Thứ Sáu, 1 tháng 2, 2013

Mậu Thân 1968 - Tấm lòng người nội đô

Mậu Thân 1968 - Tấm lòng người nội đô 

Kỳ 1: Chiếc bàn thờ lạ


Mấy chục năm rồi, tại căn nhà số 100/100 bis Cô Giang, Q.1, TP.HCM, bên cạnh bàn thờ gia tiên, chủ nhà đặt trang trọng thêm một bàn thờ nữa. Bàn thờ không có di ảnh, không có bài vị, chỉ có bát hương. 

Ông Nguyễn Văn Phú thắp nhang lên bàn thờ liệt sĩ Nguyễn Văn Quang - Ảnh: Mai Hương


Trong chiến dịch xuân Mậu Thân 1968 cách đây 45 năm, có một đơn vị “đặc biệt” tham gia chiến đấu trên đường phố Sài Gòn: tiểu đoàn Lê Thị Riêng (tiền thân là tiểu đoàn nữ biệt động Sài Gòn). Biết bao câu chuyện xúc động vẫn còn ghi trong ký ức người lính và cả những người dân giúp đỡ, cưu mang tiểu đoàn này.
Trước khi mất chủ nhà dặn người thân: dù nhà có bị di dời, giải tỏa đi đâu cũng phải mang theo chiếc bàn thờ. Mấy chục năm rồi, bát hương trên đó chưa lúc nào thôi đầy, tình cảm của những người thờ phụng chưa bao giờ hết ấm!
Thờ cúng người dưng 
Nằm gần khu chung cư Cô Giang, khoảng không gian 2,5x7m của căn nhà dường như càng chật hẹp hơn với vô số đồ dùng, dụng cụ làm nghề xây dựng của chủ nhà. Căn nhà nhỏ đó trước đây còn là tiệm tạp hóa. Từng khoảng trống nhỏ trong nhà hầu như đều được tận dụng để đóng kệ để đồ, đóng móc treo quần áo. Hai bên vách nhà là hai trang thờ đối diện nhau, đóng bằng ván ép. Trang thờ bên phải, ngoài bát cắm nhang có thêm bộ lư đồng nhỏ, bình cắm hoa. Tuyệt nhiên không có hình ảnh gì. Trang thờ này được lập từ giữa năm 1968, cũng chính ở vị trí này. Từ lúc đó cho mãi đến tháng 12-2012, trên trang thờ vẫn không có một dòng tên tuổi, địa chỉ. Hoàn toàn vô danh!
Người lập trang thờ bên phải giờ đã ở trong trang thờ bên trái. Từ ngoài cửa nhà nhìn vô, trang thờ bên trái có di ảnh một người phụ nữ mặc bộ áo dài màu trắng, gương mặt phúc hậu: bà Nguyễn Hồng Hoa, cũng là chủ căn nhà.
Ông Nguyễn Văn Phú, chồng bà Hồng Hoa, bộc bạch: “Nói thiệt, hồi đó tui đi làm thợ suốt ngày, bả ở nhà bán bánh bông lan, vừa đi làm cho cách mạng. Tui biết vậy thôi chứ không hỏi thêm bả làm gì, với ai vì tui hiểu nguyên tắc bí mật của hoạt động nội thành. Nhà này là cơ sở cách mạng. Cậu Quang từng ở đây. Sau đợt hai Mậu Thân, Quang bị bắt rồi hi sinh. Một hôm, tôi trở về nhà thì đã thấy có cái bàn thờ rồi. Hỏi thì bà nhà tui nói để thờ Quang. Quang bị bắt, bị đánh đến chết mà vẫn không khai báo câu nào. Từ đó, cả nhà tôi thờ Quang. Mình thờ cúng Quang, thứ nhất vì cái nghĩa đồng bào, thứ nhì vì cảm phục tấm lòng kiên trung, bất khuất. Năm hi sinh nghe đâu Quang chưa tròn 16 tuổi”.
Bao nhiêu năm nay khách khứa, bạn bè, hàng xóm tới nhà ông Phú chơi, không ai biết cái trang thờ luôn đều đặn hai cữ nhang sáng chiều đó dành để thờ ai. Chỉ có vợ chồng, con cái nhà ông là ngầm hiểu với nhau. “Hồi nào giờ không có hình, không có tên nhưng hễ bàn thờ của bả sao thì bàn thờ của Quang vậy. Tui với sắp nhỏ cúng bả cái gì cũng cúng Quang cái đó. Tới mức cả nhà quên luôn Quang với chúng tôi không phải họ hàng thân thích, cũng chưa kịp thân quen”.
Tổ quốc ghi công
Cậu thiếu niên gan dạ phi thường mà ông Phú thờ phụng bấy nhiêu năm tên là Nguyễn Văn Quang, một Việt kiều Lào, đã cùng nhiều anh em về nước tham gia chiến đấu. Là người trực tiếp dìu dắt, kết nạp anh Nguyễn Văn Quang vào Đoàn, cũng là chỉ huy trực tiếp của anh trong chiến dịch xuân Mậu Thân 1968, cô Lê Hồng Quân, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Lê Thị Riêng, vẫn còn nhớ lần đầu tiên gặp gỡ: “Khi tôi gặp Quang thì em đang bị sốt. Vậy mà mới 2g sáng em đã phải ra chợ Bến Thành nấu nước lèo phụ hàng hủ tiếu bán sớm. Quang kể ba mẹ em còn ở Lào nhưng em thích về chiến đấu ở quê nội”.
Cô Hồng Quân kể tiếp: “Tuy còn nhỏ nhưng Quang rất sáng dạ và chịu khó. Dáng người gầy nhỏ, trắng trẻo, thư sinh nhưng Quang không từ nan bất cứ việc gì. Làm công việc tiếp phẩm, em tập gánh gạo, đồ ăn, nước tương, nước mắm. Nhận nhiệm vụ mở thêm đường đưa đón cán bộ cơ sở ra vào nội thành Sài Gòn, cứ 2-3 giờ sáng Quang đi theo những chị em mua hàng sớm để lần dò thêm nhiều đường tắt, đường vòng. Tập bắn súng, từ chỗ mỗi lần bắn là “gửi đạn về trời”, Quang luyện đến mức thành thục hai tay hai súng, bắn trúng mục tiêu di động.
Đợt 2 xuân Mậu Thân, Quang nhận nhiệm vụ xung kích ém quân tại địa bàn trọng điểm. Ngày 5-5-1968, ngày mở đầu cho đợt tổng tiến công chống phản kích, Quang cùng bộ phận chỉ huy sở tiểu đoàn đánh trả nhiều đợt bao vây phản kích của đối phương. Cuộc chiến đấu không cân sức. Trước tình hình đó, tôi làm nhiệm vụ hút hỏa lực cho đơn vị rút đi. Súng hết đạn, tôi đập vỡ khẩu súng của mình. Còn Quang bị thương vẫn không rời vị trí. Em thì thầm bên tai tôi: “Em ngồi đây với chị. Em sẽ hi sinh bên cạnh chị!”. Mảnh đạn đan chéo cày xới quanh chỗ chúng tôi ngồi. Khi bị lôi ra xe giải về ty cảnh sát, tôi vẫn còn nghe tiếng Quang hô lớn: “Hồ Chí Minh muôn năm”.
Trong phòng giam trại số 5 Bệnh viện Chợ Quán, tôi gặp lại Quang. Các vết thương trên người em rất nặng, nhất là vết thương chạm phổi chỉ được băng sơ sài. Cuộc tra tấn người đồng đội nhỏ tuổi diễn ra ngay trước mắt tôi: bốn tay mật vụ vây quanh em, ra sức vừa đánh vừa hỏi đi hỏi lại ba câu:
- “Người chỉ huy là ai?”. Quang trả lời: “Các ông hãy đến trận địa sẽ rõ”.
- “Địa điểm đơn vị ở đâu?”. Quang đáp: “Chắc các ông đã nghe thấy, đồng đội tôi đang ở những nơi có tiếng súng”.
- “Nhà ém quân, chỗ giấu vũ khí, cơ sở bí mật nội thành ở đâu”. Quang lắc đầu.
Đang tra khảo, họ thì thầm hội ý với nhau bằng tiếng Pháp và tiếng Anh. Đột nhiên, Quang nói với họ cũng bằng tiếng Anh, tiếng Pháp rồi bảo: “Ở đây toàn là người Việt, các ông nói tiếng mẹ đẻ hay hơn”. Mấy tay mật vụ sững người. Mấy phút trôi qua, gian phòng im phăng phắc. Sau đó, họ chuyển sang ngon ngọt dỗ dành, hứa hẹn với Quang về một tương lai huy hoàng, được chữa vết thương, được đi du học ở Mỹ. Vẫn không có kết quả.
Đến ngày thứ năm, lại một trận tra tấn khốc liệt. Đầu cây ma trắc thụt vào vết thương trên ngực Quang, máu tuôn tràn. Quang vĩnh viễn ra đi ở tuổi 16”.
Kiếm hộp quẹt đốt cây nhang, ông Nguyễn Văn Phú đến bên bàn thờ, kính cẩn cúi đầu xá mấy cái. Ông nói: “27-7, 30-4, 2-9 cúng lớn. Tết nhứt thì cúng cơm canh. Còn trái cây thì cách ít ngày là có, nhà gần chợ mà. Nhà này nằm trong khu giải tỏa. Cách đây tám năm, trước khi mất bả dặn tui dù có bán nhà hay bị giải tỏa di dời đi đâu cũng phải đem bàn thờ Quang theo. Lời bả dặn, lúc nào tui cũng nhớ. Tới chừng tui nằm xuống thì có mấy đứa nhỏ nó nhớ...”.
Sau ngày giải phóng, các đồng đội ở tiểu đoàn Lê Thị Riêng, Ban phụ vận T4 và Thành hội Phụ nữ TP.HCM đã cố gắng lần tìm tin tức gia đình chiến sĩ Quang bằng nhiều cách, nhưng đến nay vẫn chưa tìm ra manh mối.
Ngày 20-7-2012, Thủ tướng Chính phủ có quyết định công nhận liệt sĩ và cấp bằng Tổ quốc ghi công cho tám liệt sĩ thuộc tiểu đoàn Lê Thị Riêng, trong đó có liệt sĩ Nguyễn Văn Quang. Ngày 21-11-2012, tại nghĩa trang liệt sĩ TP.HCM, Thành ủy - HĐND - UBND - Ủy ban MTTQ TP.HCM đã truy điệu tám liệt sĩ tiểu đoàn Lê Thị Riêng anh dũng hi sinh trong đợt 2 cuộc tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân năm 1968.
Ngay sau khi nhận bằng Tổ quốc ghi công, cô Lê Hồng Quân đã photo thêm một bản trên giấy in màu, cẩn trọng lồng vào khung kính, mang đến đặt trên bàn thờ ở nhà ông Phú. Sau 44 năm, cuối cùng chiếc bàn thờ đã chính thức có họ tên người đã khuất.
___________
Kỳ 2: Cao thủ vùng Khánh Hội
TT - Mới hơn 8 giờ sáng 23-1, nhà cô Lê Hồng Quân, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Lê Thị Riêng, đã có khách. Khách là một bà cụ dáng người cao to, mặc bộ bà ba bằng vải bông màu sậm. Mấy năm rồi cô mới gặp lại "mợ Mười", bà chủ nhà trọ cô từng trú ngụ vào đầu năm 1966 để xây dựng lực lượng, cơ sở chuẩn bị cho chiến dịch Mậu Thân, từ ngày mợ dọn về Gò Công, Tiền Giang.
Từ phải qua: bà Nguyễn Thị Mảnh, cô Lê Hồng Quân và bà Võ Thị Chi (mẹ chị Quân). Cả ba đều bị bắt sau chiến dịch Mậu Thân - Ảnh: Mai Hương
Đại ca Mười Bi
"Mợ Mười" Nguyễn Thị Mảnh kể chuyện bằng cái miệng móm sọm: "Hồi trước giải phóng, một cuốc xích lô từ trung tâm Sài Gòn qua quận 4 chừng vài đồng bạc. Nhưng hễ nói về khu Tôn Đản, Khánh Hội thì 7-8 ông xích lô mới có một ông dám đi. Người ta bảo khu đó toàn dân anh chị, lạng quạng không mất người thì cũng mất của". Vậy mà ở ngay chỗ bị xem là phức tạp bậc nhất nhì Sài Gòn đó, nhiều tay giang hồ mã thượng đã thành "người của Việt cộng", góp phần không nhỏ vào chiến dịch Mậu Thân.
Đưa tay lên ngực nén những cơn ho dồn đến đỏ mặt, ở tuổi 78 bà Mảnh khi nhớ khi quên. Nhưng vừa có người nhắc chuyện cao thủ Lê Văn Bi, đôi mắt đã đục mờ của bà vụt trở nên linh hoạt. Ông Lê Văn Bi, tên thường gọi là ông Mười Bi - chồng bà - ngày xưa oai lắm. Ông là một tài công giỏi của Hãng RMK của Mỹ. "Bà Năm Trầu, bà Tư bán bún ở chợ Xóm Chiếu là dân nhà giàu, sành điệu mà cũng nể ổng một nước. Lần mấy bả bị tụi cướp hăm dọa, tống tiền, bả sai người đi kiếm ông Mười Bi. Hễ nghe có hơi ổng về là tụi côn đồ tản đi hết, không dám hó hé"- bà Mảnh bắt đầu khơi được dòng nhớ.
Ngồi bên cạnh, cô Lê Hồng Quân tiếp lời bà Mảnh: "Mợ Mười nhớ hông, tháng đầu tiên con góp 200 đồng phụ sửa chái nhà, tới tháng thứ hai cậu mợ cho con ở không lấy tiền. Cậu hay kêu con bằng "nhỏ". Một bữa đang giờ làm việc mà cậu về nhà, giăng võng đưa toòng teng. Con hỏi sao cậu hổng đi làm, cậu nói: Tao nghỉ việc rồi. Tao mới đánh thằng cai thầu văng xuống sông Sài Gòn. Ai biểu nó dựa hơi Mỹ mà ăn hiếp người Việt mình chớ".
Nghe tới đó, bà Mảnh bổ sung: "Cái vụ này thì mợ nhớ. Hồi đó ổng đã nhắc nhở thằng cai đó ba lần. Ổng nói với nó: "Anh em có làm sai thì ông hướng dẫn. Cớ sao vì nịnh mấy thằng Mỹ mà nay ông đuổi người này, mai tống cổ người kia". Ổng đã nói vậy mà nó vẫn chứng nào tật đó nên ổng mới ra tay. Ổng đánh một cái răng nó gãy cắm vô tay ổng, cái thẹo còn để lại trên mu bàn tay cho tới sau này. Ổng đá thêm cái nữa, nó văng luôn xuống sông. Đánh xong, không để tụi nó chạy đi kể tội, ổng chạy lên micro tuyên bố nghỉ việc, trả thẻ, trả quần áo rồi về thẳng một nước".
Cũng phải nói thêm rằng thời đó giang hồ vùng Khánh Hội nể ông Mười Bi bởi ông rất giỏi võ, thích giúp đỡ người sức yếu, thế cô, không chịu luồn cúi, không cát cứ lãnh địa, không tham đồng tiền. Hai bữa sau, ông Mười Bi nhận được lời mời ra quán hủ tiếu nói chuyện. Khi ông ra tới nơi thì thấy ở quán đã có mặt tên cai thầu hôm trước bị đánh và 5-6 tay anh chị bên kho 5 (thời gian đó giang hồ Sài Gòn cát cứ theo từng vùng, địa giới được tính theo mốc là những kho chứa hàng của Mỹ-PV). Vừa thấy ông Mười Bi tới, nhóm giang hồ này hết sức bất ngờ. Sau khi hỏi rõ sự tình, nhóm này quay qua nói với tên cai thầu: "Tụi tui tưởng ông kêu đi thanh toán ai chứ anh Mười là đàn anh của tụi tui. Cái gì đúng ảnh mới làm. Vụ này tui không dám can thiệp". Nghe vậy, biết không làm được gì, tên cai thầu quay ra dàn hòa. Mấy ngày sau đó, bên hãng tàu mời ông Mười Bi đi làm trở lại.
Biết được tính hảo hớn, cương trực của ông, một bữa cô nhỏ ở trọ trong nhà nhỏ to tâm sự gì đó với ông. Ông Mười nghe cô nhỏ nói mà trầm ngâm. Ông trả lời: "Nhỏ nói phải. Vụ này để cậu tính lại...".
Trở thành Việt cộng
Sau đó, ông Mười Bi cùng những cao thủ bến cảng Khánh Hội đã giới thiệu với các cai bến một số cán bộ nữ nòng cốt của nhóm xây dựng lực lượng của tiểu đoàn Lê Thị Riêng vào làm công nhật ở bến cảng. Khi công nhân quân cảng Sài Gòn bước vào cuộc đình công chiếm bến, chống sa thải tập thể thì ông Mười Bi vận động công nhân cùng làm tại Hãng RMK lên tiếng phản đối.
Căn nhà của vợ chồng ông ở số B58/6 Tôn Thất Thuyết còn là nơi giấu vũ khí. Trên miếng đất sau nhà sình lầy, rác rến dập dềnh, áp sát chuồng nuôi heo là hầm giấu vũ khí. Lần cô Hai Riêng (đồng chí Lê Thị Riêng) về nhà ông họp, bà Mảnh - vợ ông - làm một đám giỗ giả mời bà con chòm xóm đến ăn để hợp thức hóa chuyện trong nhà có đông người. Ai hỏi tới cô Hai Riêng thì bà nói là chị họ của chồng. Đợt một chiến dịch Mậu Thân xảy ra xong, ông Mười Bi tham gia đánh nhiều trận. Xong đợt hai Mậu Thân, hai vợ chồng ông bị bắt. "Tui với ổng bị nhốt chung một xe. Lên xe không ai dám hó hé câu gì. Tui với ổng chỉ đạp đạp chân nhau, ý chừng dặn nhau nhất định dù thế nào cũng không khai báo"- bà Mảnh kể.
Nhắc tới đòn roi tra tấn của giặc, bà ôm đầu, nhăn mặt: "Thôi thì khỏi nói. Vô tới nha cảnh sát là 12 giờ đêm, nó đánh ổng dữ lắm. Vừa thấy mặt tui, tay cảnh sát đã nói: Bà này không vừa đâu. Bả là đầu nậu chợ Xóm Chiếu, vợ thằng Mười Bi. Ở trong này không có thì đánh cho có, có thì đánh cho chừa. Bà liệu mà khai!". Suốt gần một năm trời, cách ít lâu tụi nó lại lôi tui ra tra khảo, hỏi đi hỏi lại một câu hỏi: Bà Võ Thị Chi là Việt cộng. Còn Lê Hồng Quân có phải là con của bà Chi không? Lần nào cũng vậy, tui cứ một kiểu trả lời: Chồng tui làm cho hãng Mỹ, tui buôn bán nuôi con, nuôi mẹ chồng. Hai bên nhà tui là nhà mấy ông cảnh sát, gần nhà là bót Trần Văn Cát. Nếu tui biết bà Chi là Việt cộng, mắc gì tui không đi báo để lãnh thưởng chớ. Hỏi riết không được, tụi nó giải tui lên trại giam trên Thủ Đức nhốt thêm một năm nữa mới thả cho về". Tổng cộng, bà ở tù hai năm với một lý do hết sức mơ hồ nhưng phổ biến lúc bấy giờ: đối tượng hồ nghi.
Chuyến này ngồi xe đò một mình từ Gò Công lên Sài Gòn thăm cô Hồng Quân, bà Mảnh khoe bà đã được tặng Huy chương Kháng chiến chống Mỹ hạng nhất. Chỉ có ông Mười Bi là ra đi khi chưa có được sự công nhận nào. Đòn thù tra tấn năm đó khiến ông Mười Bi từ một hảo hán vạm vỡ khỏe mạnh, giọng nói oang oang, trở thành một người nhiều bệnh tật. Ông nằm liệt 6-7 năm trời rồi mất, khi tiểu đoàn Lê Thị Riêng còn chưa được công nhận chính thức về sự hoạt động của mình.
Sau ngày Sài Gòn giải phóng, một hôm có xe quân sự đến tận nhà rước vợ chồng ông Mười Bi đi. Hàng xóm không ngớt xôn xao, đoán già đoán non: chắc ông Mười hồi trước làm cho hãng Mỹ, giờ bị cách mạng bắt đi rồi. Thì ra đó là xe do cô Lê Hồng Quân nhờ người anh họ làm trong quân đội đến chở cậu mợ Mười lên gặp mặt. Bà Mảnh móm mém: "Tới chừng đó hàng xóm mới biết tụi tui làm cách mạng. Trước đó có lần thằng con rể của tui kêu tui dẫn nó đi xem Việt cộng. Tui nói với nó: kiếm đâu cho cực vậy con. Tao với ba mày là Việt cộng nè".
MAI HƯƠNG
Kỳ 3: Cuộc diễn thuyết giữa chợ Bến Thành

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét