hạ quyết tâm động viên sức mạnh của quân dân cả nước hoàn thành giải phóng miền nam trong 2 năm 1975, 1976 với tinh thần là: năm 1975 tranh thủ bất ngờ tấn công lớn và rộng khắp, tạo điều kiện để năm 1976 tiến hành tổng công kích – tổng khởi nghĩa, giải phóng hoàn toàn miền Nam. Ngoài kế hoạch trên, Bộ Chính trị còn dự kiến một phương hướng hành động linh hoạt là nếu thời cơ đến, vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975.
Chấp hành quyết định chiến lược nói trên, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 diễn ra trên toàn miền Nam, trong đó quyết định là ba đòn tiến công chiến lược thắng lợi. Đó là Chiến dịch Tây Nguyên với trận mở đầu đánh chiếm thành phố Buôn Ma Thuột, đòn điểm trúng huyệt địch, làm đảo lộn thế trận phòng thủ của địch, làm cho thời cơ giải phóng miền Nam trong đầu năm 1975 xuất hiện, chế độ Sài gòn đứng trước nguy cơ sụp đổ hoàn toàn. Thắng lợi của các chiến dịch Huế, Đà Nẵng làm cho so sánh lực lượng giữa ta và địch thay đổi tận gốc, có lợi cho ta, thúc đẩy thời cơ chiến lược xuất hiện để chuyển từ thắng lợi quyết định đi đến thắng lợi hoàn toàn. Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng đã đưa tới giải phóng Sài Gòn, bắt tổng thống Ngụy Dương Văn Minh phải tuyên bố đầu hàng quân cách mạng vô điều kiện.
Có thể thấy rõ sự lãnh đạo của Đảng mà trực tiếp là Bộ Chính trị, quân uỷ Trung ương đã có vai trò quyết định đến sự phát triển thần tốc, táo bạo của quân và dân ta trên toàn chiến trường và chỉ trong 55 ngày (10/3 – 30/4/1975) đã giành thắng lợi hoàn toàn. Sự lãnh đạo ở đây thể hiện ở đường lối kháng chiến và phương pháp cách mạng đúng đắn mà Đảng đề ra, đã đưa toàn bộ cuộc kháng chiến lần lượt vượt qua những khó khăn thách thức, đánh bại các chiến lược chiến tranh của tên đế quốc hùng mạnh nhất. Trong đại thắng mùa Xuân 1975 sự lãnh đạo của Đảng cần được nhấn mạnh từ Nghị quyết 21 của Trung ương và tiếp đó là những quyết định quan trọng của Bộ Chính trị cuối năm 1974 đầu năm 1975. Tài thao lược của Đảng ta trong lãnh đạo chỉ đạo chiến tranh cách mạng đã được thể hiện trong những quyết sách và thắng lợi liên tiếp trên chiến trường. Không có sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt, quyết đoán và táo bạo như thế thì không thể có thắng lợi.
Đại thắng mùa Xuân 1975 là thắng lợi vẻ vang của toàn thể dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đánh bại những thế lực thực dân, phát xít, đế quốc hùng mạnh nhất trong thế kỷ XX. Thắng lợi đó đã hoàn thành vẻ vang sự nghiệp đấu tranh giành độc lập và thống nhất hoàn toàn cho Tổ quốc Việt Nam.
Với đại thắng mùa Xuân 1975 một kỷ nguyên mới của lịch sử dân tộc đã được mở ra - kỷ nguyên đất nước độc lập, thống nhất và tiến lên chủ nghĩa xã hội. 30 năm đã trôi qua kể từ thắng lợi vẻ vang đó, đất nước Việt Nam độc lập, thống nhất đã tiến những bước dài chưa từng có trong lịch sử, giành những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới. Hào khí Xuân 1975 đã và mãi mãi cổ vũ các thế hệ người Việt Nam quyết tâm gìn giữ nền độc lập thống nhất - thành quả mà các thế hệ cha anh đã đổ biết bao xương máu mới giành được. Chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong chiến đấu mà đại thắng mùa Xuân 1975 là bản hùng ca tuyệt diệu vẫn đang có ý nghĩa sâu sắc động viên toàn thể dân tộc Việt Nam hôm nay vững bước trên con đường xây dựng đất nước theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh để đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, định hướng xã hội chủ nghĩa./.
 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2009.
2. Đinh Xuân Lý, Đoàn Minh Huấn (Đồng chủ biên): Một số chuyên đề về Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội 2008.
3. Đinh Xuân Lý (chủ biên): Tìm hiểu vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2005.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2004, t.34, t.37.
 
 
ĐẠI THẮNG MÙA XUÂN 1975 - NGUYÊN
     NHÂN THẮNG LỢI VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ
                                                                                 Ngô Văn An
                                                                                           Bộ môn Những nguyên lý cơ bản…
 
 
 
 
 
  Trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo là một trong những cuộc kháng chiến kéo dài nhất, oanh liệt nhất và đã chiến thắng vẻ vang, trọn vẹn.
 Cách đây vừa tròn 35 năm, trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, dư­ới sự lãnh đạo của Đảng, với tinh thần chiến đấu dũng cảm, m­ưu trí và sáng tạo của quân và dân ta; với sự ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè quốc tế; và với sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân; quân và dân ta đã làm lên chiến thắng vĩ đại - chiến thắng 30/4/1975 đã giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đư­a cả n­ước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
   Chỉ tính riêng kết quả thắng lợi trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, từ ngày 26/4/1975 đến ngày 30/4/1975, quân và dân ta đã tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân chủ lực, quân địa phư­ơng thuộc Quân đoàn 3 - Quân khu 3 ngụy, những đoàn quân của các quân khu 1 và 2 chạy về cố thủ và chi viện cho địch ở Sài Gòn - Gia Định, diệt và làm tan rã khoảng 269.000 tên địch, thu 276.000 súng các loại (trong đó có 518 khẩu pháo), 409 xe tăng, thiết giáp, 858 máy bay các loại, 6.457 tàu, xuồng chiến đấu, 3.296 xe ô tô và nhiều ph­ương tiện chiến tranh khác, giải phóng hoàn toàn Sài Gòn - Gia Định, góp phần quyết định giành thắng lợi và giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
   Một trong những nguyên nhân cơ bản và chủ yếu dẫn đến thắng lợi của đại thắng mùa xuân 1975, mà đỉnh cao là thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, kết thúc oanh liệt vào ngày 30/4/1975 là do có sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Điều này đư­ợc thể hiện ở chỗ: Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta anh dũng chiến đấu chống chủ nghĩa thực dân, đế quốc; kiên quyết và khôn khéo sử dụng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng; thực hiện mục tiêu: Độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đ­ưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đảng ta đã giải quyết đúng đắn và sáng tạo mối quan hệ giữa cách mạng và chiến tranh cách mạng; giải quyết thành công nhiều vấn đề cơ bản về đ­ường lối cách mạng, xây dựng lực l­ượng cách mạng và phương pháp cách mạng, về ph­ương thức tiến hành chiến tranh và về nghệ thuật quân sự; Đảng đã phát huy cao độ trí tuệ và bản lĩnh của con ngư­ời Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh, để đánh thắng chiến tranh xâm l­ược của chủ nghĩa đế quốc. Đảng ta đã phát huy truyền thống yêu n­ước và lòng tự hào, tự tôn dân tộc, xây dựng, củng cố, phát triển khối đoàn kết thống nhất của toàn thể cộng đồng các dân tộc Việt Nam, phát huy cao độ sức mạnh của toàn dân tộc Việt Nam, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế, phân hoá, cô lập triệt để kẻ thù, để giành chiến thắng hoàn toàn cho dân tộc Việt Nam.
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

   Chiến thắng 30/4/1975 có ý nghĩa lịch sử sâu sắc và giá trị to lớn đối với sự nghiệp đổi mới đất nư­ớc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
   Về ý nghĩa lịch sử, với chiến thắng ngày 30/4/1975, nhân dân ta đã vĩnh viễn thoát khỏi ách nô dịch của các n­ước đế quốc, vĩnh viễn thoát khỏi họa đất nước bị chia cắt, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên cả nư­ớc, bảo vệ những thành quả b­ước đầu của cách mạng XHCN ở miền Bắc, đư­a cả nư­ớc bư­ớc vào kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên độc lập tự do, thống nhất Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội; đư­a dân tộc ta đứng vào hàng ngũ của quốc gia, dân tộc tiên phong trên thế giới.
   Với chiến thắng 30/4/1975, Việt Nam chúng ta, từ một đất nư­ớc bị nước ngoài xâm chiếm, từ một dân tộc bị nô lệ, đã đứng lên giành lại đ­ược nền độc lập dân tộc sau gần một thế kỷ mất n­ước và trở thành một quốc gia độc lập, thống nhất, có đầy đủ chủ quyền đ­ược pháp lý quốc tế thừa nhận, tôn trọng; có một quân đội hùng mạnh, có nền văn hoá, khoa học, kỹ thuật đang trên đà phát triển, có vị thế quan trọng, sánh vai cùng các nư­ớc trên thế giới.
   Qua cuộc chiến đấu và chiến thắng, đế quốc Mỹ xâm l­ược và bè lũ tay sai, Đảng ta, nhân dân ta và quân đội ta đư­ợc rèn luyện cả về phẩm chất và năng lực, càng nhận thức đ­ược sâu sắc hơn vị trí, khả năng và sức mạnh của mình trong thời đại mới - thời đại Hồ Chí Minh.
   Với chiến thắng vĩ đại này, đã góp phần tăng c­ường quan hệ hữu nghị, đoàn kết, liên minh chiến đấu giữa ba nư­ớc Việt Nam, Lào, Cămpuchia anh em, góp phần quyết định vào thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc của từng nước, thủ tiêu chủ nghĩa thực dân ở ba n­ước Đông D­ương, phá vỡ phòng tuyến phản cách mạng của chủ nghĩa đế quốc ở Đông Nam châu Á.
   Đối với các dân tộc bị áp bức trên thế giới, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu n­ước của nhân dân ta thắng lợi, đã thức tỉnh, cổ vũ hàng trăm triệu ng­ười đứng lên dũng cảm đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân cũ và mới, giành lại độc lập dân tộc, đư­a đất nư­ớc tiến vào quỹ đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội, đem lại cơm no, áo ấm, hạnh phúc cho nhân dân. Chiến thắng 30/4/1975, cũng chính là thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lênin, t­ư t­ưởng Hồ Chí Minh, thắng lợi của đường lối và ph­ương h­ướng cách mạng đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, đ­ường lối gi­ương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đư­ờng lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, tự lực, tự cư­ờng, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc. Đó cũng là thắng lợi của thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, mở đầu bằng thắng lợi của Cách mạng tháng Mư­ời Nga vĩ đại năm 1917. Thắng lợi vẻ vang của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu n­ước của nhân dân ta, đã đ­ược Đại hội lần thứ IV của Đảng đánh giá: “Năm tháng sẽ trôi qua, như­ng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu n­ước mãi mãi đư­ợc ghi vào lịch sử dân tộc ta như­ một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tư­ợng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con ng­ười, và đi vào lịch sử thế giới như­ một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm vóc quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc” [2, 6].
Hiện nay, đất nư­ớc ta đang ở trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, để phát huy tinh thần đại thắng mùa xuân 1975, mỗi cán bộ, đảng viên, tuổi trẻ và nhân dân ta cần ra sức phấn đấu, nêu cao tinh thần yêu n­ước, yêu chủ nghĩa xã hội, phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng; lao động, học tập và công tác một cách khoa học, có chất lượng, hiệu quả cao để góp phần thực hiện thắng lợi những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra.
Đối với mỗi giảng viên Khoa Lý luận chính trị chúng ta cần nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả của công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đổi mới nâng cao chất lượng nội dung giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bồi dưỡng lòng yêu nước, yêu nhân dân, lý tưởng và ý chí độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội cho sinh viên. Coi trọng hơn nữa nội dung giáo dục chủ nghĩa yêu nước, truyền thống cách mạng, khơi dậy trong sinh viên lòng tự hào, niềm tin vào tương lai và tiền đồ của dân tộc, xây dựng và củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, ý thức trách nhiệm đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Làm tốt nhiệm vụ trên là góp phần thiết thực vào việc chào mừng và kỷ niệm trọng thể 35 năm ngày chiến thắng 30/4/1975 một cách bổ ích nhất. 
 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
 
1.     Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, 2006.
2.     Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo Chính trị của BCH TƯ Đảng tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
3.     Võ  Nguyên  Giáp, Nhng  năm  thán không  thể  nào  quên. NXB  Quân  đội  nhân  dân, 2001.
4.     PGS,TSNguyễnTrọngPhúc(chủ biên),GópphầntìmhiểuLchsửĐảngCSVN(hỏivàđáp), Nxb.Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998.
TÌM HIỂU TÁM BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC
                                                      Th.S- Lê Hoài Nam
                                                                         Bộ môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
 
 

          Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975, mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của dân tộc Việt Nam.
Đánh giá về sự kiện lịch sử trọng đại này, Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (12-1976) đã khẳng định: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”.
Có được thắng lợi này, về sự lãnh đạo của Đảng đã cho ta những bài học kinh nghiệm:
1. Kiên định quyết tâm quyết đánh, quyết thắng đế quốc Mỹ xâm lược.
Quyết đánh, quyết thắng đế quốc Mỹ xâm lược là quyết tâm lớn của Đảng, cũng là quyết tâm của toàn quân, toàn dân, của cả nước Việt Nam. Đó là một quyết tâm vĩ đại được khẳng định từ đầu và luôn luôn kiên định trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ. Quyết tâm ấy được bắt nguồn từ lòng yêu nước nồng nàn, ý chí kiên cường bất khuất, ý thức làm chủ vận mệnh đất nước của người Việt Nam, được hun đúc từ ngàn đời nay. Mỗi khi Tổ quốc bị lâm nguy, dân tộc ta triệu người như một, sẵn sàng đứng lên chống giặc, cứu nước.
2. Đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đúng đắn, sáng tạo, độc lập, tự chủ
Đại hội lần thứ IV của Đảng đã khẳng định: “Thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta trước hết là thắng lợi của đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta” . Thắng lợi của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi của chiến lược giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ đó với nhau nhằm thực hiện một mục tiêu chung: Hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thực hiện thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên xã hội chủ nghĩa.
3. Nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân sáng tạo
Nghệ thuật chiến tranh nhân dân trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã được phát triển lên một trình độ cao, sáng tạo với những nội dung và hình thức đấu tranh cực kỳ phong phú, từ thấp đến cao, từ chưa hoàn chỉnh đến hoàn chỉnh.
Đó là nghệ thuật động viên, tổ chức toàn dân, cả nước tiến hành chiến tranh với hai lực lượng quân sự và chính trị, hai hình thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị, chiến tranh cách mạng và khởi nghĩa của quần chúng, tiến công và nổi dậy, nổi dậy và tiến công trong đó đòn tiến công quân sự có ý nghĩa quyết định, làm chủ để tiêu diệt địch, tiêu diệt địch để làm chủ.
Đó là xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, một thế trận rất hiểm hóc, ngày càng hoàn chỉnh và vững chắc. Thế trận đó được xây dựng bằng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang nhân dân trên ba vùng chiến lược (đồng bằng, rừng núi và đô thị), kết hợp chặt chẽ để tiến công địch, tạo nên thế trận liên hoàn trên toàn miền Nam, nối liền với miền Bắc, cùng với hai nước anh em Lào và Campuchia dựng lên thế trận liên hoàn giữa ba nước.
Đó là nghệ thuật tiến công kiên quyết, tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt, kết hợp chặt chẽ ba mặt trận: đấu tranh quân sự, chính trị và ngoại giao với hình thức phong phú đa dạng. Kết hợp chiến đấu với sản xuất và không ngừng ổn định đời sống nhân dân trong chiến tranh.
Nghệ thuật chiến tranh của ta đã biết mở đầu đúng, biết đánh lâu dài, giành thắng lợi từng bước, tạo những bước chuyển biến lớn của chiến tranh.
Điểm nổi bật là nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân phát triển đến mức cao ở cả hai miền, đồng thời hình thành và phát triển khá hoàn thiện một nghệ thuật đấu tranh chính trị đặc sắc, làm cho chính trị vừa là nền tảng cơ bản của cuộc chiến tranh nhân dân vừa là một phương thức tiến công địch trực diện có hiệu lực chiến lược cao trên chiến trường.
Nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân của ta là nghệ thuật lấy nhỏ thắng lớn, lấy yếu địch mạnh, lấy ít đánh nhiều, lấy trang bị kỹ thuật ít hơn và kém hiện đại đánh thắng quân địch có trang bị kỹ thuật dồi dào và hiện đại hơn. Nó biểu thị một tư duy quân sự rất sáng tạo, tiêu biểu cho học thuyết chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.
4. Tổ chức lực lượng cả nước đánh giặc
Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, công tác tổ chức đã được triển khai với quy mô rộng lớn chưa từng có trong lịch sử chiến tranh nước ta. Đó là công tác xây dựng, phát triển lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, đó còn là hình thức và phương thức xây dựng các tổ chức Đảng, chính quyền, quần chúng ở cả hai miền Nam, Bắc; tổ chức hậu phương lớn, tổ chức các căn cứ kháng chiến tại chỗ ở miền Nam; tổ chức chiến trường...
Một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của đường lối và nghệ thuật tổ chức xây dựng lực lượng là phải xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị để Đảng có đủ sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo, xứng đáng là đội ngũ tiêu biểu cho trí tuệ cách mạng và khoa học của dân tộc và của thời đại, thực sự là lực lượng tiên phong của dân tộc, dìu dắt toàn dân trong cuộc đụng đầu lịch sử với đế quốc Mỹ.
Đường lối và nghệ thuật tổ chức của Đảng đã tạo nên lực lượng cả nước đánh giặc lớn nhất trong lịch sử dân tộc ta. Chính lực lượng cả nước đánh giặc là cơ sở vững chắc của thế chiến lược tiến công ngày càng phát triển vững mạnh và sắc bén của chiến tranh nhân dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp đủ sức đánh thắng lực lượng và bộ máy chiến tranh đồ sộ và hiện đại của đế quốc Mỹ.
5. Xây dựng căn cứ địa cách mạng, hậu phương kháng chiến vững chắc, phát huy vai trò của hậu phương lớn và hậu phương tại chỗ Đảng ta sớm xác định miền Bắc là nền tảng cho lực lượng cách mạng cả nước, sớm định hướng xây dựng miền Bắc theo con đường xã hội chủ nghĩa .
Đây là quyết định đúng đắn, là cơ sở đầu tiên cho việc xây dựng căn cứ địa cách mạng, xây dựng hậu phương lớn vững chắc của kháng chiến chống Mỹ xâm lược. Xây dựng miền Bắc vững mạnh nhằm xây dựng thực lực cách mạng cho cả nước, làm hậu thuẫn vững chắc cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, tạo điều kiện để có thể chi viện lực lượng ngày càng lớn cho miền Nam và cùng miền Nam hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc. Xây dựng miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội là xây dựng căn cứ địa cách mạng cho cả nước.
Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước miền Bắc vừa là căn cứ địa cách mạng của cả nước, vừa là hậu phương lớn của cuộc kháng chiến, vừa là tiền tuyến trực tiếp chiến đấu quyết liệt với không quân và hải quân Mỹ. Miền Bắc còn là nơi đặt các cơ quan lãnh đạo, chỉ huy của Đảng và của Bộ Tổng tư lệnh, lãnh đạo toàn bộ cuộc cách mạng Việt Nam và điều hành chỉ huy chiến tranh trên cả hai miền Nam – Bắc.
Đảng ta còn chăm lo xây dựng và mở rộng những vùng căn cứ, vùng giải phóng ngay tại chiến trường làm hậu phương tại chỗ. Các vùng giải phóng, căn cứ hậu phương tại chỗ có thế liên hoàn trên cả ba vùng chiến lược, nối liền với hậu phương lớn miền Bắc, cùng với căn cứ hậu phương của hai nước Lào, Campuchia dựa lưng vào nhau thành thế mạnh của chiến trường Đông Dương. Những căn cứ hậu phương tại chỗ là nơi đứng chân vững chắc của lực lượng chủ lực cơ động, nơi xuất phát để thực hiện những đòn đánh lớn trận quyết chiến, chiến lược.
Chú trọng xây dựng tuyến đường giao thông, vận chuyển chiến lược thông suốt, chi viện từ hậu phương lớn miền Bắc vào tiền tuyến lớn miền Nam cũng như đường vận chuyển chiến lược giữa Việt Nam, Lào, Campuchia. Tuyến vận tải 559 - đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh là biểu tượng ý chí và nghị lực lớn lao của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”.
6. Phát huy sức mạnh đoàn kết chiến đấu của ba dân tộc Việt Nam, Lào, Campuchia để cùng nhau đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược.
Phát huy truyền thống láng giềng anh em gắn bó về lịch sử, địa lý, kinh tế, xã hội, quốc phòng và cùng kháng chiến chống Pháp thắng lợi, nhân dân Việt Nam đã chủ động đoàn kết, liên minh với nhân dân Lào, nhân dân Campuchia chiến đấu, chiến thắng kẻ thù chung là đế quốc Mỹ.
Đoàn kết, liên minh chiến đấu với Lào, Campuchia đã góp phần đem lại thắng lợi to lớn trong sự nghiệp đấu tranh chống kẻ thù chung của ba nước Đông Dương để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc.
7. Đoàn kết quốc tế, phát huy sức mạnh của thời đại gắn với sức mạnh dân tộc
Đảng ta ra sức tăng cường đoàn kết quốc tế, phát huy tối đa sức mạnh của thời đại, coi đó là một bộ phận hợp thành của đường lối chống Mỹ, cứu nước và đặt hoạt động đối ngoại, đấu tranh ngoại giao thành một mặt trận có tầm quan trọng chiến lược góp phần tạo nên sự vượt trội về thế và lực của nhân dân ta để đánh thắng kẻ thù.
Dưới tác động của hoạt động đối ngoại và của chính cuộc kháng chiến của nhân dân ta, một mặt trận rộng lớn của nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam và ủng hộ Việt Nam chống Mỹ xâm lược đã hình thành và phát triển. Đó là Liên Xô, Trung Quốc, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào giải phóng dân tộc, phong trào cộng sản và công nhân, phong trào cách mạng, lực lượng hoà bình, dân chủ, tiến bộ trên toàn thế giới, kể cả đông đảo nhân dân Mỹ yêu chuộng hoà bình và công lý.
8. Bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, xét cho cùng, là thắng lợi của nhân tố con người Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước phát triển ở một tầm cao mới. Bản sắc, văn hoá con người Việt Nam được tạo thành từ tố chất mới hoà quyện dân tộc và giai cấp, truyền thống và hiện đại, thừa kế gia sản vĩ đại của một dân tộc anh hùng, tiếp tục làm vẻ vang dân tộc, đưa dân tộc Việt Nam lên ngang tầm của thời đại mới.
Đảng ta đặt trọng tâm trước hết vào việc xây dựng nhân tố chính trị tinh thần cho con người; xác định lập trường kiên quyết kháng chiến, quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn. Từ đó, động viên được ý chí chiến đấu, năng lực sáng tạo và nỗ lực phi thường của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân làm nên chiến thắng./.
 
 
 
 
 
 
 
 
 
NGƯỜI MỸ NHÌN NHẬN VỀ NGUYÊN NHÂN
THẤT BẠI CỦA MỸ TRONG CUỘC CHIẾN TRANH XÂM LƯỢC VIỆT NAM
ThS- Trần Trọng Đạo
Bộ môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
 
 
Chiến tranh Việt Nam, cuộc chiến đã đi qua gần 4 thập kỷ, nhưng những ám ảnh của nó với hậu quả là thất bại nặng nề nhất trong lịch sử hơn 200 năm tồn tại của Hợp Chủ quốc Hoa Kỳ vẫn chưa nhạt phai trong ký ức của không ít người và cả những cựu quân nhân Mỹ.
Tất cả họ, kể từ sau thất bại nặng nề đó đã làm việc vất vả để tìm ra câu trả lời cho câu hỏi: “Vì sao Mỹ thất bại ở Việt nam?” và "Làm thế nào mà một quốc gia nhỏ bé như Việt Nam lại có thể đánh bại một chính phủ quyền lực nhất trên thế giới, khiến cho chính phủ đó phải đối diện với làn sóng phản kháng mạnh mẽ của cả thế giới và chính những người dân Mỹ?". Nhiều đáp án đã được đưa ra. Những quan điểm luyến tiếc cho ánh hào quang rực rỡ trong hơn 200 năm lịch sử nước Mỹ đã cho rằng: “Hoa Kỳ thất bại trong chiến tranh vì đã không thực sự cố gắng, không giữ được cho mình uy quyền và sức mạnh”. Quan điểm khác lại cho rằng: “Mỹ không biết đẩy mạnh leo thang chiến tranh!”. Không ít người thống nhất với kết luận: Sự thất bại của Mỹ ở Việt Nam là do quân đội Mỹ bị đưa đến chiến trường châu Á xa xôi, đầy cạm bẫy, gian nan… Trên tất cả là quan điểm của Mc Namara (nguyên Bộ trưởng Quốc phòng dưới các thời tổng thống Giônxơn và Nicxơn) người luôn day dứt về việc “Chúng ta nợ các thế hệ tương lai câu giải thích tại sao?” Mỹ thất bại ở Việt Nam.
Trong cuốn hồi ký tựa đề "Hồi tưởng" xuất bản năm 1995, Mc. Namara, đã thừa nhận 11 sai lầm mà Mỹ đã mắc phải trong cuộc chiến tranh này.
1. Chúng ta (Mỹ) đã đánh giá sai khi đó (và từ đó đến nay) những chủ đích địa chính trị của các đối thủ... và chúng ta đã phóng đại những mối nguy hại từ hành động của họ đối với nước Mỹ.
2. Chúng ta xem xét nhân dân và lãnh đạo của miền Nam Việt Nam chỉ bằng trải nghiệm của chúng ta... Chúng ta đánh giá sai hoàn toàn những lực lượng chính trị trong đất nước đó.
3. Chúng ta đánh giá thấp sức mạnh của tinh thần dân tộc có thể huy động nhân dân đấu tranh và hy sinh vì đức tin và giá trị của họ.
4. Cách nhìn nhận của chúng ta về bạn và thù phản ánh sự dốt nát sâu sắc của chúng ta về lịch sử, văn hoá và chính trị của nhân dân Việt Nam, cũng như về nhân cách và tập quán của các nhà lãnh đạo của họ.
5. Chúng ta đã thất bại khi đó (và từ đó đến nay) trong việc nhận ra những hạn chế của khí tài, lực lượng và học thuyết quân sự công nghệ cao, hiện đại... Chúng ta cũng thất bại trong việc điều chỉnh chiến thuật quân sự của chúng ta cho phù hợp với nhiệm vụ thu phục nhân tâm của người dân thuộc một nền văn hoá hoàn toàn khác biệt.
6. Chúng ta đã thất bại trong việc lôi kéo Quốc hội và nhân dân Mỹ vào cuộc thảo luận toàn diện và cởi mở, tranh luận những điều nên và không nên xung quanh việc đưa quân đội tham chiến trên diện rộng... trước khi chúng ta lên kế hoạch hành động.
7. Sau khi sự việc diễn ra và những sự kiện không như dự đoán khiến chúng ta đi chệch đường lối đã hoạch định... thì chúng ta đã không giải thích đầy đủ những điều đang diễn ra và tại sao chúng ta lại phải làm như đã làm.
8. Chúng ta không chịu thừa nhận rằng kể cả nhân dân lẫn lãnh đạo của chúng ta đều không thông suốt mọi sự. Đánh giá của chúng ta về cái gì là lợi ích tốt nhất của đất nước và dân tộc khác cần phải được đưa ra sát hạch thông qua bàn luận cởi mở tại những diễn đàn quốc tế. Chúng ta không được Thượng đế ban phát quyền nhào nặn mỗi dân tộc theo hình ảnh của chúng ta hay theo cách mà chúng ta lựa chọn.
9. Chúng ta không tuân thủ nguyên tắc về việc hành động quân sự của Mỹ, chỉ nên được thực thi trong sự phối hợp với lực lượng đa quốc gia được cộng đồng quốc tế ủng hộ hoàn toàn (về thực chất, chứ không chỉ nhìn từ bên ngoài).
10. Chúng ta đã không chịu thừa nhận rằng trong các vấn đề quốc tế, cũng như trong các lĩnh vực khác của đời sống, có thể có những vấn đề không tìm được giải pháp tức thời... Đôi khi chúng ta phải sống trong một thế giới không hoàn hảo, không ngăn nắp.
11. Những sai sót căn bản trên khiến chúng ta không tổ chức được bộ máy chóp bu của chính quyền hành pháp trong việc xử lý hữu hiệu tổng thể những vấn đề chính trị và quân sự bất thường.
Từ nguyên nhân trên, ông đi đến kết luận, chiến tranh Việt Nam là một “sai lầm, sai lầm khủng khiếp” của Mỹ. Quả thực Mỹ đã sai lầm ngay từ đầu trong việc cường điệu hóa nguy cơ “lán sóng cộng sản” sẽ từ Việt Nam lan rộng Đông Nam Á, rồi cả châu Á, ảnh hưởng mạnh mẽ đến cuộc đấu tranh của nhân dân thé giới cho độc lập dân tộc và tiến bộ thế giới, để từ đó họ đã “tự nhận lãnh trách nhiệm chấm dứt sự lan rộng của chủ nghĩa cộng sản”, bằng cách gây ra cuộc chiến tranh Việt Nam để “bảo vệ thế giới tự do”. Đồng thời, cũng là để Mỹ giương cao ngọn cờ “thế giới tự do”, “nền dân chủ Hoa Kỳ”, “thiên đường Mỹ” để chống lại “chế độ độc tài cộng sản”, “địa ngục trần gian ở Bắc Việt”, “hiểm họa cộng sản ở Đông Nam Á”, song những cuộc càn quét man rợ vào những vùng giải phóng, vụ đầu độc tù nhân ở nhà tù Phú Lợi, vụ thảm sát hơn 500 dân thường ở làng Mỹ Lai (Sơn Mỹ, Quảng Ngãi) và bao nhiêu sự cướp bóc, hãm hiếp, giết chóc của binh lính Mỹ, ngụy và chư hầu đã bóc trần mọi lời tuyên truyền lừa bịp của Mỹ. Sự dối trá này là một trong những nguyên nhân làm cho Mỹ thất bại ở Việt Nam - nơi mà dân chúng đã nhận thức và quyết tâm đi theo nhà lãnh đạo có quyền lực và uy tín là Hồ Chí Minh - người “đã gieo vào lòng họ các mục tiêu dân tộc đáng khâm phục” (Melvin Laird). Hơn 58.195 quân sĩ Mỹ “đã chết vô nghĩa” ở Việt Nam và mỗi khi đi qua “Đài tưởng niệm chiến tranh Việt Nam” ở Washinton, người dân Mỹ chưa hiểu “những người này đã chết vì ai? Vì cái gì?” (Có phải vì nước Mỹ, vì nền dân chủ Hoa Kỳ!).
Những nguyên nhân thất bại của Mỹ ở Việt Nam mà Mc Namara nêu lên, xét cho cùng, nảy sinh từ bản chất cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa của Mỹ, từ việc không nhận thức được sức mạnh truyền thống của dân tộc Việt Nam, được nhân lên gấp nhiều lần, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chiến thắng của nhân dân Việt Nam chứng tỏ rằng, cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ là “một sai lầm ngớ ngẩn ghê gớm, con đẻ của một hỗn tạp kỳ quặc giữa sự hoang đường và tính kiêu ngạo, mù quáng đối với lịch sử, sự tin tưởng ngây thơ về vai trò quyền lực đứng đầu trên quả đất. Hoa kỳ đã sử dụng những giải pháp quân sự cho những vấn đề chủ yếu là chính trị và văn hóa. Đây là một cuộc chiến tranh sai lầm, tại một địa điểm sai lầm, ở một thời gian sai lầm, cho những lí lẽ sai lầm” (J. S. Olson, Q. Robert)./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Robert Mc Namara: Nhìn lại quá khứ. Tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 1995.
2. Joe Allen: Việt Nam - Cuộc chiến thất bại của MỹNxb Công an nhân dân, Hà Nội - 2009.
3. GS.TS. Phan Ngọc Liên, TS. Văn Ngọc Thành: Những bài học mà Mỹ rút ra từ Việt Nam đối với cuộc chiến tranh IraqTạp chí Lịch sử quân sự-2006
CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG CỦA HỒ CHÍ MINH VÀ SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
                        Thạc sỹ Trần Thị Lệ Hằng
                                                        Bộ môn Đường lối cách mạng…
 
 
 
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng năm 1986 đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, mở ra bước ngoặt trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở Việt Nam. Trong diễn văn khai mạc Đại hội VI, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã nhấn mạnh: “Đại hội chúng ta thành kính hướng về Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, vị lãnh tụ kính yêu mà tư tưởng và đạo đức của Người sống mãi trong sự nghiệp của nhân dân ta”. Chúng ta thực hiện sự nghiệp đổi mới mở ra từ đại hội VI và Đảng đã trịnh trọng ghi vào “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH là Đảng lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”(1).
Tại đại hội VII Đảng cũng chỉ ra “phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) trong quá trình đổi mới”(2). Và điều cốt lõi để công cuộc đổi mới giữ được định hướng XHCN và đi đến thành công “Đảng phải kiên trì và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững vai trò lãnh đạo xã hội”(3). Vì vậy, tính kiên trì và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong quá trình lãnh đạo thực hiện con đường đổi mới thì điểm cốt lõi ở chỗ nào? Đó chính là tư tưởng về con đường cách mạng Việt Nam, do Người tìm thấy cho dân tộc ta từ đầu thế kỷ XX.
Con đường cách mạng Hồ Chí Minh ra đời từ đòi hỏi khách quan của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX. Trải qua hàng trăm cuộc khởi nghĩa vũ trang tiêu biểu là những cuộc khởi nghĩa dưới ngọn cờ Cần Vương cuối thế kỷ XIX và những cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc đầu thế kỷ XX dưới ngọn cờ của hệ tư tưởng tư sản, nhưng tất cả đều bị thực dân Pháp dìm trong bể máu. Con đường đấu tranh giành độc lập dân tộc của nhân dân ta vào đầu thế kỷ XX lâm vào ngõ cụt, khủng hoảng, bế tắc về đường lối. Chứng kiến cảnh nước mất, nhà tan, dân tộc bị nô lệ, người thanh niên yêu nước, thương dân Nguyễn Tất Thành vào ngày 5/6/1911 đã tìm đường đi sang Pháp, sang phương Tây với hy vọng tìm thấy con đường để giúp đồng bào mình thoát khỏi thân phận nô lệ. Người đã làm nhiều nghề, đi đến nhiều nước từ châu Á đến châu Phi, châu Mỹ, tận mắt chứng kiến cảnh áp bức, nỗi khổ cực của nhân dân các châu lục phải chịu đựng dưới ách thống trị dã man của chủ nghĩa thực dân đế quốc. Nung nấu trong mình khát vọng cháy bỏng “ tự do cho đồng bào, độc lập cho tổ quốc”. Người đã rèn luyện và hoàn thiện cho mình một vốn hiểu biết và kinh nghiệm thực tiễn phong phú, một bản lĩnh kiên cường và sáng tạo của một nhà cách mạng tài ba.
Năm 1919, Nguyễn Ái Quốc tham gia Đảng Xã hội Pháp, Người đọc “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin. Luận cương của Lênin đã tạo bước ngoặt trong nhận thức của Người. Về sau này Người đã Viết “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”(4).
Ở Đại hội lần tứ 18 Đảng Xã hội Pháp tại thành phố Tua tháng 12-1920, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành tham gia Quốc tế thứ ba và thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Đây chính là sự kiện quan trọng đánh dấu cái mốc Người thanh niên Nguyễn Ái Quốc từ chủ nghĩa yêu nước sau một thập niên bôn ba, tìm tòi khảo nghiệm đã đến với CNXH khoa học, đã tìm thấy con đường cách mạng giải phóng cho dân tộc Việt Nam. Trong cuộc đấu tranh, từng bước một vừa nghiên cứu lý luận Mác – Lênin, vừa làm công tác thực tế Người đã hiểu chỉ có CNXH, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động nghèo khổ trên toàn thế giới khỏi ách nô lệ. Sự nhận thức mới mẻ và khoa học giúp Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”(5).
Trong cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 2-1930 Hồ Chí Minh xác định cách mạng Việt Nam là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”, có nhiệm vụ “đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến”, “làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập”, “làm cho thực hiện xã hội cộng sản”(6). Tư tưởng này đến năm 1959 được Hồ Chí Minh khái quát: “cách mạng Việt Nam trãi qua hai giai đoạn: cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng XHCN”(7). Hai giai đoạn này hợp thành nội dung của con đường cách mạng việt nam, có quan hệ biện chứng, tương hỗ với nhau. Cách mạng dân tộc dân chủ tạo tiền đề để đi vào thực hiện cách mạng XHCN và cách mạng XHCN sẽ tạo ra những điều kiện cần thiết để củng cố và bảo vệ vững chắc độc lập của dân tộc ta. Vì vậy, nghị quyết 09 của Bộ chính trị tháng 2-1995 đã khẳng định con đường cách mạng Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh tìm ra cho dân tộc Việt Nam vào đầu thế kỷ XX là con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Con đường đó ra đời là một tất yếu khách quan, đã đáp ứng đòi hỏi khát vọng cháy bỏng của dân tộc Việt Nam là độc lập thống nhất, tự do, hạnh phúc. Đây cũng là con đường sống, con đường phát triển của dân tộc ta.
Khi sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “sự áp bức và bóc lột vô nhân đạo của đế quốc Pháp đã làm cho đồng bào ta hiểu rằng có cách mạng thì sống, không có cách mạng thì chết” (8). Đồng thời nội dung của con đường cách mạng quy định nó thuộc phạm trù cách mạng vô sản. Vì vậy, khi xác định rõ con đường cách mạng Việt Nam là phải thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, lúc này Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt vấn đề: “cách mệnh trước hết phải có cái gì?”. Sau đó Người đã trả lời: “Trước hết phải có Đảng cách mệnh”(9).
Với tư tưởng Hồ Chí Minh - con đường cách mạng Việt Nam độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là con đường mà nhân dân ta hoàn toàn được độc lập, tự do, hạnh phúc. Đó cũng là mong muốn, là lý tưởng không bao giờ thay đổi ở Hồ Chí Minh và ở người Việt Nam. Gắn với cuộc cách mạng này Hồ Chí Minh đã xác định tính tất yếu lãnh đạo cuộc cách mạng thuộc về Đảng tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam. Bởi vậy, suốt cuộc đời của mình Hồ Chí Minh luôn hoàn thiện và cụ thể con đường cách mạng cho phù hợp với từng thời kỳ của lịch sử cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chăm lo xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh để đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp lãnh đạo cách mạng. Người chỉ ra sứ mệnh của Đảng là ở trong nước thì phải biết vận động và tổ chức dân chúng, còn ở ngoài nước thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đồng thời Người còn nhấn mạnh: “ Đảng có vững thì cách mạng với thành công, cũng như người cầm lái con thuyền có vững thì thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu và ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy”(11). Từ thực tiễn cách mạng sau nhiều thập niên hoạt động, Hồ chí Minh khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin là “ chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất” mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã lựa chọn và tuân theo.
Trên cơ sở quán triệt sâu sắc tính qui luật có giá trị khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam. Và từ thực tế cách mạng với những thành công mà chúng ta đã đạt được, song cũng có những khuyết điểm, sai lầm mà trong quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng, Đảng đã kết luận phải “ nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH”. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện CNXH và CNXH là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc vẫn là hai nhiệm vụ chiến lược quan trọng có quan hệ mật thiết hữu cơ với nhau. Trong công cuộc đổi mới, chúng ta tiếp tục thực hiện để đưa sự nghiệp cách mạng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho thế hệ hôm nay đến đài vinh quang.
Để đưa công cuộc đổi mới đến thành công, Đảng phải thực hiện đường lối đổi mới toàn diện “Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị”. “Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt”. Đảng luôn “tự đổi mới và chỉnh đốn mình”. Đảng yêu cầu cán bộ, Đảng viên phải thường xuyên nâng cao trình độ về mọi mặt, rèn luyện, trau dồi phẩm chất chính trị, lòng trung thành với lý tưởng cách mạng, ý chí kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH.
Sau những năm đổi mới, tại đại hội lần thứ IX tháng 4-2001 Đảng nhận định: những bài học đổi mới do các đại hội VI, VII, VIII, của Đảng nêu lên đến nay vẫn có giá trị lớn, trước tiên là “ trong quá trình đổi mới, phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”(12). Đại hội IX của Đảng cũng đã nhận định: Từ đai hội VIII đến nay, Đảng đã có nhiều cố gắng trong việc tiến hành nhiệm vụ then chốt là xây dựng, chỉnh đốn Đảng và nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế. Hội nghị Trung ương 6 lần 2 khóa VIII đã ra nghị quyết về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng. Mở cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tiến hành tự phê bình và phê bình trong các cấp ủy Đảng, rồi cả cán bộ chủ chốt từ Trung ương xuống cơ sở. Những năm qua thực hiện cuộc vận động đã thu được một số kết quả và kinh nghiệm bước đầu. Tuy nhiên vẫn chưa đạt được yêu cầu như mong muốn đặt ra. Để lãnh đạo thắng lợi sự nghiệp đổi mới Đại hội IX của Đảng khẳng định: trong những năm tới toàn Đảng tiếp tục thực hiện các nghị quyết về xây dựng Đảng, tập trung làm tốt công tác quan trọng như giáo dục tư tưởng chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân cho cán bộ, đảng viên, tiếp tục đổi mới công tác cán bộ. Xây dựng, cũng cố các tổ chức Đảng; kiện toàn tổ chức, đổi mới phương pháp lãnh đạo của Đảng…Để Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh có năng lực đáp ứng được những yêu cầu mới của đất nước đặt ra.
Kỷ niệm 35 năm (30/4/1975 đến 30/4/2010) ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, chúng ta càng hiểu rõ đường lối cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự đúng đắn và đặc biệt trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, thì toàn dân cần quán triệt đầy đủ và vận dụng sáng tạo tư tưởng con đường cách mạng Hồ Chí Minh. Cần có sự chỉ đạo, lãnh đạo đúng đắn của Đảng, lại được toàn dân đồng tình ủng hộ, mới khắc phục tận gốc tệ tham nhũng, quan liêu, lãng phí, sự xuống cấp về đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, một trong bốn nguy cơ lớn là nỗi lo, trăn trở của toàn Đảng, toàn dân tộc. Có như vậy, nhất định con đường cách mạng Hồ Chí Minh sẽ thắng lợi trong sự nghiệp đổi mới của Đảng và dân tộc ta.
 

TÀI LIỆU THAM KHẢO
 
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Nxb. Sự Thật, Hà Nội, 1991, tr. 21.
2 & 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, NXBST, Hà Nội, 1991, tr 52- 53.
4 & 5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, Hà Nội1996, t.10, tr.127-128.
6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQGHà Nội1996, t.9, tr. 314.
7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQGHà Nội1996, t.3, tr. 1 và 5.
8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQGHà Nội1996, t.9, tr. 581.
9. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQGHà Nội1996, t.3, tr. 9.
10. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQGHà Nội1996, t.2, tr. 267.
11. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQGHà Nội1996, t.2, tr. 267-268.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Sự Thật, Hà Nội, 2001, tr.19.
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
MỘT SỐ TƯ LIỆU VỀ CHIẾN TRANH
VIỆT NAM TỪ 1945 - 1975
                                                          TS-GVC. Nguyễn Trọng Thóc
 
(Nguồn: Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945-1975 thắng lợi và bài học, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội – 2000) 
I. SỐ QUÂN MỸ Ở MIỀN NAM VIỆT NAM
                              TỪ 1965 ĐẾN 1973
1. Năm 1965  =  184.300 quân
2. Năm 1966  =  410.000 quân
3. Năm 1967  =  485.600 quân
4. Năm 1969  =  543.400 quân
5. Năm 1970  =  474.000 quân
6. Năm 1971  =  335.000 quân
7. Năm 1972  =  184.000 quân
8. Năm 1973  =          50 quân*
* Ngày 29 tháng 3 năm 1973, quân Mỹ rút hết, để lại 50 lính
                                  thủy đánh bộ để bảo vệ Sứ quán Hoa Kỳ tại Sài Gòn.
II. MỘT SỐ ĐƠN VỊ TIÊU BIỂU CỦA QUÂN MỸ
1. Sư đoàn lính thủy đánh bộ số 3, thành lập năm 1942, tham chiến trên chiến trường Thái Bình Dương trong Chiến tranh thế giới thứ hai, là đơn vị chiến đấu đầu tiên với 13.500 quân, đổ bộ lên phía Bắc Đà Nẵng ngày 9/3/1965, là một trong số đơn vị quân Mỹ (trừ lữ đoàn 3) rút khỏi Việt Nam đợt đầu (25.000 quân) vào ngày 27/7/1969.
2. Sư đoàn tia chớp nhiệt đới (sư đoàn bộ binh số 25), thành lập tháng 10/1941. Đến Việt Nam 4/1966, rút khỏi Việt Nam 12/1970 (trừ lữ đoàn 2 tháng 4/1971). Là một trong những sư đoàn chịu thương vong lớn nhất trong chiến tranh xâm lược Việt Nam: 34.484 người, gấp 2 lần thương vong trong Chiến tranh thế giới thứ hai (5.432) và Chiến tranh Triều Tiên (13.685) cộng lại.
3. Sư đoàn kỵ binh bay số 1, thành lập 7/1965, sư đoàn cơ động đường không đầu tiên, tinh nhuệ nhất, có đầy đủ quân số (16.000), (trang bị hơn 400 máy bay trực thăng, hơn 1.600 xe các loại, tham gia chiến tranh xâm lược Việt Nam 9/1965, rút khỏi Việt Nam 4/1970 (trừ lữ đoàn 3 tháng 6/1972). Thương vong trong chiến tranh Việt Nam khoảng 30.000 người, gấp 1,5 lần trong Chiến tranh thế giới thứ hai (4.055), chiến tranh Triều Tiên (16.498) cộng lại.
4. Sư đoàn bộ binh số 1 (Anh cả đỏ), là một trong những sư đoàn nổi tiếng nhất của lục quân Mỹ, thành lập 5/1917, sư đoàn bộ binh đầu tiên của Mỹ tham gia chiến tranh xâm lược Việt Nam 10/1965, rút khỏi Việt Nam 4/1970. Thương vong trong chiến tranh Việt Nam 20.770 người, gần bằng thương vong trong Chiến tranh thế giới thứ nhất (22.320), nhiều hơn Chiến tranh thế giới thứ hai (20.659).
5. Sư đoàn dù số 101, sư đoàn cơ động đường không của Mỹ, nguyên là sư đoàn bộ binh thành lập trong Chiến tranh thế giới thứ nhất; trong Chiến tranh thế giới thứ hai chuyển thành sư đoàn dù, đến Việt Nam 11/1967 (riêng lữ đoàn 1 từ 7/1965), bộ phận cuối cùng rời khỏi Việt Nam 13/3/1972. Thương vong trong chiến tranh Việt Nam khoảng 20.000 người, gấp hơn hai lần thương vong trong Chiến tranh thế giới thứ hai (9.328).
6. Sư đoàn bộ binh số 9, thành lập 8/1940, đến Việt Nam 12/1966, rút khỏi Việt Nam 10/1970. Thương vong trong chiến tranh Việt Nam khoảng 20.000 người, gần bằng thương vong trong Chiến tranh thế giới thứ hai (23.277).
7. Sư đoàn bộ binh số 4, thành lập 1917, đến Việt Nam 9/1966, rút khỏi Việt Nam 12/1970. Thương vong trong chiến tranh Việt Nam 16.844 người, bằng khoảng 75% thương vong trong Chiến tranh thế giới thứ hai (22.660).
8. Sư đoàn American (sư đoàn bộ binh số 23), thành lập trong Chiến tranh thế giới thứ hai, đơn vị đã gây nên vụ thảm sát Sơn Mỹ (16/3/1968) trong chiến tranh xâm lược Việt Nam. Đến Việt Nam 9/1967, giải thể 11/1971. Thương vong trong chiến tranh Việt Nam 17.565 người, gấp 4 lần thương vong trong Chiến tranh thế giới thứ hai (4.209).
III. QUÂN CÁC NƯỚC PHỤ THUỘC MỸ Ở MIỀN NAM
                               VIỆT NAM TỪ 1964 ĐẾN 1973
 
TT
TÊN NƯỚC
SỐ LƯỢNG
NGÀY ĐẾN
NGÀY RÚT
1
Nam Triều Tiên (2 sư đoàn + 1 lữ đoàn)
50.000
9/1964
29/3/1973
2
Thái Lan (1 sư đoàn + 1 trung đoàn)
13.000
7/1966
2/1972
3
Ôxtrâylia(1 trung đoàn + 1 tàu khu trục và 1 phi đội máy bay)
7.000
9/1964
12/1972
4
Philippin(1 tiểu đoàn công binh và 2 đội cố vấn chiến tranh tâm lý)
2.000
4/1965
29/3/1973
5
Niu Dilân (2 đại đội bộ binh + 1 đại đội pháo binh)
600
7/1965
12/1972
6
CỘNG
72.600
 
 
 
 
 
 
IVTỔNG QUÂN SỐ QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
                                           
 TỪ 1944 ĐẾN 1975
(Nguồn: 50 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội – 1995)
1. Ngày 22/12/1944 =             34 người
2. Năm 1946               200.000 người
3. Năm 1950               200.000 người
4. Năm 1954            =    400.000 người
5. Năm 1964            =    600.000 người
6. Năm 1966            =    800.000 người
7. Năm 1972            = 1.000.000 người
8. Năm 1975            = 1.200.000 người