Thứ Sáu, 1 tháng 2, 2013

Mậu Thân 1968 - Tấm lòng người nội đô

Mậu Thân 1968 - Tấm lòng người nội đô 

Kỳ 1: Chiếc bàn thờ lạ


Mấy chục năm rồi, tại căn nhà số 100/100 bis Cô Giang, Q.1, TP.HCM, bên cạnh bàn thờ gia tiên, chủ nhà đặt trang trọng thêm một bàn thờ nữa. Bàn thờ không có di ảnh, không có bài vị, chỉ có bát hương. 

Ông Nguyễn Văn Phú thắp nhang lên bàn thờ liệt sĩ Nguyễn Văn Quang - Ảnh: Mai Hương


Trong chiến dịch xuân Mậu Thân 1968 cách đây 45 năm, có một đơn vị “đặc biệt” tham gia chiến đấu trên đường phố Sài Gòn: tiểu đoàn Lê Thị Riêng (tiền thân là tiểu đoàn nữ biệt động Sài Gòn). Biết bao câu chuyện xúc động vẫn còn ghi trong ký ức người lính và cả những người dân giúp đỡ, cưu mang tiểu đoàn này.
Trước khi mất chủ nhà dặn người thân: dù nhà có bị di dời, giải tỏa đi đâu cũng phải mang theo chiếc bàn thờ. Mấy chục năm rồi, bát hương trên đó chưa lúc nào thôi đầy, tình cảm của những người thờ phụng chưa bao giờ hết ấm!
Thờ cúng người dưng 
Nằm gần khu chung cư Cô Giang, khoảng không gian 2,5x7m của căn nhà dường như càng chật hẹp hơn với vô số đồ dùng, dụng cụ làm nghề xây dựng của chủ nhà. Căn nhà nhỏ đó trước đây còn là tiệm tạp hóa. Từng khoảng trống nhỏ trong nhà hầu như đều được tận dụng để đóng kệ để đồ, đóng móc treo quần áo. Hai bên vách nhà là hai trang thờ đối diện nhau, đóng bằng ván ép. Trang thờ bên phải, ngoài bát cắm nhang có thêm bộ lư đồng nhỏ, bình cắm hoa. Tuyệt nhiên không có hình ảnh gì. Trang thờ này được lập từ giữa năm 1968, cũng chính ở vị trí này. Từ lúc đó cho mãi đến tháng 12-2012, trên trang thờ vẫn không có một dòng tên tuổi, địa chỉ. Hoàn toàn vô danh!
Người lập trang thờ bên phải giờ đã ở trong trang thờ bên trái. Từ ngoài cửa nhà nhìn vô, trang thờ bên trái có di ảnh một người phụ nữ mặc bộ áo dài màu trắng, gương mặt phúc hậu: bà Nguyễn Hồng Hoa, cũng là chủ căn nhà.
Ông Nguyễn Văn Phú, chồng bà Hồng Hoa, bộc bạch: “Nói thiệt, hồi đó tui đi làm thợ suốt ngày, bả ở nhà bán bánh bông lan, vừa đi làm cho cách mạng. Tui biết vậy thôi chứ không hỏi thêm bả làm gì, với ai vì tui hiểu nguyên tắc bí mật của hoạt động nội thành. Nhà này là cơ sở cách mạng. Cậu Quang từng ở đây. Sau đợt hai Mậu Thân, Quang bị bắt rồi hi sinh. Một hôm, tôi trở về nhà thì đã thấy có cái bàn thờ rồi. Hỏi thì bà nhà tui nói để thờ Quang. Quang bị bắt, bị đánh đến chết mà vẫn không khai báo câu nào. Từ đó, cả nhà tôi thờ Quang. Mình thờ cúng Quang, thứ nhất vì cái nghĩa đồng bào, thứ nhì vì cảm phục tấm lòng kiên trung, bất khuất. Năm hi sinh nghe đâu Quang chưa tròn 16 tuổi”.
Bao nhiêu năm nay khách khứa, bạn bè, hàng xóm tới nhà ông Phú chơi, không ai biết cái trang thờ luôn đều đặn hai cữ nhang sáng chiều đó dành để thờ ai. Chỉ có vợ chồng, con cái nhà ông là ngầm hiểu với nhau. “Hồi nào giờ không có hình, không có tên nhưng hễ bàn thờ của bả sao thì bàn thờ của Quang vậy. Tui với sắp nhỏ cúng bả cái gì cũng cúng Quang cái đó. Tới mức cả nhà quên luôn Quang với chúng tôi không phải họ hàng thân thích, cũng chưa kịp thân quen”.
Tổ quốc ghi công
Cậu thiếu niên gan dạ phi thường mà ông Phú thờ phụng bấy nhiêu năm tên là Nguyễn Văn Quang, một Việt kiều Lào, đã cùng nhiều anh em về nước tham gia chiến đấu. Là người trực tiếp dìu dắt, kết nạp anh Nguyễn Văn Quang vào Đoàn, cũng là chỉ huy trực tiếp của anh trong chiến dịch xuân Mậu Thân 1968, cô Lê Hồng Quân, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Lê Thị Riêng, vẫn còn nhớ lần đầu tiên gặp gỡ: “Khi tôi gặp Quang thì em đang bị sốt. Vậy mà mới 2g sáng em đã phải ra chợ Bến Thành nấu nước lèo phụ hàng hủ tiếu bán sớm. Quang kể ba mẹ em còn ở Lào nhưng em thích về chiến đấu ở quê nội”.
Cô Hồng Quân kể tiếp: “Tuy còn nhỏ nhưng Quang rất sáng dạ và chịu khó. Dáng người gầy nhỏ, trắng trẻo, thư sinh nhưng Quang không từ nan bất cứ việc gì. Làm công việc tiếp phẩm, em tập gánh gạo, đồ ăn, nước tương, nước mắm. Nhận nhiệm vụ mở thêm đường đưa đón cán bộ cơ sở ra vào nội thành Sài Gòn, cứ 2-3 giờ sáng Quang đi theo những chị em mua hàng sớm để lần dò thêm nhiều đường tắt, đường vòng. Tập bắn súng, từ chỗ mỗi lần bắn là “gửi đạn về trời”, Quang luyện đến mức thành thục hai tay hai súng, bắn trúng mục tiêu di động.
Đợt 2 xuân Mậu Thân, Quang nhận nhiệm vụ xung kích ém quân tại địa bàn trọng điểm. Ngày 5-5-1968, ngày mở đầu cho đợt tổng tiến công chống phản kích, Quang cùng bộ phận chỉ huy sở tiểu đoàn đánh trả nhiều đợt bao vây phản kích của đối phương. Cuộc chiến đấu không cân sức. Trước tình hình đó, tôi làm nhiệm vụ hút hỏa lực cho đơn vị rút đi. Súng hết đạn, tôi đập vỡ khẩu súng của mình. Còn Quang bị thương vẫn không rời vị trí. Em thì thầm bên tai tôi: “Em ngồi đây với chị. Em sẽ hi sinh bên cạnh chị!”. Mảnh đạn đan chéo cày xới quanh chỗ chúng tôi ngồi. Khi bị lôi ra xe giải về ty cảnh sát, tôi vẫn còn nghe tiếng Quang hô lớn: “Hồ Chí Minh muôn năm”.
Trong phòng giam trại số 5 Bệnh viện Chợ Quán, tôi gặp lại Quang. Các vết thương trên người em rất nặng, nhất là vết thương chạm phổi chỉ được băng sơ sài. Cuộc tra tấn người đồng đội nhỏ tuổi diễn ra ngay trước mắt tôi: bốn tay mật vụ vây quanh em, ra sức vừa đánh vừa hỏi đi hỏi lại ba câu:
- “Người chỉ huy là ai?”. Quang trả lời: “Các ông hãy đến trận địa sẽ rõ”.
- “Địa điểm đơn vị ở đâu?”. Quang đáp: “Chắc các ông đã nghe thấy, đồng đội tôi đang ở những nơi có tiếng súng”.
- “Nhà ém quân, chỗ giấu vũ khí, cơ sở bí mật nội thành ở đâu”. Quang lắc đầu.
Đang tra khảo, họ thì thầm hội ý với nhau bằng tiếng Pháp và tiếng Anh. Đột nhiên, Quang nói với họ cũng bằng tiếng Anh, tiếng Pháp rồi bảo: “Ở đây toàn là người Việt, các ông nói tiếng mẹ đẻ hay hơn”. Mấy tay mật vụ sững người. Mấy phút trôi qua, gian phòng im phăng phắc. Sau đó, họ chuyển sang ngon ngọt dỗ dành, hứa hẹn với Quang về một tương lai huy hoàng, được chữa vết thương, được đi du học ở Mỹ. Vẫn không có kết quả.
Đến ngày thứ năm, lại một trận tra tấn khốc liệt. Đầu cây ma trắc thụt vào vết thương trên ngực Quang, máu tuôn tràn. Quang vĩnh viễn ra đi ở tuổi 16”.
Kiếm hộp quẹt đốt cây nhang, ông Nguyễn Văn Phú đến bên bàn thờ, kính cẩn cúi đầu xá mấy cái. Ông nói: “27-7, 30-4, 2-9 cúng lớn. Tết nhứt thì cúng cơm canh. Còn trái cây thì cách ít ngày là có, nhà gần chợ mà. Nhà này nằm trong khu giải tỏa. Cách đây tám năm, trước khi mất bả dặn tui dù có bán nhà hay bị giải tỏa di dời đi đâu cũng phải đem bàn thờ Quang theo. Lời bả dặn, lúc nào tui cũng nhớ. Tới chừng tui nằm xuống thì có mấy đứa nhỏ nó nhớ...”.
Sau ngày giải phóng, các đồng đội ở tiểu đoàn Lê Thị Riêng, Ban phụ vận T4 và Thành hội Phụ nữ TP.HCM đã cố gắng lần tìm tin tức gia đình chiến sĩ Quang bằng nhiều cách, nhưng đến nay vẫn chưa tìm ra manh mối.
Ngày 20-7-2012, Thủ tướng Chính phủ có quyết định công nhận liệt sĩ và cấp bằng Tổ quốc ghi công cho tám liệt sĩ thuộc tiểu đoàn Lê Thị Riêng, trong đó có liệt sĩ Nguyễn Văn Quang. Ngày 21-11-2012, tại nghĩa trang liệt sĩ TP.HCM, Thành ủy - HĐND - UBND - Ủy ban MTTQ TP.HCM đã truy điệu tám liệt sĩ tiểu đoàn Lê Thị Riêng anh dũng hi sinh trong đợt 2 cuộc tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân năm 1968.
Ngay sau khi nhận bằng Tổ quốc ghi công, cô Lê Hồng Quân đã photo thêm một bản trên giấy in màu, cẩn trọng lồng vào khung kính, mang đến đặt trên bàn thờ ở nhà ông Phú. Sau 44 năm, cuối cùng chiếc bàn thờ đã chính thức có họ tên người đã khuất.
___________
Kỳ 2: Cao thủ vùng Khánh Hội
TT - Mới hơn 8 giờ sáng 23-1, nhà cô Lê Hồng Quân, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Lê Thị Riêng, đã có khách. Khách là một bà cụ dáng người cao to, mặc bộ bà ba bằng vải bông màu sậm. Mấy năm rồi cô mới gặp lại "mợ Mười", bà chủ nhà trọ cô từng trú ngụ vào đầu năm 1966 để xây dựng lực lượng, cơ sở chuẩn bị cho chiến dịch Mậu Thân, từ ngày mợ dọn về Gò Công, Tiền Giang.
Từ phải qua: bà Nguyễn Thị Mảnh, cô Lê Hồng Quân và bà Võ Thị Chi (mẹ chị Quân). Cả ba đều bị bắt sau chiến dịch Mậu Thân - Ảnh: Mai Hương
Đại ca Mười Bi
"Mợ Mười" Nguyễn Thị Mảnh kể chuyện bằng cái miệng móm sọm: "Hồi trước giải phóng, một cuốc xích lô từ trung tâm Sài Gòn qua quận 4 chừng vài đồng bạc. Nhưng hễ nói về khu Tôn Đản, Khánh Hội thì 7-8 ông xích lô mới có một ông dám đi. Người ta bảo khu đó toàn dân anh chị, lạng quạng không mất người thì cũng mất của". Vậy mà ở ngay chỗ bị xem là phức tạp bậc nhất nhì Sài Gòn đó, nhiều tay giang hồ mã thượng đã thành "người của Việt cộng", góp phần không nhỏ vào chiến dịch Mậu Thân.
Đưa tay lên ngực nén những cơn ho dồn đến đỏ mặt, ở tuổi 78 bà Mảnh khi nhớ khi quên. Nhưng vừa có người nhắc chuyện cao thủ Lê Văn Bi, đôi mắt đã đục mờ của bà vụt trở nên linh hoạt. Ông Lê Văn Bi, tên thường gọi là ông Mười Bi - chồng bà - ngày xưa oai lắm. Ông là một tài công giỏi của Hãng RMK của Mỹ. "Bà Năm Trầu, bà Tư bán bún ở chợ Xóm Chiếu là dân nhà giàu, sành điệu mà cũng nể ổng một nước. Lần mấy bả bị tụi cướp hăm dọa, tống tiền, bả sai người đi kiếm ông Mười Bi. Hễ nghe có hơi ổng về là tụi côn đồ tản đi hết, không dám hó hé"- bà Mảnh bắt đầu khơi được dòng nhớ.
Ngồi bên cạnh, cô Lê Hồng Quân tiếp lời bà Mảnh: "Mợ Mười nhớ hông, tháng đầu tiên con góp 200 đồng phụ sửa chái nhà, tới tháng thứ hai cậu mợ cho con ở không lấy tiền. Cậu hay kêu con bằng "nhỏ". Một bữa đang giờ làm việc mà cậu về nhà, giăng võng đưa toòng teng. Con hỏi sao cậu hổng đi làm, cậu nói: Tao nghỉ việc rồi. Tao mới đánh thằng cai thầu văng xuống sông Sài Gòn. Ai biểu nó dựa hơi Mỹ mà ăn hiếp người Việt mình chớ".
Nghe tới đó, bà Mảnh bổ sung: "Cái vụ này thì mợ nhớ. Hồi đó ổng đã nhắc nhở thằng cai đó ba lần. Ổng nói với nó: "Anh em có làm sai thì ông hướng dẫn. Cớ sao vì nịnh mấy thằng Mỹ mà nay ông đuổi người này, mai tống cổ người kia". Ổng đã nói vậy mà nó vẫn chứng nào tật đó nên ổng mới ra tay. Ổng đánh một cái răng nó gãy cắm vô tay ổng, cái thẹo còn để lại trên mu bàn tay cho tới sau này. Ổng đá thêm cái nữa, nó văng luôn xuống sông. Đánh xong, không để tụi nó chạy đi kể tội, ổng chạy lên micro tuyên bố nghỉ việc, trả thẻ, trả quần áo rồi về thẳng một nước".
Cũng phải nói thêm rằng thời đó giang hồ vùng Khánh Hội nể ông Mười Bi bởi ông rất giỏi võ, thích giúp đỡ người sức yếu, thế cô, không chịu luồn cúi, không cát cứ lãnh địa, không tham đồng tiền. Hai bữa sau, ông Mười Bi nhận được lời mời ra quán hủ tiếu nói chuyện. Khi ông ra tới nơi thì thấy ở quán đã có mặt tên cai thầu hôm trước bị đánh và 5-6 tay anh chị bên kho 5 (thời gian đó giang hồ Sài Gòn cát cứ theo từng vùng, địa giới được tính theo mốc là những kho chứa hàng của Mỹ-PV). Vừa thấy ông Mười Bi tới, nhóm giang hồ này hết sức bất ngờ. Sau khi hỏi rõ sự tình, nhóm này quay qua nói với tên cai thầu: "Tụi tui tưởng ông kêu đi thanh toán ai chứ anh Mười là đàn anh của tụi tui. Cái gì đúng ảnh mới làm. Vụ này tui không dám can thiệp". Nghe vậy, biết không làm được gì, tên cai thầu quay ra dàn hòa. Mấy ngày sau đó, bên hãng tàu mời ông Mười Bi đi làm trở lại.
Biết được tính hảo hớn, cương trực của ông, một bữa cô nhỏ ở trọ trong nhà nhỏ to tâm sự gì đó với ông. Ông Mười nghe cô nhỏ nói mà trầm ngâm. Ông trả lời: "Nhỏ nói phải. Vụ này để cậu tính lại...".
Trở thành Việt cộng
Sau đó, ông Mười Bi cùng những cao thủ bến cảng Khánh Hội đã giới thiệu với các cai bến một số cán bộ nữ nòng cốt của nhóm xây dựng lực lượng của tiểu đoàn Lê Thị Riêng vào làm công nhật ở bến cảng. Khi công nhân quân cảng Sài Gòn bước vào cuộc đình công chiếm bến, chống sa thải tập thể thì ông Mười Bi vận động công nhân cùng làm tại Hãng RMK lên tiếng phản đối.
Căn nhà của vợ chồng ông ở số B58/6 Tôn Thất Thuyết còn là nơi giấu vũ khí. Trên miếng đất sau nhà sình lầy, rác rến dập dềnh, áp sát chuồng nuôi heo là hầm giấu vũ khí. Lần cô Hai Riêng (đồng chí Lê Thị Riêng) về nhà ông họp, bà Mảnh - vợ ông - làm một đám giỗ giả mời bà con chòm xóm đến ăn để hợp thức hóa chuyện trong nhà có đông người. Ai hỏi tới cô Hai Riêng thì bà nói là chị họ của chồng. Đợt một chiến dịch Mậu Thân xảy ra xong, ông Mười Bi tham gia đánh nhiều trận. Xong đợt hai Mậu Thân, hai vợ chồng ông bị bắt. "Tui với ổng bị nhốt chung một xe. Lên xe không ai dám hó hé câu gì. Tui với ổng chỉ đạp đạp chân nhau, ý chừng dặn nhau nhất định dù thế nào cũng không khai báo"- bà Mảnh kể.
Nhắc tới đòn roi tra tấn của giặc, bà ôm đầu, nhăn mặt: "Thôi thì khỏi nói. Vô tới nha cảnh sát là 12 giờ đêm, nó đánh ổng dữ lắm. Vừa thấy mặt tui, tay cảnh sát đã nói: Bà này không vừa đâu. Bả là đầu nậu chợ Xóm Chiếu, vợ thằng Mười Bi. Ở trong này không có thì đánh cho có, có thì đánh cho chừa. Bà liệu mà khai!". Suốt gần một năm trời, cách ít lâu tụi nó lại lôi tui ra tra khảo, hỏi đi hỏi lại một câu hỏi: Bà Võ Thị Chi là Việt cộng. Còn Lê Hồng Quân có phải là con của bà Chi không? Lần nào cũng vậy, tui cứ một kiểu trả lời: Chồng tui làm cho hãng Mỹ, tui buôn bán nuôi con, nuôi mẹ chồng. Hai bên nhà tui là nhà mấy ông cảnh sát, gần nhà là bót Trần Văn Cát. Nếu tui biết bà Chi là Việt cộng, mắc gì tui không đi báo để lãnh thưởng chớ. Hỏi riết không được, tụi nó giải tui lên trại giam trên Thủ Đức nhốt thêm một năm nữa mới thả cho về". Tổng cộng, bà ở tù hai năm với một lý do hết sức mơ hồ nhưng phổ biến lúc bấy giờ: đối tượng hồ nghi.
Chuyến này ngồi xe đò một mình từ Gò Công lên Sài Gòn thăm cô Hồng Quân, bà Mảnh khoe bà đã được tặng Huy chương Kháng chiến chống Mỹ hạng nhất. Chỉ có ông Mười Bi là ra đi khi chưa có được sự công nhận nào. Đòn thù tra tấn năm đó khiến ông Mười Bi từ một hảo hán vạm vỡ khỏe mạnh, giọng nói oang oang, trở thành một người nhiều bệnh tật. Ông nằm liệt 6-7 năm trời rồi mất, khi tiểu đoàn Lê Thị Riêng còn chưa được công nhận chính thức về sự hoạt động của mình.
Sau ngày Sài Gòn giải phóng, một hôm có xe quân sự đến tận nhà rước vợ chồng ông Mười Bi đi. Hàng xóm không ngớt xôn xao, đoán già đoán non: chắc ông Mười hồi trước làm cho hãng Mỹ, giờ bị cách mạng bắt đi rồi. Thì ra đó là xe do cô Lê Hồng Quân nhờ người anh họ làm trong quân đội đến chở cậu mợ Mười lên gặp mặt. Bà Mảnh móm mém: "Tới chừng đó hàng xóm mới biết tụi tui làm cách mạng. Trước đó có lần thằng con rể của tui kêu tui dẫn nó đi xem Việt cộng. Tui nói với nó: kiếm đâu cho cực vậy con. Tao với ba mày là Việt cộng nè".
MAI HƯƠNG
Kỳ 3: Cuộc diễn thuyết giữa chợ Bến Thành

Chiến dịch nổi dậy và tổng tiến công xuân Mậu Thân (1968) trên địa bàn Biên Hoà


Chiến dịch nổi dậy và tổng tiến công xuân Mậu Thân (1968) trên địa bàn Biên Hoà

Chuẩn bị cho chiến dịch xuân Mậu Thân ở Biên Hòa, đồng chí Lê Đức Anh (Tham mưu Bộ chỉ huy Miền) đã đến làm việc với Thường vụ Khu ủy và Bộ Tư lệnh sư đoàn 5 tại căn cứ Bàu Sao (Trảng Bom) từ ngày 24 tháng 01 đến ngày 30 tháng 01 năm 1968. Mục đích đánh vào thị xã Biên Hòa nhằm tiêu diệt sinh lực, phá hủy kho tàng  nhằm gây tổn thất nặng nề đối với quân Mỹ - ngụy; góp phần phá vỡ phòng tuyến phòng thủ của địch phía Đông Sài Gòn. Mục tiêu tấn công của quân cách mạng là Bộ Tư lệnh dã chiến 2 của Mỹ, sân bay quân sự Biên Hòa, Quân đoàn 3, Tổng kho Long Bình cùng với địa điểm như Tòa hành chánh tỉnh Biên Hòa, Ty cảnh sát...
Các đơn vị tham gia tấn công Biên Hòa gồm: Sư đoàn 5 chủ lực Miền, 2 tiểu đoàn đặc công Biên Hòa, trung đoàn pháo binh Biên Hòa, đội Biệt động thị xã Biên Hòa và lực lượng vũ trang Biên Hòa.
Đúng 0 giờ ngày 30 tháng 01 năm 1968, trung đoàn pháo Biên Hòa từ Hiếu Liêm  pháo tập vào mục tiêu sân bay Biên Hòa, phá hủy nhiều khu vực kỹ thuật, sở chỉ huy và kho tàng… Đồng thời, đặc công Biên Hòa tấn công địch trong sân bay làm cho sân bay này không hoạt động. Sau đó, địch cho phản kích để đánh chiếm lại sân bay. Đặc công sư đoàn 5, lực lượng biệt động thị xã Biên Hòa tấn công Sở chỉ huy Quân đoàn 3. Do tình hình chiến trường căng thẳng nên cánh quân này chuyển hướng tấn công chiếm khách sạn 57 và tấn công đoàn cố vấn Mỹ.
Ở mục tiêu Tổng kho Long Bình, tiểu đoàn 2 trung đoàn 5 và đặc công sư đoàn 5 tấn công vào bãi đậu trực thăng của Bộ Tư lệnh dã chiến Mỹ, gây cho địch nhiều thiệt hại. Thế nhưng, địch phản kích, Bộ chỉ huy Tiền phương tăng cường tiểu đoàn 3 sư đoàn 5 tiếp ứng. Quân giải phóng bám trụ triển khai chiến đấu đến ngày mùng 2 Tết mới rút ra. Lực lượng tham gia tân công Tổng kho Long Bình bị tổn thất khá nặng. Trong một hướng tấn công khác vào Tổng kho Long Bình, tiểu đoàn 2 đặc công U1 đột nhập vào cao điểm 53, dùng mìn cho nổ hủy diệt 127 kho chứa bom của địch.
Quân giải phóng không tiến đánh được một số mục tiêu theo kế hoạch như Tiểu khu Biên Hòa, Tòa Hành chánh tỉnh, Ty Cảnh sát Biên Hòa. Tại xã Tân Thành, lực lượng vũ tráng đánh chiếm công sở xã diệt đội dân vệ thu 24 súng nhưng không triển khai tấn công vào nội ô Biên Hòa được. Ở một số địa bàn nội ô và xã ngoại ô thị xã Biên Hòa, các cơ sở mật treo cờ Mặt trận, rải truyền đơn kêu gọi nhân dân nhưng không phát động được quần chúng nổi dậy .
Tham gia chiến dịch xuân Mậu Thân, mặt trận thị xã Biên Hòa đã loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 5.000 quân địch, phá hủy và làm hư hại 120 máy bay, 127 kho bom của địch. Trước tình hình khó khăn của chiến trường, sáng ngày 02 tháng 02 năm 1968 (mùng 3 Tết Mậu Thân), Bộ Chỉ huy Mặt trận Biên Hòa cho lệnh rút quân ra ngoài địa bàn thị xã để bảo toàn lực lượng và chuẩn bị cho những kế hoạch trong tình hình mới.

“Cầu hàng không” Xuân Mậu Thân 1968 - Khúc tráng ca bất tử

“Cầu hàng không” Xuân Mậu Thân 1968 - Khúc tráng ca bất tử


QĐND - Thật kỳ diệu! Tôi đã thốt lên như vậy khi nghe trọn câu chuyện tái hiện ký ức thực hiện nhiệm vụ tuyệt mật, thiết lập “cầu hàng không” chi viện cho chiến trường miền Nam Tết Mậu Thân 1968 của Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Tường Long, nguyên kỹ sư hàng không thuộc Trung đoàn 919, Quân chủng Phòng không-Không quân. Từ ký ức của Anh hùng Nguyễn Tường Long kết hợp với tư liệu của Thiếu tướng Phan Khắc Hy, nguyên Chính ủy Bộ tư lệnh Không quân, nguyên Phó tư lệnh Bộ đội Trường Sơn, chúng tôi có dịp hiểu rõ hơn những trang sử bi hùng của “cầu hàng không” Tết Mậu Thân 1968.
Kế hoạch quan trọng tối mật
Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Tường Long giờ đây đã yên nghỉ trong cõi vĩnh hằng. Ông qua đời năm 2008. Cuộc gặp gỡ với tôi trước ngày định mệnh mấy tuần là lần cuối cùng ông tiếp xúc với báo chí. Dường như ông đã tiên liệu trước sự ra đi vĩnh viễn của mình vì tuổi già, bệnh tật, nên đã chủ động đến gặp tôi. Ông mang theo bản tư liệu chép tay được trình bày khá ngắn gọn nhưng đầy đủ. Đó là những gì ông nhớ được về nhiệm vụ tối mật, cải tiến máy bay vận tải IL-14 do Liên Xô sản xuất thành máy bay ném bom, thiết lập “cầu hàng không” chi viện chiến trường miền Nam Tết Mậu Thân 1968. “Đây là dấu ấn sâu sắc nhất trong đời quân ngũ của tui. Tui đã ghi tóm tắt tất cả vào đây. Cháu cần gì thêm thì cứ hỏi. Thời gian đã qua lâu rồi nhưng tui vẫn nhớ rành rẽ mọi việc. Tui sẽ kể hết cho cháu nghe, kẻo rồi không còn dịp để mà kể nữa”, ông đã nói với tôi như vậy.
Phi công Nguyễn Văn Bang, một trong những cán bộ, chiến sĩ đã anh dũng hy sinh. Ảnh tư liệu.
Để chuẩn bị cho Chiến dịch Mậu Thân 1968, thực hiện chỉ đạo của Bộ Tổng tham mưu; Quân chủng Phòng không-Không quân, Bộ tư lệnh Không quân đã giao cho Trung đoàn 919, trực tiếp là Ban Kỹ thuật của Nguyễn Tường Long nhiệm vụ tối quan trọng và tuyệt mật: Nghiên cứu cải tiến một số loại máy bay hiện có phục vụ nhiệm vụ chiến đấu, ném bom, chi viện cho chiến trường miền Nam. Cuộc thử nghiệm được bắt đầu với loại máy bay vận tải IL-14. Ông là người lãnh trách nhiệm nghiên cứu, lập phương án cải tiến trình cấp trên phê duyệt. Thời gian gấp rút. Nhiệm vụ cấp bách. Nguyễn Tường Long hối hả tìm tài liệu kỹ thuật tiếng Nga về loại máy bay này để nghiên cứu, nhưng chẳng khác gì “mò kim đáy bể”. May mắn là sau đó, Tường Long tìm được một tài liệu quân sự tiếng Đức dịch từ tiếng Nga. Như vớ được vàng, người kỹ sư trẻ và các cộng sự chụm đầu, ngày quên ăn, đêm quên ngủ, dồn tâm lực, trí tuệ nghiên cứu toàn diện đặc tính kỹ, chiến thuật của máy bay IL-14 để tìm phương án cải tiến. Lúc bấy giờ, những chiếc máy bay IL-14 của ta khi đưa từ Liên Xô về, phải gửi tại sân bay Tường Vân (Trung Quốc). Ngay lập tức, các phi công của Trung đoàn 919 đã sang Tường Vân lái ba chiếc về sân bay Gia Lâm phục vụ việc nghiên cứu, cải tiến.
Sau nhiều ngày đêm liên tục miệt mài, Nguyễn Tường Long và các kỹ sư đã tìm ra “mã khóa” để biến máy bay vận tải chở quân IL-14 thành chiến đấu cơ bắn pháo cối, ném bom. Trọng tâm của kế hoạch cải tiến là phần khoang bụng và hai cánh của máy bay. Các kỹ sư đã tháo dỡ hết các ghế ngồi và phụ kiện dùng để chở người, tính toán sức nâng, cân đối lực cản của gió và tính năng hoạt động trên không của phương tiện để gắn vào đó một khối lượng vũ khí tương ứng. Tận dụng phần gờ hai bên dãy ghế ngồi, Nguyễn Tường Long đã “chế” thành vị trí gắn vũ khí và lắp được 60 quả đạn cối 120mm. Tiếp đó là “mổ bụng” máy bay, tạo cửa cho đạn cối thoát ra khi phi công thao tác chiến đấu trên không. Hai cánh của máy bay cũng được nắn lại để gắn các giá treo bom, đủ khả năng mang theo ba quả bom loại 100kg.
Sau khi cải tiến, IL-14 trở thành chiến đấu cơ đa năng, vừa ném bom, vừa phóng đạn cối, vừa chở quân nhảy dù và hàng chi viện. Kế hoạch cải tiến, nâng cấp một loạt máy bay IL-14 và máy bay AH2 được triển khai gấp rút, kịp chuẩn bị cho chiến dịch chi viện. Riêng loại máy bay AH2, sau khi cải tiến, mỗi chiếc lắp được 10 quả cối 120mm.
Trong khúc tráng ca...
Nhật ký chiến tranh của Thiếu tướng Phan Khắc Hy có nhiều trang ghi chép tỉ mỉ diễn biến của nhiệm vụ thả dù tiếp tế bộ binh và tấn công một số mục tiêu mặt đất ở phía Nam Vĩ tuyến 17 trong Chiến dịch Mậu Thân 1968. Sau khi đã chuẩn bị sẵn sàng lực lượng, phương tiện, vũ khí trang bị, đúng ngày 27 Tết Mậu Thân (nhằm ngày 26-1-1968), thực hiện chỉ đạo của Bộ Tổng tham mưu, Chính ủy Không quân Phan Khắc Hy và Phó tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân Nguyễn Văn Tiên trực tiếp xuống Trung đoàn 919 để phổ biến nhiệm vụ tuyệt mật, tổ chức cho các phi đội cất cánh chi viện bộ binh và tấn công mục tiêu của kẻ thù ở bên kia Vĩ tuyến 17. Các lực lượng bảo đảm cho “cầu hàng không” cũng được triển khai gấp rút, bí mật lập sở chỉ huy không quân ở Quảng Bình.
Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Tường Long, người trực tiếp cải tiến máy bay IL-14 (chụp năm 2008).
Vào thời khắc miền Nam tổng tiến công, đêm Ba mươi rạng sáng Mồng Một Tết Mậu Thân, lực lượng không quân Trung đoàn 919 gồm các phi đội thực hiện nhiệm vụ chi viện cũng đã sẵn sàng chờ lệnh cất cánh. Thiếu tướng Phan Khắc Hy nhớ lại: “Vào thời điểm đó, thời tiết miền Bắc đột ngột chuyển biến rất xấu. Mây dày đặc, nhiệt độ xuống thấp, mặt khác hệ thống phòng ngự của địch cả trên đất liền và trên biển được tăng cường tối đa. Tình hình hết sức khó khăn”.
Nhiệm vụ cất cánh không thể chậm trễ hơn được nữa. Một phương án táo bạo nhưng cần thiết được thông qua. Các máy bay T.14 (ký hiệu chỉ máy bay IL-14 cải tiến) sẽ cất cánh từ sân bay Gia Lâm, bay ở tầm thấp vòng qua không phận Lào để vào Huế, nhằm tránh sự phát hiện của ra-đa đối phương. Tối Mồng 10 Tết Mậu Thân (nhằm ngày 7-2-1968), các chuyến bay lần lượt nhận lệnh cất cánh. Vì thời tiết xấu, tổ bay đánh đồn Mang Cá không tìm thấy mục tiêu. Hai chiếc đã bay trở ra cửa biển Cửa Việt (Quảng Trị) và bắn chìm một tàu chiến của địch, bắn hai tàu khác bị thương rồi về sân bay Gia Lâm hạ cánh an toàn; còn chiếc của ông Chuyền trên đường quay về thì bị bắn thủng thùng chứa nhiên liệu nên phải hạ cánh khẩn cấp xuống Thanh Hóa. Riêng tổ bay do đồng chí Phan Kế làm cơ trưởng đã mãi mãi không trở về. 
Liên tiếp những ngày sau đó, các tổ bay thực hiện nhiều đợt xuất kích nữa. Theo lời kể của Thiếu tướng Phan Khắc Hy thì có tất cả 12 tổ bay cất cánh đi làm nhiệm vụ trong 4 đêm, bao gồm cả bay chiến đấu và bay tiếp vận.
Trong câu chuyện với chúng tôi lúc còn sống và tư liệu chép tay để lại, Anh hùng Nguyễn Tường Long nhắc nhiều đến người đồng đội gần gũi, thân thiết, đó là phi công Nguyễn Văn Bang (trong chiến dịch “cầu hàng không” nói trên, phi công Nguyễn Văn Bang là phi đội trưởng). Trong quá trình Ban Kỹ thuật nghiên cứu, cải tiến máy bay, trước nhiều ý kiến bày tỏ sự lo ngại kế hoạch không thành công, làm hỏng máy bay, phi công Nguyễn Văn Bang là người động viên, ủng hộ Nguyễn Tường Long hết mình. Anh nói với Tường Long: “Cậu cứ làm đi. Nếu phải chết vì bay thử nghiệm máy bay cải tiến của cậu thì tớ cũng sẵn sàng”.
Sau một vài chuyến đầu cất cánh tìm diệt mục tiêu trên bộ không đạt kết quả như mong muốn, Nguyễn Văn Bang đã đề xuất và được cấp trên chấp thuận, chuyển hướng đánh mục tiêu trên biển, cụ thể là nhắm vào các chiến hạm của Mỹ. Nguyễn Tường Long và Nguyễn Văn Bang đã bàn bạc, tính toán kỹ lưỡng phương án đánh sao cho mục tiêu phải bị tiêu diệt và máy bay phải an toàn. Cách đánh được thống nhất, đưa máy bay vào độ cao trên 100m, mục tiêu nằm trong tầm bắn thì cắt bom, phóng hỏa lực rồi nhanh chóng thoát lên cao. Tầm 11 giờ 30 phút đêm 12-2-1968, ba tổ bay lần lượt cất cánh nhưng sau đó chỉ có một tổ trở về. Hai tổ, trong đó có tổ bay của Nguyễn Văn Bang bị mất liên lạc. Các nguồn tin sau đó cho biết, các phi công của chúng ta sau khi đã trút bom và hỏa lực vào mục tiêu đối phương, đã anh dũng hy sinh. Nhưng hy sinh do va vào núi cao hay trúng hỏa lực địch bị rơi xuống biển, thì đến nay vẫn còn là một ẩn số.
Không thấy đồng đội đưa máy bay trở về, lòng dạ Tường Long như có lửa đốt. Ngày hôm sau, Tường Long dò sóng ra-đi-ô, tình cờ nghe được một bản tin nước ngoài cho biết, có hai tàu trong hạm đội của Mỹ bị đánh phá hư hỏng nặng, phải gấp rút kéo sang vùng biển Phi-líp-pin để sửa chữa.
Chiến dịch “cầu hàng không” kết thúc. Chúng ta đã đưa được hàng chục tấn hàng đến địa điểm tiếp vận, phá hủy một số mục tiêu quan trọng của địch. 32 cán bộ, chiến sĩ của 4 tổ bay thuộc Trung đoàn 919 đã anh dũng hy sinh. Năm 2006, qua thông tin của quần chúng, cơ quan chức năng đã phát hiện được vị trí rơi của 1 trong 4 chiếc máy bay nói trên tại vùng rừng núi huyện A Lưới (Thừa Thiên-Huế) và đã tiến hành cất bốc được một phần hài cốt, làm lễ an táng cho các liệt sĩ. 3 chiếc máy bay còn lại cùng các cán bộ, chiến sĩ hy sinh đến nay vẫn chưa tìm được tung tích.
Bài, ảnh: HOÀNG MAI

Nhà tư sản SG tiếp tế cách mạng chiến dịch Mậu Thân


Nhà tư sản SG tiếp tế cách mạng chiến dịch Mậu Thân


Người nổi tiếng) - Trong chiến dịch Tết Mậu Thân 1968, rất nhiều người dân Sài Gòn đã ủng hộ cách mạng bằng nhiều hình thức như: tiếp lương, tải đạn, nuôi giấu cán bộ, chiến sĩ,... Có một nhà tư sản ở Sài Gòn ủng hộ cách mạng một cách táo bạo hơn, đó là tiếp tế vũ khí cho các lực lượng nổi dậy trong chiến dịch Tết Mậu Thân.

Ông đã bị bắt và bị tra tấn dã man, nhưng vẫn một lòng chung thủy với cách mạng. Sau ngày giải phóng, ông hiến hết tài sản cho nhà nước. Đến thời kỳ đổi mới, nhà nước khuyến khích nhân dân làm giàu chính đáng, ông lại “khởi nghiệp” và nhanh chóng thành công trên thương trường.

Chuyến hàng cuối năm

Chiều 30 Tết Mậu Thân (nhằm ngày 31-1-1968), mặc cho các lực lượng kiểm soát của chính quyền Sài Gòn rải đầy ở các cửa ngõ thành phố, người dân ở các tỉnh lân cận vẫn đổ dồn về thành phố chuẩn bị đón giao thừa.

Do đêm hôm trước, quân giải phóng đã tiến công một số đô thị miền Trung, nên chính quyền Sài Gòn tỏ ra cẩn thận, cảnh sát và quân cảnh kiểm tra ngặt nghèo người và các phương tiện vào thành phố. Trên sông Cần Giuộc từ hướng huyện Cần Đước, Cần Giuộc (thuộc tỉnh Long An), từng đoàn ghe cũng hối hả rẽ sóng hướng về phía quận 8 – Sài Gòn.

Trong số đó, có một chiếc ghe bầu chở trấu cao có ngọn do một thanh niên chạy máy và cầm tay lái sau ghe và một cụ già ngồi trước đầu ghe để “canh đường”. Đến trạm kiểm soát cầu Ông Thìn, chiếc ghe chở trấu nói trên phải dừng lại, tấp vào bờ theo yêu cầu của lực lượng kiểm soát trên bờ. Một cảnh sát quát hỏi: “Chở gì trên ghe?”.

Cụ già bước vội lên bờ, trả lời: “Bẩm mấy thầy, chở trấu về bỏ mối ở quận 8”. “Sao đi bán giờ này, Tết tới nơi rồi?” - một tay cảnh sát khác hỏi. “Bẩm mấy thầy, mối ở quận 8 họ cần gấp để nấu trong dịp Tết...”.

Một cảnh sát cầm cây chĩa xuống xôm ghe để kiểm tra, làm trấu văng tung tóe xuống sông. Cụ già bước vội theo, năn nỉ đừng xôm, đồng thời nhét vào tay viên cảnh sát tờ giấy bạc. Vậy là ghe được cho đi, tiếp tục cuộc hành trình.

Những người cảnh sát ấy không có kinh nghiệm, bởi nếu tinh ý, họ sẽ phát hiện ra hiện tượng lạ: chiếc ghe chở trấu (loại hàng hóa rất nhẹ) lại làm chiếc ghe bầu bị khẳm đến nửa thân ghe. Bởi phía dưới lớp trấu kia, nằm giữa hai lớp đáy chiếc ghe là hàng tấn vũ khí được hối hả vận chuyển vào Sài Gòn để kịp cung cấp cho các lực lượng nổi dậy ngay trong đêm giao thừa năm ấy.

Cụ già ngồi trước mũi ghe là ông Hai Hiền, một đảng viên thuộc chi bộ xã Tân Lân – huyện Cần Đước được Huyện ủy Cần Đước phân công chở ghe vũ khí từ Rừng Sác về trung tâm thành phố Sài Gòn vào buổi chiều cuối năm để giao cho một người tên Hồ Văn Ơn (Ba Ơn).
Ông Ba Ơn.

Chiếc ghe chở trấu do ông Hai Hiền dẫn đường vào bến Bình Đông rồi theo kênh Lò Gốm vào tận quận 6 khi trời vừa sụp tối. Chiếc ghe ghé lại một ngôi nhà sàn ven sông, nơi ấy có một người đàn ông tên là Ba Ơn đang ngồi đợi sẵn.

Chỉ trong chốc lát, trấu trên ghe được tuôn hết xuống sông, để lộ đáy ghe. Hơn 1 tấn vũ khí các loại được bí mật và gấp rút lấy lên từ đáy ghe và cho lên chiếc xe tải nhỏ đang đậu sát cửa nhà. Người đàn ông tên là Ba Ơn vội lên xe tự chở vũ khí đi ngay, còn ông Hai Hiền thì ngủ lại nơi ấy để sáng hôm sau lui ghe trở về Cần Đước đón Tết.

Thế nhưng, ông Hai Hiền không ngờ rằng, nửa đêm hôm ấy, quân giải phóng đã đồng loạt tiến công các đô thị miền Nam, trong đó có Sài Gòn, chính thức bắt đầu cuộc tổng tiến công Xuân Mậu Thân.

Ông Hai Hiền phải kẹt lại ở Sài Gòn suốt cả cái Tết vì chính quyền Sài Gòn ra lệnh “nội bất xuất ngoại bất nhập” sau cú đấm bất ngờ của quân Giải phóng vào giờ giao thừa.

Ngay vào giờ giao thừa hôm ấy, quân Giải phóng đã tiến công bằng bộ binh, biệt động, pháo kích vào các tỉnh, thành phố Quảng Trị, Huế, Quảng Ngãi, Bình Thuận, Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định, Phong Định, Vĩnh Long, Cần Thơ.

Đêm hôm sau (đêm mùng 1 rạng ngày mùng 2 Tết), các lực lượng quân Giải phóng tiếp tục đánh vào các tỉnh lỵ khác: Kiến Hòa, Định Tường, Gò Công, Kiên Giang, Vĩnh Bình, Bình Dương, Tuy Hòa, Biên Hòa, Tuyên Đức, Châu Đốc, An Xuyên.

Như vậy là quân Giải phóng đã tiến công đối phương trên cả miền Nam. Quân Giải phóng tiến công đúng vào giao thừa, thời điểm mà quân Mỹ và Việt Nam Cộng hòa lơi lỏng phòng bị, nhiều lính đang nghỉ về quê ăn Tết.

Ngay đêm tiến công đầu tiên tại Sài Gòn, các đội biệt động cảm tử của Giải phóng quân đã nhằm vào các mục tiêu trọng yếu nhất: Tòa Đại sứ quán Mỹ, dinh Tổng thống, Đài phát thanh, bộ Tổng tham mưu, sân bay Tân Sơn Nhất...

Cuộc tiến công đã gây bất ngờ lớn cho phía Mỹ và Việt Nam Cộng hòa. Cuộc tiến công cho thấy sự bất lực của hệ thống tình báo của Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa đã không tiên liệu được khả năng, tính chất cũng như thời điểm, quy mô của sự kiện.

Tại Đài phát thanh Sài Gòn, Đội biệt động số 4 (cụm 1) do Nguyễn Văn Tăng chỉ huy sau ba phút chiến đấu đã chiếm được Đài, loại khỏi vòng chiến đấu một trung đội cảnh sát dã chiến bảo vệ.

Nhưng nhân viên kỹ thuật và bộ phận chính trị phụ trách phát thanh đã bị ngăn chặn ở Phú Thọ Hòa không đến kịp nên ý đồ sử dụng Đài phát thanh làm công cụ tuyên truyền, gây tiếng vang dư luận không thực hiện được.

Nhận rõ vị trí quan trọng của Đài phát thanh, ngay sau khi đài bị mất, quân Mỹ đã dùng cả trực thăng vũ trang, xe tăng yểm trợ nhanh chóng tổ chức lực lượng phản kích.

Chỉ 15 phút sau khi biệt động nổ súng, quân Mỹ đã bao vây toàn khu vực. Tiểu đoàn 3 quân Giải phóng (Phân khu 5) không đến chi viện kịp như đã hợp đồng.

Sau ba ngày chiến đấu quyết liệt, những chiến sĩ biệt động còn sống sót quyết định cảm tử, dùng bộc phá phá hỏng một góc Đài phát thanh. Lực lượng biệt động thương vong gần hết (chỉ còn hai nữ phục vụ viên).

Ở Tòa đại sứ Mỹ, lúc 2 giờ 30 phút ngày 30-1-1968, 17 chiến sĩ Đội biệt động số 11 do Ngô Thành Vân (Ba Đen) chỉ huy dùng xe du lịch có hỏa lực B-40 yểm trợ đột nhập thẳng cổng Tòa đại sứ. Sau khi diệt 4 quân cảnh Mỹ gác ở cổng, biệt động dùng thuốc nổ phá hủy tường, tiến đánh vào bên trong, chiếm gần hết tầng 1, phát triển lên tầng 2 và 3 Tòa đại sứ.

Một nhiệm vụ quan trọng đặt ra là phải bắt sống Đại sứ Bunker, nhưng các nhân viên an ninh sứ quán Mỹ đã lén đưa được Bunker rời khỏi biệt thự bằng một chiếc xe bọc thép sang ẩn nấp trong một hầm bí mật ở một địa điểm khác.

Chỉ 20 phút sau khi Đại sứ quán bị đánh, một toán quân cảnh Mỹ đến cứu viện, nhưng bị biệt động bắn chặn nên không vào được cổng chính. 7 giờ sáng ngày 30-1-1968, một trung đội quân cảnh Mỹ lọt được vào cổng chính. Cuộc chiến đấu trong sứ quán diễn ra quyết liệt.

9 giờ sáng ngày 30-1-1968, quân Mỹ đổ được một bộ phận lực lượng Sư đoàn dù 101 xuống sân thượng Tòa đại sứ. Lực lượng tăng viện của quân Giải phóng không đến được như kế hoạch hợp đồng. Các biệt động quân Đội 11 dũng cảm chiến đấu đến người cuối cùng.

Trận đánh Tòa đại sứ Mỹ kết thúc, trong 17 người của đội biệt động có 16 người thiệt mạng, chỉ còn đội trưởng Ngô Thành Vân bị thương, ngất đi và bị bắt. Quân Mỹ cũng thiệt hại nặng: 5 lính chết tại chỗ, 17 lính chết sau khi đến bệnh viện và 124 bị thương.

Việc quân Giải phóng đánh chiếm và trụ lại trong Tòa đại sứ Mỹ tới hơn 6 giờ đồng hồ đã gây một tiếng vang lớn, làm chấn động nước Mỹ. Tất cả các cấp chỉ huy quân sự, ngoại giao ở Sài Gòn và cả nước Mỹ bàng hoàng, sửng sốt.

Tại Bộ Tư lệnh Hải quân, 16 chiến sĩ Đội biệt động số 3 (Cụm 1) do Trần Văn Lém (Bảy Lốp) chỉ huy dùng hai xe du lịch đưa lực lượng đến trước mục tiêu lúc 2 giờ 50 phút ngày 30-1-1968.

Sau khi diệt hai lính gác ở đầu cầu Cửu Long, biệt động đánh bộc phá mở cửa và đột nhập vào bên trong, nhưng bị hỏa lực ngăn chặn mạnh, không phát triển được. Các chiến sĩ biệt động chiến đấu cho đến khi hy sinh gần hết, chỉ còn hai người về được căn cứ và Phân khu 4.

Trong lúc đó, những trận tiến công của các sư đoàn chủ lực miền Đông và lực lượng vũ trang các huyện ngoại thành không tăng viện được cho nội thành Sài Gòn - Gia Định.

Bộ đội chủ lực không tiến được vào nội đô; đặc công, biệt động và các đơn vị mũi nhọn tác chiến bên trong trở thành đơn độc, lực lượng bị tiêu hao lớn, một số đơn vị chiến đấu hy sinh đến người cuối cùng, cơ sở nội thành bộc lộ và tổn thất nặng. Nhà tư sản Ba Ơn tiếp nhận và vận chuyển vũ khí cho cách mạng trong chiến dịch cũng chịu cùng số phận, bị địch bắt, tra tấn, tù đày...

Cách mạng gửi “tiết kiệm”

Đêm giao thừa tối hôm ấy, sau khi chuyển giao xe vũ khí cho một đơn vị biệt động Sài Gòn, ông Ba Ơn trở về nhà máy sản xuất dụng cụ học tập của mình ở khu vực Cây Gõ mà không biết rằng đang sắp xảy ra cuộc tiến công sinh tử của quân Giải phóng vào đô thành Sài Gòn.

Khi ông Ba Ơn cùng gia đình quây quần bên bàn thờ gia tiên và chuẩn bị châm lửa đốt dây pháo treo trước nhà, bất ngờ tiếng súng rộ lên ở nhiều nơi trong thành phố. Ông Ba Ơn biết ngay rằng có một sự kiện lớn đang xảy ra và ông đã thức trắng đêm giao thừa để theo dõi cuộc tiến công của quân Giải phóng.

Từ nhiều ngày qua, ông đã liên tục đón nhận những chuyến hàng là vũ khí từ chiến khu đưa về thành phố để chuyển giao cho các đơn bị biệt động thành, điều đó cho thấy quân Giải phóng đang chuẩn bị đánh lớn vào Sài Gòn.

Nhưng ông Ba Ơn hơi bất ngờ khi cuộc tiến công mà ông hằng mong đợi ấy lại diễn ra đúng vào đêm giao thừa. Định mệnh đã gắn chặt cuộc đời ông vào cuộc chiến của dân tộc đánh đuổi ngoại xâm, và cuộc tiến công trong đêm giao thừa ấy ông thấy như mình trực tiếp tham dự.

Ông Ba Ơn quê ở Cần Đước, vì nhà nghèo nên vừa lớn lên, ông đã từ giã làng quê nghèo để về Sài Gòn tìm việc làm. Nhờ cần cù, chịu khó, có chút vốn liếng chữ nghĩa, ham mê sáng tạo, cùng với môi trường làm ăn sôi động ở đất Sài Gòn, ông đã học được nghề mộc và dần trở thành người thợ giỏi.

Từ chỗ làm công, ông đã tích lũy, xây dựng cơ sở sản xuất, để rồi trở thành một doanh nhân trẻ ở đất Sài Gòn.

Thuở ấy, vào khoảng thập niên 1950, người ta thấy xuất hiện trong các tiệm bán dụng cụ học tập những món hàng bằng gỗ mang nhãn hiệu Việt Nam bên cạnh nhưng mặt hàng cùng loại mang nhãn mác Tây, Tàu vốn đang độc chiếm thị trường. Đó là các loại viết mực, thước kẻ, hộp đựng viết... từ xưởng sản xuất dụng cụ học tập của ông Ba Ơn.
Huân chương Kháng chiến được Nhà nước trao tặng.

Dụng cụ học tập bằng gỗ do ông Ba Ơn sản xuất đã nhanh chóng chiếm được thị phần đáng kể ở Sài Gòn và các tỉnh lân cận nhờ chất lượng cao, mẫu mã đẹp, giá cả cạnh tranh và đặc biệt là lần đầu tiên mặt hàng này do một doanh nghiệp Việt Nam sản xuất ở Sài Gòn. Suốt thời gian dài, các mặt hàng dụng cụ học tập của ông Ba Ơn luôn có chỗ đứng vững chắc trên thị trường Sài Gòn và cả miền Nam.

Một ngày cuối năm 1955, khi ông Ba Ơn đang ngồi quyết toán một năm làm ăn thuận lợi, bất ngờ người nhà báo là ông có khách. Xuống phòng khách, ông Ba Ơn thật sự bất ngờ khi ngồi đợi ông là một cán bộ cách mạng tên Nguyễn Văn Nam (Sáu Nam) là người cùng quê với ông.

Thuở nhỏ, ông Ba Ơn và ông Sáu Nam học chung trường sơ học, chơi khá thân với nhau. Lớn lên, ông Ba Ơn về Sài Gòn kiếm sống, còn ông Sáu Nam gia nhập phong trào Việt Minh rồi đi vào cuộc kháng chiến chống Pháp.

Sau ngày “đình chiến” (sau Hiệp định Giơ-ne-vơ), ôn Ba Ơn có trở về quê nhà Cần Đước và gặp lại ông Sáu Nam khi người cán bộ này đang chuẩn bị tập kết ra Bắc theo tinh thần Hiệp định Giơ-ne-vơ. Họ hẹn gặp lại nhau sau 2 năm trong ngày Tổng tuyển cử thống nhất đất nước.

Bây giờ, bất ngờ gặp lại, ông Sáu Nam cho biết đến giờ phút cuối, ông được tổ chức bố trí bí mật ở lại miền Nam vì có dấu hiệu chính quyền Diệm sẽ phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ, chia cắt lâu dài đất nước.

Ông Sáu Nam bất chấp nguy hiểm, tìm gặp ông Ba Ơn ngay giữa Sài Gòn để nhờ giúp một chuyện: Cách mạng huyện Cần Đước đang giữ một số tiền mà ban kinh tài không kịp nộp cho lực lượng đi tập kết ra Bắc, trong khi những cán bộ cài cắm ở lại phải luôn trốn tránh sự truy lùng của đối phương. Vì vậy, ông Sáu Nam mang số tiền đó đến gửi ông Ba Ơn cất giữ hộ, khi nào cách mạng cần đến sẽ lấy lại. Ông Ba Ơn thật sự xúc động khi cách mạng tin tưởng mình.

Ông cầm số tiền và nói với người bạn là cán bộ cách mạng: “Cách mạng tin tưởng, tôi hứa sẽ bảo vệ số tiền này và làm cho nó sinh sôi nảy nở. Dù có phải chết tôi cũng bảo vệ, gìn giữ tài sản của cách mạng. Coi như trong doanh nghiệp của tôi có cổ phần của cách mạng. Lời lãi hàng năm, tôi giữ nguyên, khi nào cách mạng cần, tôi sẽ gửi lại đầy đủ”.

Có thêm nguồn vốn của cách mạng gửi, ông Ba Ơn đầu tư công nghệ mới, nhờ đó sản phẩm làm ra càng chất lượng hơn, chiếm lĩnh thị trường dụng cụ học tập Sài Gòn.

Một thời gian khổ

Từ đó cho tới năm 1960, ông Ba Ơn không gặp lại người bạn Sáu Nam hay cán bộ cách mạng nào khác. Số tiền của cách mạng gửi, nhờ đầu tư vào sản xuất, đã sinh lãi và ngày càng thêm giá trị. Năm 1960, phong trào Đồng Khởi nổi lên trên khắp miền Nam.

Sau 5 năm thực hiện chủ trương không đấu tranh vũ trang, mặc cho đối phương bắt giết, cầm tù, lực lượng cách mạng giờ đã làm cuộc Đồng Khởi, chính thức bắt đầu cuộc đấu tranh vũ trang giải phóng miền Nam. Đó cũng là lúc cách mạng huyện Cần Đước bắt đầu cần đến tiền bạc để chi tiêu, và đã nhận sự chi viện thường xuyên, liên tục từ ông Ba Ơn.

Theo ông Nguyễn Văn Nam thì số tiền ông Ba Ơn tiếp tế cho kháng chiến cho tới ngày giải phóng tương đương vài chục ngàn lượng vàng, gấp hàng trăm lần số tiền mà cách mạng đã gửi cho ông vào năm 1955.

Cái cách tiếp tế cho cách mạng mà ông Ba Ơn thường làm nhất là tìm mua những mặt hàng trong chiến khu đang cần, rồi gửi theo xe đò về Cần Đước, nơi ấy có người chuyển qua chiến khu Rừng Sác để phục vụ kháng chiến. Các mặt hàng được chuyển ra chiến khu nhiều nhất là: hóa chất, dây điện, kim loại quý để chế tạo vũ khí; thuốc chữa bệnh; nhu yếu phẩm...

Sau khi anh em Diệm – Nhu bị lật đổ và bị giết chết năm 1963, chính trường Sài Gòn hỗn loạn kéo dài, nhiều quân lính Việt Nam Cộng hòa ở Sài Gòn bất mãn đem bán súng lấy tiền ăn nhậu. Ông Ba Ơn đã bí mật mua gom nhiều súng đạn và chuyển ra chiến khu. Chính kho vũ khí ở chiến khu Rừng Sác đã lại được chuyển về Sài Gòn tham gia chiến dịch Xuân Mậu Thân.

Sau đêm giao thừa Tết Mậu Thân 1968, quân Giải phóng đã tiến công đợt 1, rồi đợt 2 vào đô thành Sài Gòn. Nhiều trận đánh dữ dội diễn ra ngay giữa trung tâm thành phố, thương vong phía quân Giải phóng và quân đội Mỹ - Ngụy đều rất lớn.

Ông Ba Ơn như con thoi, bất chấp hiểm nguy, đi lại giữa các điểm nóng, kịp thời tiếp tế lương thực, thuốc men cho các chiến sĩ giải phóng.

Ông đã tìm được 2 chiến sĩ bị trọng thương đi lạc giữa Chợ Lớn, tổ chức chữa trị cho lành lặn và sau đó bí mật chuyển các anh trở ra vùng giải phóng. Sau khi chiến dịch Mậu Thân kết thúc, không biết từ nguồn tin nào, chính quyền Sài Gòn đã bắt tống giam ông Ba Ơn vì cho rằng ông ủng hộ cách mạng. Ông Ba Ơn đã cắn răng chịu đựng mọi đòn tra khảo, không khai bất cứ điều gì có hại cho cách mạng.

Cùng lúc, gia đình ông cùng tổ chức ở bên ngoài chạy lo lót cho ông. Ngày ấy, mọi thứ đều có thể đánh đổi bằng tiền, và ông Ba Ơn đã được trả tự do với cái giá khoảng 2 ngàn cây vàng. Không chỉ tự cứu lấy mình, nhờ “mạnh vì tiền”, ông Ba Ơn còn cứu nhiều trường hợp cán bộ cách mạng bị bắt hoặc người dân vì ủng hộ cách mạng mà bị bắt.

Đó là bà Chung Thị Gương – bí thư chi bộ xã Tân Lân – đã bị địch bắt khi đang đi công tác mật, bị giam ở Tổng nha Cảnh sát Sài Gòn.

Ông Ba Ơn đã chạy lo 1 triệu đồng (khoảng hơn 100 cây vàng) cho ngụy quyền ở huyện Cần Đước, nhờ vậy mà bà Gương đã trắng án. Ông Ba Ơn đã lo lót 200 ngàn đồng để cứu một người dân tên Ba Kính vì ủng hộ cách mạng mà bị giặc bắt tù đày. Suốt thời gian dài, phần lớn tài sản, lợi nhuận làm ra từ xưởng sản xuất dụng cụ học tập của ông Ba Ơn đã được phục vụ cho cách mạng, cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Lại trở thành doanh nhân thành đạt

Cứ thế, ông Ba Ơn vừa nỗ lực sản xuất, kinh doanh để làm ra lợi nhuận, để rồi đem toàn bộ lợi nhuận ấy phục vụ cách mạng. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, ông Ba Ơn là một trong những người đầu tiên ở Sài Gòn hiến toàn bộ cơ sở sản xuất cho nhà nước. Ông được giữ lại làm “phó giám đốc” trong nhà máy từng do ông xây dựng nên. Đến năm 1982, ông về nghỉ hưu trên mảnh đất của ông bà để lại ở vùng quê xã Tân Lân, huyện Cần Đước.

Một cuộc đời tưởng như đã quá trọn vẹn, vừa đáp tròn nợ nước, vừa vẹn tình nhà, các con ông đều học hành đến nơi đến chốn, ông đã có thể yên nghỉ tuổi già. Nhưng không, đến thời kỳ đất nước mở cửa, nhà nước khuyến khích người dân phát triển sản xuất, làm giàu chính đáng, ông Ba Ơn lại rời quê hương đi về Sài Gòn mày mò gây dựng lại nghề sản xuất dụng cụ học tập bằng gỗ ngày trước.

Bằng sự mẫn cảm của một người từng có mấy chục năm lăn lộn trên thương trường, ông nhận thấy mặt hàng dụng cụ học tập đang bị cạnh tranh gay gắt, trong khi đó có một mặt hàng khác đang còn “bỏ ngỏ”, chủ yếu sử dụng hàng nước ngoài, đó là cọ sơn.

Ông bán hết nhà cửa, ruộng đất ở dưới quê, dồn hết vốn vào mở xưởng sản xuất cọ sơn. Nhờ có một người con định cư ở nước ngoài từ trước năm 1975, ông đã nhập được nguyên phụ liệu để sản xuất ra các loại cọ chất lượng cao, không thua kém hàng ngoại nhập.

Mặt hàng cọ của ông đã nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường. Cùng với sự phát triển của đất nước, hoạt động xây dựng ngày càng nhộn nhịp hơn, đã là cơ hội cho nghề sản xuất cọ sơn của ông Ba Ơn phất lên nhanh.

Bây giờ, khi đến bất cứ tiệm tạp hóa nào ở Sài Gòn và các tỉnh phía Nam, ta cũng thấy mặt hàng cọ sơn Thanh Bình luôn được bán nhiều nhất. Đó là mặt hàng của nhà doanh nghiệp từng ủng hộ hết gia sản của mình cho kháng chiến, cho cách mạng.

Cuối năm rồi, ông Ba Ơn đã đi theo ông bà ở tuổi 90. Thi hài của ông được đưa về chôn ở một nghĩa địa nghèo của dòng tộc ở vùng nông thôn xa xôi thuộc xã Tân Lân – huyện Cần Đước.

Các con ông đã không an táng cha trong một “nghĩa trang công viên” sang trọng nào đó ở vùng ven TP.HCM, mà đưa ông về chôn ở nghĩa địa quê nghèo, là vì làm theo ý nguyện của người quá cố, muốn về an nghỉ nơi ông đã sinh ra và lớn lên, trên phần đất của ông bà để lại. Một người con của ông là anh Hồ Văn Bền đang tiếp nối sự nghiệp của cha ở tầm cao hơn.

Trong đám tang kéo dài 2 ngày của ông Ba Ơn, chúng tôi thấy hàng trăm tràng hoa các loại treo khắp bên ngoài nơi tiếp khách, còn bên trong chỗ đặt quan tài, ở nơi trang trọng nhất, chỉ có treo “Huân chương Kháng chiến hạng Nhất” được Nhà nước trao tặng ông Ba Ơn sau ngày giải phóng.

Ông là mẫu doanh nhân khá tiêu biểu ở Sài Gòn: xuất thân từ nông thôn, nhờ cần cù, nhẫn nại mà trở thành “tư sản”; hết lòng ủng hộ kháng chiến, vì độc lập dân tộc; sau ngày giải phóng đã hiến hết của cải cho nhà nước; đến thời đất nước mở cửa, đã làm ăn trở lại và trở thành doanh nhân thành đạt.

Hoàng Hải

Phim tài liệu “Mậu Thân- 1968” sẽ làm sáng tỏ sự thật về?


Phim tài liệu- “Mậu Thân- 1968” của nữ đạo diễn Lê Phong Lan Suốt bộ phim sẽ giải đáp cho khán giả câu trả lời trong suốt một thời gian dài về chiến dịch Mậu Thân năm 1968 trở thành câu chuyện lịch sử nhạy cảm, ít được nhắc đến: "10 năm tôi đi và đi, phỏng vấn và phỏng vấn… Và tôi nghĩ, 12 tập phim tài liệu xây cất trong 10 năm ròng của tôi sẽ giúp khán giả giải mã được sự thật còn gây tranh cãi của chiến dịch Mậu Thân năm 1968”.
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy dịp Tết Mậu Thân năm 1968 của quân và dân ta đã đánh dấu bước ngoặt lớn trong cuộc chiến với Mỹ. Vào thời điểm ấy, quân đội Mỹ đã hoàn toàn sa lầy trong cuộc chiến tranh với Việt Nam. Quân đội Mỹ không thể bình định được miền Nam Việt Nam, cũng không thể rút quân về nước. Trong tình hình đó, dư luận thế giới, dư luận của chính nội bộ nhân dân Mỹ phản đối chiến tranh tại Việt Nam ngày càng mạnh mẽ, quyết liệt. Nắm lấy thời cơ này, Bộ Chính trị đã quyết định đánh một trận gây tiếng vang lớn, “Một cú đập lớn để tung tóe ra các khả năng chính trị” (Lê Duẩn). Chiến dịch Mậu Thân năm 1968 đã bất thần được quyết định như thế để tạo bước ngoặt lớn trong chiến tranh, buộc Mỹ phải xuống thang, đi tới đàm phán.
Sáng sớm ngày 31/1/1968, trong dịp Tết Nguyên đán Mậu Thân, quân ta đã đồng loạt tấn công bất ngờ vào nhiều thành phố, trong đó có những thành phố lớn như Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế… Cuộc tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968 được đánh giá là một thắng lợi có tầm vóc lớn về chiến thuật của quân ta, tạo tiền đề quan trọng để Mỹ xuống thang chiến tranh, đi đến đàm phán tại Hội nghị Paris năm 1973.
 
Quân ta trong chiến dịch Mậu Thân năm 1968
Quân ta trong chiến dịch Mậu Thân năm 1968
 
Tuy nhiên, trong suốt một thời gian dài, nhiều nguồn thông tin nhiễu loạn đã khiến chiến dịch Mậu Thân năm 1968 trở thành câu chuyện lịch sử nhạy cảm, ít được nhắc đến. Những thông tin về các ngôi mộ tập thể được tìm thấy ở Huế, thông tin về những cuộc thảm sát đẫm máu mang tính trả thù cá nhân sau khi Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam chiếm được thành Huế… được lan truyền một cách ẩn ức trong dư luận suốt một thời gian.
Khi câu chuyện về chiến dịch Mậu Thân năm 1968 vẫn tồn tại như một câu chuyện lịch sử nhiều bí ẩn, một nữ đạo diễn Việt Nam đã âm thầm chuẩn bị tài liệu trong suốt 10 năm để lật lại, để truy tìm sự thật, để nói đến tận cùng về những câu chuyện “nhạy cảm” năm 1968.
 
Lính Mỹ trong thành cổ Huế năm 1968. Cuộc giao tranh 26 ngày đêm ở Huế diễn ra khốc liệt.
Lính Mỹ trong thành cổ Huế năm 1968. Cuộc giao tranh 26 ngày đêm ở Huế diễn ra khốc liệt.
Lý do của 10 năm đổ công sức, tiền bạc đi tìm tài liệu, đi tìm nhân chứng về cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968 của nữ đạo diễn Lê Phong Lan khiến người viết thực sự cảm động. Chị nói, “Có một động lực vô hình nào đó thôi thúc tôi đi tìm hiểu về chiến dịch Mậu Thân năm 1968. Trong quá trình đi tìm tài liệu, đi tìm những nhân vật là chứng nhân lịch sử của cả hai chiến tuyến, tôi đã nhìn thấy những tấm ảnh tư liệu ghi lại hình ảnh chiến sỹ giải phóng của ta hy sinh như thế nào, đổ xương đổ máu ra sao… Tôi không tin những người lính ấy lại có thể tạo ra những cuộc thảm sát”.
Theo đạo diễn Lê Phong Lan, “Lịch sử đã trải qua 45 năm, thời gian đã có đủ độ lùi để chúng ta nhìn nhận lại về chiến dịch Mậu Thân năm 1968. Thời thế đã đổi thay. Tôi nghĩ đã đến lúc chúng ta nói chuyện với nhau thật thẳng thắn về tất cả những câu chuyện xảy ra từ 45 năm trước. Trong 10 năm ròng, tôi đã đi, đã tìm kiếm, đã gặp gỡ, phỏng vấn, để xây cất nên 12 tập phim tài liệu về chiến dịch Mậu Thân năm 1968. Tôi gặp gỡ cả những người lính ở hai chiến tuyến, tôi gặp gỡ hỏi chuyện cả những người chỉ huy ở cả hai chiến tuyến. Ở cấp chỉ huy, ở cấp lính, mỗi người đều có cái nhìn khác nhau về cuộc chiến. Suốt 10 năm tôi đi và đi, phỏng vấn và phỏng vấn… Và tôi nghĩ, 12 tập phim tài liệu xây cất trong 10 năm ròng của tôi sẽ giúp khán giả giải mã được sự thật còn gây tranh cãi của chiến dịch Mậu Thân năm 1968”.
 
 
Lính Mỹ trong thành cổ Huế năm 1968. Cuộc giao tranh 26 ngày đêm ở Huế diễn ra khốc liệt.
Nữ đạo diễn Lê Phong Lan và nhà báo, nhà sử học Mỹ Stanley Karnow trong quá trình thực hiện bộ phim tài liệu 12 tập "Mậu Thân- 1968"
12 tập phim tài liệu với tựa đề “Mậu Thân- 1968” là sự nhìn nhận, đánh giá của chính những người trong cuộc sau độ lùi 45 năm thời gian. Tính đến thời điểm hiện tại, 2/3 số nhân vật được phỏng vấn trong 12 tập phim tài liệu của đạo diễn Lê Phong Lan đã ra đi. 10 năm không mệt mỏi để một nữ đạo diễn bươn chải, tìm cho bằng được những sự thật về “Mậu Thân-1968”.
Và với những gì tìm được, nữ đạo diễn trả lời, “Tôi đã gặp những nhà báo Mỹ, những người lính bên kia chiến tuyến, họ đã nói, tất cả những thông tin về vụ thảm sát năm 1968 tại Huế chỉ là sự vu cáo của Mỹ và chính quyền Việt Nam cộng hòa đổ lên đầu Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Để khỏa lấp cho sự thất bại nặng nề, phía Mỹ và Việt Nam cộng hòa đã phát động những tin đồn nhảm gây nhiễu loạn như một cuộc chiến tranh tâm lý, và nó đã kéo dài trong một thời gian. Nhưng sự thật là sự thật. Chiến dịch Mậu Thân trải qua thời gian càng khẳng định là bản anh hùng ca vĩ đại của quân dân Việt Nam”.
 
Nước Mỹ đã khủng hoảng niềm tin sau Chiến dịch Mậu Thân 1968
Nước Mỹ đã "khủng hoảng niềm tin" sau Chiến dịch Mậu Thân 1968
 
“Tôi chỉ có một câu hỏi, “Tại sao cha ông chúng ta, thế hệ những người trẻ như tôi, như bạn thời ấy lại có thể sẵn sàng hy sinh mạng sống, hy sinh gia đình của mình vì độc lập, tự do của Tổ quốc? Vậy, độc lập, tự do là gì? Tại sao người ta có thể hy sinh ghê gớm đến thế vì độc lập, tự do. Nếu các bạn cũng như tôi, đã đọc, đã tìm hiểu, đã nhìn tận mắt những hình ảnh về chiến tranh Việt Nam, các bạn sẽ thấy đó là một huyền thoại. Lịch sử Việt Nam đã được viết bằng những huyền thoại”- Đạo diễn Lê Phong Lan chia sẻ sự xúc động.
Nữ đạo diễn tin rằng, thế hệ trẻ bây giờ thờ ơ với lịch sử là vì họ không hiểu lịch sử, họ gần như không biết gì về lịch sử với những bài học giản đơn ở trường lớp. Nếu đã hiểu, họ cũng sẽ yêu vô cùng những huyền thoại đã được viết bằng máu của đất nước mình.
Máu đã viết nên huyền thoại về đất nước, nếu ai đã lắng nghe, đã thấu hiểu, cũng sẽ cúi đầu trước những huyền thoại ấy.
Trích dẫn lời của một trong những nhân vật của 12 tập phim tài liệu- “Mậu Thân- 1968”:
Ông Larry Berman- GS. Sử học Mỹ “Tết Mậu Thân là một bước chuyển mang tính quyết định, chấm dứt leo thang chiến tranh Việt Nam. Người Mỹ sử dụng cụm từ “khủng hoảng lòng tin”. Cuộc tấn công bộc lộ cho người Mỹ thấy rằng, toàn bộ cuộc chiến này dựa trên cơ sở của một lời dối trá”.
Cũng trong nhiều tài liệu nghiên cứu sử học của Mỹ đã phải thừa nhận, những thông tin về vụ thảm sát tại Huế sau khi Quân giải phóng miền Nam Việt Nam chiếm được cố đô là hoàn toàn vu cáo./.
Nguồn: dantri.com.vn

Phụ nữ Sài Gòn - Gia Định trong chiến dịch Mậu Thân 1968


Phụ nữ Sài Gòn - Gia Định trong chiến dịch Mậu Thân 1968

Với phương châm "tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh giặc Mỹ xâm lược", phụ nữ Sài Gòn - Gia Định đã góp hết sức mình vào những ngày lịch sử sôi nổi và khói lửa của chiến dịch Mậu Thân 45 năm trước.

Đội nữ biệt động quân khu 6 nghiên cứu bản đồ trong chiến dịch Tết Mậu Thân năm 1968.
Tổ may cờ ở Gia Định đang may cờ mặt trận chuẩn bị cho Tết Mậu Thân.
Các mẹ trong Hội Mẹ chiến sĩ chuẩn bị lương thực cho các chiến sĩ ra tiền tuyến.
Nữ thanh niên xung phong Đội Hoàng Lệ Kha tại Suối Bà Chiêm đang dùng những tấm ván nhà kho của hậu cần bỏ lại trong rừng và kê người làm trụ cầu cho đồng đội cáng thương đi qua.
Các cô gái thanh niên xung phong vận chuyển lương thực chuẩn bị cho chiến dịch.
Nữ dân công hỏa tuyến miền Tây Nam Bộ vận chuyển vũ khí theo những kênh mương chằng chịt qua cánh đồng mênh mông về "ém" ở ven đô Sài Gòn chuẩn bị cho chiến dịch.
Các nữ Thanh niên xung phong còn vận chuyển vũ khí vào nội đô, chuẩn bị cho chiến dịch...
... vác pháo phục vụ các trận đánh vào mục tiêu đầu não của địch ở nội đô Sài Gòn.
Chiếc xe bò ông Nguyễn Văn Dần (Vĩnh Lộc, Bình Chánh) đã dùng để chở 7 thi hài liệt sĩ là những dân công Vĩnh Lộc, trong đó có con gái của ông từ đồng bưng về làng để chôn cất.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì cuộc họp của Bộ Chính trị về cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968. Chủ tịch yêu cầu "Kế hoạch phải thật tỉ mỉ, hợp đồng phải thật ăn khớp, bí mật phải thật tuyệt đối, hành động phải thật kiên quyết, cán bộ phải thật gương mẫu".
Kỷ niệm 45 năm Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 và chào xuân mới Quý Tỵ 2013, Bảo tàng Phụ nữ Nam bộ khai mạc trưng bày chuyên đề "Phụ nữ Sài Gòn - Gia Định trong Mậu Thân 1968".
Với 120 hình ảnh và 50 hiện vật, chuyên đề này làm nổi bật những đóng góp của phụ nữ Sài Gòn - Gia Định trong những ngày khói lửa Mậu Thân, thể hiện thế chủ động tiến công, mưu trí, dũng cảm, gây cho địch những tổn thất nặng nề, góp phần vào những thắng lợi to lớn có ý nghĩa chiến lược. Triển lãm kéo dài đến hết ngày 30/5.
Trung Sơn