Thứ Bảy, 4 tháng 2, 2012

Tư liệu về Ấn Độ

Tư liệu về Ấn Độ
Cơ tầng Ấn Độ trong bản sắc văn hoá Đông Nam Á
PGS.TS. Phan Thu Hiền - Trường ĐHKHXH&NV, ĐHQG TP.HCM.
Bản sắc cộng đồng là bản chất đặc trưng phân biệt một cộng đồng nhất định trong quan hệ với những cộng đồng khác. Bản sắc Đông Nam Á như vậy cần được xem xét từ sự "thống nhất trong đa dạng" nổi tiếng của khu vực này, sự thống nhất được vun bồi qua suốt trường kỳ lịch sử: trên cơ tầng bản địa cũng như qua hai lớp tiếp biến văn hóa ngoại nhập. 

Chúng tôi cho rằng những ảnh hưởng Ấn Độ về thể chế chính trị, tổ chức và quy tắc xã hội cũng như về ngôn ngữ không phải rất quan trọng đối với bản sắc văn hóa Đông Nam Á vì những ảnh hưởng đó không thực sự phổ quát, sâu sắc, lâu bền đối với tất cả các dân tộc ở khu vực này. Có ý nghĩa quan trọng nhất, theo chúng tôi, là dấu ấn Ên Độ trên nền tảng tôn giáo và đạo đức của Đông Nam Á.
Nếu ở Trung Quốc, Phật giáo đi vào đời sống tâm linh trước hết và chủ yếu qua những bản dịch từ Tam Tạng kinh (Tripitaka) thì ở Đông Nam Á, cả Phật giáo lẫn Hindu giáo, những tôn giáo mà trong bản chất, là những cách nghĩ và cách sống hơn là những hệ thống kinh điển, nghi lễ, lại đến Đông Nam Á chủ yếu là qua những câu chuyện huyền thoại, cổ tích, sử thi, ngụ ngôn như Jataka, Mahabharata, Ramayana, Panchatantra… và bằng những hình thức sinh động của kể chuyện (người kể chuyện, tranh truyện thêu…), lễ hội, nghệ thuật tạo hình (điêu khắc, hội họa…), nghệ thuật biểu diễn (kịch rối, múa mặt nạ…)… Những ảnh hưởng Phật giáo, Bà La Môn giáo qua quá trình tổng hợp văn hóa đã không chỉ tập trung ở giới tinh hoa nắm đặc quyền tri thức, đặc quyền chính trị mà còn trở thành nền văn hóa sống động của đông đảo quần chúng nhân dân.
Trong Jataka, Ramayana, Mahabharata…nhân dân Đông Nam Á không quá băn khoăn suy tư với những cặp phạm trù Atman-Brahman (Tiểu Ngã-Đại Ngã), Karma-Samsara (Nghiệp báo-Luân hồi), Dharma-Moksha (Bổn phận-Giải thoát) của triết học Phật giáo, Hindu giáo. Họ chỉ đơn giản là ngưỡng mộ trước Đức Phật, Rama…, những tấm gương mẫu mực về tri kiến, hành động đạo đức, kỷ luật tinh thần, những biểu tượng rạng ngời của cái tâm thanh sạch, trong sáng, bình thản. Tương tự như thế, nhân dân Đông Nam Á không tiếp thu Panchatantra với tư cách một Rajaniti (Khoa học cai trị cho các nhà cầm quyền) mà chỉ rút từ đó những kiến thức thực hành dẫn dắt xử thế tốt trong đời. Ramayana, Mahabharata, Jataka, Panchatantra… vun bồi trong nhân dân Đông Nam Á những lý tưởng về cái thiện, về chính nghĩa, lòng nhân ái, từ bi…, lý tưởng sống vị tha, hòa bình, hòa hợp…, những giá trị thực ra vốn đã manh nha, vốn đã được nuôi dưỡng từ trong cơ tầng văn hóa bản địa (văn hóa nông nghiệp) của họ.
Những giá trị đó được vun bồi thuần thành viên mãn và trở nên những thành tố quan trọng trong bản sắc văn hóa Đông Nam Á. Chính di sản chung này góp phần gắn kết chặt chẽ quan hệ gần gũi, xúc tiến sự hiểu biết lẫn nhau và hợp tác hiệu quả giữa các dân tộc Đông Nam Á trong quá khứ, hiện tại và cả tương lai.
Ở Phương Tây, nghiên cứu bản sắc văn hóa châu Âu trong quan hệ với quá trình hình thành và phát triển EU đang là vấn đề thu hút sự quan tâm của cả giới học thuật lẫn những nhà hoạch định chính sách. Một hướng tiếp cận tương tự đối với bản sắc văn hóa Đông Nam Á và ý nghĩa của nó trong xúc tiến sự hiểu biết lẫn nhau và hợp tác giữa các nước ASEAN, theo chúng tôi, cũng có ý nghĩa quan trọng tương đương nhưng có thể nói chưa được sự chú ý đầy đủ.
Trong báo cáo này, chúng tôi muốn trình bày đôi điều suy nghĩ về cơ tầng Ấn Độ trong bản sắc văn hóa Đông Nam Á.
Những ảnh hưởng từ Ấn Độ như một động lực, như những cấu kiện cơ bản cho văn hóa các nước Đông Nam Á là điều không có gì còn phải ngờ vực. Cách thức tiếp biến những ảnh hưởng ấy của Đông Nam Á hầu như cũng không còn là vấn đề tranh luận nữa. Đa số các nhà nghiên cứu không còn cho rằng Đông Nam Á chỉ là người nhận ảnh hưởng một cách thụ động, không còn xem các nền văn minh khu vực này chỉ là những nền văn minh “ánh trăng”, văn minh “vệ tinh” thuộc về “Đại Ấn Độ” (Greater India) hay “Ấn Độ Mở Rộng” (Furthur India) nữa mà ngày càng nhất trí rằng qua tương tác với Ấn Độ do con đường buôn bán trên biển, cư dân Đông Nam Á đã rút được những điểm ưu mỹ trong nền văn hóa Ấn Độ mà họ thấy có lợi cho những nền văn hóa của họ và đó là quá trình tổng hợp văn hóa hơn là quá trình “Ên Độ hóa” (Indianization). Tuy nhiên, ảnh hưởng nào từ Ấn Độ đóng góp cho sự hình thành những thành tố cơ bản của bản sắc văn hóa Đông Nam Á thì có lẽ vẫn còn đòi hỏi tiếp tục nghiên cứu.
1. “Bản sắc văn hoá” và “Bản sắc văn hóa Đông Nam Á”
Trước hết xin sơ lược giới thuyết khái niệm “Bản sắc văn hoá” và “Bản sắc văn hóa Đông Nam Á”.
1.1. “Bản sắc văn hoá”
Đã có nhiều nhà lý luận, nhiều nhà nghiên cứu đưa ra những khái niệm khác nhau về “bản sắc” (identity), cả “bản sắc cá nhân” (individual identity) lẫn “bản sắc cộng đồng” (collective identity). Nếu bản sắc cá nhân là bản chất đặc trưng phân biệt một cá nhân nhất định trong quan hệ với những cá nhân khác thì tương tự, nhưng ở một khuôn khổ rộng lớn hơn, bản sắc cộng đồng là bản chất đặc trưng phân biệt một cộng đồng nhất định trong quan hệ với những cộng đồng khác. Ở đây, chúng tôi chú ý đến bản sắc cộng đồng. Theo Shmuel N. Eisenstadt 2003 (Comparative civilizations and multiple modernities. Leiden: Brill, tr. 75-134, dẫn lại theo Bùi Hải Đăng 2006), với “bản sắc cộng đồng”, một mặt, một cộng đồng nhất định muốn xác định những đặc điểm khác biệt như những ranh giới phân cách họ khỏi những cộng đồng khác, mặt khác, họ muốn tìm những đặc điểm chung như những rường mối kết nối quan hệ giữa các thành viên trong nội bộ cộng đồng họ. Nói một cách vắn tắt, “bản sắc cộng đồng” là bản chất đặc trưng phân biệt “CHÚNG TA” (WE) và “HỌ” (THEM)
P. Sztompka 2004 (http://www.nias.knaw.nl/en/new_3/new_1, dẫn lại theo Bùi Hải Đăng 2006) khẳng định rằng cái “CHÚNG TA” (WE) được xác định trên nền tảng của bốn cấp độ sau đây:
(1) sự sở hữu chung từ xa xưa một lãnh thổ, một khung cảnh môi trường;
(2) gia tài chung của những kinh nghiệm quá khứ, những ký ức, truyền thống cộng đồng, những tổ tiên chung (dù thực tế hay huyền thoại);
(3) sự chia sẻ những ngôn ngữ, tôn giáo, phong tục tập quán, cách sống chung;
(4) sự chia sẻ những hệ tư tưởng, lý tưởng chung.
Như vậy, có thể thấy “bản sắc cộng đồng” là kết quả của quá trình định hình, phân biệt “bản ngã” của một cộng đồng, trong đó những giá trị văn hóa được sử dụng như những tiêu chí nhận diện. “Bản sắc cộng đồng”, thực sự, chính là “bản sắc văn hóa” của cộng đồng.
Theo đó, liệu có thể có một bản sắc văn hóa Đông Nam Á chăng, và cấu trúc của nó là như thế nào?
1.2. “Bản sắc văn hóa Đông Nam Á”
Thuật ngữ “Đông Nam Á” với ý nghĩa đề cập một khu vực đã xuất hiện chính thức từ Đại chiến thế giới lần thứ hai. Khu vực này bao gồm các nước với những sự đa dạng về môi trường cũng như chủng tộc.
Xét từ chủng tộc (chủ thể văn hóa), sống ở Đông Nam Á là chủng Nam Mongoloid với sự phân chia thành 5 nhóm (theo Nguyễn Tấn Đắc 2005):
- Austro-Asiatic
- Austronesian
- Indonesian
- Vedoid
- Negrito
Hệ quả là, xét từ ngôn ngữ, ở Đông Nam Á có 5 nhóm (theo Nguyễn Tấn Đắc 2005):
- Austro-Asiatic (Mon-Khmer)
- Austronesian (Malayo-Polynesian)
- Tai-Kadai
- Tibeto-Burman
- H’mong-Mien
Xét từ môi trường (không gian văn hóa), khu vực này bao gồm Đông Nam Á lục địa và Đông Nam Á hải đảo. Sự phân chia lục địa – hải đảo phản ánh những khác biệt không chỉ về địa lý mà trên một số khía cạnh là cả về văn hóa.
Bảng 1: Sự phân chia Đông Nam Á lục địa – Đông Nam Á hải đảo
(dựa theo Nguyễn Tấn Đắc 2005, Mai Ngọc Chừ 1998)

Đông Nam Á lục địaĐông Nam Á hiện đại
Các nước- Myanmar
- Thailan
- Campuchia
- Lào
- Việt Nam
- Malaysia
- Singapore
- Indonesia
- Đông Timor
- Philippines
- Brunei
Địa lý tự nhiên- Bên cạnh núi là những đồng bằng khá rộng lớn- Những đồng bằng nhỏ hẹp hơn
Rừng trù phú hơn
Kinh tếChủ yếu là Nông nghiệpMở rộng hoạt động trên biển, trong đó quan trọng là Thương mại trên biển
Sự hình thành quốc giaCác quốc gia thống nhất ra đời sớmCác quốc gia thống nhất ra đời tương đối muộn hơn
Xét từ lịch sử (thời gian văn hóa), nhìn chung trên toàn bộ khu vực, có thể nói đến 3 thời kỳ lớn:
(1) Thời kỳ văn hóa bản địa (từ khởi thủy đến khoảng đầu Công nguyên);
(2) Thời kỳ tiếp biến những ảnh hưởng văn hóa Phương Đông từ Trung Quốc, Ấn Độ, Arập (từ khoảng đầu Công nguyên đến khoảng thế kỷ XVI);
(3) Thời kỳ tiếp biến những ảnh hưởng văn hóa Phương Tây (từ khoảng thế kỷ XVI đến nay).
Song, nhịp độ và nội dung của mỗi thời kỳ lại rất khác nhau giữa các tiểu khu vực trong nội bộ Đông Nam Á. Theo Đức Ninh, có thể phân biệt 5 tiểu khu vực:
(1) Campuchia, Champa: sớm tiếp thu ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ, lúc đầu là Bà La Môn, sau là Phật giáo.
(2) Indonesia, Malaysia: Ảnh hưởng Ấn Độ (Phật giáo, Bà La Môn giáo) du nhập sớm, nhưng từ thế kỷ XIV trở đi dần thay thế bằng ảnh hưởng Hồi giáo.
(3) Myanmar, Thái Lan, Lào: tiếp nhận ảnh hưởng Ấn Độ muộn hơn và thông qua các quốc gia trung gian, với Phật giáo sâu đậm.
(4) Philippines: Ảnh hưởng Ấn Độ dần mờ nhạt, ảnh hưởng Thiên Chúa giáo sâu đậm, bên cạnh ảnh hưởng Hồi giáo ở phía Nam.
(5) Việt Nam: Sớm tiếp nhận ảnh hưởng Ấn Độ (ảnh hưởng Phật giáo ở Luy Lâu, ảnh hưởng Bà La Môn và Phật giáo ở Champa, Phù Nam) đồng thời là nước duy nhất ở Đông Nam Á chịu ảnh hưởng sâu sắc của Trung Hoa (ở phía Bắc từ thế kỷ II, ở phía Nam từ sau sự sụp đổ của vương quốc Champa vào thế kỷ XV).
Mặc dù tất cả những khác biệt đa dạng ấy, Đông Nam Á ngày càng được nhìn nhận sâu sắc như một khu vực địa lý, chính trị-xã hội và văn hóa. Bản sắc Đông Nam Á như vậy cần được xem xét từ sự “thống nhất trong đa dạng” nổi tiếng của khu vực này, sự thống nhất được vun bồi qua suốt trường kỳ lịch sử: trên cơ tầng bản địa cũng như qua hai lớp tiếp biến văn hóa ngoại nhập.
Đối với sự hình thành văn hóa cổ điển của Đông Nam Á rõ ràng tiếp biến quan trọng nhất là qua tương tác với Ấn Độ. Vậy thì, những ảnh hưởng nào từ Ấn Độ mang tính phổ quát (có tác động khá tương đồng đối với cả các nước lục địa lẫn hải đảo) và lâu bền (vẫn lưu dấu ấn sâu sắc cho đến ngày nay) tạo dựng những thành tố cơ bản cho một bản sắc văn hóa chung đối với tất cả các nước Đông Nam Á?
2. Những ảnh hưởng Ấn Độ đối với bản sắc văn hóa Đông Nam Á
Đúng như Alastair Lamb [A.L.Basham (edited) 1998: A cultural history of India. p.443] đã nhận xét: “Không có bất cứ một quá trình Ấn Độ hóa nào mang tính đồng phục ở khắp Đông Nam Á”. Cả Đông Nam Á lục địa lẫn hải đảo đều tiếp nhận những ảnh hưởng Ấn Độ từ đầu Công nguyên nhưng sau này lại có sự phân chia rõ rệt giữa lục địa và hải đảo: trong khi Phật giáo Tiểu thừa thống lĩnh Đông Nam Á lục địa thì Đông Nam Á hải đảo dần dà trở thành một thế giới của Hồi giáo.
Bảng 2: Ảnh hưởng Ấn Độ đối với Đông Nam Á lục địa
và Đông Nam Á hải đảo

Đông Nam Á lục địaĐông Nam Á hải đảo
Ảnh hưởng Ấn ĐộCho đến nay, chủ yếu là ảnh hưởng Phật giáoTừ khoảng thế kỷ XIV-XV, ảnh hưởng Hồi giáo thay thế ảnh hưởng Phật giáo và Bà La Môn giáo
2.1. Những ảnh hưởng Ấn Độ về chính trị, xã hội
Nhiều học giả đã đưa ra luận điểm rằng thương mại đường dài trên biển giữa các nước Đông Nam Á và Ấn Độ từ đầu Công nguyên đóng vai trò chìa khóa trong việc thúc đẩy sự phát triển chính trị dần dẫn đến sự hình thành hàng loạt nhà nước sơ khai ở khu vực này. Những nhà vua bản địa đã sử dụng thần phả và các nghi lễ Ấn Độ như phương tiện củng cố uy thế của mình. Họ cũng vay mượn một số yếu tố từ hình thức cai trị lý tưởng, nền tảng luật pháp, chính trị của Ấn Độ. Có thể thấy rõ điều này trong huyền thoại lập quốc, trong tín ngưỡng Devaraja (Vua-Thần) của Khmer, Champa và các nhà vua Ấn Độ hóa của Java.
Tuy nhiên, theo chúng tôi, những ảnh hưởng Ấn Độ về thể chế chính trị, tổ chức và quy tắc xã hội không phải rất quan trọng đối với bản sắc văn hóa Đông Nam Á. Bởi lẽ những ảnh hưởng này chỉ ở một số quốc gia cổ, đồng thời cơ bản cũng chỉ giới hạn trong thời cổ đại (chỉ có một ngoại lệ là Thái Lan, nơi lý tưởng Devaraja vẫn còn duy trì đến tận hoàng gia đương đại). Dấu ấn của hệ thống phân biệt đẳng cấp khắt khe của Ấn Độ là vô cùng mờ nhạt ở Đông Nam Á. Vị trí xã hội của người phụ nữ ở Đông Nam Á, do tiếp nối, bảo lưu truyền thống bản địa, cũng cao hơn nhiều so với ở Ấn Độ.
2.2. Những ảnh hưởng Ấn Độ về ngôn ngữ
Nhiều học giả cũng nhấn mạnh những ảnh hưởng Ấn Độ trong các ngôn ngữ Đông Nam Á. Myanmar, Thái Lan, Campuchia, Lào đến nay vẫn mượn chữ viết Ấn Độ và ngôn ngữ của họ phản ánh dấu ấn của cả tiếng Sanskrit lẫn tiếng Pali.
Tuy nhiên, theo chúng tôi, những ảnh hưởng Ấn Độ về ngôn ngữ cũng không phải rất quan trọng đối với bản sắc văn hóa Đông Nam Á. Vì rằng nhiều trong những ngôn ngữ Đông Nam Á thuộc về những nhóm hoàn toàn khác những ngôn ngữ Ấn Độ. Ngày hôm nay, nếu ASEAN cần có một “ngôn ngữ cộng đồng” (collective language) như một phương tiện giao tiếp chung cho các nước thành viên thì sự lựa chọn của nó chắc chắn không phải những ngôn ngữ Ấn Độ mà có lẽ, hoặc là tiếng Anh hoặc là tiếng Trung.
2.3. Những ảnh hưởng Ấn Độ về tôn giáo, đạo đức
Có ý nghĩa quan trọng nhất, theo chúng tôi, là dấu ấn của Ấn Độ trên nền tảng tôn giáo và đạo đức của Đông Nam Á.
Từ thời cổ đại, Phật giáo và Bà La Môn giáo đã thống lĩnh ở đây. Ngày nay, Phật giáo và Hồi giáo là hai tôn giáo quan trọng nhất. Mà Hồi giáo ở Đông Nam Á lại là Hồi giáo được mang đến chủ yếu từ Ấn Độ chứ không phải từ Arập, một Hồi giáo truyền thừa qua Ấn Độ và với một số ảnh hưởng Hindu.
Bảng 3: Tình hình tôn giáo ở các nước Đông Nam Á
(dẫn lại theo Viện Thông tin Khoa học Xã hội 1997:
Tôn giáo và đời sống hiện đại. Tập II)

Phật giáo
Hồi giáo
Các tôn giáo khác
Myanmar
87,2%
3,6%
Kito giáo 5,6%
Thái Lan
92,1%
3,9%

Lào
58%

Tôn giáo bộ lạc 34%
Campuchia
88,4%
2,4%

Việt Nam
55,3%
1,0%
Kito giáo 7,4%
Indonesia
1,0%
(Hindu giáo 2,1%)
83,6%

Malaysia
6,4%
(Hindu giáo 7,4%)
54,4%
Tôn giáo Trung Quốc 24,7%
Philippines
4,3%
Thiên Chúa giáo 84,1%
Singapore
8,6%
(Hindu giáo 5,7%)
17,4%
Tôn giáo Trung Quốc 53,9%
Brunei
13,1%
64,2%
Kito giáo 8%
Nếu ở Trung Quốc, Phật giáo đi vào đời sống tâm linh trước hết và chủ yếu qua những bản dịch từTam Tạng kinh (Tripitaka) thì ở Đông Nam Á, mặc dù trong nhiều thế kỷ cũng có những dòng đối lưu các tăng sĩ Ấn Độ đến Đông Nam Á và các tăng sĩ Đông Nam Á đến Ấn Độ nhưng không có đông đảo những dịch giả với việc thỉnh kinh, dịch kinh quy mô lớn.
Cả Phật giáo lẫn Hindu giáo đến Đông Nam Á, ở mức độ phổ biến sâu rộng, chủ yếu lại là qua những câu chuyện huyền thoại, cổ tích, sử thi, ngụ ngôn như Jataka, Mahabharata, Ramayana, Panchatantra…và bằng những hình thức sinh động của kể chuyện (người kể chuyện, tranh truyện thêu…), lễ hội, nghệ thuật tạo hình (điêu khắc, hội họa…), nghệ thuật biểu diễn (kịch rối, múa mặt nạ…)…
Bảng 4: Những bản Ramayana, Mahabharata, Jataka, Panchatantra
ở các nước Đông Nam Á

RamayanaMahabharataJatakaPanchatantra
Myanmar-Yama Zatdaw
(thế kỷ XVIII)



Campuchia- Reamker
(thế kỷ VI)

JatakaPanchatantra
Thailand-Ramakien
(thế kỷ XIII)

Xattakhăm-Nang Tantay
Laos-Phra Lak Phra Lam
(thế kỷ XIX)
-Gvay Dvorahbi

-Xỉn Xay
(thế kỷ XV)
-Nang Tantay
(1507)
-Munfa Tantay
Champa-Ramayana


Vietnam- “Dạ Thoa vương” (Lĩnh Nam chích quái)


Indonesia-Ramayana Kakawin
(thế kỷ VIII-IX)
- Arjuna-
wiwala
- Bharatayu- dhakakawin
(1100)
Bhagavad Gita

-Tamitri
Malaysia-Hikayat Seri Rama
(thế kỷ XIII-XVII)
-Hikayat Maharaja Ravana


Panchatantra
Philippines-Manaraw


Bảng 5: Ramayana, Mahabharata, Jataka, Panchatantra
qua các hình thức kể chuyện, lễ hội, nghệ thuật tạo hình
và nghệ thuật biểu diễn ở các nước Đông Nam Á

RamayanaMahabharataJatakaPanchatantra
Myanmar- kể chuyện
-1 ngôi đền
- kịch rối bóng
- kịch múa cung đình

- kể chuyện
- trang trí đền đài
- kịch rối bóng

Campuchia- kể chuyện
những phù điêuAngkor Wat
-193 bức tranhtrong 1 tăng viện ởPhnom Penh
-sân khấu
La Kon
múa cung đình
- kể chuyện
- phù điêu

-kể chuyện
Thái Lan-kể chuyện
-2 ngôi đền
-200 bích họa ở Wat Phra Kaeo (Bangkok)
-Nẳng Yai (kịch rối bóng)
Kohn (múa mặt nạ)

-kể chuyện
-trang trí đền đài
-kịch rối bóng
-kể chuyện
Lào-kể chuyện
-2 ngôi đền
-29 bích họa ở Vat Oup Moung (Vientiane)
-múa
âm nhạc

-kể chuyện-kể chuyện
Việt Nam-Đền thờ Valmiki
-sân khấu dù kêcủa người Khmer


- 1 số truyện dân gian
Indonesia-kể chuyện
- 5 ngôi đền
-phù điêu trên đền Hindu
-kịch rối bóngWayang Kulit &Wayang Purwa
-Múa Kecak
-kịch múa mặt nạ
-kịch rối gỗ
-múa ballet
Các lễ hộiMochopat, Bebachan
-kịch rối bóng,Wayang Kulit &Wayang Purwa-1 số truyện dân gian-kể chuyện
Malaysia-kể chuyện
-1001 tranh tượngtrong ngôi đền Rama lớn nhất
-kịch rối bóngWayang Kulit
-kịch rối bóngWayang Kulit-1 số truyện dân gian
Có thể nói, bằng những cách thức như vậy, chính Đông Nam Á đã hấp thụ sâu sắc linh hồn của Phật giáo và Bà La Môn giáo, những tôn giáo mà trong bản chất, là những cách nghĩ và cách sống hơn là những hệ thống kinh điển, nghi lễ, tín điều chặt chẽ. Hơn nữa, ở Đông Nam Á, nơi mà đến 4/5 dân số sống ở những vùng nông thôn, văn hóa truyền thống chủ yếu là văn hóa truyền khẩu hơn là văn hóa chữ nghĩa, bằng hình thức kể chuyện, diễn xướng, hội lễ... như vậy, những ảnh hưởng Phật giáo, Bà La Môn giáo qua quá trình tổng hợp văn hóa đã không chỉ tập trung ở giới tinh hoa nắm đặc quyền tri thức, đặc quyền chính trị mà còn trở thành nền văn hóa sống động của đông đảo quần chúng nhân dân.
Trong Jataka, Ramayana, Mahabharata… nhân dân Đông Nam Á không quá băn khoăn suy tư với những cặp phạm trù Atman-Brahman (Tiểu Ngã-Đại Ngã), Karma-Samsara (Nghiệp báo-Luân hồi),Dharma-Moksha (Bổn phận-Giải thoát) của triết học Phật giáo, Hindu giáo. Họ chỉ đơn giản là ngưỡng mộ trước Đức Phật, Rama-Sita, Yudhithira, Arjuna,... những tấm gương mẫu mực về tri kiến, hành động đạo đức, kỷ luật tinh thần, những biểu tượng rạng ngời của cái tâm thanh sạch, trong sáng, bình thản. Jataka (Những câu chuyện Tiền thân Đức Phật) là những bài học về đức vị tha, nhẫn nại, tình thương yêu rộng mở không chỉ đối với đồng loại mà là tất thảy mọi chúng sinh, còn các sử thiRamayana, Mahabharata thì trình bày lý tưởng những quan hệ vua-tôi, cha-con, chồng-vợ, anh-em, bạn hữu, ca ngợi những con người sẵn sàng hy sinh những quyền lợi vật chất cho những đòi hỏi tinh thần, đặt quyền lợi của cộng đồng, của người khác trên quyền lợi bản thân… Jataka, Ramayana, Mahabharata… chia sẻ những triết lý, những niềm tin sâu sắc mà giản dị về “gieo gì gặt nấy”, “thiện thắng ác”…
Tương tự như thế, nhân dân Đông Nam Á không tiếp thuPanchatantra với tư cách một giáo trình Chính trị học (Rajaniti - Khoa học cai trị cho các nhà cầm quyền) mà chỉ rút từ đó những kiến thức thực hành dẫn dắt xử thế tốt trong đời. Niti cốt lõi nhất trong Panchatantra là hiểu biết cái hạn độ (limit), rằng: “Khôn cũng chết, dại cũng chết, chỉ người biết là sống thôi”.
Ramayana, Mahabharata, Jataka, Panchatantra… vun bồi trong nhân dân Đông Nam Á những lý tưởng về cái thiện, về chính nghĩa, lòng nhân ái, từ bi…, lý tưởng sống vị tha, hòa bình, hòa hợp…, những giá trị thực ra vốn đã manh nha, vốn đã được nuôi dưỡng từ trong cơ tầng văn hóa bản địa (văn hóa nông nghiệp) của họ. Nếu như Nho giáo chỉ nâng lên thành nghĩa lý những tình cảm trung hiếu mà các nước Đông Á (Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên) vốn đã cảm nhận và mong ước từ bản năng thì Phật giáo, Bà La Môn cũng đóng vai trò đúng như vậy đối với truyền thống nhân văn của Đông Nam Á.
Những giá trị đó được vun bồi thuần thành viên mãn và trở nên những thành tố quan trọng trong bản sắc văn hóa Đông Nam Á. Ngay cả khi Hồi giáo thế chỗ Phật giáo và Bà La Môn giáo ở phần lớn Đông Nam Á hải đảo thì người nông dân ở đây vẫn tiếp tục tìm được niềm vui giải trí cũng như những bài học đạo đức với những câu chuyện Ramayana, Mahabharata, Jataka, Panchatantra… được nghe, được xem từ thuở ấu thơ. (Có lẽ một phần chính nhờ vậy mà Đông Nam Á hải đảo vẫn là khu vực Hồi giáo ôn hòa nhất thế giới). Và ngay cả khi Phương Tây mang vào Đông Nam Á “những yếu tố của tư duy thế tục, thực dụng, hoài nghi đụng chạm (đồng thời cũng kích thích) mạnh mẽ đối với những xã hội truyền thống đậm đà màu sắc tôn giáo và tâm linh ở đây” (Guy Hunter 1966, tr.6) thì những giá trị đó vẫn là những năng lực tích cực và mạnh mẽ đương đầu được, cân lại với sự xâm nhập, lan tràn của xu hướng chủ nghĩa vật chất ngoại lai.
Bảng 6: Dấu ấn của những ảnh hưởng Ấn Độ trong giá trị văn hóa của các dân tộc Đông Nam Á cho đến tận ngày nay
(Dựa theo Nguyễn Tấn Đắc 2005)
Đất nướcNhững giá trị văn hóa được thừa nhận
IndonesiaTrong Pancasila (Năm nguyên lý) có
- Chủ nghĩa quốc tế / Chủ nghĩa nhân đạo
- Dân chủ
(L’Islam en Indonésie II. Etudes Interdisciplinaires sur le monde insulindien– Archipel 30. 1978. tr. 265)
MalaysiaTrong Ruknegara (Hệ tư tưởng quốc gia) có
- Trung thành với đức vua, với dân tộc
- Xử sự tốt và đạo đức
(Tạp chí Vòng quanh Đông Nam Á. 10 / 1999, tr. 24)
SingaporeTrong Hệ tư tưởng quốc gia có
- Hiểu biết, khoan thứ, hòa hợp giữa các chủng tộc, các tôn giáo
- Hòa điệu giữa quyền lợi cá nhân và lợi ích cộng đồng
- Đồng cảm, giúp đỡ những người kém may mắn
- Giải quyết các vấn đề cơ bản trên cơ sở thương lượng, thỏa thuận trong chừng mực có thể
(Tạp chí Vòng quanh Đông Nam Á. 10 / 1999, tr. 91-97)
PhilippinesTrong những giá trị văn hóa có
Pakikisama: cư xử tốt để giữ hòa hợp
- Tránh xúc phạm (hiya) người khác
(Tomas D. Andres 1987: Understanding Filipno, Philippines, tr. 75-77)
MyanmarTrong những giá trị văn hóa có
- Cư xử tốt để giữ hòa hợp
- Không nói hoặc làm điều gì làm phiền hoặc xúc phạm người khác
- Coi trọng quyền lợi cộng đồng hơn lợi ích cá nhân
Thái LanTrong những giá trị văn hóa có
- Từ bi
- Giúp đỡ người khác
- Khoan thứ
(Phuông Phasa Khurôvat. Thai art and culture)
LaosTrong những giá trị văn hóa có
- Nhân hậu
- Tránh xung đột
- Khiêm tốn, nhẫn nại
Việt NamTrong những giá trị văn hóa có
- Nhân ái
- Nghiã tình
(Trần Văn Giàu 1993: Những giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam)
Tóm lại, ảnh hưởng quan trọng nhất, sâu rộng nhất, lâu bền nhất của văn hóa Ấn Độ trong những nền văn hóa Đông Nam Á là sự vun bồi một nền tảng đạo đức chung cho toàn bộ khu vực. Chính di sản chung này góp phần gắn kết chặt chẽ quan hệ gần gũi, xúc tiến sự hiểu biết lẫn nhau và hợp tác hiệu quả giữa các dân tộc Đông Nam Á trong quá khứ, hiện tại và cả tương lai.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Guy Hunter 1966: South-East Asia – Race, Culture, and Nation. Oxford University Press, New York, London.
2. Reginald le May 1964: The culture of SouthEast Asia. The heritage of India. George Allen and Unwin Ltd. London
3. Nguyễn Tấn Đắc 2005: Văn hóa Đông Nam Á. NXB. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Mai Ngọc Chừ 1998: Văn hóa Đông Nam Á. NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội.
5. Lưu Đức Trung (chủ biên) 1998: Văn học Đông Nam Á. NXB. Giáo dục.
6. Hugh Clifford 1990: Furthur India. White Lotus, Co.Ltd., Bangkok, Thailand.
7. H.B.Sahkar 1985: Cultural relations between India and SouthEast Asian countries. Indian council for cultural relations. New Dehli.
8. Thakur Upendra 1986: The Ramayana in SouthEast Asia – Some aspects of Asian history and culture. Abhinav Publication, India.
9. A.L.Basham (edited) 1998: A cultural history of India. Oxford University Press. Delhi, Calcutta, Mumbai.
10. A.L.Basham 2000: The wonder that was India. Rupa & Co.
11. Susanne Schech & Jane Haggis 2000: Culture and development. Blackwell publishing.
12. Frank J. Lechnes & John Boli 2005: World culture. Origins and Consequences. Blackwell publishing.
13. Bui Hai Dang 2006: The EU and European identity. Jagiellonian Unversity in Krakow, Poland.

2. Ảnh hưởng của toàn cầu hoá tới các ngôn ngữ Ấn Độ
PGS.TS. Đỗ Thu Hà - Trường DHKHXH&NV, ĐHQGHN;

Ảnh hưởng của toàn cầu hoá được cảm thấy tại Ấn Độ từ thập kỷ 90 của thế kỷ XX. Dần dần, người Ấn Độ bắt đầu cảm thấy ảnh hưởng gay gắt của nó và người ta thường xuyên phân tích, đánh giá, và tranh luận về những ảnh hưởng này trên các mặt kinh tế, công nghịêp, các phương tiện thông tin đại chúng và các phương diện văn hoá xã hội.
Nhưng cuộc điều tra về sự ảnh hưởng của toàn cầu hoá đối với các ngôn ngữ Ấn Độ có liên quan đến vị trí, vai trò, sự lựa chọn của các ngôn ngữ này trong việc sử dụng tại các lĩnh vực khác nhau trong cuộc sống, mô hình sử dụng, cấu trúc và thành phần, sự phát triển… thì vẫn chưa làm được nhiều.
Các phương diện ngôn ngữ của toàn cầu hoá gồm câu trả lời đối với các vấn đề như Toàn cầu hoá có tạo nên các cơ hội hay không? Chuyện gì đang xảy ra với các ngôn ngữ Ấn Độ? Các ngôn ngữ Ấn Độ chịu ảnh hưởng của toàn cầu hoá trong các lĩnh vực nào?
Bài viết này trình bày một số ảnh hưởng của toàn cầu hoá đối với các ngôn ngữ Ấn Độ và những người sử dụng các ngôn ngữ đó dựa trên con số và hiện tượng thực tế, xem xét cả hai mặt ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của toàn cầu hoá đối với các ngôn ngữ Ấn Độ.
Theo Cuộc tổng điều tra năm 1961, có đến 1652 ngôn ngữ tại Ấn Độ và chúng được phân loại theo tính chất phong phú và đặc sắc. Trước Độc lập, các ngôn ngữ Ấn Độ được gọi là thổ ngữ trong sự so sánh với tiếng Anh. Hiến pháp của nước Ấn Độ độc lập đã xác định các ngôn ngữ này theo các lĩnh vực sử dụng của chúng. Bên cạnh việc khuyến khích sử dụng tiếng Hinđi như một phương tiện nhằm thống nhất văn hoá, Hiến pháp Ấn Độ cũng qui định là “phải bảo vệ sự giàu có, phong phú của ngôn ngữ Ấn Độ, không can thiệp vào các đặc điểm về tính chất, nguồn gốc, hình thức, phong cách và sự biểu hiện của chúng…”1. Hiến pháp đã bổ sung nhiều điều khoản, nghị định để triển khai quyết định về ngôn ngữ của các uỷ ban trong các kỳ họp khác nhau dưới sự lãnh đạo của chính phủ toàn Ấn Độ, chính phủ của các bang và các lãnh thổ tự trị.
Ảnh hưởng của toàn cầu hoá được cảm thấy tại Ấn Độ từ thập kỷ 90 của thế kỷ XX. Tiến trình này ảnh hưởng đến rất nhiều mặt của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội và văn hoá tại đất nước này. Tuy nhiên, vấn đề về ảnh hưởng của toàn cầu hoá đối với các ngôn ngữ Ấn Độ vẫn chưa được quan tâm và có giải pháp triệt để. Báo cáo này xin tìm hiểu bước đầu về chuyện gì đã xảy ra với các ngôn ngữ Ấn Độ, ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của toàn cầu hoá đối với chúng.
1. Toàn cầu hoá- một khái niệm cũ
UNESCO đã xác định khái niệm “toàn cầu hoá” là “một cấu trúc và tiến trình về văn hoá, chính trị, công nghệ, xã hội và kinh tế, nảy sinh từ việc thay đổi tính chất sản xuất, tiêu thụ và buôn bán trao đổi hàng hoá nền tảng của nền kinh tế chính trị quốc tế…”2. Mặc dù khái niệm này nghe có vẻ mới mẻ và thường được nói tới từ thập kỷ 80 của thế kỷ XX nhưng thực chất, theo UNESCO thì “…khái niệm này đã trải qua lịch sử nhiều thập kỷ trước đó, thậm chí nhiều thế kỷ, nếu chúng ta tính đến các đế chế thương mại đã từng được người Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, người Anh hay Hà Lan xây dựng nên”3.
Trong vòng hai thập kỷ qua, tuy nhiên, khái niệm toàn cầu hoá đã có những bước biến đổi rất lớn trong việc kết hợp với những tiến bộ công nghệ như công nghệ thông tin chẳng hạn. Chắc chắn toàn cầu hoá và công nghệ thông tin đã ảnh hưởng lẫn nhau một cách sâu sắc và cùng tiến song song.
Ấn Độ chấp nhận nguyên tắc của sự phát triển có tính toàn cầu sau khi trở thành một quốc gia độc lập, các kế hoạch năm năm trở thành công cụ của sự phát triển. Nói rộng ra, bảy kế hoạch năm năm đầu tiên tập trung vào công cuộc công nghiệp hoá và gia tăng sản xuất nông sản. Kế hoặch năm năm lần thứ tám bắt đầu từ tháng 4/1992 đã xuất hiện những từ như “tự do hoá”, “tư nhân hoá”, và “toàn cầu hoá”. Những khái niệm này trở thành những điểm thiết yếu của sự tăng trưởng và phát triển của Ấn Độ. Đặc diểm cơ bản của tiến trình này là thị trường trở nên thống nhất, công việc làm ăn có tính toàn cầu:
“Toàn cầu hoá là một quá trình chứ không phải là một thực thể cố định… Nó là một loạt những bước hướng tới một nền kinh tế thế giới có sự hội nhập hoàn toàn…”4.
Nhiều nhà lãnh đạo quốc gia có lẽ rất ngại khi công nhận định nghĩa này vì đây là một vấn đề nhạy cảm khi đem so sánh với khái niệm “dân tộc” hay “chủ nghĩa yêu nước” trước đây.
2. Toàn cầu hoá đối với các ngôn ngữ Ấn Độ
Ảnh huởng của toàn cầu hoá đối với Ấn Độ có thể cảm thấy rõ kể từ kế hoạch năm năm lần thứ tám (từ những năm 90). Dần dần, người Ấn Độ bắt đầu cảm thấy ảnh hưởng gay gắt của nó và người ta thường xuyên phân tích, đánh giá, và tranh luận về những ảnh hưởng này trong các mặt kinh tế, công nghịêp, các phương tiện thông tin đại chúng và các phương diện văn hoá xã hội. Nhưng cuộc điều tra về sự ảnh hưởng của toàn cầu hoá đối với các ngôn ngữ Ấn Độ có liên quan đến vị trí, vai trò, sự lựa chọn của các ngôn ngữ này trong vịêc sử dụng ở các lĩnh vực khác nhau trong cuộc sống, mô hình sử dụng, cấu trúc và thành phần, sự phát triển… vẫn chưa làm được nhiều.
3. Tình hình ngôn ngữ tại Ấn Độ qua các giai đoạn lịch sử
Báo cáo này trình bày một số ảnh hưởng của toàn cầu hoá đối với các ngôn ngữ Ấn Độ và những người sử dụng các ngôn ngữ đó dựa trên các con số và hiện tượng thực tế ở cả hai mặt tích cực và tiêu cực, công khai hay che đậy…
Trong bài diễn văn nhân ngày Độc lập năm 2001, Tổng thống Ấn Độ K.R. Narayanan đã tuyên bố:
“Ba con đường tự do hoá, tư nhân hoá, và toàn cầu hoá phải là những hành lang an toàn để Ấn Độ có thể tiến lên phía trước dưới sự bình đẳng về vị trí xã hội và cơ hội cho tất cả mọi người”.
Ninan Koshy trong cuốn Toàn cầu hoá cũng tuyên bố: “Toàn cầu hoá tăng cuờng sự bất bình đẳng, sự bất ổn, và xung đột… Sự bất bình đẳng về kinh tế hiện nay thật đáng báo động: ngày càng có nhiều xung đột và nội chiến nảy sinh. Thấy được mối quan hệ giữa hai tình huống này thật là điều quan trọng…”5.
Trước hết, chúng ta phải xem lại lịch sử ngôn ngữ Ấn Độ trong vòng 100 năm qua theo ba giai đoạn:
- Trước Độc lập hay dưới thời thuộc địa.
- Sau Độc lập, trong kỷ nguyên công nghiệp hoá gần 40 năm.
- Mười năm gần đây trong kỷ nguyên toàn cầu hoá.
a. Trước Độc lập
Trước Độc lập chỉ có hai phạm trù ngôn ngữ chính tại Ấn Độ (được các nhà cầm quyền thực dân đưa ra và những người bị trị chấp nhận thụ động) là tiếng Anh và các ngôn ngữ Ấn Độ. Tất cả các ngôn ngữ Ấn Độ lúc đó đều được đặt dưới một cái tên là thổ ngữ-vernacular hay dialects.
Mặc dù có một di sản vô cùng giàu có, các ngôn ngữ Ấn Độ hầu như không có được một vị trí chính thức hay quyền lực chính trị nào. Một vài ngôn ngữ như tiếng Punjabi đã phải đấu tranh để có được sự công nhận của nhà cầm quyền. Trong trường hợp một vài ngôn ngữ khác, người Anh đã cho phép sử dụng chúng trong giáo dục và quản lý hành chính. Nếu một dân số lớn có mối quan hệ địa lý cận kề nhau sử dụng cùng một ngôn ngữ, tiến trình tiêu chuẩn hoá được thông qua giáo dục bằng cách biên soạn sách ngữ pháp, từ điển, các giáo trình dạy tiếng… chủ yếu để giúp người dân học tiếng.
Dần dần, các lĩnh vực sử dụng các ngôn ngữ Ấn Độ bắt đầu mở rộng ra và các phương tiện thông tin đại chúng (chủ yếu là dưới dạng văn bản) đã bắt đầu tác động tới các cộng đồng ngôn ngữ. Khi số người biết chữ tăng lên cùng với sự gia tăng của chủ nghĩa dân tộc tại Ấn Độ, số người nói các thứ tiếng chính trong các vùng bắt đầu đề cập đến việc sử dụng ngôn ngữ dân tộc cho mục đích giáo dục. Trong khi đó, những người thuộc giới thượng lưu vẫn tiếp tục sử dụng tiếng Anh. Chính sách quốc gia về ngôn ngữ được Quốc hội Ấn Độ thông qua trong thập kỷ 20 của thế kỷ XX đã giúp các ngôn ngữ Ấn Độ được sử dụng như phương tiện giáo dục. Vì tiếng Anh là thứ tiếng giao tiếp chính thức, hợp hiến và chính phủ cầm quyền là của người Anh cho nên tiếng Anh đã phát triển lên đến đỉnh cao trong thời kỳ này.
b. Sau Độc lập
Ấn Độ độc lập đã tuyên bố chính sách về kinh tế, công nghịêp, giáo dục, nông nghiệp… nhưng người ta không hề tìm được một tài liệu nào đề cập đến chính sách ngôn ngữ trong thời kỳ đầu của nước Ấn Độ độc lập.
Chính sách ngôn ngữ của Ấn Độ được rút ra từ các nguồn khác nhau như Hiến pháp Ấn Độ, Chính sách giáo dục và các điều khoản do chính phủ Ấn Độ và chính quyền các bang, các lãnh thổ tự trị bổ sung. Chúng có thể hoặc trực tiếp đề cập đến ngôn ngữ hoặc liên quan đến các vấn đề ngôn ngữ phát sinh từ hoàn cảnh thực tế và được coi như một “vấn đề nhạy cảm”.
Việc trao quyền hợp pháp cho các phương ngữ tại Ấn Độ diễn ra trong hai giai đoạn từ sau Độc lập: giai đoạn thứ nhất là khi chúng chiếm được một vị trí trong Hiến pháp dưới dạng một điều khoản và giai đoạn tiếp theo khi các bang tại Ấn Độ nhận thức được các nguyên tắc cơ bản về việc sử dụng ngôn ngữ trong các vùng lãnh thổ có quan hệ gần gũi với nhau. Kết quả của hiện tượng này là một vài ngôn ngữ hàng đầu đã trở thành ngôn ngữ chính thức của các bang. Đây là những yếu tố khiến cho việc sử dụng các phương ngữ mạnh lên tại Ấn Độ. Chúng đã cung cấp điều kiện thuận lợi giúp các ngôn ngữ được lựa chọn, được phân loại và đưa vào danh sách các ngôn ngữ chính thức với tư cách là các ngôn ngữ của vùng, ngôn ngữ Ấn Độ hiện đại, ngôn ngữ Phương Đông, ngôn ngữ cổ điển, ngôn ngữ các dân tộc thiểu số và các ngôn ngữ của các bộ lạc…
Đây không chỉ là vấn đề các khái niệm hay từ vựng khác nhau. Đây chính là những vũ khí sắc bén để mặc cả chính trị hay những đặc quyền về việc sử dụng và công nhận các ngôn ngữ khác nhau sau này tại Ấn Độ.
c. Mười năm gần đây
* Các hoạt động phát triển ngôn ngữ
Vị trí mới khiến cho các ngôn ngữ phát triển tương thích với đòi hỏi cao hơn hẳn trước đó. Vì thế, các hoạt động phát triển ngôn ngữ đã diễn ra trong khung cảnh các ngôn ngữ Ấn Độ hiện đại. Mỗi ngôn ngữ lan rộng trong các lĩnh vực mới như thế nào là một vấn đề mà cho đến nay, người Ấn Độ vẫn chưa nghiên cứu hoặc ít khám phá. Các lĩnh vực của việc sử dụng ngôn ngữ đương nhiên đã mở rộng ra. Những người nói các phương ngữ bắt đầu đòi quyền được sử dụng ngôn ngữ đó trong các lĩnh vực giáo dục, quản lý… và những người nói các ngôn ngữ thiểu số và bộ lạc cũng đòi quyền được sử dụng tiếng mẹ đẻ của mình.
* Ảnh hưởng của công cuộc công nghịêp hoá đất nước
Trong kỷ nguyên độc lập và công nghiệp hoá, vai trò mới cũng như những đặc quyền đặc lợi mà các ngôn ngữ Ấn Độ giành được đã thúc đẩy dân chúng sử dụng các ngôn ngữ này trong trường học và là phương tiện truyền giảng. Nhưng trải qua thời gian, một vài điều không đáng có đã xảy ra trong quá trình sử dụng các ngôn ngữ tại Ấn Độ trong chính trị và cả các lĩnh vực khác.
Cuộc tổng điều tra về giáo dục tại Ấn Độ do tổ chức NCERT tiến hành chỉ ra rằng con số các ngôn ngữ được sử dụng trong các trường học đã giảm từ 81 năm 1970 xuống 41 ngôn ngữ trong 25 năm vừa qua. Tương tự như vậy, con số các ngôn ngữ được dùng làm phương tiện truyền giảng cũng đã giảm từ 47 xuống 18 ngôn ngữ trong cùng giai đoạn. Thậm chí giữa hai cuộc tổng điều tra thứ V và thứ VI, đã có sự giảm sút trong con số các ngôn ngữ được dùng để giảng dạy trong các trường học: cuộc điều tra lần thứ V là 44 và thứ VI là 41 ngôn ngữ.
Xin hãy xem bảng tổng kết sau đây:
Bậc giáo dục
Cuộc điều tra lần thứ V
Cuộc điều tra lần thứ VI
Tiểu học lớp nhỏ (1-3)
43
33
Tiểu học lớp lớn (4-5)
31
25
Trung học cơ sở
22
21
Trung học phổ thông
20
18
Theo NCERT, Sixth All Indian Educational Survey, 1998, New Delhi.
* Sự thức tỉnh thông qua vấn đề giáo dục tiếng mẹ đẻ
Trong quá trình công nghiệp hoá, người Ấn Độ đang xa rời dần tiếng mẹ đẻ, họ không còn sử dụng nó như một công cụ để truyền giảng và học ở trường lớp nữa. Nếu một ngôn ngữ không được sử dụng vì những mục đích rộng hơn sự giao tiếp và quản lý hành chính thường ngày thì nó có thể dần dần biến mất khỏi xã hội với tư cách là một phương tiện giao tiếp hiệu quả và sẽ chỉ còn giữ vai trò của một công cụ xác nhận bản sắc dân tộc mà thôi. Ngày nay, ngay cả sự xác nhận bản sắc này có khi cũng bị thờ ơ bởi vì những vấn đề khác như đẳng cấp, tôn giáo, quần áo, thói quen ăn uống và thậm chí cả họ tên vốn rất quan trọng đối với bản sắc cá nhân trong xã hội Ấn Độ truyền thống cũng đang bị thách thức nghiêm trọng trong cả gia đình lẫn ngoài xã hội.
* Giáo dục bậc cao qua các ngôn ngữ Ấn Độ
Tiến sĩ Radhakrishnan rất quan tâm đến vấn đề ngôn ngữ trong Giáo dục đại học Ấn Độ. Ông đã từng đưa ra nhận xét rằng: “Tiếng Anh- với tư cách là phương tiện truyền giảng ở các bậc học cao - khó có thể thay thế bằng các ngôn ngữ Ấn Độ, nhất là tiếng sanskrit khi chúng ta xét đến những khó khăn rất đặc trưng” và “Giáo dục bậc cao tại Ấn Độ đang bị chia cắt khỏi việc sử dụng các ngôn ngữ dân tộc khi người ta muốn tiến tới vịêc sử dụng một ngôn ngữ được chấp nhận trên toàn liên bang với tư cách là một phương tiện giao tiếp và truyền giảng trong một vài môn hay tất cả các môn học”. Ông cũng tuyên bố rằng “Tiếng Anh được đưa vào học tập tại các trường trung học và đại học là để chúng ta có thể giữ được mối liên lạc với dòng chảy của kiến thức đang ngày một phát triển bên ngoài Ấn Độ”6.
Sau gần 60 năm độc lập (từ 1947 đến nay), giáo dục bậc cao về khoa học và công nghệ không bao giờ sử dụng ngôn ngữ Ấn Độ! Sự hiện diện của một vài ngôn ngữ Ấn Độ trong một vài phần của khoa học xã hội được coi là một dấu hiệu có tính giữ gìn bản sắc dân tộc hơn là vì mục đích khoa học rõ rệt. Việc nghiên cứu khoa học thông qua các ngôn ngữ dân tộc thường bị thờ ơ. Chẳng hạn khi nghiên cưú bộ phận vẽ bản đồ quốc gia Ấn Độ (thuộc Viện Nghiên cứu khoa học về Trái Đất), ta thấy tất cả xuất bản phẩm của các nhà khoa học Ấn Độ đều được in bằng tiếng Anh, chỉ có 04 tác phẩm là bằng tiếng Nga, 02 bằng tiếng Hinđi, 01 tiếng Nhật và 01 tiếng Pháp. Cũng cần chỉ ra rằng trong các bài báo trên lĩnh vực này trong năm 1990 chỉ có 02 bài bằng tiếng Hinđi và trong hai năm 1994 và 1998, không có một xuất bản phẩm nào in bằng ngôn ngữ nào khác ngoài tiếng Anh7.
* Đánh giá lại các ngôn ngữ Ấn Độ
Trong nhiều trường hợp, phương ngữ Ấn Độ bị coi là không đủ năng lực để sử dụng. Chẳng hạn như khi đề cập đến tiếng Hinđi, Toà án Tối cao Ấn Độ đã tuyên bố rằng: “Có thể tiếng Hinđi và các phương ngữ khác thích hợp để chuyển tải những vấn đề về giáo dục, tổ chức các kỳ thi, kể cả thi vào đại học nhưng vì sự phát triển của các ngôn ngữ Ấn Độ này khiến chúng chưa thích hợp để chuyển hoá, truyền đạt hay kiểm tra vốn tri thức cũng như khả năng có thể xảy ra trong các vụ án liên quan đến y học và nha khoa nên người ta đành không dùng chúng trong các vụ xử án. Chúng là những ngôn ngữ không đem lại cơ hội cho những người có liên quan”8.
5. Toàn cầu hoá: ngôn ngữ trở thành một loại hàng hoá
Ảnh hưởng của toàn cầu hoá đối với vai trò, quyền lực, và việc sử dụng các ngôn ngữ Ấn Độ không dễ gì nhìn thấy ngay như những ảnh hưởng trên các mặt kinh tế, công nghiệp… Toàn cầu hoá có ảnh hưởng gián tiếp nhưng rất mạnh mẽ và để lại những di chứng lâu dài. Giáo dục và các cơ hội về việc làm có liên quan trực tiếp nhất đến các ngôn ngữ tại Ấn Độ.
Khi giáo dục trở thành hàng hoá, ngôn ngữ được sử dụng trong giáo dục cũng hoá thành một loại hàng hoá. Hàng hoá nào có thể bán chạy mới có thể tồn tại trên thị trường, nếu không nó buộc phải chịu sự thải bỏ. Giáo dục cung cấp hàng hoá - nhân lực - cho cả thị trường và công nghệ. Thị trường sẽ quyết định các cơ hội về việc làm, khả năng được chấp nhận và được thuê của nguồn nhân lực đó. Hơn bao giờ hết, các cá nhân có học vấn cao đã và đang trở nên một món hàng sẵn sàng xuất khẩu. Và ngôn ngữ cũng nằm trong tiêu chuẩn để có thể xuất khẩu nhân lực đó.
6. Sự chuyển đổi trong giáo dục và vị trí của các ngôn ngữ Ấn Độ
Khi giáo dục bậc cao - với tư cách là hàng hoá - đang được tư nhân hoá, chương trình đào tạo cũng được đo lường và thiết kế theo nhu cầu của các công ty tư nhân. Giáo dục truyền thống vẫn giữ được sức mạnh trong các môn khoa học cơ bản nhưng không lôi cuốn được sự chú ý của sinh viên. Chỉ các ngành công nghệ kỹ thuật mới làm được điều này. Sinh viên ít lựa chọn các môn Nghệ thật, hay học lên cao mà thích theo đuổi những môn như: Quản trị kinh doanh, Cơ khí, Tin học…
Đây quả là một sự chuyển đổi lớn lao trong giáo dục bậc cao. Giáo dục ở các lớp thấp hơn buộc phải tuân theo nhu cầu của các bậc học cao hơn, chuẩn bị cho học viên ngay từ đầu. Nhưng hiện nay, giáo dục ở bậc phổ thông của Ấn Độ thường tập trung vào các mục đích xã hội trong khi giáo dục bậc cao hơn lại tập trung nhiều vào mục đích kinh tế và công nghiệp. Cho nên, thực tế là trước khi có toàn cầu hoá đã có sự phân chia trong giáo dục Ấn Độ nhưng ngày nay, sự phân chia đó ngày càng lan rộng ra mà thôi. Sự chuẩn bị quá tải cho kỳ thi vào đại học ở các trường trung học để có thể tham gia vào các khoá học chuyên ngành bậc cao hơn chính là triệu chứng của sự phân chia này trong hệ thống giáo dục.
Cuộc điều tra của tờ Asian Age vào tháng 12/2000 cho thấy sự lựa chọn của các bậc phụ huynh và con em họ nghiêng rất rõ về vấn đề học ngoại ngữ. Theo kết quả điều tra, có một sự giảm sút đáng chú ý tại các trường trung học nói tiếng Kannada trong 10 năm lại đây. Các trường dạy bằng tiếng Anh vượt trội hơn hẳn so với số trường dạy bằng tiếng Kannada. Trong giai đoạn hiện nay, tỉ lệ trường dạy bằng tiếng Kannada so với trường dạy tiếng Anh là 1:10. Tại Bangalore, năm 2000 tỉ lệ có 900 đơn xin vào trường dạy bằng tiếng Anh trong khi chỉ có 110 chỗ trong khi tỉ lệ này cho trường dạy tiếng Kannada là 10/55. Trước đó, mỗi loại trường có 04 phần cho lớp học tiếng Kannada với khoảng 600-700 sinh viên còn nay, mỗi phần của trường dạy tiếng Kannada là 30-35 học viên. Chính người Kannada cũng không gửi con cái họ tới trường dạy bằng tiếng Kannada!10
Người nói các thứ tiếng trước đây được coi là ngôn ngữ chính thức thì nay chuyển sang tiếng Anh. Những dân tộc sử dụng các ngôn ngữ thiểu số trong các bang được tái thiết lại theo ngôn ngữ tại Ấn Độ cũng chuyển sang tiếng Anh. Chỉ có những người thiểu số có tiếng nói riêng như Tulu, Kodagu có tỉ lệ biết chữ cao tuy có quyền chọn các ngôn ngữ khác là vẫn không xa rời tiếng mẹ đẻ của họ. Họ đã cố gắng sử dụng tiếng của cộng đồng mình ở mọi nơi họ sống. Tuy nhiên, đây không phải là trường hợp phổ biến. Những ngôn ngữ như Kannada, tuy có sự trợ giúp rất mạnh mẽ của chính phủ nhưng vẫn lụi tàn dần do dân số của họ chuyển sang sử dụng các ngôn ngữ khác (tiếng Anh và Hinđi) ngày một nhiều. Hiện tượng này vẫn cần được nghiên cứu sâu thêm.
Trong học trình ban đầu của giáo dục Ấn Độ, những năm học đầu sử dụng tiếng mẹ đẻ hay ngôn ngữ của vùng. Các ngôn ngữ chính thức và nay là tiếng Anh, đã dần dần thay vào vị trí đó. Từ khi tiến trình toàn cầu hoá phát triển mạnh mẽ tại Ấn Độ, mọi bang đều cạnh tranh với nhau để giới thiệu tiếng Anh từ những lớp nhỏ nhất trong các trường của họ. Các uỷ ban, các hội đồng đã cố biến việc giảng dạy tiếng Anh thành một nguyên tắc hợp hiến trong giáo dục. Bang Tây Bengal đã từng xoá bỏ việc dạy tiếng Anh với tư cách là ngôn ngữ thứ hai vào năm 1977. Nhưng nay, tiếng Anh lại xuất hiện ngay từ những lớp nhỏ nhất. Trong thế kỷ XXI, tiếng Anh được sử dụng như một phương tiện lan rộng và rất có hiệu quả trong giáo dục và truyền giảng. Tại Hội nghị toàn Ấn Độ về giáo dục năm 2002 và trong các cuộc bầu cử tại Jammu và Kashmir, các chính khách đã hứa rằng: “…Tất cả các làng sẽ có ít nhất là một trường tiểu học dạy bằng tiếng Anh…”11.
Nhận thức của dân chúng về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và bản thân họ cũng đang thay đổi. Trước đây, ngôn ngữ được coi là một công cụ giáo dục, giáo dục là một công cụ để khai sáng và đem lại sự hiểu biết cho con người. Giờ đây, giáo dục được coi là một phương tiện hiệu quả cho sự phồn vinh thịnh vượng về mặt kinh tế. Chúng ta có thể thấy điều gì xảy ra khi một nước như Ấn Độ chuyển từ xã hội nông nghiệp sang xã hội công nghiệp và bước vào toàn cầu hoá. Trong thời kỳ công nghiệp hoá, nạn chảy máu chất xám bị các nhà xã hội học, kinh tế học và các nhà quản lý coi là rất tồi tệ và tiêu cực còn trong thời kỳ toàn cầu hoá, nó lại được coi là dấu hiệu hội nhập, chứng tỏ trình độ cao của sức lao động.
7. Toàn cầu hoá và tiếng Anh
Sự phổ biến của tiếng Anh tại Ấn Độ đã làm cho dân chúng càng háo hức và quyết tâm hơn trong toàn cầu hoá. Tiếng Anh được chấp nhận là một ngôn ngữ chính thức của cả nước vì tiếng Hinđi không được chấp nhận là ngôn ngữ chính thức duy nhất của Ấn Độ. Do vậy, tiếng Anh được coi là một ngôn ngữ trung lập, trung lập đối với hơn 1652 tiếng mẹ đẻ được công nhận chính thức khác tại Ấn Độ (con số điều tra toàn Ấn Độ năm 1961). Mặc dù các nhà hoạch định chính sách rất mong tiếng Hinđi thay thế được vai trò của tiếng Anh trong vòng 15 năm (kể từ 1950) nhưng cho đến nay, điều này vẫn không thể thực hiện được vì dân chúng - ở cả những vùng dùng tiếng địa phương lẫn những vùng bị tiếng Hinđi thống trị - không cảm thấy nhu cầu này. Đó là chưa kể đến những vấn đề rất nhạy cảm về văn hoá, chính trị liên quan đến tiếng Hinđi. Với sự chuyển đổi trong toàn cầu hoá, tiếng Anh đang nhanh chóng trở nên ngôn ngữ toàn cầu hoá. Do vậy, không thể thay thế được tiếng Anh tại Ấn Độ dù thời gian có dài hơn chăng nữa. Thực tế cho thấy tiếng Anh hiện không chỉ thay thế tiếng Hinđi mà cả các tiếng khác tại Ấn Độ.
a. Song ngữ
Việc các chính khách nói song ngữ (tiếng địa phương của họ và tiếng Anh) chính là nguyên nhân quan trọng khiến cho tiếng Anh dễ dàng xâm nhập vào các gia đình Ấn Độ. Để gặt hái được lợi nhuận kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hoá, và bây giờ là thời kỳ toàn cầu hoá, các gia đình Ấn Độ đã cạnh tranh với nhau để cung cấp sự giáo dục tốt nhất bằng tiếng Anh cho con cháu mình. Nguời ta có thể thấy rõ sự chia cắt rõ ràng do sự lựa chọn ngôn ngữ trong công chúng gây nên: tiếng Anh là vì sự tiến bộ kinh tế còn tiếng mẹ đẻ là vì mục đích văn hoá cũng như một cách giữ gìn bản sắc dân tộc.
b. Sự lan rộng của tiếng Anh
Trong cuộc điều tra quốc gia về độc giả năm 2002 do Hội nghiên cứu Quốc gia về độc giả (NRSC) tiến hành, cho thấy sự gia tăng nhanh chóng trong việc bán các ấn phẩm bằng tiếng Anh trong các thành phố nhỏ có dân số từ 50 vạn dân trở lên trong khi sách báo bằng tiếng Hinđi và các phương ngữ tăng trưởng tại các vùng có dân số dưới 50 vạn trở xuống.
Tiếng Anh ngày một trở nên phổ biến hơn ở các vùng nông thôn nhờ có sự phát triển về kỹ năng đọc bằng tiếng Anh tại các trường phổ thông. Tiếng Anh, do đó, đang tự thiết lập một nền tảng vững chắc mới tại các vùng nông thôn.
8. Nỗi sợ sự thống trị của tiếng Hinđi
Các nghị sĩ Quốc hội Ấn Độ đã tranh luận rất nhiều về việc xây dựng Hiến pháp và phản ứng của dân chúng đối với việc phân bố ngôn ngữ, nhất là việc sử dụng tiếng Hinđi.
Trong những năm gần đây, người ta nhận thấy tiếng Hinđi được coi là tiếng nói đứng trên các ngôn ngữ khác tại Ấn Độ. Sự thay đổi này đã xảy ra và vẫn tiếp tục xảy ra khiến dân chúng phản ứng gay gắt. Và tiếng Anh, thứ tiếng mà nhiều người những tưởng là sẽ tống khứ nó khỏi Ấn Độ thì nay đã đạt được vị trí tối cao, vượt lên mọi thứ tiếng khác, kể cả tiếng Hinđi.
Các biến thể của tiếng Hinđi như Awadhi, Banjari, Bhojpuri, Braj Bhasha, Bundelkhandi, Chambeali, Chattisgarhi, Garhwali, Haryanvi, Kangri, Kulvi, Labani, Magahi, Maithili, Marwari, Mewari, Pahari, Rajasthani, Sadri, Sugali... đã kết hợp với nhau để tạo nên tiếng Hinđi sau Độc lập, giúp dân chúng nói tiếng Hinđi thống nhất với nhau nhưng lại gây ra phản cảm mạnh mẽ trong các sắc tộc và ngôn ngữ khác. Người ta tính ra rằng mỗi năm ở Ấn Độ có tới 05 ngôn ngữ nhỏ - chủ yếu là ngôn ngữ của các bộ lạc - biến mất trong 05 năm trở lại đây12. Nhờ các phương tiện thông tin đại chúng cũng như các công cụ văn hoá nghệ thuật như âm nhạc, điện ảnh... mà trong thập kỷ vừa qua, tiếng Hinđi đã phát triển, lan rộng và gây ảnh hưởng lớn đến các vùng không nói tiếng Hinđi. Điều này cũng dẫn tới việc tiếng Hinđi tiếp thu một số thành tố của các ngôn ngữ và sắc tộc khác để trở nên phong phú hơn. Do đó, trong quan niệm của nhiều người, tiến trình toàn cầu hoá tốt cho tiếng Hinđi mà không có lợi đối với các ngôn ngữ khác tại Ấn Độ.
9. Những thay đổi trong chiến lược giảng dạy tiếng Anh và các thứ tiếng Ấn Độ
Trong chương trình giảng dạy phổ thông tại Ấn Độ, người ta nhấn mạnh vịêc dạy tiếng Anh, điều này thể hiện trong việc giảng dạy văn học Anh. Trong khi sự tiếp cận này có thể không giúp ích gì nhiều cho việc học tiếng Anh vì mục đích giao tiếp đơn giản, nhưng không ai có thể nghi ngờ ảnh hưởng của các kiến thức này lan rộng trong các sinh viên. Nhưng giờ đây, sự tiếp cận đã thay đổi, người ta chỉ nhằm mục đích giao tiếp là chính. Xu hướng tương tự cũng xảy ra với việc giảng dạy các ngôn ngữ Ấn Độ khác.
Các nhà cầm quyền đã tuyên bố rằng sự thay đổi này sẽ giúp cải thiện tình hình, kích thích sự phát triển của các ngôn ngữ Ấn Độ và đưa các ngôn ngữ này vào sử dụng trong mạng lưới quyền lực, thậm chí ngay cả trong các hoạt động kinh tế của người Ấn Độ. Tuy nhiên, ai cũng biết rằng tiếng Anh là thứ tiếng thống trị trong giai đoạn công nghịêp hoá, toàn cầu hoá vẫn sẽ tiếp tục duy trì tình hình đó dù người ta có tuyên bố như thế nào chăng nữa. Chỉ qua quá trình tự nhận thức về các việc sử dụng ngôn ngữ và bản sắc văn hoá dân tộc mới có thể tạo ra một sự phát triển mới, một hướng tiếp cận khác đối với các ngôn ngữ dân tộc tại Ấn Độ nhằm tiếp tục duy trì các ngôn ngữ đó.
Do các tầng lớp thống trị đang thúc đẩy công nghiệp hoá và toàn cầu hoá, một hiện tượng mới về văn hoá và ngôn ngữ bắt đầu xảy ra ở diện rộng- hiện tượng “lai tạo” giữa các ngôn ngữ Ấn Độ và tiếng Anh.
10. Việc pha trộn trong sử dụng ngôn ngữ
Công nghiệp hoá đã làm tăng thêm sự phức tạp trong việc sử dụng ngôn ngữ. Hiện nay, có hiện tượng pha trộn các ngôn ngữ Ấn Độ với tiếng Anh. Tiến trình toàn cầu hoá càng làm tăng thêm xu hướng này thông qua việc dùng từ vựng của tiếng Anh để thay thế và thể hiện những vấn đề trong giao tiếp. Sinh viên Ấn Độ và những người dân bình thường đã quá quen thuộc đối với bàn phím máy tính viết bằng tiếng Anh và việc sử dụng máy tính ngày càng trở nên phổ biến trong mọi dạng thức giao tiếp nhờ lợi thế của công cuộc toàn cầu hoá thông qua những tiến bộ công nghệ. Người Ấn Độ đã thu hẹp phạm vi sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, thậm chí cả trong giao tiếp, trao đổi tình cảm cá nhân.
Phim ảnh cũng đang thu hút sự chú ý của khán giả bằng các phụ đề tiếng Anh như chúng ta thường thấy tại Ấn Độ. Điều tương tự cũng xảy ra với tên các chương trình tivi hoàn toàn bằng tiếng Anh hay pha trộn với tiếng Anh như H2O, Friends, Duet, Police Story, Lockup Death, Super Star, Ek Chotisi Love Story,... Việc pha trộn các ngôn ngữ có lịch sử lâu dài trong truyền thống văn hoá tại Ấn Độ. Tiếng sanskrit đã từng được hưởng vị trí là thứ ngôn ngữ tiêu chuẩn, cao quí nhất trong các ngôn ngữ Ấn Độ và thường được các học giả, các nhà văn, nhà thơ pha trộn với tiếng mẹ đẻ trong tác phẩm của họ. Các cuộc tranh luận của các Phật tử thường nhấn mạnh việc sử dụng phương ngữ khiến cho việc giao tiếp với các tín đồ có hiệu quả hơn nhưng rất nhanh sau đó, chính họ cũng khiến xu hướng pha trộn ngôn ngữ mạnh hơn. Trước Độc lập, xu hướng pha trộn các phương ngữ Ấn Độ với tiếng Anh khá mạnh mẽ. Sau Độc lập, có thời kỳ sự pha trộn này đã giảm bớt nhưng ngày nay, sự pha trộn này đang tăng tốc do người dân ưa thích sử dụng tiếng Anh hơn: thuận lợi trong làm ăn, dễ dàng tiếp cận với các trang thiết bị công nghệ hiện đại, tránh khỏi những rắc rối về ngôn ngữ và sắc tộc nếu có…
a. Toàn cầu hoá, công nghệ thông tin và các ngôn ngữ Ấn Độ
Tiếng Anh hiện được coi là tâm điểm của học vấn tốt tại Ấn Độ. Nó cũng là tâm điểm của công nghệ thông tin. Đây là ngành đã khiến Ấn Độ trở thành cường quốc phần mềm thứ hai chỉ sau Mỹ và người Ấn Độ có thể xuất khẩu chất xám nhiều nhất vì tiếng Anh là ngôn ngữ mặc định của “vương quốc” này. Cuộc điều tra do Hội các nhà sản xuất công nghệ tin học (MAIT) tiến hành đã đem lại cho chúng ta một số thông tin về mô hình sử dụng tiếng Anh và phương ngữ Ấn Độ trong ngành sản xuất phần mềm như sau:
- Sự hiện diện trên thực tế của thứ ngôn ngữ trong kinh doanh - tiếng Anh - chính là sự ngăn cản có tính quyết định khiến tiến trình tăng trưởng của các chương trình đa ngôn ngữ tại Ấn Độ bị chậm lại. Tiếng Anh trở thành thứ tiếng thông dụng nhất trên toàn quốc.
- Nhiều thành phần quan trọng như viễn thông không có nhu cầu phần mềm bằng phương ngữ.
- Các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực sản xuất có nhu cầu nhỏ và hạn chế về các phần mềm phương ngữ và nhiều doanh nghiệp không bao giờ nhận được đơn đặt hàng bằng song ngữ.
- Ngành in ấn và xuất bản là ngành công nghiệp duy nhất có nhu cầu tìm kiếm những phần mềm bằng tiếng địa phương.
- Ngay nạn vi phạm bản quyền bằng phương ngữ cũng rất thấp, chỉ 20% so với giá cả cũng như số lượng phần mềm.
- Các phần mềm bằng phương ngữ thiếu tiêu chuẩn chung.
- Thiếu vắng phương diện gia đình trong giao diện người sử dụng.
- Thị trường công nghệ thông tin năm 2002 cho các chương trình đa ngôn ngữ toàn Ấn Độ khoảng 140-160 triệu rupi. Phần mềm bằng tiếng Hinđi và Tamil khoảng 50 triệu rupi năm 2000 và năm 2005 tăng lên khoảng 380 triệu trong tổng số 1,2 đến 1,25 tỉ các phần mềm đa ngôn ngữ. Sự gia tăng này chủ yếu là do dân chúng sử dụng máy tính ngày một tăng.
- Trong năm 1999 đến 2002, số người lớn sử dụng Internet từ 1,4 triệu lên đến 6,02 triệu.
- Công nghệ thông tin có thể đến với người dân Ấn Độ qua các phương ngữ. Nếu không có cách nào kiểm soát thì người dân Ấn Độ sẽ đến với IT bằng tiếng Anh, khả năng này có tính hiện thực rất rõ rệt12.
b. Toàn cầu hoá và ngôn ngữ của các phương tiện thông tin đại chúng
Các phương tiện thông tin đại chúng là thành phần chủ yếu sử dụng các phương ngữ tại Ấn Độ. Vào năm 1987, các báo xuất bản bằng 92 phương ngữ trong khi đó, năm 2001, các báo được xuất bản bằng 101 phương ngữ13. Ngoài ra, chúng ta thấy có sự thay đổi mạnh mẽ. Ta cần chú ý rằng trong lịch sử văn hoá Ấn Độ, người ta thường chú trọng vào phong cách bác học và văn học hơn là để giao tiếp. Ngày nay, các phương ngữ được sử dụng không phải dưới dạng văn chương bác học mà chủ yếu dưới dạng đơn giản, đời thường. Xu hướng này càng được công cuộc toàn cầu hoá và việc tiếp xúc với công nghệ mới làm cho mạnh hơn lên.
11. Chuyển hướng trong việc nghiên cứu các ngôn ngữ Ấn Độ
Trước kia, các hoạt động phát triển ngôn ngữ như cung cấp văn tự cho một ngôn ngữ vốn không có văn tự; chuẩn bị các trang thiết bị học tập; nghiên cứu và in ấn từ điển, sách ngữ pháp… đều đặt mục đích là giúp phương ngữ của các dân tộc thiểu số trở thành phương tiện giao tiếp hữu hiệu và thích hợp cho việc truyền giảng. Sau Độc lập, chính phủ trung ương và chính phủ các bang tại Ấn Độ đã thiết lập nhiều học viện nghiên cứu ngôn ngữ để thúc đẩy sự sử dụng các phương ngữ theo hướng này. Cùng với sự phát triển của công nghệ mới và để tận dụng các công nghệ đó, người ta đã cố gắng đi theo hướng số hoá và ghi chép, truyền thụ để có thể bảo tồn những ngôn ngữ này với tư cách những nét văn hoá đặc sắc quí báu.
KẾT LUẬN
Tấn công là cách tốt nhất để phòng vệ. Khi công cuộc công nghiệp hoá tại Ấn Độ bắt đầu, chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc đang trỗi dậy đã khiến các nhà văn hoá và hoạch định chính sách chú ý hơn đến việc sử dụng và bảo tồn các ngôn ngữ Ấn Độ. Về mặt lý thuyết, trong toàn cầu hoá các dân tộc đã thoát khỏi ách đô hộ của chủ nghĩa thực dân và khơi dậy niềm khao khát bảo tồn bản sắc văn hoá của mình qua ngôn ngữ. Tuy nhiên, trong dòng chảy của toàn cầu hoá, hầu như tất cả các phương ngữ tại Ấn Độ đều bị dồn vào ngõ cụt, không thể tự vệ được vì những rào cản bảo hộ đã biến mất. Giờ đây, làm thế nào để tự bảo vệ lãnh thổ và sự tồn tại đầy ý nghĩa của mình trong dòng thác toàn cầu hoá vô cùng mạnh mẽ chính là câu hỏi mà các dân tộc tại Ấn Độ phải cân nhắc và tìm ra câu trả lời trong tương lai gần.
Dù tiêu cực hay tích cực, ảnh hưởng của toàn cầu hoá đối với các ngôn ngữ trên thế giới nói chung, tại Ấn Độ nói riêng không giống nhau. Nó rất đa dạng và phức tạp. Một vài ngôn ngữ nhận được nhiều từ sự toàn cầu hoá hơn là các ngôn ngữ khác; một số ngôn ngữ có thể chẳng nhận được lợi ích gì mà có khi lại là sự thiệt hại và huỷ diệt. Các phưong tiện thông tin đại chúng chắc chắn là có lợi cho sự hiểu biết và tri thức chung nhưng đối với những ngôn ngữ nhỏ, đó có thể là mối đe doạ cho sự tồn tại của chúng. Các ngành công nghiệp đang cố gắng sử dụng các phương ngữ Ấn Độ sẽ nhanh chóng từ bỏ nỗ lực của mình khi họ không cảm thấy điều đó là cần thiết mà có thể, chỉ mang lại phiền toái, sự cô lập và ly khai.
Tiếng Anh là ngôn ngữ thống trị trên Internet, được coi là ngôn ngữ của điều khiển từ xa và ngôn ngữ của toàn cầu hoá. Tất cả các ngôn ngữ khác, không kể đến vị trí và vai trò của chúng tại quê hương bản quán có thể sẽ trở thành ngôn ngữ mang tính địa phương trong thế giới toàn cầu hoá đó. Sự đa dạng và bản sắc của các ngôn ngữ giờ đây cũng đang phải chịu thách thức lớn ở phạm vi quốc tế.
Sự đáp lời của các ngôn ngữ tại Ấn Độ đối với quá trình toàn cầu hoá sẽ như thế nào? Cùng với những cải cách kinh tế, liệu người Ấn Độ có cần những cải cách về ngôn ngữ không? Liệu họ có phải xem lại vị trí và cấu trúc của các loại ngôn ngữ Ấn Độ không? Trong một xã hội số hoá dựa trên nền kinh tế tri thức như Ấn Độ ngày nay, tất cả các ngôn ngữ Ấn Độ đều đang ở trong sự thách thức lớn lao nếu chúng không được các nhà hoạch định chính sách quan tâm và có những chiến lược đúng đắn. Khó có thể có được một hành lang an toàn cho các ngôn ngữ Ấn Độ trong quá trình tự do hoá kinh tế, tư nhân hoá hay toàn cầu hoá vì chúng ta hiểu rõ rằng toàn cầu hoá có nghĩa là mở rộng và tăng cường sự bất bình đẳng giữa các ngôn ngữ cũng như mọi lĩnh vực khác.
Ấn Độ là một đất nước đa ngôn ngữ và đa dạng về mọi lĩnh vực, đó chính là nét đặc sắc cũng như điểm lôi cuốn của nền văn hoá Ấn Độ. Chắc chắn rằng người Ấn Độ sẽ gắng tìm ra cách để bảo tồn nét văn hoá tuyệt vời đó. Họ đã và đang xem xét về các ngôn ngữ Ấn Độ dưới ánh sáng của những vấn đề toàn cầu và một môi trường quốc tế mới


1 Theo The Asian Age, 12/01/2000, Banglore.
2 UNESCO, Globalization and Governance in the UN System, htt://www.unesco.org/most.
3 E- cyclopedia, Globalization: What on Erath is it about? BBC News, Special report, 2/1999.
4 Manu, Shroff, Globalization: A Stock-taking, Economic and Political Weekly, 02/ 10/1999.
5 Ninan Koshy (ed.), Globalization- The Imperial Thrust of Modernity, Vikas Adyayana Kendra, Mumbai, 2002.
6 Report of the University Education Commision, 11/1948, New Delhi.
7 Information Today and Tomorrow, Vol.21, 3/2002.
8 1990 (1), SCR 588.
9 The Asian Age, 12/ 01/ 2000, Banglore.
10The Times of India, 7/ 10/2002, New Delhi.
11 National Conference of Indian Languages, 12/2004, New Delhi.
12 MAIT’s Report by Sandeep Diksit, in The Hindu, 2/2002.
13 MAIT’s Report by Sandeep Diksit, in The Hindu, 2/2002.\

3. Những chuyển biến căn bản trong cơ cấu giai tầng xã hội Ấn Độ dưới tác động của thực dân Anh (nửa cuối thế kỷ XIX - nửa đầu XX)
ThS. Nguyễn Thị Hương Giang - Trường ĐHKHXH&NV, ĐHQGHN
Nền tảng xã hội Ấn Độ được hình thành và hun đúc theo chiều dài lịch sử hàng ngàn năm với những đặc điểm riêng phong phú của nó qua từng thời kỳ.
Nếu cơ cấu xã hội Ấn Độ suốt thời cổ – trung đại còn tương đối khép mình trong công xã nông thôn thì thời kỳ cuối Mughal tới đầu thế kỷ XX lại chứng kiến sự chuyển biến nhanh mạnh chưa từng thấy của toàn bộ cơ cấu ấy trước sự công phá của thực dân phương Tây nói chung, của thực dân Anh nói riêng. Trên cơ sở phá vỡ nền kinh tế cổ truyền Ấn Độ, chủ nghĩa tư bản nước ngoài với đại diện là nền đô hộ Anh đã làm biến đổi căn bản hệ thống đẳng cấp, đưa đến những nhân tố mới thúc đẩy sự chuyển mình của các giai cấp cũ cùng sự nảy mầm của các giai cấp mới hiện đại. Biểu hiện cụ thể của quá trình vận động trước điều kiện chính trị - kinh tế mới ấy là sự phân hóa của các giai cấp cũ ở nông thôn (với đại diện là giai cấp quý tộc phong kiến và lực lượng nông dân công xã) và sự xuất hiện một số giai cấp mới – biểu trưng của xã hội hiện đại (đại diện là giai cấp tư sản, công nhân và trí thức tiểu tư sản), từ đó, góp phần thúc đẩy quá trình phát triển của xã hội Ấn Độ nói chung sau ngày độc lập.
Như những quốc gia có chiều dài lịch sử văn hóa lâu đời khác trên thế giới, nền tảng xã hội Ấn Độ được hình thành và hun đúc qua hàng ngàn năm với những đặc điểm phong phú của nó qua từng thời kỳ lịch sử. Nếu công xã nông thôn đã từng vỗ về xã hội Ấn Độ cổ trung đại khép mình trong trạng thái tương đối tĩnh lặng thì luồng gió xâm nhập của thực dân phương Tây lại bật tung cánh cửa khép kín ấy và trao cho nó một sắc diện mới. Nói cách khác, quá trình xâm lược và thống trị của thực dân phương Tây, mà cụ thể ở đây là thực dân Anh đã làm rung chuyển tới tận gốc rễ toàn bộ cơ tầng xã hội Ấn Độ, đưa đến những nhân tố mới thúc đẩy sự chuyển mình của các giai cấp cũ cùng sự nảy mầm của các giai cấp mới hiện đại. Trong phạm vi bài viết nhỏ này, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu những chuyển biến chủ yếu trong cơ cấu giai tầng xã hội Ấn Độ dưới tác động của “cuộc cách mạng xã hội”mà nước Anh mang lại sau hơn hai thế kỷ chinh phục và thống trị xứ sở này.
1. Ấn Độ trước ngưỡng cửa xâm nhập của văn minh phương Tây
Ngày 21-5-1498 chứng kiến một trong những sự kiện vô cùng quan trọng trong lịch sử Ấn Độ: Vasco da Gama cùng hạm đội của ông cập bến tại Calicut (một thành phố cảng nằm ở Tây Nam Ấn). Đây là sự kiện quan trọng bởi nó không chỉ đánh dấu bước chân xâm lược đầu tiên của thực dân Bồ Đào Nha hay của thực dân phương Tây nói chung trên đất Ấn mà còn đưa tới một hệ quả tất yếu là sự chuyển mình mạnh mẽ trong cơ cấu kinh tế - xã hội Ấn Độ trong nhiều thế kỷ sau đó.
Vào buổi đầu đi chinh phục, những người châu Âu thế kỷ XVI - khao khát thị trường thương mại - đã bị hấp dẫn bởi những giấc mơ về xứ sở Ấn Độ giàu có với nguồn hương liệu và tơ lụa dồi dào, phong phú. Khi lợi nhuận buôn bán ngày càng lớn, họ không còn chịu dừng ở việc đặt thương điếm và lập các vùng đất thực dân mà tiến lên chinh phục và thiết lập nền thống trị đế quốc trên khắp xứ sở này. Song, trong quá trình cạnh tranh giành ngôi vị thống trị miền đất giàu có, chỉ có một kẻ chiến thắng duy nhất - đó là thực dân Anh.
Năm 1757, sau khi chính thức hất cẳng người Pháp và chinh phục được phần lớn lãnh thổ Ấn Độ, công ty Đông Ấn Anh – chính quyền Anh “trong bộ mặt thương nhân” (9, tr.79) một mặt hoàn tất quá trình xâm chiếm, mặt khác bắt tay cấy mầm cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trên miền đất vốn bị thuần hóa bởi phương thức sản xuất phong kiến trong nhiều thế kỷ. Chính sự du nhập của phương thức sản xuất mới này đã thu hẹp và phá vỡ dần các quan hệ sản xuất phong kiến và tiền tư bản, đồng thời, kích thích sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản dân tộc tại Ấn Độ. Điều đó đã trở thành nhân tố quyết định xu hướng phát triển của xã hội Ấn Độ trong gần ba thế kỷ.
2. Những chuyển biến trong cơ cấu xã hội Ấn Độ dưới tác động của thực dân Anh
Rõ ràng, nền kinh tế cổ truyền Ấn Độ đã bị chủ nghĩa tư bản nước ngoài mà đại diện là nền đô hộ Anh tấn công tiêu diệt tận nền móng. Do đó mà cuộc xâm lược của Anh khác tất cả mọi cuộc xâm lược trước đây. Thật vậy, những kẻ xâm lược nước ngoài trước đây không động chạm gì đến cơ sở kinh tế và cuối cùng thích ứng với cơ cấu của nó, còn cuộc xâm lược của Anh thì phá vỡ cơ sở đó và là một lực lượng bên ngoài tác động từ bên ngoài và mang khoản cống nạp thu được ra ngoài... (7, tr.19) Nhưng khách quan mà nói, một số chính sách kinh tế - xã hội của thực dân Anh lại vô hình trung mang đến hệ quả tích cực, đặc biệt từ nửa cuối thế kỷ XIX (từ sau Khởi nghĩa 1857) - khi mà các giai cấp cũ ở nông thôn vận động và thích nghi với điều kiện kinh tế mới thì một số giai cấp mới - biểu trưng của xã hội hiện đại đã từng bước ra đời và phát triển. Nói cách khác, sự xuất hiện các giai tầng xã hội mới ở Ấn Độ là quả chín của quá trình hình thành nền kinh tế xã hội mới, nền giáo dục mới cũng như một thiết chế chính trị mới với guồng máy hành chính tương ứng thời thuộc địa.
2.1. Sự chuyển mình của các lực lượng xã hội cũ ở nông thôn
Tuy Ấn Độ đã có bước chuyển cơ bản từ cơ cấu kinh tế xã hội phong kiến thời trung cổ sang nền tảng tư bản hiện đại song dưới tác động của nền thống trị thực dân, những biến đổi ấy không thể sâu sắc và mạnh mẽ như đã từng diễn ra ở các nước như Anh, Pháp, Mỹ... Hiển nhiên, với nền kinh tế thuộc địa phát triển còn lệch lạc, cộng thêm những tàn dư kinh tế thời phong kiến, xã hội Ấn Độ từ nửa sau thế kỷ XVIII còn mang đậm dấu ấn của một xã hội nông nghiệp lạc hậu, trong đó, các quan hệ đẳng cấp và quan hệ phong kiến vẫn tồn tại dai dẳng và có xu hướng chi phối sự phát triển chung của xã hội Ấn Độ hơn là những yếu tố xã hội tư bản mới du nhập.
(Ảnh chỉ mang tính minh họa)

Do vậy, chuyển biến này được biểu hiện từng bước qua quá trình hình thành các giai cấp mới ở thành thị trên nền tảng các giai tầng cũ ở nông thôn tiếp tục tồn tại và tích hợp thêm cho mình một số nhân tố mới. Chẳng hạn, tầng lớp thợ thủ công tuy vẫn là lực lượng lao động nòng cốt ở làng xã Ấn Độ nhưng thay vì chỉ phục vụ đơn thuần cho nhu cầu của công xã như trước kia, nay lại thường xuyên mang hàng hóa của mình rao bán ngoài chợ. Ngay cả bộ phận thợ thủ công “cao cấp” mới chưa đầy nửa thế kỷ trước còn chuyên phục vụ cho giai cấp thống trị và cho cả giới thương nhân giàu có trong xã hội, nay cũng đã đưa các sản phẩm đặc biệt của họ ra thị trường kinh doanh... Tuy nhiên, về cách thức làm ăn và nhất là về cơ cấu tổ chức của tầng lớp này nói riêng và các lực lượng xã hội cũ nói chung vẫn được duy trì theo nền nếp truyền thống mà chưa có bước đột phá nào rõ nét.
Trong các lực lượng xã hội cũ ở Ấn Độ thời kỳ này có giai cấp quý tộc phong kiến là bộ phận duy trì được trọn vẹn địa vị và quyền lợi hơn cả. Bởi lẽ, đây chính là đội ngũ tay sai đắc lực phục vụ chính quyền thực dân trong các hoạt động chinh phục và cai trị Ấn Độ. Người Anh không chỉ ý thức được tầm quan trọng của giai cấp quý tộc trong việc điều hành xứ Ấn mà còn muốn khoét sâu thêm hố ngăn trong xã hội thuộc địa khổng lồ này. Vì thế, ngay khi hất cẳng xong người Pháp và chinh phục toàn bộ xứ Bengal, Công ty Đông Ấn - Anh vẫn giơ chiêu bài phò trợ triều đình Mughal đồng thời bảo hộ mọi quyền lợi của giới quý tộc Ấn Độ.
Điều đáng nói là chỉ có một bộ phận quý tộc phong kiến tiếp tục “bám đất” ở nông thôn còn lại một bộ phận khác đã vươn ra thành thị và phân hóa thành hai lực lượng: tư sản (là những đại quý tộc giàu có trước kia) và trí thức tiểu tư sản (là những quý tộc phá sản hoặc buôn bán nhỏ). Riêng lực lượng quý tộc phong kiến địa phương dưới sức ép của các quy định mới về ruộng đất (như “chế độZamindar vĩnh viễn”, “chế độ Zamindar tạm thời” và “chế độ Raiyotwari”... cũng buộc phải chuyển hóa thành tầng lớp địa chủ Zamindar kiểu mới. Như vậy, đa số các Zamindar đã trở thành người thu tô thuế cho chính quyền thực dân và hưởng phần trăm hoa hồng từ nguồn lợi béo bở ấy.
Trong khi đa số tầng lớp trên cùng chính quyền thực dân tiếp tục tận hưởng “thành quả” của công cuộc khai thác thuộc địa thì đại bộ phận tầng lớp dưới chịu cảnh cơ cực lầm than. Họ không chỉ bị vắt kiệt sức lao động và bóc lột đến cùng cực mà còn có một bộ phận bị tước đoạt ruộng đất - là thứ quý giá nhất đối với người nông dân. Dưới chế độ Zamindar vĩnh viễn ở miền Bắc và chế độ Zamindar tạm thời ở miền Trung, lực lượng nông dân công xã khi xưa nay đã trở thành tầng lớp tá điền chuyên cày cấy trên những thửa ruộng của các Zamindar. Họ có trách nhiệm nộp thuế và lao động choZamindar chứ không phải chịu trách nhiệm với chính quyền Anh.
Riêng ở miền Nam, dưới chế độ Raiyotwari, người nông dân tuy không phải nộp thuế cho tầng lớp trung gian là các Zamindar nhưng cũng không còn là lực lượng lao động chuyên phục vụ cho công xã như trước. Thay vào đó, họ trở thành đội ngũ tá điền mới - lao động và nộp thuế trực tiếp cho ông chủ thực dân. Về hình thức, bộ phận nông dân miền Nam Ấn được làm chủ ruộng đất của mình và chỉ có trách nhiệm thuế má với nhà nước nhưng thực tế cho thấy chế độ Raiyotwari cũng bóc lột người nông dân không kém chế độ Zamindar vĩnh viễn và tạm thời. Dưới tác động của chế độ thực dân, giai cấp nông dân công xã nói chung không chỉ phân hóa thành lực lượng tá điền cho Zamindar và lực lượng nông dân nhà nước mà sau khi bị tước đất còn có một bộ phận vươn ra thành phố kiếm sống. Ở đây, họ sớm tham gia vào đội ngũ công nhân nhà máy hoặc đứng ra làm ăn buôn bán nhỏ và từng bước góp phần hình thành hai lực lượng xã hội mới là công nhân và trí thức tiểu tư sản trong bức tranh chung của các giai cấp mới hiện đại.
2.2. Sự xuất hiện các lực lượng xã hội mới ở thành thị: giai cấp tư sản, vô sản và tiểu tư sản
Trước tiên, nói đến giai cấp tư sản Ấn Độ, người ta thường nghĩ đến giới thương nhân và những người cho vay lãi. Thực tế cho thấy, đại bộ phận tư sản Ấn Độ có nguồn gốc xuất thân từ cácZamindar (địa chủ), các Rajah (vương công), những người buôn bán và cả những người cho vay lãi...Sang giữa thế kỷ XIX, khi thực dân Anh từng bước thay đổi phương thức bóc lột thuộc địa thì thương nghiệp Ấn Độ càng có cơ hội mở mang phát triển. Một bộ phận người Ấn chuyển hẳn sang kinh doanh trong lĩnh vực công thương và không ngừng mở rộng thị trường ra bên ngoài. Trong giai đoạn đầu, với chức năng làm trung gian chủ yếu tiêu thụ hàng hóa Anh tới các thị trường lớn như Trung Quốc và Cận Đông, các nhà mại bản Ấn Độ đã thu về rất nhiều bài học kinh nghiệm để từ đó, tạo lập cho riêng mình một nền tảng nhất định, kết tinh bằng quá trình xây dựng thành công các nhà máy, xí nghiệp đầu tiên của giai cấp tư sản dân tộc.
Tuy nhiên, quá trình hình thành nền công nghiệp bản địa lại không phải là con đường bằng phẳng vì chính kẻ cầm cân nảy mực nền kinh tế Ấn Độ luôn chủ trương phát triển nó theo hướng phục vụ trực tiếp cho nền đại công nghiệp Anh đồng thời đưa nền công nghiệp non trẻ ấy đi theo hướng mất cân đối. Một mặt, nền công nghiệp Ấn Độ thời thuộc địa hoàn toàn vắng bóng các ngành công nghiệp chế tạo cơ khí, các ngành công nghiệp nặng, mặt khác ngay các ngành công nghiệp chế biến và công nghiệp nhẹ cũng không được xây dựng dàn trải mà chỉ tập trung ở một số rất ít vùng trọng điểm (trong đó Bombay là nơi có điều kiện thuận lợi hơn cả). Trên cơ sở đó, thực dân Anh không thể tự mình thâu tóm việc điều hành các nhà máy, xí nghiệp nên chúng buộc phải cho phép tầng lớp có thế lực ở địa phương được quyền làm chủ. Những nhà tư bản này từ chỗ là những nhà buôn hay những người cho vay nặng lãi ở Bombay đã vươn lên chớp thời cơ làm ăn với tư bản Anh và trở thành nhóm tư sản mại bản đầu tiên ở Ấn Độ.
Giống như lực lượng tư sản, lực lượng vô sản nhà máy Ấn Độ cũng phải trải qua biết bao thăng trầm để vươn lên khẳng định mình như một giai cấp mới độc lập và tiến bộ. Cùng với quá trình bần cùng hóa giai cấp nông dân dưới chế độ bóc lột thực dân phong kiến, giai cấp công nhân Ấn Độ đã sớm ra đời. Phần lớn trong số họ xuất thân từ tầng lớp nông dân. Bị dồn đến bước đường cùng cơ cực ở quê hương, họ bỏ lên thành phố, mong tìm được việc làm trong các nhà máy, xí nghiệp, đồn điền hay hầm mỏ của các ông chủ tư bản. Và khi các ông chủ thực dân tăng cường đầu tư vào Ấn Độ và bắt tay vào “công nghiệp hóa” thuộc địa này, thì nhu cầu tuyển mộ nhân công ngày càng nhiều, thu hút hơn nữa số nông dân mất đất bỏ quê ra đi. Từ đó, sản sinh ra đội ngũ những người vô sản nhà máy đầu tiên trên chính những miền đất gieo mầm xuất hiện giai cấp tư sản Ấn Độ.
Vào những năm 60 của thế kỷ XIX, khi số lượng nhà máy, xí nghiệp... ở các thành phố lớn gia tăng thì cũng là lúc những nhóm công nhân đầu tiên được hình thành, trước hết là ở hai thành phố Bombay vàCalcutta. Đến đầu những năm 90, tổng số công nhân trong các nhà máy lên tới 400.000 người, tập trung ở hai trung tâm chính: Bombay (118.000), Bengal (120.000), riêng Thủ phủ Madras có khoảng 24.000 người. Ngoài ra, còn có khoảng 700.000 - 800.000 công nhân trong các ngành mỏ và đường sắt... (1, tr.195) Song, dù đã lớn mạnh cả về số lượng và ý thức dân tộc nhưng tới đầu thế kỷ XX, đội ngũ công nhân Ấn Độ vẫn phải cam chịu một cuộc sống hết sức cơ cực. Xuất phát từ chỗ đời sống vật chất bấp bênh, đời sống tinh thần cạn kiệt như vậy mà lực lượng công nhân đã sớm trở thành giai cấp đi tiên phong trong phong trào giải phóng dân tộc sau này dưới ngọn cờ lãnh đạo của giai cấp tư sản Ấn Độ.
Bên cạnh hai giai cấp trên, còn một lực lượng mới cũng góp phần làm nên bước chuyển biến trong cơ cấu xã hội Ấn thời kỳ này, đồng thời trở thành đại diện tiêu biểu cho thế hệ trí thức Ấn Độ trước ngưỡng cửa văn minh hiện đại. Đó là tầng lớp trí thức tiểu tư sản Ấn Độ. Có thể nói, tầng lớp trí thức hiện đại ở Ấn Độ đã hình thành và phát triển trong nhiều thập niên trước khi xuất hiện nền công nghiệp hiện đại cùng với giai cấp tư sản công nghiệp. Trong số bộ phận tiểu tư sản xuất thân từ đội ngũ nông dân thoát ly lên thành phố làm ăn sinh sống, có những người chọn con đường buôn bán nhỏ góp phần hình thành nên tầng lớp thị dân tiểu tư sản. Ngoài ra, nhu cầu tuyển mộ một số nhân viên người bản địa phục vụ cho công việc cai trị buộc chính quyền thực dân không thể không mở trường đào tạo đội ngũ trí thức mới. Thậm chí, còn có một bộ phận giới quý tộc cấp tiến đã gửi con em mình sang học tập ở Anh trong thời gian vài năm. Từ đó, hình thành nên tầng lớp trí thức Tây học đầu tiên tại Ấn Độ. Họ là các luật gia, bác sĩ, kỹ sư, giáo viên, phóng viên hay nhân viên trong các công ty, công sở của người Anh... Họ vừa được trang bị vốn kiến thức hiện đại vừa được hấp thu nền văn hóa phương Tây với những tư tưởng tự do, tiến bộ đồng thời lại luôn gìn giữ trong mình những mạch chảy của truyền thống dân tộc. Vì thế, dù còn ít ỏi về số lượng nhưng họ đã trở thành tầng lớp xã hội vô cùng quan trọng, là bộ phận đi đầu trong các cuộc vận động dân chủ từ giữa thế kỷ XIX ở Ấn Độ.
Như vậy, sự ra đời của các giai cấp mới đã làm thay đổi cơ bản tình hình chính trị xã hội Ấn Độ. Những giai cấp này không chỉ là lực lượng kinh tế nòng cốt trong xã hội Ấn Độ cận hiện đại mà còn là lực lượng đi đầu tiếp thu các tư tưởng tiến bộ và các trào lưu cách mạng từ các nước phương Tây. Bước sang thế kỷ XX, một chặng đường mới mở ra trước mắt các giai tầng xã hội mới cũng như các lực lượng xã hội cũ ở Ấn Độ và bài học chuyển mình thích ứng cùng vận hội mới dường như còn vẹn nguyên tính thời sự của nó. Từ đây, quá trình tồn tại hệ thống đẳng cấp ngàn đời song hành cùng quá trình hình thành và phát triển từng bước của các giai cấp mới đã làm nên bước chuyển biến cơ bản trong xã hội Ấn Độ thời kỳ thuộc Anh.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. A.R.Desai, Social background of Indian nationalism, Popular Prakashan, Bombay, 2002.
2. C.Mác và Ph.Ănghen toàn tập (tập II), Nxb Chính trị Sự thật, Hà Nội 1993.
3. Jawahalan Nehru, Phát hiện Ấn Độ (tập I), Nxb Văn học, Hà Nội, 1990.
4. Majumdar Raychaudhuri, An advanced History of India, Macmillan India Limited, Delhi, 1978.
5. M.N.Srinivas, Caste in Modern India and other essays, Media Promoters and Publishers, Bombay, 1962.
6. Ram Ahuja, Indian social system, Rawat Publication, Jaipur and New Delhi, 2002.
7. R.P.Dutt, Ấn Độ hôm nay và ngày mai, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1960.
8. S. Kumar, Modern India 1885 - 1947, Macmillan, Madras - Bombay - Delhi - Patna, 1985.
9. Vũ Dương Ninh (Chủ biên), Lịch sử Ấn Độ, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1995.


Chú thích
1 C.Mác, Diễn đàn New York hàng ngày, 25-6-1953