Thứ Bảy, 4 tháng 2, 2012

Tư liệu về Hàn Quốc

Tư liệu về Hàn Quốc
1. VUA SEJONG (1418-1450) VÀ SỰ SÁNG TẠO CHỮ HANGUL
                                                                 TS. Lê Đình Chỉnh
                                                               Khoa Đông Phương học
                                                               Trường Đại học KHXH và NV Hà Nội.             
                                                                              
             Trong lịch sử Hàn Quốc, chỉ có Sejong (Thế Tông 1418-1450) được người dân xứ Hàn cho là xứng đáng với danh hiệu “Đại đế”. Ông không chỉ là vị vua đức độ, anh minh, trị vì khôn ngoan và tài năng, mà dưới triều đại ông trị vì, vùng bán đảo Hàn đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ. Có thể thấy  trong lịch sử Hàn Quốc, ngoài triều đại của Vua Sejong, chưa có một triều đại nào lại có sức sáng tạo kỳ diệu và tạo ra nhiều thành tựu to lớn như vậy.
            Sejong sinh năm 1397, ông lên ngôi vua năm 21 tuổi (1418). Để chấn hưng đất nước, xây dựng một triều đại mạnh, sau khi nắm quyền điều hành đất nước, Vua Sejong đã thành lập Chiphyonjon(Tập Hiền điện) nhằm thu hút  nhân tài trong nước. Chính sách “chiêu hiền đãi sĩ” đúng đắn của Nhà vua đã nhanh chóng quy tụ được nhiều học giả nổi tiếng trong nước về Tập Hiền Điện để nghiên cứu và học tập, tập trung trí tuệ cùng hoàng gia trấn hưng đất nước. Do có sự quan tâm sâu sắc và sự hợp tác chặt chẽ giữa Nhà vua và các học giả trong Tập Hiền Điện mà  nhiều công trình văn hoá, khoa học, kĩ thuật dưới thời Vua Sejong đã ra đời.
            Dưới sự bảo trợ của Nhà vua, nhiều công trình khoa học đã được xuất  bản. Trong lĩnh vực pháp luật, đáng chú ý là bộ Chongjon (Chính Điển)  gồm 6 quyển. Đây là một công trình khoa học lớn do các học giả trong Tập Hiền Điện biên soạn nhằm tổ chức lại cơ cấu chính trị của triều đại Choson. Thông qua bộ luật này, quyền lực của Nhà vua không chỉ được đề cao mà bộ máy chính quyền từ trung ương đến các địa phương cũng sớm được củng cố. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng bộ luật, người ta có cảm giác rằng, vai trò của các học giả trong Tập Hiền Điện có ảnh hưởng lớn và thao túng đến quyền kiểm soát chính trị của triều đình Choson..
          Sử học cũng là lĩnh vực được bảo trợ. Với quan niệm, lịch sử là tấm gương, là khuôn mẫu của những bậc tiên vương đối với nhà cầm quyền hiện tại. Để noi gương các đời vua trước, công việc viết sử được Vua Sejong dành sự quan tâm khá đặc biệt. Vì vậy, nhiều cuốn sử nổi tiếng đã được xuất bản. Điển hình là bộ sử Triều Tiên Vương Triều Thực Lục( Choson wangjo sillok). Bộ sử này do nhiều sử gia trong Sử quán của hoàng gia biên soạn. Bản thảo của tác phẩm được bảo quản khá kĩ trong những kho đặc biệt và được cất ở 4 nơi như Seoul, Songju, Ch’ungju và Chonju. Ngoài bộ Thực Lục, Vua Sejong còn cho biên soạn bộ sử Quốc Triều Bảo Giám( Kukcho pogam) được trích từ  bộ Thực Lục để nêu gương của các bậc tiên vương và những lời khuyên giúp cho việc cai trị tốt đối với các đời vua sau.
Bên cạnh sử học, địa lý cũng là ngành khoa học quan trọng được vua Sejong dành sự quan tâm ngay từ đầu khi ông lên nắm quyền. Điển hình là cuốn Bát Đạo Địa Lý Chí ( P’alto chiri chi) biên soạn lần đầu tiên vào năm 1432 và sau đó đã được đưa vào bộ Thế Tông Thực Lục đã cung cấp những thông tin cần thiết  giúp cho việc cai trị đất nước. Nội dung của cuốn sách đề cập đến nhiều vấn đề quan trọng như lịch sử hình thành và phát triển, đặc điểm của từng địa phương trong cả nước, những vùng đất, dân cư, đường và bưu trạm, đồn trú quân, những nơi có đèn hiệu giao thông…Cũng trong năm 1432, vua Sejong còn cho biên soạn cuốn Tam  Cương Hạnh Thực( Tamgang h aengsil), nội dung phản ánh khá chân thực về đức tính trung, hiếu, nghĩa trong quan hệ vua- tôi, cha-con, chồng-vợ. Tác phẩm không chỉ là một công trình khoa học mang  đậm tính nhân văn, mà còn là bài học lớn về giá trị giáo dục, nền tảng của đạo đức nho giáo nhằm duy trì trật tự xã hội của Choson thời đó.
       Ngoài những lĩnh vực nêu trên, nhiều lĩnh vực khoa học khác dưới thời Vua Sejong cũng nhanh chóng phát triển và để lại nhiều thành tựu có giá trị. Trong lĩnh vực nông nghiệp, đáng chú ý là cuốn Nông Sự Trực Thuyết( Nongsa chiksol) biên soạn năm 1430, được coi là cẩm nang của nền nông nghiệp Triều Tiên lúc bấy giờ. Nội dung cuốn sách được Vua Sejong đề cập khá chi tiết về đặc điểm của mỗi tỉnh và trên cơ sở đó, ông cũng tổng kết, đánh giá những kinh nghiệm trong nông nghiệp và phổ biến cho nông dân các cách dự trữ giống, bón đất, cấy mạ… Tương tự, liên quan mật thiết đến nông nghiệp, thiên văn và khí tượng học cũng phát triển và đạt được nhiều thành tựu rực rỡ. Năm 1442, Hàn Quốc đã sáng chế ra máy đo lượng nước mưa, đi trước phát minh của phương Tây khoảng 2 thế kỷ. Cấu trúc của loại máy này khá đơn giản, “nó được làm bằng sắt gồm một cái trục khoảng 42,5cm  sâu và 17 cm đường kính và những mẫu bằng gốm”(1).Dụng cụ này được để tại trụ sở của mỗi hạt để đo và ghi lại lượng nước mưa một cách khá chính xác. Cũng trong thời gian này, Vua Sejong còn cho sáng chế ra phong kì trúc- một loại dụng cụ để  đo hướng gió và xác định khá chính xác độ mạnh của gió.  Năm 1434, tại Kyongbok (Cảnh Phúc Cung), một đài quan sát được dựng lên và bên trong là một dụng cụ thiên văn để quan sát bầu trời. Ngoài những sáng tạo trên, đồng hồ thiên văn, đồng hồ mặt trời, đồng hồ nước, bản đồ thiên văn, bản đồ địa hình cũng là những sáng tạo quan trọng trong thời gian Vua Sejong nắm quyền cai trị…Có thể thấy, những sáng tạo khoa học trên đây không chỉ đánh dấu sự tiến bộ vượt bậc về khoa học kỹ thuật của người Hàn quốc thời đó mà còn góp phần quan trọng vào kho tàng văn minh của nhân loại.
            Về y học, được Vua Sejong bảo trợ, tác phẩm Hương Dược Tập Thành Phương( Hyangyak chipsong pang) cũng được xuất bản vào năm 1433.  Tác phẩm không chỉ giúp Nhà nước Choson thiết lập một nền y học độc lập bằng những kinh nghiệm của người Triều Tiên  mà nội dung của nó còn đề cập đến việc chẩn đoán bệnh, bốc thuốc, và phân loại các chuyên khoa về y học. Tương tự, năm 1445, cuốn bách khoa từ điển y học Y Phương Loại Tụ (Uibang yuch’wi) cũng được xuất bản. Công trình chứa đựng  nguồn tài liệu phong phú, thuận tiện cho việc tập hợp và tra cứu về y, dược học.
            Vào thời gian này, nghề in ở Hàn Quốc cũng phát triển mạnh. Trước thời Sejong, kĩ thuật dùng con chữ bằng kim loại đã được áp dụng rộng rãi trong việc in sách. Đến năm 1403, Nhà nước cho thành lập một xưởng đúc chữ và con chữ bằng đồng đã ra đời gọi là chữ kyemy (Quý Mùi tự), đánh dấu  sự tiến bộ vượt bậc của nghề in trong lịch sử nhân loại. Tuy vậy, kỹ thuật in này vẫn còn nhiều hạn chế. Đến thời vua Sejong, việc in ấn được cải tiến lên một bước mới bằng cách các con chữ được đúc đều ăn khớp với các ô vuông trên tấm đồng và kỹ thuật này cho phép in được nhiều bản in liên tiếp, đồng thời cũng giúp cho công việc xếp chữ để in dễ dàng hơn.
            Lĩnh vực quân sự dưới thời vua Sejong cũng phát triển khá toàn diện, đặc biệt là kỹ thuật đúc và sử dụng súng thần công- một loại hoả lực mạnh thời đó. Cùng với sự phát triển của khoa học quân sự, chữ Hangul ra đời đã  sớm đưa vào sử dụng trong việc giới thiệu những biểu đồ kỹ thuật trong tác phẩm Cho’ngt’ong tungnok (Súng Đồng Đảm Lục) xuất bản năm 1948. Ngoài súng thần công, vào những năm sau đó(1451), người Hàn còn sáng chế ra hoả xa (xe đại bác), “sử dụng thuốc nổ châm lửa bằng ngòi, dùng để bắn hàng trăm tên lửa được đặt trên một cái giàn đỡ”(2) .
            Không chỉ là người bảo trợ cho các lĩnh vực khoa học kỹ thuật và văn học, Sejong còn là một vị vua có đầu óc thực tế và luôn quan tâm đến cuộc sống của thần dân như cải tổ chế độ thuế, giảm nhẹ thuế cho người dân. Năm 1444, Vua Sejong đã cho ban hành cống pháp( kongpop)- một chế độ thu thuế mới, nhờ đó, tỷ lệ thuế được giảm xuống còn 1 phần 20 (3).
            Tuy nhiên, trong tất cả những thành tựu được sáng tạo, thành tựu lớn nhất của Vua Sejong là việc sáng tạo ra chữ Hangul- bảng chữ cái tiếng Hàn. Sự ra đời của chữ Hangul không chỉ là kết quả của một quá trình vận động phát triển, sức sáng tạo văn hoá mạnh mẽ của dân tộc Hàn mà còn có ý nghĩa to lớn đánh dấu bước ngoặt mới trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội và văn hoá của cư dân trên toàn bán đảo. Xuất phát từ ý thức rằng dân tộc mình phải có một hệ thống chữ viết để biểu đạt ngôn ngữ hàng ngày và đặc biệt là sự suy nghĩ của Nhà vua mong muốn cho toàn bộ thần dân có thể học và đọc loại chữ này một cách dễ dàng. ý tưởng đó đã thúc đẩy Vua Sejong sáng chế ra chữ Hangul. Đầu tiên được gọi là Huấn dân chính âm( hunmin- chongum) hay âm đúng để dậy dân. Bảng chữ cái Hangul ban đầu bao gồm 28 con chữ (ngày nay còn 24 chữ, trong đó có 10 nguyên âm và 14 phụ âm).
             Như vậy, về mặt thời gian, chữ Hangul được ra đời vào năm 1443 và đến năm 1446 nó chính thức được ban hành. Theo nhận xét của Giáo sư Lê Quang Thiêm, chữ Hangul là “hệ thống văn tự ghi âm-chữ viết ngữ âm học- có khả năng ghi âm, phiên âm bất kỳ một loại âm nào.  Có lời chào đón, ca ngợi của một số nhà ngôn ngữ học, cho rằng nó là một hệ thống chữ viết khoa học nhất trên thế giới. Ưu điiểm nổi bật là nó cực kì đơn  giản và dễ đọc”(4). Khi chữ Hangul được chính thức công bố, Vua Sejong đã viết lời nói đầu và ông giải thích động cơ thúc đẩy ông sáng tạo ra hệ thống chữ viết này. Lời tựa cho phần dẫn giải có đoạn: “ Giọng nói của ngôn ngữ chúng ta khác với giọng nói của Trung Quốc và không mấy dễ dàng được viết ra theo Hán tự. Do đó, mặc dù một số người trong số các thần dân ít học của chúng ta mong muốn diễn tả ý nghĩ của mình, trong nhiều trường hợp người này vẫn không diễn tả được. Nghĩ tới những người dân ấy, người dân của trẫm, với lòng cảm thông, trẫm đã sáng chế ra cách ghi của 28 chữ cái, chỉ mong sao mọi người đều có thể học được một cách dễ dàng và sử dụng cho lợi ích của cuộc sống thường ngày của họ”(5).
            Cũng cần thấy rằng, trong hoàng gia lúc đó, một bộ phận quan lại vốn là những quý tộc yangban đã không những không hưởng ứng ý tưởng của Vua Sejong trong việc chế tạo ra chữ hangul mà còn có nhiều ý kiến chống đối ông. Thời điểm đó, giai cấp thống trị yangban cho rằng họ cần phải bảo vệ sự độc quyền của họ trong học vấn bằng cách tiếp tục sử dụng hệ thống chữ Hán. Tuy nhiên, vượt qua những trở ngại trên, Vua Sejong đã cương quyết đẩy mạnh sự phát triển bảng chữ cái Hangul. Tranh thủ sự giúp đỡ của các học giả trong Tập Hiền  Điện như Song sam-mun( Thành Tam Vấn), Chong In-Ji( Trịnh Lân Chỉ), Sin Suk –chu (Thân Thúc Chu)…,Vua Sejong đã sáng chế ra bảng chữ cái Hangul. Có thể thấy, đây không chỉ là một sự sáng tạo độc đáo trong khoa học, mà còn là thành tựu văn hoá tự hào nhất của dân tộc Hàn. Về cấu trúc, chữ Hangul là một hệ thống các kí hiệu dựa trên biểu tượng của trời, đất, con người và các cơ quan  phát âm như lưỡi, môi răng, cổ họng… Với hệ thống chữ cái này, người Hàn có thể “ghi lại tất cả các âm tiếng Hàn một cách đầy đủ và đơn giản nhất từ trước đến nay”(6). Trong lời giải trình của Chongji Inji- vốn là một phụ tá thân cận của Nhà vua trong sáng tạo chữ viết, ông đã giải thích rằng với hệ thống chữ viết này “một người thông minh có thể học thuộc lòng trong một buổi sáng, còn như người tối dạ thì cũng chỉ mất mười ngày”(7). Sự ra đời của bảng chữ cái tiếng Hangul đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong lịch sử của dân tộc Hàn. Từ đây, ngưới Hàn Quốc có thể ghi lại tiếng mẹ đẻ bằng hệ thông chữ viết của mình.
            Sau khi công bố bảng chữ tiếng Hangul, Vua Sejong cho thành lập Chính Âm Sảnh hay còn gọi là Ngạn Văn Sảnh (cơ quan ấn loát chữ Hangul). Tiếp đó, Nhà vua đã cho xuất bản một số công trình lớn như Yongbi o ch’on ka( Long Phi ngự thiên ca), ca ngợi công đức tổ tiên của Nhà vua; Worin Ch’on’ gang chi kok (Nguyệt ấn thiên giang chi khúc) nhằm ca ngợi ánh trăng chiếu trên ngàn sông; Sokpo sangjok( Thích phổ tường tiết) đề cập đến cuộc đời Đức Phật.  Sau đó, đến thời Vua Sejo (Thế tổ, con của Vua Sejong), để quản lí việc xuất bản kinh Phật, Vua Sejo đã cho thành lập Khan Kinh Đô Giám. Nhiều kinh phật đã được cơ quan này dịch ra tiếng Hangul. Tuy nhiên, trong thời gian này, việc sử dụng tiếng Hangul  còn nhiều hạn chế, nhiều công trình có tầm quan trọng của nhà nước vẫn được biên soạn bằng tiếng Hán.
            Tóm lại, việc sáng tạo ra hệ thống chữ viết Hangul là một thành tựu văn hoá lớn của dân tộc Hàn trong nửa đầu thế kỷ XV. Tuy nhiên, do những điều kiện lịch sử khác nhau, những thế kỉ tiếp đó, chữ Hán vẫn chiếm vị trí chủ yếu trong đời sống xã hội vùng bán đảo Hàn. Và cùng với thời gian, đến thế kỉ XIX; XX, chữ Hangul đã trở thành văn tự chính thức của nhân trên toàn bán đảo.
Trong thời kì Nhật Bản cai trị( 1910-1945), việc sử dụng chữ Hangul đã bị gián đoạn. Sau năm 1945, chữ Hangul được sử dụng trở lại. Để kỷ niệm ngày Vua Sejong ban hành chính thức chữ Hangul năm 1446, ngày nay, người Hàn Quốc đã chọn ngày 9/10 làm ngày kỉ niệm. Chữ viết Hangul không chỉ là một sáng tạo khoa học vĩ đại, mà còn là một phương tiện giao tiếp, truyền bá và bảo tồn những giá trị văn hoá truyền thống và hiện đại của người Hàn Quốc.
            Cũng như nhiều ngôn ngữ khác trên thế giới, tiếng Hàn ngày nay là một trong 20 ngôn ngữ có mặt ở nhiều quốc gia trên thế giới. Theo thống kê cho thấy có khoảng gần 80 triệu người nói tiếng Hàn bao gồm khoảng 25 triệu người ở Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên, 48 triệu ở Hàn Quốc, 1,9 triệu ở Trung Quốc, và nhiều người thuộc nhiều quốc gia khác như Nhật Bản, Nga, Mỹ, Canada,… Hangul (chữ viết vĩ đại) không chỉ là tài sản vô giá của người dân xứ Hàn mà còn là niềm tự hào của mọi thế hệ cư dân Hàn Quốc trong lịch sử và hiện tại.
           
            TÀI LIỆU THAM KHẢO
  1. Ki baik Lee; Korea xưa và nay- Lịch sử Hàn Quốc tân biên; Nxb Tp Hồ Chí Minh 2002. tr: 278
  2. Ki baik Lee; Korea xưa và nay- Lịch sử Hàn Quốc tân biên; Sđd; tr 280.
  3. Ki baik Lee; Korea xưa và nay- Lịch sử Hàn Quốc tân biên; Sđd; tr 262.
  4. Lê Quang Thiêm; Văn hoá văn minh và yếu tố văn hoá truyền thống Hàn; Nxb Văn học;Hà nội 1998; tr 248
  5. Ki baik Lee; Korea xưa và nay- Lịch sử Hàn Quốc tân biên; Sđd; tr 273-274.
  6. Nguyễn Long Châu : Tìm hiểu văn hoá Hàn Quốc; Nxb Giáo dục; Tr 311.
  7. Lê Quang Thiêm; Văn hoá văn minh và yếu tố văn hoá truyền thống Hàn; Nxb Văn học; Hà nội 1998; tr 251
2. VỀ SỰ SÁNG TẠO CHỮ VIẾT HANGUL HUẤN DÂN CHÍNH ÂM VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG PHÁT TRIỂN
 VĂN HOÁ GIÁO DỤC KOREA
(Báo cáo đề dẫn)
                                                                                    GS.TS Lê Quang Thiêm

1. Hôm nay là ngày 7/10, còn hai hôm nữa là 9/10/2006 là ngày kỷ niệm tròn 560 năm ngày công bố chữ viết Hangul và Hummin Chongum (huấn dân chính âm) của Korea.
            Việc ra đời chữ viết Hangul (chữ viết Hàn ngày nay) và công bố Huấn dân chính âm được coi là sự kiện văn tự, ngôn ngữ, văn hoá lớn của nhân dân Korea. Sự sáng tạo hệ thống chữ viết Hangul và việc công bố sử dụng rộng rãi trong nhân dân không chỉ là một sự kiện ngôn ngữ văn tự mà là một sự kiện của giáo dục văn hoá văn minh. Bởi vì với hệ thống văn tự độc đáo và triết lý sáng tạo nó được giải thích và quán triệt đã góp phần to lớn vào việc phát triển văn hoá, giáo dục ý thức và lòng tự hào dân tộc của Korea từ giữa thế kỷ 15 cho đến ngày nay và tương lai.
            2. Cũng như nhiều ngôn ngữ của các dân tộc khác ở vùng đông á, trong một thời gian dài hàng chục thế kỷ tiến Hàn không có chữ viết. Mọi hình thức giao tiếp đều thực hiện bằng tiếng nói. Một ngôn ngữ mà chưa có chữ viết là thiếu đi một tiêu chí của xã hội văn minh đó là theo các Mác và Ph Ănghen xác định phôi bách sự đối lập giữa quan điểm dung vật và dung tâm chủ nghĩa trong hệ tư tưởng Đức. Và ngôn ngữ đó cũng không thể thực hiện đầy đủ các chức năng quan trọng và đa dạng của nó thời bấy giờ Korea như chức năng công cụ quan trọng của giao tiếp tư duy lưu giữ tàng trữ thông tin, chức năng thi pháp sáng tạo văn hoá thành văn cũng như Việt Nam và Nhật Bản phải mượn chữ Hán dùng tiếng Hán như ngôn ngữ chính thức của các nhà nước dân tộc. Vào giữa thế kỷ thứ 8 dưới triều Shila người Hán mà đại diện là Solchong đã sáng tạo ra một loại chữ viết cho tiếng Hán gọi là I du tương tự như chữ Nôm ở ta. Chữ I du cấu tạo theo phương thức tượng hình như chữ Hán và được đánh giá là “ tầm thường, quê mùa” vì nó đã dùng chữ viết không khác gì chữ Hán và xa xỉ đối với chúng ta (tức đối với người Hàn lời phê phán của Choc Malli). Chính vì vậy mà sự ra đời cả chữ viết Hangul và huấn dân chí nhâm được đánh  giá là một sự sáng tạo dân tộc độc đáo có ý nghĩa to lớn.
            3. Bối cảnh ra đời của chữ viết Hangul là vào thế kỷ 15 thuộc đời vua thứ 4 của triều đại hậu Chosony triều đại mà xã hội phong kiến Korea đạt đến đỉnh cao của sự phát triển (như triều hậu Lê của ta cùng thời). Dưới triều đại này nhân dân Korea đã có nhiều thành tựu sáng tạo to lớn trong các ngành khoa học như; địa lý, lịch sử, thiên văn, âm nhạc, ngôn ngữ, pháp luật…Nhiều tác phẩm đã trở thành cổ điển  do viện danh nhân hay còn gọi viện tập hiền tổ chức biên soạn trước tác mà vua Sejong (1418  -1450 ) là người đứng đầu trong đó (giống như Lê Thánh Tông ở nước ta với Tao đàn nhị thập bát tứ. Để có cơ sở khoa học và thực tiễn cho sự sáng tạo nhà vua đã cho các nhóm học gửi qua Trung Quốc và các vương quốc lân bang nghiên cứu, một số khác đi điều tra ở các địa phương. Sưu tập các con triện phân tích vẽ trên các dấu triện con triện cá nhân để vẽ thử, viết thử các dạng nét chữ viết, tìm cách tổ hợp kết hợp nết chữ theo lối Modul hoá tạo thành hệ thống chữ viết Hangul. Vua Sejong là người cha từ trong cả quá trình này. Cuối cùng vào năm 1443, 1444 và đến 1446 thì chính thức công bố Hangul cùng với huấn dân chính âm, tạm hiểu như là âm chính xác để truyền thụ giáo húân cho dân, giải thích hướng dẫn cách thức, nguyên lý sáng tạo hệ thống chữ viết mới mà nhân dân cần thấu hiểu và dùng theo.
            4. Phải nói rằng việc sáng tạo chữ viết Hangul và công bố Huấn dân chính âm là một việc làm có ý nghĩa khoa học độc đáo ý nghĩa văn hoá to lớn. ý nghĩa khoa học nổi bật ở chỗ: Một là vào thời bây giờ việc tiếp xúc Đông Tây còn hạn chế các nước đông á chịu ảnh hưởng nặng nề từ tiếng Hán, chữ Hán tượng hình mà nguyên tắc sáng tạo chữ Hangul lại làm theo lối ghi âm gần gũi với nguyên tắc sáng tạo chữ La Tinh, chữ viết Slavơ (Kirin Mêphôđi) của phương tây. Hai là cách thức tổ hợp nét chữ, nguyên tắc hợp tố được thể hiện rõ theo lối phát sinh (ít kết hợp lại thành nhiều đơn thành phức) cộng với phương thức modul hoá (lắp ghép theo khối) để thành âm tiết, các âm phức. Ba là cách sắp xếp bài trí lại theo lối đồ hình chứ không hoàn toàn hình tuyến gây ấn tượng, tạo hình khối đẹp, cân đối trong tổ hợp nét chữ. Cách sắp xếp bài trí này có ý nghĩa kiến trúc đẹp trong hình tượng, lợi thế cho bài trí, quảng cáo, tạo điều kiện cho nghệ thuật thi pháp như chữ Hán và điều này làm cho một số nhà ngôn ngữ học chưa biết hệ thống chữ viết này lầm tưởng rằng đây là hệ thống chữ viết tượng hình. Có thể nói ý tưởng kết hợp truyền thống với đổi mới, sáng tạo chọn nguyên tắc gần gũi với nguyên tắc sáng tạo chữ viết phương Tây kết hợp với nết đông á thật rõ nét.
            5. Đặc điểm ưu việt và có ý nghĩa văn hoá to lớn là ở động cơ và ý thức sáng tạo của Sejong và nhóm quần thần. Nhà vua quan niệm rằng việc mượn dùng chữ Hán là cần thiết, nhưng có nhiều khó khăn và hạn chế đối với người dân. Vậy cần thiết sáng tạo ra một hệ thống chữ viết dân tộc ghi lại chính xác tiếng nói của nhân dân dễ đọc, dễ nhớ. Trong huấn dân chính âm có đoạn viết: "Có khí hậu và đất đai trong 4 phương trời là khác nhau. Những lực lượng vật chất cũng như lời nói cũng không giống nhau. Ngôn ngữ của các dân tộc khác nhau có cách phát âm riêng nhưng lại thiếu chữ viết nên ta mượn chữ Hán để thực hiện sai cần thiết nói trên. Tuy vậy đó là một cố gắng khó khăn như ta phải đánh bàn tay xuyên qua một lỗ tròn hẹp vậy. Chính vì lẽ đó mà điều quan trọng dân tộc ta phải theo thực tiễn phát âm của thần dân mà làm ra chữ viết riêng dễ học, dễ nhớ. "Lúc bấy giờ có nhiều học giả uyên thâm Hán học không tán thành việc sáng tạo ra Hangul thì Sejong quả quyết rằng việc khó khăn và có ý nghĩa líư mà ta không làm thì ai làm". Vào dịp công bố chính thức chữ viết Hangul vua có lời nói đầu giải thích động cơ ông làm vịêc này và một  phụ tá là Chong Jint viết lời giải trình giải thích quá trình sáng tạo hệ thống chữ viết, thuyết phục những người phản đối khuyến dụ nhân dân học theo. Có thể nhận thấy vào thời bấy giờ mà có vị vua có ý thức dân tộc, khoa học và nghĩ về dân như vậy thì thật đáng nể trọng và tôn vinh xứng đáng.
            6. ý nghĩa khoa học độc đáo và văn hoá to lớn của Hangul và huấn dân chí thâm còn thể hiện ở triết lý sáng tạo sâu sắc. Hệ thống bảng chữ công bố đầu tiên là 27 con chữ (nay dùng 24) bao gồm 7 ký hiệu ghi nguyên âm, 17 ký hiệu ghi phụ âm và 4 ký hiệu phụ. Con số gần ba chục con chữ này dùng để ghi toàn bộ hệ thống (nguyên âm, phụ âm) lại được tổ hợp chỉ từ một số nét chữ gốc ít hơn, đơn giản hơn mà các nét chữ này lại được liên hội biểu trưng hoá từ cơ sở thực tiễn và triết lý triết học mang màu sắc phương Đông. Những ký hiệu gốc một bộ phận mô phỏng tượng trưng cho cơ quan bộ máy phát âm và phương thức cấu âm ví như các nét chữ ghi phụ âm. Trong phụ âm lại phân biệt âm đầu và phụ âm cuối trong âm triết. Các nét chữ phụ âm này này lại liên kết tổ hợp để tạo ra ký hiệu phụ âm phức. Sự kết hợp, tổ hợp với nét gốc phụ âm được liên hội, giải thích theo triết lý thái cực và âm dương ngũ hành trong chu dịch. Ba ký hiệu gốc nguyên âm chỉ là 3 nét chữ đơn giản, tạm gọi là 3 nét chấm (.) ngang (-) sổ (½). Ba nét gốc lại có thể tổ hợp theo một số cách (phái sinh) để tạo thành các chữ nguyên âm phức. Ba nét gốc được liên hội giải thích theo thuyết tam tài, thiên địa chất hợp nhất. Có thể nhận thấy rằng những hình dung giải thích biểu trưng hoá gắn với nguyên lý triết học và thực tiễn trong Hangul và huấn dân chính âm thật thâm huý sâu sắc. Nhìn nhận toàn bộ sáng tạo có thể rút ra nhiều hệ luận, nhưng theo tôi có một sợi chỉ đỏ quán xuyến mà ta có thể thấy là: Sejong và cac tác giả sáng tạo đã làm ra một công cụ hữu hiệu (chữ viết) để ghi lại thứ tài sản  vô cùng quý giá của dân tộc (là ngôn ngữ) và dùng nó như một công cụ  có hiệu lực vô song để thống nhất phát triển cố định văn hoá, văn minh dân tộc với bản lĩnh bản sắc riêng với động cơ ság tạo và triết lý sáng tạo vô cùng sâu sắc. Giá trị sáng tạo của Han gul và huấn dân chính âm thật xứng đáng để tổ chức văn hoá giáo dục của LHQ (UNESCO) lập ra giải thưởng vua Sejong (1989) và công nhận là di sản tư liệu văn tự thế giới. (Memong of the world 1997)
            7. Chữ viết Hangul ra đời đã đóng một vai trò to lớn trong phát triển giáo dục và văn hoá dân tộc Hàn. Cũng giống như chữ nôm ở nước ta một thời rồi chữ quốc ngữ tiếp theo chữ viết Hangul ở xứ Hàn cũng nhiều lúc bị lâm vào hoàn cảnh thăng trầm, coi nhẹ. Do ảnh hưởng của chữ Hán và văn hoá Hán còn mạnh, nên một số triều đại về sau ít dùng ít đề cao chữ viết dân tộc. Đặc biệt dưới thời kỳ bị đô hộ bởi thế lực nước ngoài thì nó bị cấm dùng cấm học tập, truyền bá. Tuy nhiên như một giá trị sáng tạo có cội rễ từ bản sắc dân tộc chữ viết Hangul và quan điểm tiến bộ của huấn dân chính âm vẫn sống vẫn phát huy chống lại thành công mọi ảnh hưởng dù là cường quốc văn hoá, văn tự phương tây. Vai trò to lớn của nó trong giáo dục, văn hoá có nhiều mặt, song nổi bật hơn cả theo dõi là một số điểm lớn sau đây.
            Một là do tính ưu việt dễ học, dễ nhớ của  nó nên được nhiều người dân học theo. Chữ viết Hangul còn gọi là chữ viết buổi sáng, bởi có thể học thuộc nó trong một ngày, một buổi. Có người còn gọi nó là chữ viết vĩ đại. Hiệu quả thực tế khi được phổ biến là giúp cho gần 100% dân chúng thoát nạn mù chữ trong một thời gian ngắn.
            Hai là từ khi nó ra đời, với sự nêu gương sáng tác của vua Sẹong và các cận thần, các hiền tài thức giả nó đã mở đầu xây dựng và phát triển một nền văn học này cũng có nhiều tác phẩm đi vào cổ điển như truyện Xuân Hương và có nhiều tác phẩm của nhiều nhà văn nhà thơ tiêu biểu khác. Không những thế những sáng tác dân gian, phôn clo cũng được sư tập, cố định lại bằng văn bản Hangul, nhiều học giả sáng tạo các lĩnh vực địa lý, lịch sử, pháp luật cũng thể hiện kết quả, tư tưởng của mình bằng chữ Hangun có thể nói một nền khoa học nhân văn phong phú, sâu sắc và được sáng tạo, lưu giữ bằng thứ văn tự này.
Ba là đặc điểm có vai trò to lớn trong văn hoá giáo dục ở giá trị tự thân người sáng tạo này (Hangul và Huấn dân chính âm) nó là biểu hiện của ý thức và sự sáng tạo độc đáo dân tộc. Vì vậy khi nó tồn tại, hành chức luôn luôn là niềm khích lệ, niềm tự hào dân tộc chính đáng, là sức mạnh chống lại sự đồng hoá của ngoại bang. Giá trị tự hào dân tộc, sức mạnh dân tộc kết gắn với chư viết Hangul và Huấn dân chính âm đối với nhân dân Hàn thật là to lớn.
8. Khi tìm hiểu quan hệ 2 nước chúng ta cũng như nhiều đồng nghiệp Hàn Quốc nhận thấy rằng Việt Nam và Hàn Quốc có nhiều tương đồng về lịch sử và văn hoá, giáo dục. Tìm hiểu về chữ viết Hangul và Huấn dân chính âm chúng ta càng có điều kiện liên hệ và phát huy những sáng tạo độc đáo to lớn trong trường kỳ lịch sử kiên cường của hai dân tộc vào công cuộc xây dựng phát triển mới ngày nay.
Hôm nay chúng ta tổ chức hội thảo kho học và cũng là dịp để kỷ niệm ngày ra đời và công bố Hangul và Huấn âm chính dân. Mong rằng nhiều báo cáo nghiên cứu khoa học trong hội thảo sẽ làm chúng ta thêm yêu mến tin tưởng, đẩy mạnh việc nghiên cứu Hàn Quốc nói riêng và Đông Phương nói chung ngày càng phát triển và có nhiều thành tựu hơn nữa.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét