Thứ Bảy, 20 tháng 4, 2013

Cây Lúa Nước & Văn Minh Việt Cổ






 















Cây Lúa Nước & Văn Minh Việt Cổ










Những năm 1970 đến nay, vấn đề nghiên cứu nguồn gốc tộc Việt và nền văn minh Việt cổ đã ngày càng sáng tỏ cội rễ người Việt Nam với cây lúa nước.
Nhiều nhà nghiên cứu sử học, khảo cổ, văn hoá, ngôn ngữ, văn chương, y học…Việt Nam và thế giới khẳng định tiến trình Văn hoá Việt cổ trên đất nước Việt Nam là sự hội tụ của cư dân nông nghiệp lúa nước, sáng tạo Nền Văn minh lúa nước.
Bác sĩ, Tiến sĩ Nguyễn Thị Thanh nghiên cứu những tài liệu lịch sử và khảo cổ Việt Nam, Trung Hoa, Pháp, Hoa Kỳ, Nga… đưa ra luận điểm xác đáng về “Việt Nam- Trung tâm nông nghiệp lúa nước và công nghiệp đá xưa nhất thế giới”.
Năm 1932. Tại Đại hội nghị Quốc tế các nhà sử học Viễn Đông đã xác nhận nền Văn hoá Hoà Bình của Việt Nam được coi là Trung tâm văn minh Tiền sử đầu tiên của nhân loại về nông nghiệp lúa nước và công nghiệp đá.
Nền văn hoá Hoà Bình (cách đây trên 16.000 năm) có mặt trên toàn thế giới. Nền Văn hoá Hoà Bình được tìm thấy sớm nhất trong một ngôi làng nhỏ ở Hoà Bình- Việt Nam. Chính người Việt cổ tại Hoà Bình- Việt Nam đã sáng tạo nền Văn hoá Hoà Bình. Các nhà khảo cổ học thế giới đã chứng minh và xác định người Hoà Bình trên đất Việt Nam đã có một thời văn minh cổ xưa nhất thế giới. Khảo cổ học thế giới đã lấy tên “Hoà Bình- Việt Nam” đặt tên nền văn hoá này gọi là Văn hoá Hoà Bình cho toàn thế giới.
Nền Văn hoá Hoà Bình là một trong những nền Văn hoá cổ xưa của Đông Nam Á và thế giới.
Văn hoá Hoà Bình- Văn hoá thời đại đá giữa được người Pháp phát hiện và khai quật ở vùng Hoà Bình nước ta những năm 1920. Đó là các di tích hang động Kim Bôi, Lương Sơn, Xóm Giỗ, Mường Động, Mường Chuông, hang Triềng Xến… vùng Nho Quan Ninh Bình, Sông Đà, Mai Châu, Sông Mã Thanh Hoá…
Đến nay, các nhà khảo cổ học Việt Nam và thế giới đạt nhiều thành tựu mới trong khai quật và nghiên cứu Văn hoá Hoà Bình và Người Việt Cổ.
Đó là dòng dõi Bách Việt cổ xưa, sinh tụ trên một vùng lãnh thổ rộng lớn. Từng tồn tại như là một trong những cái nôi rộng lớn của loài người. Ở đây, Tổ Tiên ta đã sáng tạo và phát triển một nền văn minh kỳ diệu với những Tinh hoa tiêu biểu như: Văn minh lúa nước, Thần Nông, Kinh dịch Phục Hy, Trống Đồng hàm súc những tiên tri, Hải thuyền và nếp sống thuỷ sinh trên sông nước, chinh phục biển Đông…
Nông nghiệp Bách Việt đã sáng tạo nếp sống, lễ nghĩa, ứng xử, cày cấy, nuôi trồng… riêng biệt. Đức Khổng Tử dạy học trò: “Người Bách Việt miền Nam (phía Nam sông Dương Tử) có lối sống, tiếng nói, luật lệ, phong tục, tập quán, tức ăn uống riêng…” “Dân Bách Việt chuyên làm ruộng lúa mà ăn, không như chúng ta, trồng kê và lúa mỳ. Học uống nước bằng thứ lá cây hái trong rừng gọi là trà”. “Dân Bách Việt thích ca múa, vừa làm việc vừa ca vè, hát đối, nói vận, ca dao, lấy lá cây mang vào người, trá hình múa hát”.
Các sách cổ của Trung Quốc: Giao Châu ký, Tam Đô Phủ, Ngõ Lục địa Lý Chí, Nam Phương Thảo Mộc Trạng đều chép: “Dân Lạc Việt trồng lúa mà ăn, dùng lá trà mà uống, họ biết uống bằng lỗ mũi, nuôi tằm mà dệt vải”, “Họ dùng một khúc tre dài chừng một thước hơn, một đầu có trụ cao làm tay cầm, có dây buộc vào trụ nối lại đằng kia mà làm đàn gọi là độ huyền cầm”, “Họ đem tính tình các con vật mà so sánh với người, rồi truyền tụng, kể thành văn thơ, ca dao”, “Họ biết tìm hiểu các thức ăn nóng mát, biết lấy cây theo thuyết Âm- Dương để trị bệnh”, “Họ rất quí các loài chim, biết tập chim biết nói, nuôi nhiều chim trĩ sống trên núi cao rất đẹp (sau này người Trung Quốc gọi là chim Phụng Hoàng, vật tổ của Trung Hoa)”…
Các sách lịch sử, triết học, văn hoá, của Bách Việt người Tàu đã cướp về, đánh tráo, biến hoá thành của Trung Quốc, hoặc đốt hết để huỷ diệt văn hoá con người Việt, đồng hoá Việt thành Trung Quốc.
Trong những thời gian bị đô hộ, dân Việt bị cấm mọi sinh hoạt văn hoá và kỹ nghệ bản địa, nhưng nó vẫn sống mạnh mẽ trong mạch sống dân gian.
Người Trung Quốc lúc đầu không quan tâm đến những huyền thoại của người Việt. Sau này, họ hiểu ý nghĩa triết lý sâu sa, của những câu chuyện tưởng như hoang đường ấy lại là những thông điệp của Tổ Tiên Bách Việt về kinh nghiệm đánh giặc, giữ nước, sống an vui, làm ăn, trồng cấy lúa… truyền cho con cháu. Nó được truyền miệng, ăn sâu bám rễ trong lòng Việt tộc, đời này qua đời khác.
Trung Quốc đau xót khi nhận ra dòng văn học huyền thoại đó là sức sống của dân Bách Việt do Trời sinh, trên mảnh đất của Việt tộc từ Động Đình Hồ trở xuống miền Bắc và Trung Việt Nam cổ. Hán tộc không liên can gì đến sự nghiệp nhà nông của các vị Thần Nông Nghiệp như: Nữ Oa, Thần Nông, Phục Hy… mà nhận và biến thành của Trung Quốc.
Học giả Vũ Hữu San viết: “Hãy quên đi ý nghĩ nguồn gốc Việt từ Tàu phương Bắc. Ta không phải là Tàu. Có một ông Tàu, bà Tàu chính cống nào mà lại nhuộm răng đen, ăn cơm gạo tám, ăn trầu, đóng khố hay mặc váy, đi thuyền, tham dự hội nước, hát đối đáp giao duyên nam nữ, thổi cơm bằng ống tre, lấy vỏ cây làm vải, làm nghề chài lưới, hội hè trên sông biển…”
Chứng tích khảo cổ trên lãnh thổ Việt Nam chứng minh giống Việt là một chủng tộc rất cổ xưa, đồng thời cũng là chủng tộc tiên tiến trong nghề nông nghiệp và hàng hải chính bởi vùng địa lý phát tích của tộc Việt. Văn minh Hoà Bình khởi nguyên trên đất nước ta mười sáu nghìn năm trước đây. Đà tiến Văn minh lúa nước của dân Việt đã được phát triển liên tục, không ngưng nghỉ.
- Thời kỳ Đồ Đá cũ: văn hoá Sơn Vi (20.000- 12.000 năm TCN).
- Thời kỳ Đồ Đá giữa: Văn hoá Hoà Bình (12.000- 10.000 năm TCN).
- Thời kỳ Đồ Đá mới: Văn hoá Bắc Sơn (10.000- 8000 năm TCN), Văn hoá Quỳnh Văn, Đa Bút (6000- 5000 năm TCN).
- Thời kỳ Đồ Đồng- Văn hoá dựng nước Văn Lang đã phát triển qua bốn giai đoạn lớn: Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn.
Các học giả khắp thế giới và Việt Nam đã chứng minh về tính chất bản địa của những nền văn hoá tiền sử xưa nhất và phát triển nhất trên đất nước Việt Nam. Đặc biệt là Văn hoá Hoà Bình với sự ra đời sớm nhất thế giới của nông nghiệp luá nước.
Học giả Sauer Hoa Kỳ viết trong quyển Đồng Quê: “Đúng là nông nghiệp đã tiến triển qua hai giai đoạn, mà giai đoạn đầu là giai đoạn của Văn hoá Hoà Bình (Việt Nam) lúa nước đã được trồng cùng một lúc với củ môn nước (khoai sọ).
Sauer cho rằng “Họ (Việt tộc) đã làm một bước đi quyết định cho loài người trên đường tiến bộ. Đó là việc thuần hoá cây cỏ đầu tiên, một phát triển sớm sủa nhất của nhân loại trong nông nghiệp”.
Bác sĩ Trần Đại Sỹ viết sách Việt Nam Đệ Ngũ Thiên Kỷ: “ Tộc Việt bao gồm trăm giống Việt sống rải rác từ phía Nam sông Trường Giang: Đông tới Biển, Tây tới Tứ Xuyên, Nam tới vịnh Thái Lan. Người Việt từ Ngô- Việt di cư xuống phương Nam. Người Mân Việt di cư xuống Giao Chỉ. Người Việt di cư từ Nam sông Trường Giang tránh lạnh xuống Bắc Việt đều đúng. Đó là những cuộc di cư của tộc Việt trong lãnh thổ của họ, chứ không phải là tộc khác di cư tới đất Việt”.
Ông W.G Solheim II bình luận : “Văn hoá Hoà Bình là Văn hoá bản địa tộc Việt, thuần hoá cây nông nghiệp và cung cấp tư tưởng về nông nghiệp cho phương Tây. Sau này, một số cây đã truyền đến Ấn độ và Phi Châu.”
Trung Quốc thừa hưởng văn hoá nông nghiệp phát triển nhờ dân Bách Việt còn lại trên Hoa lục.
Chester Norman cho rằng Văn minh Hoà Bình được tạo dựng trong thời gian thềm lục địa Sunda (kể cả Hoàng Sa và Trường Sa) bị ngập nước. Người ta phải di chuyển đi khai phá đồng bằng. Yếu tố quan trọng nhất của đà phát triển là sự ra đời của các giống cây cho hạt. Những loại ngũ cốc thuần hoá sau này thích hợp cho ruộng lúa nước.
Văn hoá Hoà Bình trung tâm Văn minh nông nghiệp đầu tiên trên thế giới. Sau này ảnh hưởng toàn bộ Đông Nam Á, Trung Hoa và thế giới. Hoà Bình (Việt Nam) nơi sầm uất, giàu thịnh hơn đâu hết và đã có vị vua Viêm Đế (vua xứ nóng)- vua nông nghiệp tượng trưng cho trồng trọt tức là Thần Nông. Thần Nông- Người đã nghiên cứu dạy nghề nông và được tôn như một vị vua. Bà Nữ Oa “Đội đá vá Trời” là người nghiên cứu thời tiết, nắng mưa, trăng, gió, phù hợp mùa màng, các ngày lễ hội cùng sự nghỉ ngơi vui chơi của dân chúng sau mùa vàng thu hoạch.
Nông nghiệp Văn hoá Hoà Bình rực rỡ là chiều kích cho kỹ nghệ đồ đá phát triển. Thợ làm công cụ bằng đá sỏi đã chế tác chế tác dụng cụ rìu đá, búa đá, dao, cày đá… cho dân trồng lúa.
Các nhà khảo cổ rưng rưng trước nắm Gạo bị cháy dở hoá thạch đã tìm thấy ở Đồng Đậu- Vĩnh Phú có niên đại 5.500 năm trước CN (cách đây 7.500 năm). Nắm Gạo cháy dở của thời phát triển trồng lúa nước này nói với chúng ta rằng Tổ Tiên ta đã ăn Gạo để sống và xây nền Văn minh lúa nước từ rất lâu rồi. Nắm Gạo thuở Trời Đất hỗn mang linh thiêng nhắc cháu con nhớ Gạo trên cánh đồng lúa nước, nơi những dòng sông dồn tụ. Vậy giờ đây. Nếu chúng ta quên Gạo. Hỏi ta và con cháu ta sống bằng gì? Hỡi những người mang di truyền tộc Việt. Mình sống bằng Gạo. Chỉ có Gạo mà thôi! Muôn đời sau Việt tộc vẫn phải sống bằng Gạo, dù họ đang ở khắp hoàn cầu. Đó là di truyền nòi giống Thiên cổ. Không thể khác.
Theo bác sĩ Nguyễn Thị Thanh: “Có thể vì nền Văn hoá Hoà Bình nằm vào thời điểm của trận Đại Hồng Thuỷ cách đây 17.000 năm. Cuộc Đại Hồng Thuỷ này bao gồm cả thế giới. Chắc nó trùng hợp với cuộc đại Hồng Thuỷ đã được diễn tả trong Cựu Kinh Ước của đạo Do Thái và Đạo Thiên Chúa. Vì vậy theo khoa học, rõ ràng trước và sau Đại Hồng Thuỷ, loài người đã có mặt thật lâu trên miền Đông Nam Á, mà quan trọng là tại Việt Nam.
Sau vụ Đại Hồng Thuỷ này, nơi nguy hại nhiều nhất thế giới, chính là Lục địa Đông Nam Á. Vì một phần lớn đất đai của miền này đã sụp xuống biển, mở rộng Thái Bình Dương.
Xét theo thềm lục địa Đông Nam Á, các nhà khảo cổ nhận thấy Đại Hồng Thuỷ lên và lui rất chậm chạp, vì thế không xảy ra tại nạn chết người tập thể. Do đó, vấn đề cấp thiết cho sự sinh sống của người Đông Nam Á, mà trong đó người Bách Việt cổ căn bản là đi tìm thức ăn. Người Bách Việt cổ đã di tản lên chốn cao nguyên tức là lục địa Bách Việt cổ mà nay là miền Nam Trung Hoa và đồng bằng Bắc Việt thẳng đến miền duyên hải Trung Việt. Tại đây, người Việt cổ đã phát triển nghề nông để tăng nhanh nguồn lương thực”.
Sang thời kỳ Hùng Vương (Thiên niên kỷ thứ hai Trước CN). Những công cụ bằng đá đã dần thay thế bằng những công cụ đồng thau và đồ sắt xuất hiện. Nông nghiệp trồng lúa nước thành vai trò chủ đạo trong xã hội.
Khảo cổ học phát hiện những chiếc rìu. Rìu đá và rìu đồng là một trong những loại hiện vật tìm thấy nhiều nhất trên đất nước Việt Nam. Những chiếc rìu dài và hẹp dùng trong sản xuất nông nghiệp.
Sau đó là những chiếc cuốc sắt, những lưỡi cày đồng.
Cùng với nông cụ sản xuất là những đồ đựng và đun nấu bằng gốm, dụng cụ đánh cá, săn bắn… minh chứng một nền kinh tế, kỹ thuật, văn minh của các cư dân nông nghiệp.
Các tác phẩm nghệ thuật thời kỳ Hùng Vương cũng mang đậm tư duy cuộc sống nông nghiệp. Hình ảnh Mặt Trời, tượng cóc, người giao hoan, tượng bò, gà… bằng đất nung. Hình ảnh bông lúa, người giã gạo trên Trống Đồng rực rỡ an sinh. Những cổ tích, huyền thoại vô cùng phong phú về thiên nhiên, khí hậu, cách làm ăn, yêu thương, ca múa, sinh sống của cư dân nông nghịêp…
Sách Giao Châu ngoại ký chép: “Đời xưa đất Giao Chỉ khi chưa chia thành quận huyện, ruộng đất gọi là Lạc Điền, nước lên xuống theo thuỷ triều, dân cư cày bừa trên ruộng đó mà sinh sống, gọi là Lạc dân”.
Phù hợp với truyền thuyết, địa bàn phân bố của các cư dân nông nghiệp đều là nhừng đồng đất thấp, men theo các con sông lớn và gấn các đầm hồ miền Trung du Bắc bộ, Trung bộ, thích hợp với trồng cấy lúa và thuần dưỡng cây trồng, súc vật.
Cây lúa thời Hùng Vương không phải là lúa hoang. Cây lúa đã được trồng cấy và là nguồn lương thực chủ yếu của cư dân (Truyện Bánh Chưng, Bánh Dày…) và ca dao tục ngữ phổ biến kỹ thuật trồng lúa theo mùa, khí hậu, con nước, Mặt Trăng tròn khuyết… Theo sách Quảng Chí đầu đời Tấn thì ở phương Nam có lúa hổ chưởng, lúa tử mang, lúa xích khoáng, lúa thiền minh, lúa cái hạ bạch, lúa thanh vu, lúa luỹ tử, lúa bạch mạc, lúa cánh…
Sách Vân Đài loại ngữ Lê Quý Đôn đã kê ra gần một trăm giống lúa và mô tả chi tiết đặc tính của các giống lúa, những kinh nghiệm gieo trồng và năng suất.
Lúa là một loại cây ưa nước, đòi hỏi nhiều sức chăm bón của con người và từng giống lúa thích hợp với những mảnh ruộng khác nhau. Cư dân Hùng Vương trồng lúa trên ba loại chân ruộng: ruộng phù sa ven sông, ruộng trũng quanh các đầm hồ, ruộng trên các gò đồi miền Trung du. Họ luôn hát bài ca giữ đất.
Thiên nhiên nhiệt đới gió mùa Việt Nam vô cùng phong phú, hợp bốn mùa cây trái. Nhưng cũng vô cùng khắc nghiệt. Cuộc chinh phục đồng bằng của tộc Việt diễn ra quyết liệt, oai linh từ Văn hoá Hoà Bình đến Hùng Vương và tới nay không ngưng nghỉ. Đó là cuộc đấu tranh vô cùng gian khổ và ác liệt để khai phá đất hoang, rừng rậm, đắp đê, chống mưa nguồn, nước lũ, nắng hạn, gió bão, ngập lụt đe doạ tuần hoàn. Cuộc giành giật với thiên nhiên để sinh tồn thách thức tộc Việt phải quần tụ bên nhau, chung lưng gánh vác, tập hợp, tổ chức thành sức mạnh với những người thủ lĩnh tài năng, đức độ. Các truyền thuyết đều tập trung gửi thông điệp về công cuộc khai hoang, làm thuỷ lợi, để trồng lúa, để sinh tồn (Sơn Tinh Thuỷ Tinh…)
Việt Nam ở vào vị trí quan trọng của Đông Nam Á. Nằm trên ngã tư các đường giao thông Bắc- Nam, Đông- Tây, giữa đại lục và hải đảo. Vị trí tiếp xúc rộng, dân ta có điều kiện mở rộng giao lưu văn hoá. Nhưng luôn phải đương đầu với mối đe doạ ngoại xâm. Truyền thuyết kể nhiều cuộc chống giặc thời Hùng Vương. Chống nhiều thứ giặc: “Giặc mũi đỏ”, “Ân”, “Thạch linh thần tướng”… Toàn dân góp sức người, góp sắt đúc vũ khí, góp của cải, thóc gạo nuôi quân, tướng đánh giặc (Thánh Gióng). Số lượng vũ khí sản xuất tăng nhanh chóng (thời Phùng Nguyên 0,84%, thời Văn hoá Đông Sơn tăng 63, 29%). Càng về sau càng bị nguy cơ phương Bắc xâm lược. Cây cối, núi rừng, dòng sông, đất đá, lửa nước, kim loại, đồng, sắt, voi thú, sinh quyển, hồn thiêng … đều đánh giặc, giữ những cánh đồng lúa nước và sự tồn tại Việt tộc.
Nhưng không ai nghĩ rằng đã có cuộc diệt chủng trên đất nước Việt Nam. Đánh thắng giặc ngoại xâm, Việt tộc lại mở lòng hòa hiếu, cùng nhân loại xây đắp hoà bình. Những người đến sau đã hội nhập với Việt tộc để kiến tạo cuộc sống chung hoà bình, bác ái.
Mở từng trang sử, tìm hình bóng cha ông từ cổ đại, Lý, Trần, Lê đến nay… đã vượt rừng, xuyên biển, mở nước về phương Nam, xây nền Văn minh nông nghiệp lúa nước, độc đáo Việt Nam. Đó là hành trình của cây lúa nước. Lúa nước dẫn đường cho người Việt làm nên những đồng bằng. Từ đồng bằng sông Hồng, sông Mã đến đồng bằng sông Đồng Nai, sông Cửu Long thơm hương lúa.
Những cánh đồng lúa nước phì nhiêu. Những kênh rạch chằng chịt tạo ra chân trời lúa, chân trời nước, chạm đường mây thênh thang của đồng bằng Nam Bộ thật kỳ thú, mênh mang, mở lòng người rộng đến bao la, đến vô cùng. Miền đất này, ngàn năm trước đã từng có nền văn hóa Óc Eo rực rỡ, chẳng hiểu vì sao nó biến mất, để lại đất này “cây rừng rậm rạp, đầm lầy, dã thú và không thấy bóng người”. Vùng đất mới Nam Bộ với Sài Gòn- Gia Định chính thức xuất hiện trên bản đồ văn hóa Việt Nam cách đây trên ba thế kỷ. Năm 1988, chúng ta kỷ niệm ba trăm năm thành phố Sài Gòn, kể từ khi Lễ Thành Hầu Nguyễn Phúc Cảnh được lệnh của Chúa Nguyễn Phúc Chu cử đi kinh lược phương Nam, tổ chức cai trị miền đất mới.
Thế kỷ XVII, người Việt tới đây, trước mắt là biển cả mù khơi, rừng thẳm bạt ngàn, chứa chất đầy hiểm nguy, bí ẩn. Họ thốt lên:
Tới đây xứ sở lạ lùng
Con chim kêu phải sợ, con cá vùng phải kinh”.
Đất Nam Bộ hoang vu, thời tiết khắc nghiệt. Đồng Tháp Mười trước 1945, vẫn còn là nơi “muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội tựa bánh canh”. Trong vòng ba trăm năm, người Việt các thế hệ đã “đổ mồ hôi, sôi nước mắt” cùng nhau biến đồng đất hoang vu thành những đồng lúa mênh mông, những vườn cây hoa thơm, quả ngọt, khoe sắc dưới nắng vàng. Họ bảo nhau trồng lúa nước, chấp nhận hòa hơi thở của mình với những cánh đồng lúa nước và những dòng sông, cửa biển… Họ không đắp đê ngăn những cơn nước lụt dọc theo các triền sông Cửu Long mà dựa vào nguồn nước phù hợp với thủy lưu lên xuống của sông và biển để làm nên những cánh đồng vàng. Họ lập thôn ấp men theo kênh rạch, tạo nên những mái nhà bên đường nước thênh thang. Họ sống trên nước và chết cũng trôi theo dòng nước.
Người Việt biết sống hòa vào thiên nhiên Nam Bộ và còn biết sống hòa hợp cùng các dân tộc khác trên đất Nam Bộ: Khơ Me, người Xtiêng, người Mạ, người Mnông, các lái thương Trung Hoa… Thiên nhiên rộng lớn đất đai, sông nước, biển trời ấy đã hun đúc nên tính cách người Nam Bộ siêng năng trồng cấy, chăn nuôi, cần mẫn làm ra các hải sản cá, cua, tôm, mực, năng động làm nghề thủ công, buôn bán, giao thương, sống trọng nghĩa, kinh tài, khí chất hào sảng, mạnh mẽ, gần thiên nhiên, chịu học hỏi…
Kể từ tiền sử đến nay. Người Việt lúc nào cũng nâng niu hạt lúa.
Thế kỷ XX. Bom giặc cày nát ruộng đồng. Huỷ diệt con người. Cánh đồng lúa vẫn xanh màu con gái.
Mỗi người dân là một hạt lúa. Người người nâng niu hạt lúa. Nâng niu sự sống của chính mình.
Hình ảnh cố GS.VS Vũ Tuyên Hoàng mãi mãi in đậm Trên cánh đồng mơ ước, bởi cả cuộc đời, ông đã gieo từng hạt lúa, củ khoai, cây rau, hoa, quả… trên đồng đất Việt Nam bốn mùa mưa gió, bão giông, nóng rét nghiệt ngã, đậm “nét buồn đau thế kỷ này” (thơ Vũ Tuyên Hoàng).
Sinh ra trong một gia đình trí thức Hà Thành, thân phụ là nhà văn hóa Vũ Ngọc Phan, mẹ là nhà thơ Hằng Phương nổi tiếng, nhưng những năm du học ở Quảng Châu- Trung Quốc, Vũ Tuyên Hoàng lại học ngành Di truyền chọn giống cây lương thực, bởi sớm tìm được niềm vui làm việc hữu ích cho đời. Ông tâm sự: “Cả nhà đều làm các nghề ở “trên trời”- làm nhà văn, làm nhà thơ và làm họa sĩ, còn mình lại làm nghề “chân đất”, gắn bó với ruộng đồng là sở thích của mình.”
Khó có thể tưởng tượng được đôi chân thanh mảnh hào hoa của chàng trai Hà Thành đã lội xuống những cánh đồng lúa nước mà không sợ bọn đỉa đen ngòm, bơi loằng ngoằng trong nước bám vào. Tình yêu lúa, yêu người đã nâng bước chân Vũ Tuyên Hoàng lội đất bùn qua những tháng năm, giữa những “Cơn mưa trào giọt lệ” (thơ Vũ Tuyên Hoàng). Ông sang Liên Xô mê mải nghiên cứu khoa học về giống, cây trồng, bảo vệ luận án Tiến sĩ, được phong Viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học Nông nghiệp Liên bang Nga, và các nước thuộc thế giới thứ ba…Về nước, ông từng giữ nhiều chức vụ: Viện trưởng Viện cây lương thực, Thứ trưởng bộ Nông nghiệp nông thôn, Đại biểu Quốc Hội… để rồi, ông sống hết mình với cái nghề “chân đất” mà ông đắm say dâng hiến một đời.
GS.VS Trần Đình Long chứng kiến những năm 60 thế kỷ trước, Vũ Tuyên Hoàng đã cho ra đời hàng loạt các giống lúa Đông- Xuân chịu rét, sau đó là các giống lúa chịu úng, và âu yếm gọi tên chúng là: U16, U17… các giống lúa chịu hạn như CH5, CH133. Và những năm gần đây, Vũ Tuyên Hoàng vẫn nâng niu hạt lúa, sản sinh ra các giống lúa có hàm lượng Prôtein cao như: P4, P6. Trong đó giống P6 hiện đang được gieo trồng hàng vạn ha ở đồng bằng sông Hồng và các tỉnh miền Trung. Giống lúa này không chỉ có chất lượng dinh dưỡng cao mà còn cho cơm dẻo, hương vị đậm đà, đang được những đồng nghiệp và các thế hệ đi sau tiếp tục nhân rộng trong sản xuất.
“Ai ơi bưng bát cơm đầy/ Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần”. Hôm nay, những đồng nghiệp và học trò của Vũ Tuyên Hoàng nâng bát cơm thơm mùi vị đậm đà của giống P6, rưng rưng nhớ thương ông. Người gieo hạt trên cánh đồng vàng. Và trong tiết Xuân mưa phùn gió bấc thấm lạnh tim gan, những cây lúa xanh mượt thì con gái rì rào hát Thánh ca, tạ ơn Vũ Tuyên Hoàng đã truyền sức sống ấm nóng cho giống lúa Đông- Xuân đủ sức vượt lên gió rét, mưa hàn, sương giá…
Không chỉ đem lại cho những cánh đồng, cho người nông dân và cho đời những giống lúa mới, GS.VS Vũ Tuyên Hoàng, nhà khoa học tài ba, giàu sáng tạo, còn đưa ra các ý tưởng và các sản phẩm mới về cây trồng, vật nuôi. Theo GS. VS Trần Đình Long giả thuyết về hai nhóm gen quyết định đến quá trình sinh trưởng và phát triển của cây trồng, làm cơ sở cho ngành Di truyền học và tạo giống cây trồng của Vũ Tuyên Hoàng, không chỉ có ý nghĩa đối với nước ta mà nhiều nhà khoa học trên thế giới đã ứng dụng thành công trong sự nghiệp của họ. Giống táo Má Đào do Vũ Tuyên Hoàng tạo ra vừa có mẫu mã đẹp, vừa có chất lượng tương tự hoặc cao hơn giống táo Thiện Phiến nổi tiếng của vùng Gia Lộc. Vũ Tuyên Hoàng cũng là người đầu tiên đưa khái niệm trồng khoai tây bằng hạt vào Việt Nam. Một nghiên cứu khác ít ai biết, trên cơ sở lý thuyết đồng dạng, ông đã tạo ra giống Vịt Anh Đào được bà con nông dân đánh giá cao…
PGS. TS Nguyễn Trí Hoàn, Viện trưởng Viện Cây lương thực và thực phẩm, ngưỡng mộ GS.VS Vũ Tuyên Hoàng có tầm nhìn xa: “Khi ở Viện, ngay sau khi giải phóng miền Nam, anh đã thành lập một trung tâm nghiên cứu rau và hoa ở Đà Lạt, một trung tâm nghiên cứu lúa ở đồng bằng sông Cửu Long. Những năm 1980, anh đã nghiên cứu các giống cây đặc sản, góp phần bảo tồn nguồn gen, chọn tạo nhiều giống lúa thâm canh, góp phần giải quyết vấn đề lương thực… Trong tám năm làm chủ tịch Liên hiệp Hội khoa học Việt Nam, anh vẫn đau đáu quan tâm đến các đề tài nghiên cứu của Viện”.
Nỗi niềm đau đau về Hạt lúa hay chính là tình yêu thương lớn, lo đến sự đói, no, ấm, lạnh của con người, được thăng hoa trong các công trình nghiên cứu khoa học của Vũ Tuyên Hoàng thành cơm thơm, quả ngọt. Nó còn thăng hoa trong thế giới tinh thần cao cả của Vũ Tuyên Hoàng qua họa và thơ. Đôi bàn tay ông nâng niu Hạt lúa, hồn ông ru Hạt lúabằng nhịp điệu thơ ca, và sắc màu hội họa. GS.VS Trần Đình Long viết: “Anh không chỉ là một nhà khoa học tài ba, uyên bác, mà còn là một con người trong sáng, chân tình, vui vẻ, dí dỏm, hòa nhã, bình dị và thanh tao biết nhường nào. Anh là nhà thơ tâm huyết, là họa sĩ của cuộc đời. Mơ ước lớn nhất của cả đời Anh là tạo nên những cánh đồng vàng- cánh đồng lúa nặng trĩu bông vàng- mầu vàng của ấm no, mầu vàng của chính cái tên của Anh: GS.Viện sĩ Vũ Tuyên Hoàng.”
Còn tôi, người viết bài này, đôi ba lần được gặp ông trong dáng vẻ hào hoa, phong nhã, lặng lẽ, khiêm nhường. Bất ngờ trong mùa xuân tưởng niệm Vũ Tuyên Hoàng vào cõi vô hình một năm tròn, ngọn gió Long Thành đã đặt vào tay tôi tờ tạp chí có in bài thơ Hạt lúa của ông và những hồi ức của bạn bè về bước chân ông lội xuống bùn đất Việt Nam. Tôi kính trọng ông gấp nhiều lần khi biết ông đã yêu Hạt lúa đến tận cùng sự sống của mình. Và tôi gọi ông là “Người gieo giống trên đồng vắng” trong Kinh Thánh.
Bài thơ Hạt lúa của ông là hành khúc cuộc đời người dân Việt từ thủa hồng hoang đến mãi mãi mai sau:
“Những hạt lúa giữa lòng tay tôi
giống hạt bầu, giống hạt dài
Vỏ làm ánh nắng
Hạt gạo trắng làm cái nôi
Nôi ru em bé ngủ
Nôi ấm cho mọi người
Vì hạt lúa đêm khuya thao thức
Tôi đi theo trọn đời
Ôi những hạt lúa vàng
trăm ngàn bé nhỏ
những giọt mồ hôi
những giọt nước mắt
long lanh như sương
Sương điểm tóc ai đi trên đường
Bạc đầu bao thế hệ.
Chọn giống trên cánh đồng vui thế
Chim gọi nhau phơi phới chiều nay
Ruộng gặt xong đã sớm đường cày
Ngày mai lại tiếp tục những mùa gieo hạt
Lúa sẽ nổi sóng đồng dào dạt
Mùa trổ bông hoa thắm ru nôi.”
Giờ đây, GS.VS Vũ Tuyên Hoàng đang bay cùng mây thắm trời xanh. Linh hồn ông yêu thương Hạt lúa mà trở lại, nhắc chúng ta nâng niu Hạt lúa.
Nòi giống Việt Nam muôn đời sinh tồn nhờ Hạt lúa. Người Việt Nam hôm nay, có ai quên Hạt lúa không? Không ai quên. Nhìn những cánh đồng lúa xanh màu lá mạ, mượt mà, bình yên, hẹn mùa vàng ấm no, đang bị vùi lấp trước sự vần xoay chóng mặt của dựng xây công nghiệp, bê- tông hoá, mà lòng chúng ta quặn đau xa xót.
Kêu một tiếng. Lạnh Đất- Trời.
Thiên Chúa sau nạn Hồng Thuỷ thấy ông Nô-ê cùng vợ con, gia đình đổ mồ hôi, nước mắt, dọn đất bị lụt, chăm sóc muôn loài, cấy trồng, gieo hạt, nâng niu cây, hoa trái, đã tự nhủ: “Ta sẽ không bao giờ nguyền rủa đất đai vì con người nữa. Lòng con người toan tính điều xấu từ khi còn trẻ, nhưng Ta sẽ không bao giờ còn sát hại mọi sinh vật như ta vừa làm!
Bao lâu đất này còn
thì mùa gieo mùa gặt
trời lạnh và trời nóng
tiết hạ và tiết đông
ban ngày và ban đêm
sẽ không ngừng đắp đổi”
 (Kinh Thánh)
Mỗi chúng ta sinh ra trên đất Việt Nam này đều là Hạt lúa. Hãy tỉnh thức trở lại! Cả dân tộc Rồng Tiên đồng lòng, quyết chí, cùng nhau gieoHạt lúa, làm nên những cánh đồng vàng “mùa gieo mùa gặt”. Đó chính là sự bình đẳng, ấm no, tự do, hòa bình, bác ái, yên ổn. Không tìm kiếm hạnh phúc ở đâu xa. Hạnh phúc, hoà bình bền lâu được gieo trên cánh đồng vàng của mỗi thôn làng Việt Nam mà mỗi người Nông Dân thực quyền làm chủ.Trái đất do Thượng đế sáng tạo luôn bao dung tha thứ và mừng vui trước hành động sám hối của Con Người. 

 http://newvietart.com/index4.1144.html

NỀN VĂN MINH SÔNG HỒNG - CƠ SỞ HÌNH THÀNH, THÀNH TỰU, ĐẶC TRƯNG, CÁC TÊN GỌI VÀ Ý NGHĨA Sau một thời kỳ dài sống định cư và mở rộng lãnh thổ, phát triển nền kinh tế với nông nghiệp trồng lúa nước là chủ đạo, vượt qua nông nghiệp dùng cuốc đến nông nghiệp dùng cày (bằng lưỡi cày đồng tiến lên lưỡi cày sắt) có sức kéo là trâu bò cùng với những tiến bộ khác, người Việt cổ đã đưa xã hội vượt qua thời tiền sử, vượt qua hình thái kinh tế - xã hội nguyên thuỷ sang hình thái kinh tế xã hội đầu tiên thuộc phạm trù của thời đại văn minh, của xã hội phân hóa giai cấp và có nhà nước (Nhà nước Văn Lang của các vua Hùng tiếp đến là nước Âu Lạc của vua Thục). Đồng thời, người Việt cổ đã xây dựng được một nền văn minh đầu tiên, đó là nền văn minh Văn Lang - Âu Lạc hay còn gọi là nền văn minh sông Hồng, đây là nền văn minh bản địa. Sự ra đời một hình thái nhà nước đầu tiên dù còn sơ khai nhưng đã đánh dấu một bước tiến quan trọng của lịch sử Việt Nam. Nó xác nhận quá trình dựng nước thời Hùng Vương - với nhà nước Văn Lang và đặt cơ sở cho sự hình thành cộng đồng dân tộc Việt Nam, cộng đồng quốc gia Việt Nam. Nhà nước Văn Lang - Âu Lạc với những thành tựu dựng nước và bước đầu giữ nước, với nền Văn minh sông Hồng (Văn minh Văn Lang - Âu Lạc hay còn gọi là văn minh Việt cổ) rực rỡ đã khẳng định vị trí của nó trong lịch sử dân tộc, mở đầu sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. - Nền văn minh sông Hồng - cơ sở hình thành: + Nền Văn minh sông Hồng được hình thành từ những nền văn hóa tiền sử xa xôi và được trực tiếp tạo thành trong một quá trình liên tục từ Sơ kỳ thời đại đồng thau đến Sơ kỳ thời đại đồ sắt (tiêu biểu là văn hóa Đông Sơn). Công cụ kim loại sắc bén và thuận lợi hơn nhiều so với công cụ bằng đá đã tạo nên những chuyển biến về chất trong sản xuất và đời sống xã hội. + Quá trình hình thành nền văn minh sông Hồng đồng thời là quá trình liên kết các bộ lạc và liên minh bộ lạc thành cộng đồng quốc gia, cộng đồng bộ tộc với cơ cấu nhà nước sơ khai của người Việt cổ. Đó cũng chính là quá trình tác động và dung hợp nhiều nền văn hóa của những thành phần cư dân khác nhau, thành một nền văn hóa thống nhất với nhiều loại hình địa phương, gồm nhiều thành phần dân tộc gần gũi nhau về nhân chủng và văn hóa. Cộng đồng người Việt Cổ được hình thành qua nhiều quá trình: Nhóm Môngôlôit hỗn chủng với nhóm Ôxơralôit tạo thành người Lạc Việt, nhóm Lạc Việt hòa nhập với nhóm Tây Âu tạo thành người Âu Lạc. Cộng đồng cư dân đó bước đầu được gắn bó bởi ý thức về một dòng giống chung (là con rồng cháu tiên), bởi sự cố kết trong cuộc đấu tranh với thiên nhiên (bão lụt, hạn hán) và với xã hội (giặc ngoại xâm). + Lúc này người Việt Cổ đã từ vùng gò đồi cao tràn xuống vùng đồng bằng và vùng ven biển để sinh sống. Lưu vực sông Hồng, sông Mã, sông Cả,... đã tạo nên vùng đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ trù phú - một địa bàn thuận lợi cho người Việt cổ sinh sống. - Thành tựu của nền văn minh sông Hồng: Nền văn minh sông Hồng được hình thành cùng với sự ra đời của nhà nước Văn Lang - Âu Lạc và sự phát triển của đời sống vật chất và tinh thần của người Việt cổ. Trên cơ sở một nền kinh tế phát triển mạnh và phạm vi lãnh thổ được mở rộng từ vùng đồi núi, trung du đến vùng đồng bằng rộng lớn của sông Hồng, sông Mã, sông Cả,... đời sống vật chất, tinh thần được nâng cao rõ rệt; tổ chức xã hội đạt đến một trình độ cao hơn, vượt khỏi thời nguyên thuỷ, bước sang thời đại văn minh đầu tiên của người Việt cổ - nền văn minh sông Hồng. + Về đời sống vật chất: Thóc gạo là nguồn lương thực chính của cư dân Văn Lang - Âu Lạc, chủ yếu là gạo nếp. Người bấy giờ dùng gạo nếp để thổi cơm, xôi, làm bánh chưng, bánh giầy. Sách Lĩnh nam chích quái ghi rằng ở thời Hùng Vương trồng được nhiều gạo nếp, lấy ống tre mà thổi cơm. Nhiều chiếc chõ gốm dùng để thổi xôi đã được tìm thấy ở các địa điểm thuộc văn hoá Đông Sơn. Ngoài thóc gạo là nguồn lương thực chính, cư dân Văn Lang - Âu Lạc còn sử dụng các loại hoa màu, rau quả, nhất là các loại cây có củ cung cấp chất bột như củ từ, khoai lang, sắn, củ mài, khoai sọ. Lúc thiếu thốn, người ta còn dùng các loại cây có bột khác như cây quang lang, búng, báng. Thức ăn cũng khá phong phú, gồm các loại cá, tôm, cua, ốc hến, ba ba, các loại rau củ (bầu, bí, cà, đậu...). Thức ăn được chế biến theo nhiều cách khác nhau theo sở thích từng vùng, từng gia đình (đun nấu, nướng, muối, ăn sống...) Nghề chăn nuôi và săn bắn phát triển đã cung cấp thêm nguồn thức ăn cho mỗi gia đình. Cư dân bấy giờ đã biết chăn nuôi nhiều loại gia súc, gia cầm (trâu, bò, lợn, gà, chó...). Trong thức ăn quen thuộc của cư dân Văn Lang - Âu Lạc còn có nhiều loại hoa quả vùng nhiệt đới như: vải, nhãn, mơ, mận, chuối, dưa hấu, cam, quýt,... Người ta cũng đã biết sử dụng nhiều thứ gia vị có nguồn gốc thực vật như gừng, hẹ,... Nguồn lương thực và thực phẩm của người Việt cổ rất phong phú, đa dạng và rất giàu chất bột, chất đạm và các chất bổ khác. Đây là một biểu hiện của cuộc sống vật chất được nâng cao, của sự phát triển kỹ thuật canh tác nông nghiệp của cư dân bấy giờ . Tập quán ăn uống: Người Việt cổ bấy giờ có tục uống rượu gạo và ăn trầu. Rượu được nhắc đến nhiều trong các thư tịch cổ, truyện dân gian. Người Đông Sơn có thói quen ăn trầu, nhuộm răng đen. Dấu tích hạt cau, quả cau đã được tìm thấy ở Đông Sơn. Trang phục của cư dân Văn Lang - Âu Lạc đã phản ánh một phần trình độ phát triển, óc thẩm mỹ và bản sắc văn hoá của người Việt cổ. Do nghề dệt phát triển, người Việt cổ đã sản xuất được nhiều loại vải khác nhau từ sợi đay, gai, tơ tằm, bông,... nên đã đáp ứng được nhu cầu may mặc của nhân dân. Trong sinh hoạt đời thường, nam thường đóng khố, nữ mặc váy. Khố của nam giới có loại quấn đơn và loại quần kép. Váy của nữ giới có loại váy quấn và loại váy chui, được làm từ một mảnh vải dài, rộng. Tượng người đàn ông thổi kèn ngồi trên cán đèn Việt Khê hay các tượng mặc váy dài trên thạp đồng Đào Thịnh đã phản ánh kiểu mặc đó. Phụ nữ ngoài mặc váy còn có yếm che kín ngực, áo xẻ giữa, thắt lưng quấn ngang bụng và khăn quấn đầu. Vào các ngày lễ hội, trang phục của nam nữ đẹp đẽ hơn: có mũ lông chim, váy xòe kết bằng lông chim hoặc lá cây và mang nhiều đồ trang sức đẹp (khuyên tai, hạt chuỗi, nhẫn, vòng tay, vòng cổ chân bằng đá, đồng). Sự phát triển kinh tế, nhất là sự phát triển mạnh của nghề thủ công và kỹ thuật luyện kim đã tạo điều kiện làm phong phú, đa dạng các đồ trang sức. Điều đó cũng chứng tỏ đời sống vật chất của cư dân Văn Lang - Âu Lạc được nâng cao rõ rệt. Về đầu tóc, người bấy giờ có bốn kiểu: kiểu tóc cắt ngắn, búi tó, tết bím và tóc quấn ngược lên đỉnh đầu. Trên thạp đồng Đào Thịnh (Yên Bái) có tượng nam tóc cắt ngắn ngang vai để xoã. Ở trống đồng Cổ Loa cũng có hiện tượng tương tự. Lối cắt tóc ngắn đến ngang lưng, để xoã khá phổ biến ở nam giới thời bấy giờ. Búi tóc cũng rất phổ biến ở cả nam giới và nữ giới. Nhiều người còn có kiểu chít một dải khăn nhỏ giữa trán và chân tóc, hoặc có đuôi khăn thả dài phía sau. Có thể nói, kiểu tóc cắt ngắn buông xoã sau lưng và búi tóc cao sau đầu là hai kiểu tóc phổ biến nhất của người Đông Sơn. Người Việt cổ bấy giờ còn có tục xăm mình. Nhà ở có nhiều kiểu như nhà sàn, nhà mái cong làm bằng gỗ, tre, nứa. Trên trống đồng Đông Sơn ta thấy có 2 kiểu nhà: nhà sàn mái cong hình thuyền và mái tròn hình mui thuyền, sàn thấp, mái rủ xuống như mái tranh đến gần sàn, có cầu thang lên xuống. Mỗi công xã nông thôn bao gồm một số nhà sàn quần tụ bên nhau trong một địa vực, hình thành những xóm làng định cư lâu dài mà thời đó thường gọi là kẻ, chiềng - tức là nơi chốn, chạ tức là tục kết đôi làng quê. Các vật dụng trong sinh hoạt gia đình rất phong phú như bình, vò, thạp, mâm, chậu, bát bằng đồ gốm hay bằng đồng. Ngoài ra, có những đồ dùng làm bằng tre, nứa, mây, vỏ bầu,... Phương tiện giao thông chủ yếu là thuyền bè. Thuyền có thuyền độc mộc, thuyền ván với các kiểu loại khác nhau: thuyền chiến, thuyền tải, thuyền bơi trải. Trên bộ còn sử dụng súc vật như voi, trâu, bò, ngựa. + Đời sống tinh thần Cư dân Văn Lang - Âu Lạc đã đạt đến một trình độ thẩm mỹ, tư duy khá cao. Những sản phẩm đẹp, tiêu biểu như trống đồng, thạp đồng, trang sức bằng đồng nói lên kỹ thuật luyện đồng đã đạt đến đỉnh cao (từ cách xây dựng các lò đúc, khuôn đúc, nguyên liệu pha chế hợp kim, làm hoa văn,...). Người xưa tuỳ theo chức năng sử dụng của từng loại công cụ mà tạo nên một hợp kim hay tỷ lệ giữa các hợp kim cho phù hợp với cách chế tạo đồ đồng của người Đông Sơn, thể hiện khá rõ nét trình độ tư duy khá cao của người Việt cổ. Điều này còn được thể hiện ở trình độ luyện sắt bấy giờ với phương pháp hoàn nguyên trực tiếp thành loại sắt xốp. Trong quá trình quy tụ các bộ lạc sống trên cùng một phạm vi đất đai đã hình thành lãnh thổ chung, đã nổi lên xu hướng thống nhất, đoàn kết, hoà hợp trước yêu cầu trị thủy, làm thuỷ lợi để phát triển nông nghiệp và chống ngoại xâm. Từ ý thức cộng đồng đã nảy sinh tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, sùng bái các anh hùng, các thủ lĩnh. Cụ thể, trong ý thức tư tưởng của cư dân bấy giờ, là các cộng đồng cư dân của nước Văn Lang - Âu Lạc đều có cùng chung một cội nguồn, một tổ tiên. Bên cạnh tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên mới nảy sinh, người đương thời còn bảo lưu những tàn dư của các hình thức tôn giáo nguyên thuỷ như: tín ngưỡng vật tổ, ma thuật, phồn thực với những nghi lễ cầu mong được mùa, giống nòi phát triển. Nhiều phong tục tập quán được định hình đã nói lên sự phong phú và phát triển của đời sống tinh thần trong xã hội Hùng Vương như tục ăn đất, uống nước bằng mũi, tục giã cối (để làm hiệu lệnh, truyền tin), tục cưới xin, ăn hỏi, ma chay, chôn cất người chết trong mộ đất, mộ có quan tài hình thuyền, chôn chồng lên nhau, chôn trong nồi vò úp nhau, chôn theo đồ tuỳ táng bằng hiện vật. Lễ hội bấy giờ rất phổ biến, thịnh hành, là một phần quan trọng trong đời sống tinh thần của người Văn Lang - Âu Lạc. Lễ hội được tiến hành rải rác quanh năm, trong đó đặc sắc nhất là ngày hội mùa với nhiều nghi lễ như đâm trâu, bò và các hình thức diễn xướng dân gian (đoàn người hoá trang, vừa đi vừa múa, tay cầm giáo, lao, nhạc cụ...). Bên cạnh đó, còn có những hội thi tài, thi sức khoẻ, hội đâm trâu, hội cầu nước, hội mừng năm mới... Trong cuộc sống, cư dân thời Hùng Vương rất thích cái đẹp và hướng tới cái đẹp. Đồ trang sức, công cụ lao động và đồ dùng sinh hoạt cũng như vũ khí không những hết sức phong phú mà còn đạt đến trình độ kỹ thuật và mỹ thuật rất cao, có những thứ có thể xem như là những tác phẩm nghệ thuật. Nghệ thuật Đông Sơn trở thành đỉnh cao của nghệ thuật tạo hình thời Hùng Vương. Nghệ thuật đó vừa phản ánh cuộc sống thường nhật của cư dân Việt cổ, vừa thể hiện mối quan hệ giữa con người với thế giới chung quanh, với những đường nét có tính ước lệ, cách điệu và một bố cục cân xứng, hài hoà. Nghệ thuật âm nhạc cũng phát triển. Có nhiều nhạc cụ được chế tạo và sử dụng bộ gõ có trống đồng, trống da, chuông nhạc, phách, bộ hơi (khèn). Trong các nhạc cụ, tiêu biểu nhất là trống đồng. Kết cấu trống đồng gồm có phần tang phình ra, phần thân và chân trống loe ra giúp cho hình dáng trống đẹp, có sức cộng hưởng làm cho âm thanh vang xa. Cư dân bấy giờ biết sử dụng nhiều nhạc cụ phối hợp trong các lễ hội. Trên trống đồng Đông Sơn có cảnh sử dụng dàn trống đồng từ 2 đến 4 chiếc, dàn cồng từ 6 đến 8 chiếc và một tốp người vừa múa vừa sử dụng những nhạc khí khác nhau như chuông, khèn, sênh. Trên trống đồng có hình ảnh người nhảy múa hoá trang và múa vũ trang. Có tượng đồng Đông Sơn thể hiện hai người cõng nhau, vừa thổi khèn, vừa nhảy múa. Trống đồng là di vật tiêu biểu của nền văn hóa Đông Sơn và văn minh sông Hồng. Trống loại I (theo sự phân loại của F.Hegơ) là loại trống đồng sớm nhất, đẹp nhất, được sử dụng phổ biến với tư cách là một nhạc khí quan trọng trong các buổi tế, lễ, hội hè, ca múa. Trống đồng Đông Sơn có lẽ còn được sử dụng làm hiệu lệnh chiến đấu, giữ gìn an ninh, được dùng trong tuỳ táng và trao đổi mua bán ở trong nước và với nước ngoài (với Malaixia, Inđônêxia,...). Trống đồng với những nét đặc sắc nói trên, là một sản phẩm lao động, một tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu cho trình độ trí tuệ, tài năng sáng tạo tuyệt vời của cư dân Văn Lang - Âu Lạc, là biểu hiện rõ nét, tập trung của nền văn minh sông Hồng. Cùng với trống đồng, công trình kiến trúc thành Cổ Loa cũng biểu hiện trình độ phát triển cao của cư dân thời Văn Lang - Âu Lạc. + Tổ chức xã hội: Đứng đầu nhà nước Văn Lang - Âu Lạc là nhà vua, cha truyền con nối. Giúp việc cho nhà vua có các Lạc hầu, Lạc tướng. Nhà nước văn lang đã có một đội quan thường trực với vũ khí bằng đồng, như: dìu chiến, giáo mác, dao găm. Đăc biệt, họ biết sử dụng thành thạo các loại cung nỏ, có loại bắn một lần được nhiều mũi tên. Thời Âu Lạc, nhà vua đóng đô ở thành Cổ Loa. Đơn vị xã hội cơ sở của người Việt cổ là các làng bản, đứng đầu làng bản là các Bố chính (thường là một người già làng), Bình dân làng xã gọi là Lạc dân. Trong làng xã, tinh thần cộng đồng rất sâu đậm. Họ sống quây quần giúp đỡ lẫn nhau, đoàn kết cùng chống kẻ thù đến xâm lấn. - Một số đặc trưng của nền văn minh sông Hồng: + Về mặt kỹ thuật: Nền văn minh sông Hồng hình thành và phát triển trên cơ sở cuộc cách mạng luyện kim với nghề đúc đồng dần đạt đến mức hoàn thiện (tiêu biểu là nền văn hóa Đông Sơn). Và trên cơ sở đỉnh cao của nghệ thuật đúc đồng đó, chủ nhân của nền văn hóa đã bước vào Sơ kỳ thời đại đồ sắt. + Về kinh tế: Nền văn minh sông Hồng thực chất là nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước của người Việt cổ sống trong khu vực nhiệt đới gió mùa, một xứ sở có nhiều sông nước, núi rừng, đồng bằng và biển cả. + Về mặt xã hội: Nền văn minh sông Hồng là một nền văn minh xóm làng dựa trên cơ cấu nông thôn kiểu Á châu của một xã hội phân hóa chưa sâu sắc, gay gắt và nhà nước mới hình thành. Nhà nước vừa có mặt bóc lột công xã, lại vừa đại diện cho lợi ích chung của công xã trong yêu cầu tổ chức đấu tranh chinh phục thiên nhiên, chống thiên tai, khai hoang, trị thủy làm thủy lợi, tự vệ và chống ngoại xâm. + Nền văn minh sông Hồng là nền văn minh bản địa đậm nét, kết tinh trong đó bản lĩnh, truyền thống, cốt cách, lối sống và lẽ sống của người Việt cổ: Chung lưng đấu cật, đoàn kết, gắn bó với nhau trong lao động và đấu tranh, giàu tình làng nghĩa nước, tôn trọng người già và phụ nữ, biết ơn và tôn thờ tổ tiên, các anh hùng nghĩa sĩ,...; có cội dễ và cơ sở sâu xa trong cuộc sống lâu đời của các lớp cư dân trên lãnh thổ Văn Lang - Âu Lạc thủa đó. + Nền văn minh sông Hồng cũng sớm có quan hệ giao lưu mật thiết với các nền văn minh láng giềng, đặc biệt là văn minh Trung Hoa và văn minh Ấn Độ. Như vậy, nền văn minh Văn Lang - Âu Lạc hay nền văn minh Việt cổ là gọi theo tên của thời gian xuất hiện; Văn minh sông Hồng là gọi theo tên của địa bàn xuất hiện (lưu vực sông Hồng). Nhưng thực ra địa bàn của văn minh Văn Lang - Âu Lạc hay văn minh Việt cổ ngoài lưu vực sông Hồng còn bao gồm cả các triền sông lớn khác của vùng Bắc Trung Bộ như sông Mã, sông Cả,... Khảo cổ học đã chứng minh dòng chảy chủ yếu tạo thành nền văn minh sông Hồng chính là dòng văn hóa sinh ra và trưởng thành trên mảnh đất màu mỡ của vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng. Trên địa bàn này từ sơ kỳ thời đại đồng thau đến sơ kỳ thời đại đồ sát đã diễn ra quá trình hình thành và phát triển của bộ phận dân cư nông nghiệp trồng lúa nước, cốt lõi đầu tiên của người Việt, chủ nhân của nền văn minh Việt cổ. Theo tiến trình phát triển, văn hóa Phùng Nguyên (Sơ kỳ thời đại đồng thau) chính là cội nguồn của nền văn minh sông Hồng. Các giai đoạn văn hóa tiếp theo là văn hóa Đồng Đậu (trung kỳ thời đại đồng thau), văn hóa Gò Mun (hậu kỳ thời đại đồng thau) là quá trình chuẩn bị trực tiếp cho sự ra đời của nền văn minh sông Hồng và giai đoạn văn hóa Đông Sơn (Sơ kỳ thời đại đồ sắt). Bên cạnh những dòng chảy chính còn có nền văn hóa Hoa Lộc, nền văn hóa Hạ Long của nhóm cư dân sống ven biển và trên các đảo Đông Bắc thời kỳ trước đó (hậu kỳ đá mới). Nếu ở giai đoạn tiền văn hóa Đông Sơn các nền văn hóa đã có mối liên hệ với nhau, nhưng về cơ bản vẫn còn mang đậm dấu ấn địa phương gắn liền với từng nhóm cư dân trong từng khu vực nhất định thì đến giai đoạn văn hóa Đông Sơn dù là di chỉ được phát hiện ở đâu, thuộc lưu vực sông Hồng, sông Mã hay sông Cả, dù ở miền đồng bằng châu thổ hay miền núi, mặc dù mỗi vùng vẫn có phong cách riêng nhưng tất cả đều mang những đặc trưng chung của văn hóa Đông Sơn, với những di vật tiêu biểu như: Trống đồng, thạp đồng, thố, dao găm, giáo, dìu, lưỡi cày,... Đây rõ ràng là một nền văn hóa thống nhất của một cộng đồng quốc gia, một cộng đồng bộ tộc đã có sự liên kết với nhau trên một lãnh thổ, một nền tảng kinh tế - xã hội và một lối sống chung. Giai đoạn Văn hóa Đông Sơn là chặng đường cuối, là sản phẩm tổng hợp, là đỉnh cao của quá trình tạo thành nền văn minh sông Hồng. Quá trình hình thành nền văn minh sông Hồng cũng chính là nền hình thành cư dân Việt cổ và tiếng Việt cổ. Trải qua một chặng đường dài, người Việt cổ đã xây dựng được cho mình một nền văn minh đầu tiên, đó là nền Văn minh sông Hồng - một nền văn minh bản địa đã trở thành cội nguồn của các nền văn minh tiếp sau của dân tộc Việt Nam, đặt nền móng vững chắc cho bản sắc dân tộc, là cội nguồn sức mạnh tinh thần để nhân dân Việt Nam đứng vững, vượt qua được thử thách to lớn trong hơn một nghìn năm Bắc thuộc.


NỀN VĂN MINH SÔNG HỒNG - CƠ SỞ HÌNH THÀNH, THÀNH TỰU, ĐẶC TRƯNG, CÁC TÊN GỌI VÀ Ý NGHĨA


Sau một thời kỳ dài sống định cư và mở rộng lãnh thổ, phát triển nền kinh tế với nông nghiệp trồng lúa nước là chủ đạo, vượt qua nông nghiệp dùng cuốc đến nông nghiệp dùng cày (bằng lưỡi cày đồng tiến lên lưỡi cày sắt) có sức kéo là trâu bò cùng với những tiến bộ khác, người Việt cổ đã đưa xã hội vượt qua thời tiền sử, vượt qua hình thái kinh tế - xã hội nguyên thuỷ sang hình thái kinh tế xã hội đầu tiên thuộc phạm trù của thời đại văn minh, của xã hội phân hóa giai cấp và có nhà nước (Nhà nước Văn Lang của các vua Hùng tiếp đến là nước Âu Lạc của vua Thục). Đồng thời, người Việt cổ đã xây dựng được một nền văn minh đầu tiên, đó là nền văn minh Văn Lang - Âu Lạc hay còn gọi là nền văn minh sông Hồng, đây là nền văn minh bản địa. Sự ra đời một hình thái nhà nước đầu tiên dù còn sơ khai nhưng đã đánh dấu một bước tiến quan trọng của lịch sử Việt Nam. Nó xác nhận quá trình dựng nước thời Hùng Vương - với nhà nước Văn Lang và đặt cơ sở cho sự hình thành cộng đồng dân tộc Việt Nam, cộng đồng quốc gia Việt Nam. Nhà nước Văn Lang - Âu Lạc với những thành tựu dựng nước và bước đầu giữ nước, với nền Văn minh sông Hồng (Văn minh Văn Lang - Âu Lạc hay còn gọi là văn minh Việt cổ) rực rỡ đã khẳng định vị trí của nó trong lịch sử dân tộc, mở đầu sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.

- Nền văn minh sông Hồng - cơ sở hình thành: 

+ Nền Văn minh sông Hồng được hình thành từ những nền văn hóa tiền sử xa xôi và được trực tiếp tạo thành trong một quá trình liên tục từ Sơ kỳ thời đại đồng thau đến Sơ kỳ thời đại đồ sắt (tiêu biểu là văn hóa Đông Sơn). Công cụ kim loại sắc bén và thuận lợi hơn nhiều so với công cụ bằng đá đã tạo nên những chuyển biến về chất trong sản xuất và đời sống xã hội.

+ Quá trình hình thành nền văn minh sông Hồng đồng thời là quá trình liên kết các bộ lạc và liên minh bộ lạc thành cộng đồng quốc gia, cộng đồng bộ tộc với cơ cấu nhà nước sơ khai của người Việt cổ. Đó cũng chính là quá trình tác động và dung hợp nhiều nền văn hóa của những thành phần cư dân khác nhau, thành một nền văn hóa thống nhất với nhiều loại hình địa phương, gồm nhiều thành phần dân tộc gần gũi nhau về nhân chủng và văn hóa. Cộng đồng người Việt Cổ được hình thành qua nhiều quá trình: Nhóm Môngôlôit hỗn chủng với nhóm Ôxơralôit tạo thành người Lạc Việt, nhóm Lạc Việt hòa nhập với nhóm Tây Âu tạo thành người Âu Lạc. Cộng đồng cư dân đó bước đầu được gắn bó bởi ý thức về một dòng giống chung (là con rồng cháu tiên), bởi sự cố kết trong cuộc đấu tranh với thiên nhiên (bão lụt, hạn hán) và với xã hội (giặc ngoại xâm).

+ Lúc này người Việt Cổ đã từ vùng gò đồi cao tràn xuống vùng đồng bằng và vùng ven biển để sinh sống. Lưu vực sông Hồng, sông Mã, sông Cả,... đã tạo nên vùng đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ trù phú - một địa bàn thuận lợi cho người Việt cổ sinh sống.

- Thành tựu của nền văn minh sông Hồng:

Nền văn minh sông Hồng được hình thành cùng với sự ra đời của nhà nước Văn Lang - Âu Lạc và sự phát triển của đời sống vật chất và tinh thần của người Việt cổ. Trên cơ sở một nền kinh tế phát triển mạnh và phạm vi lãnh thổ được mở rộng từ vùng đồi núi, trung du đến vùng đồng bằng rộng lớn của sông Hồng, sông Mã, sông Cả,... đời sống vật chất, tinh thần được nâng cao rõ rệt; tổ chức xã hội đạt đến một trình độ cao hơn, vượt khỏi thời nguyên thuỷ, bước sang thời đại văn minh đầu tiên của người Việt cổ - nền văn minh sông Hồng.

+ Về đời sống vật chất:

Thóc gạo là nguồn lương thực chính của cư dân Văn Lang - Âu Lạc, chủ yếu là gạo nếp. Người bấy giờ dùng gạo nếp để thổi cơm, xôi, làm bánh chưng, bánh giầy. Sách Lĩnh nam chích quái ghi rằng ở thời Hùng Vương trồng được nhiều gạo nếp, lấy ống tre mà thổi cơm. Nhiều chiếc chõ gốm dùng để thổi xôi đã được tìm thấy ở các địa điểm thuộc văn hoá Đông Sơn. Ngoài thóc gạo là nguồn lương thực chính, cư dân Văn Lang - Âu Lạc còn sử dụng các loại hoa màu, rau quả, nhất là các loại cây có củ cung cấp chất bột như củ từ, khoai lang, sắn, củ mài, khoai sọ. Lúc thiếu thốn, người ta còn dùng các loại cây có bột khác như cây quang lang, búng, báng.

Thức ăn cũng khá phong phú, gồm các loại cá, tôm, cua, ốc hến, ba ba, các loại rau củ (bầu, bí, cà, đậu...). Thức ăn được chế biến theo nhiều cách khác nhau theo sở thích từng vùng, từng gia đình (đun nấu, nướng, muối, ăn sống...) Nghề chăn nuôi và săn bắn phát triển đã cung cấp thêm nguồn thức ăn cho mỗi gia đình. Cư dân bấy giờ đã biết chăn nuôi nhiều loại gia súc, gia cầm (trâu, bò, lợn, gà, chó...). Trong thức ăn quen thuộc của cư dân Văn Lang - Âu Lạc còn có nhiều loại hoa quả vùng nhiệt đới như: vải, nhãn, mơ, mận, chuối, dưa hấu, cam, quýt,... Người ta cũng đã biết sử dụng nhiều thứ gia vị có nguồn gốc thực vật như gừng, hẹ,... Nguồn lương thực và thực phẩm của người Việt cổ rất phong phú, đa dạng và rất giàu chất bột, chất đạm và các chất bổ khác. Đây là một biểu hiện của cuộc sống vật chất được nâng cao, của sự phát triển kỹ thuật canh tác nông nghiệp của cư dân bấy giờ .

Tập quán ăn uống: Người Việt cổ bấy giờ có tục uống rượu gạo và ăn trầu. Rượu được nhắc đến nhiều trong các thư tịch cổ, truyện dân gian. Người Đông Sơn có thói quen ăn trầu, nhuộm răng đen. Dấu tích hạt cau, quả cau đã được tìm thấy ở Đông Sơn.

Trang phục của cư dân Văn Lang - Âu Lạc đã phản ánh một phần trình độ phát triển, óc thẩm mỹ và bản sắc văn hoá của người Việt cổ. Do nghề dệt phát triển, người Việt cổ đã sản xuất được nhiều loại vải khác nhau từ sợi đay, gai, tơ tằm, bông,... nên đã đáp ứng được nhu cầu may mặc của nhân dân. Trong sinh hoạt đời thường, nam thường đóng khố, nữ mặc váy. Khố của nam giới có loại quấn đơn và loại quần kép. Váy của nữ giới có loại váy quấn và loại váy chui, được làm từ một mảnh vải dài, rộng. Tượng người đàn ông thổi kèn ngồi trên cán đèn Việt Khê hay các tượng mặc váy dài trên thạp đồng Đào Thịnh đã phản ánh kiểu mặc đó. Phụ nữ ngoài mặc váy còn có yếm che kín ngực, áo xẻ giữa, thắt lưng quấn ngang bụng và khăn quấn đầu. Vào các ngày lễ hội, trang phục của nam nữ đẹp đẽ hơn: có mũ lông chim, váy xòe kết bằng lông chim hoặc lá cây và mang nhiều đồ trang sức đẹp (khuyên tai, hạt chuỗi, nhẫn, vòng tay, vòng cổ chân bằng đá, đồng).

Sự phát triển kinh tế, nhất là sự phát triển mạnh của nghề thủ công và kỹ thuật luyện kim đã tạo điều kiện làm phong phú, đa dạng các đồ trang sức. Điều đó cũng chứng tỏ đời sống vật chất của cư dân Văn Lang - Âu Lạc được nâng cao rõ rệt.

Về đầu tóc, người bấy giờ có bốn kiểu: kiểu tóc cắt ngắn, búi tó, tết bím và tóc quấn ngược lên đỉnh đầu. Trên thạp đồng Đào Thịnh (Yên Bái) có tượng nam tóc cắt ngắn ngang vai để xoã. Ở trống đồng Cổ Loa cũng có hiện tượng tương tự. Lối cắt tóc ngắn đến ngang lưng, để xoã khá phổ biến ở nam giới thời bấy giờ. Búi tóc cũng rất phổ biến ở cả nam giới và nữ giới. Nhiều người còn có kiểu chít một dải khăn nhỏ giữa trán và chân tóc, hoặc có đuôi khăn thả dài phía sau. Có thể nói, kiểu tóc cắt ngắn buông xoã sau lưng và búi tóc cao sau đầu là hai kiểu tóc phổ biến nhất của người Đông Sơn. Người Việt cổ bấy giờ còn có tục xăm mình.

Nhà ở có nhiều kiểu như nhà sàn, nhà mái cong làm bằng gỗ, tre, nứa. Trên trống đồng Đông Sơn ta thấy có 2 kiểu nhà: nhà sàn mái cong hình thuyền và mái tròn hình mui thuyền, sàn thấp, mái rủ xuống như mái tranh đến gần sàn, có cầu thang lên xuống. Mỗi công xã nông thôn bao gồm một số nhà sàn quần tụ bên nhau trong một địa vực, hình thành những xóm làng định cư lâu dài mà thời đó thường gọi là kẻ, chiềng - tức là nơi chốn, chạ tức là tục kết đôi làng quê. Các vật dụng trong sinh hoạt gia đình rất phong phú như bình, vò, thạp, mâm, chậu, bát bằng đồ gốm hay bằng đồng. Ngoài ra, có những đồ dùng làm bằng tre, nứa, mây, vỏ bầu,...

Phương tiện giao thông chủ yếu là thuyền bè. Thuyền có thuyền độc mộc, thuyền ván với các kiểu loại khác nhau: thuyền chiến, thuyền tải, thuyền bơi trải. Trên bộ còn sử dụng súc vật như voi, trâu, bò, ngựa.

+ Đời sống tinh thần

Cư dân Văn Lang - Âu Lạc đã đạt đến một trình độ thẩm mỹ, tư duy khá cao. Những sản phẩm đẹp, tiêu biểu như trống đồng, thạp đồng, trang sức bằng đồng nói lên kỹ thuật luyện đồng đã đạt đến đỉnh cao (từ cách xây dựng các lò đúc, khuôn đúc, nguyên liệu pha chế hợp kim, làm hoa văn,...). Người xưa tuỳ theo chức năng sử dụng của từng loại công cụ mà tạo nên một hợp kim hay tỷ lệ giữa các hợp kim cho phù hợp với cách chế tạo đồ đồng của người Đông Sơn, thể hiện khá rõ nét trình độ tư duy khá cao của người Việt cổ. Điều này còn được thể hiện ở trình độ luyện sắt bấy giờ với phương pháp hoàn nguyên trực tiếp thành loại sắt xốp.

Trong quá trình quy tụ các bộ lạc sống trên cùng một phạm vi đất đai đã hình thành lãnh thổ chung, đã nổi lên xu hướng thống nhất, đoàn kết, hoà hợp trước yêu cầu trị thủy, làm thuỷ lợi để phát triển nông nghiệp và chống ngoại xâm.

Từ ý thức cộng đồng đã nảy sinh tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, sùng bái các anh hùng, các thủ lĩnh. Cụ thể, trong ý thức tư tưởng của cư dân bấy giờ, là các cộng đồng cư dân của nước Văn Lang - Âu Lạc đều có cùng chung một cội nguồn, một tổ tiên. Bên cạnh tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên mới nảy sinh, người đương thời còn bảo lưu những tàn dư của các hình thức tôn giáo nguyên thuỷ như: tín ngưỡng vật tổ, ma thuật, phồn thực với những nghi lễ cầu mong được mùa, giống nòi phát triển. Nhiều phong tục tập quán được định hình đã nói lên sự phong phú và phát triển của đời sống tinh thần trong xã hội Hùng Vương như tục ăn đất, uống nước bằng mũi, tục giã cối (để làm hiệu lệnh, truyền tin), tục cưới xin, ăn hỏi, ma chay, chôn cất người chết trong mộ đất, mộ có quan tài hình thuyền, chôn chồng lên nhau, chôn trong nồi vò úp nhau, chôn theo đồ tuỳ táng bằng hiện vật.

Lễ hội bấy giờ rất phổ biến, thịnh hành, là một phần quan trọng trong đời sống tinh thần của người Văn Lang - Âu Lạc. Lễ hội được tiến hành rải rác quanh năm, trong đó đặc sắc nhất là ngày hội mùa với nhiều nghi lễ như đâm trâu, bò và các hình thức diễn xướng dân gian (đoàn người hoá trang, vừa đi vừa múa, tay cầm giáo, lao, nhạc cụ...). Bên cạnh đó, còn có những hội thi tài, thi sức khoẻ, hội đâm trâu, hội cầu nước, hội mừng năm mới...

Trong cuộc sống, cư dân thời Hùng Vương rất thích cái đẹp và hướng tới cái đẹp. Đồ trang sức, công cụ lao động và đồ dùng sinh hoạt cũng như vũ khí không những hết sức phong phú mà còn đạt đến trình độ kỹ thuật và mỹ thuật rất cao, có những thứ có thể xem như là những tác phẩm nghệ thuật. Nghệ thuật Đông Sơn trở thành đỉnh cao của nghệ thuật tạo hình thời Hùng Vương. Nghệ thuật đó vừa phản ánh cuộc sống thường nhật của cư dân Việt cổ, vừa thể hiện mối quan hệ giữa con người với thế giới chung quanh, với những đường nét có tính ước lệ, cách điệu và một bố cục cân xứng, hài hoà.

Nghệ thuật âm nhạc cũng phát triển. Có nhiều nhạc cụ được chế tạo và sử dụng bộ gõ có trống đồng, trống da, chuông nhạc, phách, bộ hơi (khèn). Trong các nhạc cụ, tiêu biểu nhất là trống đồng. Kết cấu trống đồng gồm có phần tang phình ra, phần thân và chân trống loe ra giúp cho hình dáng trống đẹp, có sức cộng hưởng làm cho âm thanh vang xa. Cư dân bấy giờ biết sử dụng nhiều nhạc cụ phối hợp trong các lễ hội. Trên trống đồng Đông Sơn có cảnh sử dụng dàn trống đồng từ 2 đến 4 chiếc, dàn cồng từ 6 đến 8 chiếc và một tốp người vừa múa vừa sử dụng những nhạc khí khác nhau như chuông, khèn, sênh. Trên trống đồng có hình ảnh người nhảy múa hoá trang và múa vũ trang. Có tượng đồng Đông Sơn thể hiện hai người cõng nhau, vừa thổi khèn, vừa nhảy múa.

Trống đồng là di vật tiêu biểu của nền văn hóa Đông Sơn và văn minh sông Hồng. Trống loại I (theo sự phân loại của F.Hegơ) là loại trống đồng sớm nhất, đẹp nhất, được sử dụng phổ biến với tư cách là một nhạc khí quan trọng trong các buổi tế, lễ, hội hè, ca múa. Trống đồng Đông Sơn có lẽ còn được sử dụng làm hiệu lệnh chiến đấu, giữ gìn an ninh, được dùng trong tuỳ táng và trao đổi mua bán ở trong nước và với nước ngoài (với Malaixia, Inđônêxia,...). Trống đồng với những nét đặc sắc nói trên, là một sản phẩm lao động, một tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu cho trình độ trí tuệ, tài năng sáng tạo tuyệt vời của cư dân Văn Lang - Âu Lạc, là biểu hiện rõ nét, tập trung của nền văn minh sông Hồng.

Cùng với trống đồng, công trình kiến trúc thành Cổ Loa cũng biểu hiện trình độ phát triển cao của cư dân thời Văn Lang - Âu Lạc.

+ Tổ chức xã hội: Đứng đầu nhà nước Văn Lang - Âu Lạc là nhà vua, cha truyền con nối. Giúp việc cho nhà vua có các Lạc hầu, Lạc tướng. Nhà nước văn lang đã có một đội quan thường trực với vũ khí bằng đồng, như: dìu chiến, giáo mác, dao găm. Đăc biệt, họ biết sử dụng thành thạo các loại cung nỏ, có loại bắn một lần được nhiều mũi tên. Thời Âu Lạc, nhà vua đóng đô ở thành Cổ Loa.

Đơn vị xã hội cơ sở của người Việt cổ là các làng bản, đứng đầu làng bản là các Bố chính (thường là một người già làng), Bình dân làng xã gọi là Lạc dân. Trong làng xã, tinh thần cộng đồng rất sâu đậm. Họ sống quây quần giúp đỡ lẫn nhau, đoàn kết cùng chống kẻ thù đến xâm lấn.

- Một số đặc trưng của nền văn minh sông Hồng:


+ Về mặt kỹ thuật: Nền văn minh sông Hồng hình thành và phát triển trên cơ sở cuộc cách mạng luyện kim với nghề đúc đồng dần đạt đến mức hoàn thiện (tiêu biểu là nền văn hóa Đông Sơn). Và trên cơ sở đỉnh cao của nghệ thuật đúc đồng đó, chủ nhân của nền văn hóa đã bước vào Sơ kỳ thời đại đồ sắt.

+ Về kinh tế: Nền văn minh sông Hồng thực chất là nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước của người Việt cổ sống trong khu vực nhiệt đới gió mùa, một xứ sở có nhiều sông nước, núi rừng, đồng bằng và biển cả.

+ Về mặt xã hội: Nền văn minh sông Hồng là một nền văn minh xóm làng dựa trên cơ cấu nông thôn kiểu Á châu của một xã hội phân hóa chưa sâu sắc, gay gắt và nhà nước mới hình thành. Nhà nước vừa có mặt bóc lột công xã, lại vừa đại diện cho lợi ích chung của công xã trong yêu cầu tổ chức đấu tranh chinh phục thiên nhiên, chống thiên tai, khai hoang, trị thủy làm thủy lợi, tự vệ và chống ngoại xâm.

+ Nền văn minh sông Hồng là nền văn minh bản địa đậm nét, kết tinh trong đó bản lĩnh, truyền thống, cốt cách, lối sống và lẽ sống của người Việt cổ: Chung lưng đấu cật, đoàn kết, gắn bó với nhau trong lao động và đấu tranh, giàu tình làng nghĩa nước, tôn trọng người già và phụ nữ, biết ơn và tôn thờ tổ tiên, các anh hùng nghĩa sĩ,...; có cội dễ và cơ sở sâu xa trong cuộc sống lâu đời của các lớp cư dân trên lãnh thổ Văn Lang - Âu Lạc thủa đó.

+ Nền văn minh sông Hồng cũng sớm có quan hệ giao lưu mật thiết với các nền văn minh láng giềng, đặc biệt là văn minh Trung Hoa và văn minh Ấn Độ.

Như vậy, nền văn minh Văn Lang - Âu Lạc hay nền văn minh Việt cổ là gọi theo tên của thời gian xuất hiện; Văn minh sông Hồng là gọi theo tên của địa bàn xuất hiện (lưu vực sông Hồng). Nhưng thực ra địa bàn của văn minh Văn Lang - Âu Lạc hay văn minh Việt cổ ngoài lưu vực sông Hồng còn bao gồm cả các triền sông lớn khác của vùng Bắc Trung Bộ như sông Mã, sông Cả,...


Khảo cổ học đã chứng minh dòng chảy chủ yếu tạo thành nền văn minh sông Hồng chính là dòng văn hóa sinh ra và trưởng thành trên mảnh đất màu mỡ của vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng. Trên địa bàn này từ sơ kỳ thời đại đồng thau đến sơ kỳ thời đại đồ sát đã diễn ra quá trình hình thành và phát triển của bộ phận dân cư nông nghiệp trồng lúa nước, cốt lõi đầu tiên của người Việt, chủ nhân của nền văn minh Việt cổ. Theo tiến trình phát triển, văn hóa Phùng Nguyên (Sơ kỳ thời đại đồng thau) chính là cội nguồn của nền văn minh sông Hồng. Các giai đoạn văn hóa tiếp theo là văn hóa Đồng Đậu (trung kỳ thời đại đồng thau), văn hóa Gò Mun (hậu kỳ thời đại đồng thau) là quá trình chuẩn bị trực tiếp cho sự ra đời của nền văn minh sông Hồng và giai đoạn văn hóa Đông Sơn (Sơ kỳ thời đại đồ sắt). Bên cạnh những dòng chảy chính còn có nền văn hóa Hoa Lộc, nền văn hóa Hạ Long của nhóm cư dân sống ven biển và trên các đảo Đông Bắc thời kỳ trước đó (hậu kỳ đá mới). Nếu ở giai đoạn tiền văn hóa Đông Sơn các nền văn hóa đã có mối liên hệ với nhau, nhưng về cơ bản vẫn còn mang đậm dấu ấn địa phương gắn liền với từng nhóm cư dân trong từng khu vực nhất định thì đến giai đoạn văn hóa Đông Sơn dù là di chỉ được phát hiện ở đâu, thuộc lưu vực sông Hồng, sông Mã hay sông Cả, dù ở miền đồng bằng châu thổ hay miền núi, mặc dù mỗi vùng vẫn có phong cách riêng nhưng tất cả đều mang những đặc trưng chung của văn hóa Đông Sơn, với những di vật tiêu biểu như: Trống đồng, thạp đồng, thố, dao găm, giáo, dìu, lưỡi cày,... Đây rõ ràng là một nền văn hóa thống nhất của một cộng đồng quốc gia, một cộng đồng bộ tộc đã có sự liên kết với nhau trên một lãnh thổ, một nền tảng kinh tế - xã hội và một lối sống chung. Giai đoạn Văn hóa Đông Sơn là chặng đường cuối, là sản phẩm tổng hợp, là đỉnh cao của quá trình tạo thành nền văn minh sông Hồng. Quá trình hình thành nền văn minh sông Hồng cũng chính là nền hình thành cư dân Việt cổ và tiếng Việt cổ.

Trải qua một chặng đường dài, người Việt cổ đã xây dựng được cho mình một nền văn minh đầu tiên, đó là nền Văn minh sông Hồng - một nền văn minh bản địa đã trở thành cội nguồn của các nền văn minh tiếp sau của dân tộc Việt Nam, đặt nền móng vững chắc cho bản sắc dân tộc, là cội nguồn sức mạnh tinh thần để nhân dân Việt Nam đứng vững, vượt qua được thử thách to lớn trong hơn một nghìn năm Bắc thuộc.

Sự thật về làng nói ngôn ngữ thời Âu Lạc ở Hà Nội


Sự thật về làng nói ngôn ngữ thời Âu Lạc ở Hà Nội

Có chăng làng nói tiếng… Âu Lạc giữa thủ đô?

Cách Hà Nội khoảng 40 km, làng Đa Chất (xã Đại Xuyên, huyện Phú Xuyên, Hà Nội) nằm yên bình giữa ngã ba sông Lương và sông Nhuệ hiền hòa. Không giống như nhiều làng quê khác ở Hà Nội, làng Đa Chất được đồn đoán có một thứ “ngôn ngữ cổ” đang dần dần biến mất cùng những thế hệ người cao tuổi của làng.

Theo lời chỉ dẫn của dân làng, chúng tôi tìm đến nơi ở của cụ Nguyễn Văn Đoán – 73 tuổi. Cụ Đoán là một trong những người cao tuổi hiếm hoi của làng hiện còn biết sử dụng thứ ngôn ngữ cổ này và bản thân cụ Đoán cũng từng là một thợ đóng cối khá nổi tiếng khi xưa ở làng Đa Chất.

Ngay khi gặp được cụ Đoán với câu hỏi về việc làng đang lưu trữ và thường xuyên sử dụng một thứ ngôn ngữ có từ thời Âu Lạc, cụ Đoán vừa cười vừa xua tay:“Làng tôi làm gì có ngôn ngữ cổ Văn Lang hay Âu Lạc nào đâu. Đó chỉ là tiếng lóng của các anh thợ đóng cối ngày xưa thôi”.

Cụ Đoán bên chiếc cối xay thóc cổ ngày xưa của gia đình từng dùng và cũng là nguồn gốc cho ra đời tiếng lóng mà nhiều người vẫn cho là ngôn ngữ cổ ở Đa Chất

Cụ Đoán giải thích rõ rằng, tiếng lóng của làng Đa Chất có từ lâu lắm rồi và trong cả xã chỉ có làng Đa Chất là có thứ ngôn ngữ này. Đặc biệt, thứ ngôn ngữ cổ xưa mà đã có một số bài báo nói có từ thời Âu Lạc thực tế chỉ có từ khi làng Đa Chất làm nghề đóng cối tuốt lúa chứ không phải có từ thời Âu Lạc. Sau đó được truyền miệng từ đời này sang đời khác như một cách bảo vệ bí mật nghề nghiệp của phường đóng cối khi đi xa và đồng thời cũng là để nhận diện được đồng hương của mình. 

Làng Đa Chất vốn nổi tiếng từ xa xưa là có nghề đóng cối xay lúa truyền thống bằng tre nứa rất tốt và được gần xa biết đến bởi các sản phẩm khéo tay của các người thợ. Để kiếm thêm tiền ở các tỉnh khác, nhiều thợ đóng cối ở Đa Chất đã đi đến nhiều tỉnh thành khác nhau khắp cả nước để đóng cối bán.  

Đó là chưa kể đến việc các thợ đóng cối làng Đa Chất dùng tiếng lóng có cái lợi là đôi khi phường đóng cối đến nhà chủ nhà có thể nói chuyện về việc đối đãi của chủ nhà để làm cho tốt hay… chơi xấu những chủ nhà xấu tính.

Tiếng lóng hay ngôn ngữ cổ

Cụ Đoán chứng minh cho tôi những gì mà một bài báo trước đó từng viết về thứ ngôn ngữ cổ ở làng Đa Chất thực tế là chưa chính xác. Cụ nói rằng các vật dụng, hành động hàng ngày đều có trong tiếng lóng của làng Đa Chất và diễn đạt được rất cụ thể cũng như có thể ghép nối lại với nhau như trong bảng chữ cái.

Cụ Đoán chỉ ra một số tiếng lóng thường dùng như: “Bệt là nhà, cong là đắt, hớ là rẻ, thít là ăn, đồi ỏn là trẻ con, mận là chè thuốc, êm là cỗ, hay những câu các thợ cối ngày xưa thường hay nói như: “Xấn lăn cho choáng” (Làm nhanh cho đẹp), “Xấn rỉa cho choáng” (chẻ dăm nhỏ ra cho đều mới đẹp). “Không thít êm, xấn xí” (không có cơm ngon đâu làm ẩu thôi)…

Để nói được thứ tiếng lóng độc đáo này, cụ Đoán cho biết có phường đóng cối xưa kia. Thứ hai là từ phương pháp truyền miệng phải được dùng liên tục, nếu không cũng chẳng hiểu người đối diện nói gì vì ngày xưa các cụ nói rất nhanh thành vần.

Đến ngày nay, sở dĩ thứ tiếng lóng của làng Đa Chất từng được “gắn mác” tiếng Việt cổ đang dần bị thất truyền là vì nghề đóng cối truyền thống đã mai một dần. Thay vào đó, người dân sử dụng những thứ máy móc công nghệ cao hơn rất nhiều để xay thóc. Đó là chưa kể đến chuyện thế hệ trẻ cũng chẳng mấy bận tâm đến việc tìm hiểu thứ tiếng lóng đặc trưng chỉ có ở Đa Chất quê mình nên rất khó để truyền lại. Còn các bậc lão thành từng làm thợ cả đóng cối như cụ Đoán giờ lâu không dùng cũng đã quên đi ít nhiều thứ tiếng lóng kì lạ.

Cụ Đoán bên bộ đồ nghề phó cối ngày xưa của mình

“Nhìn cái gì xung quanh cũng có thể nói được bằng tiếng lóng. Tôi cũng không biết tổ nghề là ai và ngôn ngữ này có từ bao giờ, chỉ biết có từ lâu lắm rồi. Hiện nay, bọn trẻ không quan tâm mấy đến tiếng lóng của làng nên chẳng ai để ý cả”, cụ Đoán cho biết.

Để tìm ra câu trả lời rõ ràng nhất về thứ tiếng lóng được gắn mác “ngôn ngữ cổ” của làng Đa Chất, phóng viên tìm gặp GS. TS Trần Trí Dõi, Khoa Ngôn ngữ học, Đại học Khoa học Xã Hội và Nhân văn Hà Nội và mọi việc đã dần được sáng tỏ.

Theo Giáo sư Dõi, thứ “ngôn ngữ lạ” mà các thợ cối làng Đa Chất sử dụng không có quy luật ngữ âm lịch sử nào của tiếng Việt cổ và nếu đúng là "ngôn ngữ cổ" như một số bài báo đã đưa thì không chỉ lưu giữ ở một nhóm nhỏ như làng Đa Chất. Đặc biệt chỉ có phường thợ cối ở Đa Chất mới sử dụng như vậy.

Giáo sư Dõi cho rằng, lời cụ Đoán là hoàn toàn chính xác vì chỉ nên coi đó là tiếng lóng của một bộ phận người dân sử dụng cho công việc đóng cối khi đó. Tuy nhiên, hệ thống tiếng lóng đặc trưng của làng Đa Chất cũng là một tài sản văn hóa đáng quí còn được lưu giữ và rất phong phú nên cần được gìn giữ cẩn thận...
Hoàng Lâm

Thời Văn Lang - Âu Lạc và những ẩn số cần giải mã ở giai đoạn đầy kỳ bí trong lịch sử Việt Nam


Thời Văn Lang - Âu Lạc và những ẩn số cần giải mã ở giai đoạn đầy kỳ bí trong lịch sử Việt Nam


Đề tài về lịch sử cổ đại Việt Nam, thời Văn Lang - Âu Lạc, với những vị vua Hùng, vua An Dương lâu nay luôn là một chủ đề hấp dẫn giới nghiên cứu, trí thức, học giả. Phàm những gì càng mờ ảo, huyền bí, không rõ ràng, thì càng có hấp lực lớn, khơi gợi tính hiếu kỳ của con người, muốn giải mã những ẩn số trong thời kỳ tranh tối tranh sáng này. Ngoài ra, làm rõ được thời kỳ này cũng chính là làm minh bạch cội nguồn tiên tổ, góp phần làm tăng lên tinh thần dân tộc, củng cố lòng tự tin dân tộc trong thời kỳ lịch sử mới và giai đoạn cách mạng mới của nước ta, giai đoạn xây dựng đất nước, quá độ lên CNXH.

Thời gian gần đây mình trợ giúp người nhà viết sách nên cũng tham khảo, tìm hiểu nhiều tài liệu, dữ liệu, thông tin về đề tài này. Rồi suy luận từ vô vàn nguồn đó, xử lý các thông tin khác nhau và nhiều khi mâu thuẫn nhau đó, thật nhức đầu.

Ngoài các tài liệu chính sử như Sử Ký của Tư Mã Thiên (hoàn thành trong thế kỷ 1 bên Trung Hoa), Hoài Nam Tử của Hoài Nam vương Lưu An (tác phẩm triết học, đạo học hoàn thành trong thế kỷ 2 bên Trung Hoa), Việt Sử Lược (Khuyết danh, thế kỷ 13 ở Đại Việt), và Đại Việt sử ký toàn thư (Ngô Sĩ Liên, thế kỷ 15 ở Đại Việt), các thần tích, ngọc phả, cổ tích, truyền thuyết địa phương mà các nhà nghiên cứu hiện đại đã sưu tầm tổng hợp được, thì mình cũng tham khảo các tranh luận về đề tài này trong các diễn đàn và blogs trên Internet, đặc biệt từ những người nghiên cứu sử học không chuyên.

Trong các nguồn, thì nguồn đáng tin và có giá trị khoa học nhất là Sử Ký của Tư Mã Thiên. Bởi vì qua xem xét, rà soát, các nhà khoa học lịch sử đã công nhận đây là một sử ký mang tính chuyên nghiệp, khách quan thật sự (dám nói sự thật dù "phạm thượng" cả Hán Cao Tổ Lưu Bang, triều đại mà Tư Mã Thiên phục vụ), với nội dung nhẹ nhàng, ôn hòa, trung hòa, chừng mực, không hề có chủ nghĩa sô-vanh Đại Hán cực đoan trong đó. Với bộ sử giá trị đó, ông được tôn là "sử thánh", một trong "Mười vị thánh trong lịch sử Trung Quốc". Một trong những yếu tố đáng tin nữa của bộ Sử Ký là: Đó là tác phẩm sớm nhất (thế kỷ 1) còn lưu truyền ngày nay mà có đề cập tới Âu Lạc, Thục Phán, chiến tranh Việt - Tần v.v.

Gần đây, khi nhà sử học Phan Huy Lê chủ trì các nhóm nghiên cứu khoa học lịch sử ở VN hoàn thành việc dùng phương pháp khoa học, khảo cổ học để giám định niên đại các cổ vật được đào lên ở Cổ Loa, vùng ngày xưa thuộc vùng ảnh hưởng của triều đình An Dương Vương và nước Âu Lạc thì kết quả giám định cho thấy những số năm phù hợp với các số năm trong Sử Ký, không phù hợp với các số năm trong Việt Sử Lược và Đại Việt SKTT.

Năm 2008, khi các sử gia và nhà khảo cổ Trung Quốc tổ chức khai quật mộ của Triệu Văn Vương (Triệu Hồ, cháu nội của Triệu Đà), sau khi giám định bằng các biện pháp khoa học khảo cổ, pháp y thì thấy thời gian mà Triệu Hồ băng hà không phù hợp với các số năm đề cập trong VSL và ĐVSKTT.

Để tìm hiểu cho minh bạch thời kỳ này, mình đã cố gắng dựa vào tất cả các nguồn thông tin, dữ liệu khách quan có được, tất cả các suy luận, giả thuyết, cố gắng xâu chuỗi lại sao cho phù hợp nhất, hợp logic nhất với các thông tin có được, gạn lọc, kết hợp có chọn lọc. Sau đây là "trình tự" quá trình tìm hiểu không lấy gì làm chuyên nghiệp của mình. Để có cái nhìn rộng và rõ hơn, toàn cục khu vực hơn, mình xin được đối chiếu với các sự kiện chính trị lớn bên Trung Quốc cùng mốc thời gian. Và chú trọng suy luận hơn từ các số năm, các timeline, là 2 yếu tố mà mình thấy chưa được quan tâm đúng mức trong các nghiên cứu hàn lâm cũng như các tranh luận, thảo luận trên Internet.

Sưu tầm các số năm:

Tần vừa thống nhất - 221 TCN

Trần Thắng khởi nghĩa - 209 TCN tới 208 TCN

Nhà Tần kết thúc, Hán Sở tranh hùng - 206 TCN tới 202 TCN

Cuối Văn Lang, đầu Âu Lạc - Giả thuyết 1: 258, 257 TCN, Giả thuyết 2: 218, 208, 207 TCN

Chiến tranh Bách Việt vs Tần - GT 1: Khoảng 218 TCN đến 215, 214 TCN hoặc GT 2: 209, 208 TCN (sau khi Tần Thủy Hoàng băng hà, phong trào chống Tần lan rộng, Hồ Hợi ra lệnh bãi binh). Âu Việt đụng độ quân Tần trong khoảng 6 năm (từ năm 214 TCN).

Chiến tranh Âu Lạc vs Triệu Đà - Sau 214 TCN đến 208, 207 TCN (GT 1) hoặc 180, 179 TCN (GT 2)

Cuối Âu Lạc - GT 1: 208, 207 TCN, GT 2: 180, 179 TCN

Chính thức lập quốc Nam Việt - 207 TCN, 204, 203 TCN

Nam Việt hoàn thành bình định Âu Lạc - 180, 179 TCN

Bắt đầu Bắc thuộc - GT 1: 208, 207 TCN hoặc GT2: 180, 179 TCN

Timeline & đối chiếu Việt - Hoa

Giả thuyết 1:

Âu Lạc lập quốc - 258, 257 TCN

Tần thống nhất Hoa Hạ - 221 TCN

Chiến tranh Bách Việt vs Tần: Khỏang 218 TCN đến 215, 214 TCN

CT Âu Lạc vs Triệu Đà (Nhâm Ngao [hoặc Nhậm Hiêu theo phiên âm hiện đại] và Triệu Đà thay thế Đồ Tuy [theo phiên âm hiện đại]) - Sau 214 TCN đến 208, 207 TCN

Triệu Đà dùng kế giảng hòa, kế thông gia, cho Trọng Thủy sang Âu Lạc ở rể - 210 TCN

Trần Thắng khởi nghĩa chống Tần - 209 TCN tới 208 TCN

Âu Lạc bị Triệu Đà đánh bại - 208, 207 TCN

Chính thức lập quốc Nam Việt - 207 TCN, 204, 203 TCN

Nhà Tần kết thúc, Hán Sở tranh hùng - 206 TCN tới 202 TCN

Giả thuyết 2:

Tần thống nhất Hoa Hạ - 221 TCN

Chiến tranh Bách Việt vs Tần - Khoảng 218 TCN đến 209, 208 TCN

Âu Lạc lập quốc - 218, 208, 207 TCN

CT Âu Lạc vs Triệu Đà (Nhâm Ngao và Triệu Đà thay thế Đồ Tuy) - Sau 214 TCN đến 180, 179 TCN

Trần Thắng khởi nghĩa chống Tần - 209 TCN tới 208 TCN

Chính thức lập quốc Nam Việt - 207 TCN, 204, 203 TCN

Nhà Tần kết thúc, Hán Sở tranh hùng - 206 TCN tới 202 TCN

Âu Lạc bị Triệu Đà đánh bại - 180, 179 TCN

Vài suy luận:

- Sự xung đột quân sự đánh qua đánh lại dai dẳng giữa Hùng - Thục là có. Và đó là sự xô xát mang tính chất nội bộ, nội chiến, chứ không phải là cuộc chiến tranh tổng lực, quy mô giữa 2 quốc gia khác biệt về chủng tộc, văn hóa. Tương tự các bộ lạc ở phía Nam và phía Bắc Trung Hoa luôn đánh nhau, đánh rồi lại hòa, hòa rồi lại đánh, mang tính chất anh em trong nhà thỉnh thỏang đánh nhau chứ không phải những cuộc chiến xâm lược mang tính tiêu diệt. Cuộc chiến Hùng - Thục miêu tả trên các thần tích, ngọc phả rất dữ dội nhưng cũng cho thấy tính chất "dễ dàng" và gần gũi, ví dụ truyền thuyết rằng Hùng Vương say rượu chỉ trong một đêm bị Thục Phán đánh bất ngờ và cướp ngôi. Nếu đây là cuộc chiến mang tính hủy diệt, công thành chiếm đất giữa 2 quốc gia, khó có chuyện đánh tới thủ đô đối phương nhanh như chớp và dễ như bỡn như vậy.

- Hùng Vương 18 nhường ngôi để hiệp lực chống Tần và vì không có con trai là có, nhưng là bị sức ép, bị áp lực, chứ không phải hoàn toàn tự nguyện.

- Sự tích rắc lông ngỗng lưu lại dấu vết của Mỵ Châu là trong lúc dừng lại nghỉ ngơi hoặc phi nước kiệu. Để lại dấu vết cho quân Trọng Thủy đi tìm.

- Cuộc chiến chống Tần là có, và dân ta từ xưa coi đó chính là cuộc chiến với Triệu Đà. Lâu nay do bị bó buộc bởi quan niệm chính thống của nhà Triệu bởi nhiều sử quan phong kiến nên nhiều sử gia hiện đại khi viết cũng vô tình coi cuộc chiến chống Tần và chống Triệu là 2 cuộc chiến hoàn toàn khác nhau, và đều thắc mắc không hiểu tại sao cổ sử lúc thì viết quân Tần thôn tính Âu Lạc, lúc thì viết là Triệu Đà thôn tính Âu Lạc. Và tại sao cuộc chiến chống Tần nếu thắng vẻ vang oanh liệt như vậy lại không thấy đề cập nhiều, không để lại sự tích, thần thoại nào.

Đơn giản là xuất phát từ chủ đạo dân tộc Việt Nam, dân ta coi Tần - Triệu chỉ là 1, đều là giặc Tần, đều là giặc Bắc, giặc Tàu. Triệu Đà là tướng nhà Tần, là người Hoa Hạ (nước Triệu, 1 trong Thất Hùng thời Chiến Quốc sau cùng bị Tần Thủy Hoàng tiêu diệt, mồ mả ông bà tổ tông của Triệu gia là ở Chân Định, thuộc tỉnh Hà Bắc của Trung Quốc ngay nay), quân đội mà Triệu Đà dùng để xâm lược Âu Lạc cũng chính là quân Tần, dù là Tần ly khai. Triều đình của Triệu Đà cũng chính là triều đình Tần, bao gồm các văn quan võ tướng tạo phản. Tóm lại, họ là người Tàu, là bề tôi của triều Tần, với một nền văn hóa Hoa Hạ rất khác với văn hóa bản địa của Lạc Việt, Âu Việt lúc đó, đậm chất dị tộc.

Và quan trọng nhất: Nhậm Hiêu và Triệu Đà vốn là tướng được triều Tần cử đến phương Nam thay thế cho đại tướng Đồ Tuy đã tử trận. Như vậy, vai trò của Triệu Đà từ đầu đã là thay thế Đồ Tuy bành trướng xuống Nam, tiếp nối mục tiêu xâm lược của nhà Tần, tiếp nối nhiệm vụ dang dở của Đồ Tuy, và cuộc chiến chống Triệu Đà chính là tiếp nối cuộc kháng chiến chống Tần bảo vệ bờ cõi.

Theo góc nhìn đó thì cuộc chiến chống Tần chỉ là tạm thắng giai đoạn đầu, chém được tướng Tần, nhưng sau đó đã thua vào tay tướng Tần là Triệu Đà. Lưu ý Triệu Đà đã xâm lấn Âu Lạc ngay trong lúc chưa chính thức lên ngôi và ly khai nhà Tần, chưa lập quốc Nam Việt. Như vậy xét theo quan điểm dân tộc, thì chẳng có sự toàn thắng vẻ vang nào cả, mà chỉ có thắng giai đoạn đầu, và thua toàn cục. Khi nói đến khái niệm "thắng" trong một cuộc kháng chiến thì điều kiện tiên quyết là phải giữ được đất nước, giữ được lãnh thổ, chẳng hạn như cuộc chiến chống Trung Quốc xâm lược năm 1979, cuộc chiến Nguyên Mông thời nhà Trần, trong thời chống Mông Cổ ấy, dù có 3 cuộc chiến khác nhau nhưng nếu quân ta thắng trong cuộc chiến thứ nhất, thứ hai, mà vẫn thua cuộc chiến thứ ba thì không thể coi là toàn thắng.
Đó là 1 trong những câu trả lời cho câu hỏi vì sao chiến công thắng Tần vẻ vang oanh liệt như vậy mà ít thấy đề cập trong các thần tích, ngọc phả, gia phả, truyền thuyết. Ngay cả Sử Ký và Hoài Nam Tử cũng chỉ đề cập tới việc Đồ Tuy bị tử trận và tình trạng quân dân nhà Tần rất khổ sở, chứ không nói cụ thể ai thắng.

Một nguyên nhân quan trọng nữa là thần tích, ngọc phả, sự tích của địa phương nào thì chủ yếu kể lại những câu chuyện diễn ra trên địa phương đó. Hầu hết các mẫu chuyện, giai thoại địa phương mà các sử quan ngày xưa và sử gia ngày nay thu thập, sưu tầm được đều là các giai thoại ở miền Bắc VN, nghĩa là trong vùng cai trị, ảnh hưởng của Hùng Vương và nhà nước Văn Lang. Chính vì vậy mới thấy nhiều câu chuyện kể về thời Hùng Vương của Lạc Việt, mà không thấy các câu chuyện kể của Âu Việt, chỉ khi An Dương Vương nối ngôi Hùng Vương, trị vì trên những vùng đất này, thì mới thấy truyện Thần Kim Quy, Cổ Loa thành, Nỏ thần, Trọng Thủy Mỵ Châu v.v.

Trong thập niên 1960, giới sử học Việt Nam do thủ tướng Phạm Văn Đồng chủ trì, mở "chiến dịch" nghiên cứu quy mô lớn, tìm hiểu về các giai thoại địa phương trong cộng đồng dân tộc miền núi ở vùng Cao Bằng, thì mới phát hiện ra cổ tích "Chín Chúa Tranh Vua" trong cộng đồng người Tày có đề cập đến Thục Chế và Thục Phán. Như vậy, Thục Phán, Dịch Hu Tống, Âu Việt, Bách Việt là nằm ngoài địa phương có các giai thoại dã sử Việt Nam thời cổ đại, do đó các giai thoại đó chỉ thấy chủ yếu nói về Hùng Vương và nước Văn Lang, không thấy nói về những giai thoại, sự kiện, nhân vật ngoài vùng đó, vùng cực bắc VN, hay vùng cực nam, nam Quảng Tây bên TQ.

- ĐVSKTT cho rằng Thục Phán thôn tính nước Văn Lang và thành lập nước Âu Lạc vào khoảng năm 258 TCN, 257 TCN. Như đã dẫn chứng ở trên, các công tác khảo cổ học ngày nay đã ít nhất có 2 chứng minh cho thấy ĐVSKTT không đáng tin lắm về mặt thông tin về thời gian, số năm cụ thể. Việc cho rằng Thục Phán diệt Hùng Vương, cướp nước Văn Lang cũng không phù hợp với nhiều truyền thuyết (ví dụ Sơn Tinh Thủy Tinh và các truyền thuyết đề cập tới việc Hùng Vương nhường ngôi, An Dương Vương tuyên bố giữ nước non của vua Hùng). Đa số các truyền thuyết khác cũng chỉ đề cập tới các trận đánh lẻ tẻ giữa Hùng - Thục, chứ không có quan điểm rằng Thục Phán diệt, cướp, thôn tính Văn Lang xong rồi lập nước Âu Lạc. Về suy luận tuổi tác, nếu cho rằng Thục Phán đã đánh đông dẹp bắc rồi lên ngôi năm 258 TCN thì đến khi mất nước, dù cho theo thuyết nào, thì An Dương Vương cũng đã quá già, khó thể tin rằng có thể cưỡi ngựa phá trùng vây chạy thoát đến tận Nghệ An ngày nay mới tuẫn quốc, như đề cập trong hầu hết các truyền thuyết dân gian, câu chuyện dã sử. Nhất là với trình độ y học, y tế, dinh dưỡng, thuốc men, điều kiện sống, trình độ phát triển trong thời kỳ đó thì lại càng khó tin. Trong khi thời nay với trình độ phát triển y học, y tế, dinh dưỡng, vitamins phát triển sau mấy ngàn năm mà U70 tuổi đã phải nghỉ hưu.

SK của Tư Mã Thiên và Hoài Nam Tử, 2 tài liệu xưa nhất, thì ghi chép rằng Triệu Đà dùng vàng bạc châu báu đút lót, mua chuộc, dụ dỗ các lãnh tụ Âu Lạc, thôn tính nước Âu Lạc. Đoạn chép này chỉ nói là cướp Âu Lạc chung chung, chứ không đề cập cụ thể tới các danh từ Thục Phán hay An Dương Vương. Và 2 tài liệu này đều cho rằng thời gian Âu Lạc bị Triệu Đà thôn tính là khoảng năm 180 TCN, 179 TCN, sau khi nhà Hán đã nhất thống Trung Nguyên. Các sách giáo khoa, sách sử chính thống, các nhà sử học chuyên nghiệp, hiện đại hiện nay ghi theo các tài liệu này vì cho rằng đây là nguồn đáng tin cậy. Nhưng theo thuyết này thì lại không phù hợp với các truyền thuyết dã sử thời An Dương Vương như Rùa Thần, Nỏ Thần, Trọng Thủy Mỵ Châu, mâu thuẫn với thời điểm giảng hòa giữa An Dương Vương và Triệu Đà mà theo cổ sử Việt Nam là khoảng năm 210 TCN. Thuyết này cũng không phù hợp với vấn đề tuổi tác, sức khỏe, nếu đến năm 179 TCN mà còn An Dương Vương thì lúc đó đã quá già, dù theo thuyết nào về thời điểm lập quốc của Âu Lạc thì cũng là quá già, không hợp lý lắm.

Cách giải thích nghe ổn thỏa nhất chỉ có thể là An Dương Vương đúng là bị thua về tay Triệu Đà vài năm sau giảng hòa. Nhưng thắng An Dương Vương không có nghĩa là đã cướp hẳn trọn vẹn được toàn bộ nước Âu Lạc. Lưu ý thời đó Văn Lang - Âu Lạc vẫn có tính sơ khai cát cứ địa phương chứ chưa phải là một nhà nước phong kiến trung ương tập quyền có tính tập trung cao độ. Lạc Việt bao gồm 15 bộ tộc, Âu Việt bao gồm 10 xứ. Mãi đến khoảng thời gian 180 TCN, 179 TCN, Triệu Đà mới hoàn thành việc thôn tính và bình định Âu Lạc. Điều này cũng phù hợp với những gì ghi trong Sử Ký và HNT, trong giai đoạn đó không hề ghi chép là Triệu Đà dùng chiến tranh quy mô diệt An Dương Vương, chiếm đóng Âu Lạc, mà chỉ đề cập đến việc ông ta dùng vàng bạc châu báu để mua chuộc các quan chức, các thế lực ở Âu Lạc.

- Thiền sư Lê Mạnh Thát dựa vào việc Sử Ký Tư Mã Thiên không đề cập đến sự kiện Trọng Thủy Mỵ Châu và đích danh An Dương Vương, liền cho rằng An Dương Vương và câu chuyện Trọng Thủy Mỵ Châu là không có thật, là bắt chước từ một tích khác trong 1 kinh Phật. Lập luận này không thỏa đáng. Thứ nhất, Sử Ký Tư Mã Thiên tuy rất đáng tin, là một nguồn có uy tín cao, có giá trị cao, nhưng nó vẫn chỉ là một bộ sử của người Hán nghiên cứu lịch sử Trung Hoa, chứ trọng tâm trọng điểm của nó không phải là Việt Nam, mà lúc đó các sử quan phong kiến Trung Hoa vẫn xem tứ bề chung quanh là các dị tộc, bộ lạc "man, nhung, di, địch", là các chư hầu, "Phiên quốc", "Phiên bang". Do đó, với góc nhìn từ xa, từ bên ngoài, họ chỉ đề cập qua loa như một yếu tố phụ, chứ không phải là trọng tâm chính, không phải trọng điểm nghiên cứu của họ. Do đó việc Sử Ký của sử quan Tư Mã Thiên không đề cập kỹ càng, rõ ràng, cụ thể, chi tiết, sâu sát đến các sự kiện lịch sử nước ta là chuyện dễ hiểu.

Thứ hai, những giai thoại đúc kết từ các sự kiện có thật về chuyện 2 nhà, 2 nước thông hôn, sau đó trở mặt đem quân đánh nhau là chuyện rất bình thường, xảy ra rất nhiều trong lịch sử phong kiến cả thế giới. Ngay trong lịch sử Việt Nam thời kỳ khác cũng có giai thoại tương tự: Giai thoại Nhã Lang - Cảo Nương, Triệu Quang Phục gả Cảo Nương cho hoàng tử Nhã Lang, con trai của Lý Phật Tử, kết quả bị Lý Phật Tử phản phé bất ngờ đánh bại. Đây là một thực tế thời phong kiến giữa các vương tôn quý tộc vua chúa với nhau, chuyện 2 nhà Thục - Triệu thông gia rồi Triệu lật lọng thất hứa đem quân đánh thì không phải là chuyện quá khó tin hay không thể xảy ra.

Kết hợp có chọn lọc:

- Kết hợp 3 thuyết: Có chiến tranh Hùng - Thục. Thục Phán có ép Hùng Vương nhường ngôi. Có áp lực của giặc Tần và nhu cầu đoàn kết chống Tần.

- Kết hợp 2 thuyết về thời kỳ thành lập Âu Lạc: Hùng - Thục vốn có đánh lớn dằng dai liên tục từ khoảng 40 năm trước khi quân Tần xâm lăng. Khoảng 40 năm sau, để chống Tần, Âu Việt - Lạc Việt liên hiệp lại thành 1 nước thống nhất do Thục Phán An Dương Vương lãnh đạo.

- Kết hợp 2 thuyết về thời kỳ mất nước Âu Lạc: Trúng kế ở rể, vua An Dương bị Triệu Đà đánh bại trong những năm cuối nhà Tần và trước chiến tranh Hán - Sở. Nhưng đến sau chiến tranh Hán - Sở đã lâu thì mới hoàn thành bình định phương Nam.

Tổng hợp, xâu chuỗi, và sử thi hóa giả thuyết: (thông tin nào còn tồn nghi, đáng ngờ, cần xem xét thêm thì mình đánh dấu hỏi ở kế bên)

Khoảng năm 258, 257 TCN, liên minh bộ lạc Âu Việt, nước Nam Cương (?) với 10 xứ mường do vua Thục tên là Chế lãnh đạo đã giành được ưu thế lớn trước nước Văn Lang của dân tộc Lạc Việt, gồm 15 bộ tộc do vua Hùng thời thứ 18 của bộ tộc ở Phong Châu lãnh đạo. Hai bên vốn đã đánh nhau lâu nay nhưng mãi đến lúc này, với tài lãnh đạo của Thục Chế (?) thì Âu Việt mới giành được ưu thế lớn. Tuy nhiên, vua Hùng và những Lạc Hầu, Lạc Tướng, Quan Lang trung thành vẫn cầm cự, chưa bị thua hẳn.

Gần 40 năm sau, năm 221 TCN, Doanh Chính gồm thâu 6 nước, nhất thống Hoa Hạ. 3 năm sau, năm 218 TCN, Thủy Hoàng Đế bắt đầu công cuộc bành trướng khu vực, phái Mông Điềm đánh Hung Nô ở phía Bắc và xây Vạn Lý Trường Thành để phòng ngự vó ngựa Hung Nô. Phía Nam, Tần Thủy Hoàng cử 5 đạo quân Nam chinh, mỗi đạo 10 vạn quân, tổng cộng 50 vạn quân tiến hành bành trướng xuống Nam, diệt Bách Việt, mở rộng lãnh thổ.

Nhiều dân tộc, bộ tộc, bộ lạc trong khối Bách Việt vì sự sinh tồn của mình, đã liên minh lại chống quân viễn chinh Tần, trong đó có cả Lạc Việt và Âu Việt (Tây Âu). Tuy nhiên sau đó lần lượt nhiều bộ tộc trong Bách Việt như Câu Ngô Việt, Ư Việt (hậu duệ của nước Ngô và nước Việt thời Xuân Thu), Dương Việt, Nam Việt (bộ tộc), Điền Việt, Mân Việt, Sơn Việt, Dạ Lang Việt v.v. đều bị chinh phục chỉ còn lại bộ tộc Âu Việt và dân tộc Lạc Việt.

Trong cuộc chiến này, vua Thục tên Phán (lúc này đã thay chế Thục Chế?) cùng thủ lĩnh Dịch Hu Tống, là 1 trong những thủ lĩnh sáng giá trong 10 xứ mường của Âu Việt lãnh đạo kháng chiến. Âu Việt chiến đấu tiên phong, trực diện với sự hậu thuẫn của Văn Lang - Lạc Việt phía sau. Hùng Vương ở Phong Châu cũng thừa biết nếu quân Tần vượt qua Thục Phán và Âu Việt thì mình cũng sẽ lâm nguy. Vì sinh tồn, 2 tộc đã liên kết lại cùng chống ngoại địch từ phương Bắc.

Cuộc chiến giằng co 4 năm, năm 214 TCN, nhờ chiến thuật du kích, tận dụng ưu thế địa lợi, rừng núi, thủy thổ làm cho giặc đổ bệnh, mẹo "vườn không nhà trống", đánh lén ban đêm v.v., và nhờ tài lãnh đạo của Thục Phán, tài thao lược của Cao Lỗ, vũ dũng của ông Trọng (?) mà liên quân Bách Việt do Âu Việt lãnh đạo đã tạm thắng trong giai đoạn này, giết được Đồ Tuy, chém hàng vạn quân địch, tuy nhiên thủ lĩnh Dịch Hu Tống của người Việt cũng bị tử trận.

Ngay sau đó, nhà Tần cử 2 tướng tài là Nhậm Hiêu (Nhâm Ngao) và Triệu Đà đem quân tiếp viện và thay thế Đồ Tuy, chiến tranh tiếp diễn rồi tạm ngừng. Nhậm Hiêu và Triệu Đà chia nhau bình định và cai quản những vùng mà người Tần đã chiếm.

Sau 4 năm kháng chiến chống Tần, Đồ Tuy và thủ lĩnh Dịch Hu Tống tử trận, thủ lĩnh anh hùng Thục Phán với uy tín từ việc đồng lãnh đạo cuộc chiến với Dịch Hu Tống, là thủ lĩnh sáng giá thứ hai sau Dịch Hu Tống, đã được 9 xứ mường của bộ tộc Âu Việt bầu lên làm thủ lĩnh tối cao để lo việc thống nhất, đoàn kết các bộ tộc người Việt còn sót lại cùng nhau đối phó với hiểm họa lớn này. Ngoài những người Âu Việt và những người Bách Việt tỵ nạn thì việc Thục Phán làm thủ lĩnh, lãnh đạo tối cao để bảo vệ phương Nam trước họa Bắc xâm cũng được nhiều người Lạc Việt, nhiều bộ tộc và thế lực trong nước Văn Lang ủng hộ. Theo đó, Thục Phán đã dùng uy thế và sức mạnh của phe mình áp lực Hùng Vương phải nhường ngôi, nhưng Hùng Vương bác bỏ. 

Trước khi quân Tần xâm lược thì Thục Phán đã cầu hôn với mị nương Ngọc Nga nhưng Hùng Vương gả nàng cho chàng Tuấn, 1 thủ lĩnh, thổ hào hùng cứ quanh dãy núi Tản Viên. Vì vụ này mà quân đội của Thục Phán đã có những xung đột lẻ tẻ với quân đội Văn Lang và quân Tản Viên, cho đến khi nhà Tần bắt đầu cuộc Nam xâm thì xung đột vũ trang mới chấm dứt, các bên giảng hòa, hơn nữa Tuấn còn khuyên bố vợ nhường ngôi cho Thục Phán, bởi vì Hùng Vương lúc đó đã bắt đầu già yếu, không tài giỏi và có tư cách lãnh đạo bằng Thục Phán, và không có đứa con nào khả dĩ nối ngôi (?).

Vì Hùng Vương không chịu nhường ngôi, Thục Phán hợp tác với Cao Lỗ, nội công ngoại kích bất ngờ vào ban đêm khi Hùng Vương đang ngủ vùi sau tiệc rượu, Cao Lỗ làm nội ứng, mở cửa thành phía sau cho quân của Thục Phán tràn vào khống chế và làm chủ tình thế. Trước tình thế đó, Hùng Vương đành phải nhường ngôi, Thục Phán tuyên bố sẽ bảo vệ nước của vua Hùng, bảo vệ thần dân Lạc Việt và Âu Việt, sát nhập 2 tộc lại thành nước Âu Lạc, lên ngôi vua, xưng là An Dương Vương. Việc nhất thống này cũng cần thiết trước hiểm họa Nhậm Hiêu, Triệu Đà và quân Tần vẫn đang rình rập từ phía Bắc. 

Sau khi thống nhất Âu Lạc, vua An Dương đã sở hữu nhiều kho với số lượng lớn cung nỏ, vũ khí tầm xa, nhất là nỏ, vốn là vũ khí rất mạnh đặc trưng của các dân tộc ở Bắc Việt Nam và Nam Trung Hoa lúc đó, thuận lợi cho chiến tranh du kích, phục kích bắn tỉa. Vua giao cho mưu sĩ là Kim Quy và Lạc hầu Cao Lỗ lo việc phát triển công nghệ, chế tạo, cải tiến nỏ, vũ khí chiến lược của Âu Lạc Việt, để chuẩn bị chống Tần một khi Triệu Đà phát động tấn công (nhà Tần là bên tự ngừng chiến và chưa có thỏa thuận nào về kết thúc chiến tranh). Kim Quy và Cao Lỗ phát triển, nâng cấp một bộ phận nỏ thường lên nỏ thần (nỏ liễu, nỏ liễn, nỏ liên châu), loại nỏ 1 phát có thể bắn được nhiều mũi tên, để lấp đi khuyết điểm quân ít, thiếu thốn xạ thủ. Nỏ của Âu Lạc bắn xa hơn, bắn mạnh hơn, tốt hơn, bền hơn và hiện đại hơn nỏ Tần. Các đội quân bắn nỏ của Âu Lạc cũng tinh nhuệ, thiện chiến, bắn chính xác hơn quân Tần.

An Dương Vương cũng cho xây đắp thành Loa, kiên cố hơn, to hơn nhiều, và có tác dụng phòng giữ cao hơn nhiều so với các thành nhỏ của Hùng Vương trước đây. Đây là công trình phòng thủ quân sự đầu tiên, một thành trì đầu tiên của tộc Việt mang tầm vóc kinh đô. Do bị ảnh hưởng từ công cuộc xây Vạn Lý Trường Thành ngăn Hung Nô của Tần Thủy Hoàng, một sự kiện lớn và nổi tiếng thời đó, nên vua An Dương cũng muốn xây Loa thành để chống thù trong giặc ngoài (các thế lực còn trung thành với cựu triều bên trong và giặc Tần bên ngoài).

Tuy nhiên, do đây là một cuộc hợp nhất không suông sẻ lắm, nhiều người còn chưa phục, nên các thế lực chống đối cũng thường nổi lên quấy rối công cuộc xây Loa thành, tuy củng cố phòng ngự quân sự để đề phòng giặc Tần nhưng cũng làm khổ sức dân, lao động cưỡng ép, và vô tình làm rõ sự phân chia giai cấp, tự cô lập, xa dân, tạo nên một bức tường tinh thần ngăn cách giữa đồng bào và chế độ mới.

Trong vòng 4 năm sau đó, thỉnh thoảng Triệu Đà mở những chiến dịch tấn công, nhưng nhờ có nỏ tốt, nỏ liên châu, các xạ thủ bắn nỏ tinh nhuệ nên quân Âu Lạc đều đánh đuổi được giặc. Năm 210 TCN, Triệu Đà dùng kế thông gia, mỹ nam kế (?), đề nghị giảng hòa. An Dương Vương lúc này không còn trẻ nữa, sức khỏe bắt đầu bất ổn, thường xuyên đau bệnh, không còn hùng tâm tráng chí như 4 năm trước. Ông đã mệt mỏi vì chiến họa, nên đã chấp nhận hòa hiếu.

Sự kiện này bị đông đảo thần dân phản đối, các đại thần khuyên can. Một là do tinh thần chống Tần, bài Tần, lòng căm thù giặc khi đó của nhân dân ta. Hai là những người sáng suốt ngờ ngợ nhận ra ý đồ gián điệp của Triệu Đà, hay ít nhất là cảm nhận ra bằng trực giác, thấy có gì đó không đúng, không ổn, vì sao địch đang trên thế mạnh, trên thế công, mà lại chấp nhận hòa lại còn chấp nhận gởi con trai đến làm con tin, không bình thường, không hợp tình lý. Ba một bộ phận bảo thủ, chủ chiến trong phe quân đội, thấy cái gì liên quan đến Tần là không muốn dây vào, cái gì liên quan đến hòa là phản đối, tiếc cho mị nương Mỵ Châu, không muốn một tài nữ xinh đẹp phải gả cho một tên giặc cướp ác ôn, xấu xa, hoặc đơn giản là không muốn mất thân phận, đường đường là một nhà vua lại đi thông gia với một viên tướng, viên quan (Triệu Đà lúc này chưa lên ngôi hoàng đế, chưa thành lập nước Nam Việt, trên danh nghĩa vẫn là thần tử của triều Tần).

Có nhiều lý do để phản đối như vậy nên đa số đều phản đối, khuyên can gay gắt, quyết liệt. Nhưng vua lúc này không còn sáng suốt, minh mẫn như xưa, chỉ nghĩ đơn giản rằng vừa được thanh bình, vừa được thêm một con tin ở rể, không mất gì, giả dụ địch trở mặt thì cứ đánh lại thôi, không sao đâu v.v. nên bỏ mặc mọi lời khuyên, mọi can gián, một mình quyết định. Các trung thần can vua mãi không được nên đã bất bình, bi phẫn, dần chán nản bỏ đi hết.

Triệu Đà gởi Trọng Thủy sang ở rể theo phong tục mẫu hệ của Âu Việt và Lạc Việt. Trong thời gian trong thành Loa, Trọng Thủy đã hoạt động tình báo, thu thập thông tin về nỏ liên châu hiện đại của Âu Lạc, địa điểm các kho nỏ, tên, khuyết điểm của các đơn vị quân đội bắn nỏ, địa hình, nhân tâm, tình hình triều đình Âu Lạc v.v. Triệu Đà đồng thời bỏ ra vàng bạc châu báu để mua chuộc các thế lực, thị tộc, bộ tộc, đồng minh chung quanh Âu Lạc, các lạc hầu, lạc tướng của Âu Lạc, ly gián vua tôi. Triệu Đà và Trọng Thủy đã dèm pha và ly gián thành công An Dương Vương với Cao Lỗ, khiến Cao Lỗ và những người tận trung cuối cùng của vua cũng phải chán nản bỏ đi, nhà nước Âu Lạc không còn lại bao nhiêu người tài.

Cùng thời gian này, bên Trung Hoa, Tần Thủy Hoàng đã từ lâu đã thường xuyên uống vào những "linh đan" làm bằng các viên ngọc, kim cương, đá quý nghiền thành bột của bọn đạo sĩ xôi thịt nên bệnh ngày càng nặng. Trong khi đi tuần du phía Đông, đến đất Sa Khâu thì bệnh chết. Trung xa phủ lệnh, hoạn quan Triệu Cao muốn chuyên quyền, nên không muốn vương tử Phù Tô (là người trung nghĩa, hiếu thuận, yêu dân, có tài quân sự, có năng lực chính trị) lên ngôi, nên đã dụ vương tử Hồ Hợi, em trai của Phù Tô cùng đồng lõa giả truyền lệnh bức tử Phù Tô và danh tướng Mông Điềm, và giả di chiếu cho Hồ Hợi (là kẻ tiểu nhân, tàn bạo, ngu dốt, háo sắc, ăn chơi rượu chè) lên ngôi. Triệu Cao chọn Hồ Hợi trong nhiều con trai của Tần Thủy Hoàng là để dễ bề lung lạc, điều khiển, sử dụng hắn như một hoàng đế bù nhìn, để thỏa khát vọng quyền lực. Triệu Cao là thầy đã dạy dỗ Hồ Hợi từ nhỏ. Hồ Hợi lên ngôi hoàng đế.

1 năm sau, năm 209 TCN, bên Trung Hoa, Trần Thắng với sự phò trợ của Ngô Quảng nổi lên khởi nghĩa phản Tần. Trần Thắng dùng những thủ đoạn tuyên truyền mê tín dị đoan để quảng bá cho "chân mệnh đế vương" của mình. Binh sĩ ban đầu chỉ có vài trăm nông dân, dùng tầm vông vạt nhọn, gậy gộc, các loại vũ khí bằng gỗ để chiến đấu, sau đó mới cướp vũ khí của quan binh, lực lượng, phong trào và địa bàn ngày càng mở rộng và lan tỏa. Tới năm 208 TCN, nghĩa quân nông dân của Trần Thắng mới bị dẹp hoàn toàn.

Một hai năm sau, sau khi Cao Lỗ đã bỏ đi, dò biết Âu Lạc không có chế độ kiểm tra chất lượng vũ khí, và dò biết kho nỏ nào không được dùng để luyện bắn, Trọng Thủy cho người bí mật tráo hàng giả, hầu hết các lẫy nỏ đều hỏng không dùng được, dự trữ trong các kho đó. Đến khi quân Tần - Triệu tràn sang đánh, Âu Lạc không còn người tài, An Dương Vương già yếu không còn hùng phong như xưa, dân khí, sĩ khí ì ạch, biếng nhác không còn nhiệt huyết với việc binh đao chinh chiến như trước, và quan trọng nhất là vũ khí chiến lược nỏ liên châu đã bị vô hiệu hóa bất ngờ, đa số nỏ thần định sử dụng trong lúc khẩn cấp nhất lại bị hỏng, không sử dụng được, đã khiến lòng quân sa sút tinh thần nghiêm trọng, dẫn tới tình trạng loạn trại, vỡ trận hàng loạt, binh bại như núi đổ. Vua An Dương phải cưỡi ngựa chở mị nương Mỵ Châu mở đường máu đào vong, không còn bao nhiêu tàn quân.

Cao Lỗ và nhiều cựu thần mộ quân đến cứu, nhiều thổ hào, sứ quân, nghĩa quân đem quân đến cứu nhưng không kịp. Trước đó nhiều bộ tộc, bộ lạc phần vì bất mãn với An Dương Vương, phần vì được Triệu Đà hối lộ lễ vật, mua chuộc, nên đã tự thủ bàng quan mặc cho quân Tần - Triệu truy kích. Mỵ Châu ngây thơ nghe lời Trọng Thủy dặn rút lông ngỗng trên áo rải trên đường khi chạy chậm hoặc dừng chân nghỉ ngơi để Trọng Thủy dễ tìm tới, vợ chồng đoàn tụ, do đó quân địch cứ tìm theo dấu vết mà dễ dàng truy đuổi. Khi chạy đến vùng Nghệ An ngày nay mà quân giặc vẫn ồ ạt đuổi theo, không tài nào thoát khỏi, vua phát hiện ra, tra hỏi hiểu ra thì bi phẫn, uất hận, chém con gái cho khỏi bị quân giặc làm nhục, rồi trầm mình xuống biển tự sát. An Dương Vương bị Triệu Đà đánh bại, để lại một mối di hận không phai.

Cùng khoảng thời gian, thừa tướng Lý Tư bị Triệu Cao dèm pha, hãm hại và bị Tần Nhị Thế xử tử. Khoảng 1 năm sau, năm 207 TCN, Tần Nhị Thế Hồ Hợi bị Triệu Cao ép chết trong Vọng Di Cung, rồi đưa em trai của Tần Thủy Hoàng là Tử Anh lên ngôi, ngay sau đó Tử Anh bày kế giết Triệu Cao. 1 năm sau, năm 206 TCN, Tử Anh đầu hàng Lưu Bang, bị Lưu Bang đem giao cho Hạng Vũ và bị Hạng Vũ xử chết. Nhà Tần chính thức sụp đổ. Chiến tranh Hán - Sở giữa hai lãnh tụ Lưu Bang và Hạng Vũ sau đó diễn ra ác liệt.

2 năm sau, năm 204 TCN, Triệu Đà lên ngôi và thành lập nước Nam Việt, chính thức ly khai khỏi Trung Nguyên. 2 năm sau, năm 202 TCN, Lưu Bang đánh bại Hạng Vũ và thống nhất Trung Quốc. 23 năm sau, năm 179 TCN, các thế lực phản kháng phần bị Triệu Đà thuyết phục, hối lộ, dụ dỗ, mua chuộc, chiêu an, chiêu hàng, giảng hòa, phần bị tiêu diệt, nước Âu Lạc hoàn toàn bị Triệu Đà bình định và thôn tính. Triệu Đà và triều đình Nam Việt hoàn thành việc đánh dẹp. Mở đầu đêm dài Bắc thuộc cho đến khi Ngô Vương Quyền giành lại hoàn toàn độc lập tự chủ.

Vài góp ý về phương pháp nghiên cứu:

Đương nhiên dù giả thuyết có hợp tình hợp lý, có thấy logic đến thế nào thì cũng không thể được coi là giả thuyết cuối cùng, giả thuyết duy nhất đúng. Bởi vì có rất nhiều vấn đề cần tiếp tục được xem xét, tìm hiểu, nghiên cứu thêm.

Mình có 3 đề xuất: Một là nên mở rộng việc tìm tòi các truyền thuyết cổ từ các dân tộc ít người ở miền núi phía Bắc Việt Nam. Những thông tin quý báu về bộ Nam Cương, về 9 xứ mường, về chúa Thục (Thục Chế), Thục Phán, 9 chúa tranh vua v.v. sẽ không được phát hiện nếu lúc đó ta không tận lực tìm hiểu truyền thuyết dân gian của người Tày, và truyền thuyết địa phương ở Cao Bằng.

Hai là nên mở rộng địa bàn tìm kiếm các truyền thuyết địa phương, các sự tích dân gian địa phương, các ngọc phả trong các đền thờ địa phương ở tất cả các khu vực nào đã từng chịu sự ảnh hưởng của Lạc Việt, Âu Việt, và cả Bách Việt, gồm ở Bắc Việt Nam và Nam Trung Hoa, nhất là ở Quảng Tây, Trung Quốc. Việc tìm kiếm ở phía nam Trung Hoa có thể hợp tác với các nhà sử học Trung Quốc, nhất là giới nghiên cứu địa phương, và các nhà sử học đặc biệt nghiên cứu chuyên sâu về các địa phương cực nam này.

Ba là nên hợp tác, phối hợp chặt chẽ với đông đảo giới khoa học lịch sử quốc tế, với các sử gia, các nhà nghiên cứu người Việt hải ngoại, Trung Quốc, Đài Loan, Nga, Pháp, Mỹ, Nhật, phương Tây. Đặc biệt là với Trung Quốc và Đài Loan, giới sử học Trung Quốc muốn tìm hiểu đầy đủ về lịch sử Trung Hoa thì đương nhiên phải tìm hiểu phía nam Trung Quốc, bao gồm địa bàn cũ của người Bách Việt, Âu Việt. Giới sử học Đài Loan muốn nghiên cứu đầy đủ và chính xác về nguồn gốc Bách Việt của các dân tộc bản địa ở đảo Đài Loan thì cũng phải tìm hiểu về Bách Việt. Các nhà nghiên cứu sử của phương Tây thì đáng tin vì trong những nghiên cứu cổ sử, họ không bị bó buộc bởi tư tưởng sô-vanh và lợi ích chủ quyền dân tộc, nên thường khách quan, trung lập hơn. Nói chung, giới nghiên cứu ở nước ngoài có điều kiện để tiếp cận với khoa học công nghệ tiên tiến phục vụ cho công tác khảo cổ, nghiên cứu sử tốt hơn, nhất là giới sử học, khảo cổ học, khoa học ở Trung Quốc, Nhật, Mỹ, phương Tây.

Thiếu Long

Tài liệu tham khảo

- Sử Ký, Tư Mã Thiên, Phan Ngọc dịch, NXB Văn học, 1988
- Đại Việt sử ký toàn thư, Ngoại kỷ: Kỷ Hồng Bàng thị, Hùng Vương
- Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, Quốc sử quán, Kỷ nhà Triệu
- Đại cương lịch sử Việt Nam tập 1 (Từ thời nguyên thủy đến năm 1858), Nhiều tác giả, NXB Giáo dục, 2001
- Văn Hóa Đông Sơn, Phạm Minh Huyền, NXB Khoa học Xã hội, 1996
- Lịch sử Việt Nam, tập 1, Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh, NXB Đại học và giáo dục chuyên nghiệp, 1991
- Lịch sử cổ đại Việt Nam, Đào Duy Anh, NXB Văn hóa Thông tin, 2005
- Biên niên lịch sử cổ trung đại Việt Nam, Viện Sử học, NXB Khoa học Xã hội, 1988
- Từ điển Bách khoa thư Việt Nam, PGS. TS. Phạm Hùng Việt, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, 2005
- Tài liệu Internet
- Wikipedia tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Trung

http://my.opera.com/thieulongtexas/blog/aulacvietnam