Chủ Nhật, 22 tháng 4, 2012

Lịch sử Chợ Lớn (phần 3)


Chợ Lớn
Lịch sử địa lý, kinh tế và văn hóa
Phần 3



Nguyễn Đức Hiệp



Bến Chương Dương, Hàm Tử, Bình Tây, Bình Đông

Ngoài sông Saigon thì con đường thuỷ quan trọng thứ nhì vùng Sài Gòn - Chợ Lớn là Kinh Tàu Hủ (người Pháp gọi chung rạch bến Nghé và kinh Tàu Hủ là Arroyo Chinois). Sau này có thêm một kinh chạy song song với Kênh Tàu Hủ, nối với kinh Tẻ và rạch Bến Nghé ra sông Saigon gọi là Kinh Đôi.

Theo Vương Hồng Sển (4) thì :

“ Khảo ra vì Rạch Chợ Lớn cạn hẹp, (cũng vì thế nên sau Pháp lấp bỏ) nên để có một con kinh rộng lớn hơn, năm Gia Long thứ 18 (Kỷ Mão, 1819), Vua hạ lịnh cho đào Kinh Tàu Hủ. Phó Tổng Trấn Gia Định Thành là Huỳnh Công Lý (cha vợ Vua Minh Mạng), được phong làm Khâm Sai, hiệp với ông Tổng Thanh Tra Gia Định, điều khiển mười một ngàn bốn trăm sáu chục nhơn công (11.460), chia làm ba tốp, mỗi dân công có lãnh một số tiền và một khẩu phần, khởi công ngày 23 tháng giêng, đến ngày 23 tháng tư năm Kỷ Mão (1819) là hoàn thành, đúng ba tháng. Con kinh này bắt đầu từ Cầu Đề Thông (nôm gọi là Cầu Bà Thuông) chạy đến ngã tư sông Rạch Cát. Sách nói kinh dài 2.129 tầm và 1 bộ, bằng chín dặm rưỡi, (mỗi dặm 576 thước tây = 576 x 9,5 = 5.472 m). Bề ngang rộng mười lăm tầm (mỗi tầm 8 xích, tính ra 0,32 x 8 x 15 = 36m90). Bề sâu được 9 bộ (mỗi bộ 6 xích = 0,32 x 6 x 9 = 17m28). Mỗi bên kinh có chừa một bờ đất rộng 8 tầm, bờ kinh ấy thông liền với đường sứ rộng sáu tầm. Đào rồi, Vua Gia Long đặt tên khúc kinh ấy là An Thông Hạ.

Nay ráp với đoạn Chợ Quán và Cầu Ông Lãnh, gọi chung là Kinh Tàu Hủ (Tài liệu rút trong Phổ Thông số 15 ngày 15-7-1959, bài của ông Lê Ngọc Trụ viết). Theo bộ Gia Định Thông Chí của ông Trịnh Hoài Đức, thì vốn là lạch nhỏ cũ đào rộng ra, nhưng xét qua địa đồ xưa của ông Trần Văn Học vẽ về tỉnh Gia Định trước năm 1815 thì không thấy có con rạch nhỏ ấy.”

Cho tới các năm gần đây, dọc theo kinh Tàu Hủ là các bến tàu vẫn còn hoạt động : bến Chương Dương (Quai de Belgique), bến Hàm Tử (Quai Le Marne), bến Lê Quang Liêm (Quai de My Tho). Từ khi khởi công xây đại lộ Đông Tây, các bến này dần biến mất và không còn tàu ghé đến nữa. Các bến và cảnh quan chung quanh đã hầu như nhanh chóng thay đổi toàn diện qua sự cải tiến về hạ tầng cơ sở lưu thông đường bộ tương phản với sự thu hẹp mất dần giao thông đường thủy và một số khu nhà ổ chuột dọc bên kênh. Nhà cửa ở các khu phố dọc bến và bên trong cũng thi nhau biến dạng qua những kiến trúc tầng lầu tân thời, cao thấp, rộng hẹp mỗi nhà một vẻ.

Trở lại cách đây đúng 150 năm, ta hãy đọc những gì Leopold Pallu, một sĩ quan Pháp, đã tả quang cảnh chung quanh bờ từ rạch Bến Nghé đến kênh Tàu Hủ vào năm 1861 trên đường vào Chợ Lớn như sau (17) :

“ Rạch Bến Nghé - Kênh Tàu Hủ (Arroyo chinois), mà ta vẫn thường nghe khi nói về Sài Gòn, rất có thể là rạch được đào hay ít nhất cũng là do tay người cải tiến thành kênh cho tàu bè thông thương. Kênh tách ra theo một hướng thẳng góc với sông Sài Gòn, mặt nước phẳng đều, rộng khoảng 100m, ăn sâu vào phía trong vùng xứ sở. Rạch Bến Nghé - Kênh Tàu Hủ nối với kênh Bà Bèo(Arroyo commercial, sau này gọi là kênh Tháp Mười nối sông Vàm Cỏ Tây với sông Tiền, là kênh buôn bán thương mại chính giữa Sài Gòn - Chợ Lớn với miền Tây. Từ kênh Tàu Hủ còn phải qua kênh Ruột Ngựa đến sông Rạch Cát hay sông Chợ Đệm đến sông Vàm Cỏ trước khi đến kênh Bà Bèo để đi qua sông Tiền, ghi chú người dịch) và họp với các kênh rạch khác tạo thành một đường giao thống huyết mạch, đổ vào sông Cambodge (tức Tiền Giang, ghi chú người dịch) mà tất cả thương mại ở miền Tây (basse Cochinchine)dựa vào.

Đi từ Saigon vào rạch, dọc hai bờ vương lên nhiều chòm cây mãng cầu, cây mít, cây hoa lài thơm ngát, cây lô hội và lau sậy. Cây cối bên bờ trái che khuất các ruộng lúa mênh mông đến tận chân trời. Hàng cây bên bờ phải thỉnh thoảng ở các khoảng cách hé lộ ra cho ta thấy được một miếu thờ nhỏ, được dựng lên để thờ một vị thần quen thuộc của vùng, nhưng thường hơn là những nhà xinh đẹp dễ chịu của người An Nam, các nhà này lợp ngói, có các cây xương rồng làm hàng rào bao quanh kho xuyên qua được.

Một con đường lớn được bảo trì khá tốt, rộng như một tỉnh lộ ở Pháp, được các cây xinh đẹp che làm bóng mát, chạy song song dọc với rạch Bến Nghé - kênh Tàu Hủ, chỉ cách bờ rạch khoảng 200m.Đó là một đoạn của con đường từ Sài Gòn đi Mỹ Tho. Rời Sài Gòn vào rạch, ở phía bên phải, là các chùa đã biến thành các đồn Barbé, đồn Ô Ma (des Mares, tức đền Hiển Trung vị trí ở sở nuôi ngựa và thành Ô Ma hay thành Cộng Hòa, trụ sở Công An sau này, ghi chú của người dịch), đồn Kiểng Phước (Clochetons), và đồn Cây Mai. Cũng về bờ bên phải, xa khỏi con đường, địa thế cao dần lên với cánh đồng trãi đến chân trời. Những cây cau, cây xanh được thay thế bởi những bụi cây cằn cỗi, các loại cỏ vàng. Quang cảnh trông rất cằn cỗi và buồn bã, bị nung đốt bởi mặt trời. Những nấm mồ, các mộ sáng chiếu và được sơn phết, duy nhất làm ta để ý. Cánh đồng người chết khổng lồ này là cánh đồng Kỳ Hòa. Xa hơn nữa là phòng tuyến của người An Nam, với địa hình mờ nhạt hòa vào với màu đất, chỉ có thể nhận ra bởi các kỵ binh và chòi canh gác trên đó.

Thành phố người Hoa, được biết với tên là Chợ Lớn, một từ tiếng Hoa, trải dài hai cây số dọc hai bên bờ rạch. Thành phố trông náo nhiệt bởi sự di chuyển rất đông của các cu li người Hoa và An Nam, không ngừng khiêng tải lên xuống các bao gạo, tiền đồng, dê con và cá khô. Những mái nhà ngói đỏ trông như tách rời một cách thôn dã giữa những bụi cây cau, mà thân cây thẳng và có khía rảnh trông giống các cột theo kiểu Corinthian (một loại kiến trúc cột Hy Lạp, chú thích người dịch) ”.

Sau này, Charles Lemire (18) vào năm 1884 cho biết đã có các tàu chở khách từ Sài Gòn vào Chợ Lớn theo rạch Bến Nghé và kênh Tàu Hủ rất thường, cứ mỗi nửa tiếng là có với giá 0,25 Fr. Quang cảnh đi tàu từ Sài Gòn đến Chợ Lớn rất đẹp mắt. Dọc theo bờ kênh và các bờ rạch trong Chợ Lớn, Lemire đã mô tả như sau (tr. 162) :

a
Hình 1 : Bến Chương Dương đầu thế kỉ 20.
“ Cuối cùng thẳng hàng dọc theo bờ, là những tòa nhà thương mại lớn của người Hoa, các kho chứa gạo, đường, cây chàm, sáp ong, lụa, gốm men, gốm đất, da trâu, bò, da rắn, da cọp, chim, cá khô, đậu phọng, vân vân. Vào trong các kho ta sẽ thấy đủ loại cân đo với kích thước khác nhau, các bao hàng, các mẫu hàng giữa rất nhiều các nhân viên, các cu-li hay công nhân khuân vác.

Rạch Lò Gốm và đủ loại các kênh rạch khác trong Chợ Lớn cho phép các ghe tàu đến tận chân các kho này và cho phép các tàu đi lại trong khắp thành phố. Những ghe của người An Nam, xuồng, tàu đánh cá, ghe của người Cam Bốt đi qua lại và đậu san sát trong những kênh rạch này. Những ghe xuồng giống như những hành lang nổi, dài, hình chữ nhật, làm bằng gỗ, độn tre bên ngoài. Những tàu khác có khoang cá mà người An Nam dùng để chứa cá tươi mà họ mang ra chợ bán...

Không có gì náo nhiệt hơn là quang cảnh mà người ta có thể thấy khi đứng từ trên cao ở cầu Jaccareo nhìn xuống (rạch Jaccareo bây giờ đã lấp thành đường Tản Đà, chú thích người dịch). Các ghe, tàu, xuồng tụ họp mà phía đằng sau là một màn cây xanh đối diện với đồn Cây Ma, những bến tàu mà người ta thấy tàu đậu san sát, các cu li luôn hoạt động, các nhân viên kho hàng, các tiểu thương, tất cả tạo thành một tập hợp rất lý thú và làm cho những người còn hoài nghi về tương lai của Nam Kỳ phải suy nghĩ lại.



b
Hình 2 : Bến Chương Dương ngày nay vẫn còn sót lại một số nhà cổ người Hoa dọc đại lộ Đông Tây
Đầu thập niên 80 của thế kỷ 20, qua chính sách thâu mua lúa gạo của nhà nước cộng với sự phát triển và hiệu quả kinh tế của đường bộ từ Sài Gòn và các tỉnh đến Miền Tây và ngược lại đã đưa đến sự cạnh tranh và qua đó giảm đi tầm quan trọng của sư chuyên chở nông sản, hàng hóa qua đường sông và kênh rạch phân phối đến Sài Gòn và các tỉnh miền Đông. Vì thế vị trí trung tâm trung chuyển của Chợ Lớn với miền Tây đã lần lần mất đi, kéo theo vai trò chủ lực kinh tế của Chợ Lớn. Mặc đầu vậy, cho đến trước khi Đại lộ Đông Tây được khởi xây và quyết định của chính quyền thành phố không cho phép ghe thuyền đậu ở các bến trên Kênh Tàu Hủ, hàng hóa tiêu dùng sản xuất từ Chợ Lớn hay phân phối từ các nơi khác và sản phẩm miền Tây vẫn còn được vận chuyển đến Chợ Lớn và từ Chợ Lớn đi các nơi khác. Ngoài ra, hiện nay một số chợ buôn bán nông và hải sản trong Chợ Lớn cũng phải di chuyển ra ngoài đến khu chợ mới được xây ở Bình Điền và hoàn thành vào năm 2010.

Các bến tàu dọc theo kênh Tàu Hủ và gần trung tâm Chợ Lớn không còn là kho và nguồn hàng hóa nữa cho Sài Gòn-Chợ Lớn và các nơi khác, và thực sự chấm dứt hoạt động khi Đại Lộ Đông Tây được xây dựng.

c
Hình 3 : Khu phố cổ còn lại của người Hoa ở bến Chương Dương. Bến Hàm Tử thì hoàn toàn không còn sót lại các nhà cổ có kiến trúc của người Hoa thời Pháp thuộc như ở bến Chương Dương.


Sự thay đổi cơ bản về kinh tế ở Chợ Lớn là khuynh hướng chung ở nhiều nơi trong thời kỳ có nhiều biến chuyển về chính sách và tốc độ phát triển kinh tế của toàn khu vực. Điều này đòi hỏi sự thích ứng của Chợ Lớn vào môi trường kinh tế mới, không những phát triển kỷ nghệ mới nhưng cũng tận dụng và phát huy những di sản cơ sở vật chất sẵn có với những ưu điểm và tìm năng đặc thù của nó để tìm thị trường và nguồn thu hút mới như nhiều thành phố khác đã làm với các qui hoạch có tầm nhình xa của họ.

Ngày nay bộ mặt của bến Chương Dương, Hàm Tử, Lê Quang Liêm đã thay đổi rất nhiều, nhất là từ khi đại lộ Đông Tây xây dọc theo bờ bên phải kênh Tàu Hủ từ bến Chương Dương đến bến Lê Quang Liêm (Trần Văn Kiểu). Tất cả các bến này đã biến mất. Hiện nay chỉ còn một vài dãy nhà phố cổ ở dọc bến Chương Dương từ khi đại lộ Đông Tây được xây dựng. Riêng bến Hàm Tử thì hoàn toàn không còn các khu dãy nhà cổ, thay vào đó là các nhà kiến trúc tân thời không đồng bộ, rất nhếch nhác về cảnh quan.

Ngay ở cửa vào rạch Bến Nghé từ sông Sài Gòn vào Chợ Lớn, nơi xưa kia các tòa nhà lớn như Ngân hàng Đông Dương (Banque de L’ Indochine), Phòng Thương Mại (Chambre de Commerce, do ông Vương Thái xây, có thời được dùng làm trụ sở của thị trưởng và Hội đồng quản hạt thành phố Sài Gòn trước khi Tòa thị sảnh được xây, sau này là Thượng nghị Viện chính quyền Sài Gòn và nay là Phòng Giao dịch Chứng khoáng) ngự trị, đã biến đổi với các tòa nhà này chìm trong các kiến trúc cao tầng thiếu trật tự khác.

d   e
Hình 4 (trái) : Kênh Tàu Hủ - Bến Hàm Tử - Lê Quang Liêm đầu thế kỷ 20
Hình 5 (phải) : Quai My Tho - Bến Lê Quang Liêm (Trần Văn Kiểu ngày nay) - Chợ Lớn

Đối diện bên kia kênh là các bến Vân Đồn, Phạm Thế Hiển, Bến Bình Đông. Các bến này vẫn còn nhưng cũng như bến Chương Dương và Hàm Tử đã biến dạng rất nhiều. Nhất là bến Bình Đông, nhiều nhà, chùa cổ đã biến mất. Nơi đây xưa kia là các nhà máy xay lúa gạo nơi lúa gạo từ miền Tây đổ về, và từ đây được xuất cảng đi nhiều nước.


f
Hình 6 : Rạch Bãi Sậy - Bình Tây
Từ bến Lê Quang Liêm (thời Pháp gọi là “Quai My Tho” vì là bến nơi tàu, ghe từ Mỹ Tho và miền Tây đổ về đây), hàng hóa nông phẩm, trái cây được đưa đến chợ Bình Tây và các chợ khác khắp Sài Gòn và hàng sản xuất từ Chợ Lớn được đưa xuống trở lại miền Tây. Vì thế Chợ Lớn là trung tâm thương mại ở miền Nam. Ngày nay tất cả các bến Chương Dương – Hàm Tử - Trần Văn Kiểu đều không còn hoạt động thay thế bằng đại lộ Đông Tây. Bến Bình Đông và bến Mễ Cốc bên kia kênh hầu như cũng không còn hoạt động, duy chỉ có những ngày gần Tết, một số thuyền bè từ miền Tây được phép mang cây kiểng, bonsai, hoa mai… lên đoạn cuối bến Bình Đông gần bến Mễ Cốc bán cho các nhà buôn cây kiểng dọc bến.








Dọc bến, có nhiều nhà kho, nhà ở đã có từ lâu đời với kiến trúc kết hợp đông và tây. Các nhà này giống như kiến trúc nhà cổ ở Singapore, Malacca, Quảng Châu vì xưa kia các thương gia, nhà thầu gốc Hoa từ những thành phố này đã có mặt nơi đây. Họ cùng các thương gia Chợ Lớn xây dựng các cơ sở vật chất, nhà cửa, kho hàng…

g   h
Hình 7 : Từ cầu Chà Và ở bến Hàm Tử - Trần Văn Kiểu (Quai Mytho) nhìn sang bến Bình Thông ngày nay
Hình 8 : Bến Bình Đông đang thay đổi


Hiện nay các khu phố cổ Chinatown và Clark Quay ở Singapore được bảo tồn và trở thành nơi du lịch có giá trị văn hóa nổi tiếng ở xứ này. Khu Clark Quay kế bờ sông, xưa kia là nơi buôn bán, có nhiều nhà kho chứa hàng và nhà ở san sát từ các tàu buôn (giống như bến Lê Quang Liêm, bến Bình Đông dọc kênh Tàu Hủ), ngày nay là khu thanh lịch có nhiều nhà cổ đầy cá tính đặc biệt của kiến trúc đầu thế kỷ 20 và được người dân và du khách đông đảo ưa chuộng viếng thăm. Tiếc thay ở Chợ Lớn, chúng ta đã chưa làm được như vậy, mà ngược lại nhiều nhà cổ, và ngay cả đình đã biến mất.

i   j
Hình 9 : Một khu phố cổ ở bến Bình Đông vẫn còn nhưng xuống cấp vì không bảo trì
Hình 10 : Bến Bình Đông - bến Mễ Cốc nhìn sang đoạn cuối của bến Trần Văn Kiểu, nay có cầu của đại lộ
Đông Tây bắc qua giao điểm của rạch Lò Gốm (chảy ra phía trái) và kênh Tàu Hủ


k   l
Hình 11 : Các nhà kho dọc bến Bình Đông lần lượt biến mất
Hình 12 : Ghe từ Bến Tre mang cây kiểng đến bến Bình Đông những ngày giáp tết 2011
m   n  
Hình 13 : Bến Bình Đông với cây kiểng từ miền Tây mang lên trong dịp sắp tết
Hình 14 : Một ngôi chùa ở bến Bình Đông
Xưa nay gạo là nguồn hàng nông sản thương mại chính của Chợ Lớn. Gạo từ các nhà máy xay lúa dọc kênh Tàu Hủ được phân phối đi các tỉnh thành miền Nam, Trung Bắc và xuất ra nước ngoài (như Singapore, Hong Kong). Chợ gạo, đường Trần Chánh Chiếu gần bến xe Chợ Lớn, là đầu mối bán sỉ gạo và từ đây các thương gia mua hàng dùng xe tải mang gạo đến các chợ và các nơi khác. Gần đây (2008), “chợ gạo” Trần Chánh Chiếu (thật ra là các dãy nhà của các hộ gia đình tiểu thương) không còn phép hoạt động, phải dời đi đến chợ đầu mối nông sản Bình Điền. Cộng với các nhà máy xay lúa không còn ở Chợ Lớn và các thương gia, xe hàng ngày nay đi đường bộ đến thẳng miền Tây và các nhà máy xay lúa ở đó, vai trò của Chợ Lớn là đầu vựa của nông sản gạo không còn như xưa nữa.



Tổng luận về Chợ Lớn và tương lai phát triển



Ngày nay tốc độ phát triển đô thị ở Sài Gòn - Chợ Lớn rất là nhanh chóng, bộ mặt thành phố đổi thay rất nhiều. Điều quan trọng là các di sản, kiến trúc văn hóa lịch sử, nơi sinh hoạt tôn giáo, văn hóa nên được bảo tồn, gìn giữ để chúng trở thành cảnh quan có giá trị tinh thần vô giá cho thành phố và các thế hệ sau nối tiếp. Hiện nay trong vùng Chợ Lớn, các di tích được quan tâm, bảo tồn là những chùa, đình, hội quán đã được xếp hạng thuộc diện di tích lịch sử cấp quốc gia do Bộ Văn hóa công nhận. Tuy nhiên những khu phố có cảnh quan đặc biệt, các dãy nhà hay các nhà cổ có những kiến trúc đặc thù tiêu biểu cho một thời trong các thế kỷ trước thì hoàn toàn không có quy định gì liên quan đến phát triển, bảo tồn mà hoàn toàn tùy thuộc vào địa phương quản lý. Chính quyền thành phố vì thế đóng một vai trò rất quan trọng trong qui hoạch bảo tồn di sản cảnh quan văn hóa tạo ra cá tính đặc thù của thành phố mình.

Như đã đề cập, vị trí trung chuyển và cơ cấu kiến trúc kinh tế ở Chợ Lớn đã thay đổi qua sự biến mất của các bến tàu, kho hàng. Vì thế phải chuyển cơ bản kinh tế Chợ Lớn từ cung cấp, phân phối hàng hóa đến kinh tế chủ yếu dựa vào dịch vụ. Dựa vào các di sản văn hóa của người Hoa duy trì cho đến nay và các cơ sở vật chất để lại do lịch sử Chợ Lớn bắt nguồn từ kinh tế qua sông rạch, một trong những dịch vụ có tìm năng cao là du lịch và phục vụ khách thăm viếng. Điều này đòi hỏi cảnh quan có giá trị văn hóa lịch sử phải được bảo tồn và đầu tư phát triển mà chỉ có chính quyền thành phố Hồ Chí Minh mới có thể làm được qua quy hoạch, khuyến khích đầu tư và hợp tác với cộng đồng địa phương. Tôi tin rằng người dân Chợ Lớn với truyền thống tinh thần mở đường, gan dạ và can trường trong thương mại của họ có từ lâu đời sẽ biến Chợ Lớn thành một thành phố xứng đáng với tìm năng của nó như Singapore và Hồng Kông trong lãnh vực kinh tế và du lịch.

Hội đồng thành phố và thị trưởng (được dân bầu ở các nước dân chủ) hay Ủy ban nhân dân và bí thư thành ủy có quyền hoạch định chính sách, đưa ra quy định về tiêu chuẩn phát triển khu dân cư, thương mại, bảo tồn kiến trúc, cảnh quan có giá trị văn hóa lịch sử và thực thi trong công tác quản lý trong phạm vi thành phố.

Để có thể thực hiện được sự hài hòa trong phát triển và bảo tồn cảnh quan văn hóa và môi trường sinh thái. cơ chế quản lý và hoạch định đô thị phải được tuân thủ dựa theo các nguyên lý cơ bản và các kinh nghiệm đã thâu lượm được trong nhiều năm qua trong vấn đề quản lý sự phát triển bền vững và hoạch định đô thị trên thế giới :

- Trong suốt trong quá trình hoạch định và quản lý

- Sự tham dự của các thành phần liên quan (stakeholders) trong đó có cộng đồng địa phương bị ảnh hưởng trực tiếp, các tổ chức phi chính phủ (chính quyền không thể có tai mắt ở khắp mọi nơi)

- Nguyên lý cẩn trọng (precaution principle) : nếu hệ quả do con người tác động không xác định được chính xác nhưng nếu xảy ra sẽ to lớn thì chúng ta không nên làm. Liên quan đến nguyên lý cẩn trọng là trong đề án phát triển và bảo tồn lúc nào cũng phải có bài toán xác định rủi ro (risk assesment).

- Phù hợp với luật môi trường (như đa dạng sinh học,..), luật bảo tồn văn hóa và các qui định, điều lệ về cảnh quan đô thị.

Chúng ta nên học hỏi và áp dụng các bài học và kinh nghiệm ở nhiều nơi trên thế giới. Tất cả đều cho thấy rằng 

- Giao thông bền vững (sustainable transport) sẽ đưa lại các hệ quả kinh tế cao, lợi ích an sinh và sức khỏe rất to lớn. Xây thêm, nới rộng đường không phải là giải pháp lâu dài cho xe cộ. Xây dựng hệ thống di chuyển khối lựợng (mass transit) có hiệu quả (như hệ thống xe điện) mới chính là giải pháp bền vững cho giao thông, nhất là trong tình trạng quá tải hiện nay ở thành phố Hồ Chí Minh.

- Chỉ số phát triển GDP (Gross Domestic Product) chỉ tập trung vào kinh tế không còn hợp với trào lưu phát triển bền vững hiện thời. Chỉ số mới trong đó tiêu chuẩn sống như môi trường, y tế, giáo dục được mang vào trong hoạch định phát triển con người và xã hội. Bảo tồn cảnh quan văn hóa và môi trường sống của thành phố sẽ nâng cao giá trị và tiêu chuẩn đời sống văn hóa an sinh xã hội trong cộng đồng và cho cả mỗi thành viên.

Thành phố Hồ Chí Minh (bao gồm Sài Gòn - Chợ Lớn) cần có quy định hay ít nhất có kế hoạch rõ về các khu phố, các nhà có giá trị văn hóa cần được giữ lại nét đặc thù, đặc trưng cho khu vực và sự cần thiết tăng nhanh chóng diện tích cây xanh cho khu vực Sài Gòn - Chợ Lớn. Từ nhiều năm nay, trong khu vực Chợ Lớn và phụ cận, nhiều kênh rạch bị lấp hay thu hẹp, mật độ đường xá và các khu dân cư mới tăng nhanh, cộng với thiếu diện tích cây xanh đã làm khả năng rút nước trên mặt và ngầm dưới đất suy giảm nhiều, đưa đến tình trạng dễ lụt trong mùa mưa, nhất là khu vực thấp gần chung quanh rạch Bến Nghé  - kênh Tàu Hủ. Giải quyết các vấn đề trên là tiên quyết cho sự phát triển bền vững Sài Gòn - Chợ Lớn. Không phải là dễ nhưng không phải là không làm được, với sự kiên trì trong mục tiêu, sự trong suốt và sự tham dự với cộng đồng công dân của thành phố.

Nguyễn Đức Hiệp





Tham khảo



(1) Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Lý Việt Dũng dịch và chú giải, Nxb Đồng Nai, 

(2) Jean Baptiste Pétrus Trương Vĩnh Ký (1837-1898), Souvenirs historiques sur Saïgon et ses environs, conférence faite au collège des interprètes par M. P. Truong Vinh Ky, Éditeur : Impr. coloniale (Saïgon), 1885.

(3) Les colonies françaises : notices illustrées / publ. par ordre du sous-secrétaire d'état des colonies sous la dir. de M. Louis Henrique, Quantin (Paris), 1889-1890.

(4) Vương Hồng Sển, Sài Gòn năm xưa, 1992, Nxb Trẻ.

(5) Claudine Salmon, Tạ Trọng Hiệp, De Batavia à Sài Gòn : notes de voyage d’ un marchand chinois (1890), Archipel, 1994, Vol. 47, pp. 155-191.

(6) Hình ảnh, tư liệu : Belle Indochine 

(7) Albert Morice, Voyage en Cochinchine pendant les années 1872-73-74, par M. le Dr Morice, H. Georg (Lyon), 1876.

(8) Eugène Bonhoure, Indo-Chine, Challamel (Paris), 1900.

(9) Lê Văn Lưu, Pagodes chinoises et annamites de Cholon (orné de 26 photogravures), Imprimerie Tonkinoise, Hanoi,1931.

(10) Séance du 2 mars 1893, Bulletin de la Société des études indochinoises, année 1893, pp. 63, 1893, Société des études indochinoises (Saïgon).

(11) Pierre Passerat de la Chapelle, L’industrie du decorticage du rizBulletin de la Société des études indochinoises, année 1901, 1901/1 (no. 41)-1901/6, pp. 53, Société des études indochinoises (Saïgon).

(12) Louis Finot, Les papiers de LandesBulletin de l'Ecole française d'Extrême-Orient,1903, Vol. 3, No. 3, pp. 657-660.

(13) Antoine Brébion, Dictionnaire de bio-bibliographie générale, ancienne et moderne de l'Indochine française, publié après la mort de l'auteur par Antoine Cabaton, 1935, Contributeur: Cabaton, Antoine (1863-1942). Éditeur scientifique, 


(15) Choi Chi-Cheung, Cheung Ah-Lum, A biographical note, Journal of the Hong Kong. Branch of the Royal Asiatic Society, v. 24 (1984), pp. 282-7. ().

(16) Notice historique, administrative et politique sur la ville de Saïgon. Publiée par les soins du secrétaire général de la mairie, Impr. de l'Union (157 rue Catinat, Saïgon), 1917.

(17) Léopold Pallu de la Barrière, Histoire de l’Expedition de Cochinchine en 1861, Berger-Levrault et Cie, Paris 5 Rue des Beaux-Arts, 1888.

(18) Charles Lemire, L'Indo-Chine. Cochinchine française, royaume de Cambodge, royaume d'Annam et Tonkin ; 3e edition, Challamel aîné (Paris), 1884.




Thuộc địa Hà Lan ở Đông Nam Á

Thuộc địa Hà Lan ở Đông Nam Á


phần 1



CHƯƠNG 1: QUÁ TRÌNH XÂM LƯỢC THUÔC ĐỊA CỦA HÀ LAN
1.1. Vai trò của Công ty Đông Ấn V.O.C
    1.1.1.  Sự ra đời.
Với việc Hà Lan, Anh ngày dần dần có tầm ảnh hưởng tại khu vực Phương Đông đã phần nào làm cho sự ảnh hưởng của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha ở khu vực này giảm xuống đáng kể, những người dân bản xứ muốn dựa vào Hà Lan hay Anh để chống lại Bồ Đào Nha hay Tây Ban Nha, chính vì điều này đã dẫn đến sự mâu thuẫn về quyền lợi hay chính xác hơn các quốc gia Phương Tây này bây giờ đã đi vào thời kỳ cạnh tranh chứ không phải là “thời kỳ Wilde Vaart tức là thời kỳ đi biển một cách bừa bãi” [2;451].
Sự cạnh tranh đòi hỏi các công ty của quốc gia phải xích lại gần nhau, phải tạo thành những tập đoàn lớn mạnh. Bắt đầu vào thế kỷ XVII (1600) thì trào lưu hợp nhất đã nở rộ, chính trong trào lưu này thì nhiều công ty lấy tên Đông Ấn đã ra đời.
Với việc Anh thành lập công ty Đông Ấn đã làm cho người Hà Lan tin rằng “thời kỳ mạnh ai đó làm” đã chấm dứt và giờ đây họ cần đoàn kết lại cùng nhau thành lập ra một tập đoàn đi biển hùng hậu để cạnh tranh với các đối thủ của mình đặc biệt là người Bồ Đào Nha. Chính vì thế đã dẫn tới việc thành lập công ty Đông Ấn Hà Lan thống nhất hay là công ty Vereenigde Oostidische Compagnie (V.O.C).
Công ty Đông Ấn Hà Lan V.O.C được thành lập vào 1602 và được Quốc hội Hà Lan thông qua điều lệ hoạt động của công ty vào ngày 20-3-1602. Sự thành lập này xét ra thì đó là sự liên minh của các công ty nhỏ của Hà Lan mà đang hoạt động buôn bán và cạnh tranh đối với các đối thủ ở Viên Đông nhưng thực chất đây là một công ty, một tổ chức trá hình của bọn thực dân để thực hiện công cuộc xâm lược.
   1.1.2 .  Đặc điểm và tính chất Công ty Đông Ấn Hà Lan.
Với việc Quốc hội Hà Lan thông qua điều lệ hoạt động của công ty V.O.C với nội dung.
Cho phép công ty được “độc quyền buôn bán trong các khu vực từ Mũi Hảo Vọng đến eo biển Magellan cho phép thời kỳ đầu là 21 năm, cũng với quyền ký các hiệp ước, xây dựng pháo đài, duy trì lực lượng quân sự, và thiết lập các cơ quan tư pháp. Tại mỗi thành phố đều có các công ty hợp nhất như Amsterdam, Middelburg, Delft, Rotterdam, Hoorn, và Enkhuizen, và có một Phòng Thương mại của công ty V.O.C”. “Việc điều hành công việc hàng ngày được giao cho ủy ban bao gồm 17 người (giám đốc điều hành)”[2;453].
Công ty Đông Ấn Hà Lan được thành lập với số vốn ban đầu lên tới 6,5 triệu guider, trong đó số vốn của Amsterdam là 3,675 triệu. Đây là số tiền rất lớn so với thời kỳ đó, nếu tính ra thì số vốn Hà Lan thành lập công ty này đã gấp 10 lần so với việc Anh thành lập Đông Ấn Anh cho dù công ty này đã có sự nâng đỡ của nữ hoàng Elizabet. Mỗi thành viên của V.O.C sẽ  trang bị các tàu một cách độc lập, nhưng lợi nhuận và thua lỗ cùng hưởng cùng chịu. Công ty sẽ tiếp nhận tất cả các cơ quan thương mại tiền nhiệm ở Phương Đông như là ở Ternate hay là ở Gresik, Johore và Ache. Như vậy công ty có những đặc điểm và tính chất sau:
Thứ nhất: Với việc hợp nhất này đã chứng tỏ cho chúng ta nhận thấy rằng đó là sự kết hợp hài hòa mà trong đó đã bao gồm được tất cả các lợi ích mà các bên cùng tham gia như là lợi ích của địa phương mà đại diện của nó là công ty bản xứ, của công ty chính quốc và lợi ích của quốc gia Hà Lan.
Thứ hai: Sự thành lập công ty V.O.C đã cho thấy rằng Hà Lan đã có tham vọng hướng về phương Đông nơi mà người Châu Âu thường mơ tới, nơi đó có nhiều vàng và hương liệu. Cái tham vọng này nó đã được nhen nhúm từ rất lâu rồi nhưng bùng cháy lên khi Jan Huygen van Linschoten thổi sinh khi cho người Hà Lan bằng việc viết ra hai cuốn sách mà trong đó đã viết lên những thông tin cần thiết và chính xác mà khi đó người Hà Lan chưa biết đến hay chính xác là người Hà Lan vẫn còn thiếu “một cái thiếu tội nghiệp”. Từ đó người Hà Lan đã chinh phục và đã đi tới được Phương Đông, nơi mà các quốc gia phương Tây hằng khao khát.
Thứ ba: Với việc Quốc hội Hà Lan thông qua điều lệ hoạt động của công ty Đông Ấn và cho phép công ty này được: Độc quyền buôn bán trong các khu vực từ Mũi Hảo Vọng đến eo biển Magellan, quyền ký các hiệp ước, xây dựng pháo đài, duy trì lực lượng quân sự, và thiết lập các cơ quan tư pháp… đã cho ta thấy rằng quyền lực của công ty này vô cùng lớn, xét ở một khía cạnh nào đó nó không khác gì quyền lực của một quốc gia vì: nó có quân đội, có quyền lập pháp. Nhìn vào số vốn ban đầu của công ty cho chúng ta nhiều điều phải suy nghĩ phải chăng đât nước này giầu mạnh hay các ông chủ của công ty này giầu có và nhiều quyền lực. Thực tế cho thấy công ty này được thành lập với hầu hết cổ đông là thương gia giàu có cộng với có quyền lực trong chính quyền Hà Lan đương thời như là “Johan Van Oldenbarnevebt, trợ thủ đắc lực nhất của thống chế Maurice, người được chính giới Tây Âu đương thời xem là “ có đóng góp kỳ diệu nhất cho Hà Lan cuối thế kỷ XVI- đầu thế kỷ XVII”, Haile Marie, Abaltarar De Moucheron… đều là những thương gia và chính trị gia nổi tiếng”[7;73].
Thứ tư: Công ty V.O.C được thành lập dưới danh nghĩa là công ty tư nhân, nhưng lại có quyền lực tối cao như nhà nước, thực hiện khẩu hiệu “buôn bán nghĩa là tiến hành chiến tranh”. Thực chất đây là một tổ chức trá hình của bọn thực dân để thực hiện công cuộc xâm lược [9;10].
Sau khi thành lập công ty thì công việc buôn bán cạnh tranh và đi kèm với nó là công việc xâm lược các vùng đất mới của thực dân Hà Lan ngày càng được đẩy mạnh, sự đẩy mạnh này được diễn ra liên tục và ngày một càng tăng lên, trong thời kỳ này Hà Lan là quốc gia phát triển về ngành công nghiệp đóng tàu, Hà Lan có những xưởng đóng tàu nổi tiếng và được mệnh danh là xưởng tàu của thế giới như là Amsterdam, Rotterdam, Dawclan… Chính vì thế đã tạo thuận lợi cho đóng những chiếc thuyền lớn để đi biển do đó người mà đi vòng quanh trái đất đầu tiên trên thế giới bằng đường biển chính là người Hà Lan. Kể từ năm 1602 trở đi thì các tàu thuyền buôn bán của Hà Lan đã lên đường đi đến phương Đông rất mạnh, mỗi lần đi thì có nhiều thương thuyền cùng đi và có người đúng đầu, các vị đứng đầu này rất thông thạo đường biển, ngoài ra đây chính là những vị “sứ giả” của nhà Vua Hà Lan, chính vì thế nhiệm vụ của họ rất quan trọng ngoài việc buốn bán họ còn có nhiệm vụ tìm ra những vùng đất mới và biến nó trở thành thuộc địa cho đế quốc Hà Lan.
Đức Vượng
  1. Ngô Văn Doanh (1995), Indonesia – Những chặng đường lịch sử, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.
  2. D.G.E.Hall (1997), Lịch sử Đông Nam Á, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.
  3. Nguyễn Văn Nam (2008), Tìm hiểu lịch sử các nước Đông Nam Á ASEAN, Nxb Hà Nội.
  4. Vũ Dương Ninh- Nguyễn Văn Hồng (2006), Lịch sử thế giới cận đại, Nxb giáo dục.
  5. Lương Ninh(cb)- Trần Thị Vinh- Đỗ Thanh Bình (2008), Lịch sử Đông Nam Á, Nxb giáo dục, Hà Nội.
  6. Huỳnh Văn Tòng (1992), Lược sử Indoneisa (Từ thế kỷ XV-XVI đến những năm 1980), Nxb thành phố Hồ Chí Minh.
  7. Lại Bích Ngọc (2003), “Về hoạt động của Công ty Đông Ấn Hà Lan ở Châu Á thế kỷ XVII”, Tạp chí nghiên cứu lịch sử (2/2003), trang 71-77.
  8. Lê Thị Thủy (2005), “ Quan hệ giữa Hà Lan và Thái Lan từ năm 1601 đến 1664”, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á (2/2005) trang 59- 63.
9.   Lê Thị Anh Đào (2004), “ Về những hoạt động của Công ty Đông Ấn Hà Lan (V.O.C) ở Indonesia thế kỷ XVII-XVIII”, Thông tin khoa học Trường ĐHKH- Huế số 13 (3/2004) trang 9-13.
  1.2. Quá trình xâm lược thuộc địa của Hà Lan.
     1.2.1. Thời kỳ của Công ty Đông Ấn Hà Lan V.O.C (1602-1799)
Quá trình xâm lược thuộc địa của Hà Lan trong thời kỷ XVII và XVIII là quá trình xâm lược thuộc địa với chính sách gián tiếp, thực dân Hà Lan không trực tiếp cai trị mà thay vào đó là sự ủy nhiệm cho công ty Đông Ấn V.O.C khai thác và đặt ách thống trị trên các quốc gia, vùng lãnh thổ mà họ chiếm làm của riêng cho mình, trong thời kỳ này công ty Đông Ấn V.O.C bề ngoài như là một công ty tư nhân nhưng thực chất bên trong đó là sự liên kết giữa nhà nước và những nhà tư sản. Công ty này trong thời gian hoạt động nó như là một nhà nước thu nhỏ có đầy đủ mọi quyền lực như một nhà nước có quân đội riêng, có quyền lập pháp và thực thi pháp luật.
Trong thời gian hoạt đông của mình công ty V.O.C đã xâm chiếm và làm chủ các vùng đất thuộc eo biển Malacca như Singgapore, một phần Malaisia, Philippin và đặc biệt là Indonesia, nhưng trong quá trình làm chủ những vùng đất này Hà Lan đã phải trải qua những cuộc xung đột với Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha, những cuộc xung đột tàn khốc này đã làm cho công ty  phải điêu đứng thay vì việc bỏ ra nguồn kinh phí để khai thác thuộc địa mà phải bỏ số tiền khổng lồ để phục vụ cho công cuộc bình định của mình tại những vùng đất mình xâm chiếm.
1.2.1.1 Sự can thiệp của Công ty Hà Lan V.O.C đối với một số các quốc gia Đông Nam Á ngoài Indonesia
  1. 1. Miến Điện.
Miến Điện là một cùng đất mà thương nhân Châu Âu đến sớm (thế kỷ XV), và cho đến thế kỷ XVII thì người Bồ Đào Nha, người Hà Lan và người Anh cũng có mặt tai đây, nhưng xét ra sự hiện diện đầu tiên tại Miến Điện là người Bồ Đào Nha, người Hà Lan và Anh chỉ là những người đến sau, nhưng chính việc đến sau đó đã tạo điều kiện tốt cho họ phát triển và loại người Bồ Đào Nha ra khỏi cuộc chơi.
Đối với công ty V.O.C Hà Lan thì Miến Điện là vùng đất không có sản phẩm gia vị, nhưng các nhà lãnh đạo tại vùng đất này lại có những chính sách nhằm kìm hãm sự phát triển thế lực của người Hà Lan tại đất nước mình, tuy nhiên vẫn tạo điều kiện cho họ tham gia vào các hoạt động buôn ban, giao lưu phát triển kinh tế. Vào năm 1610, người Hà Lan đã đặt thương cục tại Mrauc U nhưng thương cục này hoạt động không ổn định, lúc đóng lúc mở vì lý do phải phụ thuộc vào tình hình chính trị của người bản xứ. Năm 1665, đã xảy ra sự kiện mà sau đó người Hà Lan coi đó là mốc chấm dứt cho việc buôn bán của mình với người Aracan, sự kiện đó có liên quan tới cuộc xung đột giữa Aracan và Bengalia. Chính vì lý do này người Anh đã có cơ hội để tạo ảnh hưởng của mình lên Miến Điện và sau đó là đặt ách thống trị lên quốc gia vùng phía Tây Đông Nam Á.
Cũng như Anh và Pháp trong thời gian hoạt động tại đây, người Hà Lan đã có những chính sách xâm lược để biến Miến Điện thành thuộc địa, nhưng rồi những chính sách này cũng thất bại chỉ có thực dân Anh là người thắng lợi tại Miến Điện.
2.   Xiêm (Thái Lan).
Trước khi thành lập công ty Đông Ấn thì người Hà Lan đã đến Thái Lan (Xiêm). Năm 1601, những thương nhân đầu tiên của Hà Lan đã đến Pattani – một tiểu vương quốc chư hầu của Ayutthaya, với sự kiện này đã mở đầu cho mối quan hệ giữa Hà Lan và Xiêm, đồng thời nó cũng đánh dấu một đợt xâm nhập mới, mạnh mẽ của người Phương Tây đến Thái Lan (Xiêm) cũng bắt đầu từ đây.
Thông qua buôn bán với người Trung Quốc, người Hà Lan đã nhận ra rằng “Thái Lan có thể đem lại nhiều lợi ích thương mại” [8;60]. Khi người Hà Lan đến Pattani thì được người dân và chính quyền bản xứ đón tiếp một cách nồng hậu và cũng từ đó họ đã xây dựng những thương điếm cho riêng mình tại vùng đất này. Dựa trên những điều kiện thuận lợi tại Pattani, năm 1604 người Hà Lan đã đến Kinh đô Vương quốc Ayutthaya và tại đây hai bên đã ký kết một thương ước, theo đó người Hà Lan được tự do buôn bán, xây dựng thương điếm và trao đổi hàng hóa như vải bông lấy da thú, hồ tiêu của Thái Lan.
Với việc ký được thương ước này đã tạo điều kiện tốt cho Hà Lan phát triển nền kinh tế tại Xiêm, đồng thời cũng tạo ảnh hưởng của mình tới giới cầm quyền và người bản xứ. Chính vì vậy vào các năm 1606 và 1608 Thái Lan đã cử các phái đoàn của mình tới Hà Lan, cũng trong thời gian này hai nước đã thiết lập mối quan hệ ngoại giao, thương mại. Đây là mối quan hệ bình đẳng và thân thiện, hợp tác hai bên cùng có lợi.
Sau khi thiết lập được mối quan hệ, người Hà Lan đã cho xây dựng và thành lập hàng loạt những thương điếm tại Thái Lan  như Ayutthaya, Jankceylan, Ligor, Sigora… Cũng trong thời kỳ này tại Thái Lan Hà Lan phải cạnh tranh với Bồ Đào Nha, Anh, Nhật Bản, nhưng do có mối quan hệ mật thiết với chính quyền Ayutthaya cộng với những thủ đoạn của những nhà tư bản chẳng mấy chộc thế lực kinh tế của Hà Lan đã len lỏi vào các cuộc buôn bán giữa Thái Lan và các bạn hàng truyền thống, như quan hệ giữa buôn bán giữa Thái Lan và Nhật Bản chẳng hạn. Hàng hóa từ Thái Lan sang Nhật là da thú, thiếc, diêm tiêu, ngà voi và đá quý còn hàng từ Nhật sang Thái Lan là bạc, tơ lụa, đồng và nhiều loại khác. Ngoài ra, việc buôn bán giữa Thái Lan và Indonesia cũng bị thương nhân Hà Lan cố gắng chiếm giữ.
Với sự phát triển kinh tế của Hà Lan tại Xiên đã dẫn tới việc người Bồ Đào Nha lo lắng và họ đã gửi thư đến nhà vua Thái Lan với yêu cầu chính quyền Ayutthaya không cho người Hà Lan không được buôn bán tại đây. Nhưng vua Thái Lan không nghe theo mà thêm vào đó là cho quyền người Hà Lan được sử dụng đảo Merguy ở của sông Tennascerim. Với việc làm này đã cho thấy mối quan hệ tốt đẹp giữa Thái Lan và Hà Lan và cũng từ đây vai trò của người Hà Lan tại đây đã lớn hơn người Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha.
Vai trò của người Hà Lan càng được củng cố thêm nhất là trong thời kỳ chiến tranh giữa Thái Lan và Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha (1630- 1635). Hà Lan đứng về phía Thái Lan bằng những biểu hiện cụ thể như cung cấp vũ khí, tàu chiến cho Thái Lan. Kết thúc cuộc chiến Thái Lan giành thắng lợi. Trong những năm tiếp theo nhờ sự ảnh hưởng của mình mà hàng hóa Hà Lan đã đánh bật hàng hóa của Bồ Đào Nhà và Tây Ban Nha ra khỏi Thái Lan, trước đó Anh cũng đã rút khỏi Thái Lan vào năm 1623 sau hơn 10 năm có chỗ đứng tại Thái Lan. Với việc ra đi này đã tạo cho Hà Lan độc quyền buôn bán tại Thái Lan. Tiếp sau đó quan hệ hai nước Hà Lan và Thái Lan đã xấu đi và tưởng chừng sẽ có cuộc chiến nổ ra nhưng cuối cùng đã không xảy đến.
Vào những năm từ 1640 đến 1670 thì người Hà Lan đã lũng đoạn, hoành hành thì trường Thái Lan. Xét ở góc độ nào đó thì việc buôn bán của Thái Lan tới một nước nào đó phải thông qua Hà Lan mà đại diện của nó là công ty V.O.C, công ty này đã có hành động tự đặt cho mình quyền cấp phép cho tàu buôn Thái Lan, biểu hiện của nó là: “Các tàu buôn của Thái Lan khi ra khỏi cảng phải được cho phép của công ty V.O.C. Tất cả tàu buôn của Thái Lan không có giấy phép khi gặp các tàu Hà Lan ở ngoài khơi hoặc cảng của nước thứ ba đều có thể bị tịch thu ngay lập tức. Năm 1655,  người Hà Lan đã độc quyền buôn bán da thú của Thái Lan, hơn nữa họ còn có thể kiểm soát thuế quan của bất kì tàu nào ở cảng Thái Lan”.[8;62]
Với những việc làm đó đã tác động lớn đến tình hình chính trị tại Thái Lan. Sau khi ổn định ổn định nội bộ vua Thái Lan lúc bầy giờ là Narai đã có những kế hoạch để giành lại độc quyền của Hà Lan bằng cách xây dựng những thương thuyền lớn để cạnh tranh với Hà Lan, việc làm này cũng đã có tác dụng quan hệ buôn bán giữa Thái Lan và các bạn hàng truyền thống được phục hồi và phát triển cho nên Hà Lan rất lo ngại. Với bản chất là đế quốc, Hà Lan đã có những hành động hiếu chiến nhằm chiếm đoạt sự thống trị kinh tế đôi khi kể cả chính trị lên vương quốc Xiêm. Trước tình hình đó, vua Xiêm phải nhượng bộ nhưng Hà Lan không chấp nhận và đã có hành đông như đánh đắm tàu thuyền của Thái Lan, mặt khác cho người Đài Loan đến chiếm hàng hóa và thuyền của Xiêm, đồng thời cô lập Thái Lan bằng cách thỏa thuận với Anh không cung cấp vũ khí cho Xiêm (Anh đã quay trở lại Xiêm năm 1661), ngoài ra còn phong tỏa những vương quốc ủng hộ Thái Lan ở các đảo Indonesia. Trước tình hình khó khăn đúng hơn là trước nguy cơ của cuộc chiến tranh người Thái Lan lại một lần nữa phải nhượng bộ Hà Lan. Ngày 22-08-1664 tại Ayutthaya, Xiêm đã ký một hiệp định với thực dân Hà Lan với những nội dung cơ bản sau:
“1.  Người Hà Lan có quyền tự do buôn bán tất cả các mặt hàng và quyền tự do lựa chọn bất kì đối tác kinh doanh nào ở Thái Lan (điều 2 và,3).
2. Hà Lan nắm vĩnh viễn độc quyền xuất khẩu da trâu (điều 5).
3. Tàu của Vua hoặc của thương nhân Thái Lan có quyền đến các nơi khác khi công ty Đông Ấn Hà Lan có quan hệ hữu nghị và đồng minh với các nước này. Trường hợp này vẫn phải có giấy phép của công ty Đông Ấn  Hà Lan (điều 13).
4. Công dân Hà Lan được quyền hưởng lãnh sự tài phán trên lãnh thổ Thái Lan (điều 8).
5. Trách nhiệm của Hà Lan theo hiệp định này chỉ là cam kết không gây thiệt hại cho các tàu của Thái Lan nếu những tàu này không đến những nước thù địch với Hà Lan và không tiến hành hoạt động quân sự chống kẻ thù của mình trên lãnh thổ Thái Lan”.  [8;62].
Ngoài ra Hà Lan còn có quyền buôn bán không phải nộp thuế trên toàn bộ lãnh thổ Thái Lan, Thái Lan phải trị tội những ai làm thiệt hại đến Công ty V.O.C.
Với những điều khoản của hiệp định đó đã cho thấy rằng Hà Lan đã can thiệp quá sâu vào tình hình kinh tế chính trị Thái Lan, đồng thời nó thể hiện rõ thái độ trắng trợn của Hà Lan muốn chiếm đoạt độc quyền ngoại thương của Thái Lan. Đây là bản hiệp định bất bình đẳng đầu tiên mà Xiêm phải ký với tư bản phương Tây. Hiệp ước này đã vi phạm nghiêm trọng chủ quyền quốc gia đồng thời nó là một “mất mát” nặng nề trong mối quan hệ bang giao giữa Xiêm với các nước tư bản phương Tây.
Vào thời điểm năm 1687 Hà Lan có ý định xâm lược Xiêm, ý định này không chỉ có nguyên Hà Lan mà có cả Pháp và Anh nữa. Trong những năm tiếp theo cùng với một số nước khác thì Hà Lan cũng có ảnh hưởng nhất định tại Thái Lan, những ảnh hưởng đó chủ yếu là về kinh tế nhưng đôi khi nó cũng xen lẫn cả chính trị vào đó, năm 1860 Hà Lan cũng ký với Xiêm một hiệp ước bất bình đẳng nhưng chủ yếu trên lĩnh vực kinh tế. Do nhiều nước muốn chiếm độc tôn tại Xiêm cộng với những chính sách khôn khéo của nhà Vua Xiêm cho nên các nước đế quốc không thể nào xâm chiếm được Xiêm, Thái Lan vân giữ vững được nền độc lập dân tộc, cho dù họ chịu nhiều thiệt hại.
3.         Bán Đảo Malaisia.
Sự giàu có về tài nguyên thiên nhiên của Phương Đông nói chung và của bán đảo Malaisia nói riêng là cái duyên cớ để cho chủ nghĩa đế quốc phương Tây xâm chiếm. Từ thế kỷ XVI người Bồ Đào Nha đã đến vùng bán đảo này và tiếp theo sau là người Hà Lan đã đến và chinh phục vùng đất này.
Vào thế kỷ XVII, cùng với người Bồ Đào Nha, Anh thì người Hà Lan đã có mặt tại vùng đất này. Năm 1602, người Hà Lan đã đến đảo Kedah- một hòn đảo rất quan trọng trong bán đảo Malaisia, sau đó vào năm 1603 tức là sau một năm đặt chân lên Kedah người Hà Lan đã có mặt ở Batu Sawar của Johore. Tại đây họ đã xây dựng và thành lập thương điếm cho riêng mình. Từ đây Hà Lan đã trực tiếp trở thành đối thủ của Bồ Đào Nha trong việc chinh phục khu vực này, trong thời gian đầu hiện diện tại đây người Hà Lan đã rất khôn khéo để lôi khéo người bản xứ về phía mình. Năm 1641, liên minh giữa người Johore và Hà Lan đã đánh bại Bồ Đào Nha trong con đường chinh phục khu vực này. Trong những năm tiếp theo một mặt Hà Lan tập trung mọi thủ đoạn để khai thác và xuất khẩu thiếc, nói chung là muốn độc quyền về buôn bán thiếc. Mặt khác luôn gây áp lực đôi khi là dùng vũ lực lên các tiểu vương quốc chống đối và lợi dụng sự mâu thuẫn giữa các vương quốc trên bán đảo Malaisia người Hà Lan đã bắt họ phải thần phục, biểu hiện sự mâu thuẫn đó như “năm 1673 người của vương quốc Jambi đã tấn công Johore, vương quốc Johore phải cầu cứu người Bugi trên đảo Sulavexi. Thế nhưng người Bugi lại tìm cách giành ngôi báu ở Johore và mở rộng ảnh hưởng sang Perak và Kedah. Đến năm 1742, họ thành lập vương quốc của mình ở Selangor ” [5;204].
Với sự kiện này đã cho thấy rằng các tiểu vương quốc không đoàn kết với nhau mà tìm cách thôn tính nhau nếu có thể. Việc làm đó sẽ thuận lợi cho Hà Lan trong việc thôn tính nhằm biến khu vực này làm thuộc địa cho riêng mình. Năm 1784, trước sự độc đoán của Hà Lan người Bugi đã có mưu toan trong việc đánh đuổi loại bỏ người Hà Lan ra khỏi khu vực Malacca nhưng thất bại. Sự kiện này cũng đánh dấu người Hà Lan đã kiểm soát khu vực này. Trong thời gian hiện diện và thống trị ở khu vực này Hà Lan phải cạnh tranh với Anh, tại đây Anh cũng có một số quyền lợi như chiếm đảo Pênang và có ảnh hưởng tại vương quốc Kedah . Sau khi Anh có ảnh hưởng lớn tại vùng đất này thì ảnh hưởng của người Hà Lan tại khu vực này ngày một giảm sút, sự giảm sút này nó cũng có nhiều lý do khác nhau như là Hà Lan đang cố gắng thiết lập thuộc địa tại Indonesia, hơn nữa trong thời kỳ này thì công ty Đông Ấn Hà Lan đang lâm vào tình trạng không ổn định và có nguy cơ phá sản, đồng thời trong nước cũng như quốc tế có những vấn đề không có lợi cho Hà Lan . Xét ở khía cạnh nào đó thì hiệp ước năm 1824 giữa Anh và Hà Lan cũng là cái mốc để đánh dấu “sự nhường” khu vực bán đảo Malaisia của Hà Lan cho người Anh, hiệp ước đó có quy định phân chia khu vực ảnh hưởng và lấy eo biển Malacca làm ranh giới. Theo hiệp ước thì Hà Lan chiếm giữ Sumatra và tất cả các đảo phía nam của Xingapo, còn Anh thì chiếm Malacca, Xingapo, Pênang và tỉnh Wellesly có tên gọi chung là “vùng định cư eo biển”. Với những thỏa thuận trên thì chứng tỏ Hà Lan chấp nhận để cho Anh chiếm đóng Malaisia, nếu ta nhìn rộng vấn đề thì ta cũng thấy rằng đây là việc Hà Lan nên làm vì sau khi chiến tranh với Pháp xong thì Anh cũng đã trả lại cho Hà Lan Indonesia. Trong những năm cuối thế kỷ XIX, Anh đã hoàn toàn thống trị khu vực này, như vậy quyền lợi của Hà Lan ở đây đã bị mất sau khi đã giành được nó từ người Bồ Đào Nha.
4. Philippin.
Trong thời gian này (thế kỷ XVII), ảnh hưởng của Hà Lan tại  Philippin không nhiều, vì vùng đất này là thuộc địa của Tây Ban Nha, Tây Ban Nha đã thống trị vùng đất này đến cuối thế kỷ XIX (1898).
Ở Philippin thì người Hà Lan đã xử dụng vũ lực để tranh giành ảnh hưởng với người Tây Ban Nha, quá trình này diễn ra trong một thời gian không dài, nó bắt đầu vào đầu thế kỷ XVII  và kết thúc vào những năm cuối của thập niên bốn mươi của thế kỷ XVII, cho dù hai bên đã ký với nhau hiệp đinh ngừng bắn vào năm 1609, hiệp định này quy định thời gian ngừng bắn là mười hai năm. Trong thời gian thực thi ngừng bắn người Hà Lan đã không ít lần tấn công vào Manila và các vùng phụ cận. Các cuộc chiến của người Hà Lan vào Philippin có nhiều mục đích khác nhau, nhưng chung quy lại nó có những mục đích sau.
Thứ nhất. Philippin có vị trí quan trọng trong việc giao thương buôn bán giữa các nước Đông Nam Á với Trung Quốc, bán đảo Triều Tiên và Nhật Bản. Chính vì điều này, người Hà Lan dùng vũ lực vào đây một mặt là hòng tìm kiếm cho mình chỗ đứng tại vùng đất này để lập ra những thương điếm thuận lợi cho việc buôn bán với những nước lân bang Philippin, nếu điều đó mà không thành công thì người Hà Lan cũng sẽ tìm được vùng đất hay hải đảo phụ cận Philppin, rồi từ đó xây dựng ra những thương điếm phục vụ cho việc buôn bán và làm tê liệt Manila. Bằng chứng là người Hà Lan đã làm điều đó vào các năm 1622, 1624 khi xây dựng pháo đài và thương điếm tại Đài Loan và Bành Hồ, sau khi xây dựng cơ sở tại hai hòn đảo này đã làm cho việc buôn bán ở Manila trở nên khó khăn, các thương nhân Trung Quốc, Nhật Bản đã đến Đài Loan buôn bán thay vì phải buôn bán ở Manila, một thực tế cho thấy người Nhật Bản thích Hà Lan hơn là các đế quốc khác.
Thứ hai: Khi đưa quân vào đánh Philippin ngoài mục đích thương mại ra, người Hà Lan tính toán đến việc vùng hải đảo này còn là cơ sở đế nuôi dưỡng lực lượng, quân đội cho người Tây Ban Nha nhằm có sức mạnh để chống lại con đường chinh phục thuộc địa Hà Lan tại Đông Nam Á.
Chính điều đó đã làm cho người Hà Lan phải mở những cuộc tấn công vào Philippin, tuy nhiên những cuộc tấn công này cũng đã đạt được những mục đích đề ra để nhằm “bảo vệ an toàn” cho Indonesia, Tây Ban Nha ở Indonesia ngày một yếu đi và đã nhường chỗ cho Hà Lan.
5. Brunây
Brunây là vùng đất có vị trí đặc biệt trong việc giao thương giữa Indonesia và Trung Quốc, chính vì thế mà người Hà Lan mong chiến nó làm của riêng mình. Hà Lan thèm muốn Brunbây thì các đối thủ của Hà Lan cũng không muốn cho Hà Lan được thỏa lòng.
Năm 1747, sau những cố gắng Hà Lan cũng đã xây dựng được một pháo đài tại Tibanio để đảm bảo cho việc thông thương của mình. Trong những năm tiếp theo chỗ đứng của Hà Lan tại vùng đất này được đảm bảo khi nội bộ của người bản xứ mất đoàn kết. Vua Brunây đã công nhận quyền minh chủ của Hà Lan. Nhưng thời gian này cũng là thời điểm khủng hoảng của công ty V.O.C tại Indonesia. Do những chi phí tốn kém cho việc xâm chiếm của mình, đến giữa thế kỷ XIX Hà Lan cũng đã rút khỏi Brunây. Sau khi Hà Lan rút khỏi nơi đây thì Anh đã trở lại chiếm Brunây.
Tóm lại tại khu vực Đông Nam Á trong thời kỳ công ty V.O.C nắm quyền lực thay cho nhà nước chính quốc đi xâm lược các nước tại Phương Đông, thì việc Hà Lan gây ảnh hưởng, can thiệp những vùng đất Đông Nam Á ngoài Indonesia chỉ trong thời gian không lâu, Hà Lan chỉ gây sức ép về kinh tế, nhưng tại Brunây Hà Lan cũng đã hiện diện đến thế kỷ XIX. Các  vùng đất này dần dần trở thành thuộc địa của các nước đế quốc khác, Hà Lan chỉ có thể xác lập thuộc địa của mình tại Indonesia mà thôi.
  1.2.1.2.  Sự xâm lược của Công ty V.O.C lên đất nước Indonesia
Với vị trí địa lý đặc biệt cùng với nguồn tài nguyên phong phú cho nên Indonesia là vùng đất mà các nước đế quốc Phương Tây luôn nhòm ngó, hầu như tất cả các đế quốc đều đến đây chỉ có điều là kẻ đến trước người đến sau. Đế quốc tiên phong đầu tiên là Bồ Đào Nhà và đế quốc cuối cùng tồn tại ở đây là Hà Lan.
Sau cuộc cách mạng tư sản Hà Lan năm 1566, chủ nghĩa tư bản Hà Lan phát triển nhanh chóng, Hà Lan trở thành một cường quốc thương mại. Năm 1595 thương nhân Hà Lan đã tổ chức ra “ công ty buôn bán” với hạm thuyền gồm 4 chiếc thuyền dưới sự chỉ huy của Coneli Hutman. Tháng 6-1595 thì đoàn thuyền này cũng đã đến Java. Với chuyến đi này đã mở ra con đường chinh phục Indonesia của người Hà Lan. Con đường chính phục Indonesia là quá trình cạnh tranh khốc liệt nhằm có được vị trí cao nhất trong nền chính trị kinh tế của quốc gia hải đảo này. Trước khi Công ty Đông Ấn được thành lập thì người Hà Lan cũng đã cạnh tranh với Bồ Đào Nha để giành giật thị trường buôn bán nguyên liệu như năm 1598 tại tiểu vương quốc Bantam và năm 1600 ở Ambonia thuộc Môluccu.Trong  thời gian đầu hoạt động của mình công ty V.O.C đã cố làm tròn sứ mạng của mình là phát triển kinh tế buôn bán hàng hóa, thu mua nguyện liệu đồng thời phải chiếm cho được vùng đất làm của riêng từ đó biến nó thành thuộc địa.
Năm 1605 công ty V.O.C  đã đánh chiếm được Ambonia và sau đó là Tidore từ tay người Bồ Đào Nha. Vào năm 1607, sau khi chinh phục được Ternate công ty V.O.C đã ký với sultan Ternate là Said ud-din (1583 - 1606) hiệp ước trong đó có quy định việc cho phép người Hà Lan được độc quyền mua hương liệu. Sau khi làm chủ được quần đảo nói trên, vào năm 1609 công ty V.O.C  đã có thủ đoạn là mua chuộc hố lộ lãnh chúa Giacacta để được xây dựng thương điếm cũng như để xây dựng các công trình nhằm phục vụ cho việc định cư đồng thời họ cũng tự động xây dựng cả pháo đài, trước tình hình đó lãnh chúa Bantam đã kêu cứu tới người Anh, biết được điều đó người Hà Lan đã ngay lập tứ chút giận lên người bản xứ bằng cách “tàn phá thành phố và xây dựng đồn chú, nhà cửa của mình. Giacacta vốn là thành phố buôn bán trọng điểm của Bantam, tây Java bị Hà Lan chiếm và đổi thành Batavia (28-5-1619). Batavia trở thành trung tâm của V.O.C và của ở vùng này” [5;201]. Trong thời gian này người Hà Lan cũng đã ký một hiệp định ngừng bắn với Bồ Đào Nha tại Antwerp. Hiệp định quy định thời gian ngừng bắn là mười hai năm, với hiệp định này Hà Lan có nhiều thời hơn để củng cố quyền lực tại những vùng đất phương Đông trong đó có Indonesia. Sau khi chiếm được một số đảo quan trọng nhất là Giacacta, công ty V.O.C bắt đầu xúc tiến chinh phục Mataram và Bantam, đây là hai vương quốc hùng mạnh nhất của bán đảo Indonesia, ngoài ra Bantam được coi là yết hầu của con đường thông thương tới Trung Quốc và Đông Dương.
Từ khi bất đầu chinh phục Indonesia thì người Hà Lan luôn phải tranh giành với các đế quốc khác đặc biệt là người Anh, tại Châu Âu thì hai quốc gia này được coi là đồng minh của nhau, nhưng khi để đảm bảo lợi ích quốc gia thì họ sẵn sàng bỏ cái gọi là đồng minh.
Vào năm 1610, David Middleton làm việc cho công ty Đông Ấn Anh đã dẫn đầu đoàn thủ thủy của mình đến Banda Neira, nhưng đã bị thống đốc Hà Lan tại đây ra lệnh ra khỏi vùng đất này, nhưng David Middleton cho rằng vùng đất này người Anh có quyền được đến vì hai nước Hà Lan và Anh là bạn ở Châu Âu, nhưng người Hà Lan không chịu và đã có ý định sử dụng vũ lực, trước sức ép của Hà Lan, David Middleeton đã cho thuyền của mình tới đảo Wai. Với những hành động của công ty V.O.C đã làm cho quan hệ hai nước căng thẳng, những cuộc xúc tiến ngoại giao đã diễn ra nhằm xoa dịu tình hình, nhưng do quan điểm khác nhau dẫn tới cuộc thương thuyết không thành công. Trong những năm tiếp theo việc buôn bán của người Anh ở Indonesia rất khó khăn cho dù đã được những người bản xứ ủng hộ nhằm thoát khỏi sự thống trị độc quyền về kinh tế và áp đặt về chính trị của người Hà Lan.
Người Hà Lan mà đại diện của nó là công ty V.O.C  luôn biết cách để áp đặt nền thống trị của mình tại những vùng đất này, công ty V.O.C đã làm mọi cách để loại bỏ đối thủ của mình ra khỏi đây.
Khi Jan Pieterszoon Coen (1587 - 1629) lên nắm quyền ở khu vực Ấn Độ (Indonesia cũng thuộc về phạm vi quản lý của Coen) từ năm 1618 - 1623, ông có những biện pháp mạnh để cũng cố địa vị của mình tại vùng đât này. “Đầu năm 1614, ông ta đã đệ trình một kiến nghị chính sách cho các giám đốc của công ty V.O.C. Ông ta đã đề nghị một chương trình lớn mở rộng lãnh thổ thức dân hóa trên cơ sở lấn chiếm lãnh thổ của người Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha, tiêu hủy tàu bè của các đối thủ cạnh tranh khác ở châu Âu. Jan Pieterszoon Coen coi sự cạnh tranh của Anh là mối đe dọa nguy hiểm nhất; ở khu vực Molucca họ đã phá hỏng việc buôn bán hàng dết tấm và lấy được nhiều hương liệu. Ông ta cho rằng cần đưa những người thực dân từ các nơi khác đến cư trú ở khu vực Banda hoặc phải dùng vũ lực để đánh chiếm toàn bộ” [2;467]. Lời đền nghị đó được sự đồng tình và ủng hộ của chính quyền chính quốc và thành viên sáng lập công ty V.O.C với những điều như là phải trục xuất bằng vũ lực nếu cần đối với tất cả những người ngoại quốc, bất kể là đồng minh hay kẻ thù ra khỏi khu vực đang buôn bán của người Hà Lan, phải khám xét các con tàu và tịch thu hương liệu trên các con tàu của người nước ngoài. Với những chính sách đó đã làm cho quan hệ giữa Hà Lan và các nước tư bản phương Tây trở nên căng thẳng, đặc biệt là giữa Hà Lan và Anh vốn họ là bạn, đồng minh của nhau. Đỉnh điểm của sự căng thẳng giữa Hà Lan và Anh trong thời gian này là cuộc chiến tại Banda, Neira. Và sau một thời gian dài đụng độ với nhau trên lãnh thổ Indonesia hai quốc gia này với hai đại diện là hai công ty đã đi đến những đàm phán, theo đó hai công ty sẽ chia sẻ với nhau về việc buôn bán ở quần đảo và chịu chi phí về phòng thủ chung. Như vậy họ đã lại nối kết nhau lại thay vì mâu thuẫn đụng độ quân sự với nhau. Do bản hiệp ước này là việc ký kết giữa hai công ty chính vì thế Coen đã phản ứng rất quyết liệt, ông cho rằng không phải nhường nhịn Anh. Trên thực tế sau khi hiệp định này được ký kết thì diễn biến tình hình của nó không khá hơn mấy, thậm chí Hà Lan còn cho tàu thuyền của mình đánh người Anh. Ngoài ra Coen cùng hội đồng của ông đã có một quyết định quan trọng nhằm hoàn thành việc đánh chiếm khu vực Banda với lý do là vùng đất này cung cấp nguyên liệu cho Tây Ban Nha, ông ta đã mời Anh tham gia và Anh đã từ chối với lý do không có tàu.
Tháng 11- 1621, đích thân Coen chỉ huy một hạm đội gồm mười hai chiếc thuyền để xâm chiếm vùng đất này, trong khi hoàn thành việc đóng chiếm Lonthor, Coen đề nghị hòa bình nếu người dân bán hương liệu là hạt nhục đậu khẩu cho Hà Lan, cư dân tại đảo này đã chồng đối lại người Hà Lan nhưng cuối cùng đã bị thất bại. Coen cũng thông báo cho người Anh biết nhưng khi người thuyền Anh tới đây thì bị người Hà Lan có hành động thô bạo. Sau đó cư dân đảo Run cũng đã chịu khuất phục trước người Hà Lan, khi mà người Hà Lan tới đây thì người Anh tại hòn đảo này cũng phải rời bỏ, nhưng sau đó họ lại tới buôn bán tại hòn đảo này và có một thời gian vài tháng trên danh nghĩa họ đã nắm quyền trên hòn đảo nhỏ bé này. Người Hà Lan đã xây dựng lâu đài để củng cố quyền lực của mình tại Lonthor. Với việc làm này đã làm cho người dân bản xứ có cái nhìn khác đối với người Anh thay vì cái nhìn thân thiện. Những người dân bản xứ đứng lên đấu tranh chống lại Hà Lan, nhưng cuối cùng bị thất bại.
Sau khi chinh phục được vùng đất này rồi, người Hà Lan chuyển sang tấn công Ambonia và vùng đất khác thuộc khu vực Molucca. Tại Ambonia thì Coen phải dùng vũ lực mới chinh phục vùng đất này. Còn tại khu vực Molucca thì người Hà Lan gặp nhiều khó khăn vì tại đây họ phải đương đầu với người bản xứ cộng với người Tây Ban Nha vì lúc này Tây Ban Nha vẫn còn chiếm giữ Tidore. Trong nhiệm kỳ thứ hai của mình, trước khi qua đời vào năm 1629 Jan Pieterszoon Coen đã liên minh cùng với sultan Bantam Agung (1596 - 1651) để chống lại tiểu vương Agung của Mataram (1613 - 1645) và kết quả liên minh này đã giành thắng lợi.
Trong thời gian nắm quyền Jan Pieterszoon Coen được coi là người sáng lập ra Bativia vì Giacacta vốn là thành phố buôn bán trọng điểm của Bantam, tây Java bị Hà Lan chiếm và đổi thành Batavia (28-5-1619); đồng thời ông đã có thời gian làm tổng giám đốc thương mại tại Bativia. Trong quá thời gian làm cầm quyền của mình ông đã làm được rất nhiều cho Hà Lan nhưng với những chi phí quá nhiều cho quân sự thì hậu quả của ông đã lại cũng rất đáng kể, có những lúc đã làm thâm hụt ngân sách của công ty V.O.C.
Sau khi Jan Pieterszoon Coen qua đời thì Công ty đã cử Hendich Brouwer một trong số các giám đốc lên làm toàn quyền. Trong nhiệm kỳ này của mình thì Jan Pieterszoon Coen không mở rộng mấy phạm vi lãnh thổ tại Indonesia, ông không thể gạt bỏ được các đối thủ của mình trong việc tranh giành quyền buôn bán tại đất nước hải đảo này. Tuy nhiên trong thời gian nắm quyền ông cũng đã có những quan hệ buôn bán với Miễn Điện, Xiêm và Đại Việt. Sau khi hết nhiệm kỳ của mình từ năm (1629- 1636) Brouwer phải nhường chức toàn quyền cho Antoine van Diemen (1636-1645).
Trong thời gian Antoie Van Diemen lên nắm quyền (1636-1945) được đánh giá rất cao. Trong thời gian cầm quyền ông đã làm cho đế quốc Hà Lan thịnh đạt tại vùng đất này. Ông đã mở rộng địa bàn hoạt động buôn bán tại đây.
Năm 1639, Van Diemen đã tới Ambonia và tại đây ông đã ký hiệp định buôn bán với tiểu vương Hamaja. Sau đó ông đã ghé thăm Macassar, chuyến thăm này đã thu được nhiều thắng lợi, tiểu vương này đã công nhận Công ty có nhiều “quyền lực tại đảo Spice và nhường cho công ty quyền bắt giữ và phá hủy bất cứ Macassar trong những vùng lân cận của quần đảo” [2;487]. Với thỏa thuận đạt được tại đây, nó đã chấm dứt nhiều năm liền cho cuộc chiến nhằm nắm quyền lực tại cùng đất này, sau khi đạt những thỏa thuận đạt được tại đây Van Diemen thì hành những chính sách hòa hiếu với vùng đất này hòng chiếm chọn vùng đất này, nhưng kết quả không thành vì tại đây còn có người Anh, Bồ Đào Nha, Pháp, Đan Mạch. Nơi đây vẫn là giấc mơ chưa hiện thực đối với người Hà Lan.
Tháng 8-1640, với sự giúp đỡ của sultan Johore Abdul Jalil Shah III (1623 - 1677) người Hà Lan bắt đầu bao vây Malacca, người bản xứ tại đây đã kháng cự quyết liệt nhưng kết quả là đã thất thủ vào giữa tháng 1-1641, với sự thất thủ này đã đảo lôn tình hình ở Malacca, tiểu vương Agung vốn thù địch với Hà Lan giờ đây đành phải miễn cướng chấp nhận xuất khẩu gạo cho người Hà Lan, quan hệ giữa Hà Lan và Agung vẫn thù địch nhau.
Trong thời gian nắm quyền tại đây Van Diemen đã cho xây dựng những lâu đài, tòa thị chính, trường học dạy tiếng Latinh… Ông đã phát triển quanh Batavia, ông đã biến nơi đây thành khu vực định cư lâu dài của người Hà Lan.
Người kế nhiệm tiếp theo Van Diemen cũng đã mở mang phạm vi buôn bán cho người Hà Lan, Van Der Lijn đã đạt được thỏa thuận với tiểu vương quốc Agung trong việc buôn bán của mình tại vùng đất này và đổi lại công ty hàng năm phải cử người đến thăm Mataram, đồng thời cho phép người dân Java được tự do buôn bán tại khu vực Molucca. Trong thời gian này Hà Lan đã thi hành chính sách “mua rẻ bán đắt” và ngoài ra còn kiểm soát chặt việc sản xuất và buôn bán cây hương liệu với mục đích là loại bỏ những đối thủ của mình, chính vì thế mà họ đã gặp phải sự phản kháng của người dân bản xứ.
Từ năm 1653 -1678 Johan Maetsuyker lên nắm chức toàn quyền, trong thời gian cầm quyền ông đã không ngừng chinh phục các vùng đất Indonesia như Macassar (vùng đất mà Van Diemen khao khát) và hầu như các quần đảo tại Miền Đông Indonesia nằm trong tay người Hà Lan.
Ông đã có thái độ cứng rắn với tiểu vương của Palembang, trong một lần chinh phạt hòn đảo này thì tiểu vương Palembang buộc phải cho người Hà Lan xây dựng một pháo đài, và trao cho người Hà Lan đặc quyền mua hồ tiêu. Sau khi bẻ gãy sự phản kháng ở khu vực Molucca năm 1656 và sau khi đã đuổi người Tây Ban Nha ra khỏi Tidore thì người Hà Lan đã làm chủ hoàn toàn Molucca. Đồng thời Hà Lan đã tấn công chính phục Macassar từ năm 1660 và đã thu được những thắng lợi ban đầu và buộc tiểu vương ở đây phải chấp nhận những điều khoản như chấm dứt các chuyến đi tới đảo Spice, không được can thiệp vào công việc nội bố của các đông minh của Công ty như Buton và Menado và, trục xuất người Bồ Đào Nha ra khỏi lãnh địa của mình. Những điều khoản mà Hà Lan đưa ra đã không được Macassar thực thi nghiêm túc, dẫn đến năm 1666 Maetsuyker cho người đến trừng trị Macassar đó là Speelman. Speelman đã tiến đánh Tidore, tại đây sultan Tidore là Saifuddin (1657 - 1689) đã thừa nhận quyền minh chủ của người Hà Lan và bắt Tidore xóa bỏ cuộc tranh chấp lâu đời với Ternate. Sau khi tăng viện từ Ternate, Speelman đã quay sang Celebes và thực hiện nhiệm vụ khó khăn là khuất phục Macassar. Cuối cùng ngày 18-11-1667 hiệp ước Bongaya được ký kết theo đó, Hassan Udin đại diện cho Macassar đã phải công nhận quyền minh chủ Hà Lan đồng thời phải bồi thường chiến phí cho Hà Lan, hơn nữa tại đây Hà Lan còn có quyền chiếm pháo đài. Cũng như người Palembang, Macassar cũng không thi hành các điều khoản, một lần nữa Hà Lan lại dùng vũ lực và chiếm giữ nơi đây. Trong thời gian cầm quyền Johan Maetsuyker đã cố gắng củng cố địa vị của người Hà Lan tại Indonesia.
Sau khi Johan Maetsuyker qua đời, người tiền nhiệm của ông là Rijklof Van Goens và Speelman đã có những chính sách cứng rắn để chinh phạt những vùng đất mới đồng thời có những biện pháp cứng rắn hơn đối với những vùng đất mà họ đã chiếm được. Công ty V.O.C đã kiểm soát được tất cả các hải cảng ở phía bắc Java, nhờ đó Hà Lan đã bắt đầu vươn tới được Tây Java, Xemarang và các vung chung quanh.
Tính chung từ năm 1623-1684 người Hà Lan đã làm chủ được vùng đất rộng lớn của Indonesia, tuy nhiên với những chi phí khổng lồ cho việc chinh phục những vùng đất này đã làm cho công ty có những khó khăn nhất định trong việc duy trì nền thống trị về kinh tế và chính trị của mình nói riêng và của chính phủ Hà Lan nói chung.
Năm 1684, Speelman qua đời, người kế nhiệm ông là Johannes Camkhuys (1684-1691), ông là một người uyên bác, không hiếu chiến. Chính vì lẽ đó ông đã đưa công ty V.O.C trở thành thế lực chính trị to lớn ở Indonesia, nhưng xét ra vì do sự uyên bác đó đã là một trong những nguyên nhân gây nên sự phá sản cho công ty V.O.C. Trong thời gian nắm quyền, ông đã tích cực tham gia vào việc bảo vệ triều đình, dẫn tới  nhiều cuộc chiến tranh xảy ra mà có sự tham gia của Công ty, tuy nhiên theo thỏa thuận chi phí cho cuộc chiến này thì triều đình Amangkurat II phải bỏ ra đền bù cho những tổn thất của Hà Lan vì Hà Lan là đồng minh của ông ta. Tuy nhiên trên thực tế thì Công ty không được đền bù đầy đủ. Cùng với việc xâm chiến đất đai của người bản sứ đồng thời tham gia vào các cuộc chiến nội bộ tại bán đảo này đã làm tổn thương cho tinh thần dân tộc người địa phương, điều đó dẫn tới những mối thù giữa người indonesia và người Hà Lan, nhiều cuộc khởi nghĩa đã nổ ra để chống đối chuyên quyền của người Hà Lan, như phong trào của người Hồi giáo tại Indonesia, đặc biệt trong trào lưu đó có cả các thủ lĩnh Bantam và tiểu vương Amangkurat II của Mataram, ngoài ra còn có những người trước kia làm việc cho người Hà Lan nhưng do bất mãn đã khởi binh chống lại người Hà Lan tiêu biểu là Surapati, nhân vật này đã làm cho người Hà Lan phải mất ăn mất ngủ. Surapati và những đồng nghiệp của ông sau một thời gian đã chiếm lĩnh và làm chủ vùng nông thôn phía Nam của Batavia, cuối cùng cuộc khởi nghĩa này đã thất bại dưới tay thiều tá Tack, nhưng viên thiếu tá này cũng đã bị giết hại trong vụ can thiệp vào việc ẩu đả giữa người Java và người Bali. Sau khi Amangkurat II qua đời năm 1703,  triều đình đã xảy ra cuộc tranh giành quyền thừa kế lần I. Với sự giúp đỡ của người Hà Lan thì Puger đã lên ngôi với vương hiệu là Pakubuwono I. Để trả ơn cho người Hà Lan vào năm 1705, Puger đã ký với người Hà Lan một hiệp ước theo đó Puger: Nhượng thêm lãnh thổ của mình tới tận sông Losari ở miền Bắc và sông Donan ở miền Nam; Puger từ bỏ những yêu sách Cheribon và khu vực Preanger ngoài nửa phía đông của đảo Madura. Ngoài ra phải cho phép Công ty V.O.C Hà Lan kiểm soát việc buôn bán và chấp nhận để Hà Lan có một đơn vị đồn trú tại kinh đô Kartasura.
Với những điều khoản phải ký để tỏ lòng cám ơn của mình đối với người “bạn” đã cho ta thấy rằng đây là cái giá rất đắt. Diện tích đất đai của đế chế này đã dần bị thu hẹp lại. Đến năm 1719-1723 lại xảy ra cuộc tranh giành quyền lực lần II, Pakubuwono đã lên ngôi nhờ sự giúp đỡ của người Hà Lan, sau khi lên ngôi vua ông ta đã hứa trả số nợ cho người Hà Lan, nhưng cũng vẫn không trả được. Đến năm 1738 Mataram lại xảy ra tranh chấp nội bộ vì quyền bính, hoàng tử chống đối vua. Sau cuộc binh biến này thì Công ty đã tham gia vào nhiều cuộc binh biến nhằm đặt nền thống trị lên vương quốc này đã làm cho tài chính của công ty bị thâm hụt nghiêm trọng, còn Mataram thì nợ nần (chủ yếu là nợ công ty V.O.C Hà Lan).
Năm 1749, trước khi mất, vua Pakubuwono II đã ký một hiệp ước, theo hiệp ước này thì toàn bộ chủ quyền của Mataram sẽ thuôc về công ty V.O.C và công ty phải đưa con trai ông lên làm vua, tuy nhiên một số thủ lĩnh lại ủng hộ Mangku Bumi. Chính vì mâu thuẫn đó đã dẫn đến cuộc chiến tranh, cuộc chiến tranh này đã làm tổn thất nặng nề cho các bên tham chiếm vì muốn giữ quyền lợi cộng với số tiền nợ lớn của Mataram, Hà Lan đã dốc sức cho cuộc chiến tại đây. Tuy nhiên do không phân thắng bại đã dẫn tới hiệp ước chia đôi đất Mataram vào năm 1755, hiệp ước có tên là Giyanti với nội dung sau:
Mangku Bumi chấp nhận Paku Buwono III với tư cách là tiểu vương của nửa phía đông của vương quốc, còn Mangku Bumi cai trị nửa phía Tây với Jogjakarta làm kinh đô và tước hiệu là tiểu vương Mangku Buwono. Mangku Bumi công nhận quyền minh chủ của công ty V.O.C và nhận làm chư hầu của mình một bộ phận của Mataram giờ đây được gọi là lãnh thổ Mangku- Negorose.
Với những điều khoản ký trên đã cho thấy cái quyền minh chủ của người Hà Lan tại “tiểu quốc khó bảo” này.
Trong lúc Hà Lan đang chiến tranh tại Mataram, thì tại Bantam do tranh chấp nội bộ người Hà Lan lại phải can thiệp. Cuối cùng năm 1752 người Hà Lan cũng đạt được thỏa thuận với tiểu vương ở đây, theo đó Vua ở đây công nhận quyền minh chủ  của công ty V.O.C và nhường cho công ty kiển soát Lampong. Và hiệp ước này đến năm 1753 mới được thực thi tại Bantam do Hà Lan phải chinh phục những người chống đối tại đây.
Như vậy với việc làm minh chủ được hai tiểu vương quốc là Bantam và Mataram thì Hà Lan coi như đã làm chủ được tình hình Java, trừ lãnh thổ của cực Đông của hòn đảo vẫn bị người Bali quấy nhiễu nhưng tình hình tại đây cũng được ổn định vào năm 1772. Người Hà Lan hầu như là làm chủ được Indonesia. Tuy nhiên trong cuộc chiến tranh với người Anh vào năm 1780- 1784 thì sức mạnh của công ty Hà Lan ngày càng thêm suy giảm, người Anh đã chiếm được cơ sở của Hà Lan tại Tây Sumatra và còn được tự do buôn bán tại Indonesia. Nếu tính đến trước khi công ty V.O.C Hà Lan đóng cửa vào 31-12-1799 thì Hà Lan chiếm được các đảo Java, Palembang, Bangiamaxin, Macaxa, Menadon, Tecnate và một số khu vực khác nữa. Còn tây Sumatra, Ambon và Banđa thì bị Anh chiếm làm thuộc địa từ năm 1795. Vào năm 1800, người Anh tấn công Hà Lan để chiếm Indonesia, sau 11 năm tức là đến năm 1811 thì người Anh hầu hết đã làm chủ Indonesia và biến quốc gia nghìn đảo này làm thuộc địa.
Tóm lại trong thời kỳ công ty V.O.C cầm quyền với danh nghĩa là một công ty tư nhân đã đi xâm lược các quốc gia Đông Nam Á, họ cũng đã bước đầu xác lập được chủ quyền về thuộc địa cho đế quốc Hà Lan, tuy nhiên với mức chi phí quá lớn cho những cuộc chiến tranh nhằm xác lập chủ quyền của mình tại các quốc gia Đông Nam Á đặc biệt là tại Indonesia đã làm cho công ty này bị thâm hụt ngân sách với khoản nợ lên tới 134 triệu guider và cuối cùng công ty cũng phải đóng cửa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
  1. Ngô Văn Doanh (1995), Indonesia – Những chặng đường lịch sử, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. D.G.E.Hall (1997), Lịch sử Đông Nam Á, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.
3.Nguyễn Văn Nam (2008), Tìm hiểu lịch sử các nước Đông Nam Á ASEAN, Nxb Hà Nội.
4.Vũ Dương Ninh- Nguyễn Văn Hồng (2006), Lịch sử thế giới cận đại, Nxb giáo dục.
5. Lương Ninh(cb)- Trần Thị Vinh- Đỗ Thanh Bình (2008), Lịch sử Đông Nam Á, Nxb giáo dục, Hà Nội.
6. Huỳnh Văn Tòng (1992), Lược sử Indoneisa (Từ thế kỷ XV-XVI đến những năm 1980), Nxb thành phố Hồ Chí Minh.
7. Lại Bích Ngọc (2003), “Về hoạt động của Công ty Đông Ấn Hà Lan ở Châu Á thế kỷ XVII”, Tạp chí nghiên cứu lịch sử (2/2003), trang 71-77.
8. Lê Thị Thủy (2005), “ Quan hệ giữa Hà Lan và Thái Lan từ năm 1601 đến 1664”, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á (2/2005) trang 59- 63.
9.   Lê Thị Anh Đào (2004), “ Về những hoạt động của Công ty Đông Ấn Hà Lan (V.O.C) ở Indonesia thế kỷ XVII-XVIII”, Thông tin khoa học Trường ĐHKH- Huế số 13 (3/2004) trang 9-13.