Thứ Ba, 19 tháng 6, 2012

LỊCH SỬ BÁO CHÍ CÁCH MẠNG VIỆT NAM, phần 1


PGS.TS. ĐÀO DUY QUÁT
GS.TS.ĐỖ QUANG HƯNG – PGS.TS.VŨ DUY THÔNG
(CHỦ BIÊN)

  

TỔNG QUAN
LỊCH SỬ BÁO CHÍ CÁCH MẠNG
VIỆT NAM
(1925 – 2010)



NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
Hà Nội - 2010
 Hội đồng biên tập - xuất bản

TS. NGUYỄN DUY HÙNG
Chủ tịch Hội đồng
PSG, TS. LÊ VĂN YÊN
Phó Chủ tịch Hội đồng
PGS, TS. ĐÀO DUY QUÁT
Uỷ viên
ThS. VŨ HỒNG THẤM
Thư ký
NGUYỄN VĂN CHUNG
Uỷ viên
  
Chủ biên
PGS, TS. ĐÀO DUY QUÁT
GS, TS. ĐỖ QUANG HƯNG
PGS, TS. VŨ DUY THÔNG
  Các thành viên tham gia
Nhà báo HỮU THỌ
Nhà báo PHAN QUANG
GS, TS. TẠ NGỌC TẤN
TS. ĐINH THẾ HUYNH
GS. HÀ MINH ĐỨC
Nhà nghiên cứu NGUYỄN THÀNH
Nhà báo ĐỖ KHẮC LIÊM
TS. NGÔ VĂN THẠO
TS. HỒ VĂN CHIỂU
TS. NGUYỄN THẾ KỶ
ThS. TRẦN THỊ HIỀN
Nhà báo ĐOÀN VĂN BÁU

                                                    LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Lịch sử của báo chí Việt Nam gắn liền với lịch sử cận hiện đại của dân tộc với bức tranh nhiều màu sắc của một dân tộc yêu nước, giàu truyền thống, bị áp bức, đói nghèo, trong đó lột tả cuộc đấu tranh giữa một nền báo chí thực dân và nô dịch với một nền báo chí yêu nước và cách mạng.
Báo chí cách mạng Việt Nam ra đời với dấu mốc là tờ Thanh niên ra mắt cách nay vừa tròn 85 năm. Người sáng lập tờ báo này là nhà báo vô sản Hồ Chí Minh.
Nhiệm vụ của báo chí cách mạng từ khi ra đời được cắt nghĩa đơn giản mà lớn lao: tuyên truyền để giai cấp biết mục đích (Án Nghị quyết ngay sau khi thành lập Đảng). Từ tuyên truyền để giai cấp biết mục đích, gắn với tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, rồi đấu tranh không khoan nhượng bảo vệ lý tưởng cộng sản. Chặng đường mà báo chí cách mạng đi qua gắn với những mốc son sáng chói của lịch sử cách mạng dân tộc: từ khi vận động thành lập Đảng, tới huấn luyện cán bộ, chuẩn bị cơ sở lý luận, chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3-2-1930, cổ vũ nhân dân làm nên cao trào cách mạng 1930 - 1931, phong trào vận động dân chủ 1936 - 1939, tiến tới Tổng khởi nghĩa giành chính quyền Tháng Tám năm 1945, tiếp đó là vũ khí đấu tranh sắc bén trên mặt trận chính trị - tư tưởng, cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đi vào các cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, thu giang sơn về một mối, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, tiếp tục thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tất cả vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Số lượng, hình thức báo chí trải qua gần một thế kỷ cũng thay đổi vượt bậc. Từ chỗ số lượng tờ báo ít ỏi với hình thức in thô sơ, nghèo nàn nay số lượng báo chí đã tăng lên rất nhiều với đủ mọi loại hình: báo viết, báo hình, báo mạng với hình thức phong phú, sinh động, khả năng cập nhật cao. Đội ngũ nhà báo ngày càng đông đảo, yêu nước, đam mê nghề nghiệp, dũng cảm và tài năng.
Đảng, Bác Hồ và nhân dân luôn theo sát bước tiến của báo chí. Những lời căn dặn của Bác đối với báo chí luôn là cẩm nang đối với mỗi tờ báo, mỗi nhà báo: ''Cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của họ'', ''ngòi bút của các bạn cũng là những vũ khí sắc bén trong sự nghiệp phò chính trừ tà'', ''cho nên phải có tính chất quần chúng''. “Một tờ báo không được đại đa số dân chúng ham chuộng, thì không xứng đáng là một tờ báo'', và “không riêng gì viết sách viết báo, mà công tác gì muốn làm tốt đều phải coi trọng ý kiến của nhân dân''.
Nhân kỷ niệm 85 năm Ngày báo chí cách mạng Việt Nam, để ghi nhận chặng đường lịch sử sáng ngời của báo chí cách mạng nước nhà và như một món quà ca ngợi, biết ơn tới công lao đóng góp to lớn của nhiều thế hệ các nhà báo Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản cuốn sách Tổng quan lịch sử báo chí cách mạng Việt Nam (1925 - 2010) của tập thể các nhà báo, nhà nghiên cứu do PGS,TS. Đào Duy Quát, GS,TS. Đỗ Quang Hưng, PGS,TS. Vũ Duy Thông chủ biên.
Đây là một công trình nghiên cứu nhiều năm, công phu và nghiêm túc. Tuy nhiên, so với tầm cỡ của một vấn đề lớn, trải dài trong một giai đoạn có nhiều biến động lịch sử thì công trình này mới dừng ở mức độ khái lược. Rất mong nhận được sự đón đọc và góp ý của đông đảo độc giả.

                                                                   Tháng 6 năm 2010
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA

                                                                 

                                                                       CHƯƠNG I
BÁO CHÍ CÁCH MẠNG VIỆT NAM THỜI KỲ 1925 – 1945
I- BÁO CHÍ CÁCH MẠNG VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1925 - 1930
l. Tình hình chính trị - xã hội Việt Nam những năm 20 của thế kỷ XX
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, đế quốc Pháp tuy là nước thắng trận, nhưng phải chịu những hậu quả nặng nề. Khủng hoảng kinh tế kéo dài và ngày càng trầm trọng, đồng phrăng bị phá giá, lạm phát tăng, bồi thường chiến tranh của Đức không bù đắp được bao nhiêu.
Trước tình hình đó, thực dân Pháp chủ trương tiến hành bóc lột thuộc địa tàn bạo hơn để giải quyết những khó khăn của chính quốc. Đông Dương là trọng điểm khai thác của đế quốc Pháp, vì đây là nơi ''nhìn về các phương diện là quan trọng nhất, phát triển nhất và thịnh vượng nhất trong các thuộc địa của chúng ta''1.
Để đáp ứng được đòi hỏi của việc khai thác tài nguyên nước ta, thực dân Pháp đã tiến hành xây dựng hệ thống đường sắt, mở thêm đường bộ, xây dựng hải cảng và một số công trình thủy lợi. Cùng với việc độc quyền bán hàng vào Đông Dương với giá cao, chuyển nguyên liệu từ Đông Dương ra ngoài với giá khai thác, vận chuyển rẻ mạt, chúng còn thiết lập một hàng rào quan thuế.
Về chính trị, đi đôi với những chính sách kinh tế mới, chủ nghĩa đế quốc Pháp cũng đề ra những chủ trương mới. Đây là thời kỳ tiếp tục củng cố hệ thống cai trị thông qua những tổ chức mới mang tính chất mị dân. Chúng lập các hội đồng hàng tỉnh; đổi tên các uỷ ban tư vấn - hội đồng tư vấn thành các viện dân biểu (Bắc Kỳ và Trung Kỳ), hội đồng thuộc địa (Nam Kỳ, còn gọi là Hội đồng quản hạt), dưới hình thức ra đời do ''bầu cử thay thế cho chỉ định'', mang màu sắc dân chủ giả hiệu và xem đây là một sự đổi mới, tiến bộ.
A.Varen, nguyên là đảng viên Đảng Xã hội Pháp vừa bị khai trừ, được cử sang Đông Dương về danh nghĩa là thay Méclanh (viên Toàn quyền bị nhà yêu nước Phạm Hồng Thái định diệt ở Quảng Châu năm 1924), thực tế là thay Môngghiô, để thực thi chính sách mới vừa tàn bạo, vừa thâm độc, mị dân. Chúng ra sức ngăn chặn, kiểm soát gắt gao mọi sự liên lạc giữa những người yêu nước, giữa các tổ chức cách mạng Việt Nam với người Pháp, Trung Quốc, Liên Xô và Quốc tế Cộng sản.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, nay do chính sách mở rộng khai thác thuộc địa mà tăng lên nhanh chóng về số lượng, tập trung đông ở các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền (chủ yếu là đồn điền trồng cây công nghiệp). Đội ngũ công nhân kỹ thuật cũng tăng lên về số lượng, được bồi dưỡng để nâng cao tay nghề, nhằm đáp ứng yêu cầu kinh doanh mới. Những người lao động làm thuê các nghề tự do đông hơn lên, trong đó, có những người nghèo khổ ở thành thị, một phần khác là nông dân vào những ngày, tháng không có thời vụ bận rộn, và những người phải cầm bán ruộng đất, bỏ quê hương ra thành thị kiếm sống.
Đáng chú ý là sự xâm nhập của tư tưởng xã hội chủ nghĩa khoa học vào công nhân, bắt đầu là các tổ chức cách mạng tiền thân của Đảng Cộng sản - các hội viên Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đi ''vô sản hóa'' và việc phổ biến các sách báo cách mạng theo quan điểm mácxít - lêninnít vào những người công nhân tiên tiến, hướng đến những cuộc đấu tranh mang tính chất chính trị ngày càng rõ nét hơn. Ý thức dân tộc quyện với ý thức giai cấp trong công nhân làm cho phong trào đi vào quỹ đạo của cách mạng vô sản, kết hợp giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp.
Báo Le Paria, tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp của Nguyễn Ái Quốc, báo L’Humanité của Đảng Cộng sản Pháp, La Vie Ouvrière của Tổng Liên đoàn Lao động Pháp, cùng với các sách kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin và các tác phẩm lý luận, chính trị, văn học viết theo quan điểm mácxít từ Pháp, Trung Quốc đưa vào nước ta, như một luồng gió mới, lành mạnh thổi vào đời sống sinh hoạt văn hóa, tinh thần của Đông Dương thuộc địa.
Song song với trào lưu cách mạng vô sản là khuynh hướng chính trị tư sản, tiếp thu và truyền bá tư tưởng dân chủ, tiến bộ, nhân văn của cách mạng Pháp 1789 vào hoàn cảnh của nước Việt Nam thuộc địa đang đòi hỏi độc lập, dân chủ, văn minh, bình đẳng với nước Pháp và các nước khác.
Lý luận cách mạng tư sản dân chủ của Tôn Trung Sơn và hình ảnh của Trung Hoa Quốc dân Đảng đã hấp dẫn một số trí thức Việt Nam. Họ tuyên truyền cho chủ nghĩa Tam dân, xem đó là đường lối giải phóng dân tộc, giành độc lập và xây dựng chế độ dân chủ tư sản phỏng theo mẫu của Trung Quốc, tổ chức ra Việt Nam Quốc dân Đảng, phỏng theo Trung Hoa Quốc dân Đảng.
Các khuynh hướng trên được kiểm nghiệm trong vận động thực tiễn khắc nghiệt, vừa đấu tranh với nhau, vừa đấu tranh chống chính quyền thực dân. Mọi sự không phục tùng và chống đối chủ nghĩa thực dân đều bị đàn áp, khủng bố.
Thực dân Pháp thấy rõ nguy cơ lớn nhất, quyết định sự sống còn của chúng ở nước ta chính là lý luận về con đường cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc; tổ chức cách mạng đáng sợ nhất là Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên do Nguyễn Ái Quốc sáng lập ở Quảng Châu. Do vậy, tòa án của thực dân Pháp và Nam triều được lập ra ở khắp nơi để xử các hội viên Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên với những án nặng nhất: tử hình vắng mặt (Nguyễn Ái Quốc, Hồ Tùng Mậu, Trần Phú), tù, đày, quản thúc hàng loạt người yêu nước, cách mạng.
Những đặc điểm của tình hình chính trị - xã hội Việt Nam có quan hệ đến chính sách báo chí của chính quyền thực dân thi hành ở đây và tình hình báo chí xuất bản, phát hành trong những năm 20 của thế kỷ XX. Đặc biệt làm nảy sinh dòng báo chí mới: báo chí cách mạng, chống chủ nghĩa thực dân và cả hệ thống báo chí là công cụ thống trị của chúng, mở đường giải phóng cho nhân dân ta, dân tộc ta về tư tưởng và ý thức chính trị, tiến lên giải phóng dân tộc và xã hội.
2. Chính sách báo chí của chính quyền thực dân thực hiện ở Việt Nam trong những năm 20 của thế kỷ XX
Đã có trên 100 văn bản của chính quyền thực dân quy định về xuất bản, in, phát hành và lưu hành báo chí ở Đông Dương, từ đạo luật, sắc lệnh quy định ở nước Pháp, được ban hành và có hiệu lực ở thuộc địa, đến những nghị định của Toàn quyền Đông Dương ban hành riêng cho Đông Dương; rồi đến những quyết định của các viên quan đầu xứ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ).
Dưới đây là những đạo luật, sắc lệnh và nghị định đáng chú ý:
1- Sắc lệnh ký ngày 25-5-1881 của Tổng thống Pháp G. Grêvilơ quy định quốc tịch của người Việt Nam ở Nam Kỳ được hưởng mọi quyền công dân như người Pháp trên đất Pháp.
2- Luật về tự do báo chí của Quốc hội Pháp thông qua ngày 29-9-1881, được ban hành ở Nam Kỳ theo Nghị định của Toàn quyền Đông Dương ngày 12-9-1881.
Đây là kết quả của cuộc đấu tranh cho tự do, dân chủ của nhân dân Pháp từ cách mạng Pháp năm 1789, trong đó có tự do báo chí. Đứng về thời điểm lịch sử, khi luật được thông qua cũng là lúc nước Pháp tư bản chủ nghĩa bắt đầu chuyển sang thời kỳ đế quốc chủ nghĩa, nhưng phái tả trong Thượng nghị viện mạnh, chiếm đa số, áp đảo phái hữu, nên có những tiến bộ nhất định, đồng thời có những hạn chế. Sau đây là một số điểm quan trọng có quan hệ đến Nam Kỳ không phải chỉ trong những năm 20 của thế kỷ XX, mà cả những năm sau, đến việc xuất bản báo chí công khai, hợp pháp cho báo chí cách mạng trong thời kỳ vận động dân chủ (1936 - 1939).
''Điều 1: Việc ấn loát và mở hiệu sách đều được tự do''.
“Điều 5: Mọi báo chí và xuất bản phẩm định kỳ đều không cần xin phép trước và không phải nộp tiền ký quỹ, sau khi đã khai theo những quy định trong Điều 7''.
''Điều 6: Mọi báo chí và xuất bản phẩm định kỳ đều có một người quản lý. Người quản lý phải là người Pháp2, thành niên, được hưởng quyền công dân và từ trước đến nay chưa hề bị tòa án xử mất quyền công dân''.
''Điều 7: Trước khi phát hành các báo chí hay xuất bản phẩm định kỳ, phải làm bản khai ở Cục Biện lý về những điểm sau đây:
l) Tên của tờ báo hay xuất bản phẩm định kỳ và phương thức phát hành;
2) Tên và địa chỉ của người quản lý;
3) Nơi in báo;
Tất cả những sự thay đổi trong các điểm trên đây buộc phải khai báo trước 5 ngày''.
“Điều 10: Khi phát hành mỗi tờ báo hay ấn phẩm định kỳ, phải nộp 2 bản có chữ ký của người quản lý ở Cục Biện lý hay ở Tòa Đốc lý các thành phố, nơi không có tòa án đệ nhị cấp''.
Đáng lẽ từ sau ngày 12-9-1881, báo chí ở Nam Kỳ bất kể xuất bản bằng ngôn ngữ nào phải được tự do hoạt động theo Luật Báo chí trên của Quốc hội Pháp. Nhưng đế quốc Pháp đã tùy tiện không chịu thi hành, bác bỏ hiệu lực pháp lý của nó, buộc mọi tờ báo tiếng Việt đều phải làm đơn xin phép, chỉ khi nào được Toàn quyền chuẩn y mới được ra báo. Trong quá trình biên tập, báo chí tiếng Việt phải chịu sự kiểm duyệt, cắt bỏ những câu, những đoạn cho đến xóa bỏ cả một bài mà xét ra không có lợi cho sự thống trị thực dân.
Sở dĩ có tình hình và chủ trương này là vì tờ Phan Yên báo xuất bản tháng 12-1898 đăng hàng loạt bài có liên quan đến tình hình chính trị ở Đông Dương. Có những bài có ý chống lại sự có mặt của thực dân Pháp, đăng những dư luận phản ánh phần nào tinh thần yêu nước của người Việt Nam.
Để đối phó với thực trạng đang đặt ra trước mắt ấy và để phòng xa, Bộ Thuộc địa Pháp cho ra đời Sắc lệnh ngày 30-12-1898, và được ban hành ở Đông Dương vào ngày 30-l-1899.
Như vậy là Luật tự do báo chí ngày 29-7-1881 không được áp dụng ở các xứ thuộc địa như Bắc Kỳ, Trung Kỳ (và cả Lào, Campuchia) mà cũng bãi bỏ luôn việc thực hiện ở cả Nam Kỳ.
Sắc lệnh này là căn cứ chủ yếu cho đế quốc Pháp thực hiện chính sách đối với báo chí ở Đông Dương mãi về sau, mở rộng quyền hạn cho Toàn quyền Đông Dương tùy tiện ngăn cấm và cản trở lưu hành báo chí tiến bộ, có nội dung công kích các việc làm xấu xa, vô nhân đạo của bọn cầm quyền. Người nào vi phạm các điều khoản ấy sẽ bị truy tố trước tòa án tiểu hành. Đồng thời, chúng dùng các hội làm đoàn thể để tập hợp, tranh thủ các nhà báo. Nghiệp đoàn báo chí Nam Kỳ (Syndicat de la Presse Cochinchinoise) ra đời và họp Đại hội ngày 6-9-1917 vẫn được duy trì hoạt động.
Để hỗ trợ cho Varen, Chính phủ Pháp ban hành Sắc lệnh báo chí ngày 4-10-1927 do Tổng thống G. Đumécgơ ký, thi hành ở các xứ thuộc địa và bảo hộ. Toàn quyền Đông Dương ký Nghị định ban hành ở Đông Dương ngày 10-12-1927.
Ngay sau khi công báo nước Cộng hòa Pháp đăng Sắc lệnh này, Hội Nhân quyền Pháp gửi thư đến Bộ trưởng Thuộc địa L.Périê phản đối, đề ngày 14-10-1927. Nhưng bọn thực dân bất chấp, vẫn tiến hành như những điều chúng đã công bố, mặc cho báo chí và các tổ chức lên án, phê phán.
3. Bức tranh báo chí Việt Nam trong những năm 20 của thế kỷ XX
a) Báo chí xuất bản công khai, hợp pháp
Theo thống kê của Pháp, đầu năm 1922, cả Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ có 86 tờ báo, trong đó có 19 tờ chữ quốc ngữ và 67 tờ chữ Pháp (phần lớn bao gồm công báo các loại, tạp chí, chuyên san của cơ quan hành chính và kinh tế Pháp; có một vài tờ báo là của trí thức và tư sản Pháp đứng về phía chính quyền thực dân).
Đến cuối năm 1929, cả ba xứ Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ có 153 tờ báo, trong đó 47 tờ chữ quốc ngữ và 100 tờ chữ Pháp. Đáng chú ý là tính chất và cơ cấu các loại đã có những thay đổi về xu hướng chính trị. Báo chữ quốc ngữ đã xuất bản những tờ công khai chỉ trích, phê phán chính quyền và những tên quan lại tham nhũng, xấu xa, như Đông Pháp thời báo, Pháp Việt nhứt gia, Tân thế kỷ, Tiếng dân, Hữu thanh, Khai hóa nhật báo, Đông Tây tuần báo v.v.. Chữ Pháp do người Việt chủ trương, có La cloche fêlée, L. Annam, Le Nha que, Le Jenne Annam; chữ Pháp do người Pháp tiến bộ, nhân đạo chủ trương như L. Indochine, sau là L' Indochine enchainée của A. Manrô và P. Mônanh (1925 - 1926) v.v..
Có những tên thực dân không biết tiếng Việt, hay chỉ biết  bập bẹ vài câu, lại là sáng lập viên, giám đốc hay chủ nhiệm những tờ báo xuất bản bằng tiếng Việt. Vì người Pháp đứng tên xin phép ra báo chữ Việt thì dễ hơn là người Việt xin phép, ''chỉ việc cho mượn tên mình, người Pháp kia nhận được hằng tháng một số tiền rất hậu mà người ký giả bản xứ phải trả cho ông lâu dài, báo còn ra là còn phải trả''3.
L. Annam (La cloche fêlée đổi tên từ ngày 6-5-1926) đăng nhiều bài trích in lại của Le Paria, L' Humanité, một số nghị định của Quốc tế Cộng sản về vấn đề thuộc địa, chứng tỏ rằng xu hướng cộng sản sử dụng báo chí công khai để xâm nhập đời sống tinh thần của Việt Nam ngày càng tăng. Tiếng nói của những người yêu nước, chống chủ nghĩa thực dân và bọn vua, quan làm tay sai cho Pháp ngày càng có thế trên hệ thống báo chí, xuất bản công khai, hợp pháp.
b) Báo chí cách mạng
Từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, tư tưởng lý luận cách mạng vô sản được truyền bá vào Việt Nam qua báo Le Paria của Hội Liên hiệp thuộc địa, L' Humanité của Đảng Cộng sản Pháp, Inprekorr của Quốc tế Cộng sản. Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc, phái viên của Quốc tế Cộng sản và là Uỷ viên Bộ Phương Đông của Quốc tế được cử đến Hoa Nam để trực tiếp chỉ đạo cách mạng Việt Nam và một số nước Đông Nam Á.
Cùng với việc mở lớp, kết nạp đoàn viên mới, Người chủ trương xuất bản báo Thanh niên, ra số 1, ngày 21-6-1925. Đây là một phương thức hoạt động hoàn toàn mới lạ: vừa tổ chức, huấn luyện, vừa ra báo. Những đoàn viên thanh niên cộng sản chỉ biết đến hình thức tuyên truyền miệng, kết nạp đoàn, chưa từng nghĩ đến xuất bản, viết và in báo.
Về danh nghĩa, lúc đầu báo không công bố là cơ quan ngôn luận của tổ chức nào, thực tế là của Thanh niên cộng sản đoàn. Về sau, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (thường gọi là Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội) ra đời, báo Thanh liêm được gọi là cơ quan của Tổng bộ Hội Thanh niên xuất bản cho đến cuối năm 1929, khi Hội kết thúc vai trò lịch sử của mình.
Sau báo Thanh niên, Nguyễn Ái Quốc lập ra báo Kông Nông để tuyên truyền, giáo dục lòng yêu nước cho công nhân và nông dân theo quan điểm của chủ nghĩa xã hội khoa học (1926); báo Lính Kách mệnh (1927) để vận động, giác ngộ binh lính người Việt trong quân đội Pháp không chịu làm công cụ cho kẻ thù đàn áp đồng bào, liên minh với công nông làm cách mạng.
Tháng 4-1927, Tưởng Giới Thạch cầm đầu cuộc chính biến, làm cho tình hình chính trị Trung Quốc thay đổi xấu đi. Những người cách mạng Việt Nam hoạt động ở Quảng Châu chuyển vào hoạt động bí mật, Nguyễn Ái Quốc đi Thượng Hải rồi đi Liên Xô. Báo Thanh niên vẫn tiếp tục xuất bản, nhưng báo Kông Nông Lính Kách mệnh ngừng xuất bản.
Ngày 1-10-1929, báo Búa liềm, cơ quan ngôn luận trung ương của Đảng Cộng sản Đông Dương ra số l, do Trịnh Đình Cửu, Uỷ viên Trung ương lâm thời phụ trách. Báo in bằng giấy sáp, chữ viết tay, mỗi số 50 bản. Số cuối cùng, số 9, ngày 5-2-1930.
Cùng với báo của trung ương, một hệ thống báo chí của Đảng Cộng sản Đông Dương, từ các tỉnh đảng bộ, công hội, học sinh hội, đến một số chi bộ ra đời trên cả nước.
Báo của Đảng viết theo Tuyên ngôn được thông qua trong ngày thành lập, dựa theo Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Đại hội lần thứ VI Quốc tế Cộng sản năm 1928.
Tháng 8-1929, Đảng Cộng sản An Nam thành lập, có tổ chức cơ sở ở Nam Bộ và một số chi bộ ở Hoa Nam.
Chi bộ Đảng Cộng sản An Nam ở Thượng Hải ra báo Đỏ, cũng viết tay trên giấy sáp.
Theo tài liệu chưa đầy đủ, kể từ tờ Thanh niên mở đường đến cuối năm 1929, có trên 50 tờ báo và tạp chí của Hội Thanh niên, Đảng Cộng sản Đông Dương và Đảng Cộng sản An Nam. Có tờ ra được khoảng 200 số (chưa có con số xác định) như Thanh niên; có tờ ra được vài chục số, thậm chí một vài số. Đây là những di sản quý của báo chí cách mạng Việt Nam buổi đầu, và của báo chí Việt Nam nói chung.
c) Một số tờ báo cách mạng tiêu biểu
- Thanh niên - tờ báo cách mạng đầu tiên:
Măng sét báo Thanh niên in trên đầu trang l, chạy ngay từ trái sang phải vẽ ngôi sao năm cánh, bên trong ngôi sao viết số báo, rồi đến hai chữ Thanh niên - chữ Hán, và Thanh niên - chữ Việt. Hàng dưới, về bên phải có ngày ra của số ấy. Tất cả những chữ trên đều đặt trong khung kẻ trang trọng4.
Toàn bộ các trang báo được viết trên giấy sáp, bằng bút thép nhọn. Các số phần nhiều là 2 trang, có số 4, 5 trang. Mỗi trang thường chia làm 2 cột, mỗi dòng trong một cột là 8 - 9 chữ viết to, dễ đọc. Cỡ trung bình của tờ báo là 18x24cm. Một số đầu bài được viết bằng chữ Hán, như ''Phụ nữ thời đàm'', ''Tân Văn'', v.v..
Báo in xong phần lớn được gửi về trong nước theo đường dây bí mật. Một số được gửi đến các tổ chức của Hội ở Thái Lan, Trung Quốc, người Việt yêu nước ở Pháp và đến Quốc tế Cộng sản. Các bài viết dùng từ An nam (chưa dùng từ Việt Nam). Những chữ d, c, ph, ngh... được thay bằng z, k, f, ng...
Bản in có số lượng ít, đôi khi bị mất trên đường chuyển về nước, nên ít cơ sở nhận được báo đều đặn, đầy đủ. Nhiều nơi đã tổ chức chép tay thành nhiều bản để truyền nhau đọc. Thậm chí có nơi, đã là hội viên 3 năm mà chưa được đọc một tờ báo Thanh niên nào5.
Cơ quan mật thám của Pháp để nhiều công sức theo dõi, truy tìm các đường dây chuyển báo, đánh vào các cơ sở của Hội, ngầm đưa tay sai vào nội bộ Hội để bí mật ăn cắp báo, tổ chức dịch ra chữ Pháp để nghiên cứu, đối phó. Trong kho lưu trữ của Pháp hiện ở Aixăng Prôvăngxơ, có bộ sưu tập khá đầy đủ báo Thanh niên, được dịch ra chữ Pháp toàn văn những bài quan trọng, còn những bài khác chỉ tóm tắt nội dung chính yếu.
Những tổ chức, đảng phái khác, những người biên tập và quản lý các tờ báo xuất bản công khai trong nước, không được nhìn thấy báo Thanh niên xuất bản bí mật, nhiều lắm chỉ nghe tên báo qua câu chuyện nhỏ to với nhau.
Thấy ảnh hưởng của báo Thanh niên ngày càng lớn, đã có người tự nhận là cơ quan, chi nhánh của đảng mình. Báo Le Paria xuất bản ở Pari, số 38, tháng 4-1926, đưa tin: ''Ở Quảng Châu, từ tháng 7 năm vừa qua đã xuất bản bằng chữ Việt và chữ Hán, mỗi tuần 2 kỳ, báo Thanh niên, cơ quan của chi nhánh châu Á Đảng Việt Nam độc lập''.
Trần Văn Chỉ, một sinh viên Việt Nam viết trên báo Le Drapeau rouge, xuất bản ở Pari, ngày 18-2-1927: ''Đảng Việt Nam độc lập có 2 tờ báo, một ở Pari là L' Ame annamite và một ở Trung Quốc là Thanh niên của Nguyễn Ái Quốc''.
Việc nhận báo Thanh niên là cơ quan của đảng mình, nhằm mục đích gây uy tín cho đảng của họ, một đảng tập hợp nhiều khuynh hướng chính trị phức tạp, không có ảnh hưởng trong người Việt ở Pháp bao nhiêu và đa phần đang bế tắc, đứng bên bờ vực tan rã.
Báo Thanh niên có hai thời kỳ phát triển: thời kỳ thứ nhất, từ số l đến số 88, do Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chỉ đạo biên tập, in, phát hành. Tháng 4-1927, Nguyễn Ái Quốc chuyển vào hoạt động bí mật, rời Quảng Châu, báo Thanh niên bắt đầu thời kỳ thứ hai, do Tổng bộ Hội Thanh niên chỉ đạo. Trong thực tiễn vận động của phong trào yêu nước và phong trào công nhân có những vấn đề mới nảy sinh, phản ánh vào nhận thức của những người lãnh đạo các cấp bộ Hội, kể cả Tổng bộ. Đến cuối năm 1929, báo Thanh niên ngừng xuất bản6.
Thời kỳ thứ nhất, trong 88 số đầu, báo Thanh niên đề cập đến các vấn đề sau:
a) Mâu thuẫn giữa dân tộc ta với chủ nghĩa đế quốc Pháp; giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc nói chung
Đúng ra thì báo phải mang tính thời sự, đưa lại những nguồn thông tin mới nhất, nhưng trong điều kiện báo Thanh niên xuất bản bí mật ở nước ngoài không đáp ứng được yêu cầu ấy. Tuy vậy, những câu chuyện có tính quy luật đó vẫn mang ''tính thời sự''.
Sau đây là mấy ví dụ:
Bài ''Cấm đi ra ngoài''7 viết: Pháp cướp nước mình, cốt là rút của mình. Nó coi dân mình như là người ta nuôi gà, nuôi lợn vậy. Người ta nuôi gà, nuôi lợn là cất để lấy trứng và thịt. Nếu để cho gà cùng lợn chạy mất con nào, thì lỗ vốn con ấy, nên phải nhốt cho kỹ, không cho nó chạy ra ngoài.
Một bức tranh tố cáo cũng có giá trị như một bài báo ngắn. Bức tranh vẽ Tây nói: ''trói cho thật chặt, sưu thuế, thuốc phiện, rượu cồn, bổ đầu nó ra mà lấy''.
Khơi sâu lòng căm thù chủ nghĩa thực dân rồi, thì phải kiên quyết chống lại nó, nhưng nó yếu hay nó mạnh?; đấu tranh với nó chỉ là những cuộc chiến đấu tuyệt vọng, hay là nắm chắc phần thắng nhất định thuộc về ta.
Đây là vấn đề đặt ra cần được giải đáp rõ ràng để xây dựng và củng cố lòng tin, từ đó mà động viên tinh thần và tổ chức lực lượng cho cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân để giành thắng lợi.
b) Khẳng định con đường cách mạng, chống con đường cải lương
Cho đến giữa những năm 20 của thế kỷ XX, chủ nghĩa cải lương còn là một hình thái ý thức và quan điểm chính trị có ảnh hưởng chính trị nhất định trong một bộ phận nhân dân ta, chủ yếu là tầng lớp giàu có và một số trí thức, công chức.
Toàn quyền Varen thấy đây là một cơ hội có thể lợi dụng để đánh lạc hướng những người yêu nước, ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản xâm nhập vào Việt Nam.
Nhiệm vụ của báo Thanh niên nói riêng, và những hoạt động về lý luận, tư tưởng và chính trị của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên nói chung là kiên quyết triệt để chống chủ nghĩa cải lương, khẳng định chỉ có con đường đấu tranh cách mạng mới giải phóng được dân tộc
Báo Thanh niên, số 2, ngày 28-6-1925, có bài viết: ''Cách mệnh là toàn bộ các hành động nhờ đó một dân tộc bị áp bức trở thành tự do và giàu mạnh. Lịch sử các nước dạy ta rằng, chỉ có bằng cách mệnh, người ta mới có thể có một chính phủ tốt hơn, một nền giáo dục tốt hơn''8.
Muốn lật đổ sự thống trị của kẻ thù, phải dùng bạo lực cách mạng. Sau khi vạch rõ nỗi khổ cực trăm bề của nhân dân ta, báo Thanh niên, số 63, có đoạn: ''Cái sự khổ của dân Annam đã rất mực rồi không có dân nước nào mà khổ sở như vậy''.
''Đồng bào ơi! Quyền tự do là giời cho mình, người mà không được tự do, thà rằng chết. Tỉnh dậy, tỉnh dậy, đập vỡ cái lồng nó nhốt người mình đi''.
Đồng bào ơi! Cam chịu như gà, như lợn mãi sao? Chỉ có gà, có lợn thì mới chịu người ta giam nhốt mãi, nếu là người thì thế nào cũng kiếm cách phá lồng mà ra''.
“Phá lồng'', ''đập vỡ các lồng” chính là nói dùng bạo lực cách mạng đập tan sự kìm kẹp của kẻ thù, thoát khỏi tủi nhục.
c) Lực lượng cách mạng là toàn dân, lấy công nông làm nền tảng
Ngay từ số đầu, báo Thanh niên đã có bài nhấn mạnh lực lượng cách mạng là toàn dân đoàn kết, cùng chung một ý chí. Sau này, nhiều bài nhắc đi nhắc lại quan điểm cơ bản đó. Sở dĩ phải làm rõ vấn đề này, vì vào giữa những năm 20 của thế kỷ XX, một suy nghĩ khá phổ biến là chỉ có những người tài giỏi mới làm được cách mạng, đánh đuổi được Tây, lấy lại nước cho dân, còn dân chỉ là ủng hộ, hưởng ứng theo mà thôi. Những người tài giỏi đó lại đều là những người thông minh, học giỏi, văn võ kiêm toàn, còn công - nông mù chữ thì không làm được việc ấy.
Báo Thanh niên, số 1, có bài viết: ''Để dẫn dắt nhân dân làm một sự nghiệp vĩ đại cần phải có một sức lãnh đạo. Sức lãnh đạo đó không phải của một vài người thôi, mà sinh ra từ sự hiệp lực của hàng ngàn, hàng vạn người'' và “Muốn cho hàng ngàn, hàng vạn người ấy đoàn kết chặt chẽ với nhau, thì họ phải cùng một ý chí như nhau, họ phải theo đuổi một mục đích như nhau, có vậy mới có đoàn kết''. Số 73, ngày 12-12-1926, có bài viết: ''Đương khi mất nước, bước đầu cách mạng là ai đánh đuổi đế quốc chủ nghĩa đi mà muốn cho dân tộc mình được tự do giải phóng. Lực lượng dân tộc cách mạng là ở về toàn quốc dân, nên quốc dân giác ngộ chừng nào thì lực lượng cách mạng to lớn chừng ấy”.
Báo Thanh niên khẳng định rằng: chỉ có công nông là triệt để cách mạng.
Cách mạng là nhiệm vụ chung của mọi người giác ngộ cùng làm. Mỗi người tùy tài, tùy sức, của cải riêng, mà cống hiến cho cách mạng để cứu nước, tức là tự cứu lấy bản thân mình và gia đình mình. Quan niệm chung là tập trung lực lượng thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc, đặt vấn đề giải phóng dân tộc lên trên hết. Kẻ thù của cách mạng là chủ nghĩa đế quốc Pháp, nói nôm na là ''Tây''. Đối với giai cấp phong kiến, ở đây không nhập cục làm một khối, mà có sách lược phân hóa cao độ. Người nào thuộc giai cấp địa chủ, là quan lại, sĩ phu, nhưng có tinh thần dân tộc chống đế quốc, đi với cách mạng (sau này ta gọi là địa chủ yêu nước, địa chủ kháng chiến) ''đều là đồng chí của mình'' trong cách mạng giải phóng dân tộc. Những kẻ bám lấy chủ nghĩa đế quốc làm tay sai cho đế quốc, chống lại dân tộc, thì xếp vào “loại kẻ địch''.
Đó là quan điểm dân tộc, thể hiện chính sách mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, đúng đắn, kết hợp nhuần nhuyễn tính nguyên tắc về chiến lược với nghệ thuật vận dụng khéo léo, tài tình sách lược mềm dẻo, thêm bạn bớt thù.
d) Nhận rõ con đường cách mạng, người cách mạng phải biết hy sinh vì sự nghiệp cách mạng và có phương pháp cách mạng đúng
Cách mạng Việt Nam đi qua hai thời kỳ. ''Thời kỳ thứ nhất là đánh đuổi chủ nghĩa đế quốc giải phóng dân tộc''. ''Mục tiêu của thời kỳ thứ hai là khai thác triệt để thắng lợi của cách mệnh. Vì vậy, sau khi đánh đuổi Pháp ra khỏi bờ cõi Việt Nam, chúng ta phải trừ diệt các phần tử phản cách mệnh, xây dựng các đường giao thông, phát triển thương nghiệp và công nghiệp, giáo dục nhân dân và lo cho dân được hòa bình hạnh phúc”8. Đây chính là nội dung của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là con đường lâu dài, khó khăn, một việc lớn, ''không phải một vài người làm nổi, và cũng không phải mấy ngày, mấy tháng làm ngay được”9.
Làm cách mạng phải hy sinh vì nghĩa lớn ''Làm việc cách mệnh phải biết cách mệnh là việc chung, nên lấy lòng chí công vô tư mà theo dõi các công việc, lại phải biết cách mệnh cốt nhất là sự hy sinh, hy sinh gia đình, hy sinh tính mệnh, hy sinh lợi quyền, hy sinh ý kiến''10.
Trong cuộc đấu tranh, cách mạng đòi hỏi mỗi người tham gia phải tự rèn luyện mình có đủ mọi đức tính hy sinh đó. Thái độ khách quan, khoa học của người cách mạng là lấy lợi ích cách mạng làm trọng. Mình chỉ hỏi người ấv có phải là người cách mệnh không, mà đừng nên hỏi người ấy là ai, chỉ nên hỏi việc ấy có ích về đường cách mệnh không, mà đừng hỏi việc ấy là của ai làm''11.
Xét “việc ấy có ích về đường cách mệnh không?'' làm tiêu chuẩn, nên ý kiến cá nhân không phù hợp với đường cách mạng là phải tự giác gạt bỏ.
Một công việc to, khó khăn, lâu dài, nên phải có phương pháp tốt, ''trước hết phải biết chính sách của Tây, sau phải biết bí mật mà sắp đặt những công việc mình''12. Việc gì làm trước, việc gì làm sau, theo một kế hoạch. “Cách mệnh trước hết phải tuyên truyền, tổ chức, huấn luyện, sau cùng mới dùng đến vũ lực, đừng chăm chăm chỉ biết cách làm bạo động''.
đ) Cần có Đảng Cộng sản lãnh đạo cách mạng và tổ chức quần chúng cách mạng, đặc biệt là tổ chức công nhân
Ngay từ đầu, báo Thanh niên đã giáo dục chủ nghĩa yêu nước theo tinh thần cộng sản chủ nghĩa. Số 60, ngày 8-9-1926, có bài viết về các chính đảng, tác giả đặt câu hỏi: ''Chúng ta phải theo đảng nào?''. Và trả lời dứt khoát rằng: ''Hỡi đồng bào thân mến, như vậy chỉ có một con đường chân chính là phải theo cái đảng duy nhất kiên quyết trong hành động, đó là đảng cộng sản''.
Số 61, ngày 18-9-1926, có đoạn viết: Đảng cách mệnh chân chính phải bao gồm những đảng viên mẫu mực. Là đảng viên mẫu mực thì phải có đủ 12 điều kiện sau đây:
l. Ngày, đêm lo lắng đến sự nghiệp cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới;
2. Dám hy sinh tiền bạc, thì giờ, cả xương máu của mình cho lợi ích của nhân dân bị áp bức, đặt lợi ích của Tổ quốc lên trên hết;
3. Làm việc say sưa, mỗi người tùy tài, tùy sức mà cống hiến để đưa cách mạng tiến lên;
4. Biết rằng cách mạng là một cuộc chiến đấu lâu dài, quyết liệt của vô sản chống những kẻ áp bức, cho nên người đảng viên không sợ hy sinh, gian khổ;
5. Người đảng viên trong mỗi lời nói và việc làm đều có ý thức, suy tính, cân nhắc để lãnh đạo cuộc đấu tranh của quần chúng thu được kết quả tốt;
6. Làm việc gì cũng phải có kế hoạch và chuẩn bị chu đáo để bảo đảm thành công, tránh thất bại bất ngờ;
7. Phải giác ngộ nhân dân, làm cho nhân dân tin tưởng Đảng. Đảng viên cần tổ chức, đưa nhân dân vào cuộc đấu tranh cách mệnh;
8. Tổ chức các đoàn thể quần chúng cách mệnh lớn mạnh là điều kiện bảo đảm cho cách mệnh mau đi tới thắng lợi.
9. Không ham muốn quyền hành, địa vị, tiền tài, vì những thứ đó làm cho đảng viên không trung thành với cách mệnh có thể dẫn tới phản bội cách mệnh;
10. Không kiêu căng, tự mãn. Phải nhận rõ làm cách mệnh là để phục vụ nhân dân, chứ không phải để đề cao cá nhân mình;
11. Phải khiêm tốn, hòa nhã, lo lắng cho quần chúng; thắng không kiêu, thua không nản; không bao giờ quên nghĩ rằng cuộc đời và sự nghiệp mà mình phấn đấu là thuộc về nhân loại, không phải vì riêng mình;
12. Bền bỉ, kiên cường, dũng cảm trong đấu tranh.
Cách mạng là do quần chúng tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Vì vậy, người cộng sản phải chăm lo tổ chức quần chúng. Báo Thanh niên có nhiều bài viết về tổ chức công nhân, nông dân, phụ nữ..., giáo dục họ tự giác đấu tranh cho thắng lợi của cách mạng.
e) Nghiên cứu kinh nghiệm cách mạng các nước, khẳng định cách mạng Việt Nam đi theo con đường của cách mạng Nga thì mới giành được thắng lợi
Trên báo Thanh niên có nhiều bài dài, đăng nhiều kỳ liên tục về lịch sử châu Âu thời kỳ cận đại, nói rõ nguyên nhân, quá trình diễn biến của các cuộc cách mạng tư sản Anh, Pháp; tính chất tư bản đối lập với quần chúng nhân dân, nông dân và lao động ở các nước đó; xu thế phát triển xã hội của các nước tư bản chủ nghĩa do các cuộc cách mạng tư sản mở đầu, và quần chúng lao động vẫn phải làm một cuộc cách mạng nữa mới được giải phóng.
Từ khảo nghiệm các cuộc cách mạng tư sản, tác giả báo Thanh niên đề cao cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười năm 1917. Báo dành số đặc biệt kỷ niệm Cách mạng Nga, như số 19, ngày 8-11-1925; số 68, ngày 7-11-1926 (không kể thời kỳ thứ hai).
Báo Thanh niên còn dành nhiều bài chuyên luận về cách mạng Việt Nam đối với các thành phần phụ nữ, nông dân, sinh viên, thiếu nhi; về đảng cộng sản và phẩm chất của người cách mạng; về chủ nghĩa Lênin, chủ nghĩa bônsơvích; phong trào cách mạng ở các thuộc địa, chủ nghĩa vô chính phủ...
Về lịch sử, có nhiều bài viết về lịch sử cách mạng các nước trên thế giới; lịch sử cách mạng Nga, Trung Quốc; lịch sử các thuộc địa của Pháp; sự lớn mạnh và suy tàn của chủ nghĩa đế quốc. Báo đăng bài về sự tôn kính tiền nhân và việc Phan Bội Châu (bị bắt) (số 6, ngày 26-7-1925); một bài dài về tiểu sử Găngđi in trên 3 số liền nhau; về Luidơ Misen, Giannơ Da, Clara Xốtkin và phụ nữ các nước; kỷ niệm ngày 1-5 và Phạm Hồng Thái hy sinh; về bà Trưng Trắc.
Báo đăng Tuyên ngôn của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức; lời kêu gọi các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại!
Ngoài ra còn có mục Thư trả lời, tin tức đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa tư bản Việt Nam và trên thế giới.
Các số báo thường có tranh vẽ, thơ, ca.
Những mục trên làm cho nội dung báo phong phú, đa dạng; tập trung, chính trị mà không khô khan; lời văn giản dị, dễ hiểu, đi sát với tiếng nói của quần chúng và những thuật ngữ cách mạng được cập nhật, phổ biến rộng rãi, nâng cao trình độ hiểu biết và trình độ ngôn ngữ cho quần chúng.
Ở trang đầu mỗi số có đóng dấu đỏ ''Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên'', và một dấu mực xanh: báo không phải để bán.
Thời kỳ thứ hai, từ số 89 trở đi, tôn chỉ, mục đích và phong cách, thể loại, cách trình bày báo được kế tục, duy trì và phát triển.
Thời kỳ thứ nhất, điều kiện biên tập, in tương đối ổn định, không gặp nhiều khó khăn về cơ sở làm việc, kể cả tài chính. Thời kỳ thứ hai, do có bất lợi về tình hình chính trị Trung Quốc, báo phải chuyển vào bí mật, thường di động, phân tán, tài chính và vật liệu in có nhiều trở ngại. Những người lãnh đạo Tổng bộ tích cực khắc phục mọi khó khăn để báo không bị gián đoạn; tuy vậy số nọ và số kia có khi xê xích nhau 5 - 3 ngày. Việc liên lạc với hệ thống tổ chức Hội ở Thái Lan cũng như trong nước và quan hệ quốc tế được củng cố tốt. Qua các số báo ghi lại, cho thấy báo Tiếng dân xuất bản ở Huế, số 118, ngày 3-10-1928 được chuyển đến ban biên tập báo Thanh niên bằng đường dây nào đó; báo Thanh niên số 158, ngày 28-10-1928, có bài viết nhắc lại cuộc đình công của 400 công nhân đăng trên báo Tiếng dân này, kèm theo những vấn đề đặt ra cho báo Tiếng dân về việc tổ chức và đấu tranh của công nhân.
Báo L' Humanité của Đảng Cộng sản Pháp cũng được gửi đến Tổng bộ Hội Thanh niên; qua báo Thanh niên số 187, ngày 5-8-1929, nói về L' Humanité, ngày 12-7-1929.
Nhìn chung, báo Thanh niên do Nguyễn Ái Quốc sáng lập và chỉ đạo biên tập ở thời kỳ đầu và được những người cách mạng, học trò xuất sắc của Người kế tục ở thời kỳ sau đi đúng tôn chỉ, mục đích đã đề ra, đánh đấu một mốc lịch sử của báo chí Việt Nam, khai sáng dòng báo chí cách mạng, đưa chủ nghĩa yêu nước vào trong nhân dân Việt Nam, nhất là trong thanh niên, theo xu hướng của cách mạng vô sản. Báo Thanh niên đóng vai trò lịch sử hết sức quan trọng trong việc tuyên truyền, chuẩn bị về tư tưởng, lý luận và tổ chức cho việc ra đời các nhóm cộng sản vào cuối năm 1929 và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930.
- Báo Búa Liềm:
Báo Búa Liềm, cơ quan trung ương của Đảng Cộng sản Đông Dương xuất bản được 9 số kể từ ngày 1-10-1929, mỗi số cách nhau nửa tháng. Chúng ta biết được như thế qua những tài liệu của ta và của mật thám Pháp, chứ không giữ được đủ bộ sưu tập. Kho của Bảo tàng Cách mạng Việt Nam chỉ có 3 số bản mốc (3, 4, 5)13. Với nguồn tài liệu ít ỏi, nhưng vô cùng quý, giúp chúng ta hiểu một phần về Đảng Cộng sản Đông  Dương qua cơ quan ngôn luận trung ương của Đảng.
Ở số 3, ngày 1-11-1929, báo đề ra “Khẩu hiệu đấu tranh'' cho thợ thuyền áo xanh (công nhân công nghiệp), áo nâu (công nhân nông nghiệp), khách (công nhân là người Hoa) tổ chức nhau vào công hội theo Đảng Cộng sản đấu tranh, đòi các quyền lợi kinh tế và tổ chức công hội, tự do bãi công và tuần hành (có 5 khẩu hiệu, 4 là thuần túy kinh tế); đối với dân cày, tổ chức vào nông hội theo Đảng Cộng sản, đòi các quyền lợi kinh tế đưa ra khẩu hiệu: “công, nông, binh Đông Dương đoàn kết lại! Theo gương cách mệnh Nga, đánh đổ đế quốc chủ nghĩa''; đối với phu xe, tổ chức vào Hội Phu xe, theo Đảng Cộng sản đòi các quyền lợi kinh tế và tự do lập hội, tự do nói, tự do biểu tình, tự do bãi công; đối với binh lính khố đỏ, khố xanh, tổ chức vào binh hội, đấu tranh đòi tăng lương, chống ngược đãi, chống đi nước ngoài,... được tự do hội họp xem sách báo, liên minh với công nông; khi cách mệnh bùng nổ, phải tổ chức ra Hồng quân bảo vệ công nông; với học sinh, tổ chức học sinh hội đòi các quyền lợi học tập, chống mắng chửi, tự do xuất dương du học,...; đối với người buôn bán nhỏ, đòi xóa bỏ các thứ thuế, đối với giáo dục, thư ký sở công và tư đòi tự do lập hội nói, viết…
 - Báo Đỏ:
Trên măng sét viết những dòng đóng trong khung bên phải tên báo chữ to: ''Báo Đỏ là cơ quan của một chi bộ cộng sản, mục đích là cổ động những người cộng sản, những chi bộ cộng sản ở Annam mau mau hợp nhất lại cho thành một đảng cộng sản chính thức''.
Trong khung bên phải tên báo, có những dòng chữ: “Thành lập một đảng cộng sản chính thức, lãnh đạo quần chúng đấu tranh, phản đối khủng bố, giết, đày, giam người cách mạng, đó là trách nhiệm khẩn cấp của những người cộng sản ở Annam bây giờ''.
Báo Đỏ là cơ quan của một chi bộ Đảng Cộng sản Annam hoạt động ở Trung Quốc, gồm có Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Đỗ Ngọc Du, Nguyễn Lương Bằng... Báo viết tay trên giấy sáp. Hiện nay chưa tìm thấy số 1, ra ngày, tháng, năm nào và tất cả ra được mấy số, chưa rõ.
Bài đăng trên báo Đỏ nhan đề “Làm thế nào cho có một đảng cộng sản chính thức ở Annam” biểu thị một tinh thần chân thành, xây dựng, thẳng thắn phê bình những sự chia rẽ giữa những người cộng sản và nhóm cộng sản, kêu gọi đoàn kết lại, thành lập một đảng cộng sản chính thức vì lợi ích của cách mạng, của quần chúng14. Ý tưởng tốt đẹp này hoàn toàn thống nhất với chỉ thị của Quốc tế Cộng sản trong thư đề ngày 27-10-1929 về việc thành lập ở Đông Dương một đảng cộng sản, với chủ trương của Nguyễn Ái Quốc về hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng cộng sản - Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930.
“Annam chưa có đảng cộng sản, chẳng những quốc tế công nhận thế, mà đồng chí ta chắc ai cũng hiểu vậy. Một đảng chính thức phải có đủ hệ thống tổ chức, phải có cơ bản lực lượng của đảng và lực lượng quần chúng tổ chức. Nhưng thế cũng chưa thể gọi là một đảng chính thức được, phải trải qua một thời gian phấn đấu để đào thải hết những phần tử đầu cơ, hoạt đầu, thỏa hiệp, để luyện đảng viên cho có kiên nhẫn như sắt, để làm cho đảng có kinh nghiệm đầy đủ, lý luận và chủ trương chính đáng, không xu hướng tả mà cũng không xu hướng hữu, nói tóm lại là đảng viên phái bônsêvich hóa thì đảng mới gọi đảng bônsêvích...''.
''Hiện thời Annam từ Nam đến Bắc, từ Lào đến Miên, đâu đâu cũng đã có người cộng sản hoặc chi bộ cộng sản, có chỗ cũng đã có công hội, nông hội, tổng công hội, nông dân hiệp hội. Ngọn cờ đỏ đã rải rác phất phới trên xứ Đông Dương. Những cuộc kỷ niệm bãi công, đã thấy truyền đơn, khẩu hiệu của những đồng chí cộng sản đi đầu ra lãnh đạo quần chúng. Các nhà tù đã chất đầy những người chiến sĩ vô sản giai cấp. Đế quốc chủ nghĩa Pháp đã kinh hồn thất phách, đã biểu hiện thái độ của nó ra trên các báo chương của nó. Tụi chó săn của nó đã đi khắp từ thành thị đến thôn quê diễn thuyết, hiểu dụ về việc phản đối “tụi cộng sản phiến động'' để lừa dối dân chúng''.
Cảnh tượng nhiệt liệt ấy đã tỏ cho ta biết rõ bằng phong trào cách mạng Annam đã cuộn đến một làn sóng mới.
II. BÁO CHÍ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1930 – 1936
1. Sự phát triển của tình hình chính trị - xã hội Việt Nam từ năm 1930 đến giữa năm 1936
Cuộc khủng hoảng kinh tế lan tràn khắp thế giới từ năm 1929 đã tác động mạnh mẽ đến nước Pháp đế quốc chủ nghĩa, ảnh hưởng xấu tới xứ Đông Dương thuộc địa; đến năm 1933 mới tạm thời ổn định, thời gian dịu đi chẳng được bao lâu thì cuộc khủng hoảng mới lại bắt đầu từ năm 1935. Lần này, cuộc khủng hoảng kinh tế tuy không nghiêm trọng như lần trước, nhưng nhân dân ta vẫn thấy nghẹt thở, vì chưa lại sức bởi sự tàn phá trước thì lại phải hứng chịu luồng gió độc mới làm cho xơ xác.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930, đánh dấu một bước ngoặt có ý nghĩa lịch sử trong sự phát triển của cách mạng Việt Nam.
Nhờ có một đảng triệt để cách mạng, có đường lối chính trị và tổ chức sáng suốt, có uy tín của nhà lãnh tụ cách mạng thiên tài Nguyễn Ái Quốc, qua “Lời kêu gọi'' nhân dịp thành lập Đảng, một cao trào cách mạng của quần chúng lần đầu tiên xuất hiện ở nước ta. Hệ thống tổ chức các cấp của Đảng được xây dựng. Các đoàn thể quần chúng cách mạng do Đảng lãnh đạo như công hội, nông hội, thanh niên cộng sản đoàn, cứu tế đỏ,... đã lôi cuốn quần chúng tham gia đông đảo chưa từng có. Nhiều cuộc hội họp, rải truyền đơn, treo cờ, dán biểu ngữ, mít tinh, biểu tình, làm đơn kiến nghị đòi chính quyền, địa chủ, tư bản, giải quyết những yêu cầu cấp thiết của đời sống nhân dân về các quyền lợi kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa. Quần chúng tham gia đấu tranh, phát triển đến đỉnh cao nhất là Phong trào Xôviết ở hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh.
Khi hội nghị bàn việc thống nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam vừa kết thúc, Việt Nam Quốc dân Đảng bị động đẩy tới cuộc khởi nghĩa Yên Bái ngày 9-2-1930. Đế quốc Pháp dìm Việt Nam Quốc dân Đảng trong tàn sát và khủng bố chưa xong, lại hoảng sợ trước khí thế mãnh liệt của quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản mới ra đời. Chúng ra sức tìm mọi cách ngăn chặn và đẩy lùi phong trào cộng sản đi tới mong tiêu diệt nó. Chúng đàn áp hết sức điên cuồng, những vụ bắt người, ném bom, đốt nhà, cướp nhà, cướp của, giết người không có xét xử, diễn ra tràn lan, gấp bội so với thời kỳ đối phó với Việt Nam Quốc dân Đảng. Chúng vu cáo những người cộng sản trên báo chí, trước dư luận, mong làm cho quần chúng hiểu sai sự thật về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa và phẩm chất cao quý của người cộng sản.
Sau những đợt khủng bố của kẻ thù trong những năm 1930 - 193l, hệ thống tổ chức của Đảng bị phá nghiêm trọng. Phần lớn đảng viên bị sa lưới mật thám. Các Uỷ viên Trung ương Đảng, Xứ uỷ, tỉnh uỷ, huyện uỷ bị bắt tù, đày. Các tổ chức quần chúng cách mạng bị tan vỡ. Thực trạng tiêu điều về kinh tế kết hợp với khủng hoảng chính trị làm cho xã hội Việt Nam càng biến động phức tạp. Cách mạng bước vào thời kỳ thoái trào.
Từ năm 1932 trở đi, địch ra sức chấn chỉnh và củng cố hệ thống chính quyền và cơ sở kinh tế do tác động của cao trào cách mạng 1930 - 1931; chúng tăng cường hệ thống an ninh, nhằm vào một số trọng điểm có phong trào cách mạng để tạo khả năng chủ động và phản ứng kịp thời đối với những cuộc đấu tranh mới; ra sách, báo gieo rắc mê tín, ảo tưởng hão huyền, bi quan trong nhân dân, đặc biệt là thanh niên, v.v..
Thực dân Pháp tiến hành những vụ xử án những người cộng sản ở các tòa án tỉnh, thành khắp nơi trong cả nước, từ tử hình đến tù, đày làm cho không khí chính trị ngột ngạt, nhất là vụ xử 120 người hoạt động cộng sản ở Tòa đại hình Sài Gòn tháng 5-1933 nhằm khủng bố tinh thần nhân dân. Nhưng tinh thần dũng cảm, khí phách của những người cộng sản trước tòa án không những đã làm cho chúng đuối lý, thất bại nhục nhã mà còn gây nên lòng căm phẫn sôi nổi ở trong nước và cả ngoài nước, nhất là ở Pháp.
Đế quốc Pháp còn liên kết với bè lũ đế quốc và phản động quốc tế Anh, Trung Quốc, Thái Lan... để khủng bố những người cộng sản Việt Nam, điển hình là vụ bắt giam Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông trong những năm 193l - 1933; bắt Nguyễn Lương Bằng, Đỗ Ngọc Du... ở Thượng Hải tháng 6-1931.
Tháng 3-1935, Đại hội lần thứ I của Đảng họp ở Ma Cao. Qua thực tiễn phong trào từ năm 1930, Đảng đã khẳng định mục tiêu, đường lối chiến lược cơ bản của Đảng đề ra từ khi thành lập là đúng đắn; tình hình xây dựng Đảng, tổ chức và hoạt động của các đoàn thể quần chúng, quan hệ quốc tế của Đảng được bổ sung và cụ thể hóa bằng những kinh nghiệm phong phú. Tuy nhiên, những nghị quyết của Đại hội có những hạn chế, không sát với những biến động chính trị trong nước và quốc tế, chưa đề ra được chủ trương, biện pháp để tập hợp các lực lượng dân chủ trong phạm vi mỗi nước và trên quy mô quốc tế nhằm chống chủ nghĩa phát xít và tay sai của chúng, bảo vệ hòa bình, chống chiến tranh.
Đoàn đại biểu của Đảng ta sau khi dự Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản trở về, xem Nghị quyết Đại hội lần thứ I của Đảng có những vấn đề cần bổ sung và sửa chữa cho phù hợp với bước đi chung của phong trào cộng sản quốc tế, đề ra những nhiệm vụ mới, đáp ứng được yêu cầu của phong trào đấu tranh cách mạng trong thời kỳ mới15.
Từ năm 1933 trở đi, phong trào đấu tranh của công nhân và nông dân diễn ra ngày càng rộng rãi. Nhờ có kinh nghiệm đã tích luỹ được với sự vững vàng của cơ sở Đảng, nên một số đồng chí tham gia tranh cử vào Hội đồng thành phố Sài Gòn viết báo về những người cộng sản sống và đấu tranh ở Côn Lôn (Côn Đảo); tuyên truyền cho triết học duy vật biện chứng và mỹ học Mác - Lênin, tiến công vào tư tưởng triết học duy tâm và duy vật máy móc, cùng mỹ học tư sản...
Ngày 26-7-1936, tại một địa điểm ở nước ngoài, Trung ương Đảng họp hội nghị mở rộng, chính thức quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, đề ra sách lược mới, thành lập Mặt trận nhân dân phản đế Đông Dương, sau đó gọi là Mặt trận Dân chủ thống nhất Đông Dương. Về cơ bản, nội dung chính sách, các khẩu hiệu đấu tranh ở thời kỳ này là đòi tự do, dân chủ, tuy chưa hoàn chỉnh.
2. Những điểm mới trong chính sách báo chí của chính quyền thực dân
Những luật lệ, sắc lệnh, nghị định của chính quyền thực dân thời kỳ trước năm 1930 như đã trình bày ở trên, vẫn giữ nguyên hiệu lực của nó.
Từ năm 1930 đến giữa năm 1936, trước ngày Chính phủ L. Blum thành lập, chính quyền thực dân đã ban hành trên 30 văn bản mới về báo chí, hoặc có liên quan đến báo chí.
Trong số những văn bản mới này, phần lớn là quy định về tăng thêm thời hạn bị tù và tiền phạt nếu vi phạm các điều luật, sắc lệnh và nghị định đã quy định từ trước, để kiềm chế báo chí chặt chẽ hơn trong gọng kìm của chính sách thực dân. Đáng chú ý là nghị định của Toàn quyền R.Rôbanh ký ngày 1-1-1935 về bãi bỏ chế độ kiểm duyệt báo chí quy định từ năm 1898. Nghị định không được công bố trên Công báo (J.O.I.F), các báo chí đương thời cũng không có toàn văn, chỉ được phổ biến ý chính. Một số báo đã đưa tin, bình luận về chủ trương này.
Thống sứ Bắc Kỳ Y. Saten đến Hội nghị thường niên Viện Dân biểu Bắc Kỳ đọc một bài diễn văn vào ngày 3-11-1937, có đoạn: ''Hai điểm như đã tập trung dư luận công chúng và sự cổ động làm đọng lại trong ý thức: vấn đề giải phóng tù chính trị và vấn đề báo chí''.
Vấn đề báo chí không ngừng được theo dõi ở Bắc Kỳ với một lợi ích ham muốn bởi dư luận công cộng. Vấn đề đó đôi khi làm nảy sinh việc cổ động trong ý thức, tôi tưởng cần nhận rõ nguồn gốc của những cuộc vận động lộn xộn về tư tưởng và con người”.
''Không có gì đáng nói về sự việc mới nhận thấy dư luận rất phổ biến trong giới “trẻ'' về báo chí Bắc Kỳ, sau đó nghề làm báo là một nghề đã làm. Nó tồn tại trước hết là phơi bày những dư luận cực đoan và đã góp phần trực tiếp hoặc gián tiếp vào toàn bộ phong trào báo chí hay hoạt động nhằm mục đích làm rối loạn trật tự''.
Việc xóa bỏ chế độ kiểm duyệt là một phương sách còn rất mới mà nhiều người ''trẻ'' có khả năng học tập sử dụng để tự do đưa tin mà họ ưng thích. Tuổi tác và kinh nghiệm còn thiếu để rút ra một lợi ích hợp lý về quyền tự do hành động đặt ra bất thường cho say sưa với ngôn từ hay ngòi bút. Hành động của họ cực đoan, đôi khi nhẹ nhàng hơn là nó không tham dự vào một ý hướng có hại, ngẫm nghĩ và có suy tính. Tôi tự nghĩ rằng trong một vài năm phần lớn các tờ báo đã tỏ một thái độ và một địa vị xã hội phù hợp hơn nữa với vai trò mà báo chí cần phải có ở xứ này''.
Chính quyền thực dân chủ trương xóa bỏ chế độ kiểm duyệt không phải nhằm mở rộng quyền tự do hoạt động cho báo chí, mà là để tăng cường việc ra lệnh thu hồi giấy phép đối với những tờ báo nào mà chúng thấy không ưa, có ý công kích chính sách thực dân, phê phán bọn quan trường sâu mọt, tàn nhẫn, thối nát, dù là dưới hình thức sỗ sàng, bốp chát, hay kín đáo, tế nhị, bất kể là báo của ai, bằng tiếng Pháp hay dã man hơn là cắt bỏ một vài đoạn, một bài, cho đến cả một trang báo, nhưng tờ báo vẫn còn sống dù là sống lay lắt.
3. Tình hình xuất bản báo chí
a) Về báo chí xuất bản công khai, hợp pháp
Dòng báo chí xuất bản công khai, hợp pháp tiếp tục phát triển về số lượng, nhưng nhịp độ không đều, không ổn định. Năm 1931 tăng hơn năm 1930 là 35 tên báo và tạp chí; năm 1932 - 1933, mỗi năm tăng hơn năm trước 25 - 27 tờ; năm 1934 tăng 8 tờ; năm 1935 tăng hơn năm trước 40 tờ (cao nhất); đầu năm 1936 và cả năm 1936 lại sụt xuống.
Hằng năm, trung bình có từ 30 đến 40 tờ đình bản. Như vậy là số lượng của năm sau tăng lên khá cao, vì phải bù lại số đình bản và vượt qua con số của năm trước để con số trội hơn (trừ năm 1936).
Các loại báo đều tăng lên, tuy tỷ lệ cơ cấu không đều nhau: chính trị và văn hóa, khoa học - kỹ thuật và văn học nghệ thuật, tôn giáo, thể thao, v.v.. Loại báo in bằng ngoại ngữ và song ngữ (Hán - Việt) cũng tăng lên. Số người Việt đứng tên xin phép ra báo càng nhiều, so với người Pháp thì tỷ lệ tăng lên.
Bọn thực dân dùng báo chí để tuyên truyền, cổ động cho chủ nghĩa cải lương, nhất là từ sau khi Bảo Đại về nước, mong làm dịu nỗi bất bình vì những đau khổ do chúng gây ra.
Từ năm 1930, tư tưởng xáo động ổn định dần, trật tự xã hội đỡ căng thẳng. Trên báo chí xuất hiện những cuộc trao đổi, tranh luận về văn học nghệ thuật giữa các xu hướng và phương pháp sáng tác khác nhau, đối lập nhau.
Văn học lãng mạn xuất hiện từ những năm 20 của thế kỷ XX, đến lúc này mang những nội dung và hình thức mới khác trước, do tình hình chính trị ảnh hưởng đến tư tưởng, quan điểm của giai cấp tư sản, tiểu tư sản thành thị và giới trí thức. Tư sản dân tộc và tiểu tư sản trí thức Việt Nam tìm thấy trong chủ nghĩa lãng mạn một tiếng thở dài chống chế độ thuộc địa16.
Giai cấp tư sản chống chế độ phong kiến quan liêu qua các quan hệ gia đình, lễ giáo, đạo đức, tiêu biểu là những truyện dài, truyện ngắn đăng trên báo Phong hóa (6-10-1936) của nhóm Tự lực văn đoàn.
Báo Phụ nữ tân văn số 122, ngày 10-3-1932 đăng bài của Phan Khôi đem ''một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ'', và giới thiệu bài ''Tình già” mở ra cuộc tranh luận về thơ mới, kéo dài nhiều năm, lôi cuốn nhiều tờ báo ba miền Trung, Nam, Bắc tham gia như Phong hóa, Tiếng dân, Annam tạp chí, Ngày nay, Tiểu thuyết thứ bẩy, Hà Nội báo, Công luận, Sài Gòn, Tân thời, Văn học tạp chí...
Văn chương trên báo Phong hóa ngày càng tranh thủ được bạn đọc trong tầng lớp tư sản, tiểu tư sản, học sinh thành thị. Những bài thơ của Tú Mỡ được đông đảo bạn đọc đón nhận. Nó phản ánh những cảnh ngang tai, trái mắt diễn ra hằng ngày, gần gũi trong cuộc sống.
Các đảng viên cộng sản hết hạn tù trở về, tìm bắt liên lạc với Đảng để tiếp tục hoạt động. Một trong những phương tiện mà các cán bộ trí thức của Đảng ở tù ra và ở nước ngoài về sử dụng là lấy báo chí công khai, hợp pháp làm vũ khí đấu tranh.
Tờ báo La Lutte ra số l, này 24-4-1933, phục vụ cho cuộc tranh cử vào Hội đồng thành phố Sài Gòn, có công nhân và trí thức, tơrốtxkit và cộng sản, đăng một số bài bênh vực quyền lợi của nhân dân lao động. Sau khi ra số 4, ngày 2-6-1933, La Lutte ngừng 16 ngày mới lại ra tiếp. Nguyễn Văn Nguyễn, một cán bộ của Đảng, từ nhà tù Côn Lôn trở về, viết một phóng sự dài về các chiến sĩ cộng sản bị giam, đày ở đây, đăng trên 35 số, từ số 6, ngày 11-10-1934, đến số 58, ngày 26-10-1935 (có một số cách quãng, không đăng liên tục). Đây là một bản cáo trạng lớn về tội ác của chế độ thực dân đối với nhân dân ta và nhân dân Pháp.
Từ ngày tục bản, số 5, ngày 4-10-1934, La Lutte đăng những bài của phái tơrốtxkit đứng đầu là Tạ Thu Thâu, đồng thời đăng những bài của những người cộng sản: Nguyễn Văn Tạo, Nguyễn Văn Nguyễn và Nguyễn Thị Lựu. Những bài đăng trên báo L' Humanité được những người cộng sản cho đăng lại đây. Như vậy là trên mặt báo hình thành hai khuynh hướng trái ngược nhau: cộng sản và tơrốtxkit. Phái tơrốtxkit lợi dụng sự “hợp tác'' để lừa dư luận, như là sự cộng tác giữa những người tơrốtxkit và cộng sản ở Đông Dương. Sau này, một vài nhà nghiên cứu lịch sử ở Pháp đã bịa đặt là “có sự gợi ý của Đảng Cộng sản Pháp'' ra báo của tơrốtxkít - cộng sản ở Đông Dương, xem đó như là điều kiện để chuẩn bị tiến tới phục hồi Đảng Cộng sản ở Đông Dương (!)”, sau những cơn bão táp khủng bố của thực dân Pháp.
Phụ nữ thời đàm số 4, ngày 8-8-1933, mở đầu cuộc tranh luận về duy tâm và duy vật, với bài của Phan Khôi: ''Văn minh vật chất và văn minh tinh thần''. Hải Triều phê phán: ''Ông Phan Khôi không phải là một học giả duy vật'' đăng báo Đông phương số 891, ngày 20-10-1933. Thực chất quan điểm triết học của Phan Khôi là để dẫn tới nhận thức chính trị: không nên làm cách mạng. Hải Triều phê phán cơ sở nhận thức triết học duy tâm của Phan Khôi, chứ chưa đả kích vào quan điểm chính trị của Phan Khôi.
Tiếp theo đó, Phan Khôi đáp lại bằng bài “Nguyên lý với hiện tượng'' đăng trên Phụ nữ thời đàm số 9, ngày 12-11-1933. Hải Triều tiếp tục vạch trần: ''Ông Phan Khôi là một học giả duy tâm” đăng trên Phụ nữ thời đàm số 1, tháng 2-1934. Sau đó xoay qua vấn đề: ''Trên lịch sử nước ta không có chế độ phong kiến?” của Phan Khôi đăng trên Phụ nữ tân văn số ra ngày 29-11-1934, và bài phản đối của Hải Triều: ''Trên lịch sử nước ta vẫn có chế độ phong kiến”, đăng báo Công luận, số 2 và 3, ngày 7-4-1935.
Hải Triều cùng với Hải Vân, Hỏa Sơn, Hồ Xanh, Lâm Mộng Quang v.v.. viết nhiều bài trình bày quan điểm mỹ học Mác - Lênin, chống lại quan điểm nghệ thuật tư sản đăng trên các báo Ánh sáng, Trung Kỳ, Tiến bộ. Những chiến sĩ cộng sản trên mặt trận tư tưởng, lý luận, chủ động đấu tranh cho thắng lợi của học thuyết Mác - Lênin, dù chưa nhận được sự lãnh đạo của tổ chức Đảng.
Trong các cuộc tranh luận này, Hải Triều là cây bút xuất sắc chống lại quan điểm duy tâm, thần bí và mỹ học tư sản.
b) Báo chí cách mạng Việt Nam từ năm 1930 đến giữa năm 1936
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng cộng sản Việt Nam đầu năm 1930, thông qua nghị quyết về báo chí viết:
l. Bỏ những tờ báo do Đông Dương Đảng Cộng sản và An Nam Đảng Cộng sản xuất bản trước đây.
''2. Ban Trung ương có thể xuất bản một tạp chí lý luận và ba tờ báo tuyên truyền''.
''3. Bỏ những tờ báo của các hội quần chúng do Đảng chỉ đạo.
''4. Duy trì tất cả những tờ báo do quần chúng chủ trương''16.
Về tổ chức báo chí, do Đảng thống nhất, nên báo chí của hệ thống các tổ chức cộng sản trước đây đều ngừng xuất bản, để theo một dòng chỉ đạo thống nhất của Đảng Cộng sản. Về tư tưởng và chính trị của báo chí, theo đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nó không những có điểm khác với đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Đông Dương và Đảng Cộng sản An Nam. Nó cũng không hoàn toàn giống với nội dung chỉ thị của Quốc tế Cộng sản. Căn cứ vào Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt Lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc; những điểm khác đó xoay quanh vấn đề quan hệ giữa dân tộc và giai cấp.
Theo tinh thần chỉ đạo của Đảng Cộng sản, có ít nhất 25 tờ báo thuộc hệ thống tổ chức từ Xứ uỷ Trung Kỳ, Nam Kỳ, nhiều tỉnh uỷ, huyện uỷ, đảng uỷ cho đến một số tổ chức quần chúng (học sinh) ra đời ít ngày sau khi Đảng thành lập; trước khi trung ương có báo và tạp chí.
Ngày 5-8-1930, Tạp chí Đỏ, cơ quan trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam, ra số 1. Ngày 15-8-1930 báo Tranh đấu, cơ quan trung ương của Đảng ra số 1.
Tháng 10-1930, Ban Chấp hành Trung ương họp đã sửa đổi một số chủ trương về chỉ đạo chiến lược và sách lược của Đảng đề ra trong hội nghị hợp nhất, đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương xuất bản báo Cờ vô sản, số 1, ngày 1-1-1931 và Tạp chí cộng sản số 1, ngày 11-2-1931 do Tổng Bí thư Trần Phú trực tiếp phụ trách. Báo của các cấp bộ đảng địa phương, có tờ ngừng xuất bản, ra tờ mới lấy danh nghĩa cơ quan của đảng bộ Đảng Cộng sản Đông Dương, có tờ vẫn giữ tên cũ, nhưng đổi danh nghĩa cho phù hợp với tổ chức mang tên mới.
Tính chung từ năm 1930 đến giữa năm l936, có trên l60 tờ báo và tạp chí của trung ương và các địa phương.
Hưởng ứng lời kêu gọi của trung ương, báo chí của Đảng trong cả nước hướng về Nghệ Tĩnh, cổ vũ quần chúng đấu tranh, vạch mặt tội ác của đế quốc và tay sai. Tờ Lao khổ của Xứ uỷ Nam Kỳ, số 15, ngày 5-10-1930 viết: ''Từ ngày 1-9, nông dân Nghệ An và Hà Tĩnh đã đấu tranh quyết liệt nhất. Tại các làng, tất cả quyền hành thuộc về nông hội. Ở một số làng, phụ nữ cũng tham gia công việc làng nước. Kiện cáo, áp bức không còn nữa. Nhân dân tự mình giải quyết mọi xích mích, không cần đến tri huyện''.
Báo Bồi bếp ra số đặc biệt ngày 20-10-1930 ủng hộ Xôviết Nghệ An và Hà Tĩnh, chống khủng bố, viết: ''Hỡi anh em, chị em, chúng ta hãy kéo nhau ra đường thị oai, biểu tình, phản đối sự khủng bố, bắn giết, bắt bớ khám xét chúng ta. Chúng ta hưởng ứng anh chị em ở Nghệ Tĩnh là làm cho đế quốc Pháp, quan lại địa chủ, tư sản Việt Nam biết sức đoàn kết của chúng ta và chúng ta đã giác ngộ rồi, không có cắm đầu làm mọi việc cho chúng đâu''.
Từ tháng 4-1930 đến tháng 4-1937, Đảng ta không có báo làm cơ quan ngôn luận của trung ương. Cũng từ tháng 4-1931 đến tháng 5-1943, Đảng ta không có tạp chí của trung ương.
Tháng 6-1934, Ban chỉ huy ở ngoài nước của Đảng Cộng sản Đông Dương, phân bộ của Quốc tế Cộng sản làm nhiệm vụ trung ương lâm thời, cho ra Tạp chí Bônsêvích, làm cơ quan ngôn luận. Sau Đại hội lần thứ I của Đảng, tháng 3-1935, Tạp chí Bônsêvích với danh nghĩa là cơ quan lý luận của Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng Cộng sản Đông Dương đổi thành ''Cơ quan lý luận của Đảng Cộng sản Đông Dương''.
Xứ uỷ Nam Kỳ cũng bị địch phá vỡ cùng thời gian với trung ương. Đầu năm 1932, Xứ uỷ lâm thời lập lại, ra báo Cờ đỏ. Tháng 10-1932, Xứ uỷ lâm thời bị phá, Cờ đỏ ngừng xuất bản. Tháng 5-1933, Xứ uỷ mới lập lại lần thứ hai, ra báo Cờ lãnh đạo, sau đổi tên là Giải phóng. Tháng 5-1935, Xứ uỷ lại bị phá, Giải phóng lại ngừng xuất bản, cho đến tháng 11-1935 ra lại báo cùng với Xứ uỷ được lập lại.
Ở Bắc Kỳ, sau khi bị địch phá năm 1931, báo Tiến lên, quan của Xứ uỷ ngừng xuất bản. Khi Xứ uỷ lâm thời lập, ra báo lấy tên Cờ đỏ. Xứ uỷ mới bị địch phá, Cờ đỏ ngừng xuất bản, cho đến thời kỳ vận động dân chủ, cuối năm 1936, mới có báo của Xứ uỷ mới.
Tờ Công nông binh của Xứ uỷ Trung Kỳ ngừng xuất bản từ đầu năm 1931. Ở miền Trung Trung Kỳ xuất bản tờ Cờ đỏ của các nhóm cộng sản không bị sa lưới mật thám, bắt liên lạc với nhau, cùng hoạt động ở khu vực Quảng Nam - Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Phan Thiết.
Ở miền Nam, nhiều tỉnh uỷ và liên tỉnh uỷ ra báo. Sài Gòn Thợ thuyền, Chợ Lớn có Nhà quê, Mỹ Tho có Nông dân, Châu Đốc có Bạn nghèo, Sa Đéc có Dân cày, Bến Tre có Tranh đấu, Vàm Cỏ Đông có Dân nghèo, liên tỉnh Long Xuyên - Châu Đốc - Rạch Giá – Hà Tiên, gọi tắt là Long Châu Rạch Hà có Cùng khổ. Liên Chấp uỷ địa phương Nam Đông Dương ra Tạp chí Cộng sản, v.v..
Ở Bắc Kỳ, Nam Định và Ninh Bình có Hưởng ứng, sau đổi là Dân quê, Cao Bằng có Cờ đỏ, Hà Nam có tờ Đỏ... Ở Trung Kỳ, Thanh Hóa có Hồn lao động v.v..
Báo của các huyện, nhiều nhất là vùng Nghệ An, Hà Tĩnh, như Nghi Lộc có Chỉ trích, Đức Thọ có Cổ động, Anh Sơn có Gương vô sản. Nhiều huyện khác vẫn duy trì được báo từ khi bùng nổ Xôviết Nghệ - Tĩnh qua năm 1931 - 1932; ở huyện Chợ Mới, tỉnh Châu Đốc có Lao khổ, v.v..
Trong các giới, như học sinh, có Tân học sinh của Nam Kỳ học sinh liên hiệp hội, Thanh niên đỏ của thanh niên cộng sản ở Nam Kỳ, Tạp chí Thanh niên, Thanh niên, v.v.. Quần chúng nhân dân lao động, có Thổ mộ của công nhân xe thổ mộ Sài Gòn, Thợ thuyền của công nhân thành phố Sài Gòn, Thùng dầu của chi bộ Nhà Bè, Đường ray của chi bộ kho xe lửa Dĩ An, Xi moong của công nhân xi măng Hải Phòng, Xe goòng của phu khuân vác sáu kho Hải Phòng, Lao động của Tổng công hội Nam Kỳ v.v..
Một điểm đặc sắc, tuy không phải là độc đáo, đó là một số nhà tù, chi bộ chủ trương ra báo17. Không hẹn mà nên, là một sự ngẫu nhiên, nhưng mang tính quy luật, do yêu cầu đấu tranh của những người cộng sản Việt Nam ở trong nhà tù đế quốc.
Ở Hỏa Lò, Hà Nội, có Con đường chính, Lao tù tạp chí (sau đổi là Tù nhân báo), Bônsơvích, Tạp chí cộng sản. Ở Côn Lôn, có Người tù đỏ, Ý kiến chung. Ở nhà tù Quảng Nam, có Mõ nhà pha (sau đổi là Vắt cơm bi). Ở nhà tù Buôn Ma Thuật, có Doãn đê tạp chí (sau đổi là Bônsơvích), v.v..
Báo chí cách mạng đã tuyên truyền lý luận Mác - Lênin; đường lối của Quốc tế Cộng sản; các nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng ta; đấu tranh với các tư tưởng, quan điểm chính trị và chính sách của chủ nghĩa đế quốc Pháp và bọn tay sai; chống chủ nghĩa quốc gia cải lương, những xu hướng thỏa hiệp, đầu hàng, những sai lầm ''tả'' khuynh và hữu khuynh trong nội bộ Đảng và trong các tổ chức quần chúng cách mạng.
Cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận trên báo chí cách mạng, trong đó có báo chí cách mạng trong tù đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng và củng cố tư tưởng, vững vàng về chính trị, thống nhất về tổ chức cho đảng viên và quần chúng, đồng thời làm phân hóa hàng ngũ Việt Nam Quốc dân Đảng. Qua những cuộc khẩu chiến, bút chiến, tuyên truyền, thuyết phục và thực tiễn của cách mạng làm cho một số đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng đã ly khai đảng, từ bỏ chủ nghĩa Tam dân và đường lối của Việt Nam Quốc dân Đảng, từ chỗ có thái độ ''trung lập'' đến ngả hẳn sang chủ nghĩa Mác và Đảng Cộng sản, trở thành đảng viên của Đảng Cộng sản, như Trần Huy Liệu, Tưởng Dân Bảo, Trịnh Tam Tỉnh, Tô Hiệu, Nguyễn Bình, Nguyễn Đức Chính, v.v.. Có người chưa trở thành đảng viên cộng sản nhưng tư tưởng đã chuyển hẳn sang phía chủ nghĩa Mác và Đảng Cộng sản trước khi trút hơi thở cuối cùng, như Phạm Tuấn Tài, đã để lại bản di chúc có ý nghĩa lịch sử.
Tháng 6-1930, nhóm tơrốtxkit đầu tiên xuất hiện ở Sài Gòn. Về sau bổ sung thêm Hồ Hữu Tường, Phan Văn Hùm... từ Pháp về và lôi kéo một số trí thức trong nước đi theo. Họ công bố tuyên ngôn, viết báo, xuất bản sách chống Đảng Cộng sản và Quốc tế Cộng sản trên tất cả các vấn đề chiến lược và chỉ đạo chiến lược, sách lược cách mạng, đến các chủ trương hoạt động cụ thể. L. Tơrốtxki, từ một địa điểm ở Thổ Nhĩ Kỳ gửi ''Các nhóm đối lập ở Đông Dương'' một bức thư Chỉ thị đề ngày 18-9-1930, uốn nắn một số vấn đề về đường lối chính trị của các nhóm tơrốtxkit cho đúng quỹ đạo của chủ nghĩa tơrốtxkit.
Trong suốt những năm 1930 đến giữa năm 1936, các báo chí của Đảng, chỉ có Tạp chí Cộng sản của Liên chấp uỷ địa phương Nam Đông Dương.
Những cơ sở báo chí ở các vùng dân tộc thiểu số, nhiều nơi vẫn bảo toàn được và phát triển vững chắc. Đại hội lần thứ I của Đảng (1935) có Nghị quyết về công tác trong các dân tộc thiểu số, có chính sách chỉ đạo về tổ chức, hoạt động chính trị và báo chí quan tâm đúng mức đến các dân tộc thiểu số.
Về quốc tế, báo chí làm rất nhiều cho việc tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa quốc tế vô sản, những ngày kỷ niệm 3L (tên của ba nhà cách mạng nổi tiếng thế giới: Lênin, Liếpnếch, Lúcxămbua) vào tháng giêng; Ngày Quốc tế phụ nữ 8-3; Công xã Pari ngày 18-3, Công xã Quảng Châu tháng 12; Quốc tế lao động ngày 1-5; Chống chiến tranh ngày 1-8; Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga ngày 7-11, là những dịp báo chí có bài nhắc lại ý nghĩa lịch sử, những tư tưởng lớn và giá trị thực tiễn đối với cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta.
Báo của các địa phương có thế mạnh là đi sát với phong trào địa phương, phản ánh và chỉ đạo kịp thời hoạt động của địa phương. Nhưng báo địa phương thường có nhược điểm là không nắm vững sách lược của Đảng đối với các giai cấp bóc lột. Ở những nơi đấu tranh quyết liệt, xung đột đổ máu, dễ sinh ra “tả”, khuynh. Có khi quá nhấn mạnh đặc điểm địa phương, nhận thức không đầy đủ cái chung và sự chỉ đạo chung, thống nhất trong toàn Đảng trên cả nước.
Báo chí cách mạng làm đúng chức năng của mình theo lời dạy của Lênin: là người tuyên truyền tập thể, cổ động tập thể và tổ chức tập thể.
Báo chí cách mạng trong những năm 1930 - 1936, về nội dung và cả tên báo đều mang đậm tính giai cấp, không rõ tính nhân dân, tính dân tộc. Tên báo thường là Vô sản, Dân cày, Lao khổ, Dân nghèo, Công nông, Lao động, v.v..
Về in, báo vẫn sử dụng các phương tiện thủ công, thô sơ như thời kỳ trước. Giấy có nhiều loại, khổ to nhỏ, không có điều kiện chọn lựa nên một tờ báo có nhiều khuôn khổ các số không đều nhau. Mọi khâu hoạt động không phải lúc nào cũng ăn khớp nhịp nhàng. Nhiều khi có đủ bài, nhưng vật tư in thiếu, phải chậm lại, thậm chí có giấy nhưng chưa mua được mực. Rồi phải đối phó với địch truy lùng, phải bảo vệ cơ sở hết sức bí mật và kịp thời di chuyển, do đó hầu hết báo và tạp chí đều xuất bản không định kỳ.
Việc phát hành phải được tổ chức chặt chẽ, khoa học, bảo đảm thông suốt trên đường dây, tránh rơi vào tay địch. Việc này, chúng ta đã có nhiều kinh nghiệm nên ít khi bị sa sẩy.
Về nguyên tắc, báo hay tạp chí của Trung ương Đảng hay cấp đảng bộ nào, tổ chức nào, phải đề rõ ràng, có thể dùng mật danh. Nhưng có tạp chí đã quá dễ dãi, số này đề: ''Cơ quan của đảng bộ...'', số khác là ''Cơ quan của Đảng Cộng sản Đông Dương'' hay ''Cơ quan lý luận của Đảng Cộng sản Đông Dương'', làm cho đảng viên và quần chúng đương thời có khi nhầm là cơ quan ngôn luận của Trung ương Đảng. Đối với người nghiên cứu về sau, nếu không đọc kỹ nội dung thì cũng khó tránh khỏi nhầm lẫn.
Trong thời kỳ này, báo chí cách mạng đều xuất bản bí mật, không hợp pháp, không kể ở trong tù hay ngoài tù, ở trong nước hay ngoài nước.
Nhưng không phải mọi tờ báo xuất bản bí mật, không hợp pháp hay trong tù đều là báo cách mạng. Tờ Tháng Mười, tạp chí của nhóm Hồ Hữu Tường, Đào Hưng Long, Huệ Minh; tờ Đông Dương tả phái cộng sản của nhóm Tạ Thu Thâu, đều xuất bản năm 1932 ở những địa điểm bí mật của thành phố sài Gòn, tuyên truyền quan điểm tơrốtxkit, chống Đảng Cộng sản và Quốc tế Cộng sản. Ở trong tù, Hỏa Lò cũng như Côn Lôn, bên cạnh mấy tờ báo và tạp chí của chi bộ cộng sản chủ trương, có những tờ thuộc nhóm ly khai Quốc dân Đảng, lúc đầu chưa tỏ khuynh hướng rõ, dần dần có cảm tình với những người cộng sản (về sau, một số trong các nhóm này trở thành đảng viên cộng sản) như: Hòn cauDelfrag ở Côn Lôn; Đuốc đưa đường ở Hỏa Lò, đồng thời lại có báo của Quốc dân Đảng như Đường cách mạng ở Hỏa Lò, Hà Nội.
c) Một số tờ báo tạp chí cách mạng tiêu biểu
- Tạp chí Đỏ:
Tạp chí Đỏ là tạp chí đầu tiên của Đảng ta, và cũng là tờ đầu tiên trong hệ thống báo chí của Đảng xuất bản sau Hội nghị thành lập Đảng tháng 2-1930.
Theo những dòng chữ ghi vào sổ của Văn phòng Quốc tế Cộng sản nhận được bằng chữ Pháp, thì Tạp chí Đỏ xuất bản ở Trung Quốc (trên trang bìa số l, chữ đánh máy).
Tạp chí gửi về trong nước như thế nào, đến nay chưa thấy tài liệu để lại, kể cả của ta và của mật thám Pháp.
Tạp chí được gửi đến Văn phòng Quốc tế Cộng sản, một lúc vào sổ nhận 3 số, số 1, ngày 5-8-1930, số 3, ngày 28-8-1930, đến nơi nhận ngày 21-12-1930 (chữ Nga). Số 9, không có ngày, tháng, năm 1930 vào sổ nhận của Quốc tế Cộng sản, ngày 4-12-1931 (số 1345).
Số cuối cùng, số bao nhiêu, ra ngày, tháng, năm nào cũng chưa rõ.
Các trang chữ đều đánh máy trên giấy sáp, in rônêô; khổ trung bình 13x19cm các từ lúc đó viết f, z, k; ngày nay ta viết ph, d, g, gi, c.
Lời nói đầu tiên số 1, viết:
“1. Tạp chí này sau sẽ tiếp tục in mãi. Hoặc nhiều hoặc ít, hoặc một tuần, hoặc 10 ngày, nửa tháng, không nhất định.
“2. Tài liệu trong tạp chí, hoặc là cách làm việc, hoặc là kinh nghiệm cách mạng các nước, hoặc là tin tức thế giới, hoặc là phê bình công việc của mình, v.v. sẵn gì in lấy.
“3. Trách nhiệm các cơ quan đối với tạp chí.
a) Đem làm tài liệu huấn luyện và nghiên cứu cho đảng viên.
b) Lấy tài liệu trong này mà làm báo.
c) Bài nào nên truyền bá cho đa số quần chúng thì kiếm cách in thêm ra.
d) Xem chỗ nào có tâm đắc, chỗ nào khó hiểu, chỗ nào nên sửa đổi, chỗ nào không hợp với hoàn cảnh riêng của địa phương mình, v.v. thì phải phê bình, phải hỏi.
''Nói tóm lại là các đồng chí phải hết sức truyền bá và giúp cho tạp chí được hoàn toàn và phát triển''.
12 trang còn lại là bài ''Bí mật công tác''. Bài viết câu ngắn gọn, theo thể đặt câu hỏi và trả lời: Vì sao phải bí mật? Vì sao các cơ quan thường bị bắt? Các khuynh hướng sai lầm đối với vấn đề giữ bí mật; tiếp theo là 12 đều khuôn phép của công việc bí mật, nêu vắn tắt 10 cách bí mật cần lưu ý, cần tùy hoàn cảnh, tùy cơ ứng biến cho khéo.
Tạp chí Đỏ hướng dẫn nhận thức lý luận và kinh nghiệm công tác cho đảng viên bằng cách trình bày đơn sơ, lời văn giản dị hợp với trình độ của phần đông đảng viên lúc đó.
-         Báo Tranh đấu:
Báo Tranh đấu là cơ quan trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên, ra số 1, ngày 15-8-1930.
Người chỉ đạo biên tập là Trịnh Đình Cửu, một trong bốn đồng chí là “đại biểu của đại biểu Quốc tế”18, được ghi trong Nghị quyết của hội nghị hợp nhất.
Báo khổ cộng 315x220cm, in bằng chữ viết bút thép trên giấy sáp, bốn trang, ở một địa điểm bí mật tại Hà Nội của Trung ương Đảng. Cùng với bản chữ quốc ngữ, có bản chữ nôm, vì chữ nôm khi ấy còn nhiều người đọc được. Thực dân Pháp đã thu được cả hai bản, chữ quốc ngữ và chữ nôm; dịch toàn văn ra chữ Pháp theo bản chữ quốc ngữ19.
Ở trang 1, mở đầu bằng Mấy lời tuyên cáo!: ''Các đoàn thể và các phần tử cộng sản lẻ tẻ trong nước bây giờ đã thống nhất lại một đảng, gọi là Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì thế mà các cơ quan trung ương tuyên truyền của các đoàn thể xưa kia đã hết nhiệm vụ lịch sử và đã phải đình bản. Ngày nay, báo ''Tranh đấu” này ra đời làm cơ quan trung ương của Đảng để thống nhất, để hướng đạo tư tưởng và hành động cho cả toàn thể đồng chí và quần chúng lao khổ''.
Báo giải thích vì sao lấy tên ''Tranh đấu?”. ''Cái tên này không phải ngẫu nhiên do một cái chí hướng tốt, hoặc một cái ước vọng cao của Đảng mà chưa có căn cứ vào đâu, nhưng chính là cái tiêu biểu của sự thiết thực trong thời kỳ lịch sử ở xứ ta ngày nay. ''Tranh đấu'' sẽ tiến hành công cuộc thống nhất tư tưởng, hành vi toàn Đảng...''''.
Sau bài trình bày tôn chỉ, mục đích của báo trên đây, có bài “Tình hình trong nước và trách nhiệm của Đảng''. Bài báo phác qua tình hình đấu tranh sôi nổi kế tiếp nhau không dứt trên cả nước, mỗi ngày mỗi lan rộng, mỗi ngày một kịch liệt, ''trước còn ôn hòa, sau xung đột đổ máu; quần chúng lại ngày càng thêm cương quyết, hăng hái và dũng cảm, hy sinh lạ thường''.
Nguyên nhân của tình hình trên là do khủng hoảng kinh tế, đời sống nhân dân ngày càng cơ cực, sinh hoạt đắt đỏ, sức mua ngày một eo hẹp hơn. Đế quốc Pháp càng ra sức bóc lột nhân dân lao động để bù vào những thiệt hại do khủng hoảng kinh tế gây ra ''Phá sản, thất nghiệp, đói kém lại thêm dữ dội, nỗi thảm thê cay đắng lại thêm bội phần sâu sắc''.
Ở trang 3, báo in câu phương châm: ''Đảng giáo dục và lãnh đạo quần chúng, đồng thời học hỏi kinh nghiệm của quần chúng''.
Về thời sự, báo đưa tin cuộc bãi công lớn của Công ty xe điện ở Thượng Hải, tháng 6 và 7 - 1930; phong trào Xôviết ở Trung Hoa; phong trào đấu tranh của nhân dân Ấn Độ chống đế quốc Anh; cuộc tổng bãi công của công nhân miền Bắc nước Pháp.
Tìm trong tài liệu lưu trữ của Đảng và của mật thám Pháp đều không ghi lại báo Tranh đấu ra được mấy số? Số cuối cùng là số bao nhiêu, ngày, tháng nào?
- Tạp chí cộng sản:
Cộng sản là tạp chí lý luận và chính trị của Trung ương Đảng, ''cơ quan của Đảng Cộng sản Đông Dương'' xuất bản theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương tháng 10-1930.
Tạp chí in trên giấy sáp viết tay, khổ 25x10cm, ở một cơ sở của trung ương đặt tại thành phố Sài Gòn, do Tổng Bí thư Trần Phú trực tiếp chỉ đạo.
Trong nước không còn lưu được một số nào. Bản số 1 hiện nay để nghiên cứu là chụp từ bản gốc ở kho lưu trữ của Quốc tế Cộng sản, được Liên Xô chuyển giao cho Đảng ta.
Số 1 của tạp chí đề ngày 11-2-1931, đến Quốc tế Cộng sản vào sổ nhận ngày 28-5-1931. Đến nay chưa có tài liệu nào cho biết tạp chí ra được mấy số, số cuối cùng là số mấy, ra ngày, tháng nào, hay chỉ có một số?
Trong Lời nói đầu ở trang 2, có đoạn viết: ''Mục đích của Đảng chúng ta, kịch liệt công kích những tư tưởng sai lầm, những xu hướng hoạt đầu và biệt phái, để làm cho nền tư tưởng và cách hành động trong Đảng được nhứt thống. Tạp chí Cộng sản sẽ thâu góp các đều kinh nghiệm trong sự tranh đấu và lãnh đạo tranh đấu của các đảng viên và các đảng bộ Đông Dương và những sự kinh nghiệm tranh đấu của các đảng anh em trong toàn thế giới để làm cho đảng chúng ta mau phát triển. Tạp chí Cộng sản cũng là cái chỗ chung cho các đảng viên tự chỉ trích những điều sai lầm, khuyết điểm trong công tác hằng ngày của Đảng, phát biểu ra những ý kiến mới mẻ để cùng nhau đi theo con đường chính trị đúng''.
Tạp chí đăng bài ''Vấn đề tổ chức công hội”, định nghĩa công hội là gì? Vị trí của công hội trong cách mạng.
Bài “Lời bàn về tổ chức”, phê phán những nhận thức sai lầm về công tác, chia ra các tổ chức trên dưới từng bậc, xếp loại một cách máy móc;... là số 1. Hội Phản đế, số 2. Công hội, số 3. Nông hội, số 4. Hội Cứu tế, số...; hoặc cho rằng mỗi người chỉ được vào tổ chức nhất định, không thể từ lớp... Công hội, Nông hội, Hội Phản đế, Cứu tế đỏ đều làm cho tổ chức quần chúng để đấu tranh cách mạng ''cái nào cũng có ích, có giá trị, cái nào cũng có trường hoạt động của nó, cái này giúp cái kia, cái kia giúp các nọ. Một người có thể có chân trong nhiều tổ chức''.
Bài ''Cần phải mở rộng việc tự chỉ trích trong Đảng”, mở đầu bằng trích dẫn lời của Lênin về tự phê bình của một đảng: “Nhận lỗi của mình, tìm nguyên nhân đều lầm lỗi ấy...” (viết trong Bệnh ấu trĩ “tả'' khuynh của chủ nghĩa cộng sản).
Từ những kinh nghiệm lịch sử của phong trào cách mạng thế giới và các đảng anh em, bài viết chỉ rõ phải biết tự chỉ trích thì Đảng mới trở nên mạnh được. ''Nếu không mở sự chỉ trích trong Đảng thì biết lấy gì mà rõ những điều kiện lầm lỗi từ xưa đến nay; nếu không có sự tự chỉ trích thì biết kiếm phương kế gì mà chữa những điều lầm lỗi ấy. Đảng của chúng ta là Đảng của vô sản giai cấp cách mạng, cho nên chúng ta không sợ mà không nói những sự sai lầm của chúng ta (...) các đồng chí trong khi chỉ trích phải cần chú ý rằng: Tự chỉ trích thiệt bônsêvích thì mới giúp Đảng hóa nên bônsêvích được''.
Tạp chí trích dịch báo cáo của Xtalin tại Đại hội lần thứ XVI của Đảng Cộng sản Liên Xô, ngày 27-6-1930, dưới đầu đề “Cuộc thế giới kinh tế khủng hoảng''.
Tạp chí Cộng sản là một bước phát triển mới, cao trong lịch sử các tạp chí của Đảng ta. Nội dung phong phú, sinh động, từ những nguyên tắc lý luận, đường lối chính trị gắn với chỉ đạo hoạt động thực tiễn của Đảng, phê bình uốn nắn những nhận thức và hành vi không đúng của một số đảng viên, bảo đảm cho toàn Đảng thống nhất về tư tưởng và tổ chức.
- Tạp chí Bônsơvích:
Được sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản, tháng 4-1934, Ban lãnh đạo của Đảng ta nước ngoài được thành lập, làm nhiệm vụ của Trung ương lâm thời. Lê Hồng Phong làm Trưởng ban, đặt cơ sở ở Ma Cao, Trung Quốc.
Tháng 6-1934, Ban lãnh đạo của Đảng ở nước ngoài cho xuất bản Tạp chí Bônsơvích, cơ quan của Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng Cộng sản Đông Dương từ số 1, đến số 10, tháng 2-1935. Đại hội lần thứ I của Đảng họp ở Ma Cao tháng 3-1935, bầu ra Ban Chấp hành Trung ương. Không rõ tại sao Tạp chí Bônsơvích ngừng xuất bản một năm, đến tháng 2-1936 mới ra số 11; sau đó ra hằng tháng từ số 11 đến số 15 (tháng 6-1936); cách ba tháng sau, mới ra số 16, ngày 9-9-1936.
Tạp chí gửi đến Quốc tế Cộng sản, phía Liên Xô chụp lại và chuyển cho Đảng ta số 10, tháng 2 -1935, số 15 tháng 6-1936, số 15 tháng 6-1936 (Quốc tế Cộng sản nhận được ngày 14-10-1936); số 16 (Quốc tế Cộng sản nhận được ngày 19-l-1937).
Như vậy là các số từ 1 đến 9 chưa rõ nội dung. Các số 11, 12, 13 là tìm hiểu qua bản dịch của mật thám Pháp (ví dụ: số 11, tháng 2-1936, dịch ra chữ Pháp ngày 16-6-1936; số 12, ngày 1-3-1936, dịch ngày 21-3-1936) tóm tắt những ý chính của mỗi bài.
Cho đến nay, Tạp chí Bônsơvích ra được bao nhiêu số, số cuối cùng, ngày, tháng nào chưa xác định.
Dưới đây là nội dung số 10 và 15.
Số l0 có 47 trang. Mở đầu là bài ''Công tác trong sáu tháng vừa qua”. Bài viết nhắc lại quá trình phục hồi Đảng từ ngày trung ương bị vỡ do địch đánh phá, điểm lại tình hình tổ chức của Đảng, báo chí của Đảng, công tác vận động thanh niên, công nhân, nông dân, phụ nữ, binh lính, hoạt động của Hội Phản đế đồng minh, Hội Cứu tế đỏ, phong trào đấu tranh của quần chúng trong sáu tháng vừa qua (từ tháng 9-1934).
Bài ''Trước lúc Đại hội Đảng phải nghiên cứu bản ''Chương trình hành động của Đảng'' một cách thế nào?”, trước hết khẳng định ý nghĩa chỉ đạo cách mạng cho toàn Đảng, có đủ giá trị làm cơ sở cho dự thảo văn kiện Đại hội Đảng. Các đảng bộ có trách nhiệm thảo luận bản ''Chương trình”, đồng thời hướng dẫn cách thảo luận để chuẩn bị Đại hội Đảng, và phê bình những thái độ không đúng đối với “Chương trình''. Những phần tử không chịu một phần hay cả bản Chương trình hành động thì nhất luật khai trừ ra khỏi Đảng (Tác giả: H. T. C: Hồng Thế Công).
Bài ''Công tác của các đảng bộ ở miền Nam từ 1933 tới 1934”; nói qua về tình hình các xứ uỷ bị địch phá, hệ thống tổ chức Đảng bị tan rã. Nam Kỳ tổ chức lại xứ uỷ bốn lần, nhưng đảng viên phức tạp, có bộ phận chống xứ uỷ Đảng viên trong tù nặng bi quan. ''Họ lo cho tiền đồ cách mạng, kỳ thực họ miệt thị năng lực sáng tạo của giai cấp vô sản vậy''.
Đầu năm 1933 đã tổ chức lại xứ uỷ Nam Kỳ, giữa năm 1934, liên lạc được cả Đông Dương.
Tạp chí còn có các bài: ''5 năm Yên Bái bạo động - Những bài học của bạo động''; “Ủng hộ cách mạng Xiêm''; ''Cách mạng tranh đấu của dân tộc Thổ” (các dân tộc thiểu số miền núi Bắc Kỳ); ''Công hội vận động 1934'', ''Vấn đề nông hội ở Cao Bằng''.
Mỗi bài trên, tạp chí đều trình bày tình hình, đánh giá sâu sắc cụ thể, uốn nắn những lệch lạc về nhận thức, chủ trương hoạt động và tổ chức đoàn thể để đẩy mạnh phong trào và phát triển đấu tranh thắng lợi.
Những tài liệu ấy bổ sung và đính chính những cuốn lịch sử về phong trào công nhân và công đoàn, công hội, về báo Lao động của ta hiện nay.
Các số Tạp chí Bônsơvích rơi vào tay mật thám Pháp, chúng ta biết qua bản dịch ra chữ Pháp:
Số 11, tháng 2-1936, có hai vấn đề lớn:
- Đại hội lần thứ VII của Quốc tế cộng sản;
- Mặt trận nhân dân chống chủ nghĩa đế quốc ở Đông Dương.
Vấn đề thứ hai có 7 điểm:
l. Động viên quần chúng đấu tranh đòi các quyền lợi kinh tế thiết thực hằng ngày, gắn đấu tranh kinh tế với đấu tranh chính trị tùy ý thức giai cấp và lực lượng đấu tranh.
2. Chống khủng bố trắng, đòi ân xá chính trị phạm.
3. Ủng hộ các cuộc đấu tranh của dân tộc thiểu số, chống chủ nghĩa dân tộc lớn và dân tộc hẹp hòi.
4. Thương lượng với các đảng, các nhóm, các tổ chức quốc gia cách mạng, phái đối lập cộng sản (tức là phái tơrốtxkit), quần chúng trong các tổ chức quốc gia cải lương, trên cơ sở một chương trình chống đế quốc nhất định, lập mặt trận nhân dân chống đế quốc. Tùy theo điều kiện địa phương, tổ chức những hình thức hợp pháp, nửa hợp pháp, lập mặt trận nhân dân chống đế quốc ở mỗi xí nghiệp, hầm mỏ, đồn điền, làng, thành phố, khu vực, tỉnh, vùng cho đến toàn Đông Dương.
5. Trên cơ sở chương trình tối thiểu, thành lập các nghiệp đoàn, ái hữu để tổ chức quần chúng lại.
6. Các cơ quan của Mặt trận phải gồm những người tích cực nhất Đảng giúp họ về tổ chức và đấu tranh khi tình thế thay đổi.
Đảng phải giải thích cho quần chúng về nguy cơ chiến tranh đế quốc can thiệp vào Liên Xô và Xôviết Tàu; lãnh đạo quần chúng đấu tranh chống đế quốc, vì hòa bình, bảo vệ Liên Xô, bảo vệ Đông Dương và Xôviết Tàu.
7. Chống nguy cơ hữu khuynh; chống chủ nghĩa biệt phái, coi thường năng lực chống đế quốc của quần chúng và các tổ chức chống chủ nghĩa đế quốc.
Thành lập Mặt trận nhân dân chống chủ nghĩa đế quốc là một phần của việc tăng cường, phát triển và thống nhất Đảng.
Mở rộng Mặt trận là nhiệm vụ hằng ngày, cấp bách của Đảng, là một điều kiện đầu tiên đi tới thắng lợi của cách mạng Đông Dương.
Số 13, tháng 4-1936, có ''Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản Đông Dương về ngày 1-5-1936”.
(Số 16, ngày 9-9-1936, thuộc về thời kỳ vận động dân chủ, ở phần sau).
- Tạp chí Cộng sản:
Đây là tạp chí của Liên Chấp uỷ địa phương Nam Đông Dương, xuất bản số l, tháng 6-1933; số cuối cùng, số 19, ngày l-1-1985 (có bài viết của tạp chí và Tạp chí Bônsơvích: ''Liên địa phương Chấp uỷ miền Nam Đông Dương''). Trần Văn Giàu làm nhiệm vụ Tổng biên tập, viết phần lớn các bài trên các số (có số viết toàn bộ) từ số đầu đến số cuối, trước ngày bị địch bắt. Các bài có tên tác giả II. Nam = Hồ Nam, một bút danh của Trần Văn Giàu trong nhiều năm, từ thời học Liên Xô.
Hiện nay Tạp chí Cộng sản phần lớn không còn giữ được (có hai số là của mật thám dịch sang chữ Pháp một số bài, đánh số và tháng xuất bản trùng với bản chữ Việt, nhưng bài lại khác nhau).
Sau đây là nội dung chính của mấy số.
Số 1, tháng 6-1933, bìa “Lời nói đầu”, nói về làm cách mạng phải có lý luận cách mạng: ''Mấy năm hoạt động, bước đường tuy ngắn, nhưng kinh nghiệm đã nhiều, mình phải tìm tòi khảo cứu, bỏ dở được hay. Mấy năm tranh đấu, bao nhiêu khuynh hướng hoạt đầu đã nảy nở, mình phải xung đột trên hai mặt trận để bảo tồn chủ nghĩa Mác - Lênin cho trong sạch, trừ diệt các tư tưởng sai lầm trong hàng ngũ của mình''. ''Vì những lẽ ấy mà cần phải có một cơ quan lý luận'', ''vì những lẽ ấy mà ''tạp chí chính sách'' ra đời''.
Bài “Hiện tình thế giới, ở Đông Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng Cộng sản Đông Dương” dài 7 trang viết: Thế giới ngày nay chia làm hai hệ thống xung khắc nhau ngày càng kịch liệt, một bên là mấy xứ tư bản, một bên là Liên bang Xôviết.
Ở Liên bang Xôviết không có kinh tế khủng hoảng. Kinh tế phát triển lành mạnh theo kế hoạch, đời sống vật chất và tinh thần của người lao động ngày càng cao. Thực tế đó bác bỏ lý thuyết phản cách mạng của tơrốtxkit.
Các nước tư bản đang bị khủng hoảng kinh tế tàn phá. Giai cấp thống trị dùng phương pháp phát xít đàn áp cách mạng. Tuy vậy, ở các nước tư bản chính chưa có tình hình trực tiếp cách mạng.
Đông Dương là bộ phận của kinh tế tư bản thế giới nên không tránh khỏi khủng hoảng, trái lại gánh kinh tế khủng hoảng trên vai lao động càng nặng nề 10 phần.
Phong trào cách mạng ở Đông Dương nổi lên trong cuộc khủng hoảng, từ năm 1932 xuống thấp. Làn sóng tranh đấu trước đã qua, làn sóng sau đã thấy và đương ào tới. Tới sớm hay muộn, mạnh hay yếu là tùy sức tổ chức, tranh đấu của Đảng Cộng sản và quần chúng lao động.
Tình hình lúc này, nhiệm vụ căn bản là khôi phục Đảng Cộng sản, chung quanh có đoàn thể của công nông ủng hộ, đủ tài sức lãnh đạo hàng triệu lao động chiến đấu. Tác giả phác họa lịch sử nước ta từ khi Pháp xâm lược, các tổ chức yêu nước chống Pháp qua các thời kỳ: ''Các đồng chí phải gỡ mặt nạ của bọn đồ đệ tơrốtxkit dám bảo rằng Đảng Cộng sản do các phần tử tả phái của Quốc dân Đảng lập ra''. Về Đảng Cộng sản thống nhất, bônsơvích hóa và những nhược điểm của Đảng về lý luận, tư tưởng và tổ chức; về chỉ đạo chính trị không gắn cách mạng phản đế với cách mạng điền địa, xem nhẹ cách mạng điền địa; không thấy hết nguy cơ của chủ nghĩa quốc gia cải lương to lớn thế nào v.v..
Trang l5, có bài “Lý luận cách mạng Đông Dương'' do Hà Nội (Trần Văn Giàu) viết:
Cuối cùng là bài ''Gỡ mặt nạ chủ nghĩa tơrốtxkít!”. Mở đầu trích dẫn câu của Xtalin: ''Chủ nghĩa tơrốtxkit không phải là một cái cánh cửa cộng sản chủ nghĩa, trái lại nó là đội tiền quân của tư bản phản cách mạng''.
Đây là một bài dài đăng nhiều kỳ, lần đầu tiên phê phán chủ nghĩa tơrốtxkit và các nhóm tơrôtxkit ở  Đông Dương trên một tạp chí lý luận của Đảng ta (tạp chí địa phương) một cách có hệ thống, và cũng là duy nhất trong suốt thời kỳ 1930- 1936.
- Con đường chính20:
Con đường chính là tờ báo luận chiến của chi bộ cộng sản Nhà tù Hỏa Lò với phía tù nhân là Việt Nam Quốc dân Đảng, xuất hiện năm 1932.
Nguyên nhân cơ bản của việc ra báo: trong Nhà tù Hỏa Lò những năm 1930 - 1932 có hai loại tù chính trị, Việt Nam Quốc dân Đảng và cộng sản, (ngoài ra có một số tù thường phạm) có sự khác biệt về hệ tư tưởng, lý luận, quan điểm chính trị, phương pháp đấu tranh. Khi ở ngoài tù, hai bên hành động riêng biệt, ít có quan hệ với nhau và cùng tồn tại. Đến khi vào tù, sống chung trong trại giam, tiếp xúc hàng ngày, hằng giờ, những bất đồng bộc phát dẫn tới trực tiếp luận chiến.
Nhân cuộc lễ kỷ niệm 3L hằng năm, ngày 21-1-1932, một đảng viên của ta lên nói về thân thế và sự nghiệp của Lênin, Liếpnếch, Lúcxămbua, không nắm vững nội dung trình bày, chuẩn bị không kỹ, diễn đạt lúng túng trước khán giả, bao gồm cả cộng sản và Quốc dân Đảng.
Phía Quốc dân Đảng cười nhạo báng: ''đấy là giai cấp công nhân chính cống đấy! Họ muốn lãnh đạo cả chúng mình''. Sau đó họ ra báo Đường cách mạng phê phán những vấn đề chính trị và lý luận của cộng sản. Chi bộ cộng sản chủ trương ra báo Con đường chính, phân công Đặng Xuân Khu (Trường Chinh) làm chủ bút, với dút danh ''Cây Xoan''.
Cuộc tranh luận mở rộng trên nhiều vấn đề, từ những khái niệm lý luận, kinh nghiệm đấu tranh, nội dung chính trị, quan điểm triết học và lịch sử triết học, kinh tế và lịch sử phát triển của kinh tế xã hội loài người, v.v. được dẫn giải từ những vấn đề trong nước và nhiều nước trên thế giới, lịch sử và hiện đại.
Chính cuộc đấu tranh này, một mặt củng cố hàng ngũ cộng sản; mặt khác, thúc đẩy sự phân hóa trong hàng ngũ Quốc dân Đảng, làm cho một số ly khai, có cảm tình với cộng sản, làm cho những phần tử phản động bị lúng túng thất bại về lý luận và suy giảm về lực lượng, cô lập trước đối thủ.
Cuộc luận chiến xoay quanh mấy vấn đề:
- Tổ quốc là gì? Phía Quốc dân Đảng định nghĩa là bụi tre xanh, là ruộng lúa, là ông xã đoàn buông diều, là thằng bé con đánh khăng trước cột đình v.v..
Con đường chính hỏi lại: Chỉ có thế thôi ư? Những cái đó có mất đâu, vẫn còn đấy! Chúng ta mất Tổ quốc là mất chủ quyền định đoạt vận mệnh nước ta, nhân dân ta. Mác nói: vô sản giai cấp không có Tổ quốc nghĩa là ngay một nước độc lập (không phải thuộc địa), giai cấp vô sản bị giai cấp tư sản chiếm đoạt mọi quyền lợi, cả cho đến con người làm thuê tiền công rẻ, khi kinh tế khủng hoảng, thất nghiệp thì tự do chết đói! Tổ quốc ta bị đế quốc xâm lược thì phải chiến đấu giành lại chủ quyền cho nhân dân, xây đựng đời sống ấm no hạnh phúc, không phải để cho giai cấp tư sản lợi dụng áp bức, bóc lột nhân dân.
Ngoài ra còn có bút chiến về khởi nghĩa Yên Bái, về chủ nghĩa, về triết học và chủ nghĩa triết học...
Cuộc bút chiến kéo dài nhiều tháng, đến cuối năm 1932, khi cuộc vượt ngục của Nguyễn Lương Bằng, Nguyễn Tạo, Hào Lách, Nguyễn Trọng Đàm, Bùi Xuân Mẫn, Nguyễn Đình Tuyển, Vũ Duy Cương diễn ra, địch khủng bố rất dữ dội, xóa bỏ mọi chế độ lục soát gay gắt... Cuộc bút chiến, viết báo buộc phải ngừng lại. Những cuộc gặp gỡ trao đổi đều bị cấm ngặt.
Mặt khác, sự thất bại về lý luận, chính trị của những trí thức Quốc dân Đảng làm họ tự hoài nghi về con đường đi của mình, đội ngũ của họ bị suy yếu dần.
Trong hoàn cảnh đấu tranh với kẻ thù như thế, báo chí cách mạng xứng đáng là vũ khí trí tuệ sắc bén của Đảng để giáo dục, động viên, chỉ đạo, tổ chức đảng viên và quần chúng chiến đấu và chiến thắng.
Những kinh nghiệm quý báu của việc biên tập, xuất bản báo chí thời kỳ 1925 - 1936 có giá trị lâu dài đối với Đảng ta. Về nội dung tư tưởng, lý luận và chính trị thì đây là thời kỳ đầu của cả quá trình đấu tranh lâu dài, liên tục của cách mạng Việt Nam, mở ra truyền thống anh dũng, độc đáo, sáng tạo của báo chí cách mạng Việt Nam.
III- BÁO CHÍ CÁCH MẠNG VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ MẶT TRẬN DÂN CHỦ 1936 – 1939
l. Phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương với sự phát triển báo chí
Sang đầu năm 1936, tình hình chính trị - xã hội nước ta vẫn cơ bản như năm trước. Chính sách cai trị của thực dân Pháp không có gì mới. Những hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế đã được khắc phục, nhưng điều kiện để phát triển gặp rất nhiều hạn chế. Cuộc sống của nhân dân có phần ổn định hơn, nhưng còn bấp bênh.
Nhìn chung, những yếu tố chính trị chuyển biến tích cực, rõ nét hơn nhưng không đều và chưa có dấu hiệu cho sự xuất hiện của một phong trào trên quy mô cả nước với cấp độ cao.
Trong thời gian này, phong trào chống chủ nghĩa phát triển ở nhiều nước trên thế giới đang phát triển giành được nhiều thắng lợi, nhất là ở Pháp và Tây Ban Nha; điều đó ảnh hưởng nhiều đến Việt Nam.
Ngày 12-1-1936, Chương trình của Mặt trận nhân dân Pháp được công bố lần đầu tiên trên báo L’Oeuvre xuất bản ở Pari, biểu hiện sự lớn mạnh của Mặt trận nhân dân. Chương trình đề ra những cải cách dân chủ, tiến bộ, toàn diện xã hội Pháp và các thuộc địa Pháp để tập hợp và tăng cường lực lượng bảo vệ nền dân chủ tư sản, chống chủ nghĩa phát xít, theo tư tưởng chỉ đạo của Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản.
Ngày 26-4-1936, cuộc tổng tuyển cử Quốc hội Pháp, Mặt trận nhân dân giành được đa số phiếu. Ngày 3-5, vòng hai, thắng lợi của Mặt trận được củng cố. Một Chính phủ cấp tiến do L. Blum đứng đầu, làm Thủ tướng được thành lập, trình Quốc hội, được thông qua trên 64% phiếu.
Ở Hà Nội, Nguyễn Thế Rục, Trần Huy Liệu, Trần Định Long, Nguyễn Đức Kính, Lê Văn Phúc, Nguyễn Mạnh Chất v.v. đã chuẩn bị từ tháng 5, đúng ngày 6-6-1936 ra số l, báo Hồn trẻ tập mới. Đây là sự trùng hợp với ngày Chính phủ Pháp chính thức thành lập, không phải ngẫu nhiên, mà có sự tính toán, dự đoán tài tình, kỳ diệu của những người cộng sản.
Hồn trẻ tập mới đi tiên phong, mở đường cho báo chí của Đảng và các tổ chức quần chúng cách mạng xuất bản công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp trong thời kỳ vận động dân chủ, trực tiếp đưa tiếng nói của những người cộng sản qua phương tiện báo chí, đến với nhân dân đông đảo.
Ngày 26-7-1936, Trung ương họp quyết định lập Mặt trận nhân dân phản đế rộng rãi, gồm các đảng phái, các tầng lớp nhân dân thích hợp với điều kiện thực tế ở xứ Đông Dương.
Căn cứ vào nội dung hội nghị này, các hội nghị trung ương sau đó bổ sung hoàn chỉnh, cụ thể hóa, đề ra khẩu hiệu lập Mặt trận Dân chủ thống nhất Đông Dương.
Khi trung ương họp hội nghị ở một địa điểm tại nước ngoài, ở Sài Gòn những người cộng sản hoạt động công khai: Nguyễn Văn Tạo, Nguyễn Văn Nguyễn, Dương Bạch Mai, Nguyễn Thị Lựu và những trí thức có cảm tình với Đảng có sáng kiến đề ra cuộc vận động Đại hội Đông Dương (khi đó thường viết là Đông Dương Đại hội). Nguyễn An Ninh thay mặt cho nhóm viết một loạt bài bằng chữ Pháp đăng báo La Lutte:Tiến tới một Đại hội Đông Dương'' (số 92, ngày 29-7-1936), “Hãy bắt tay vào Đại hội Đông Dương'' (số 93, ngày 5-8-1936) v.v.. Sáng kiến này được Trung ương Đảng đồng tình, ủng hộ, kêu gọi đồng bào nhiệt liệt hưởng ứng. Đế quốc Pháp hoảng sợ trước phong trào sôi nổi trên toàn xứ Đông Dương, Chính phủ Pháp theo dõi chặt chẽ tình hình, nhất là thấy Đảng Cộng sản đã vào cuộc chỉ đạo phong trào, liền ra lệnh cấm đại hội, trước hết ở Nam Kỳ từ ngày 15-9, sau đó đến Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Phong trào phải dừng lại, nhưng cho ta những kinh nghiệm quý về đấu tranh và tổ chức quần chúng, nhận rõ bản chất của Chính phủ Blum ở Pháp và chính quyền thuộc địa phản động ở Đông Dương; hiểu rõ năng lực tổ chức và lãnh đạo quần chúng của Đảng ta; các bạn đồng minh gần, xa và kẻ thù của nhân dân, tay sai của giới phản động thuộc địa trong tình hình mới.
Thực hiện chủ trương của Đảng, ta thắng trận đầu với việc đưa Trịnh Văn Phú ra tranh cử bổ sung vào Viện Dân biểu Bắc Kỳ cuối năm 1936 đầu năm l937. Trịnh Văn Phú là đảng viên Đảng Cộng sản Pháp. Vì tham gia biểu tình, bị trục xuất về nước tháng 5-1936. Anh bí mật bắt liên lạc với các đảng viên cộng sản ở Hà Nội khi tổ chức đảng bị địch phá chưa được gây dựng lại. Báo Le Travail do nhóm cộng sản chủ trương xuất bản, ra số l, ngày 16-9-1936 đưa Trịnh Văn Phú làm chủ nhiệm. Trịnh Văn Phú tranh cử với danh nghĩa đại biểu nhóm Le Travail, cả địch đều hiểu nhóm cộng sản. Do kết quả vận động tốt, Trịnh Văn Phú trúng cử, thắng tay sai của địch, trở thành ''nghị viên''.
Cùng với Phan Tử Nghĩa, Trịnh Văn Phú soạn thảo bài phát biểu để đọc ngày 8-11-1937 ở Đại hội Hội đồng Viện Dân biểu Bắc Kỳ về vấn đề lao động. Đây là tiếng nói ''cộng sản'' lần đầu tiên trong lịch sử dân biểu ở Đông Dương của thực dân Pháp.
Năm 1937, Viện Dân biểu Trung Kỳ hết nhiệm kỳ, tổ chức dân bầu lại. Dưới sự chỉ đạo tài tình của Xứ uỷ Trung Kỳ trực tiếp là Phan Đăng Lưu, ta kết hợp nhiều hình thức cổ động, dùng báo Sông Hương tục bản, cử cán bộ đi vào quần chúng tuyên truyền, vận động cử tri bầu cho những người do ta đưa ra, vạch mặt những tên buôn dân, bán nước... Kết quả 18 người của Mặt trận Dân chủ trúng cử, trong tổng số 49 người vừa bầu, vừa do chính quyền chỉ định. Đây là một thắng lợi to lớn, làm cho kẻ thù hết sức bất ngờ. Một tổ chức của Mặt trận Dân chủ được thành lập ngay trong Viện Dân biểu đã làm thay đổi một phần bộ mặt và sắc thái của tổ chức này ngay từ ngày thành lập.
Trên 4.000 tù chính trị còn bị giam dữ. Cuộc đấu tranh đòi thả tù chính trị trước kia diễn ra liên tục, quyết liệt, nhưng ít hiệu quả.
Chương trình của Mặt trận nhân dân Pháp trở thành Chương trình của Chính phủ L. Blum. Phần thứ nhất ''Yêu sách chính trị'', mục I ''Bảo vệ quyền tự do'', điểm l ''Tổng đại xá''. Ta dựa vào quy tắc pháp lý ấy, tổ chức nhiều hình thức đấu tranh đòi tha tù chính trị; từ trong nhà tù, gia đình các người tù cùng với báo chí, phối hợp với nhân dân Pháp và hoạt động của Uỷ ban đòi ân xá tù chính trị ở Đông Dương của Pháp, buộc chính quyền thực dân phải mở cửa nhà tù cho trên 2.000 tù chính trị được ra, tuy vẫn phải quản thúc, bắt đầu đợt l kể từ ngày 4-7-1936. Đây là một thắng lợi to lớn, góp phần quan trọng vào việc khôi phục, củng cố và phát triển thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Những đồng chí như Nguyễn Văn Cừ, Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Chí Diểu, Phan Đăng Lưu và nhiều cán bộ kiên cường dũng cảm, thông minh được rèn luyện, thử thách, ra khỏi nhà tù. Một số đồng chí đã học tập, công tác ở nước ngoài trở về, như Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn Thị Minh Khai... cùng nhau đẩy tới một cao trào cách mạng mới.
Bọn phản động thuộc địa rất ngoan cố, vẫn tìm cách giữ lại 1.500 tù chính trị21, không chịu thả ra, có người bị chuyển thành tù thường phạm mang án hình sự, như Tôn Đức Thắng, Phạm Hùng, Lê Văn Lương, Nguyễn Lương Bằng, v.v.. Trong khi đó, chúng vẫn tiếp tục bắt cán bộ ta vào tù vì vi phạm điều này, luật nọ. Cuộc đấu tranh gay gắt đòi tha hết tù chính trị tiếp diễn trong suốt những năm đấu tranh cho dân chủ.
Với các cuộc đấu tranh của công nhân chống giai cấp tư sản trong nước và nước ngoài bóc lột, buộc Tổng thống Pháp Lơbroong và Bộ trưởng Thuộc địa Mutê ký sắc lệnh ban hành ''Luật Lao động'', cải cách chế độ lao động ở Đông Dương ngày 30-12-1936. Các nhà tư sản tìm nhiều cách không thi hành đầy đủ các điều quy định của sắc lệnh, còn chính quyền thì thờ ơ không can thiệp. Mâu thuẫn về kinh tế cơ bản không được giải quyết.
Nhiều cuộc đấu tranh dưới danh nghĩa Mặt trận Dân chủ được quần chúng đông đảo ủng hộ. Cuộc bầu cử đại biểu thay thế cho hai vị trí của Mặt trận bị nhà cầm quyền bãi miễn vì hoạt động báo chí cách mạng vào Viện Dân biểu Trung Kỳ. Tuy vậy, việc bầu cho Đặng Thai Mai thay chân Phan Thanh, làm thất bại người của chính quyền đưa ra v.v..
Chiến tranh thế giới thứ hai bắt đầu, thời kỳ vận động đấu tranh cho dân chủ kết thúc. Đảng ta chuyển vào hoạt động bí mật, chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và thay đổi sách lược cho phù hợp với tình hình chiến tranh và tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc. Các tổ chức dân chủ của quần chúng cách mạng ngừng hoạt động. Các tổ chức phản đế được xây dựng bí mật.
Đảng ta học tập được nhiều kinh nghiệm quý thành công và không thành công trong lãnh đạo cách mạng, già dặn, vững vàng, đầy tự tin tiến vào thời kỳ mới, vượt qua mọi gian khổ, hy sinh, đi tới những thắng lợi vẻ vang đang đặt ra trước mắt.
2. Chính sách báo chí của chính quyền thực dân
Trong suốt ba năm vận động dân chủ, Chính phủ Pháp và chính quyền thực dân có trên 40 văn bản quy định bổ sung về báo chí và quan hệ đến báo chí.
Ngày 12-8-1936, Chính phủ Pháp ra sắc lệnh nới về báo chí do Tổng thống Lơbroong ký có tiếp chữ ký của Bộ trưởng Tư pháp Ruyca, Bộ trưởng Thuộc địa Mutê; ngày 17-9-1936, Xinvétxtơrơ thay mặt Toàn quyền Đông Dương Rôbanh, ký nghị định ban hành ở Đông Dương. Sắc lệnh có ba điều. Sau đây là điều l và điều 2.
''Điều 1: Trong các lãnh thổ Trung Kỳ, Bắc Kỳ, Cao Miên và Lào, việc công bố hay truyền bá bằng bất cứ biện pháp nào những tin tức sai lầm, những văn bản xuyên tạc và vu cáo đối với người khác vì cố tình mà làm giảm lòng tin, sẽ bị phạt tù từ 3 tháng đến một năm và phạt tiền từ 100 đến 3.000 phrăng, hoặc một trong hai hình thức đó, khi ấn phẩm hoặc việc truyền bá ấy dẫn tới làm rối loạn kỷ luật và đạo đức và các lực lượng lục quân, hải quân và không quân''.
“Điều 2: Những vi phạm điều trên sẽ bị đưa ra xử trước tòa án tiểu hình''.
Sắc lệnh này không thực hiện ở Nam Kỳ là đất thuộc Pháp. Một sự thật khách quan nào đưa lên báo có thể làm cho kẻ thù sợ hãi, ''cho đó là tin tức sai lầm'', ''văn bản xuyên tạc và vu cáo” bị chính quyền thực dân lấy cớ làm án một cách độc đoán và đàn áp báo chí.
Rất nhiều đơn gửi lên Toàn quyền xin phép ra báo đã bị bác. May lắm có tờ nào được ra thì cũng qua một thời gian dài điều tra, xem xét.
Theo báo cáo của các nhà báo cách mạng ở Hà Nội với Ônen (Honel), đại biểu Đảng Cộng sản Pháp, nghị sĩ Quốc hội Pháp trong dịp sang Đông Dương, cuộc họp báo Hội đồng Chính phủ tháng 8-1937 xét 43 đơn xin ra báo, chỉ duyệt có hai đơn22.
Khi tờ báo Dân chúng, cơ quan trung ương của Đảng xuất bản công khai ở Sài Gòn không xin phép, dựa vào phong trào dân chủ đang lên và luật tự do báo chí của Quốc hội Pháp mà Nam Kỳ được hưởng, bị bọn thực dân cầm quyền làm sai lạc đi trong mấy chục năm, buộc chúng phải thừa nhận tính nửa hợp pháp trong thời gian đầu.
Ngày 30-8-1938, hơn một tháng sau khi báo Dân chúng ra số l, Tổng thống Pháp Lơbroong ký sắc lệnh, tiếp ký là Bộ trưởng Thuộc địa Măngđen, được Toàn quyền Đông Dương Brêviê ra nghị định riêng cho Nam Kỳ ngày 7-10-1938, gồm hai điều, trong đó:
Điều 1: Các điều 2 và 4 trong sắc lệnh ký ngày 30-12-1898 về chế độ báo chí ở Đông Dương từ nay bãi bỏ''23.
Như vậy là các báo chí và ấn phẩm định kỳ xuất bản ở Nam Kỳ không cần xin phép trước. Nhưng chính quyền thực dân chỉ công nhận giá trị điều 5 của luật ngày 29-7-1881 riêng đối với Nam Kỳ. Các thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng đều là nhượng địa cho Pháp, có quy chế cho Nam Kỳ. Ta đòi thực hiện sắc lệnh ngày 30-8-1938 ở cả ba thành phố này. Pháp lấy lý do là các nơi ấy mới nhượng cho Pháp từ ngày 3-10-1888, tức là sau luật ngày 29-7-1881 hơn 7 năm, do đó không đủ điều kiện hưởng quyền tự do báo chí như ở Nam Kỳ. Hành vi xảo trá đó chính là nhằm trốn tránh thi hành luật tự do báo chí.
Các văn bản pháp quy về báo chí không quy định thời hạn chung từ khi cho phép đến khi xuất bản là bao nhiêu lâu, nếu kéo dài quá thời hạn đó thì không được xuất bản nữa. Nhưng khi ký nghị định, Toàn quyền Đông Dương tùy tiện cho thời hạn khác nhau đối với từng tờ báo. Đời nay, 1936, Tiểu thuyết thứ năm, 1937, thời hạn là 6 tháng. Dân, 1938, thời hạn là 3 tháng. Trước kia, từ năm 1931, tờ báo nào đã có nghị định của Toàn quyền cho phép xuất bản rồi, bao nhiêu lâu sau đó, 3 tháng, 6 tháng hay hơn nữa mới ra số 1 là tùy người được phép24.
Theo các sắc lệnh và nghị định, một tờ báo vi phạm một điều luật nào đó sẽ bị đưa ra xét xử trước tòa án tiểu hình. Phan Tử Nghĩa, Giám đốc tờ báo chữ Pháp Rassemblement! (do Xứ uỷ Bắc Kỳ bí mật chỉ đạo, danh nghĩa là tuần báo chính trị, kinh tế và xã hội ra ngày thứ ba, cơ quan của tất cả các lực lượng dân chủ Đông Dương) bị gọi ra tòa đại hình ngày 4-12-1937, bị truy tố về tội xuất bản nối tiếp theo Le Travail.
Đây là lần đầu tiên và cũng là một lần duy nhất một tờ báo ở Đông Dương bị gọi ra tòa đại hình25.
Hội Ái hữu báo giới người Nam Kỳ (viết tắt là AJAC) do nhà cầm quyền chủ trương lập ra từ ngày 22-6-1932 vẫn tồn tại, nhưng thay đổi nhân sự hội đồng quản trị để đề phòng những người dân chủ nắm lấy tổ chức đấu tranh với chúng.
Toàn quyền Robanh ban hành nghị định bỏ chế độ kiểm duyệt báo chí ở Đông Dương từ ngày l-l-1935. Nay đứng trước tình hình bóng mây Chiến tranh thế giới thứ hai đang bao phủ trời Âu, việc bùng nổ chỉ còn tính ngày giờ, Toàn quyền Brêviê ra nghị định thu hồi nghị định bỏ kiểm duyệt, trở lại chế độ kiểm duyệt từ ngày 29-8-1939. Nhiều tờ báo in ra lại xuất hiện những đoạn, những cột, cho đến cả những trang bỏ trắng, ấn vào đó chữ ''kiểm duyệt''.
Đơn xin xuất bản báo mới lúc này đều bị xếp lại, không xét.
Sắc lệnh của Chính phủ Pháp ngày 26-9-1989, sau điều l và điều 2 cấm các đảng cộng sản và các đoàn thể do đảng cộng sản tổ chức và chỉ đạo hoạt động, điều 3 viết về báo chí: “Nghiêm cấm việc đăng báo, lưu hành, bày bán, cất giữ báo chí và ấn phẩm định kỳ hay không định kỳ, kể cả hình các hình vẽ, tuyên truyền những khẩu hiệu của phái Đệ tam quốc tế và những cơ quan có quan hệ với phái ấy''.
Đến khi đứng trước ngưỡng cửa của chiến tranh, bọn cầm quyền thẳng tay xóa bỏ những điều cải cách, tiến hành chính sách phát xít đối với báo chí, đàn áp báo chí tiến bộ, khủng bố các nhà báo dân chủ và cách mạng. Nhiều tờ báo phải đình bản. Các nhà báo cách mạng từ công khai chuyển nào hoạt động bí mật.
3. Toàn cảnh báo chí Việt Nam
Theo thống kê của Phủ Toàn quyền, đến tháng 6-1936, cả nước có 230 tờ báo, tạp chí, tập san các loại. Đến 6 tháng cuối năm 1936 tăng lên 47 tờ, cộng cả năm 1936 là 277 tờ. Năm 1937 có 289 tờ, tăng hơn năm 1936 là 12 tờ (4,3%). Năm 1938 là 308 tờ, tăng hơn năm 1937 là 19 tờ (6,5%). Đến năm 1939 tiếp tục tăng lên, 6 tháng cuối năm 1939 dừng lại.
Tính bình quân hằng năm tăng gần 5%, trong đó tốc độ tăng của báo chí Bắc Kỳ và Nam Kỳ lên đều nhau. Trung Kỳ năm 1938 lai sụt hơn năm 1936, có 26/27 tờ.
Về thể loại, khuynh hướng chính trị tăng nhanh hơn so với kinh tế, văn hóa, giáo dục, nghệ thuật, xã hội, tôn giáo...
Báo cách mạng lần đầu tiên xuất hiện công khai trên mặt trận báo chí. Phần lớn báo cách mạng ra mắt công chúng dưới hình thức nửa hợp pháp và hợp pháp, chỉ có khoảng trên 10 tờ là xuất bản bí mật.
Tờ La Lutte là diễn đàn chung của một nhóm cộng sản như Nguyễn Văn Tạo, Nguyễn Văn Nguyễn... với nhóm tơrốtxkit Tạ Thu Thâu... từ năm 1933. Đến tháng 5-1937, nhóm tơrốtxkit giành lấy La Lutte, những người cộng sản tách ra làm báo L’ Avant garde của Trung ương Đảng. Từ đây cho đến khi báo ngừng xuất bản tháng 6-1939, La Lutte là báo của riêng nhóm tơrốtxkit Tạ Thu Thâu.
Nhóm tơrốtxkit đứng đầu là Hồ Hữu Tường có những điều bất đồng với Tạ Thu Thâu, cho xuất bản một số tờ riêng và công kích lẫn nhau.
Một vài tờ báo ở Sài Gòn và Hà Nội ngả theo khuynh hướng tơrốtxkit.
Có tờ lúc đầu theo khuynh hướng tự do, có thời gian ngả về Mặt trận Dân chủ, thân thiện với cộng sản, ít lâu sau lại ngả theo tơrốtxkit như tờ Nghề mới xuất bản ở Hà Nội.
Tờ Phổ thông lúc đầu là tự do, được Trung ương Đảng Cộng sản thuê lại, trở thành cơ quan trung ương của Đảng, sau đó một nhóm tơrốtxkit thuê lại với giá cao hơn ta, trở thành tiếng nói của tơrốtxkit.
Trong các nhà tù, còn khoảng l.500 tù chính trị, trong đó đông nhất là Côn Đảo, trước đây đã từng ra báo, thời kỳ này cũng không có báo; các nhà tù khác đều như thế.
Việc giao lưu giữa báo chí trong nước và nước ngoài mở rộng từ cuối năm 1936. Nhiều tờ báo, nhất là báo cách mạng được gửi đi Pháp, Trung Quốc, đến với Quốc tế Cộng sản. Nhiều tổ chức chính trị, xã hội, văn hóa, nhiều nhân vật lãnh đạo của các tổ chức dân chủ, tiến bộ và cộng sản nhận được báo xuất bản ở Việt Nam gửi tới. Mặt khác, chúng ta có điều kiện tiếp nhận báo chí xuất bản ở nước ngoài bằng cách công khai nhập và bày bán ở các hiệu sách, quầy báo bán lẻ và qua bưu chính phát hành; chưa kể những tạp chí cộng sản in bằng chữ Pháp đi bằng con đường bí mật đến Trung ương Đảng và các xứ uỷ.
Đầu năm 1939, báo từ trong nước ra, ngoài nước vào bị hạn chế, thu hụt dần. Đến ngày sắp bước vào chiến tranh, các pháp lệnh cấm Đảng Cộng sản hoạt động ở Pháp và các thuộc địa của Pháp được ban hành, việc giao lưu báo chí giữa ta với nước ngoài cũng bị cấm hẳn.
4. Báo chí cách mạng
a) Những đặc điểm ra đời, tồn tại và phát triển của báo chí cách mạng xuất bản công khai
Báo cách mạng xuất bản công khai ra đời không giản đơn như các báo khác, mà là cả một nghệ thuật chỉ đạo tài tình, linh hoạt của Đảng. Ra đời rồi, nhưng chiến đấu như thế nào để có thể tồn tại, phát triển, chống lại các thế lực thù địch muốn bóp chết nó khi mới xuất hiện hay ít nhất kiềm chế nó.
Sau đây là một số phương pháp.
- Ra báo chữ Pháp:
Theo các văn bản pháp quy đã ban hành, báo chữ Pháp do người Pháp hay người Việt chủ trương đều phải xin phép, chỉ cần làm một số thủ tục đơn giản. Ra báo chữ Pháp có nhược điểm là người đọc ít, số lượng in thấp nên giá bán cao. Lợi dụng điều kiện thuận lợi mới, thông qua lớp người đọc hiểu thông Pháp để tác động vào dư luận xã hội ta, gây tiếng vang đến dư luận Pháp, góp thêm vào tiếng nói đấu tranh chung với những tờ báo tiếng Việt. Mỗi tờ báo chữ Pháp in nhiều không quá 2.000 bản, 4 trang, bán bảy xu. Chúng ta đã ra tất cả 6 tờ báo chữ Pháp: Le Travail, Rassemblement! L’Avant garde, En avant!, Le Peuple, Notre voix. Từ ngày 16-3 đến 16-4-1937, Xứ uỷ Bắc Kỳ chỉ đạo đồng thời hai tờ: Le Travail và Rassemblement!
Trên măng sét, có tờ không nói cơ quan ngôn luận của ai. Có tờ đề là của lao động, của ''dân chúng'', của “các lực lượng dân chủ''. Bài viết nhiều khi không có tên tác giả; có khi một tên bất kỳ, lúc ký tên này, lúc ký tên khác, vẫn là một người.
- Chuyển báo đã được phép từ trước, không cách mạng thành cách mạng, bằng cách thuê, mua lại:
Báo Hồn trẻ xuất bản từ ngày 15-4-1935 đến ngày l2-12-1935 được 10 số, rồi ngừng. Sáng suốt bắt mạch tình hình chính trị bắt đầu chuyển động thuận lợi, Nguyễn Thế Rục và một số đảng viên hoạt động ở Hà Nội vận động Nguyễn Mạnh Đang quản lý tờ Hồn trẻ cho sử dụng, lấy tên Hồn trẻ tập mới để kịp thời bắt tay vào cuộc đấu tranh cho dân chủ, hoan nghênh thắng lợi của Mặt trận nhân dân Pháp, tích cực hưởng ứng cuộc vận động Đại hội Đông Dương. Hồn trẻ tập mới trở thành báo cách mạng do những người cộng sản giữ vai trò chủ yếu. Đương lúc cuộc vận động Đại hội Đông Dương lên cao, thực dân Pháp hoảng sợ liền ra lệnh thu hồi giấy phép xuất bản, sau khi báo ra số 12, ngày 21-8-1936.
Về sau, nhiều tờ báo đã được xuất bản theo cách như thế, hoặc giữ tên gốc, Sông Hương, thêm tục bản, thành Sông Hương tục bản, hoặc giữ nguyên tên cũ: Tiếng trẻ, Hà thành thời báo, Thời thế, Việt dân, Kịch bóng, Phổ thông, Đời nay.
Dùng cách này, mua hẳn tên báo thì gọn, đỡ phiền nhiễu. Thuê thì có khi chủ nhân đòi lại cho người khác thuê với giá cao hơn, tờ báo từ cách mạng rơi vào tay phản cách mạng như tờ Phổ thông (1938).
Về mặt pháp lý, những tên người viết đơn xin phép vẫn còn nguyên trên măng sét nên giữ được tính hợp pháp, cứ việc xuất bản như là một sự tiếp nối, mặc dù nội dung đã khác hẳn, không phải xin phép lại.
Báo Tân xã hội được phép xuất bản theo Nghị định số 2339, ngày 29-4-1936, nhưng chưa ra số nào, lại có đơn xin thay đổi nội dung và được chuẩn y báo Khỏe, danh nghĩa là tờ báo thể thao.
Đây là một hiện tượng đặc biệt trong lịch sử quản lý báo chí chính quyền thực dân ở Đông Dương và cũng là bài học về tổ chức một tờ báo cách mạng phải có phương pháp tế nhị, kín đáo, không gây ồn ào.
- Xin phép ra báo:
Trung ương và các xứ uỷ của Đảng đưa người tốt, cảm tình Đảng làm đơn đứng tên xin phép ra báo tư nhân một cách bí mật. Nội dung trong đơn chỉ viết chung chung không cụ thể, rõ ràng. Ta đã làm như thế và có kết quả như: Nguyễn Văn Lữ với Nhành lúa, Hồ Cát với Kinh tế tân văn, Đỗ Kiết Triệu với Tiến hóa tạp chí, Lương Văn Tuân với Tin tức, Nguyễn Xuân Các với Dân.
Sau khi nộp đơn, trong thời gian chờ đợi xét duyệt, ta đã chuẩn bị đầy đủ để khi nhận được nghị định là ra được nhanh Tin tức, l tháng 10 ngày sau ra số 1; Nhành lúa, 2 tháng 20 ngày; Kinh tế tân văn, 8 tháng; Dân, 3 tháng 10 ngày.
- Báo của một xứ, in và phát hành ở một xứ khác:
Ở Trung Kỳ, chế độ vua quan Nam triều phản động, thẳng tay đàn áp báo chí. Một tờ báo cách mạng, biên tập, in và phát hành tất cả ở ngay trên đất Trung Kỳ nên gặp nhiều khó khăn, có khi không thực hiện được. Để khắc phục tình hình đó ta dùng nhiều cách đối phó.
Nhành lúa được biên tập ở Huế, gửi ra in ở nhà in Đông Tây, 193 phố Hàng Bông, Hà Nội, do một đồng chí của Xứ uỷ Bắc Kỳ được phân công lo liệu, giúp đỡ. In xong, phát hành ngay ở Hà Nội, đi các nơi trong nước và đi Pháp. Riêng số 5 ra ngày 12-2-1937, đặc biệt, biếu không, chỉ có một trang nhỏ như truyền đơn là in ở Huế.
Sau khi báo Dân bị cấm, Xứ uỷ Trung Kỳ cho ra tờ Dân tiến, biên tập ở Trung Kỳ, tòa soạn và trị sự đặt ở 16D, đường Nguyễn Tấn Nghiệm, Sài Gòn. Xứ uỷ Nam Kỳ cử Huỳnh Văn Thanh đứng tên quản lý. Lúc này (tháng 12-1938) luật tự do báo chí đã được thực hiện ở Nam Kỳ. Dân tiến xuất bản được 5 số rồi đình bản. Dân muốn ra thay Dân tiến cũng biên tập ở Trung Kỳ, Phan Văn Tạo được Xứ uỷ Nam Kỳ cử ra làm quản lý, in và phát hành ở Sài Gòn.
- Ra báo tiếng Việt không xin phép:
Trung ương Đảng chủ trương ra báo tiếng Việt không xin phép, dựa trên hai yếu tố:
Một là, dựa vào Luật tự do báo chí ngày 29-7-188l đã ban hành ở Nam Kỳ, nơi có tự do báo chí như ở Pháp. Tuy bị sắc lệnh ngày 30-12-1898 xóa bỏ phi pháp, nay có điều kiện buộc chính quyền phải thực hiện theo đúng luật. Đây là văn bản pháp lý cao nhất, và chỉ có khả năng thực hiện ở Nam Kỳ;
Hai là, dựa vào phong trào quần chúng đang lên cao trong cả nước, hàng loạt tờ báo cách mạng đã ra đời, được sự ủng hộ mạnh mẽ của Mặt trận nhân dân Pháp.
Sau một thời gian ngắn chuẩn bị, ngày 22-7-1938, báo Dân chúng, cơ quan trung ương của Đảng, dưới danh nghĩa: “cơ quan của lao động và dân chúng Đông Dương'', xuất bản công khai ở Sài Gòn, không xin phép, chỉ làm thủ tục khai báo như quy định của Luật tự do báo chí năm 1881, đi ngược với mọi thể lệ vẫn phải theo đối với một tờ báo mới xuất bản từ gần 40 năm qua.
Dân chúng mở đường cho hành loạt tờ tự do xuất bản không phải xin phép, trong đó có các tờ báo cách mạng như Lao động, Dân tiến, Dân muốn, Đông Phương tạp chí, Tiến tới.
Có người cho rằng Dân quyền, Tiếng chuông mới là những tờ báo ra không xin phép trước hết. Sự thật là thế nào?
Báo Dân quyền do S. Xăngđriơ, người Pháp, chủ trương được phép xuất bản từ ngày 23-3-1935. Nhân phong trào Đại hội Đông Dương, Dân quyền đăng bài hưởng ứng. Ngày 23-8-1936, Dân quyền nhận được lệnh thu hồi giấy phép. Ngày 8-9-1936 Dân quyền vẫn xuất bản, lập tức cả bộ máy đàn áp được điều động đến đối phó: báo bị tịch thu, chủ nhân bị truy tố trước tòa án Sài Gòn. Xăngđriơ chống án về Tòa nhượng thẩm Pari. Sau hơn một năm xem xét, Tòa nhượng thẩm Pari tuyên bố trắng án cho Xăngđriơ ngày 29-12-1937.
Tiếng chuông của Hoàng Minh Đầu xuất bản không xin phép, ra số l ngày 13-5-1937, liền bị Cục Biện ký và Sở Mật thám gọi lên thẩm vấn. Trước cường quyền, không có thế và lực Hoàng Minh Đầu xin nhận tội và thôi ra báo.
Thực tế lịch sử đó cho ta đủ cơ sở để khẳng định rằng: Dân chúng là tờ báo đi tiên phong, mở đường cho tự do báo chí thắng lợi.
Báo chí cách mạng ra sức lợi dụng mọi điều kiện thuận lợi, mọi phương tiện kỹ thuật có thể có để thu nhập thông tin, đến tận nơi điều tra sự việc và đưa lên báo tương đối nhanh. Máy thu thanh, điện thoại, điện báo được sử dụng để lấy tin và liên lạc; xe lửa, ô tô, tàu thủy, xe đạp được sử dụng để phát hành báo. Dân chúng bị khủng bố ngày 7-3-1939, từ Sài Gòn điện cho Notre voix ở Hà Nội, nhận được ngay trong ngày 8-3-1939, số 0990/3/8/1014 của Dương Trí Phú. Trên mặt trận báo Notre voix số 9, ra ngày 12-3-1939, tin đưa và tố cáo nhà cầm quyền vi phạm Luật tự do báo chí ở Nam Kỳ.
Về tin thế giới, chúng ta nhận qua máy thu thanh và bản tin của ARIP26 do Pháp quản lý, vì vậy phải dựa vào đó mà phân tích, bình luận cho đúng sự thật, bóc được cái vỏ che đậy và xuyên tạc của họ.
Một số tờ báo từ khi mới xuất bản đã công bố kỳ hạn, nhưng nhiều tờ kể cả khi xin phép và không xin phép đều không nói kỳ hạn. Thực tiễn đấu tranh làm kỳ hạn công bố thay đổi. Trước hết là do nhiệm vụ chính trị mà ta chủ trương ra mau hơn, ví dụ tờ Tin tức, lúc đầu ra cách nhau 7 ngày, sau đó khoảng cách còn 3, 4 ngày, như các số 12, 13, 14, 15, v.v.. Dân chúng có khi cách nhau 7 ngày, có khi cách nhau 3, 4 ngày, như các số 30, 31, 32; thậm chí cách nhau 1, 2 ngày như các số 58, 59, 60. Có khi do địch khủng bố, ta phải có thời gian ổn định để tổ chức, kiểm vốn mới lại ra được báo, như Dân chúng, số 53 sau số 52 ba tuần.
Ta cố gắng phấn đấu đưa số lượng in của mỗi tờ báo lên cao dần để đáp ứng yêu cầu của bạn đọc, nhưng địch lại tìm cách dìm số lượng xuống: tăng giá giấy lên làm cho ta hụt vốn; thu hẹp phạm vi độc giả bằng cách ra lệnh cấm lưu hành trong từng xứ...
Những số có nội dung đặc biệt và số tết thường in cao vọt lên, ví dụ Tin tức thường dao động giữa con số 5.500 và 6.000 bản, nhưng số 26, đặc biệt, ủng hộ hòa bình (từ ngày 17 đến ngày 20-8-1938) in 8.000; Dân chúng thường in trên dưới 6.000 bản, số đặc biệt kỷ niệm ngày thành lập Đảng (3-1 và 7-l-1939) in 10.000 bản, số xuân 1939 in 15.000 bản.
Ta giác ngộ và tổ chức công nhân; nâng cao cảnh giác; phát hiện tay sai của địch; chép lại các bài báo của các đồng chí có cương vị quan trọng rồi mới đưa đến nhà in, không đưa nguyên bản viết tay của tác giả; tranh thủ chủ nhà in để đối phó lại hoạt động của địch.
Trước khi phát hành, báo phải nộp lưu chiểu theo quy định của nhà cầm quyền. Ở cuối mỗi số báo hay tạp chí, có chữ viết tay ngày nộp lưu chiểu, số lượng in, chữ ký của giám đốc hoặc chủ nhiệm. Số lượng báo in ra của mỗi số đã nói lên một phần thế mạnh của báo chí nước ta. Những thế mạnh còn biểu hiện nhiều ở tổ chức đọc báo. Các tổ đọc báo, thư viện bình dân được lập ra ở nhiều nơi do Đảng đề xuất và chỉ đạo hoạt động, thường tập trung người đến nghe đọc, trao đổi và bình luận, làm cho số lượng bạn đọc nhiều lên mấy chục lần so với con số phát hành.
b) Nội dung chủ yếu và những hình thức thể hiện của báo chí cách mạng
Báo chí được dịp đăng nhiều bài công khai tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin với tính cách là vũ khí chiến đấu của giai cấp công nhân và nhân dân ta trên con đường giải phóng.
Sông Hương tục bản đăng liền trên 3 số: 8, 9, 10, ra ngày 26-8, ngày 2 và ngày 11-9-1937, bài ''Văn học và chủ nghĩa duy vật” của Hải Triều. Mới đăng từ số 2 đến số 5, ra từ ngày 15-5 đến ngày l-7-1939, bài ''Ý tưởng và học thuyết nhân quả” của Sơn Trà. Tô Vệ dịch “Kinh tế học mácxít'' của G. Baby đăng trên tờ Đời nay.
Những bài văn chính luận là một loại hình văn học có tính khoa học, tính chiến đấu mạnh mẽ.
Những bài lý luận chính trị trên Notre voix như ''Chủ nghĩa dân tộc và chúng tôi'' (số l, 2), “Lênin và mặt trận nhân dân'' (số 4), “Lênin bàn về chiến tranh và hòa bình'' (số 12, l3); trên Dân chúng, như: ''Chiến tranh và quyền tự do dân chủ'' (số 19), ''Cách mạng và cải lương'' (số 34, 35) v.v..
Những bài chính trị mang tính lý luận, trên Tin tức có “Đi tới Mặt trận Bình dân Đông Dương'' (số 7, 8), “Mặt trận Bình dân hay Mặt trận Dân chủ (số 9), “Đi tới Mặt trận Dân chủ Đông Dương'' (số 11), ''Chính sách lập Mặt trận Dân chủ (số 25); trên Notre voix,“Nền hòa bình mà chúng ta muốn'' (số l), Bảo vệ hòa bình như thế nào?” (số 2), ''Với nhân dân Pháp'' (số 6). Nhân kỷ niệm lần thứ 150 ngày cách mạng dân chủ tư sản Pháp (1789). Võ Nguyên Giáp với bút danh Hồng Thạch, viết một bài nghiên cứu tính chất, ý nghĩa của cuộc cách mạng tư sản, liên hệ với tình hình đấu tranh cho tự do dân chủ, cải thiện đời sống hiện tại, đăng trên Notre voix 5 số liền (từ số 18 đến số 22) với nhan đề “Kỷ niệm lần thứ 150 cuộc cách mạng Pháp và chính sách của chúng ta để phòng thủ Đông Dương một cách vững chắc”, v.v..
Lần đầu tiên văn kiện của Đảng được đăng công khai trên báo Le Peuple số 26, ngày 23-6-1938, với nhan đề “Bức thư công khai của Đảng Cộng sản Đông Dương gửi Đảng Cộng sản Pháp”; sau đó lại đăng ''Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản Đông Dương đối với thời cuộc''. Dân chúng là tờ báo thứ hai, sau Le Peuple, đăng “Bức thư công khai của Đảng Cộng sản Đông Dương gửi Đảng Cộng sản Pháp'' (số 31) và ''Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản Đông Dương đối với thời cuộc'' (số 62), còn các tờ báo khác chỉ nói đường lối, quan điểm của Đảng dưới hình thức trình bày tinh thần với danh nghĩa Mặt trận Dân chủ.
Nhân kỷ niệm lần thứ chín ngày thành lập Đảng, lần đầu tiên Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương công bố một tài liệu nghiên cứu về lịch sử, đăng trọn 4 trang số 41 và phần lớn số 42 trên báo Dân chúng, nhan đề ''15 năm vận động cộng sản và 9 năm thành lập Đảng Cộng sản ở Đông Dương”; “Lịch sử cộng sản vận động ở Đông Dương''. Notre voix số 2 và 3 đăng bài “Đảng Cộng sản Đông Dương 9 tuổi''. Đây là những bài viết có hệ thống, mang tính lý luận và có giá trị về lịch sử.
Về vấn đề quốc tế cùng với việc giới thiệu Quốc tế Cộng sản, báo chí có bài giới thiệu về G. Đimitơrốp, Tổng Bí thư của Quốc tế Cộng sản qua tiểu sử (Thế giới, từ số 3 đến số 9) và cuộc đấu tranh chống phát xít trước tòa án Laipxích, nhan đề ''Vụ án lớn nhất trong thời đại chúng ta” (Notre voix, số 9 và số 32), tạo nên lòng kính trọng sâu sắc và biết ơn của nhân dân ta đối với người cộng sản lỗi lạc, người anh hùng của thời đại.
Báo chí làm rõ ranh giới giữa ''Đệ tam quốc tế” (Quốc tế III - Quốc tế Cộng sản) là cách mạng với ''Đệ tứ'' là phản cách mạng, bảo vệ ''Đệ tam'', chống lại “Đệ tứ'' và đồ đệ của chúng là các phái tơrốtxkit ở Đông Dương.
Liên Xô từ lâu đã là niềm tin, niềm hy vọng của nhân dân ta. Trong thời kỳ này, báo chí cách mạng mở rộng tuyên truyền thường xuyên về Liên Xô, như trích đăng báo cáo của Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô ngày 3-3-1937 (L’Avant garde). Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ XVIII Đảng Cộng sản Liên Xô ngày 10-3-1939 (Notre voix), giải thích đúng đắn Hiệp ước Xô - Đức ký ngày 23-8-1939; giới thiệu, nghiên cứu, dịch thuật, sáng tác về văn học, ca ngợi Liên Xô.
Với Đảng Cộng sản Pháp và Mặt trận nhân dân Pháp, báo chí giới thiệu những chủ trương cải cách tiến bộ ở Pháp và các thuộc địa của Pháp, qua các bài phát biểu của M. Tôrê (M. Thorez), G. Đuyclô (J. Duclos), H. Lôđơray (H. Lozeray) đấu tranh trong nghị trường. Những hoạt động của Ônen (Honel), nghị sĩ cộng sản, uỷ viên Trung ương, phái viên trong thời gian sang Đông Dương được tường thuật, gây thiện cảm cho nhân dân. Việc Ônen đến Nhà hát lớn Sài Gòn xem diễn vỡ “Đời cô Lựu”, từ chối không tiếp đại diện phái tơrốtxkit được dư luận hết sức hoan nghênh.
Với mặt trận chống phát xít của các nước Tây Ban Nha, Trung Quốc, Ba Lan, Tiệp Khắc v.v., báo chí đưa tin, bình luận với thái độ tích cực ủng hộ các phong trào chống phát xít. Đối với Trung Quốc, báo chí không những ủng hộ bằng tinh thần mà còn vận động giúp đỡ quần áo, thuốc men, tiền bạc, đùm bọc những người chạy sang Việt Nam để tránh chiến tranh của phát xít Nhật.
Báo chí cổ động quần chúng tham gia những cuộc đấu tranh, đáng chú ý là những sự kiện lớn sau đây:
1. Cuộc vận động Đại hội Đông Dương tháng 9-1936. Phong trào mở đầu và phát triển trước hết ở Nam Kỳ, sau lan ra khắp Đông Dương. Hồn trẻ tập mới nhạy bén hưởng ứng say sưa, nhiệt tình, kịp thời thất. Le TravailTân xã hội hăng hái cổ động.
2. “Đón'' Gôđa và Brêviê đưa kiến nghị. Tháng 1-1937, Chính phủ Pháp cử Gôđa sang điều tra tình hình và Brêviê nhậm chức Toàn quyền Đông Dương, Đảng Cộng sản Đông Dương đã tổ chức, huy động, hướng dẫn quần chúng mang khẩu hiệu, viết nguyện vọng, đến nơi tập trung và đi có trật tự đến gặp Gôđa.
Cũng trong dịp này, báo chí hướng dẫn quần chúng tổ chức và làm kiến nghị đưa lên Toàn quyền và phản ánh tin tức về khí thế sôi nổi của quần chúng trong cả nước.
3. Bầu cử và đấu tranh nghị trường. Cuộc tranh cử đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông Dương đưa người ra là cuộc bầu bổ sung vào Viện Dân biểu Bắc Kỳ tháng l-1937, thay cho Trần Quang Vinh chết cuối năm 1936. Trịnh Văn Phú nhân danh nhóm Le Travail, đại biểu thương mại Hà Nội, dùng báo và truyền đơn cổ động, kết hợp với các hình thức vận động khác do Xứ uỷ Bắc Kỳ trực tiếp chỉ đạo đã thắng cử, làm nghị viện, đánh bại Phúc Đình tay sai của địch.
Trong cuộc bầu cử Hội đồng thành phố Hà Nội tháng 7-1937, Khuất Duy Tiến nhân danh nhóm Tin tức được giới thiệu ra ứng cử, là người của Mặt trận Dân chủ, đã từng viết trên tất cả các tờ báo xuất bản ở Hà Nội mà địch gọi là ''báo cộng sản''. Đơn của Khuất Duy Tiến bị bác, vì anh đã ''can án'' cộng sản từ Côn Lôn (Côn Đảo) về. Nhưng cử tri vẫn bỏ phiếu cho anh cùng với Phan Thanh và những người khác được Đảng vận động.
Cuộc bầu cử Viện Dân biểu Trung Kỳ tháng 8-1937, ta sử dụng tờ Sông Hương tục bản giải thích cho quần chúng hiểu quyền lợi của mình, chọn người xứng đáng để bầu, vạch mặt, chỉ tên những kẻ sâu mọt, thối nát. Kết quả, Mặt trận Dân chủ thắng lớn, gây được uy tín cao, nắm được cả chức viện trưởng, viện phó. Sau đó, Xứ uỷ Trung Kỳ sử dụng tờ Dân để chỉ đạo cuộc đấu tranh trong nghị trường, lập một chiến công lớn là làm phá sản dự án thuế thân thứ nhất và dự án thuế điền thổ do Khâm sứ đưa ra.
Trong cuộc bầu cử Viện Dân biểu Bắc Kỳ ngày 10-7-1938, Xứ uỷ Bắc Kỳ sử dụng tờ Tin tức, liên minh với các tờ Ngày nay, Demain, phê phán luật bầu cử bổ sung, buộc người ứng cử phải biết tiếng Pháp, hướng dẫn cử tri bầu cho người của Mặt trận Dân chủ, đăng danh sách trên báo phê phán bọn phản động các loại. Kết quả, Mặt trận Dân chủ giành được thắng lợi lớn. Trong dịp tranh cử ở Bắc Kỳ, ngoài báo xuất bản ở Hà Nội, các tờ Dân ở Trung Kỳ, Le Peuple Dân chúng ở Nam Kỳ đều lên tiếng cổ vũ, cũng như cuộc đấu tranh nghị trường ở Trung Kỳ được các tờ báo cách mạng ở Bắc Kỳ và Nam Kỳ lên tiếng ủng hộ.
Cuộc bầu cử Hội đồng thuộc địa Nam Kỳ tháng 4-1939, Dân chúng Tạp chí Đông phương tham gia, được Đời nay và Notre voix ở Bắc Kỳ hưởng ứng. Do những nguyên nhân khác nhau và khuyết điểm chủ quan, ta bị thất bại.
Báo chí cách mạng thời kỳ này có nhiệm vụ đấu tranh chống các xu hướng đối địch về tư tưởng và chính trị, bảo đảm cho quan điểm mácxít chiến thắng các xu hướng cơ hội, cải lương; đường lối đúng đắn của Đảng đánh bại đường lối chính trị phản động.
1. Trước hết, Đảng tuyên chiến với các nhóm tơrốtxkit
Tờ báo đầu tiên tiến công vào bọn tơrốtxkit ở Nam Kỳ là L’Avant garde, ở Bắc Kỳ là Hà thành thời báo.
Bài phê phán cơ bản và toàn diện nhất là “tơrốtxkít đối với tự do, hòa bình, cơm áo'' đăng trên 3 số Dân chúng (25, 26, 27), ra các ngày 15, 19 và 22-10-1938.
Đấu tranh chống tơrốtxkit đã trở thành một mục thường xuyên trên mặt báo cách mạng từ năm 1937 trở đi.
2. Đối với đồng minh trong mặt trận, có nhận thức lý luận chính trị không đúng, báo chí ra phê bình thân ái
Tin tức, số 1, ra ngày 2-4-1938, khen cuốn Cái họa Nhật Bản của Nguyễn Vy đả kích chủ nghĩa phát xít, ủng hộ cuộc kháng chiến của nhân dân Trung Quốc, bảo vệ hòa bình cho các dân tộc châu Á và thế giới. Nhưng cuốn sách có khuyết điểm là không phân ranh giới nước Pháp bình dân và phản động Pháp, nhân dân Nhật và phát xít Nhật. Trần Đình Long viết bài “Ông Hoàng Đạo hiểu lầm chủ nghĩa cộng sản”, đăng trên Tin tức số 9, ngày 4-11-1938, chỉ ra những sai lầm của Hoàng Đạo: Đảng Cộng sản muốn cách mạng trước rồi cải cách sau, thiên về chiến tranh, coi đó là cơ hội tốt làm cách mạng giành chính quyền; mong có những cuộc khủng hoảng để quần chúng khổ cực mới có điều kiện làm cách mạng.
Trong tình hình Đảng hoạt động không hợp pháp, vấn đề xây dựng Đảng về chính trị và tổ chức không đặt ra trên mặt báo, nhưng các ý kiến bất đồng ấp ủ từ trước gặp thất bại trong cuộc tranh cử Hội đồng thuộc địa Nam Kỳ bị đột nhiên đẩy ra công khai và bộc lộ những sai lầm ''tả'', hữu khuynh trong chính trị, sai lầm về nguyên tắc tổ chức, về phê bình và tự phê bình, về uy tín của Đảng và danh dự cá nhân.
Nguyễn Văn Cừ - Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương đã viết bài uốn nắn những sai lầm đó, gửi cho báo Dân chúng, rồi sau in thành cuốn “Tự chỉ trích'' góp phần quan trọng vào việc đoàn kết, thống nhất trong Đảng.
Trên mặt trận văn học nghệ thuật, Đảng Cộng sản quan tâm, chỉ đạo khá toàn diện về lý luận và phê bình, sáng tác văn xuôi, thơ, ca...
1. Về lý luận và phê bình văn học nghê thuật, các báo đăng nhiều bài nghiên cứu về tính giai cấp của văn học, quan hệ giữa văn học và hành động, hình ảnh người dân cày trong văn chương, quan hệ giữa nội dung và hình thức, nhà văn trong Đảng, nhà văn và tổ chức, phê bình trong văn học cách mạng v.v. để giải đáp những vấn đề thực tiễn của giới văn học đề ra, đăng trên các báo Hồn trẻ tập mới, Sông Hương tục bản, Dân chúng, Đời nay, Ngày mới, Tạp chí Đông phương.
Trong các bài nghiên cứu, lý luận, khi nào có phê bình, đồng thời có những bài bình luận một số tác phẩm, như bài Một chiến sĩ của Trương Tửu, Lầm than của Lê Văn Trương, vở kịch Ông ký cóp, v.v..
2. Về văn xuôi, Phạm Cự Đệ viết: Trong điều kiện công khai của Mặt trận Dân chủ, báo chí của ta mới chỉ giới thiệu được một số truyện ngắn, phóng sự (Ngục Kontum cửa Lê Văn Hiến), hồi ký (Ba năm Nga Xôviết của Trần Đình Long), nhật ký (Nhật ký tuyệt thực chín ngày rưỡi), phóng sự tiểu thuyết (Vượt ngục của Cựu Kim Sơn...). Văn học cách mạng đang cần những thể loại gọn nhẹ, trực chiến, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của người sáng tác (nhất là phần lớn những người sáng tác đó lại ở trong tù)27. Thực tế, chúng ta đã có một số truyện dài như “Ngục Kontum'' đăng trên Le Travail chỉ là trích dịch một ít đoạn, Nhật ký tuyệt thực chín ngày rưỡiVượt ngục lại không in trên báo chí. Các tác giả viết tác phẩm của mình phần lớn đều ở ngoài nhà tù, chứ không phải ở trong tù, và có người chưa vào tù bao giờ, còn lưỡi kéo kiểm duyệt đã tạm cất đi theo Nghị định Toàn quyền từ ngày l-1-1935 rồi.
Truyện dài, có thể kể đến như “Đến chết'' của Huỳnh Mai (Tân xã hội), “Hai làn sóng ngược'' của Học Phi (Tiếng trẻ, Tiểu thuyết thứ năm), “Xung đột'' của Tú Văn (Đời nay), ''Con vú già'' của Anh Sơn (Ngày mới). Có điều đáng tiếc là tất cả các truyện dài đều không được đăng trọn vẹn, có khi vì báo bị rút giấy phép mà phải ngừng, có khi vì thiếu tiền ra báo mà phải chuyển báo qua tay người thuê khác.
Truyện ngắn thì rất nhiều, đăng tải trên phần lớn các báo, cả tiếng Việt và tiếng Pháp. Có những truyện ngắn đã đạt tới trình độ tư tưởng và nghệ thuật cao, như ''Trước xác chết'' “Người đàn bà Tàu'' của Nguyên Hồng (Mới), ''Cô câm đã lên tiếng” “Người đàn bà điên'' của Đặng Thai Mai (Notre voix), một số truyện ngắn được giải thưởng báo Thế giới (1939), như “Bóng tối và ánh sáng”; “Kiếp em Oanh'' của Quỳnh Lam, ''Thưa mẹ con đây ạ'' của Lưu Vân An, v.v..
Tiểu phẩm là một thể loại được sử dụng rộng rãi bằng tiếng Việt và tiếng Pháp, có sức chiến đấu chống mọi kẻ thù, tuy ngắn gọn nhưng đòi hỏi tính tư tưởng và bút pháp điêu luyện. Đáng chú ý nhất là những bài trên Sông Hương tục bản gắn chặt với những bài văn chính trị và thơ ca, vạch mặt bọn đầu cơ tranh cử vào Viện Dân biểu Trung Kỳ của Phan Đăng Lưu. Các cây bút viết tiểu phẩm được bạn đọc thích thú nhất, ngoài Phan Đăng Lưu, có Cựu Kim Sơn tức Văn Tân (Tin tức), Uy Đồng (bút danh của Nguyễn Văn Trấn) (Dân chúng), Phan Thanh và Đặng Thai Mai (Le Travail, Notre voix).
3. Thơ, ca phát triển khá mạnh, có nhiều thành công. Những bài thơ trữ tình, giàu nhạc điệu, đậm đà tính dân ca, phản ánh cuộc sống thực tại, vạch ra con đường giải phóng xã hội, thu hút sự chú ý của bạn đọc đông đảo, được quần chúng tặng cho những tên như ''nhà thơ bình dân”, ''nhà thơ xã hội”, “nhà thơ của tương lai'' rất quen thuộc, như Thôn Dân, Dương Lĩnh, Hồ Xanh..., nhất là Tố Hữu (còn có bút danh là Linh Hòa, Tô Linh Hoài).
Tranh vẽ xuất hiện, nhưng chưa hình thành hẳn một dòng hội họa mang đặc trưng của báo chí cách mạng. Phần lớn các tranh hướng vào tố cáo và đả kích kẻ thù, đòi tự do dân chủ, thiếu hẳn những tranh tuyên truyền, cổ động để giáo dục quần chúng.
Ảnh lần đầu tiên xuất hiện trên báo chí cách mạng, có chân dung Mác, Ăngghen, Lênin, Xtalin, một số nhà hoạt động chính trị, văn hóa Liên Xô nổi tiếng. Ảnh tuyên truyền cho công cuộc xây dựng thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô; tố cáo đời sống khổ cực của nhân dân ta và phóng sự về những cuộc mít tinh của quần chúng nhân dân trong các ngày kỷ niệm lớn.
Nhìn chung, trên lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, báo chí đã đạt được những thành tựu đánh dấu một bước tiến lớn. Khuynh hướng văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa qua nghiên cứu và sáng tạo của các nhà văn cách mạng trong nước cùng với những tác phẩm văn nghệ Liên Xô và văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa Pháp đưa vào nước ta, công khai giới thiệu với bạn đọc, tăng cường trận địa mỹ học mácxít – lêninnít.
Dựa trên chủ trương lập Mặt trận Dân chủ của Đảng Cộng sản, các cán bộ, đảng viên hoạt động trên lĩnh vực báo chí đã vận động thành lập được Mặt trận báo chí dân chủ. Mặt trận báo chí dân chủ là một bộ phận của Mặt trận Dân chủ Đông Dương, hoạt động qua hai hình thức: 1. Hội báo giới; 2. Cùng nhau tham gia những cuộc đấu tranh chung do báo chí cách mạng đề xướng.
Đòi tự do báo chí và lập hội nhà báo là nguyện vọng thiết tha từ lâu của giới báo chí. Trước kia, điều kiện khách quan và chủ quan chưa cho phép thực hiện. Lúc này, phong trào quần chúng đang lên cao trong đấu tranh hợp pháp và sự xuất hiện công khai của báo chí cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, vấn đề lập hội mới có thể trở thành hiện thực.
Xứ uỷ Trung Kỳ Đảng Cộng sản Đông Dương nhạy bén với tình hình mới, sử dụng tờ Nhành lúa, phất lên ngọn cờ tập hợp các nhà báo trong xứ. Ngày 15-1-1937, Nhành lúa số 3 công bố hiệu triệu:
“Cùng anh em viết báo Trung Kỳ:
Chúng tôi lấy làm hân hạnh và tin cho các bạn biết rằng chúng tôi đương trù bị một cuộc hội nghị của toàn thể báo giới Trung Kỳ để thảo luận những vấn đề yêu cầu của chúng ta như:
Tự do báo giới, lập nghiệp đoàn báo giới.
Dưới ký tên 16 người, trong đó có những người hoạt động cộng sản có tên tuổi như Hải Triều, Lâm Mộng Quang và Nguyễn Chí Diểu (Ủy viên Trung ương Đảng).
Nhành lúa số 2, ra ngày 22-l-1937, bài ''Đoàn Bình'' viết: “báo giới có tự do mới có thể diễn đạt được tất cả những ý nguyện của nhân dân và phê bình những sự sai lầm của chính phủ''.
Ngày 23-1-1937, Nguyễn Xuân Lữ nhân danh Chủ nhiệm tờ Nhành lúa đứng ra tổ chức cuộc họp các nhà viết báo ở Huế vào 20 giờ tại hội quán Hội Quảng Trí. Các ông Huỳnh Thúc Kháng, Phan Bội Châu, Tiêu Diên Tử gửi thư hoan nghênh hội nghị.
Hải Triều kêu gọi: ''Tất cả những ai chăm lo hậu vận của xứ Đông Dương nên gạt bỏ mọi chia rẽ, hãy cùng lo giải quyết những vấn đề khẩn cấp cho sự sống còn của các dân tộc Đông Dương. Cần phải lập Mặt trận thống nhất đấu tranh cho tự do báo chí, tự do xuất bản. Tự do này không những cần kíp cho những người làm nghề báo chí mà cho cả quần chúng đông đảo là những người đọc báo, để bảo vệ sự sống còn của họ. Quần chúng đang xem xét và kiểm tra các người viết báo. Vì vậy những người viết báo phải để cho họ tham gia hội nghị, giúp cho báo chí có thêm lực lượng''.
Hội nghị thông qua chương trình nghị sự: lập Mặt trận thống nhất các nhà viết báo Đông Dương để đi tới tự do xuất bản sách, báo; yêu cầu các nhà chức trách cho tự do xuất bản; vận động nhân dân đòi tự do báo chí và kêu gọi những người tiến bộ ở Đông Dương và Pháp ủng hộ nguyện vọng đòi tự do xuất bản; lập Hội Ái hữu báo giới Trung Kỳ.
Đại biểu các đoàn thể hứa vận động giới mình hết sức ủng hộ các nhà báo đòi tự do báo chí.
Ngày 30-3-1987, Uỷ ban thường trực họp làm việc chuẩn bị cho hội nghị báo giới toàn quốc, có 12 người dự.
Dưới sự chỉ đạo của Xứ uỷ Bắc Kỳ, Đảng Cộng sản Đông Dương, những nhà báo cách mạng liên minh với các đồng nghiệp của mình ở Hà Nội, tổ chức một cuộc họp ngày 25-1-1937, lấy danh nghĩa là đại biểu những tờ báo bị cấm, tham dự có: Lê Tràng Kiều, Dương Tự Quán, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Công Việt, Trần Văn Tuyên, Nguyễn Uyểm Diễm, Nguyễn Xuân Huy, Võ Nguyên Giáp, Trần Huy Liệu, Lê Cường, Vũ Đình Huỳnh, Nguyễn Mạnh Chất.
Hội nghị quyết định thành lập ''Uỷ ban báo chí bị cấm'' (Comité de la presse interdite), bầu Chủ tịch uỷ ban: Trần Huy Liệu, Thư ký uỷ ban: Nguyễn Mạnh Chất, là hai nhà báo cách mạng.
Uỷ ban thông qua bức điện gửi cho Gôđa, đại biểu của Mặt trận nhân dân Pháp sang công cán ở Đông Dương đang có mặt ở Lào, như sau:
“Tin tưởng ở sứ giả của Mặt trận nhân dân''.
''Chúng tôi yêu cầu có cuộc yết kiến riêng của đoàn đại biểu báo chí bị cấm khi ngài tới Hà Nội''.
Ký: Uỷ ban lâm thời báo chí bị cấm.
57, phố Doudart de Lagrée.
Đây là hình thức tổ chức đầu tiên của Mặt trận báo chí dân chủ ở Bắc Kỳ, đấu tranh chống chính quyền đàn áp báo chí trong cao trào cách mạng 1936 – l939.
Tiếp theo Trung Kỳ là hội nghị báo giới Bắc Kỳ. Đội ngũ báo giới Bắc kỳ khá đông, số tờ báo nhiều gấp bốn lần Trung Kỳ. Khi khai mạc, ta có 5 tờ báo cách mạng. Hội nghị báo giới Trung Kỳ đã có ảnh hưởng tốt đối với báo giới Bắc Kỳ. Ta vận động được l3 tờ báo cùng thống nhất trên hai yêu cầu: 1. Đòi tự do báo chí; 2. Đoàn kết các nhà báo trong một tổ chức thống nhất, và ra bản Thông báo chung như sau:
Chúng tôi, 18 đại biểu của 18 báo quốc văn và Pháp văn ở Hà Nội, nhân cuộc gặp gỡ hôm 12-4 vừa qua tại báo quán Tương lai28 có công nhận ước đính một cuộc hội nghị các bạn làng báo và làng văn ở Bắc Kỳ để hưởng ứng với công việc của anh em làng báo Trung Kỳ vừa rồi, và để đi tới cuộc hội nghị toàn thể báo giới và văn giới Đông Dương, mục đích yêu cầu tự do ngôn luận.
Vậy chúng tôi xin mời các bạn đồng nghiệp đến hội họp cho đông đủ để cùng nhau bàn định về công việc ấy. Ta sẽ họp vào ngày thử bảy, 24-4-1937, đúng 19 giờ tại hội quán CSA, số l, phố Charles Coulier29.
Ngoài các nhà báo ra, chúng tôi xin mời cả các nhà văn đến gom góp ý kiến và xin đến biên tên trước 18 giờ ngày 22-4 tại tòa báo Tinh hoa30 để lấy giấy mời.
Các bạn nhà báo xin nhớ đem theo thẻ nhà báo.
Kính mời.
Đại biểu các báo ký tên: Le Travail, Rassemblement!, Hà Thành thời báo, Tiểu thuyết thứ năm, Bạn dân, Tương lai, Thời thế31, Ngày nay, Trung Bắc tân văn, Tinh hoa, Cậu ấm, Bắc Hà, Tiểu thuyết thứ bảy, Việt báo, Tin văn, Ích hữu, L’Effort indochinois, La patrie Annamite.
18 giờ ngày 24-4-1937, trên 200 người viết báo đến họp đều phải trình thẻ và ghi tên vào sổ cho mật thám kiểm tra. Hải Triều, đại biểu cho báo giới Trung Kỳ đến dự theo lời mời của Ban tổ chức. Ban trù bị trình bày bốn báo cáo về các vấn đề: những sắc lệnh hiện hành ở Đông Dương có hại cho xuất bản, báo chí; tình đoàn thể hữu ái trong làng báo; sự cần thiết và lợi ích của tự do ngôn luận. Hội nghị cử Phan Tử Nghĩa làm chủ tịch, Vũ Đình Chí làm thư ký.
Hội nghị cử ban triệu tập gồm 7 người, trong đó, ta có 3: Trần Huy Liệu, Đào Duy Kỳ, Nguyễn Đức Kính, và Uỷ ban quản trị, ta cũng có 3: Võ Nguyên Giáp, Phan Tử Nghĩa và Nguyễn Mạnh Chất. Nhiệm vụ của Uỷ ban quản trị là giao thiệp với báo giới Trung - Nam để chuẩn bị cho hội nghị văn giới - báo giới toàn quốc và sẽ tự giải tán khi hội nghị được triệu tập.
8 giờ tối ngày 9-6, hội nghị bắt đầu họp.
Hội nghị thảo luận và quyết định.
1. Nghiên cứu phương pháp đòi quyền lập nghiệp đoàn báo giới, không lập ái hữu. Chủ trương này có xu hướng ''tả'' khuynh, không biết lợi dụng ái hữu để tập hợp lực lượng và chuẩn bị điều kiện tiến tới nghiệp đoàn.
2. Bầu 19 uỷ viên chính thức và 5 dự khuyết vào Uỷ ban quản trị thường trực, kể cả người có mặt và vắng mặt. Trong số này có 3 nhà báo cách mạng: Khuất Duy Tiến, Trần Huy Liệu, Võ Nguyên Giáp, còn lại là những người thuộc nhiều xu hướng khác nhau. Có bảo hoàng như Phạm Lê Bổng, Lê Thăng và một số phần tử chống cộng như Nguyễn Triệt Luật, Ngô Văn Phú, Nguyễn Đức Phong, Phan Trần Chúc.
3. Uỷ ban quản trị thường trực có toàn quyền làm việt để đi tới hội nghị báo giới toàn quốc.
Sau hội nghị, Uỷ ban quản trị thường trực cử ra đoàn chủ tịch gồm 3 người, trong đó có Võ Nguyên Giáp; bốn thư ký, có Trần Huy Liệu tham gia và hai thủ quỹ, họp thành Ban trị sự.
Ở Nam Kỳ, ngày 27-8, Hội nghị báo giới khai mạc tại Hotel des Nations, Sài Gòn. Thành phần tham dự rất phức tạp. Đào Duy Kỳ, đại biểu cho báo giới Bắc Kỳ có mặt tại hội nghị. Trật tự trong hội nghị rất kém, người này phát biểu, người khác ở dưới la ó, một số bỏ về. Điều đó phản ánh tình hình chính trị đang dừng ở ngưỡng cửa chiến tranh, ta không có quần chúng, không hình thành được mặt trận.
Nguyễn Văn Trấn, đại biểu báo Dân chúng, đọc một bài diễn văn dài đề cập nhiều vấn đề, nhưng không gây được tiếng vang trong làng báo tại hội nghị. Sau đó bài được đăng trên số 80, số cuối cùng ra ngày 30-8-1939, đúng vào lúc mặt trận kết thúc vai trò lịch sử của mình, chiến tranh bùng nổ.
c) Một số tờ báo cách mạng tiêu biểu
- L’Avant garde:
Trong lúc tạm thời lợi dụng các tờ báo đã xuất bản từ trước như La Lutte, Mai, Dân quyền, Việt Nam, Đuốc nhà Nam... không còn đáp ứng được yêu cầu của tình hình cách mạng phát triển nữa, Trung ương Đảng thấy rằng cần phải có tờ báo trong tay làm vũ khí đấu tranh. Nhưng điều kiện ra báo tiếng Việt làm cơ quan trung ương chưa cho phép, vì những ràng buộc về chính sách báo chí phản động của nhà cầm quyền, phải tạm thời ra báo tiếng Pháp. Báo tiếng Pháp thì chỉ cần tờ khai, không phải xin phép, tuy rằng việc phổ biến bị hạn chế, số lượng phát hành ít, giá bán cao, người đọc không có nhiều..., nhưng có còn hơn không. Đây cũng là bước chuẩn bị đi tới ra báo tiếng Việt vào lúc thích hợp khi cao trào cách mạng của quần chúng xuất hiện làm tiền đề.
Sau một thời gian ngắn chuẩn bị khẩn trương, ngày 29-5-1937, L’Avant garde ra đời với danh nghĩa ''cơ quan của lao động và nhân dân Đông Dương'' do Hà Huy Tập, Tổng Bí thư của Đảng thay mặt Trung ương trực tiếp chỉ đạo. Nguyễn Văn Nguyễn làm nhiệm vụ Thư ký tòa soạn, Trần Văn Hiển32 quản lý. Biên tập viên có Nguyễn Thị Lựu, Nguyễn Văn Tạo, Trần Văn Kiết, Lê Văn Kiệt, Nguyễn Văn Trấn, Phạm Hữu Lầu, Tín Văn Quảng, Nguyễn Văn Nghĩa...
Tòa soạn đặt ở số nhà 43, phố Hamelin, Sài Gòn (nay là đường Lê Thị Hồng Gấm).
Ở số 1, bài mở đầu có nhan đề:
“Hỡi những người lao động
Những người bị áp bức ở Đông Dương!''
Bài báo viết: ''L’Avant Garde là tờ báo của tất cả các bạn. Nó tự nhận lấy nhiệm vụ bảo vệ các bạn chống lại tất cả các thị lực đế quốc và phong kiến bóc lột áp bức''.
“Dựa vào phương pháp mácxít - lêninnít, tờ báo sẽ hướng dẫn chắc chắn và tận tụy các bạn trong cuộc đấu tranh cho cơm áo hằng ngày, cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và xã hội''.
''L’Avant garde là một cơ quan chiến đấu của những người lao động. Đối lập với bọn tư bản, nó tố cáo sự cùng khốn của công nhân và nông dân. Nó kêu gọi tổ chức và đấu tranh, tất cả những ai đau khổ, không phân biệt dân tộc và màu da''.
Bài trên đây trình bày lập trường, quan điểm cơ bản của tờ báo cùng với sách lược đấu tranh trước mắt của nhân dân ta, là phương châm chỉ đạo tư tưởng và chính trị của tờ báo.
Trong 3 số liền (3, 4, 5), ở trang 2 có bài ''Vấn đề ruộng đất'' với đề mục “Nhận định việc chia ruộng đất như thế nào?” gồm có các chương: ''Việc chia ruộng đất Đông Dương'', ''Việc chia ruộng đất giữa bọn thực dân Pháp!”, ''Ruộng đất của bọn địa chủ bản xứ'', vạch trần một mâu thuẫn cơ bản của cách mạng Đông Dương là việc cướp ruộng đất của bọn địa chủ Pháp và bản xứ làm cho nông dân ngày càng mất nguồn sống.
L’Avant garde đấu tranh đòi tự do nghiệp đoàn, phản ánh tình cảnh sinh sống của công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động. Nhân dịp công nhân xe lửa Trường Thi (Vinh) bãi công, báo đưa tin và dành 4 cột của số (số này cho có 2 trang) viết bài ''Hơn 2.000 công nhân xe lửa đình công suốt từ Bắc đến Nam Đông Dương'', ''Công nhân các kho Trường Thi, Mương Mán, Diêu Trì, Biên Hòa, Sài Gòn, Mỹ Tho bỏ việc''.
Về nông dân, có bài ''Sự công phẫn ở Long Xuyên. Ruộng đất về tay nông dân'' (số 4).
Như đã phát biểu từ số l, L’Avant garde đặc biệt coi trọng việc đấu tranh chống bọn tơrốtxkit. Ngay số 1 đã có bài của Hồng Quý Vĩ (tức Hà Huy Tập) ''Chúng ta nói sự thật'' phê phán Tạ Thu Thâu viết bài chống Mặt trận nhân dân trên La Lutte, bảo vệ lập trường cửa báo L' Humanité và Đảng Cộng sản Pháp; bài “Một lập luận bịp bợm tiêu biểu tự nhận là “bônsêvích - lênnít'' của Militant (số 3) v.v..
Sau đó, L’Avant garde lại chuẩn bị ra số tiếp theo, biên tập xong ngày 27-7, đề ngày 31-7. Bản thảo được đưa đến Nhà in SATI từ 27-7, nhưng chủ nhà in là Phôcơnô (Phoqueneau) tìm mọi cách trì hoãn, đồng thời báo cho mật thám đến phá. Ngày 29-7, mấy tên mật thám dưới quyền chỉ huy của Côngtenlôni (Contelloni) đến nhà in tịch thu bản thảo không có lệnh công bố (Báo cáo số 4856, ngày 30-7-1937, cảnh sát Sài Gòn Sanh Ăngtoan Cămpana (Saint Antoine Campana ký)). L’Avant garde bị địch tìm mọi cách đối phó, phải ngừng xuất bản.
- Dân chúng:
Báo Dân chúng được Nguyễn Văn Cừ và Hà Huy Tập thay mặt Trung ương Đảng quyết định cho xuất bản trong một trao đổi tháng 4-1939. Nguyễn Văn Cừ với tư cách là Tổng Bí thư đã trực tiếp chỉ đạo và viết bài cho báo về những vấn đề lý luận và chính trị. Khi báo xuất bản thì Hà Huy Tập bị bắt tù, nên không có bài của anh viết cho Dân chúng.
Dân chúng ra không định kỳ và trên báo cũng chưa bao giờ công bố kỳ hạn, có khi một tuần một số, khi một tuần hai số, đặc biệt có khi một ngày một số…
Với 80 số báo, Dân chúng đã qua bốn người quản lý thay nhau là Dương Trí Phú, Trần Văn Kiệt, Huỳnh Văn Thanh, Hoàng Hoa Cương và in lần lượt ở ba nhà in tư sản Pháp và Việt: SATI, Bảo tồn, Xưa nay.
Đây là tờ báo ra được nhiều số, đứng thứ ba trong toàn bộ lịch sử báo chí cách mạng trước tháng 8-1945; là tờ báo được vinh dự đăng bài đầu tiên của Chủ tịch Hồ Chỉ Minh viết cho báo chí trong nước thời kỳ vận động dân chủ; là tờ báo in với số lượng cao nhất, có nhiều bạn đọc nhất trên đất Đông Dương trong cả quá trình lịch sử từ khởi thủy đến Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Dân chúng là tờ báo thứ hai, sau Le Peuple đăng nguyên văn mấy văn kiện của Đảng. Sau khi đăng Bức thư công khai của Đảng Cộng sản Đông Dương gửi cho các đảng, phái”, số 31 ngày 19-11-1938 đăng bài phát biểu hưởng ứng bức thư trên, nhan đề ''Cảm tưởng của chúng tôi đối với Bức thư công khai của Đảng Cộng sản Đông Dương gửi cho các đảng, phái'', như là bình luận về ý nghĩa của nội dung bức thư. Cuối bài có đoạn:Lần đầu được thấy trên mặt báo Quốc văn xuất hiện cái tên yêu quý của Đảng Cộng sản Đông Dương với một bức thư đầy đặn những lời trung thành về quyền lợi của giai cấp thợ thuyền và quyền lợi của dân tộc”.
Nhân kỷ niệm ''15 năm vận động cộng sản và 9 năm thành lập Đảng Cộng sản ở Đông Dương”, tờ Dân chúng dành cả số 41 và phần lớn số 42 đăng một bài dài về “Lịch sử cộng sản vận động của Đông Dương”. Mục đích của bài này là làm rõ một số vấn đề quan trọng như nguyên nhân kinh tế, xã hội sinh ra phong trào cộng sản; quan niệm của người cộng sản đối với xã hội và dân tộc; phác lại quá trình vẻ vang của phong trào cộng sản đấu tranh chống kẻ thù giai cấp và dân tộc từ năm 1924 - 1925; trình bày lập trường, quan điểm của Đảng với tình hình đương thời để thuyết phục, cổ vũ và tổ chức quần chúng đấu tranh cho những khẩu hiệu dân chủ thắng lợi, đập tan những quan điểm phản động, xuyên tạc của chủ nghĩa đế quốc và các nhóm tơrốtxkit về chủ nghĩa cộng sản, về Đảng Cộng sản và người cộng sản Đông Dương, về chủ trương của Mặt trận Dân chủ Đông Dương.
Dân chúng, số 10 ngày 24-8-1938 đăng bài phê bình nhà văn Thiếu Sơn33 nói về ''Vấn đề thanh niên và tương lai xã hội”, chỉ nói đến xinê, nhảy đầm, văn chương, thi phú, ăn mặc diện bộ. Bài báo chỉ ra rằng thanh niên phải đặt xã hội lên trên gia đình, lấy nghĩa vụ làm trọng thì mới có tương lai tốt đẹp cho non sông nước nhà.
Số Xuân 1939, Dân chúng có bài dài nhan đề ''Thanh niên muốn gì và phải làm gì?” đề cập đến: l. Tình cảnh thanh niên Đông Dương ra sao? 2. Cuộc vận động thanh niên. 3. Hiện giờ phải làm gì? Hô hào thanh niên đoàn kết trong Đoàn Thanh niên dân chủ, chống tay sai của Nhật khoác áo thầy tu lôi kéo họ, tham gia các phong trào quần chúng, đừng chỉ chú ý đến chính trị, lưu tâm đến vui chơi, giải trí.
Dân chúng mở đầu bài viết về phụ nữ, tuyên chiến với nữ sĩ Tuyết Dung, đăng trên 3 số 16, 17, 18, ba ngày 14, 17, 21-9-1938, chỉ rõ nội dung lý luận phản động của chủ nghĩa phát xít nhồi học thuyết của tư bản với đạo đức lễ giáo phong kiến thông qua hình thức văn chương lạc hậu đăng trên báo Đọc, số 19.
Dân chúng số 35, ngày 7-12-1938 và số Xuân còn có những bài ''Vấn đề phụ nữ giải phóng”; “Phụ nữ với ngày Tết'' phát triển lý luận của bài trên, uốn nắn những nhận thức lệch lạc, kết hợp rất chặt chẽ yêu cầu đấu tranh giải phóng hoàn toàn phụ nữ với đấu tranh cho dân chủ, dân sinh.
Về mối quan hệ giữa chiến tranh với quyền tự do, dân chủ là một vấn đề có tính lý luận và thời sự cấp bách. Các thế lực phản động tuyên truyền cho sự đối lập tuyệt đối giữa chiến tranh và dân chủ. Dân chúng số 19, ngày 24-9-1938 có bài “Chiến tranh với quyền tự do dân chủ''.
Trong thời kỳ vận động dân chủ, Đảng Cộng sản không chủ trương trực tiếp đòi xóa bỏ chế độ thực dân mà đòi cải cách. Để làm sáng tỏ quan điểm này, Dân chúng số 34 và 35 ngày 3 và 7-12-1938 đăng bài ''Cách mạng và cải lương”; nói rõ Đảng Cộng sản luôn luôn là cách mạng, không ảnh hưởng một chút nào của chủ nghĩa cải lương. Không những thế, còn kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cải lương. Bài báo kết luận: ''Muốn phân biệt cách mạng với cải lương, cần xét rõ mục đích và phương pháp tranh đấu để đi tới mục đích ấy chứ không nên thấy đòi cải cách thì cho là cải lương, thấy hô hào cách mạng đầu miệng thì là cách mạng''.
Dân chúng đấu tranh liên tục, mạnh mẽ đòi các quyền tự do dân chủ cơ bản, bức thiết: tự do báo chí; tự do lập các hội ái hữu và nghiệp đoàn, tự do hội họp và biểu tình, đòi thả hết tù chính trị; đòi cải cách chế độ tuyển cử và các hội đồng dân biểu; chống trở lại Hiệp ước năm 1884.
Sau khi buộc nhà cầm quyền phải ban hành sắc lệnh ngày 30-8-1988, hàng loạt tờ báo ở Nam Kỳ ra đời không phải xin phép. Tuy vậy, Dân chúng vẫn phải đấu tranh chống lại sự khiêu khích, khủng bố của kẻ thù đối với bản thân mình cũng như với các tờ báo cách mạng khác; tố cáo trên mặt báo và trước tòa án về việc chính quyền vi phạm luật tự do báo chí.
Với học sinh, Dân chúng (số 23, 25, 26, 27 ngày 8, 15, 19, 22-10-1938) nói lên tình cảnh thảm hại của nhà trường thiếu giáo viên, học sinh thiếu trường…, yêu cầu mở thêm trường cho đủ chỗ học; bỏ hạn chế tuổi tác cho học sinh; trợ cấp giấy, bút, mực... cho học sinh nghèo; mở thêm lớp sư phạm cho những người không đỗ trung học có chỗ làm...
Đấu tranh chống phát xít và chiến tranh là nhằm vào kẻ thù nguy hiểm nhất của nhân dân ta và nhân dân thế giới, ngăn chặn nguy cơ tàn phá ghê gớm đối với đất nước và nhân dân ta là một nhiệm vụ trọng yếu hàng đầu. Đi đôi với chống phát xít và chiến tranh, Dân chúng vạch mặt bọn tơrốtxkit làm tê liệt cảnh giác của nhân dân ta, tiếp tay cho bọn phát xít sẵn sàng hành động và bọn Việt gian thân Nhật chuẩn bị đón nhận vào giày xéo nước ta.
Trong 80 số báo, có 45 số có bài đấu tranh với bọn tơrốtxkit trên tất cả các vấn đề trong cuộc vận động dân chủ trong nước và trên bình diện quốc tế.
Việc tuyên truyền cho Liên Xô, bảo vệ đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Liên Xô, vui mừng trước những thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội và phất cao ngọn cờ cách mạng trên toàn thế giới được báo Dân chúng đăng trên nhiều số. Đặc biệt số 28, ngày 29-10-1938, kỷ niệm lần thứ 21 Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười vĩ đại, có bài dài gần 4 trang, in 2 màu, có ảnh Mác, Ăngghen, Lênin và các lãnh tụ Liên Xô, biểu thị tình cảm cao quý của Đảng Cộng sản và nhân dân ta đối với Tổ quốc của chủ nghĩa xã hội thế giới.
Đối với Mặt trận nhân dân Pháp và Đảng Cộng sản Pháp, với cuộc đấu tranh chống phát xít ở Trung Quốc, Tây Ban Nha, Dân chúng luôn luôn cổ vũ sự ủng hộ nhiệt tình của nhân dân ta, không chỉ bằng tinh thần và thái độ chính trị, mà cả bằng vật chất, như đối với cuộc chiến tranh kháng Nhật của nhân dân Trung Quốc: góp tiền, quần áo, thuốc men, gửi qua Tổng lãnh sự Trung Quốc; cưu mang những người Trung Quốc lánh nạn chiến tranh sang Việt Nam; giới thiệu hoạt động của ''Việt Nam dân chúng hưởng ứng Trung Quốc kháng địch hậu viên hội'' do chi bộ Vân Nam - Quý Châu của Đảng Cộng sản Đông Dương tổ chức và lãnh đạo v.v..
Báo Dân chúng ghi lại một thành tựu có ý nghĩa lịch sử, mở đường cho tự do báo chí, bẻ gãy chính sách báo chí phản động của bọn cầm quyền thực dân ở Đông Dương. Trong hơn một năm tồn tại, Dân chúng đã chiến đấu cho thắng lợi của tư tưởng Mác - Lênin, của chủ nghĩa quốc tế vô sản, cho đường lối và sách lược sáng tạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, chống mọi kẻ thù về tư tưởng và chính trị trong thời điểm của cuộc đấu tranh ngày càng gay go, phức tạp, đứng trước ngưỡng cửa của Chiến tranh thế giới thứ hai.
Đó là những trang rực rỡ trong lịch sử báo chí cách mạng Việt Nam, đồng thời là sự thất bại cay đắng trong lịch sử đàn áp, bóp nghẹt tự do ngôn luận của đế quốc Pháp.
Khi chiến tranh bùng nổ, nhận chỉ thị của Trung ương Đảng các cán bộ làm báo Dân chúng rút vào hoạt động bí mật, tự đóng cửa tòa soạn, ngừng xuất bản. Tuy vậy, gần một tháng rưỡi sau, ngày 13-10-1939, P. Đensan được uỷ quyền của Toàn quyền Đông Dương vẫn ký lệnh cấm Dân chúng cùng một số tờ báo cách mạng và cấp tiến khác.
- Sông hương tục bản:
Sau khi Nhành lúa bị cấm, Xứ uỷ Trung Kỳ không còn báo chí trong tay, trong khi một cuộc đấu tranh quyết liệt giữa các lực lượng dân chủ và phản động đặt ra trước mắt: tham gia tranh cử vào Viện Dân biểu Trung Kỳ.
Tờ Sông Hương do Phan Khôi chủ trương đang bế tắc, ế ẩm do ''tài chính quẫn bách'' (Lời Phan Khôi trong Sông Hương tục bản số l), có nguy cơ đi tới đóng cửa và phá sản, thì Xứ uỷ chủ trương mua lại. Vẫn tên báo cũ, thêm hai chữ ''tục bản”, vì báo đã nghỉ mấy tháng, nay ra lại. Để tên người sáng lập Phan Khôi nhằm giữ thế hợp pháp về hình thức, nhưng chủ nhiệm là Nguyễn Cửu Thạnh, một nhân sĩ dân chủ gần với Đảng; ''Thư và madat xin gửi cho ông Phan Đăng Lưu”, in ngay trên trang đầu của số l. Ngô Đức Mậu được phân công làm Thư ký tòa soạn. Tòa soạn đặt ở số 68, phố Jules Ferry, Huế. Những bài vở chính được Phan Đăng Lưu và Tôn Quang Phiệt lo, viết ở Huế rồi gửi ra Vinh cho Ngô Đức Mậu sắp xếp, trình bày, viết thêm tin cho đầy trang, sửa bản in thử do nhà in Vương Đình Châu ở Vinh in và phát hành ngay tại đó.
Sông Hương tục bản ra số 1 ngày 19-6-1937. Ngày 11-10-1937, Toàn quyền J.Brêviê ký lệnh thu hồi giấy phép vào lúc báo vừa in xong, tranh thủ phát hành ngay số 44, kèm theo phụ trương số 14, ra ngày 14-l0-1937, trước khi nghị định được thông đạt tới tòa soạn. Việc chính quyền thực dân ra lệnh cấm đã được dự đoán trước. Ba phụ trương là một hình thức tranh thủ chủ động đối phó với địch, vì biết rằng không còn khả năng ra được số 15.
Nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của Sông Hương tục bản là tham gia tranh cử. Sau khi Mặt trận Dân chủ thắng cử rồi thì thông qua báo, mà nhân danh nhân dân yêu cầu các dân biểu phải làm tròn trách nhiệm của mình, mang nguyện vọng của nhân dân vào nghị viện, đòi hỏi đi sát nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, đồng thời công bố quan điểm, yêu cầu, đề nghị của tờ báo để chuẩn bị cho các cuộc đấu tranh nghị trường... “Các bạn chớ vì một chén rượu, một số tiền, một tiếng hứa suông, một lời dọa hẩm mà làm sai mất cái phận sự của một người dân đi bầu cử trong giờ nghiêm trọng này'' (số 3).
Đi đôi với các bài xã luận, bình luận, có nhiều thể loại văn học xoay quanh chủ đề này, làm cho Sông Hương tục bản thể hiện những nét sắc sảo, đậm đà, tươi vui. Những bài tiểu phẩm đả kích sâu cay, trực diện những tên ''tai to mặt lớn'', nhiều năm làm quan nghị, ''đắc cử nhiều khóa, ra vào quan Thượng, quan Khâm như đi chợ''. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử báo chí Đông Dương, đả kích đích danh bọn buôn dân bán nước trong cuộc tranh cử. Mục ''Chiến điện'' nhìn rõ bản chất thối nát, đưa ra phơi bày trước ánh sáng dư luận những tên như Cao Văn Chiếu, Nguyễn Quốc Tuý, Bùi Huy Trứ, Trần Đình Tuyên..., những người lăm le nhảy vào nghị trường, đặc biệt là Nguyễn Quốc Tuý, Trần Bá Vinh, Lê Thanh Cảnh.
Sông Hương tục bản bước vào đấu tranh nghị trường qua các bài, như ''Chương trình dự thảo của dân biểu Trung Kỳ'' (số 13), “Bức thư công khai kính gửi các ông dân biểu Trung Kỳ'' họp kỳ Hội đồng thứ nhất khóa dân biểu 1937 - 1940, ''Chương trình hành động của ông nghị Huỳnh Văn Trần, Bình Định'' nêu phương hướng, nhiệm vụ hành động mà quần chúng nhân dân và cử tri đòi hỏi ''các nghị viên'', đồng thời là chỗ dựa về mặt chính trị - xã hội cho các nghị viện dân chủ đấu tranh với các thế lực phản động trong và ngoài Viện.
Sông Hương tục bản xuất bản trong thời gian có cuộc đình công lớn của công nhân nhà máy xe Trường Thi nên đã kịp thời phản ánh tin tức, vạch tội bọn tư bản áp bức, bóc lột và cổ vũ công nhân đấu tranh, chống đàn áp. Số cuối cùng có bài về vụ đình công của phu mỏ Vàng Danh đang được triển khai.
Về các vấn đề quốc tế, Sông Hương tục bản lên tiếng ủng hộ cuộc đấu tranh chống phát xít của nhân dân Tây Ban Nha và đưa tin về hội nghị quốc tế các nhà văn ủng hộ nhân dân Tây Ban Nha, lên án bọn Tơrốtxkit và Ăngđơrê Giđơ (André Gide).
Sông Hương tục bản tuy chỉ tồn tại gần bốn tháng, nhưng đã ghi lại những chiến công bất hủ trong một thời kỳ lịch sử đấu tranh ở Trung Kỳ.
- Tin tức:
Sau khi tờ Thời thế bị cấm, Xứ uỷ Bắc Kỳ chủ trương cho xuất bản báo Tin tức, cử Lương Văn Tuân đứng ra xin phép với danh nghĩa sáng lập viên, Trịnh Hoài Đức là quản lý. Ngày 2-4-1938, Toàn quyền Bơrêviê ký quyết định chuẩn y. Ngày 2-4-1938, báo ra số l, danh nghĩa ''cơ quan mặt trận dân chủ'' (do Trường Chinh, xứ uỷ viên, trực tiếp phụ trách).
Báo ra không định kỳ, lúc đầu ra hàng tuần (từ số l đến số 4), sau ra hàng tuần với các ngày (4 - 11-5-1938), rồi 4 ngày (25 – 29-6), số 18 (16 – 20-7), 8 trang như số 26, số đặc biệt ủng hộ hòa bình (17 – 20-08).
Phụ trương của báo lúc đầu dự định mỗi tháng có 2 kỳ, nhưng mới ra được phụ trương ''Tin tức lý luận” số l, ngày 10-4-1938; phụ trương số 4, ngày 23 - 30-4-1938... không lâu thì ngừng hẳn.
Những người viết báo Tin tức đều là những cây bút quen thuộc của các tờ báo trước đó như Hà thành thời báo, Thời thế, Thế giới… như Trần Huy Liệu (có khi ký Hải Khách, Hải Thu), Trần Đình Long (có khi ký Lương Phong, L.P), Cựu Kim Sơn, Khuất Duy Tiến (ký Tô Dân), Nguyễn Thường Khanh (còn ký T.K), Dương Lĩnh, Thôn Dân, Hồ Xanh, Qua Ninh...
Số lượng in thấp nhất là 4.000 (số 15, ngày 6 – 9-7), trung bình là 5.000 - 6.000, cao nhất là 10.000 (phụ trương số 4).
Tờ Tin tức coi trọng việc tuyên truyền lý luận Mác - Lênin, dành Phụ trương, Tin tức lý luận, số 1 để đăng các bài ''Vấn đề thống nhất giai cấp vô sản”, ''Chủ nghĩa phát xít đã mang lại những gì cho thợ thuyền”, “Giai cấp là gì?”… Sau vì khó khăn về biên tập, in, vốn nên không ra tiếp được loại ''Tin tức lý luận'' này.
Để giữ thế hợp pháp, không để cho địch lợi dụng gây khó khăn, Tin tức ít khi nói về Mác - Lênin, về Quốc tế Cộng sản, về Đảng Cộng sản như Le Peuple, Dân chúng, nhưng trong nội dung bài vở, Tin tức đều thể hiện sự thấm nhuần đường lối, quan điểm mácxít - lêninnít và chính sách của Đảng, viết ra với tư cách Mặt trận Dân chủ.
Một vấn đề nổi bật được đề cập đến trong báo Tin tức và cổ động, tổ chức và đấu tranh cho việc thành lập và tăng cường Mặt trận Bình dân, sau gọi là Mặt trận Dân chủ. Mặt trận Dân chủ ở Bắc Kỳ được hình thành từng bước kể từ cuộc vận động Đại hội Đông Dương mùa thu năm 1936. Dưới sự lãnh đạo của Xứ uỷ, một sự liên minh giữa nhóm Tin tức (hay còn gọi là nhóm cộng sản công khai) với nhóm Ngày nay và chi nhánh Đảng Xã hội Pháp Bắc Đông Dương có cơ quan ngôn luận là tờ Demain, được thành lập. Kết quả đáng chú ý trước hết là cuộc tổ chức lễ kỷ niệm ngày Quốc tế lao động 1-5 ở Hà Nội có trên 20.000 người dự, biểu dương lực lượng mạnh mẽ, có tổ chức, trong đó những người cộng sản đóng vai trò chỉ đạo. Sau cuộc biểu tình khổng lồ này, Tin tức số 5 ngày 4 – 11-1938 viết: “Cuộc biểu tình vừa qua đã dạy cho ta những gì?”. Cuộc biểu tình năm nay thật là một nhát búa đập mạnh vào đầu các hạng phản động và báo cho chúng biết rằng:
“Một là, quần chúng Đông Dương đã tới trình độ trưởng thành về chính trị. Họ đã tỏ ra xứng đáng được hưởng những quyền lợi cao hơn. Sự dùng dằng chậm chạp, không chịu ban bố các quyền tự do dân chủ là vô lý''.
''Hai là, các tầng lớp cần lao đã biết biểu tình trong vòng trật tự và hợp pháp. Họ đòi cơm ăn, áo mặc, hòa bình và tự do; đồng thời họ biết biểu lộ sức lao động là mạnh mẽ và đáng kính nể. Họ đã biết đặt những khẩu hiệu rất đúng đắn và hợp thời''.
''Ba là, giai cấp thợ thuyền đã đủ lực lượng và tư cách dìu dắt các tầng lớp trung sản ra trường tranh đấu. Quyền lãnh đạo của thợ thuyền ngày càng bền vững và rõ rệt. Dưới quyền lãnh đạo ấy, sự thống nhất hành động của quần chúng đã thực hiện một cách chu đáo. Phong trào vận động Mặt trận Bình dân Đông Dương đã tiến hành một bước khá cao. Bọn cách mạng mồm tơrốtxkit xưa nay vẫn chửi Mặt trận Bình dân và hòng đem những khẩu hiệu ''mặt trận công nông'', ''mặt trận những người bị bóc lột'' thay vào, đã trông rõ sự thất bại của chúng''.
Đây là bản tổng kết nội dung và ý nghĩa cuộc biểu tình ngày 1-5, từ đó rút ra bài học cho những người cộng sản và quần chúng tiến lên củng cố và mở rộng Mặt trận Dân chủ, đấu tranh với các thế lực phản động và bọn tơrốtxkit.
Cuộc tranh cử vào Viện Dân biểu Bắc Kỳ là một dịp để củng cố và mở rộng Mặt trận Dân chủ trong hành động thực tiễn. Tin tức số 19, ngày 20 đến 23-7-1938 có bài “Những bài học của một tuyển cử'' nói về ý nghĩa của thắng lợi, có 7 điểm:
1. Nhờ có chương trình tối thiểu hợp với các nguồn lợi các tầng lớp nhân dân, được nhân dân sốt sắng ủng hộ;
2. Nhân dân tín nhiệm các đoàn thể trong Mặt trận, dồn phiếu cho cử tri mà Tin tức giới thiệu;
3. Nhiều nơi, Mặt trận thu được đại đa số phiếu bầu. Đặc biệt nhất là Khuất Duy Tiến bị bác đơn 2, 3 lần không được ghi tên ứng cử, nhưng cử tri vẫn cứ bầu và vẫn đủ số phiếu. Đương nhiên vẫn bị bác;
4. Bên cạnh một số ủng hộ Mặt trận, còn khá đông lãnh đạm, bi quan không đi bầu. Một số bỏ phiếu cho bọn phản động, trước hết bản thân chúng là những phần tử phản động, số khác thì bị bọn phản động mua chuộc hăm dọa;
5. Những người của Mặt trận trúng cử là đại diện cho đa số nhân dân một cách xứng đáng;
6. Bọn phản động thuộc địa muốn phá Mặt trận đã không có kết quả;
7. Bọn tơrốtxkit đã giúp sức cho bọn phản động phá hoại Mặt trận dân chủ, đưa Trần Duy Đạm ra tranh cử, hô khẩu hiệu khiêu khích để cảnh sát có cớ đàn áp quần chúng.
Tin tức số 20, từ ngày 23 đến ngày 27-7-1938, vạch trần thủ đoạn của kẻ thù chống Mặt trận Dân chủ trong bầu cử: dùng tiền mua phiếu; dùng thế lực quan trường ép bầu cho người của chúng; khủng bố ứng cử viên của Mặt trận.
Như mọi tờ báo cách mạng khác trong thời kỳ này, trên mặt báo số nào cũng có tin tức các cuộc đấu tranh của công nhân, nông dân, tiểu thương, tiểu thủ công nghiệp, tố cáo kẻ thù. Đặc biệt, từ sáng kiến của Xứ uỷ Bắc Kỳ về việc vận động thành lập Hội Truyền bá quốc ngữ, Tin tức viết nhiều bài chuẩn bị dư luận cho việc Hội ra đời và sau đó là về những hoạt động của Hội. Số 8, từ ngày 28-3 đến nay 5-4-1938, có bài: “Nhặt tài liệu cho công cuộc chống thất học” của Nguyễn Thường Khanh với bút danh T. K, qua việc điều tra về nạn thất học ở nông thôn, tỉnh Thanh Hóa của Sênô (Chesnau), để động viên lực lượng ''gắng thực hiện dần dần các nguyện vọng nhân đạo mà chúng ta mang trong tâm trí''. Số 9, ngày 4 đến ngày 11-6-1938, có bài tường thuật về “Buổi diễn thuyết của Hội Truyền bá quốc ngữ'' cũng của Nguyễn Thường Khanh.
Tin tức đã vượt lên khỏi nhược điểm của nhiều tờ báo cách mạng lúc đó bị trung ương phê bình là chính trị khô khan. Ở đây có nhiều thể loại bài vở làm cho tờ báo sinh động, hấp dẫn. Những bài văn chính luận đáng chú ý, nhất là của tác giả Qua Ninh (Trường Chinh) viết sáng, gọn, chặt chẽ, thuyết phục và chân tình, ca ngợi trình độ giác ngộ của quần chúng, đồng thời phê phán, đả kích các loại kẻ thù thật sắc bén, mạnh mẽ, bóc trần bản chất của chúng. Nhiều bài thơ của Dương Lĩnh, Thôn Dân, Nguyễn Thường Khanh, Trung Phương, Hồ Xanh, Trường Sơn v.v. được đăng trên Tin tức, rồi những phóng sự điều tra của Nguyễn Thường Khanh, Trần Đình Long; truyện ngắn của Học Phi, Trần Đình Long... Có những trang hồi ký dài Tin tức đăng lại của Hà thành thời báo, Thời thế, từ số 1 cho đến số cuối cùng, số 43, từ ngày 15 đến ngày 19-10-1938 vẫn chưa kết thúc. Bài “Ba năm ở Nga Xôviết'' của Trần Đình Long, đã lôi cuốn sự chú ý theo dõi liên tục của đông đảo bạn đọc cả nước.
Giương cao ngọn cờ đấu tranh cho dân chủ, Tin tức đã viết về đấu tranh giải phóng dân tộc: ''Chúng tôi là những phần tử chống chủ nghĩa đế quốc chủ trương dân tộc tự quyết'', trong bài ''Chúng tôi với cuộc công thải Đông Dương”, số 12, ngày 25 - 29-5-1938. Đây là một ưu điểm lớn trong nhận thức lý luận và chính trị về độc lập dân tộc, về mối liên quan giữa đấu tranh cho dân chủ và dân tộc mà nhiều tờ báo cách mạng khác không làm được.
Tin tức tuy tồn tại được hơn 6 tháng (từ 2-4 đến 19-10-1938), nhưng đã để lại những ấn tượng sâu sắc cho nhân dân cả nước, nhất là nhân dân các tỉnh miền Bắc, đặc biệt là Hà Nội. Tờ báo là vũ khí chiến đấu có hiệu quả trong cao trào cách mạng phát triển, làm cho bọn phản động thuộc địa, bọn bảo hoàng, tơrốtxkit, Việt gian thân Nhật và các phần tử đầu cơ chính trị, tay sai của địch hoảng sợ. Bọn cầm quyền phải dùng đến hình thức thô bạo, bị dư luận trong nước và nước ngoài lên án, ra lệnh thu hồi giấy phép của báo ngày 15-10-1938.
- Tạp chí Đông Phương:
Theo chữ trình bày trên trang 1 bìa tạp chí thì gọi là Đông phương tạp chí. Trong danh mục các ấn phẩm định kỳ 6 tháng đầu năm 1939 của Phủ Toàn quyền Đông Dương xuất bản ở trang 19 cũng viết Đông Phương tạp chí. Tác phẩm Tự chỉ trích của Nguyễn Văn Cừ, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương viết tháng 6-1939, bút danh Trí Cường đăng trên Đông Phương tạp chí. Gọi Đông Phương tạp chí có lẽ hợp lý hơn.
Nguyễn Văn Tây (1910 - 1996) tham gia Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên năm 1927, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930, ở tù ra năm l936, hoạt động ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ. Cuối năm 1938, anh lên Sài Gòn gặp Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đề nghị cho một số đảng viên ra tạp chí. Lúc này, việc xuất bản báo chí ở Nam Kỳ đã được tự do, không phải xin phép.
Được Tổng Bí thư đồng ý, cho ý kiến chỉ đạo biên tập, xuất bản, Nguyễn Văn Tây đứng ra tổ chức và làm chủ bút tạp chí.
Trên trang bìa số l viết: Bài vở gửi Nguyễn Văn Tây.
Thư từ và ngân phiếu gửi Phan Văn Chiêu; quản lý: Nguyễn Văn Phấn.
Tòa soạn đặt ở 21, Ke Galliêni (Quai Galliéni) thị xã Mỹ Tho.
Khảo cứu, truyền tin và sưu tầm tài liệu về văn chương, lịch sử khoa học xã hội.
Tạp chí xuất bản ''bán nguyệt'' (nửa tháng một kỳ). Trong quá trình xuất bản đã có thay đổi. Số l, ngày 1-1-1939; số 2, đúng nửa tháng sau. Số cuối cùng, số 10, ngày 1-9-1939, rồi tự đóng cửa, vì Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ.
Số lượng in từ 2.800 đến 3.200 bản.
Chủ trương xuất bản được thông báo trên các báo chí và chủ bút có thư gửi trực tiếp đến các nhà báo cách mạng có tên tuổi Bắc Kỳ, Trung Kỳ mời cộng tác.
Nội dung của tạp chí là tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin trên các lĩnh vực lý luận triết học và mỹ học; những vấn đề chính trị quốc tế; sáng tác, lý luận, phê bình văn học và nghệ thuật; những vấn đề đường lối chiến lược và sách lược của Đảng ta trong đấu tranh cho dân chủ, dân sinh và hòa bình; chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa phát xít; bảo vệ Liên Xô, ngọn cờ của hòa bình và cách mạng thế giới; phê bình lý luận của chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa cải lương và khuynh hướng tơrốtxkit.
Nội dung chủ yếu là về khoa học xã hội, nhưng có một số bài viết về khoa học tự nhiên, như: ''Ích lợi của hóa học và vật lý học”, “Một điều phát minh của Nguyễn Công Tiễn'' (số l).
Tạp chí tuyên truyền cho chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa cộng sản, nói về nhà yêu nước Phan Bội Châu (số l và số Xuân), kỷ niệm Phan Châu Trinh (số 4), ''Văn thơ của các nhà chí sĩ Việt Nam'' của Bằng Phi (số 5)...
Một số bài dịch của các tác giả Pháp như M. Prơnăng, A. Viôlítx, G. Rôna... và dịch truyện ngắn của M. Goócki qua bản chữ Pháp. Tạp chí đăng lại một số bài nghị luận của báo Dân chúng, cơ quan trung ương của Đảng, báo Đời nay của Xứ uỷ Bắc Kỳ.
Tạp chí đăng nhiều bài có giá trị, thuộc nhiều thể loại, được bạn đọc thích thú, đánh giá cao.
IV- BÁO CHÍ CÁCH MẠNG VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1939 - 1945
l. Xã hội Việt Nam trong bối cảnh Chiến tranh thế giới thứ hai
Ngày l-9-1939, phát xít Đức tiến công xâm lược Ba Lan, châm ngòi lửa chiến tranh, từ đó lan rộng ra hầu khắp các nước trên thế giới, hướng vào mục tiêu chính và mục đích chủ yếu là tiêu diệt Liên Xô, đồng thời uy hiếp các nước khác, kể cả Anh, Mỹ. Ở châu Á, phát xít Nhật mở rộng chiến tranh xâm lược một loạt nước.
Phát xít Đức đánh vào nước Pháp, chính phủ tư sản đầu hàng bán đứng nước Pháp cho Đức (6-1940). Các lực lượng yêu nước và dân chủ Pháp liên minh chống phát xít bằng mọi hình thức, kể cả vũ trang, do Đảng Cộng sản làm nòng cốt.
Thi hành chủ trương của Chính phủ Pêtanh (Pétain), bọn phát xít Pháp ở Đông Dương ra lệnh tổng động viên. Một nhiệm vụ khẩn cấp đặt ra cho nhà cầm quyền là lo tổ chức, huấn luyện và trang bị đủ cho hai sư đoàn để sớm gửi sang Pháp bổ sung lực lượng, làm bia đỡ đạn cho chủ nghĩa đế quốc Pháp. Các lực lượng vũ trang, an ninh, mật vụ ở Đông Dương tăng lên về người và phương tiện, sẵn sàng ứng phó với biến cố bất thường có thể xảy ra tại chỗ.
Tháng 9-1940, Nhật vào Đông Dương, đế quốc Pháp đầu hàng, dâng Đông Dương cho Nhật. Hai tên đế quốc phát xít cùng áp bức nhân dân ta, đồng thời lại lừa miếng nhau, diệt trừ nhau để độc quyền thống trị. Một số tổ chức tay sai của Nhật mới ra đời, hoạt động chống phá cách mạng và chống Pháp, phục vụ cho chính sách xâm lược của Nhật, đưa ra khẩu hiệu độc lập giả dối để lừa bịp nhân dân, bị Pháp khủng bố.
Những người vốn là thành viên của Mặt trận Dân chủ thuộc lớp trên phân hóa mạnh. Một bộ phận đã có quan hệ kinh tế và chính trị với đế quốc Pháp, trở lại phục vụ cho Pháp hoặc làm tay sai cho Nhật. Số đông nằm im vì hoang mang trước thời cuộc, một số ít chạy sang hàng ngũ cách mạng.
Trong giới thực dân Pháp ở Đông Dương, một bộ phận nhỏ không chịu hàng phục Nhật, muốn bắt tay với cách mạng chống Nhật, nhưng lại muốn lợi dụng cách mạng và ngoan cố bám lấy chính sách thuộc địa cũ rích, ta gọi là phái Pháp Đờ Gôn.
Chiến tranh bắt đầu, kết thúc thời kỳ lịch sử của Mặt trận Dân chủ Đông Dương. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương họp tháng 11-1939 đã nhận định tình hình, quyết định chuyển hướng đường lối và phương pháp đấu tranh cách mạng. Hội nghị đề ra chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, tịch thu ruộng đất của đế quốc và địa chủ phản động, chống tô cao, lãi nặng; lập chính quyền cộng hòa dân chủ; thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương, lấy liên minh công nông làm nền tảng, đoàn kết rộng rãi với tiểu tư sản thành thị và nông thôn, với tư sản bản xứ, liên minh tạm thời hoặc trung lập trung địa chủ và tiểu địa chủ - dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân.
Những biến chuyển mau chóng của tình hình quốc tế và khí thế sôi sục của quần chúng cách mạng trong nước đặt ra một số vấn đề cho Hội nghị Trung ương 7 (11-1940). Hội nghị đã nhận định kẻ thù chính của nhân dân ta lúc này là phát xít Pháp - Nhật.
Trong lúc lịch sử đang đặt ra một khả năng phát triển kỳ diệu nếu được sự chỉ đạo của một đường lối chính xác và một nghệ thuật điêu luyện, thì Nguyễn Ái Quốc về nước và chủ trì Hội nghị Trung ương 8 (5-1941). Hội nghị nhận định nhiệm vụ chủ yếu, trước mắt của cách mạng là giải phóng dân tộc tán thành quyết định của Hội nghị Trung ương 6 (11-1939) về tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, nêu thêm khẩu hiệu giảm tô, giảm tức, chia lại ruộng công, tiến tới thực hiện người cày có ruộng. Về mặt trận dân tộc thống nhất, Trung ương quyết định thành lập Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh), đồng thời thành lập Cao Miên độc lập đồng ninh và Ai Lao độc lập đồng minh; chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng và toàn dân lúc này. Vấn đề xây dựng Đảng được đặc biệt coi trọng. Hội nghị lịch sử này mở ra một cao trào cách mạng mới, có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của cách mạng. Đặc biệt, Hội nghị Thường vụ Trung ương tháng 3-1945 với Chỉ thị “Nhật -  Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, trực tiếp chỉ đạo các địa phương đẩy mạnh kháng Nhật cứu nước, chuẩn bị đầy đủ điều kiện để khi thời cơ tới là vùng lên Tổng khởi nghĩa, giành thắng lợi.
2. Chính sách báo chí của địch trong chiến tranh
Ngay ngày Đức nổ súng xâm lược Ba Lan, mở đầu Chiến tranh thế giới thứ hai, ngày l-9-1939, Chính phủ Pháp ban hành một sắc lệnh, được Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định ban hành ngày 19-10-1939, có đoạn viết: ''Kể từ khi có sắc lệnh tổng động viên, cấm ngặt công bố theo mọi điểm đã được liệt kê trong điều 23, luật 29-7-1881 về tự do báo chí, mọi thông tin giúp cho một cường quốc chống lại nước Pháp hay tác động có ảnh hưởng tai hại đến tinh thần quân đội và nhân dân''. Người nào vi phạm sắc lệnh này sẽ bị phạt tù từ 1 năm đến 10 năm, phạt tiền từ 1.000 phrăng đến 10.000 phrăng. Tiếp theo sắc lệnh này, bọn bù nhìn Nam triều ban hành Dụ số 78 ngày 15-2-1940 truy nã những điểm khác các sắc lệnh cũ; chỉ có sắc lệnh ngày 26-9-1939, điểm thứ ba nói về báo chí vừa trình bày ở trên là đáng chú ý hơn cả.
Toàn quyền Đông Dương nhận được Sắc lệnh từ Pari điện đi ngày 26-9, hai ngày sau ngày 28-9, đã ký Nghị định ban hành ở Đông Dương, rồi lại vội vã điện báo cho các thống sứ, thống đốc và khâm sứ, các viên công sứ và chủ tỉnh cho niêm yết cấp tốc để nhân dân biết và thi hành ngay lập tức, mặc dầu đến ngày 30-9-1939, sắc lệnh này mới được in trên Công báo Đông Pháp (J. O. I. F.).
Điều 1, Sắc lệnh ngày 1-2-1902 quy định việc ban hành các luật về sắc lệnh ở Đông Dương được áp dụng ở thành phố một ngày sau và ở các tỉnh hai ngày sau khi nhận được công báo. Nhưng lần này, công báo chưa in, đã thấy lệnh truy nã các nhà báo cách mạng, mật thám khám xét, lục soát không những các tòa soạn mà cả nhà riêng, nơi nghi có các cuộc hội họp của những người hoạt động cách mạng. Nói đúng hơn, từ đầu tháng 9-1939, những hành động khủng bố trên đã được tiến hành, từ khi có sắc lệnh thì những việc làm đó được thực hiện ráo riết hơn mà thôi. Sách, báo, đều được duyệt kỹ, soi từng chữ, xem xét từng tên tác giả, xóa đi bất kỳ chữ nào, câu nào, đoạn nào có thể gây ra nhiều cách hiểu, có lợi cho cách mạng và cả lợi cho Nhật, hại cho Pháp.
Từ năm 1940 trở đi, Chính phủ Pháp và Toàn quyền Đông Dương không ban hành thêm một sắc lệnh hay nghị định gì quan trọng đối với báo chí.
Để mong thích ứng với tình hình mới, thực dân Pháp đưa ra hình thức tổ chức mới nhằm tranh thủ các nhà báo. Năm 1940, Hội Báo chí Bắc Kỳ thành lập do Giăng Xômông (Jean Saumont), một nhà tư sản kiêm địa chủ người Pháp, Giám đốc báo La Volonté Indochinoise, một phần tử thực dân có tiếng tàn bạo và phản động, làm Chủ tịch hội; Bác sĩ Nguyễn Văn Luyện, Giám đốc báo Tin mới làm Thư ký hội. Năm 1941, Hội Ái hữu báo giới Nam Kỳ thành lập... Các hội trên đây chỉ có một ít hội viên, có tính chất tượng trưng, không có hoạt động gì đáng kể vào thời điểm chính trị này. Nhiều nhà báo thờ ơ với tổ chức hội trên đây.
Đến khi Nhật tranh quyền, lật đổ Pháp tháng 3-1945, bộ máy thống trị không ổn định nên căn bản phải dùng chính sách báo chí cũ do Pháp để lại. Cách mạng Tháng Tám bùng nổ kết thúc cả số phận của chủ nghĩa phát xít ở Đông Dương, do đó trong 5 tháng trời cả Nhật và chính quyền bù nhìn của Nhật không có khả năng ban hành một pháp lệnh nào về báo chí cả.
3. Tình hình báo chí xuất bản công khai
Làng báo công khai phản ánh rõ nét tình trạng mâu thuẫn, khủng hoảng, sa sút, tiêu điều của chính quyền phát xít thống trị và xã hội Việt Nam trong những năm Chiến tranh thế giới thứ hai.
Về số lượng báo và tạp chí, cuối năm 1939 có 352 tờ, năm 1940 còn 285, tức là sụt đi 67 tờ (23,6%) và cứ thế tụt dần hàng năm, cho đến giữa năm 1944 chỉ còn 197 tờ; tức là chỉ còn 55,9% so với năm 1939; cuối năm 1944, đầu năm 1945 lại sụt đi hơn nữa.
So với tạp chí, tập san, báo sa sút nhanh hơn. Cuối năm 1939 có 136 tờ báo, cuối năm 1940 còn 104 tờ, tức là giảm đi 32 tờ (30%), đến giữa năm 1944 còn 53 tờ, tức là sụt đi còn 38,9% so với năm cuối 1939. Trong số này thì báo tiếng Việt giảm nhanh hơn báo tiếng Pháp. Cuối năm 1939 có 67 tờ tiếng Việt, năm 1940 giảm xuống còn 42 tờ, tức là giảm đi 25 tờ (37,32%); đến giữa năm 1944 chỉ còn 21 tờ tức là giảm đi 46 tờ (68,65%), trong khi đó báo tiếng Pháp từ 50 tờ năm 1939 đến giữa năm 1944 còn 25 tờ, giảm đi 50%.
Hàng năm vẫn có thêm một số tờ báo mới ra đời, đồng thời vắng mặt một số tờ báo cũ với số lượng lớn hơn. Những ngày đầu của chiến tranh, các tờ báo cách mạng xuất bản công khai từ trước vẫn còn ít tờ, như Đời nay (số 38, ra ngày 22 đến 29-9-1939); Tạp chí Đông phương (số 10, ra ngày 22 đến 29-9-1939); Người mới (số 5, ra ngày 5-9-1939); Mới (số 11, ra ngày 25 đến 30-9-1939) rồi đóng cửa vì ban biên tập đã được chỉ thị của Đảng cho chuyển vào bí mật hoặc đã bị địch bắt giam. Tuy chậm nhất là đến ngày 10-10-1939 là có lệnh thu hồi giấy phép do Bêbe, được Toàn quyền Đông Dương uỷ quyền ký, đến đây chấm dứt thời kỳ báo chí cách mạng xuất bản công khai.
Những tờ báo tư nhân tham giaa Mặt trận báo chí dân chủ, đến khi bước vào chiến tranh, luật phát xít ban hành thì lần lượt chuyển hướng sang xu thời, ít nhiều phụ họa mới bọn phát xít Pháp, hay quay lại chống cách mạng.
Ở Hà Nội, nhóm tơrốtxkit xin phép ra tờ Văn mới, tạp chí phổ thông, tập mới, xuất bản số l ngày 3-6-1939, cho đến năm 1945 ra liên tục. Danh nghĩa là tạp chí, nhưng thực tế là những cuốn sách hoặc mỗi số là một phần của ''bộ sách'' dày, như ''Lịch sử thế giới'' gồm nhiều tập của Nguyễn Đức Quỳnh, mỗi tập khoảng 200 trang, khổ trung bình 11x17cm, núp dưới chiêu bài khoa học để xuyên tạc khoa học, chống lại chủ nghĩa Mác và cuộc cách mạng giải phóng dân tộc chống Pháp - Nhật do Đảng Cộng sản tổ chức và lãnh đạo.
Ở Sài Gòn, một số người theo tơrốtxkit bị Pháp bắt tù nên không còn một tờ báo nào danh nghĩa tơrốtxkit tiếp tục xuất bản hay mới ra mắt.
Báo chí từ Bắc chí Nam hàng ngày phải dành trang đầu đăng khẩu hiệu ''Cần lao - Gia đình - Tổ quốc” và lời nói của Thống chế Pêtanh như những châm ngôn chỉ đạo hành vi của mọi người trong xã hội.
Những tin tức trên báo phục vụ cho chiến tranh phát xít bằng cách đưa những tin có thật hay giả tạo về sức mạnh của quân đội phát xít, còn những tin Liên Xô chặn đứng và đánh lùi phát xít Đức, về chiến tranh du kích chống phát xít ở khắp các nước từ Âu sang Á và phong trào phản chiến ở Nhật lại bị bưng bít.
Sau cuộc đảo chính Nhật - Pháp ngày 9-3-1945, những tờ báo theo Nhật hết lòng tâng bốc sự thắng lợi của người da vàng, tuyên truyền cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa yêu nước chống thực dân Pháp giả hiệu bằng những bài văn, thơ mới sáng tác hoặc đăng lại một số văn, thơ yêu nước của các nhà chí sĩ trong những năm trước; cổ vũ cho tư tưởng sẵn sàng làm nô lệ cho Nhật, phục vụ cho chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa phát xít Nhật: ''Người Việt Nam thành thực cộng tác với người Nhật Bản, sẽ sẵn sàng giúp quân đội Nhật những thứ cần dùng mà trước kia Chính phủ Pháp đã hứa giúp Nhật - có lẽ còn hơn nữa - và như thế người Việt hy sinh nhiều lắm, vì bọn Pháp đã làm cho chúng tôi kiệt lực''34.
Hàng ngũ nhà báo bị phân hóa mạnh ngay từ những tháng đầu của chiến tranh và ngày càng phát triển sâu sắc hơn. Địch lùng bắt những nhà báo tiến bộ, mua chuộc những người có tài, đe dọa những người có tinh thần yếu đuối. Một số tên cơ hội xoay sang tán tụng Nhật. Những người trí thức có lương tâm và lòng tự trọng nhưng chưa ngả về cách mạng thì chờ đợi, nghe ngóng tình hình, viết đôi bài có tính chất học thuật, khảo cứu, không gắn với những diễn biến có tính chất thời sự chính trị nhưng vẫn ấp ủ một tinh thần dân tộc và biểu hiện một quan điểm tiến bộ, thường đăng trên báo Thanh nghị Tri tân. Ở Hà Nội, Sài Gòn, Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát đứng ra làm Chủ nhiệm báo Thanh niên, xuất bản hàng tuần, ra số 1, ngày 7-8-1943. Đây là tờ báo có tinh thần dân tộc, xu hướng yêu nước theo một tôn chỉ tiến bộ. Nó đã nhanh chóng tập hợp được đông đảo nhiều người viết báo có tên tuổi ở khắp ba miều Bắc, Trung, Nam tham gia. Báo chủ trương đoàn kết mọi người Việt Nam; khuyến khích hoạt động để chứng tỏ sức sống của người Việt; phụng sự nghệ thuật nước nhà trên con đường tiến bộ.
Từ tháng 4-1944, Thanh niên chuyển từ Huỳnh Tấn Phát sang Huỳnh Tấn Tiểng làm Chủ nhiệm và Mai Văn Bộ làm chủ bút. Từ đây báo càng đậm nét kích thích tinh thần thống nhất dân tộc, chống ngoại xâm, cho đến ngày ngừng xuất bản, 30-9-1944. Một số nhà báo vốn đã có cảm tình với cách mạng từ trong thời kỳ vận dộng dân chủ, nhưng chưa tham gia hoạt động ngay khi chiến tranh bùng nổ. Qua thực tiễn cuộc sống, họ thấy cần phải chọn lấy một con đường. “Đề cương văn hóa của Đảng Cộng sản Đông Dương'' ra đời và Hội Văn hóa cứu quốc được thành lập, đã thu hút một số nhà văn, nhà báo có tinh thần yêu nước tham gia dưới là cờ Việt Minh, chống đế quốc, phát xít.
Cũng phải kể đến những nhà báo bi quan, đời sống quẫn bách giải nghệ đi buôn kiếm sống qua ngày hoặc vừa đi buôn, vừa làm báo.
4. Báo chí cách mạng
Báo chí bí mật xuất bản trong thời kỳ 1939 - 1945 xét về một mặt - mặt bất hợp pháp thì cũng giống như những tờ báo tiền thân, từ khởi thủy đến đầu năm 1936. Nhưng về khí thế, nó phản ánh rõ hướng đi tới ngày toàn thắng.
Giai đoạn 1939 - 1945 số lượng báo không nhiều bằng giai đoạn 1936 - 1939, nhưng chất lượng bài vở tốt hơn, nội dung phong phú hơn và hình thức trình bày đẹp hơn. Nhiều tờ có “tuổi thọ'' dài hơn thời kỳ bí mật trước, vì cơ quan đầu não chỉ đạo báo chí tuy bị thiệt hại ít nhiều chứ không tan vỡ. Cơ sở in báo rộng lớn, nếu không may bị lộ chỗ này thì có ngay nơi dự bị xuất bản và điều kiện bảo vệ cho việc biên tập, in, phát hành nói chung vững vàng hơn, chỉ di chuyển khi cần thiết chứ không bị dập tắt. Có những tở trải qua sóng gió của sự lùng sục, đàn áp, nhưng vẫn tồn tại, phát triển cho đến ngày cách mạng thành công. Truyền thống đấu tranh anh hùng cùng tên tuổi của tờ báo đó đã đi vào cuộc sống tình cảm của quần chúng qua nhiều năm, từ đấu tranh giành chính quyền, bảo vệ chính quyền cách mạng (1945 - 1946) đến kháng chiến chống thực dân Pháp... như Việt Nam độc lập, Cứu quốc, Độc lập. Tờ Cờ giải phóng tiếp tục xuất bản cho đến khi Đảng Cộng sản chuyển vào hoạt động bí mật, dưới danh nghĩa ''tự giải tán'' (11-1945).
Tạp chí Tiến lên, cơ quan tuyên truyền của Đảng bộ khu C (gồm đảng bộ các tỉnh Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình, Hòa Bình) hiện có số ra ngày 27-10-1939, đề là xuất bản mỗi tháng hai kỳ. Nhưng có nhược điểm là tờ tạp chí số l ra trước Hội nghị Trung ương 6 (11-1939) nên báo còn có những bài viết theo tinh thần chỉ đạo của thời kỳ trước.
Sau khi cơ sở in báo Giải phóng của Xứ uỷ Bắc Kỳ bị lộ, số 3 bị tịch thu hết, không biết Xứ uỷ có cho in lại số 3 không, nhưng có in các số 4, 5, 6, 7. Số 8 đã in xong phải hủy, không biết vì lý do gì (Theo báo Giải phóng tập mới, số 1, ngày 25-3-1941, cơ quan trung ương của Đảng, trang 12, cột 3). Các số trên đây đều xuất bản trước Hội nghị Trung ương 7 (11-1940).
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (11-1940) viết: ''Về phương diện tuyên truyền: Đa số Trung ương bị thất bại một năm nay (ý nói nhiều Uỷ viên Trung ương bị địch bắt) làm cho tờ báo thống nhất của toàn Đảng chưa ra được. Nhưng mỗi xứ có một tờ báo làm cơ quan tuyên truyền cổ động cho toàn xứ: “Tiến lên'' ở Nam Kỳ, “Bẻ xiềng sắt'' ở Trung Kỳ, ''Giải phóng'' ở Bắc Kỳ. Ngoài ra, nhiều khu hoặc liên tỉnh cũ có báo riêng''35.
Ngày l-5-1940, tờ Phá ngục, cơ quan của Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương do Trung ương chỉ đạo, ra mắt bạn đọc.
Ngày 25-3-1941, Quyền Tổng Bí thư Trường Chinh cho ra báo Giải phóng, ''cơ quan tuyên truyền trung ương của Đảng Cộng sản Đông Dương'' tập mới, số l. Đến nay chưa có đủ tài liệu để biết rõ Giải phóng tập mới của Trung ương ra được mấy số, có thể dừng lại trước Hội nghị lần thứ tám của Trung ương (tháng 5-1941).
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám của Trung ương viết: ''… Trong lúc này không nên đưa chủ nghĩa cộng sản ra tuyên truyền, huy hiệu cờ đỏ búa liềm không nên dùng luôn. Các sách báo tuyên truyền không nên dùng danh nghĩa Đảng nhiều, phải lấy danh nghĩa các đoàn thể cứu quốc và Việt Minh thay vào''36.
Sau Hội nghị, đồng chí Nguyễn Ái Quốc chủ trương ra báo Việt Nam độc lập. Người trực tiếp chỉ đạo biên tập bài, cả in và phát hành, ra số l, ngày 1-8-1941. Tên của báo cách mạng đầy đủ ý nghĩa bao gồm cả mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược, khẩu hiệu hành động. Báo danh nghĩa là của Tỉnh bộ Việt Minh Cao Bằng, sau phát triển thành Cao Bằng - Bắc Cạn, rồi Cao - Bắc - Lạng.
Cuối tháng 9 (hay đầu tháng 10-1941), Trung ương Đảng cho xuất bản Tạp chí Cộng sản. Đến nay chưa tìm được bản gốc hay bản chụp từ gốc, chỉ biết qua báo cáo của mật thám dịch ra chữ Pháp, mục lục số l như sau:
1. Cùng các bạn đọc.
2. Hội nghị lần thứ tám của Ban Chấp hành Trung ương.
3. Để thực hiện tổ chức mới, 23-9-1941.
4. Phần phụ lục: những tài liệu của Đảng, 9-9-1941.
5. Giải thích những thuật ngữ khó.
Tổng Bí thư Trường Chinh cho xuất bản báo Cứu quốc, số 1, ngày 25-l-1942 danh nghĩa là cơ quan của Tổng bộ Việt Minh. Những số đầu do chính Tổng Bí thư trực tiếp chỉ đạo viết bài, trình bày trang báo.
Ngày 10-10-1942, báo Cờ giải phóng, ''cơ quan tuyên truyền cổ động Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương'' ra số 1. Vì những khó khăn do địch gây ra nên báo ra không định kỳ, nhất là thời gian đầu, có khi cách nhau giữa số trước với số sau đến 10 tháng.
Ngày 28-2-1943, Tạp chí Cộng sản, cơ quan lý luận của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra số 1; ngày 24-9-1943 ra số 2, số 3 đã xong bài vở, chưa kịp in để phát hành thì Tổng khởi nghĩa.
Các cấp bộ Việt Minh ra rất nhiều báo. Ở cấp kỳ, Trung Kỳ có Dân tộc, Nam Kỳ có Giải phóng, Nam phần Bắc Kỳ có Độc lập. Ở cấp tỉnh, ngoài tờ Việt Nam độc lập của Tỉnh bộ Việt Minh Cao Bằng, Cao Bằng - Bắc Cạn, Cao - Bắc - Lạng. Các tỉnh khác, như Hưng Yên có Bãi sậy, Quảng Ngãi có Chơn độc lập, Thanh Hóa có Đuổi giặc nước, Bắc Ninh có Hiệp lực, Ninh Bình có Hoa Lư, Phúc Yên có Mê Linh, Bắc Giang có Quyết thắng, Chiến khu Hòa - Ninh - Thanh (Hòa Bình - Ninh Bình - Thanh Hóa) có Khởi nghĩa, đặc biệt khu Bắc Sơn có Bắc Sơn, v.v..
Đó là báo ''hàng ngang'' của cấp bộ, còn báo “hàng dọc'' của các đoàn thể cứu quốc, có Chiến đấu của Việt Nam quân nhân cứu quốc hội, sau đổi là của Việt Nam giải phóng quân, Tiền phong của Hội Văn hóa cứu quốc, Việt Nam của Việt Nam cứu quốc hội v.v.. Đoàn thể cứu quốc ở tỉnh, có Chiến đấu của Việt Nam công nhân cứu quốc Thanh Hóa, Hồn nước của Thanh niên cứu quốc Hoàng Diệu (thành phố Hà Nội) v.v.. Đảng Dân chủ có báo Độc lập.
Thanh Hóa là tỉnh có cơ sở đảng bộ mạnh và phong trào Việt Minh phát triển cao, được tỉnh uỷ rất quan tâm đến việc xuất bản sách, báo, đặc biệt lần đầu tiên trong lịch sử vận động cách mạng Việt Nam có tờ báo riêng vận động phụ nữ mà trước đây nhiều lần trung ương chủ trương ra báo cho phụ nữ mà chưa thực hiện được. Tờ Gái ra trận, cơ quan của Phụ nữ cứu quốc tỉnh Thanh Hóa, ra mắt bạn đọc.
Những cuộc khủng bố đẫm máu của địch từ cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ tháng 11-1940 đang đè nặng lên đời sống, tuy vậy Xứ uỷ Nam Kỳ thấy cần có báo để lãnh đạo Đảng bộ và quần chúng đấu tranh, bảo vệ cơ sở. Ngày 21-1-1941, báo Giải phóng của Xứ uỷ xuất bản số l, do xứ uỷ viên Nguyễn Văn Kỉnh làm Chủ bút. Báo ra đều kỳ nửa tháng. Sau khi ra số 11, ngày 16-7-1941, đồng chí Nguyễn Văn Kỉnh bị địch bắt, báo ngừng xuất bản.
Cùng với báo của Xứ uỷ, nhiều địa phương trong không khí bị địch càn quét ác liệt cũng ra báo. Hồ sơ và vật chứng của địch tìm ra qua các cuộc lùng sục, đánh phá cơ sở còn để lại đến ngày nay ở cơ quan lưu trữ, cho ta biết không được cụ thể (vì lý do bí mật) nên không thể xác định được một số tờ báo là cơ quan ngôn luận của cấp nào, như tờ Phấn đấu số 1, ngày 20-1-1941; Cứu quốc, số 1, ngày 30-4-1941; Tiến lên, v.v.. Đây là sự thật lịch sử của dòng báo chí cách mạng.
Trong những năm chiến tranh, cánh cửa nhà tù lại mở rộng, các phòng giam chật ních tù chính trị. Các chi bộ đảng trong các nhà tù cho xuất bản nhiều tờ báo viết tay, chép thành 2, 3 bản, bí mật truyền nhau đọc như Bình minh trên sông Đà ở Nhà tù Hòa Bình, Dòng sông Công ở Trại tập trung Bá Vân, Đường Nghĩa ở Trại tập trung Nghĩa Lộ, Suối reo ở Nhà tù Sơn La, Thông reo ở Nhà tù Chợ Chu, Tiến lên ở Nhà tù Quảng Trị v.v..
Lần đầu tiên trong phong trào yêu nước ở các vùng dân tộc thiểu số có một tờ báo riêng bằng chữ dân tộc: tờ Lắc Mương, cơ quan tuyên truyền cổ động của Hội người Thái cứu quốc.
Trong phong trào yêu nước của Việt kiều ở tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) có tờ Đồng thanh.
Báo trong thời kỳ này tập trung chỉ đạo từ tỉnh, thành phố trở lên, không có báo xí nghiệp, huyện như thời kỳ 1930 – 1936. Lúc đầu có tờ in thạch, sau chuyển sang in đá và cuối cùng một vài tờ in chữ chì.
Ở Nam Bộ, một số đảng viên nhận thức sai về chính trị, ý thức tổ chức và kỷ luật kém, tư tưởng bè phái, nên tổ chức ra thành đoàn thể quần chúng riêng, đề ra khẩu hiệu hành động khác hẳn nhau và trái với khẩu hiệu của Trung ương, ra báo Tiền phong và giải phóng công kích lẫn nhau, gây thiệt hại cho phong trào trong thời kỳ tiền khởi nghĩa, chuẩn bị giành chính quyền, không những thế còn ảnh hưởng không tốt về sau. Ban Chấp hành Trung ương Đảng, nhất là Tổng Bí thư Trường Chinh đã trực tiếp chỉ đạo việc uốn nắn sai lầm của một số đồng chí ở Đảng bộ Nam Kỳ, bằng cách phái cán bộ vào truyền đạt chỉ thị và viết bài đăng lên báo Cờ giải phóng, cơ quan trung ương của Đảng.
5. Một số tờ báo cách mạng tiêu biểu
- Việt Nam độc lập:
Cao Bằng là một tỉnh biên giới có phong trào quần chúng cách mạng phát triển mạnh được Trung ương Đảng chọn làm nơi đón lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về mở Hội nghị lần thứ tám của Trung ương, tháng 5-1941.
Hội nghị Trung ương quyết định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc, thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh.
Sau Hội nghị, Nguyễn Ái Quốc vừa chăm lo việc chung của toàn Đảng, toàn dân, vừa trực tiếp chỉ đạo xây dựng Mặt trận Việt Minh tỉnh Cao Bằng và sáng lập tờ báo Việt Nam độc lập, cơ quan của Tỉnh bộ. Khi cao trào cách mạng mở rộng, hình thành thế liên hoàn của hai tỉnh Cao Bằng - Bắc Cạn, Việt Nam độc lập trở thành tờ báo của phong trào Việt Minh hai tỉnh, từ số 129 ngày 21-6-1942, và từ ngày 30-l-1944, số 187, trở thành tờ báo của ba tỉnh Cao - Bắc - Lạng. Việt Nam độc lập là tên tờ báo, chính và mục tiêu trước mắt của nhân dân Cao Bằng - Bắc Cạn - Lạng Sơn và cũng là mục tiêu đấu tranh của dân tộc ta.
Việt Nam độc lập ra số l ngày 1-8-1941, đánh số 101 với ý nghĩa là kế tục sự nghiệp của những tờ báo bí mật đã ra đời từ trước, đến ngày 20-8-1945 được 126 số, đánh số 226, có ba họa bản. Đây là tờ báo cách mạng Việt Nam ra được nhiều số trong thời kỳ bí mật, đứng thứ hai sau tờ Thanh niên cũng do Nguyễn Ái Quốc sáng lập năm 1925. Có trên 30 số Việt Nam độc lập được bàn tay trìu mến của Người chăm sóc, từ viết bài, sửa bài, vẽ tranh, đào tạo cán bộ viết bài và viết chữ lên bàn đá, lo phương tiện in, chọn địa điểm in và tổ chức phát hành. Có những lần chính tay Người viết chữ trái trên bàn đá in. Trong bốn năm, ''nhà in'' đã di chuyển qua nhiều địa điểm để giữ bí mật và đối phó với kẻ thù lùng sục, khủng bố37.
Sau khi Bác Hồ đi công tác ở nước ngoài, từ tháng 9-1942, đồng chí Phạm Văn Đồng được uỷ nhiệm phụ trách báo đến tháng 5-1945.
Một đặc điểm trong phong cách của báo Việt Nam độc lập là sử dụng rộng rãi thể loại văn vần, có khi là mấy câu kết thúc một bài văn nghị luận, có khi xen vào bài xã luận, khi lại là những bài riêng dưới mục ''Vườn văn'' gắn với nội dung bài xã luận... Văn vần dễ học thuộc, nhớ lâu, phù hợp với trình độ quần chúng cứu quốc các dân tộc và truyền miệng cũng thuận tiện.
Do địch bao vây, việc in gặp nhiều khó khăn, cơ sở ngày càng mở rộng lại càng thiếu giấy, cho nên có lúc báo ra tờ khổ nhỏ, ra thời hạn cách xa nhau, một tháng ba kỳ rút xuống hai kỳ (từ số 186, ngày 15-l-1944), có lúc tưởng như phải tạm ngừng vì ''kho giấy'' dự trữ đã cạn. Số 182, ngày 1-12-1943 có tên: Xin lỗi độc giả, báo không ra được vì không có giấy. Đã có lúc báo in mỗi số 600 đến 700 bản và còn khả năng tăng lên nếu không hạn chế vì giấy.
Báo bán lấy tiền, “muốn nấu cơm phải có gạo. Muốn đọc báo phải trả tiền'', lúc đầu một tháng ba kỳ giá một hào, sau vì mọi chi phí đắt nên phải bán 5 xu một tờ (từ số 158, ngày 11-4-1943), rồi lên một năm 36 số, 7 đồng (gần hai hào một số) và không bán lẻ từng tháng, chỉ bán từ 3 tháng - 6 tháng (số 226, ngày 20-8-1945).
Chữ Việt Nam độc lập lúc đầu viết trên bàn đá từng số, sau khắc gỗ đóng như con dấu, thuận tiện hơn.
Sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, Việt Nam độc lập vẫn tiếp tục xuất bản, in litô, là cơ quan ngôn luận của ba tỉnh Cao - Bắc - Lạng một thời gian, rồi trở lại của riêng tỉnh Cao Bằng38.
Cứu quốc:
Mùa thu năm 1941, Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương chủ trương xuất bản một tờ báo làm cơ quan ngôn luận của Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, phát hành rộng rãi trong các tổ chức của mặt trận. Hội nghị cán bộ do Xứ uỷ Bắc Kỳ triệu tập, họp trong 3 ngày: 25, 26, 27-9-1941, quyết nghị: “Các cấp bộ phải giúp đỡ tờ báo của Việt Minh sắp xuất bản nay mai, phải vận động quần chúng ủng hộ về tài chính, phải tổ chức công tác lấy tin, phải viết bài và vận động quần chúng viết bài cho tờ báo và nhất là bài vở cần sát với trình độ quần chúng và phải phản chiếu đời sống của nhân dân''.
Ngày 25-1-1942, báo Cứu quốc, số l, ''cơ quan cổ động của Việt Nam độc lập đồng minh''39 ra mắt bạn đọc. Tên tờ báo như một lời kêu gọi thiêng liêng, một nhiệm vụ cấp bách của cả dân tộc ta trước vận mệnh của đất nước.
Lúc đầu, báo Cứu quốc do Tổng Bí thư Trường Chinh trực tiếp Phụ trách biên tập, có Bí thư Tỉnh uỷ Phúc Yên là Lê Quang Đạo giúp.
Về sau Trung ương giao cho Xứ uỷ Bắc Kỳ, do các xứ uỷ viên Nguyễn Khang và Lê Quang Đạo phụ trách. Từ giữa năm 1944 trở đi, Xứ uỷ phân công cho Xuân Thủy trực tiếp chuyên trách.
Cứu quốc in ở nhiều địa điểm bí mật trong các vùng Hà Đông, Bắc Ninh, Sơn Tây cho đến Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thì chuyển về Hà Nội. Đến ngày 15-8-1945, Cứu quốc xuất bản được 30 số in litô và 4 số phụ trương của các số 12, 15, 19 và 27, có số “Đặc san về vấn đề hải ngoại'' in chữ chì; từ số 31, ngày 24-8-1945 bắt đầu tin typô ở Hà Nội.
Cứu quốc ra không đều kỳ, lúc đầu số nọ, cách số kia có khi vài tháng. Từ số 19, ra ngày l0-4-1945 trở đi, phong trào lên cao, căn cứ cách mạng mở rộng, báo có điều kiện thuận lợi ra tương đối mau hơn, số nọ cách số kia 10 ngày.
Những số bình thường ra 2 trang; có 6 số ra 4 trang: số 7, 11, 12, 13, 14, 15. Những số đặc biệt ra nhiều trang, như số Xuân 1942: 16 trang, Xuân 1945: 12 trang, “Đặc san về vấn đề hải ngoại'': 24 trang. Lúc đầu in một bàn đá, mỗi số trên 100 bản, rồi nâng lên vài trăm bản. Số Xuân 1945 có nhiều bản in, đã in tới trên l.000 bản, có kho giấy dự trữ hàng xe bò kéo, mực in hàng thùng, đã phân công người chuyên trách biên tập, có phóng viên đi cơ sở, có ''tòa soạn'' ở xa ''nhà in'', có người chuyên phụ trách ''nhà in'', người viết chữ trái và lăn rulô... Có một địa điểm chính thức và có địa điểm dự bị để di chuyển đến khi địch khủng bố. Chỉ từ sau ngày đảo chính Nhật - Pháp 9-3-1945 thì địa điểm ''tòa soạn'' và ''nhà in'' mới thật ổn định, điều kiện làm việc mới phát triển thuận lợi.
Với tư cách là cơ quan của Mặt trận Việt Minh, số l, Cứu quốc kêu gọi ''các giới sĩ, nông, công, thương, binh, các đoàn thể cứu nước; toàn thể đồng bào mất nước'' ''mau hợp sức cùng lòng đánh đuổi Pháp - Nhật, rửa nhục cho non sông, đưa Tổ quốc tới chốn vinh quang độc lập.
Cứu quốc sẽ giãi bầy nỗi lầm than thống khổ của muôn dân;
Cứu quốc sẽ nêu cao ý muốn thiết tha của trăm họ;
Cứu quốc sẽ là người chỉ lối trung thành cùng đồng bào cùng tiến trên đường giải phóng dân tộc.
Cứu quốc hô hào đồng bào ''hãy tận tâm ủng hộ Cứu quốc về mọi phương diện, hãy cương quyết tiến lên dưới bóng cờ sắc đỏ sao vàng.
Đánh đổ giặc cướp nước Pháp, Nhật!
Đánh đổ giặc bán nước thân Pháp, thân Nhật!
Việt Nam độc lập tự do muôn năm!''.
Cứu quốc mất chú trọng khai thác truyền thống vẻ vang của dân tộc qua hàng nghìn năm lịch sử để bồi dưỡng ý chí chiến đấu và quyết thắng giặc ngoại xâm. Nhân ngày kỷ niệm Hai Bà Trưng tuẫn tiết, Cứu quốc nêu gương anh hùng của Hai Bà Trưng chống quân Đông Hán, nhân dân ta - đặc biệt là giới phụ nữ, tự hào về tổ tiên mình, sẵn sàng hy sinh cứu nước. Ngày hội đền Kiếp Bạc, báo ôn lại những trang sử oanh liệt đời Trần chống quân Nguyên, đặc biệt là về bài học toàn dân nhất trí quyết tâm đánh đuổi kẻ thù là một nhân tố cơ bản giành thắng lợi (số 15 ngày 30-11-1944); ngày 5 tháng giêng, nhớ đến chiến thắng lẫy lừng của Nguyễn Huệ ở Đống Đa với tài thao lược và nghệ thuật quân sự tuyệt vời, độc đáo…, rồi đến các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ, Đô Lương.
Về thời sự chính trị trong nước và thế giới, Cứu quốc bám sát mọi diễn biến của cuộc đấu tranh chống phát xít và tay sai. Về thế giới có mục ''Tin vắn thế giới”, ''Sóng gió năm châu”, ''Sân khấu quốc tế” viết về Anh - Mỹ mở mặt trận thứ hai; về Hồng quân Liên Xô phòng ngự rồi phản công và tiến công như vũ bão qua các nước châu Âu, tiến tới Béclin; về các cuộc chiến tranh chống Nhật ở Trung Quốc, Phi Luật Tân (Philippin), Inđônêxia... Số 21, ngày 25-5-1945 đưa tin ''Toàn thể quân đội Đức đã đầu hàng Đồng Minh không điều kiện''. Số 29, ngày 15-8-1945 đón trước thời cơ ''Nước Nhật hàng'', có tranh minh họa ''Giặc Nhật sắp chết đuối dưới Thái Bình Dương'' và số 30 ra gấp ngay hôm sau đưa tin Nhật đầu hàng không điều kiện.
Song song với mọi diễn biến trên quốc tế, Cứu quốc đưa ''Tin trong nước'' về mâu thuẫn Nhật - Pháp, về cuộc đảo chính ngày 9-3-1945, về ''Vai hề Trần Trọng Kim ra sân khấu” (số 20, ngày 5-5-1945) v.v..
Về tổ chức, Cứu quốc có mục ''Việt Minh muốn tiến”, “Thống nhất Việt Minh'' (số 10, ngày 18-2-1944); “Phải bỏ tính ỷ lại” (số 11, ngày 17-4-1944); ''Thực tâm cứu nước'' (số 12, ngày 25-6-1944); “Đội tự vệ sinh hoạt thế nào?” (số 13, ngày 20-8-1944); ''Phải kịp thi hành chỉ thị sửa soạn khởi nghĩa'' (số 14, ngày 21-10-1944; “Làm cho tổ chức hoạt động'' (số 15, ngày 30-11-1944) v.v.. hướng dẫn các sinh hoạt, làm việc, uốn nắn những quan điểm không đúng, như các hội cứu quốc trong cùng một cấp không liên lạc mật thiết với nhau mà thông qua cán bộ phụ trách; đoàn thể mạnh thường bao biện công việc của đoàn thể khác; khi thi hành nghị quyết của cấp trên thì không thống nhất, thiếu cổ vũ lẫn nhau; quan niệm phải có từ hai đoàn thể trở lên, có Ban Chấp hành đàng hoàng rồi mới thống nhất lên Việt Minh; phê bình những người vào tổ chức, đi họp nhưng mục đích để nghe tin tức, khi tin tức thắng phát xít dồn dập thì vui mừng, khi bị khủng bố thì hoang mang... Họ không nhận rõ ''Đồng minh thắng, nhưng không có tranh đấu sinh tử của dân ta thì cách mạng không thể thành công'' (số 12) và động viên họ làm đầy đủ mọi việc của một người giác ngộ ''thực dân cứu quốc'', v.v..
Đồng chí Hoàng Văn Thụ, một trong những người sáng lập Mặt trận Việt Minh bị sa vào tay giặc Pháp và bị tử hình. Để tỏ lòng tưởng nhớ đến người lãnh đạo của mình, khơi sâu thêm lòng căm giận địch và sẵn sàng chiến đấu để trả thù cho anh, Cứu quốc số 14, ngày 21-10-1944, có bài ''Chúng ta đã mất anh Hoàng Văn Thụ”.
Hội Truyền bá quốc ngữ, một tổ chức văn hóa, giáo dục được thành lập từ năm 1938 do sáng kiến của Xứ uỷ Bắc Kỳ, tồn tại và hoạt động hợp pháp suốt từ đó đến Cách mạng Tháng Tám. Sau cuộc hội nghị giáo khoa, Cứu quốc số 13, ngày 30-8-1944 có bài ''Cảm tưởng của tôi với cuộc hội nghị giáo khoa toàn quốc của Hội Truyền bá quốc ngữ”.
Báo Cứu quốc đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tổ chức và động viên nhân dân các dân tộc trong cả nước đứng lên chiến đấu giải phóng dân tộc, chống đế quốc phát xít Pháp - Nhật và các hạng tay sai, các tổ chức phản động do chúng lập ra để hòng cứu vãn sự sụp đổ của chúng.
Những bài văn nghị luận, bình luận chính trị, các tin tức, thơ ca, v.v., mang rõ nét sắc thái cổ động khí thế chiến đấu, kêu gọi vùng lên, không chịu cam tâm làm ngựa, trâu cho bọn xâm lược. Văn chương viết gọn, lưu loát, hấp dẫn, sắc sảo.
Do tình hình giao thông liên lạc trong thời kỳ chiến tranh gặp nhiều khó khăn, tình hình và tin tức từ miền Trung trở vào không được gửi đều tới Tòa soạn của báo Cứu quốc nên Cứu quốc hầu như chỉ bàn đến phong trào Việt Minh, chỉ đạo công tác, phản ánh tin tức đấu tranh phần lớn từ Thanh Hóa trở ra Bắc - đó là một nhược điểm lớn.
- Cờ giải phóng:
Là ''cơ quan tuyên truyền cổ động Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương''. Cờ giải phóng ra số l, ngày 10-10-1942. Báo do Tổng Bí thư Trường Chinh trực tiếp phụ trách biên tập và là cây bút chính luận chủ yếu, tác giả của nhiều bài chính luận, phê bình, chỉ đạo đấu tranh và xây dựng Đảng. Giúp việc biên tập, lúc đầu có Lê Quang Đạo, Bí thư Tỉnh uỷ Phúc Yên. Từ giữa năm 1943 trở đi có Lê Liêm, Lê Toàn Thư, v.v.. Công việc biên tập được tiến hành ở nhiều cơ sở bí mật thuộc tỉnh Phúc Yên. Báo in litô trên giấy xanh từ số 1 đến số 15 (ngày 17-7-1945) tại nhiều địa điểm bí mật xa Hà Nội trên dưới l0 km. Từ số 1 đến số 10, ngày 28-1-1945, báo ra 4 trang, mỗi số cách nhau không có kỳ hạn, số 2 cách số 1 hơn bốn tháng, từ số 3 đến số 5 cách nhau trên dưới hai tháng; số 6 cách số 5 một tháng rưỡi v.v.. Từ số 11, ngày 25-3-1945, báo ra 2 trang và rút dần khoảng cách40.
Với tư cách là cơ quan trung ương của Đảng, Cờ giải phóng tuyên truyền, cổ động và đấu tranh cho thắng lợi về tư tưởng, chính trị và tổ chức theo chủ trương, đường lối của Trung ương Đảng đề ra về các vấn đề trong nước và quốc tế.
1. Hội nghị Trung ương lần thứ tám (5-1941) đề ra nhiệm vụ của cuộc vận động cách mạng ở Đông Dương trong thời kỳ này, trước hết là phải giải phóng dân tộc. Ở trong nước, Nhật - Pháp cùng nhau vơ vét của cải và áp bức tàn nhẫn nhân dân ta, đồng thời chúng lại mâu thuẫn với nhau ngày càng sâu sắc. Nhật lấn át Pháp, trở thành kẻ thù chính, còn Pháp thì rơi xuống địa vị đày tớ của Nhật.
Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương tháng 2-1943 nhận định: nhân dân các dân tộc ở Đông Dương không phải chỉ làm cách mạng giải phóng dân tộc, phá tan xiềng xích của phát xít Nhật - Pháp, mà còn có nhiệm vụ quốc tế, góp sức với Mặt trận dân chủ quốc tế chống phát xít xâm lược, ủng hộ Liên Xô kháng chiến. Tình hình là điều kiện khách quan đặt ra vấn đề mở rộng Mặt trận dân chủ, tranh thủ bạn đồng minh chống phát xít trên đất Đông Dương trong những người Pháp dân chủ và Hoa kiều yêu nước. Mặt trận dân tộc thống nhất chống phát xít Nhật - Pháp là một bộ phận của Mặt trận dân chủ chống Nhật ở Đông Dương đồng thời là Mặt trận dân chủ quốc tế chống phát xít xâm lược.
Đó là nghệ thuật vận dụng sách lược tài tình dựa trên sự phân tích khoa học tình hình chính trị trong nước và quốc tế của Đảng Cộng sản Đông Dương do Tổng Bí thư Trường Chinh viết dưới hình thức ''Vấn đáp về chính sách của Đảng”, đăng trên Cờ giải phóng số 2, ngày 26-8-1943.
Sách lược đó, lúc đầu, không ít đảng viên chưa nhận thức rõ. Với kinh nghiện đấu tranh chính trị từng trải, lại có thực tiễn trực tiếp tiếp xúc bí mật với đại biểu của những người Pháp dân chủ ngay tại Hà Nội lúc đó, ngòi bút viết văn chính luận sắc sảo của Trường Chinh trình bày quan điểm của Đảng Cộng sản Đông Dương qua một loạt bài chung quanh vấn đề lập Mặt trận dân chủ chống phát xít Nhật với người Pháp ở Đông Dương như ''Tiến tới Mặt trận dân chủ thống nhất chống Nhật ở Đông Dương”, ''Chủ trương liên minh với Pháp Đờ Gôn'' (số 3, ngày 15-2-1944); ''Vẫn chính sách liên minh với Pháp Đờ Gôn'' (số 4, ngày 13-4-1944); ''Trở lại chính sách liên minh với Pháp Đờ Gôn'' (số 6, ngày 28-7-1944); ''Chung quanh chính sách liên minh với Pháp Đờ Gôn''; ''Vài câu trả lời cần thiết'' (số 9, ngày 25-12-1944); “Cái lỗi lớn của Pháp Đờ Gôn ở Đông Dương'' (số 13, ngày 16-5-1945).
2. Cờ giải phóng vạch trần thủ đoạn thâm độc của phát xít Nhật và bọn Việt gian tay sai của Nhật. Nhật nhất định sẽ truất quyền của Pháp, trực tiếp vơ vét tài sản và ra sức lừa phỉnh nhân dân ta phục vụ cho chúng kéo dài và mở rộng chiến tranh, sử dụng bọn Việt gian theo Nhật, không thích đánh Pháp để làm cớ cho Nhật can thiệp và đưa bọn Việt gian đó lên nắm chính quyền''. Bọn Việt gian theo Nhật là mối nguy cho thực dân Pháp, cho nên chúng đã từng bị thực dân Pháp khủng bố, bắt vào tù; nhưng là công cụ của Nhật, chúng bị Nhật sử dụng tùy theo yêu cầu từng lúc, do đó cũng nhiều lần nếm mùi thất vọng cay đắng vì bị lừa đối. Đảng Cộng sản Đông Dương kêu gọi họ kịp thời tỉnh ngộ trở về cùng nhân dân đánh kẻ thù (số 8, ngày 10-11-1944).
Cờ giải phóng số 11, ngày 25-3-1945 có bài ''Cuộc đảo chính'' của “Nhật ở Đông Dương”, nhận định tính chất đó làmột cuộc cướp giật mà kẻ thù chủ động là bọn đế quốc quân phiệt Nhật'' ''mục đích mưu lợi riêng cho giặc Nhật''. Về nguyên nhân, bài báo chỉ ra 3 điều: một là, ''hai con chó đói không thể ăn chung một miếng mồi''; hai là, Nhật diệt Pháp trước để phòng quân Đồng minh đánh vào, Pháp sẽ quay súng bắn Nhật; ba là, đường thủy liên lạc với thuộc địa bị cắt đứt, Nhật phải cố bám Đông Dương làm cái cầu nối liền các thuộc địa ở khu vực này với Nhật là con đường tiếp tế duy nhất cho các căn cứ chiến lược của Nhật ở Đông Nam Á.
Nhật đã thay Pháp độc quyền cai trị Đông Dương, nhưng rất lúng túng trong việc lập ra một bộ máy tay sai, vừa đưa bọn tay sai ra, vừa phải sử dụng cả bộ máy mục nát cũ của Pháp. Khi quân Đồng minh vào Đông Dương thì Nhật không đủ sức chống chọi với nhiều lực lượng: một số người Pháp thừa cơ nổi dậy, nhân dân Đông Dương tiếp tục chiến đấu chống Nhật, cùng với quân Đồng minh. Lúc này điều kiện tổng khởi nghĩa chưa thật chín muồi, nhưng thuận lợi khách quan rất lớn đòi hỏi chúng ta phải tiến lên với những cố gắng vượt bậc, tổ chức các uỷ ban giải phóng ở cơ sở để tập cho nhân dân nắm chính quyền; lập các đội tuyên truyền xung phong để mở rộng mau chóng cơ sở cứu quốc; đưa quần chúng ra biểu tình để động viên họ mạnh dạn tiến tới tổng khởi nghĩa; đặc biệt phát triển các tổ chức nửa vũ trang và vũ trang của quần chúng có trang bị thích hợp với mục tiêu chiến đấu rõ ràng, nhằm gấp rút tiến tới tổng khởi nghĩa.
3. Việc chuẩn bị khởi nghĩa được Trung ương đề ra từ giữa năm 1944. Cờ giải phóng có nhiều bài chỉ đạo tiến hành nhiệm vụ mới mẻ, có sức động viên rất lớn đối với việc đẩy mạnh cao trào cứu quốc đó. Công việc chuẩn bị thì nhiều, phải làm những việc gì và làm như thế nào? Cờ giải phóng có bài “Hãy nắm lấy khẩu chính'' (số 6, ngày 23-7-1944) đề ra 5 việc cốt yếu: phát triển tự vệ và bộ đội chiến đấu; huấn luyện cán bộ quân sự để chỉ huy các tổ chức có tính chất quân sự; sắm vũ khí để trang bị cho tự vệ và bộ đội; vận động binh lính để lấy súng địch bắn địch; huấn luyện chiến thuật du kích và kinh nghiệm khởi nghĩa cho cán bộ, đảng viên và quần chúng có tổ chức. Đồng thời, bài báo đề ra cách thức tiến hành để thực hiện 5 việc ấy, chung quy lại là: phải hăng hái giác ngộ quần chúng, phát triển các đoàn thể cứu quốc, đẩy mạnh các cuộc đấu tranh hằng ngày. Các địa phương phải có kế hoạch khởi nghĩa sát với địa phương mình.
V. MỘT VÀI NHẬN XÉT, KẾT LUẬN
1. Kể từ khi báo Thanh niên do Nguyễn Ái Quốc sáng lập, khổ nhỏ, biên tập và in số lượng ít, từ nước ngoài đưa về trong nước, đến tháng 8-1945, chúng ta đã có trên dưới 380 tên báo và tạp chí. Tham gia tất cả các trận chiến đấu lớn nhỏ, khi bị lùng bắt vì không hợp pháp, xuất bản công khai nửa hợp pháp và hợp pháp, cuối cùng, báo chí cách mạng đã giành được thắng lợi rực rỡ.
Những tờ báo và tạp chí sau đây ghi lại những dấu ấn lịch sử:
-         Tờ báo đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam là Tranh đấu (15-8-1930).
-         Tờ tạp chí đầu tiên của Đảng là Tạp chí Đỏ (5-8-1930).
-         Tờ báo trong tù đầu tiên của những người cộng sản ở Hỏa Lò, Hà Nội, lấy tên Tù nhân báo (3-1930), sau đổi là Lao tù tạp chí.
-         Hai tờ báo ra được nhiều số nhất đều do Nguyễn Ái Quốc sáng lập: Thanh niên, trên 200 số và Việt Nam độc lập 126 số. Riêng thời gian có sự chỉ đạo của Người, Thanh niên ra 88 số và Việt Nam độc lập ra trên 30 số.
-         Tờ báo đi tiên phong trong phong trào đòi tự do báo chí là Dân chúng, cơ quan trung ương của Đảng Cộng sản Đông Dương (22-7-1938).
-         Tờ báo có số lượng in lớn nhất là Dân chúng, số Xuân 1939 in tới 15.000 bản.
-         Tờ báo cách mạng ra bằng chữ dân tộc thiểu số đầu tiên là Lắc Mương, cơ quan của Hội người Thái cứu quốc ở tỉnh Sơn La.
-         Hai tờ báo có nhiều cống hiến nhất vào việc tổ chức lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi là Cờ giải phóng Cứu quốc (1942 – 1945).
2. Báo chí cách mạng tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin - một học thuyết có sức sống trong thực tiễn đấu tranh của các dân tộc ở Đông Dương, có khả năng kết hợp nhuần nhuyễn giữa đặc điểm hiện tại với truyền thống lịch sử dân tộc.
Những văn bản quan trọng của Quốc tế Cộng sản và các tổ chức trực thuộc quốc tế và cách mạng thế giới, về khu vực thuộc địa, đặc biệt là về cách mạng Đông Dương đều được giới thiệu, trích dịch hoặc đăng bản dịch toàn văn lên các báo chí cách mạng của ta cho toàn Đảng và quần chúng biết, phối hợp hành động, ủng hộ cách mạng quốc tế.
Ngay từ đầu, báo chí đã tuyên truyền cho Liên Xô, Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Nhiều nghị quyết của đại hội và hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô được trích đăng; nhiều bài báo tuyên truyền cho sự gắn bó giữa cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam với giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản Pháp là những người bạn chiến đấu ở ngay trong lòng kẻ thù trực tiếp của nhân dân ta; gắn bó với phong trào giải phóng dân tộc các nước, trước hết là phong trào giải phóng dân tộc ở các nước châu Á và các thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc Pháp; gắn Mặt trận Dân chủ Đông Dương với Mặt trận dân chủ thế giới chống phát xít.
Với sự tin cậy và yêu mến Liên Xô nhiệt thành, nhân dân ta vui mừng trước những thành tựu vẻ vang về mọi mặt của người anh cả vĩ đại, coi đó là nguồn động viên lớn, là niềm hy vọng mãnh liệt vào tương lai cách mạng nước mình tiến lên theo con đường của Cách mạng Tháng Mười, của kinh nghiệm có ý nghĩa quốc tế của Liên Xô trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Tất cả được thể hiện đậm nét và thường xuyên trên báo chí.
Tuyên truyền cho mục đích cuối cùng là xây dựng chủ nghĩa cộng sản Việt Nam, vạch rõ đó là quy luật phát triển tất yếu của xã hội Việt Nam, đồng thời làm sáng tỏ hai giai đoạn chiến lược và mục tiêu chiến lược của mỗi giai đoạn để đi tới mục đích cuối cùng.
Báo chí cổ động thực hiện các khẩu hiệu hành động trong từng thời kỳ lịch sử cụ thể, đoàn kết toàn dân, bênh vực quyền lợi hằng ngày cho nhân dân, trước hết là công nông, đồng thời chú ý đến quyền lợi chính đáng của các tầng lớp khác trong xã hội; báo chí tuyên truyền cho các quyền tự do dân chủ... Bằng việc giải thích chủ trương của Đảng và mặt trận về những hoạt động cụ thể của nơi này, nơi khác giành được thắng lợi hay uốn nắn những lệch lạc ''tả'', hữu khuynh, đã động viên quần chúng dũng cảm xông lên, thuyết phục người lầm đường, trừng trị kẻ phản bội, đẩy lùi kẻ thù, giành thắng lợi từng bước, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.
Báo chí phục vụ cho nhiệm vụ xây dựng Đảng Cộng sản về tư tưởng, chính trị và tổ chức, đấu tranh cho Đảng thống nhất và tập trung, bônsơvích hóa, chống tư tưởng địa phương, cục bộ, vô tổ chức, biệt phái, đề cao tự phê bình và phê bình, nâng cao trình độ lý luận Mác - Lênin, liên hệ chặt chẽ với quần chúng; xây dựng các đoàn thể quần chúng cho phù hợp với tình hình chính trị từng thời kỳ, mang tính giai cấp và tính quần chúng đông đảo; coi trọng Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế, tranh thủ xây dựng lực lượng ngay cả trong tổ chức của địch, như Viện Dân biểu, v.v..
Về chữ nghĩa, nhiều tờ báo của chúng ta thường viết không đầy đủ, như ''cơ quan tuyên truyền'' hoặc ''cơ quan tuyên truyền cổ động'', nhưng thực tế, các tờ báo đều làm đủ chức năng của báo chí cách mạng là tuyên truyền, cổ động và tổ chức tập thể.
3. Báo chí cách mạng tuyên truyền những luận điểm của Nguyễn Ái Quốc về cách mạng Việt Nam thể hiện trong đường lối chính trị của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và Đảng Cộng sản dưới hình thức nghiên cứu lý luận, lịch sử hay bằng văn học, nghệ thuật, tin tức thời sự, công khai trực tiếp hay kín đáo, gián tiếp. Từ khi Đảng Cộng sản ra đời, các báo chí cách mạng đều đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, của Trung ương hay các cấp uỷ địa phương, do một, hai Uỷ viên Trung ương hay Xứ uỷ, Tỉnh uỷ trực tiếp chỉ đạo biên tập hoặc thông qua một số cán bộ do Đảng chỉ định để bảo đảm cho quan điểm của Đảng được thấu suốt, không để cho một cá nhân, một nhóm nhỏ nào có ý đồ lợi dụng báo chí phục vụ cho lợi ích riêng biệt của họ.
Tuy vậy, trong một số trường hợp, trên một số tờ báo có lúc không quán triệt nguyên tắc trên đây, đã phạm phải sai lầm. Trên mặt báo, có khi xuất phát từ sai lầm trên một số chủ trương cụ thể; cũng có khi chủ trương đúng nhưng ''nhà báo'' nắm chưa chắc nên thể hiện có phần lệch lạc. Và cũng có trường hợp do sự phát triển của tình hình đấu tranh chính trị phức tạp, một số cán bộ thiếu sáng suốt, chưa chủ động nhận ra vấn đề, hay khi đã có đường lối rồi nhưng vì kiêu ngạo, ý thức tổ chức và kỷ luật chưa tốt, nên viết bài mang dấu vết cá nhân, trái với quan điểm của Đảng, gây ảnh hưởng không tốt cho Đảng và trong quần chúng, thiệt hại cho cách mạng. Trong lịch sử đã xảy ra ba thời điểm như giữa Thanh niên Búa liềm, năm 1929; giữa Tạp chí Đông Phương Dân chúng, năm 1939; giữa Tiền phong Giải phóng, năm 1945.
Đảng Cộng sản Đông Dương nhận định chính xác về những sai lầm của các phái tơrốtxkit ở Việt Nam trên các mặt tư tưởng, lý luận, chiến lược và sách lược cách mạng Việt Nam và phong trào cộng sản quốc tế từ năm 1930. Khi Quốc tế Cộng sản, Đảng Cộng sản Liên Xô và một số Đảng Cộng sản nói tơrốtxkit là tay sai của chủ nghĩa phát xít, Đảng Cộng sản Đông Dương cũng nói tơrốtxkit ở Việt Nam là tay sai của đế quốc Pháp và phát xít Nhật. Thực tế lịch sử cho ta biết nhận định ấy không hoàn toàn đúng ở Việt Nam. Sau cuộc đại khủng bố của chính quyền thực dân phát xít hóa năm 1939, một số tơrốtxkit vào tù, đi đày tập trung ở trại; một số trốn chạy về các vùng nông thôn ẩn mình. Ra tù do hết hạn hoặc được Nhật tha sau ngày 9-3-1945, tơrốtxkit cũng không làm tay sai cho Nhật, Huỳnh Văn Phương, một phần tử tơrốtxkit có tên tuổi, làm Phó Giám đốc Công an Nam Bộ dưới quyền điều khiển của Nhật sau ngày 9-3-1945, nhưng có liên lạc với cách mạng, đưa nhiều vũ khí của Nhật, cung cấp tin tức mật của chúng cho ta.
Một vài tờ báo của địa phương đôi khi không thấu suốt chủ trương của Đảng trên một số bài vở, chủ yếu là do sự hạn chế trình độ và điều kiện địa phương giới hạn tầm nhìn quá trình diễn biến của cách mạng trong cả nước, nên đã tuyên truyền cho những vấn đề của mình đề ra, khác với trung ương.
Quán triệt tính Đảng, đứng vững trên lập trường giai cấp vô sản, vì lợi ích của quần chúng, nên báo chí cách mạng đã say sưa, nhiệt tình giáo dục, thuyết phục quần chúng tiến lên dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản, phân biệt rõ con đường cách mạng của giai cấp vô sản và con đường của Việt Nam Quốc dân Đảng, của các nhóm tư sản và tiểu tư sản nhất định sẽ phá sản; nhận rõ con đường cách mạng chân chính của Đảng Cộng sản và những thủ đoạn cách mạng giả dối, lừa bịp của phái tơrốtxkit; chống hành vi đầu hàng, tiêu cực, trốn đấu tranh vì khiếp sợ vũ lực tàn bạo của kẻ thù. Báo chí vừa phản ánh tình hình các cuộc đấu tranh diễn ra hằng ngày, vừa tổng kết những cuộc đấu tranh lớn có tổ chức và chỉ đạo, biểu dương thành tích, hướng dẫn phát huy khí thế, đồng thời uốn nắn những lệch lạc, chỉ dẫn cách khắc phục khuyết điểm. Báo chí không ngừng phơi bày những mâu thuẫn, thối nát của xã hội thuộc địa, nửa phong kiến đương thời, vạch trầu bản chất dã man, hung bạo của kẻ thù, trình bày đúng sức mạnh của phong trào cách mạng và những nhược điểm cần khắc phục để đưa cuộc đấu tranh vượt qua mọi trở ngại, tiến hành đánh đổ quân thù, giành thắng lợi hoàn toàn cho cách mạng.
4. Kẻ thù của cách mạng rất sợ báo chí cách mạng. Chúng tìm mọi thủ đoạn mong bẻ gãy nó bằng các sắc lệnh, nghị định báo chí nghiệt ngã, phản động; huy động cả bộ máy khổng lồ mong đè bẹp nó; đồng thời hình thành một hệ thống báo chí phản động với hàng trăm tờ; tăng cường mật thám, quân đội, tòa kiểm duyệt, quản lý giấy, mực in, v.v.. Nhưng tất cả chỉ gây cho chúng ta khó khăn, thiệt hại nhất thời. Người chiến thắng vẫn là báo chí cách mạng, kẻ thất bại chính là đế quốc và tay sai.
Trong 20 năm (1925 - 1945) có l7 năm báo chí cách mạng xuất bản trong vòng bí mật, bất hợp pháp. Có 3 năm trong thời kỳ vận động dân chủ, căn bản là nửa hợp pháp, đôi khi mang tính hợp pháp nhưng phải sử dụng nghệ thuật đấu tranh rất khéo léo mới tồn tại được và luôn luôn bị địch khủng bố, khám xét, gây trở ngại, tịch thu báo và cả tài sản của báo, cuối cùng là ra lệnh cấm.
Đến thời kỳ tiền khởi nghĩa năm 1945, báo chí cách mạng vẫn là bất hợp pháp nhưng lại công khai trước quần chúng ở những ''tổng hoàn toàn'', ''châu hoàn toàn'', ở các khu giải phóng, những nơi giáp đô thị nhưng chính quyền địch đã tê liệt trước cao trào quần chúng và Việt Minh đã nắm quyền quản lý mọi việc chính trị - xã hội ở địa phương.
Ngay trong thời kỳ vận động dân chủ, những vũ khí do tự tay chúng rèn để chống lại báo chí cách mạng đã giảm hiệu lực, và có những đòn chúng không đỡ nổi do chúng ta sử dụng ngay vũ khí của chúng để chống lại chúng: ra báo tiếng Pháp; lợi dụng báo chí đã được phép từ trước chuyển thành báo chí cách mạng và xin phép một đường, ra báo một nẻo. Sở dĩ có tình trạng đó là do có cao trào cách mạng của quần chúng làm chỗ dựa, có sự chỉ đạo tài tình của Đảng, khéo phát hiện và lợi dụng nhược điểm của địch để đánh địch.
Báo chí cách mạng đấu tranh gay gắt với kẻ địch đang nắm chính quyền, do đó không thể tuân theo những nguyên tắc thông thường, hướng dẫn theo sách vở về tính định kỳ xuất bản cũng như tính thời sự nhanh chóng, nhạy bén với tình hình được: định kỳ nhiều khi phá vỡ, ''tin'' bị chậm trễ vì phương tiện đưa tin và nhận tin bằng kỹ thuật hiện đại nhiều khi không có...
Người Việt Nam sẵn có lòng yêu nước trong dòng máu, do tổ tiên để lại. Sức hấp dẫn lớn của báo chí đôi với người đọc là những bài vở sôi sục tinh thần yêu nước, kích thích lòng tự hào dân tộc truyền thống. Tư tưởng yêu nước theo tinh thần cộng sản chủ nghĩa được thể hiện từ báo Thanh niên buổi ban đầu, dần dần lôi cuốn cả dân tộc vào trận tuyến cách mạng, tập hợp trong Mặt trận dân tộc thống nhất chống đế quốc dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản. Chủ nghĩa yêu nước đó xa lạ với chủ nghĩa yêu nước bài ngoại, kỳ thị chủng tộc của phong kiến và tư sản, vì nó kết hợp tài tình lợi ích dân tộc với lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc ta với lợi ích của các lực lượng chống chủ nghĩa đế quốc trên thế giới.
Báo chí cách mạng cổ vũ tinh thần yêu nước hiện đại đó một cách say sưa, nhưng cũng có lúc vì nhận thức không rõ, sợ nói yêu nước là không ranh giới với chủ nghĩa quốc gia tư sản, cho nên giáo dục truyền thống yêu nước bị coi nhẹ. Các anh hùng cứu nước trong lịch sử dân tộc không được kỷ niệm trên trang báo suốt từ năm 1930 đến năm 1939, tuy vẫn giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, một mục tiêu chiến lược của cách mạng nước ta. Đó cũng là một nhược điểm trong việc đoàn kết, tổ chức mọi nhân nhân tố chống kẻ thù và cũng có lúc kẻ thù lợi dụng nhược điểm đó để lừa gạt quần chúng.
5. Những chiến công to lớn, thành tích vẻ vang và trưởng thành nhanh chóng của báo chí cách mạng là nhờ có:
a) Đường lối chiến lược, phương pháp cách mạng và cả những chủ trương đấu tranh cụ thể do Đảng Cộng sản đề ra là đúng đắn và sáng tạo, chỉ đạo mọi công tác của Đảng, trong đó có lĩnh vực tuyên truyền, báo chí. Báo chí đã bám sát sự lãnh đạo của Đảng, phối hợp đấu tranh trên báo chí với các hình thức và phương pháp đấu tranh khác, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp cách mạng.
Đảng có những chỉ thị, nghị quyết riêng về báo chí, đánh giá tình hình, phân tích ưu điểm và khuyết điểm, chỉ ra nhiệm vụ cụ thể cho báo chí hoạt động trong mỗi bước đi.
b) Các đồng chí lãnh đạo chủ yếu của Đảng rất quan tâm đến báo chí, trực tiếp quyết định ra báo, viết bài và sửa bài, tổ chức in và phát hành. Tấm gương của Hồ Chí Minh đối với báo chí được các đồng chí Trần Phú, Lê Hồng Phong, Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy Tập, Phan Đăng Lưu, Trường Chinh v.v. ra sức học tập và đều là những cây bút xuất sắc của báo chí cách mạng.
Đó là một trong những nhân tố bảo đảm cho báo chí giữ vững tính Đảng và chất lượng của các bài vở, nhất là những bài mang tư tưởng chỉ đạo, vạch rõ phương châm, đường lối hành động, đồng thời cũng cổ vũ, tổ chức, bồi dưỡng cho các cán bộ tham gia làm báo.
c) Báo chí cách mạng được toàn thể đảng viên và quần chúng ủng hộ. Từ việc các cơ sở cách mạng hết sức đùm bọc, giữ bí mật, nuôi cán bộ viết báo, đến việc tìm mua phương tiện in báo, tổ chức cất dấu, phát hành, sẵn sàng chủ động đối phó khi địch phát hiện, không làm lộ bí mật báo chí của ta.
Các cán bộ và quần chúng còn đóng góp vào việc cung cấp tin tức, tình hình, vận động người đọc báo, góp tiền mua báo, ủng hộ báo... làm mọi việc để cho tờ báo sống, gắn bó với phong trào từ nội dung đến hình thức, đáp ứng đúng những suy nghĩ về yêu cầu của quần chúng. Quần chúng mong đợi báo sớm về, đem lại những điều mới mẻ, bổ ích mà cuộc sống không thể thiếu được.
d) Sự cố gắng phấn đấu và trưởng thành của những cán bộ làm báo, dù là kiêm nhiệm, nửa chuyên nghiệp hay chuyên nghiệp. Họ lo lắng cho tờ báo làm sao ngày càng phục vụ tốt hơn, bài viết hay hơn, trình bày đẹp hơn, có nhiều thể loại cho sức hấp dẫn ngày càng tăng. Mặc dù không được học hỏi về chuyên môn, ngay cả tài liệu tham khảo, học tập ở nước ngoài hầu như không có. Nhưng qua thực tiễn công tác, tự rút kinh nghiệm để cải tiến, không ngừng nâng cao chất lượng. Họ là những chiến sĩ cách mạng tham gia làm báo, nên một lòng một dạ phục vụ nhân dân, chịu đựng gian khổ, sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp báo chí cách mạng, do đó giàu sáng kiến, sẵn sang đảm nhiệm mọi khâu trong quá trình hình thành tờ báo cho đến tay người đọc. Họ không có tổ chức nhà báo, nhưng ai cũng đều có tổ chức, trong chi bộ đảng, trong đoàn thanh niên, hội phụ nữ, hội văn hóa, v.v.. Đó là trường học chính trị để bồi dưỡng, nâng cao trình độ và lập trường, quan điểm cho họ và thông qua họ mà nâng cao chất lượng tờ báo.
20 năm đầu của lịch sử báo chí cách mạng thật là phong phú. Nó để lại một di sản truyền thống chiến đấu, một nghiệp vụ báo chí vô sản, một lực lượng cán bộ làm báo vô cùng quý báu cho thế hệ báo chí sau khi giành được chính quyền năm 1945.
__________
1.Anbe Xarô: Việc khai thác các thuộc địa Pháp, Ed Payot et Compagnie, Pari, 1923, tr.463 (tiếng Pháp).
2. Sắc lệnh ngày 25-5-1881 của Tổng thống Pháp ký quy định người Việt cư trú ở Nam Kỳ được hưởng mọi quyền công dân như người Pháp trên đất Pháp.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.1, tr. 404.
4. Đây là nói tới măng sét một số tờ báo gốc, biết được qua bản chụp. Còn những tờ khác, măng sét có thay đổi không thì chưa rõ, vì không có bản chụp, chỉ biết nội dung các bài qua bản dịch ra chữ Pháp của cơ quan mật thám Pháp hoặc dịch lại từ tiếng Pháp sang tiếng Anh của người nghiên cứu và luận án khoa học.
5. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t.1, tr.373.
6. Báo Thanh niên ra số cuối cùng là số bao nhiêu, ngày, tháng, năm nào, đến nay chưa được xác định rõ. Huỳnh Kim Khánh viết trong sách: Chủ nghĩa cộng sản Việt Nam: giai đoạn trước khi giành chính quyền (1925-1945), Canađa, 1972 (tiếng Anh) cho rằng báo Thanh niên ra được tất cả 208 số, tính đến tháng 5-1930 (tháng 5, được tác giả đánh dấu hỏi, đặt trong ngoặc đơn, trang 70, có ý là còn ngờ vực). Ở đây có sự không hợp lý và mâu thuẫn, ở trang 83 viết: đã giải thể tổ chức Hội Thanh niên. Tổ chức không còn mà báo lại vẫn xuất bản?
Một tuần báo xuất bản ở Hà Nội mới đây viết: báo Thanh niên xuất bản đến ngày 14-2-1930. Điều này chưa rõ.
Ở Aixăng Prôvăngxơ, trong kho lưu trữ của Pháp, có bản dịch ra chữ Pháp đến số 197, ngày 25-11-1929, không có văn bản nào nói đây là số cuối cùng hay còn tiếp tục xuất bản đến bao giờ.
7. Báo Thanh niên, số 63, ngày 3-10-1926.
8. Báo Thanh niên, số 2, ngày 28-6-1925.
9. Báo Thanh niên, số 66, ngày 24-4-1926.
10,11,12. Báo Thanh niên, số 67, ngày 31-10-1926.
13. Cụ Nguyễn Văn Hoan, lão thành cách mạng, tìm ra năm 1958, từ kho hồ sơ của Pháp.
14. Ở đây là bản in lại toàn văn bài báo, toàn bộ trang nhất và tiếp ở trang sau. Để tôn trọng tính lịch sử, chúng tôi in nguyên văn, chỉ đổi những chữ k, f, z thành c, ph, d; những chữ viết tắt thì viết rõ (ví dụ: KS = cộng sản…); về chính tả; dam (cầm), sửa lại là giam.
15. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr. 155-156.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.1, tr. 12-13.
17. Nhiều sách báo viết, các nhà tù chính trị, tù cộng sản ở các nước có viết sách, làm thơ, nhưng hầu như không làm báo, tạp chí là không đúng. Ở Việt Nam, một số nhà tù đã chủ trương làm báo chí từ những năm 1932 – 1933. Năm 1935, theo một số tài liệu ở nước ngoài, ở Bồ Đào Nha cũng xuất bản báo trong tù của người cộng sản.
18. Đại biểu Quốc tế là Nguyễn Ái Quốc, “đại biểu của đại biểu Quốc tế” là bốn đại biểu dự hội nghị hợp nhất: Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Thiệu, Châu Văn Liêm, Nguyễn Đức Cảnh (viết theo “Báo cáo tường thuật về hội nghị hợp nhất ở Hương Cảng năm 1930” của Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Thiệu gửi đồng chí Trường Chinh, ngày 17-11-1959).
19. Bảo tàng cách mạng Việt Nam lưu được các bản gốc bằng chữ quốc ngữ và chữ nôm, cùng bản dịch chữ Pháp từ kho hồ sơ của Pháp, do cụ Nguyễn Văn Hoan tìm ra từ năm 1958.
20. Báo Con đường chính được viết theo bài nói chuyện của Trường Chinh nhân dịp thăm cơ quan Tạp chí Học tập ngày 29-12-1959, và hồi ký của đồng chí Đặng Việt Châu, nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (chưa xuất bản).
21. Kể cả các nhà tù đày ở Đông Dương và Inini, nhà tù trên đất Guyan thuộc Pháp (Guyane francaise) ở Nam Mỹ, Tạp chí Đông phương, số 4, ngày 1-4-1939.
22. Báo Bạn dân, số 19, ngày 8-9-1937.
23. Điều 2: không được công bố các tờ báo hay ấn phẩm định kỳ ở Đông Dương bằng chữ Việt Nam, Trung Quốc hay bất cứ một thứ tiếng nước ngoài nào khác nếu không có nghị định của Toàn quyền, sau khi đã hỏi ý kiến bộ phận thường trực của Thượng Hội đồng Đông Dương.
24. Xem Báo Tin tức, số 11, từ ngày 18 đến ngày 25-6-1938.
25. Vấn đề này sẽ được trình bày rõ trong mục “Báo chí cách mạng” ở dưới.
26. ARIP là chữ đầu của cụm từ Agene radiotélégraphique de l’Indochine et du pacifique (Hãng Vô tuyến truyền thanh Đông Dương và Thái Bình Dương).
27. Xem Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nxb. Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1978, t.1, tr. 56-57.
28. Nay là số 16b, phố Đường Thành, Hà Nội.
29. Viết tắt của Cerele Sportif ânnmite = Câu lạc bộ thể dục, hiện nay là Câu lạc bộ quân đội, đường Hoàng Diệu.
30. Hiện nay là số 48, phố Quán Sứ, Hà Nội.
31. Thời thế lúc này chưa phải là báo cách mạng.
32. Sau Trần Văn Hiển bị mật thám Pháp bắt, đầu hàng và khai báo.
33. Nhà văn Thiếu Sơn về sau tiến bộ, có tham gia kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
34. Báo Ngày nay, số 5, ngày 2-6-1945.
35. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 7, tr.60.
36. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 7, tr.126.
37. Xin đọc đoạn Bác Hồ kể chuyện làm báo Việt Nam độc lập, trong bài nói chuyện tại Đại hội lần thứ II của Hội Nhà báo Việt Nam, ngày 16-4-1959.
38. Có những số in nhầm: số 118, ngày 10-2-1942, lại có số 118 ngày 11-2-1942. Số 153 đáng lẽ ngày 21-2-1943,  in nhầm là ngày 11-2-1943, trùng với số 152; số 166 đáng lẽ là ngày 21-7-1942, in nhầm là ngày 1-8-1943, trùng với số 170; 179 ngày 1-11-1943, đến số 180 viết ngày 10-10-1943 và số 181, ngày 20-10-1943 là nhầm. Có thể là ngày 10 và 20-11 hay ngày 11 và 21-11-1943 thì đúng.
39. Về sau, báo thêm chữ Tuyên truyền, thành: Cơ quan tuyên truyền cổ động của Việt Nam độc lập đồng minh.
40. Báo Cờ giải phóng trong thời kỳ xuất bản công khai ở Hà Nội vẫn do Tổng Bí thư Trương Chinh trực tiếp chỉ đạo, ra đến số 33, ngày 18-11-1945 với danh nghĩa “Cơ quan tuyên truyền cổ động trung ương của Đảng Cộng sản Đông Dương”. Đến khi Trung ương quyết định Đảng chuyển vào hoạt động bí mật, ra tuyên bố “tự giải tán”, thì Cờ giải phóng ngừng xuất bản. Ngày 5-12-1945, Sự thật ra số 1, là “cơ quan của Hội Nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương” thay thế.
CHƯƠNG II
BÁO CHÍ CÁCH MẠNG VIỆT NAM THỜI KỲ 1945 - 1954
I- BỐI CẢNH LỊCH SỬ THỜI KỲ 1945 - 1954
1. Những sự kiện lớn trên thế giới ảnh hưởng đến sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc của Việt Nam
Lịch sử nhân loại trong những năm 1945 đến 1954 là một thời kỳ sôi động với nhiều sự kiện to lớn và những diễn biến mới mẻ, tạo nên sự thay đổi đặc biệt về chính trị, có ảnh hưởng to lớn đến công cuộc kháng chiến, kiến quốc của nhân dân nói chung và sự phát triển của nền báo chí cách mạng Việt Nam nói riêng.
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc thực sự trở thành một bài học thức tỉnh cả nhân loại về sự cần thiết ngăn chặn những cuộc chém giết tàn bạo, đồng thời cũng trở thành một điểm mốc đánh dấu một giai đoạn phát triển mới trong lịch sự loài người. Từ ngày 1-9-1939, khi phát xít Đức tấn công Ba Lan đến ngày 2-9-1945, phát xít Nhật ký văn kiện đầu hàng vô điều kiện, Chiến tranh thế giới thứ hai kéo dài vừa 6 năm. 72 quốc gia trên thế giới đã huy động hơn 110 triệu người vào cuộc chiến tranh. Bom, đạn, xe tăng đã tàn phá hàng nghàn thành phố làng mạc. Hơn 50 triệu người kể cả lực lượng vũ trang và thường dân đã chết, trong đó có 20 triệu người Liên Xô. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc cũng đồng thời kết liễu chủ nghĩa phát xít - nguyên nhân dẫn đến những hành động tàn sát dã man, đe dọa cuộc sống hòa bình của nhiều quốc gia, dân tộc. Sự kết thúc của chiến tranh thế giới thứ hai đồng thời tạo ra cơ hội cho các quốc gia dân tộc bị áp bức trong đó có Việt Nam, vùng lên đấu tranh đánh đổ kẻ thù xâm lược, giành tự do, độc lập.
Ở khu vực châu Âu, một loạt nước như Bungari, Hunggari, Tiệp Khắc, Ba Lan, Rumani, Nam Tư, sau khi giải phóng khỏi ách chiếm đóng của phát xít Đức đã đi theo con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt, sau khi nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời (1-10-1949), thế giới đã hình thành một hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa. Sự ra đời hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa dẫn tới sự hình thành một thế giới gồm hai phe đối lập nhau. Sự hình thành hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa cùng những thành tựu mà nó đạt được, đặc biệt là để giải quyết các vấn đề xã hội đã tạo ra chỗ dựa về tinh thần và lực lượng cho các dân tộc bị áp bức vùng lên giải phóng khỏi ách thống trị, cho nhân dân lao động tại các nước đế quốc tư bản chủ nghĩa đấu tranh giành lấy quyền lợi chân chính của mình. Ở các nước châu Á như Lào, Campuchia, Inđônêxia, Mianma, Philíppin, Malaixia, Ấn Độ, Xiri, Li băng v.v. nhân dân đứng lên đấu tranh chống bọn thực dân đế quốc phương Tây, đòi độc lập. Cuộc đấu tranh giải phóng cũng bùng lên ở Angiêri, Mađagatxca và nhiều nước ở châu Phi, Mỹ La tinh. Quy mô của các cuộc đấu tranh giải phóng ngày càng rộng và tính chất cũng ngày càng quyết liệt ở nhiều nước, Đảng Cộng sản đã giữ vai trò lãnh đạo, tạo ra sức mạnh mới của phong trào. Toàn bộ hệ thống thuộc địa trên thế giới bị rung động và tan rã từng mảng. Lực lượng của các nước đế quốc thực dân bị suy yếu, dàn mỏng.
Ở châu Âu, nền kinh tế của các nước tư bản chủ nghĩa bị tàn phá, nhân dân bị bóc lột nặng nề, cuộc sống của các tầng lớp lao động càng thêm khó khăn. Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân ở các nước tư bản trong giai đoạn này tuy chưa mạnh mẽ và liên tục nhưng đã có sự phát triển mới với sự gắn bó giữa mục tiêu kinh tế, dân sinh với tự do và các đòi hỏi dân chủ.
Mặc dù tiêu tốn 270 tỷ USD và 350 000 người chết trong Chiến tranh thế giới thứ hai nhưng nước Mỹ không hề bị tàn phá và các tập đoàn tư bản Mỹ lại giàu lên do buôn bán vũ khí. Với vũ khí hạt nhân và một nền kinh tế mạnh, Mỹ ráo riết thực hiện âm mưu bá chủ thế giới. Một mặt, Mỹ nhảy vào chiếm đóng hoặc khống chế một số vị trí chiến lược trên bản đồ chính trị thế giới, đưa ra kế hoạch Marshall, thực hiện chiến lược toàn cầu nhằm ngăn chặn sự phát triển của chủ nghĩa cộng sản và phong trào giải phóng dân tộc. Chính trong khuôn khổ chiến lược đó, từ năm 1950, Mỹ bắt đầu can thiệp trực tiếp vào Việt Nam thông qua việc hoạch định kế hoạch chiến tranh, cung cấp tiền và vũ khí cho quân đội thực dân Pháp.
Nước Pháp ra khỏi Chiến tranh thế giới thứ hai với tình hình chính trị rối ren, nền kinh tế suy yếu lại phải cùng một lúc đối phó với phong trào giải phóng dân tộc ở Đông Dương, Xi ri, Libăng, Angiêri, Mađagatxca v.v... Tuy nhiên, bọn thực dân phản động Pháp vẫn nung nấu âm mưu và tìm cách quay trở lại xâm lược Đông Dương một lần nữa nhằm giành lại quyền lợi kinh tế bị mất và vơ vét của cải, tài nguyên phục vụ cho việc khôi phục kinh tế chính quốc.
Nhìn một cách tổng thể, đặc điểm nổi bật đầu tiên của tình hình quốc tế sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến năm 1954 là ba dòng thác cách mạng có bước phát triển mới. Lực lượng cách mạng xã hội chủ nghĩa đã hình thành một phe lớn mạnh. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc bùng lên khắp các châu lục, làm rung chuyển toàn bộ hệ thống thuộc địa. Ngay trong lòng các nước đế quốc, phong trào đấu tranh đòi quyền lợi kinh tế, dân sinh, dân chủ cũng phát triển mạnh và thúc đẩy những cải biến xã hội quan trọng.
Đặc điểm thứ hai của tình hình quốc tế thời kỳ này là thế giới bắt đầu bước vào cuộc chiến tranh lạnh với sự đối đầu, giằng co giữa hai phe. Các lực lượng đế quốc phản động do Mỹ cầm đầu buộc phải co cụm lại, dựng nên các rào chắn trọng yếu để ngăn chặn làn sóng cách mạng tiến bộ đang dâng cao. Phe xã hội chủ nghĩa lớn mạnh, hình thành một hệ thống thế giới, trở thành chỗ dựa về tinh thần và sức mạnh cho cuộc đấu tranh của nhân dân lao động ở các nước đế quốc và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Sự đối đầu giữa hai phe xã hội chủ nghĩa và đế quốc chủ nghĩa trở thành một đặc điểm nổi bật, ảnh hưởng đến toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại trong phần còn lại của thế kỷ XX.
2. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và công cuộc bảo vệ nền độc lập những năm 1945 – 1946
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam, tạo ra những tiền đề quyết định cho sự nghiệp giành độc lập, tự do cho dân tộc, thống nhất hoàn toàn và xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh sáng lập, rèn luyện từ hoạt động bí mật đã trở thành Đảng cầm quyền, giữ vững và không ngừng phát huy vai trò lãnh đạo trong xã hội, được các tầng lớp nhân dân tin yêu và ủng hộ. Lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc của nhân dân đã được cổ vũ, trở thành một nguồn lực mạnh mẽ trong công cuộc giữ vững các thành quả cách mạng, đấu tranh chống kẻ thù xâm lược.
Tuy nhiên, bối cảnh chính trị-xã hội sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 cũng đặt chính quyền nhân dân non trẻ trước những thử thách vô cùng khó khăn. Cùng một lúc, ba thứ giặc giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm đe dọa nền độc lập mà dân tộc ta vừa giành được.
Cùng với nạn đói, nạn dốt là sự bao vây, chống phá của thù trong, giặc ngoài. Ở miền Bắc, gần 20 vạn quân ô hợp của Tưởng Giới Thạch dưới danh nghĩa quân Đồng minh tràn vào để tước vũ khí quân đội Nhật. Tuy nhiên, mục tiêu chính của đội quân này là: Tiêu diệt Đảng ta, phá tan Việt Minh, giúp bọn phản động Việt Nam đánh đổ chính quyền nhân dân, để lập một chính phủ phản động làm tay sai cho chúng1. Những tổ chức phản động người Việt lưu vong ở Trung Quốc, tập hợp trong các tổ chức ''Việt Nam Quốc dân Đảng'' do Võ Hồng Khanh cầm đầu và ''Việt Nam cách mạng đồng chí hội'' do Nguyễn Tường Tam cầm đầu, theo chân đội quân của Tưởng Giới Thạch kéo về nước. Dưới ô che của quân Tưởng, bọn chúng chiếm giữ và lập ra chính quyền ở một vài địa phương, tuyên truyền lôi kéo nhân dân, chống phá cách mạng, cướp bóc khủng bố gây rối trật tự xã hội. Ở phía Nam, quân Anh kéo vào với danh nghĩa lực lượng Đồng minh giải phóng quân đội Nhật. Thực chất, bọn đế quốc thực dân Anh và Pháp đã cấu kết với nhau để đàn áp cách mạng Đông Dương nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi của chúng trong hệ thống thuộc địa đang tan rã. Ngày 23-9-1945, dưới sự trợ giúp của quân Anh và quân Nhật, quân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn - Gia Định hòng một lần nữa thiết lập sự thống trị ở Đông Dương.
Vận mệnh cách mạng và nền độc lập dân tộc ở trong thế ''ngàn cân treo sợi tóc''. Thù trong giặc ngoài cấu kết phá hoại cùng với nạn đói, nạn dốt và sự suy kiệt về kinh tế đã đặt ra trước chính quyền cách mạng những khó khăn, thử thách to lớn và khắc nghiệt. Trong tình hình ấy, Đảng và Bác Hồ đã vững tay chèo lái, khôn khéo đưa con thuyền cách mạng Việt Nam vươn lên.
Ngày 18-2-1946, Tưởng và Pháp ký kết Hiệp ước Hoa - Pháp, thỏa thuận để quân đội Pháp nhảy vào miền Bắc thay thế quân Tưởng ''giữ trật tự'' theo ''hiệp ước quốc tế''. Cách mạng đã chuyển sang một tình thế mới, đặt chúng ta trước một sự lựa chọn: hòa hay chiến trong điều kiện cả thế và lực đều bất lợi. Ngày 3-3-1946, Trung ương Đảng ra Chỉ thị ''Tình hình và chủ trương”, khẳng định sách lược mới ''Hòa để tiến''. Sách lược  mới cho phép ta có thời gian để tiếp tục củng cố chính quyền và thành quả cách mạng, tăng thêm tiềm lực toàn diện, sớm gạt bỏ quân Tưởng và loại từ bọn tay sai phản động của chúng bằng cuộc đấu tranh kiên quyết với sách lược khôn ngoan, chúng ta đã buộc thực dân Pháp phải thương lượng với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và đã đến ký kết Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946.
Khi ký Hiệp định Sơ bộ, phía Pháp đã công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do, có chính phủ, nghị viện, quân đội riêng và nằm trong khối liên hiệp Pháp. Tuy nhiên, thực dân Pháp vẫn chủ mưu khiêu khích, lấn tới, kiếm chuyện để lật đổ chính quyền nhân dân, dựng bọn bù nhìn lên thay. Cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền sau Hiệp định Sơ bộ càng thở lên khó khăn, phức tạp hơn. Ngày 25-6-1946, thực dân Pháp đem quân chiếm đóng Phủ toàn quyền cũ ở Hà Nội. Ngày 14-7-1949, nhân Quốc khánh nước Pháp, thực dân Pháp âm mưu làm đảo chính lật đổ chính phủ ta để lập chính phủ bù nhìn ''Nam Kỳ tự trị” v.v... Càng ngày, dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa của thực dân Pháp càng lộ rõ. Vừa đấu tranh kiên quyết khôn khéo và nhân nhượng có nguyên tắc, vừa bảo toàn và tăng cường xây dựng lực lượng, Đảng đã lãnh đạo nhân dân giữ vững chính quyền cách mạng trong 16 tháng (từ tháng 9-1945 đến tháng 12-1946). Khi không thể nhân nhượng hơn nữa, Đảng đã chủ động phát động nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến để giành tự do, độc lập, thống nhất Tổ quốc.
Ngày 19-12-1946, cuộc kháng chiến toàn quốc thần thánh của dân tộc Việt Nam chống đế quốc xâm lược Pháp bùng nổ, Đảng, Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta kiên trì mục tiêu cách mạng, luôn đấu tranh vì hòa bình, công lý, độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ đã hết lòng, hết sức thương lượng với quân Pháp để tránh một cuộc chiến tranh. Nhưng mọi nẻo đường đi đến hòa bình đã bị thực dân Pháp cắt đứt vì chúng quyết cướp nước ta một lần nữa. Nhân dân Việt Nam không có sự lựa chọn nào khác ngoài con đường cầm vũ khí đứng lên kháng chiến. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh vang dội núi sông, như hồi kèn xung trận, thúc giục cả dân tộc đứng lên bước vào cuộc chiến đấu mới:
“Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ!
Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước''2.
3. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
Ngay từ những ngày đầu, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự kiến cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược sẽ diễn ra theo ba giai đoạn: cầm cự, phòng ngự và phản công. Tại Đại hội lần thứ II của Đảng (2-1951) quan điểm này được nhắc lại một lần nữa. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội, Hồ Chủ tịch khẳng định:
“Đảng và Chính phủ ta đã nhận định cuộc kháng chiến có ba giai đoạn:
- Giai đoạn thứ nhất, thì ta cốt giữ vững và phát triển chủ lực. Giai đoạn này từ ngày 23-9-1945 đến hết chiến dịch Việt Bắc, Thu - Đông 1947.
- Giai đoạn thứ hai, thì ta tích cực cầm cự và chuẩn bị tổng phản công. Giai đoạn này từ sau chiến dịch Việt Bắc đến nay.
- Giai đoạn thứ ba, là tổng phản công''3.
Việc dự kiến các giai đoạn của cuộc kháng chiến dựa trên những điều kiện cụ thể và tương quan lực lượng giữa ta và địch. Đây cũng đồng thời là sự chủ định và quyết tâm chiến lược của Đảng và Chính phủ ta. Những diễn biến trên thực tế của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ đã chứng minh cho sự đúng đắn, chính xác của quan điểm trên.
Giai đoạn thứ nhất của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là giai đoạn kết hợp giữa cuộc chiến đấu chống xâm lược ở miền Nam với công cuộc xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng trên cả nước, tiến tới phát động kháng chiến toàn quốc, đánh thắng chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh của thực dân Pháp. Giai đoạn này mở đầu bằng sự kiện đêm 22, rạng ngày 23-9-1945, 4.000 lính Pháp và Pháp kiều có vũ trang với sự tiếp tay của quân Anh - Ấn đã nổ súng đánh chiếm Sài Gòn. Trong tình trạng chính quyền cách mạng vừa được hình thành, cả hai đầu đất nước đều có kẻ thù xâm lược, thế và lực cách mạng còn yếu, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương kìm chân địch ở phía Nam, hòa hoãn để đẩy quân Tưởng về nước, tận dụng mọi thời cơ củng cố chính quyền, xây dựng lực lượng cách mạng.
Sài Gòn - Gia Định đi trước cả nước quật khởi đứng lên, chặn đánh từng bước tiến của quân Pháp. Cả nước chi viện cho Nam Bộ kháng chiến. Ngay trong đêm 26-9-1945 chi đội Giải phóng quân đầu tiên lên đường Nam tiến. Những trận đánh liên tiếp xảy ra ngay trên từng cây cầu, góc phố của Sài Gòn, tạo thành thế bao vây quân Pháp trong thành phố. Phải một tháng sau, ngày 23-10-1945 quân địch tăng cường viện binh với lực lượng thiết giáp mới phá vỡ vòng vây xung quanh Sài Gòn.
Ở Nam Trung Bộ, ngày 22-10, quân Pháp đổ bộ lên Nha Trang bị quân ta chống cự mãnh liệt và bao vây. Cuối tháng 1-1946, sau khi chiếm được Buôn Ma Thuật, địch tập trung lực lượng từ phía nam đánh ra, Tây Nguyên đánh xuống và từ biển đánh vào, lực lượng của ta mới rút về Phú Yên. Ở phía Bắc, trong tình hình vô cùng khó khăn, phức tạp, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khôn khéo lãnh đạo cách mạng, hòa hoãn để tiến tới loại bỏ quân Tưởng, bảo vệ chính quyền nhân dân, phát triển sản xuất, mở mang văn hóa – giáo dục, củng cố khối đoàn kết toàn dân, nâng dần thế và lực của cách mạng. Với quân đội Pháp, chúng ta luôn có thái độ xây dựng, tìm mọi cách để duy trì hòa bình, tránh nổ ra chiến tranh. Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946 ký tại Hà Nội mở đường cho quân Tưởng rút về nước. Quân Pháp tạm thời vào miền Bắc thay quân Tưởng và sẽ rút dần trong 5 năm ra khỏi Việt Nam.
Với dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa, quân Pháp không từ một thủ đoạn nào để mở rộng phạm vi chiếm đóng, khiêu khích và tiêu diệt lực lượng của ta. Chính dã tâm xâm lược của thực dân Pháp đã đẩy tới sự kiện 19-12, buộc nhân dân ta phải đứng lên cầm súng chiến đấu. Sau hai tháng chiến đấu quyết tử, bộ đội ta rút khỏi Hà Nội. Toàn bộ các cơ quan trung ương cùng lực lượng vũ trang của ta rút dần lên Việt Bắc, xây dựng chiến khu làm căn cứ để xây dựng lực lượng chuẩn bị thời cơ giải phóng hoàn toàn đất nước.
Giai đoạn thứ hai của cuộc kháng chiến chống Pháp từ đầu năm 1948 đến chiến thắng Biên giới, Thu - Đông 1950. Đây là giai đoạn ta dần dần nắm thế chủ động, đẩy mạnh cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, phát triển chiến tranh du kích kết hợp với những đòn đánh của quân chủ lực, làm thất bại âm mưu ''dùng người Việt trị người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh'' của thực dân Pháp.
Sau thất bại ở Việt Bắc, Thu - Đông 1947, thực dân Pháp gặp nhiều khó khăn vì trong nước khủng hoảng kéo dài, chiến trường dàn mỏng do thiếu quân số, tinh thần binh lính sa sút. Để tiếp tục chiến tranh, quân Pháp buộc phải chuyển từ ''đánh nhanh, thắng nhanh'' sang ''đánh kéo dài” và thực hiện chính sách ''lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt''. Chỉ riêng năm 1948, Pháp tuyển thêm 55.000 quân ngụy. Chúng tập trung mở hàng loạt cuộc càn quét quy mô nhỏ, thực hiện việc bình định ở miền Nam, miền Trung và đồng bằng Bắc Bộ.
Sau Hội nghị Ban Chấp hành Tlung ương Đảng tháng 1-1948, ta phát triển mạnh chiến tranh du kích trong vùng địch hậu, ''biến hậu phương địch thành tiền phương ta''. Nhiều nơi trong vùng địch hậu, nhân dân lập làng chiến đấu, xây dựng căn cứ du kích. Nhiều gương chiến đấu dũng cảm, hy sinh oanh liệt xuất hiện như Võ Thị Sáu, Mạc Thị Bưởi, Anh hùng Núp… Phong trào ác liệt, phá tề nổi rầm rộ ở ngay những trung tâm quan trọng như Hà Nội, Hải Phòng. Trong những năm 1949, 1950, chiến tranh du kích của ta càng phát triển sâu rộng với sự hỗ trợ hay phối hợp chiến đấu của bộ đội địa phương và các phân đội quân chủ lực làm cho địch mất ăn, mất ngủ.
Tháng 1-1949, Trung ương Đảng họp Hội nghị Cán bộ trung ương lần thứ sáu. Hội nghị phân tích những điều kiện thuận lợi của ta, đánh giá sự thay đổi về so sánh lực lượng giữa ta và địch, trong đó chỉ võ: ''Chiến lược của địch sẽ nặng dần về mặt phòng ngự'' và nhận định khả năng đế quốc Mỹ sẽ nhảy vào can thiệp trực tiếp. Phương châm chiến lược được Hội nghị đưa ra là ''tích cực cầm cự, chuẩn bị tổng phản công''.
Ngày 21-5-1950, Trung ương Đông triệu tập Hội nghị toàn quốc lần thứ ba, Hội nghị xác định: ''phải nhân đà tiến bộ của bản thân ta, dựa vào sự giúp đỡ của các lực lượng bạn, lợi dụng sự lúng túng của địch, trước mưu mô của đế quốc Mỹ - Anh mà gấp rút hoàn thiện nhiệm vụ chuyển mạnh sang tổng phản công năm 1950 này4.
Ngày 16-9-1950, trận tiến công cứ điểm Đông Khê bắt đầu mở màn cho chiến dịch Biên giới. Mục đích của chiến dịch là tiêu diệt một phần sinh lực địch, giải phóng một phần biên giới, mở đường giao thông với các nước xã hội chủ nghĩa, mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc. Sau 29 ngày đêm chiến đấu bộ đội ta kết thúc thắng lợi chiến dịch Biên giới, diệt và bắt sống 8.300 tên địch, thu hơn 300 tấn vũ khí và phương tiện chiến tranh, xóa sạch Liên khu biên giới Đông Bắc của quân Pháp.
Chiến thắng Biên giới giáng cho địch đòn nặng nề chưa từng thấy ở Đông Dương, đẩy chúng vào thế bị động, lúng túng hơn. Đối với ta, biên giới được khai thông, thế bao vây của Việt Bắc bị phá vỡ, tạo ra bước chuyển biến căn bản của cuộc kháng chiến sang giai đoạn mới - giai đoạn nắm quyền chủ động trên chiến trường, chuyển hẳn sang tiến công quân địch.
Giai đoạn thứ ba của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ đầu năm 1951 và kết thúc ngày 20-7-1954 - ngày ký Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam. Đây là giai đoạn ta nắm vững quyền chủ động chiến lược trên khắp các mặt trận, liên tục tiến công phá vỡ mọi nỗ lực chiến tranh cao nhất của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, tiến tới chiến thắng Điện Biên Phủ.
Sau chiến dịch Biên giới, quân Pháp rơi vào thế khó khăn, mất quyền chủ động trên chiến trường. Để cứu vãn tình thế, ngày 24-12-1950, Mỹ ký với Pháp bản hiệp ước quân sự, tăng các khoản viện trợ chiến tranh, can thiệp sâu hơn vào cuộc chiến ở Đông Dương. Với sự tiếp sức của Mỹ, từ đầu năm 1951, Pháp bắt đầu thực hiện kế hoạch Đờ Lát, tập trung xây dựng lực lượng cơ động mạnh, lập tuyến phòng thủ trung du và đồng bằng Bắc Bộ, bình định vùng tạm chiếm, chuẩn bị đánh ra vùng tự do nhằm giành lại thế chủ động.
Về phía ta, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (2-1951) xác định nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng Việt Nam lúc này là: ''tiêu diệt thực dân Pháp xâm lược và đánh bại bọn can thiệp Mỹ, giành độc lập và thống nhất hoàn toàn, bảo vệ hòa bình thế giới''. Cũng tại Đại hội này, Đảng đổi tên thành Đảng Lao động Việt Nam.
Quân chủ lực của ta ở Bắc Bộ được tập trung xây dựng thành các đại đoàn và liên tiếp mở các chiến dịch đánh vào phòng tuyến địch ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ như: chiến dịch Trần Hưng Đạo ở khu vực Việt Trì, Bắc Giang (12-1950 – 1-1951), chiến dịch Hoàng Hoa Thám ở Phả Lại, Uổng Bí, Mạo Khê (tháng 3 và 4-1951), chiến dịch Quang Trung tại Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình (tháng 5 và 6-195l). Chiến tranh du kích tiếp tục phát triển ở các khu vực tạm chiếm, gây khó khăn cho việc bình định gấp rút của địch.
Từ ngày 14-10 đến ngày 10-12-1952, ta mở chiến dịch Tây Bắc nhằm phá vỡ thế uy hiếp của địch đối với Việt Bắc từ phía Tây, mở thông hành lang với Thượng Lào, tạo khả năng phối hợp với cách mạng nước bạn. Cũng trong thời gian chiến dịch Tây Bắc, quân ta đã đánh thắng các binh đoàn cơ động của Pháp đánh lên Phú Thọ, buộc chúng phải bỏ chạy.
Tháng 4-1953, ta phối hợp với bộ đội yêu nước Lào mở chiến dịch Thượng Lào (Sầm Nưa). Chiến dịch đã thắng lợi với việc giải phóng tỉnh Sầm Nưa và một phần tỉnh Xiêng Khoảng, tỉnh Phông Xa Lì.
Sau các chiến dịch Hòa Bình, Tây Bắc và Thượng Lào, cục diện chiến tranh càng có lợi cho ta. Hòng xoay chuyển tình thế, chuyển bại thành thắng, Pháp và Mỹ đâm lao đành theo lao, bắt tay thực hiện kế hoạch Nava với mục tiêu bình định Đông Dương. Để thực hiện kế hoạch này, Mỹ tăng thêm viện trợ quân sự lên đến 78% toàn bộ ngân sách chiến tranh ở Đông Dương. Phía Pháp ráo riết tăng quân, bắt lính, liên tục mở các trận càn ở Bắc Bộ, Bình Trị Thiên và Nam Bộ.
Cuối tháng 9-1953, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp bàn nhiệm vụ quân sự Đông - Xuân 1953 – 1954 Bộ Chính trị nhấn mạnh phương châm ''tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt'', nhằm đánh địch nơi sơ hở, tiêu diệt địch khi chúng đánh vào vùng tự do và đẩy mạnh chiến tranh du kích trên khắp chiến trường để phân tán và làm suy yếu lực lượng địch.
Mở đầu Đông - Xuân 1953 - 1954 ta thực hiện 5 đòn tiến công chiến lược:
1. Đánh vào thị xã Lai Châu trung tuần tháng 12-1953, buộc địch rút lui, co cụm về Điện Biên Phủ.
2. Hạ tuần tháng 12-1953, ta phối hợp với Quân giải phóng Lào, tiến công vào Trung Lào, buộc địch phải rút về lập cụm cử điểm tại Sênô.
3. Mở chiến dịch Hạ Lào và Đông Campuchia, giải phóng khu vực rộng lớn từ Đông Campuchia nối liền Hạ Lào, Trung Lào.
4. Trên mặt trận Tây Nguyên, cuối tháng 1, đầu tháng 2-1954, ta đánh thắng chiến dịch Átlăng của địch, buộc chúng phải co cụm về An Khê và Plâycu.
5. Tại Thượng Lào, hạ tuần tháng 1-1954, ta phối hợp với bạn Lào tiến đánh phòng tuyến Nậm Hu, truy kích địch đến gần Luông Pha Băng, buộc chúng tập trung về Luông Pha Băng và Mường Sài.
Từ tháng 12-1953, ta bắt đầu chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biên Phủ - chiến dịch quyết chiến trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. Trong chỉ thị gửi Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp, Hồ Chủ tịch chỉ rõ: ''Chiến dịch này là một chiến dịch rất quan trọng không những về quân sự mà về cả chính trị, không những đối với trong nước mà đối với quốc tế. Vì vậy, toàn quân, toàn dân, toàn Đảng phải tập trung hoàn thành cho kỳ được''5.
Ngày 13-3-1954, quân ta nổ súng tiến công Điện Biên Phủ. Ngày 7-5-1954, sau 55 ngày đêm chiến đấu vô cùng dũng cảm, quân ta toàn thắng ở Điện Biên Phủ, tiêu diệt và bắt sống toàn bộ quân địch ở đây trong đó có tướng Đờ Cát. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã kết thúc oanh liệt chiến dịch tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954.
Chiến thắng Điện Biên Phủ tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh ngoại giao của ta. Ngày 8-5-1954, hội nghị về chấm dứt chiến tranh Đông Dương khai mạc phiên thứ nhất tại Giơnevơ (Thụy Sĩ). Trải qua 8 phiên họp toàn thể và 23 phiên họp hẹp căng thẳng, ngày 20-7-1954, Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam được ký kết. Ngày 20-7-1954 trở thành thời điểm kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến oanh liệt, vĩ đại của nhân dân ta chống thực dân Pháp xâm lược, lập lại hòa bình trên miền Bắc.
II. BÁO CHÍ CÁCH MẠNG TRONG NHỮNG NĂM 1945 - 1946
1. Tình hình hoạt động báo chí
Trong cơ cấu Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Bộ Thông tin - Tuyên truyền luôn được coi là một trong những bộ quan trọng nhất. Người đứng đầu cơ quan này là Trần Huy Liệu - một nhà báo cách mạng nổi tiếng. Vì hiểu rõ vai trò cũng như sức mạnh của báo chí đối với môi trường chính trị nên Bộ Thông tin - Tuyên truyền đã sớm ban hành những văn bản phù hợp nhằm tổ chức, quản lý hệ thống báo chí sao cho hiệu quả nhất. Các chính sách của thời kỳ này, nói chung đều đảm bảo được các yêu cầu cơ bản:
- Tôn trọng tuyệt đối quyền tự do dân chủ của báo chí.
- Tạo điều kiện cho báo chí hoạt động tốt nhất, kể cả những tờ báo của những đảng phái chính trị đối lập.
- Báo chí hoạt động phải xuất phát từ lợi ích dân tộc, phải là vũ khí sắc bén bảo vệ chính quyền nhân dân.
- Khi cần thiết báo chí phải đoàn kết chống kẻ thù chung.
- Mở rộng hệ thống báo chí địa phương để báo chí ngày càng gần gũi với quần chúng nhân dân.
Chi phối xã hội mạnh mẽ nhất vào những năm 1945 – 1946 là các tờ báo cách mạng sau:
- Cờ giải phóng (10-10-1942 - 18-11-1945) - cơ quan của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương.
- Sự thật (5-12-1945) cơ quan của Hội Nghiên cứu chủ nghĩa Mác.
- Cứu quốc (25-1-1942) - cơ quan của Tổng bộ Việt Minh.
- Đài tiếng nói Việt Nam: 7-9-1945 (phủ sóng toàn quốc).
- Thông tấn xã Việt Nam: 15-9-1945 (có hai bản tin tiếng Pháp và tiếng Anh là Bulletin Quotidien; Daily Bulletin).  
- Tạp chí Tiền phong (10-11-1945) - Cơ quan của Hội Văn hóa cứu quốc Việt Nam.
- Lao động (20-7-1946) - Cơ quan của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
- Sao vàng (30-5-1946) - Cơ quan của Chính trị cục (trực thuộc Quân sự uỷ viên hội).
-  Kèn gọi lính (1945) - Cơ quan của Uỷ ban kháng chiến hành chính Nam Bộ.
Nếu như thời thuộc Pháp, báo chí chủ yếu tập trung tại các đô thị lớn như Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng, thì dưới chế độ ta, Đảng và Nhà nước ta rất chú trọng đến hệ thống báo chí cách mạng cấp tỉnh, cấp huyện, phục vụ đối tượng chính là nông dân, quân đội. Tuy nhiên, vì thời gian tiến hành quá ngắn ngủi, nên sự mở rộng này mới chỉ kịp thực hiện ở các địa phương thuộc đồng bằng, trung du. Đó là các địa bàn có vị trí chiến lược về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa như Sơn Tây, Nam Định, Hải Dương, Bắc Ninh, Bắc Giang, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Thừa Thiên - Huế và vùng tự do thuộc các tỉnh gần Sài Gòn như Đồng Nai, Cần Thơ, Bến Tre, Mỹ Tho. Đối với các khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa như Việt Bắc, Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, phải từ giữa năm 1947 trở đi báo chí địa phương mới được quan tâm phát triển. Vì nhiều lý do lịch sử khác nhau, trong năm đầu độc lập, báo chí cách mạng nước ta chủ yếu tập trung tại Bắc Bộ với khoảng 100 tờ (so với Trung Bộ và Nam Bộ mỗi nơi có xấp xỉ 30 tờ). 1/3 trong số này là báo chí yêu nước của tư nhân hoặc của các tổ chức xã hội không thuộc đảng phái chính trị nào. Có thể nói, khác với trước, báo chí yêu nước thời kỳ này có trình độ giác ngộ rất cao. Khi người Pháp chiếm được Sài Gòn, Hà Nội, một số tờ tuy vẫn ở lại các vùng đô thị, nhưng về cơ bản vẫn giữ vững quan điểm, chính kiến của mình trước sự hăm dọa, mua chuộc của kẻ thù. Hàng chục tờ báo yêu nước tại Sài Gòn đã đoàn kết nhau lại trong một mặt trận, chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Xứ uỷ Nam Kỳ, đấu tranh vì sự nghiệp thống nhất đất nước, ủng hộ chính phủ kháng chiến. Nhiều chủ báo tại Hà Nội thời tạm chiếm đã bí mật quyên góp tiền bạc, thuốc men gửi lên chiến khu. Họ thường xuyên dùng tờ báo của mình tố cáo âm mưu, thủ đoạn, tội ác của kẻ thù, ca tụng đường lối kháng chiến kiến quốc của chính quyền Việt Minh. Khi có điều kiện là họ lên rừng tham gia lực lượng cách mạng. Chính vì lý do này, chúng ta có thể coi báo chí yêu nước giai đoạn 1945 - 1954 là bộ phận của báo chí cách mạng, là báo chí cách mạng.
Trong hai năm 1945 - 1946, tại Nam Bộ có một số tờ báo cách mạng chính: Hy sinh (Bến Tre), Kháng chiến (Gò Công), Chiến đấu (Vĩnh Long), Miên – Việt (Trà Vinh), Cảm tử (sau đổi thành Vệ quốc, phát hành tại chiến khu miền Đông) v.v.. Trong số các tờ báo cách mạng của Nam Bộ, đáng chú ý là tờ Kèn gọi lính. Đây là cơ quan ngôn luận của Uỷ ban kháng chiến hành chính Nam Bộ, có số lượng in hơn 3 bạn bản, được người đọc hết sức yêu thích, coi như tờ báo Cứu quốc của đất phương Nam.
Sau khi Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán (1945), hệ thống báo Đảng các xứ uỷ rút vào hoạt động bí mật, thu hẹp quy mô đến mức tối đa. Cả Nam Bộ lúc này chỉ còn tờ Thống nhất (1945 - 1950 - cơ quan của Xứ uỷ Đảng Cộng sản Đông Dương) là hoạt động mạnh mẽ nhất. Nhiều người trước làm cho báo Đảng giờ chuyển sang báo của Mặt trận Việt Minh, báo của Uỷ ban kháng chiến hành chính hoặc làm công tác khác. Từ thời điểm này, báo của Mặt trận Việt Minh, của Uỷ ban kháng chiến hành chính Nam Bộ cũng có thể được con là báo Đảng. Một số nhà báo là đảng viên lên Sài Gòn tham gia viết cho các tờ báo của lực lượng báo chí thống nhất Nam Bộ đã dần dần biến hệ thống báo yêu nước thành báo chí cách mạng hoặc tiến xa hơn thành báo Đarng. Từ cuối năm 1945 trở đi, trong các nhà tù thực dân Nam Bộ, báo chí cách mạng trong tù tiếp tục được duy trì với các tờ tiêu biểu như: Đêm khám lớn, Tiếng tù (Sài Gòn - 1946). Viết cho các tờ báo này là các cây bút cách mạng, các đảng viên cộng sản bị địch giam hãm như Dương Tử Giang, Triệu Công Minh v.v..
Khác với Nam Bộ, báo chí cách mạng Trung Bộ ít tập trung tại các đô thị, các tỉnh trọng điểm mà rải đều khắp các địa phương. Hầu như tỉnh nào cũng có một vài tờ báo riêng. Nhằm tránh chồng chéo thông tin và cũng để hạn chế tối đa nhân lực, tài lực, một số địa phương gần gũi nhau đề địa giới hành chính, có hoàn cảnh kinh tế, văn hóa tương đồng còn ra chung một tờ báo. Có thể kể một số tiêu biểu như: Dân mới (Cơ quan tuyên truyền huấn luyện của Việt Minh Thanh - Nghệ - Tĩnh – Bình 1946), Chiến sĩ (Vệ quốc đoàn khu IV, 1945 - 1946), Quyết thắng (Việt Minh Thừa Thiên - Huế, cuối 1945) v.v.. Sự liên kết này không chỉ làm giảm gánh nặng chi phí mà còn tạo điều kiện cho mỗi tỉnh phát triển loại báo kinh tế, văn hóa - xã hội, tôn giáo như: Tiến hóa, Đời sống mới (Hội Văn hóa cứu quốc Quảng Ngãi), Kinh tế (Mặt trận kinh tế Huế), Tạp chí Dân mới (văn hóa cứu quốc liên tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh - Bình), Giải thoát (Cơ quan phát huy tinh thần Phật giáo và nghiên cứu áp dụng nào đời sống mới - Huế 1946) v.v.. Cũng như Nam Bộ, tại Trung Bộ (những năm 1945 - 1946), loại báo dành cho trẻ em, phụ nữ, lực lượng công an chưa được quan tâm đúng mức. Hơn một năm sống trong độc lập, báo chí cách mạng Trung Bộ được tổ chức theo bốn tầng cơ bản: báo chí cấp kỳ (xứ uỷ, kỳ bộ Việt Minh, Uỷ ban kháng chiến hành chính Trung Bộ), báo cấp liên tỉnh này còn gọi là khu, sau này nâng lên thành liên khu), báo cấp tỉnh và báo cấp thị xã (chưa có báo cấp huyện) trung ương với báo của các đơn vị quân đội (cấp trung đoàn) hay các cơ quan hành chính lớn. Báo cấp cao nhất có nhiệm vụ tổng hợp vấn đề của các tỉnh, kỳ hợp với chủ trương chung của chính quyền trung ương rồi từ đó vạch ra kế hoạch tuyên truyền cho toàn khu vực. Báo cấp kỳ lúc này đặt nặng chất lượng, xem nhẹ số lượng, chỉ có mấy tờ cơ bản như: Đại chúng (Liên đoàn văn hóa cứu quốc Trung Bộ), Tổ quốc (kỳ bộ Việt Minh Trung Bộ). Báo Đảng cấp kỳ không xuất hiện công khai mà nhường chỗ cho báo Đảng cấp thấp hơn. Dưới danh nghĩa Mặt trận Việt minh, tỉnh uỷ nào cũng có báo riêng, tiêu biểu như: Tranh đấu (Bình Định), Tin (Đà Nẵng), Tin tức (Quảng Nam), Việt Nam (Khánh Hòa), Tiến lên (Nghệ An), Tin thật (Ninh Thuận), Chiến thắng (Phú Yên), Liên minh (Quảng Nam), Chơn độc lập (Quảng Ngãi), Tin Quảng Trị (Quảng Trị), Quyết thắng (Thừa Thiên – Huế) v.v.. Vì điều kiện đi lại khó khăn, phần lớn bà con dân tộc lại chưa biết chữ, cán bộ phóng viên thiếu nên  báo chí cách mạng Trung Bộ chưa vươn tới được Tây Nguyên. Việc đưa tiếng nói của Đảng tới Gia Lai, Đắc Lắc, Kon Tum phải tới năm 1948 trở đi mới được tiến hành. Đây là hạn chế lớn nhất của Sở Thông tin - Tuyên truyền Trung Bộ.
Ngày 2-9-1945, tại Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đây cũng là điểm đánh dấu sự đi lên không ngừng của báo chí cách mạng Bắc Bộ, đưa dòng báo chí này bước sang một trang mới. Như trên đã đề cập, trong năm đầu độc lập số tên các tờ báo cách mạng ở Bắc Bộ lớn gần gấp 2 lần các khu vực khác trên cả nước (100/60). Trên dưới 100 đầu báo cách mạng này thuộc mấy cấp độ chính:
- Báo chí trung ương: của Chính phủ (cấp nhà nước, cấp bộ), của Quốc hội, của Đảng, của Tổng bộ Việt Minh, của các hội đoàn thể (Hội Văn hóa cứu quốc Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Tổng hội Sinh viên Việt Nam v.v.).
- Báo cấp tỉnh, thành.
- Báo của các cơ quan, đơn vị cơ sở.
Nhìn vào cơ cấu này có thể thấy, khác với báo chí cách mạng Nam Bộ, Trung Bộ, tại Bắc Bộ không tổ chức hệ thống báo cách mạng cấp kỳ (báo của xứ uỷ, của kỳ bộ Việt Minh) và báo cấp xã. Báo chí cách mạng cấp tỉnh tuy vẫn được duy trì nhưng cũng không được mở rộng tối đa và không phải tỉnh nào cũng có một tờ báo riêng. Chi phối đời sống báo chí lúc này tại khu vực Bắc Bộ chủ yếu là hệ thống báo chí trung ương. Báo cấp tỉnh chỉ có nhiệm vụ hỗ trợ, đi sâu phân tích, giải thích chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và các vấn đề nội bộ của địa phương. Loại báo này chủ yếu tập trung tại các tỉnh lớn, có ý nghĩa chiến lược về mọi mặt như Nam Định (Sóng Tuần Vương, Nam Định kháng chiến, Xung phong, Nam tiến), Thái Bình (Tranh đấu, Tấc đất, Đại đoàn kết), Sơn Tây (Tiếng xứ đoài), Phú Thọ (Đời sống mới), Thái Nguyên (Đội Cấn), Tuyên Quang (Giải phóng khu), Yên Bái (Tiến lên) v.v.. Tất cả những tờ báo cấp tỉnh trên đều hoạt động trên danh nghĩa cơ quan của Mặt trận Việt Minh, Hội Văn hóa cứu quốc, nhưng thực chất chúng là báo của đảng bộ địa phương. Cũng như nhiều khu vực khác trong cả nước, báo chí cách mạng Bắc Bộ lúc này chưa được quan tâm đúng mức tại các tỉnh miền núi xa xôi, vùng hải đảo. Người dân Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Lai Châu, Bắc Cạn... hầu như chỉ được tiếp xúc với vài tờ báo chính của trung ương như Cứu quốc, Sự thật, mà cũng hết sức thất thường. Thông tin đến với họ có khi bị chậm tới hàng tháng trời. Vì là Thủ đô của cả nước nên trong năm đầu độc lập, có tới 80% báo chí cách mạng Bắc Bộ và 100% báo chí trung ương tập trung tại Hà Nội. Đây là địa bàn hoạt động báo chí diễn ra sôi động nhất. Đối tượng phục vụ của báo chí Hà Nội cũng hết sức đa dạng, phong phú và khá đầy đủ.
Vì Bắc Bộ là trung tâm cách mạng của cả nước nên Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm phát triển hệ thống báo chí đối ngoại. Có thể nói, trong năm đầu độc lập, đối với chính quyền cách mạng non trẻ vấn đề ''giặc ngoài'' nguy hiểm hơn “thù trong”. “Thù trong'' ở đây chính là các lực lượng phản động người Việt và tàn dư do chế độ cũ để lại, là sản phẩm, là đứa con hoang của “giặc ngoài”. Nếu chúng ta giải quyết tốt vấn đề ''giặc ngoài'' thì ''thù trong'' tất nhiên sẽ phải biến mất. Chính vì vậy mà ngay sau ngày giành được chính quyền ở Hà Nội, đồng chí Xuân Thủy đã thay mặt Trung ương Đảng chỉ thị cho các đồng chí Trần Kim Xuyến, Trần Lâm, Chu Văn Tích gấp rút xây dựng, tổ chức Đài Tiếng nói Việt Nam. Các chương trình phát bằng tiếng nước ngoài cũng như được mở rộng phạm vi phủ sóng ra ngoài lãnh thổ luôn là hướng phấn đấu của Đài Tiếng nói Việt Nam. Ngay trong ngày đầu ra mắt, bên cạnh bản tin tiếng Việt,  Thông tấn xã Việt Nam đã phát hành cùng một lúc hai bản tin tiếng Anh và tiếng Pháp với các hô hiệu VNA, AVI. Đảng chủ trương ra tờ báo Republique (LA) làm cơ quan đối ngoại riêng (số 1 của tờ báo này ra ngày 7-10-1945, đến tháng 3-1946 đổi tên thành Le Peuple). Ngoài ra, Đảng và Nhà nước ta cũng quan tâm giúp đỡ các tổ chức Việt kiều ở trong nước và ngoài nước ra báo. Tiêu biểu trong số này có tờ Nam Việt (cơ quan của ban Trung ương Việt kiều liên minh - Pari - 1946), Công binh đọc báo (cơ quan của lao động và binh lính Việt Nam ở Pháp trong chiến dịch xóa mù chữ), Công nông đọc báo (Ban Trung ương Việt kiều chủ trương xuất bản phục vụ lính thợ là lình chiến Việt Nam ở Pháp trong chiến dịch xóa mù chữ), Sống chung (cơ quan vận động việt kiều ở Campuchia - 1946)...
Hệ thống báo chí đối ngoại nói trên không chỉ làm nhiệm vụ thông tin những vấn đề của Việt Nam ra thế giới mà chủ yếu nhằm khẩn định vị thế của nhà nước cách mạng đầu tiên ở Đông Nam Á, tuyên tuyền cho những người Pháp tiến bộ, yêu chuộng hòa bình hiểu rõ cuộc đấu tranh chính nghĩa của dân tộc ta. Qua báo chí Đảng, Chính phủ ta bày tỏ thái độ ủng hộ tuyệt đối cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do, đến chủ của các dân tộc thuộc đã tên toàn thế giới, luôn coi các dân tộc bị áp bức là bạn, lấy việc tuyên truyền cho Liên Xô và các nước nằm trong hệ thống xã hội chủ nghĩa là trách nhiệm, nghĩa vụ của mình.
2. Các tờ báo cách mạng ra đời trước tháng 8-1945 tiếp tục xuất bản
a) Báo Cứu quốc
Cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền do Mặt trận Việt Minh lãnh đạo vào tháng 8-1945 diễn ra nhanh chóng, thuận lợi. Lúc này, báo Cứu quốc chưa kịp chuyển về Hà Nội nên phải nhờ tờ Tin mới (là tờ báo hàng ngày, công khai của Mặt trận do ông Nguyễn Văn Luyện quản lý) đưa tin và đăng các văn bản của chính quyền mới. Việc ra báo Cứu quốc công khai được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm. Sau khi nhận được chỉ thị, đồng chí Xuân Thủy đã cùng một số anh em trước đã cùng làm báo Cứu quốc bí mật gấp rút chuẩn bị. Để tiện cho công việc, họ quyết định đặt tòa soạn báo tại số nhà 114 phố Hàng Trống, trụ sở chính của Mặt trận Việt Minh. Đây là cơ quan cũ của tờ Action dưới thời Pháp thuộc, nay là phố Lê Thái Tổ, tòa soạn báo của Hà Nội mới. Thời gian đầu, báo Cứu quốc dự kiến in tại Taupin, một trong những nhà in lớn của Hà Nội thời bấy giờ. Đến tháng 1-1946, nhà in riêng của báo Cứu quốc mới chính thức được thành lập.
Ngày 24-8-1945, báo Cứu quốc ra số 31 (số công khai đầu tiên) in bằng giấy tốt, 2 trang. Trang 1 của số báo này hình lá cờ đỏ sao vàng chiếm gần hết khổ báo do nhà thơ Thâm Tâm thể hiện. ''Lời chào cứu quốc'' được đăng trang trọng: ''Để đạt mục đích cứu quốc, hơn ba năm nay Cứu quốc sống âm thầm trong hang núi rừng sâu và trong những túp lều tranh u uất, hôm nay nó đã vươn mình ra trước ánh sáng. Hơn ba năm nay nó đã vượt qua muôn trùng nguy hiểm để đến tay đồng bào và giờ đây, nó đường hoàng đứng trước mắt độc giả''.
Với những lời lẽ tha thiết, hùng hồn, ngay từ những số báo đầu tiên, Cứu quốc đã được đông đảo bạn đọc trong cả nước nồng nhiệt chào đón ủng hộ. Báo in trên dưới 2 vạn bản mà vẫn không đủ để bán. Nhu cầu của các địa phương là rất lớn. Một số người đã tìm cách đầu cơ báo Cứu quốc mang đi các vùng xa bán với giá cao hơn gấp nhiều lần, buộc pháp luật phải ra tay can thiệp. Trong nhiều số liền, báo Cứu quốc đăng thông báo cho ai phát hiện, tố giác những kẻ đầu cơ báo, nhưng cũng không đạt hiệu quả là mấy. Cứu quốc lúc này do đồng chí Xuân Thủy (tên thật là Lê Trọng Nhân, Trưởng ban Tuyên truyền của Tổng bộ Việt Minh) làm chủ nhiệm kiêm chủ bút. Vì những lý do tài chính, nhân sự, nên thời gian đầu Cứu quốc không có điều kiện ra hàng ngày. Đến ngày 10-9-1945, Cứu quốc bắt đầu ra hàng ngày. Chữ Cứu quốc trước in màu đỏ giờ chuyển sang màu đen. Dưới tên báo là hàng chữ in đậm ''Cơ quan tuyên truyền tranh đấu của Việt Minh''. Báo bán giá 3 hào sau tăng lên 5 hào, góc bên trái phía trên cùng bao giờ cũng có một bài xã luận viết rất ngắn gọn, súc tích, chủ yến do đồng chí Xuân Thủy chấp bút. Tính tới thời điểm cuối năm 1945 đầu năm 1946, Cứu quốc sử dụng chủ yếu tin tức trong nước. Tin ngoài nước, nếu có cũng liên quan ít nhiều đến tình hình chính trị Việt Nam, Cứu quốc công khai ra khổ lớn (580mm x 420mm), in typô, cách trình bày rất hiện đại, ấn tượng, Báo thường dùng ''tít'' lớn, kiểu chữ chân phương, nghiêm túc, gói gọn nội dung toàn bài hoặc nhấn mạnh vào chi tiết đáng lưu ý nào đó, kích thích mạnh vào sự chú ý của độc giả. Ví dụ như: ''Phải phân biệt chính quyền nhân dân với Việt Minh'', ''Tây đói thì Tây ăn gì?'' v.v.. Do dung lượng thông tin nhiều trong khi báo chỉ có 2 trang, nên Cứu quốc phải dùng kiểu chữ rất nhỏ, bài vở ken dày vào nhau. Thông thường, báo dùng giấy trắng hoặc ngả vàng nhưng cũng có khi vì không được cung cấp đủ mà Cứu quốc phải sử dụng cả giấy màu tím, xanh thẫm. Từ số 49 ngày 22-9-1945, Cứu quốc ra thử nghiệm 4 trang, nhưng chỉ được một số, đến số 50 lại quay về 2 trang. Từ số 51, báo bắt đầu sử dụng ảnh minh họa, nhưng do phóng viên ảnh chưa có, máy móc thiết bị thiếu, nên báo chỉ dùng ảnh của cộng tác viên gửi về. Từ đầu tháng 10-1945 trở về sau, vào những ngày diễn ra nhiều sự kiện có tác động xã hội lớn, báo lại ra 4 trang. Vào ngày nổ ra cuộc kháng chiến của đồng bào Nam Bộ, báo ra ngày 2 kỳ, một số phát hành vào buổi sáng, số kia ra vào chiều tối.
Có thể nói, Cứu quốc là một trong những tờ báo thời bấy giờ quy tụ được nhiều cây bút xuất sắc nhất trong làng báo cách mạng nước ta. Ngoài Xuân Thuỷ ra, bạn đọc còn rất quen thuộc với những tên tuổi như: Nguyễn Thành Lê, Như Phong, Văn Tân, Tô Hoài, Trần Huy Liệu, Nguyễn Ngọc Kha, Quốc Thụy, Nguyễn Văn Hảo, họa sĩ Trần Đình Thọ v.v.. Mặc dù đứng trên danh nghĩa cơ quan ngôn luận của Tổng bộ Việt Minh, nhưng thực chất Cứu quốc là một tờ báo Đảng, đặc biệt kể từ sau ngày Đảng Cộng sản Việt Nam tuyên bố tự giải tán, rút vào hoạt động bí mật vào tháng 11-1945 báo được Tổng Bí thư Trường Chinh quan tâm chỉ đạo trực tiếp. Chính vì thế mà các nội dung của Cứu quốc đều gắn liền với các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, nhân dân và nhất là hành động theo báo, một sai sót nhỏ dù về quan điểm sẽ dẫn đến những hậu quả khôn lường. Đây là vinh dự cũng như trách nhiệm nặng nề cho anh em phóng viên, biên tập viên của báo Cứu quốc. Người làm cho báo Cứu quốc chỉ với nhiệt tình cách mạng thôi chưa đủ, mà còn phải có trình độ cao về mọi mặt, nhất là nhận thức, về chính trị, tư tưởng. Công tác đào tạo luôn được lãnh đạo của báo quan tâm. Người đến trước dạy người đến sau, người lâu năm trong nghề truyền đạt lại kinh nghiệm cho thế hệ trẻ. Đặc biệt, Cứu quốc còn được Hồ Chủ tịch và Tổng bộ Việt Minh tin tưởng giao nhiệm vụ đứng ra lo liệu tổ chức lớp dạy về báo chí có tên Huỳnh Thúc Kháng diễn ra từ tháng 4 đến tháng 7-1949 tại chiến khu Việt Bắc. Từ lò đào tạo này, nhiều phóng viên đã trưởng thành để lại tên tuổi của mình trong lịch sử báo chí cách mạng của đất nước.
Để thực hiện tốt chủ trương đoàn kết toàn dân kháng chiến, kiến quốc của Đảng và Mặt trận, Cứu quốc mở rộng hoạt động bằng cách ra báo Cứu quốc địa phương. Cụ thể là, ngoài tờ Cứu quốc trung ương, năm 1947 có thêm:
Cứu quốc khu II - ra tuần 5 số trừ thứ 5 - chủ nhật.
Cứu quốc khu III-  ra hàng ngày.
Cứu quốc khu IV ra hàng ngày.
Cứu quốc khu V.
Cứu quốc khu X - ra hàng ngày.
Cứu quốc khu XII.
Cứu quốc khu Việt Bắc.
Vào năm 1948 có sự thay đổi sau:
Cứu quốc Liên khu III - ra hàng ngày, là sự sáp nhập Cứu quốc khu II và Cứu quốc khu III.
Cứu quốc liên khu V- ra hàng ngày, là sự sáp nhập Cứu quốc khu IV và Cứu quốc khu V.
Cứu quốc Liên Việt Nam Bộ ra hàng ngày.
Trong những năm từ 1952 đến 1954 có một số tờ cứu quốc cấp tỉnh ra đời, tồn tại cạnh Cứu quốc Liên khu là:
- Cứu quốc của Mặt trận Liên - Việt Mỹ Tho; - Cứu quốc của Mặt trận Liên - Việt Cần Thơ; - Cứu quốc của Mặt trận Liên - Việt Bến Tre; - Cứu quốc của Mặt trận Liên - Việt Bà Rịa,..
b) Báo Sự thật
Trước sức ép của kẻ thù, tháng 11-1945 Đảng Cộng sản Việt Nam tuyên bố giải tán, thực chất là rút vào hoạt động bí mật. Tờ báo Cờ giải phóng (số 1 ra ngày 10-10-1942) đã hoàn thành sứ mệnh của mình cũng đóng cửa, ra số cuối cùng vào ngày 18-11-1945. Để lãnh đạo trực tiếp cách mạng nước ta, Đảng chủ trương thành lập “Hội Nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương'', do đồng chí Trường Chinh làm chủ nhiệm Hội. Cơ quan ngôn luận chính của Hội (Đảng Cộng sản Việt Nam) là tờ Sự thật, số đầu tiên ra ngày 5-12-1945, là sự kế tục Cờ giải phóng và những tờ báo Đảng trước đó.
Báo Sự thật ra vào thứ 7 hàng tuần, tòa soạn lúc đầu ở 65 Hàng Đào, sau chuyển đến 187 Bà Triệu, rồi 24 phố Phan Chu Trinh, Hà Nội. Công việc quản lý nhân sự được giao cho Lê Hữu Kiều và Lê Đăng Linh. Báo Sự thật in tại nhà in riêng, ra 12 trang, không theo khuôn khổ nhất định. Vào những dịp kỷ niệm, báo ra từ 16 đến 20 trang, bìa in màu, chữ Sự thật màu đỏ tươi, trang 2 đảng hàng loạt khẩu hiệu cách mạng dùng riêng cho những ngày kỷ niệm đó, trang 3 là các bức thư ngỏ của Bác Hồ, của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước là bài xã luận. Mặc dù là cơ quan ngôn luận của Đảng, nhưng Sự thật rất ít khi nhận được trợ cấp. Để tự nuôi sống mình, báo phải sử dụng nhiều quảng cáo, rao vặt. Thông thường phần quảng cáo đặt ở trang cuối cùng, nhưng cũng có khi theo yêu cầu của khách hàng, chúng được đưa vào những trang trong, gây cảm giác khó chịu cho bạn đọc. Tình trạng này về sau đã được khắc phục. Vì là một tờ báo khổ nhỏ, số lượng trang có hạn trong khi bài vở lại nhiều nên báo Sự thật không có điều kiện mở nhiều chuyên mục, chuyên trang. Lực lượng phóng viên, biên tập viên của báo lúc này còn mỏng, nhiều người là cán bộ kiêm nhiệm bị điều động công tác luôn nên việc giữ mục là rất khó. Hơn nữa, các bài viết trên Sự thật thường rất dài, chúng sẽ bị cắt vụn nếu như vấp phải quá nhiều chuyên mục, làm cho bạn đọc khó theo dõi. Trong những năm 1945 - 1946, về cơ bản Sự thật chỉ duy trì thường xuyên vài chuyên mục thiết yếu như Xã luận (trang 1), Bình luận (trang 2), Kinh nghiệm kháng chiến miền Nam... Tuỳ theo tình hình, Sự thật đưa ra chuyên mục nào đó và chúng thường biến mất sau vài số. Tính cơ động này còn được Sự thật duy trì trong cả thời kỳ báo chuyển lên vùng kháng chiến Việt Bắc.
Ngoài những bài của Bác Hồ, của Tổng Bí thư Trường Chinh, Sự thật đăng rất nhiều bài của các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước như Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Trần Huy Liệu, Lê Thanh Nghị, Lê Văn Lương, Trần Duy Hưng... Bài của các tác giả này cũng mang tầm chiến lược cách mạng rất cao, có tính định hướng tư tưởng sâu sắc. Trên trang nhất của Sự  thật thường có bài xã luận đề cập đến một vấn đề chính trị lớn nào đó đang được cả xã hội quan tâm. Những bài này do đồng chí Trường Chinh trực tiếp chấp bút. Trong số 1, Sự thật có lời ''Phi lộ”, trình bày tôn chỉ, mục đích của mình:
''Nhân dân Đông Dương đang kháng chiến, muốn thắng lợi phải chống các bè phái và mọi mưu mô chia rẽ Đảng, củng cố  Mặt trận dân tộc thống nhất chống thực dân Pháp xâm lược''.
''Sự thật ra đời cốt để góp phần vào công cuộc ấy''.
Sự thật sẽ kiên quyết, thẳng thắn nói thật những điều đáng nói, mặc dù phải làm mất lòng những kẻ vì hoài nghi hay sự ích kỷ không chịu thừa nhận rằng: khối đoàn kết giữa các tầng lớp nhân dân, giữa các dân tộc Đông Dương là một sự thật, cuộc kháng chiến anh dũng và có kết quả của đồng bào Nam Bộ, của liên quốc Việt - Lào là một sự thật. Sự ủng hộ của giai cấp cần lao và các dân tộc yêu chuộng tự do, hòa bình thế giới đối với cục diện kháng chiến của nhân dân Đông Dương và Nam Dương là một sự thật''.
Có thể nói Sự thật là một trong những tờ báo bấy giờ có tính bao quát nhất về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Mặc dù là một tờ báo, nhưng các bài viết trên Sự thật thưởng dài, nghiên cứu chuyên sâu về một vấn đề hay lĩnh vực nào đó, rất gần với tạp chí hay dạng sách huấn luyện. Việc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng luôn được báo đặt lên hàng đầu. Trước sự chống phá ngày càng ác liệt của Việt Quốc, Việt Cách, Sự thật đã tự nhận trách nhiệm chống lại luận điệu vu khống, xuyên tạc của kẻ thù, làm cho nhân dân thấy rõ bản chất xấu xa của bọn đế quốc, ngày càng tin tưởng hơn vào cách mạng. Ngay trong số đầu tiên (5-12-1945), Sự thật đã có bài ''Bức thư ngỏ cùng anh em Việt Nam Quốc dân Đảng trong nhóm Việt Nam'' - Báo Việt Nam. Bài báo đã lột mặt nạ đạo đức giả của những kẻ tự nhận là Đảng quốc dân: ''Không kể chi những chuyện xa xôi, hãy nói tới những cuộc khởi nghĩa hay tranh đấu cách mạng từ chiến tranh đến giờ: Bắc Sơn - Nam Kỳ - Đô Lương, kháng Nhật cứu nước 9-3, khởi nghĩa 19-8. Trong những giờ phút thiêng liêng ấy các anh ở đâu. Biết bao lần các đoàn thể cứu quốc trong Việt Minh gọi các anh không thấy. Vắng các anh, người ta tự đoàn kết cứu nước, cứu nòi. Nay quốc dân do Việt Minh lãnh đạo đã giành được chính quyền. Cơ hội thuận tiện các anh nhảy ra hô hào hợp tác, tán thành lắm. Bây giờ các anh mới đòi hợp tác, kể cũng hơn muộn, nhưng muộn còn hơn không. Vậy xin mời các anh hãy lên đường cùng chúng tôi Nam tiến ngăn quân giặc''. Mặc dù rất bao dung, nhún nhường, nhưng Sự thật cũng khá cương quyết với các nguyên tắc:
“1. Đoàn kết hợp tác giữa tất cả các đoàn thể chân chính yêu nước nhưng không đoàn kết vô nguyên tắc với bọn phản quốc.
2. Sự đoàn kết thành thực giữa các đảng phái cách mạng chỉ có thể đặt trên nền tảng hành động chung.
3. Cấm chỉ mọi hành động có hại cho đất nước, có lợi cho địch, nhất là việc gièm pha cuộc kháng chiến và mạt sát chính phủ kháng chiến, thì là cơ quan ngôn luận của Đảng (trên danh nghĩa là của Hội Nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương), Sự thật luôn đi đầu trong việc đấu tranh, bảo vệ chủ trương, đường lối của chính quyền Việt Minh, bênh vực cho quyền lợi hợp pháp của người dân Việt Nam. Báo đã dành dung lượng rất lớn tuyên truyền cho cuộc bầu cử Quốc hội, coi đây là bổn phận, quyền lợi, trách nhiệm của mỗi người dân đang sống trong môi trường tự do, dân chủ.
Ngoài những nội dung chính trị trên, Sự thật không xem nhẹ mảng đề tài kinh tế, văn hóa - xã hội. Hàng chục năm chịu sự cai trị hà khắc của Pháp và Nhật, nền kinh tế Việt Nam đã kiệt quệ. Hàng triệu người chết đói từ thành thị đến thôn quê, chính quyền cách mạng non trẻ cùng một lúc phải đương đầu với ba kẻ thù: giặc đói, giặc đốt và giặc ngoại xâm. Trên tinh thần phong trào ''Nhịn ăn một bữa trong một tuần'' do Hồ Chủ tịch phát động, Sự thật đã cùng các tờ báo cách mạng khác ra sức hô hào, vận động cán bộ nhân dân hưởng ứng với những khẩu hiệu truyền thống đã ăn sâu vào tiềm thức của người dân Việt Nam như ''Lá lành đùm lá rách'', ''Bầu ơi thương lấy bí cùng'', ''Một miếng khi đói bằng một gói khi no''... Với tinh thần đùm bọc trên, chỉ trong một thời gian ngắn, nạn đói đã được đẩy lùi.
Ngay sau ngày giành được chính quyền, Hồ Chủ tịch đã nhận thức rõ kẻ thù tiềm ẩn, lâu dài nhất đối với dân tộc ta không phải là giặc đói, giặc ngoại xâm mà là giặc dốt. Sau ngày đọc Tuyên ngôn độc lập 1 tuần, ngày 8-9-1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh thành lập cơ quan Bình dân học vụ, ra lời kêu gọi toàn dân tham gia xóa nạn mù chữ. Từ chỗ hơn 90% dân số không biết chữ, đến đầu tháng 3-1946 riêng ở Bắc Bộ và Trung Bộ đã có gần 3 vạn lớp học với 81 vạn học sinh. Để đạt được điều đó, có vai trò rất lớn của báo chí. Trong ''bước đầu tiên trong công cuộc chống nạn mù chữ'', trên báo Sự thật, tác giả Dương Quang đã viết: ''Người chưa biết chữ hăng hái đi học như đi giết giặc, người biết chữ rồi thì vợ dạy chồng, em dạy anh, chủ nhà dạy đầy tớ. Lớp học ở đình chùa, ở trong nhà, ở giữa chợ, ở gốc cây, ở bờ ruộng, ở xưởng thợ, ở bệnh viện, ở bến xe, ở xóm ả đào, ở cả nhà tù. Kết quả sau 4 tháng các chiến sĩ xã hội đã đưa trên dưới 1 triệu người ra khỏi mù chữ''... Sự thật đã góp phần vận động trí thức đi về nông thôn, đề ra các phương pháp truyền đạt kiến thức sao cho có hiệu quả nhanh nhất. Việc xây dựng nếp sống mới được Sự thật hết sức chú trọng. Báo có nhiều bài phê phán lối sống cũ để lại, đề cao các hình thức cưới xin, ma chay lành mạnh, tiết kiệm, góp phần làm thay đổi lối sống của người dân.
Sau ngày toàn quốc kháng chiến, báo Sự thật chuyển lên Việt Bắc, tiếp tục là cơ quan ngôn luận chính của Đảng. Khi Đảng ra hoạt động công khai (1951) báo Sự thật hoàn thành sứ mệnh lịch sử, nhường vị trí vinh dự của mình cho báo Nhân dân.
c) Báo Độc lập
Báo Độc lập là cơ quan ngôn luận của Đảng Dân chủ Việt Nam, xuất bản bí mật từ năm 1944. Có thể nói, ngay từ đầu, những người sáng lập Đảng Dân chủ mà cơ quan ngôn luận của nó là báo Độc lập nói riêng đã tự coi mình là thành viên của Mặt trận Việt Minh. Tuy nhiên vì những lý do lịch sử, từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945 trở về trước, báo Độc lập chưa bộc lộ thái độ chính trị rõ ràng, tuy đặt mình ở thế yêu nước nhưng trung lập. Mối liên hệ trực tiếp giữa Đảng Dân chủ với Đảng Cộng sản Việt Nam hầu như chưa được xác lập. Quan điểm này đã hoàn toàn thay đổi khi báo chuyển về Hà Nội sau ngày Việt Minh giành được chính quyền trong cả nước. Lúc đầu báo đặt trụ sở tại số 9 phố Ngô Quyền, sau chuyển sang số 5 phố Một Cột, đến khi toàn quốc kháng chiến lại chuyển lên Việt Bắc.
Để đáp ứng nhu cầu người dân sống trong chế độ mới, báo Độc lập ra bộ mới, phát hành hàng ngày, triệt để thay đổi nội dung, hình thức. Báo do ông Nguyễn Thành Lê phụ trách với cương vị quản lý (tương đương với Tổng biên tập hiện nay) in khổ 41x29cm, 2 trang, giá 5 hào. Từ ngày 10-2-1946 báo ra 4 trang giá bán 8 hào thông được vài hôm lại quay về như cũ. Khi ở Hà Nội, báo Độc lập in tại Việt Nam ấn quán số 8 - 10 - l2 phố Phan Chu Trinh, số lượng phát hành từ 3.000 - 5.000 bản/kỳ. Vì phát hành từ 5 giờ chiều hàng ngày nên tin tức báo Độc lập thường có tính thời sự cao. Thông thường ở góc bên trái trên cùng tờ báo có bài xã luận khá dài viết về các vấn đề xã hội lớn xảy ra trong nước hoặc một sự kiện nào đó của thế giới có liên quan ít nhiều đến cách mạng nước ta. Góc bên phải đăng tải các tin tức quan trọng xảy ra trên thế giới, dưới đó có một bài thời luận (dạng bình luận) bàn về một vấn đề nổi cộm nào đó của nước ngoài. Trang 2 dành cho các mục cố định như Đời sống mới, giải thích, phân tích văn bản, đăng thông cáo của Chính phủ, góp ý trả lời bạn đọc, tin vắn bốn phương, quảng cáo và các phần tiếp theo của trang. Phần dưới cùng của cả hai trang là khẩu hiệu hô hào dân chúng làm theo chủ trương, chính sách của Mặt trận Việt Minh, của Chính phủ. Các khẩu hiệu này thay đổi luôn tuỳ theo tình hình, nhiệm vụ chính trị của cách mạng.
Trong thời gian đầu, vì đội ngũ phóng viên, cộng tác viên của báo Độc lập rất hạn hẹp nên phần tin thế giới chiếm dung lượng khá lớn, lấn lướt phần tin trong nước. Chất lượng tin trong nước lúc này cũng không cao, chủ yếu lấy từ các cơ quan chính phủ, từ Thông tấn xã Việt Nam. Nội dung tin nghèo nàn chỉ xoay quanh diễn biến chính trị ở Hà Nội, Sài Gòn, ít đề cập đến nông thôn, đặc biệt là các vùng sâu, vùng xa. Từ đầu năm 1946, bộ máy hoạt động của báo Độc lập được cải thiện nhiều. Phần tin trong nước bắt đầu được chú trọng, có bề dày và chiều sâu hơn. Vì là nhật báo nên báo Độc lập được Nhà nước cung cấp giấy và các vật liệu in ấn với giá rẻ. Tuy nhiên, vì hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ gặp nhiều khó khăn nên mọi sự ưu đãi cũng có giới hạn. Giấy cung cấp chỉ đủ cho vài ngàn tờ, báo muốn in thêm phải mua tại chợ đen với giá cắt cổ. Chất lượng giấy cũng không ổn định, lúc đen, lúc trắng, lúc khổ to, lúc khổ nhỏ, dày mỏng khác nhau. Để giảm những chi phí không cần thiết, trong gần một năm hoạt động (từ cuối năm 1945 đến giữa năm 1946) báo Độc lập hầu như không sử dụng tranh, ảnh minh họa. Đến tháng 5-1946 trở về sau, tình trạng trên mới được khắc phục, nhưng cũng chỉ có tranh mà không có ảnh, kể cả trong các số kỷ niệm. Nhằm gây ấn tượng cho bạn đọc, các họa sĩ cố gắng trình bày trang sao cho hấp dẫn. Các đầu đề dùng nhiều kiểu chữ khác nhau và thường bỏ dấu, buộc bạn đọc phải chú tâm vào mới hiểu được. Tít bao giờ cũng xoáy vào vấn đề trọng tâm của bài, kích thích tối đa trí tò mò của độc giả. Vì là một tờ báo thông tin, Độc lập chú trọng sử dụng các thể loại tin như: tin (gồm cả tin vắn, tin ngắn và tin sâu có bình luận), thời luận (bình luận), xã luận nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin nhanh của một tờ nhật báo. Thỉnh thoảng báo mới dùng tường thuật, phóng sự (thường là dài kỳ, in đậm dấu ấn cái tôi tác giả, rất gần dạng ký sự đường xa). Trong những số đầu, đôi khi báo độc lập sử dụng tác phẩm hoặc bình luận văn học dịch từ nước ngoài, hầu hết của Liên Xô, Trung Quốc. Từ tháng 7-1946, Đảng Dân chủ Việt Nam cho ra thêm tờ Tạp chí Độc lập cơ quan nghiên cứu chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, Tạp chí thường in 120 trang với đội ngũ biên tập rất hùng hậu gồm Văn Cao, Cù Huy Cận, Nguyễn Đỗ Cung, Đỗ Đức Dục, Xuân Diệu, Tạ Mỹ Duật, Hoàng Văn Đức, Dương Đức Hiền, Vũ Đình Hòe, Ưng Ngọc Ký, Nguyễn Thành Lê, Vũ Bộ Liên, Phạm Lại, Nguyễn Văn Luyện, Đặng Thai Mai, Lưu Hữu Phước, Tôn Quang Phiệt, Nguyễn Xuân Sanh, Hoàng Đạo Thuý, Huỳnh Văn Tiểng, Mạnh Phú Tư... Nhiều người trong số này kiêm thêm việc lãnh đạo và biên tập cho cả báo Độc lập.
Là một tờ báo có chân trong Mặt trận Việt Minh, Độc lập rất chú trọng đến các chủ trương, chính sách do Mặt trận đề ra. Tuy nhiên, do khuôn khổ có hạn nên báo không thể bao quát được hết mọi mặt đời sống xã hội. Báo ít tuyên truyền các lĩnh vực kinh tế, văn hóa mà tập trung vào các vấn đề chính trị lớn ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội. Các phong trào được các báo khác phát động rầm rộ như Tuần lễ vàng, Phong trào tiết kiệm, Phong trào tăng gia sản xuất, Diệt giặc dốt, thì báo Độc lập lại chỉ đề cập đến ở mức vừa phải. Trong khi đó, đối với phong trào Nam tiến, ủng hộ cuộc kháng chiến của đồng bào Nam Bộ, Độc lập luôn có bài bày tỏ chính kiến của mình. Khi quân đội Tưởng và tay chân gây sức ép đòi Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải giải tán một số bộ, đòi Đảng Cộng sản phải san xẻ quyền lực, thành lập chính phủ liên hiệp, thay đổi quốc kỳ, báo Độc lập đã có hàng loạt bài xã luận, đăng ý kiến của các tập thể, cá nhân phản đối những đòi hỏi vô lý đó. Khi Chính phủ ta sang Pháp ký Hiệp định Sơ bộ (6-3-1946) báo Độc lập luôn cố gắng theo sát tình hình. Để chống lại sự xuyên tạc của kẻ thù, báo Độc lập đã sát cánh cùng Cứu quốc (Mặt trận Việt Minh), Sự thật (Cơ quan nghiên cứu chủ nghĩa Mác) đăng hàng loạt bài trong đó một mặt tố cáo dã tâm của Việt Quốc, Việt Cách, phân tích, giải thích cho dân hiểu chủ trương sáng suốt của Đảng và Nhà nước, đồng thời góp phần trấn an dư luận với các bài tiêu biểu như: ''Chúng ta phải hiểu hiệp định Việt - Pháp thế nào'', ''Trong giai đoạn mới tích cực hoạt động thế nào'', “Vấn đề quân đội'', ''Hiệp định Sơ bộ ký kết trên những nguyên tắc nào''. Đối với các hoạt động ngoại giao khác như việc chuẩn bị hội nghị trù bị Đà Lạt, việc Chính phủ ký tạm ước (14-9-1946) với Pháp, báo Độc lập bao giờ cũng trung thành với nguyên tắc: ủng hộ tuyệt đối Đảng Cộng sản, Mặt trận Việt Minh và Chính phủ liên hiệp (sau này là Chính phủ kháng chiến). Khi đất nước nảy sinh những vấn đề lớn, nghiêm trọng, báo Độc lập bao giờ cũng in khẩu hiệu chữ đậm ở dưới cùng mỗi trang báo để bày tỏ thái độ, chính kiến của mình. Các nội dung của khẩu hiệu luôn phù hợp với chủ trương của Mặt trận Việt Minh, của Đảng Cộng sản Việt Nam (hoạt động bí mật dưới danh nghĩa cơ quan nghiên cứu chủ nghĩa Mác từ tháng 11-1945). Chẳng hạn, trước thực tế bọn phản động Việt gian xuyên tạc Hiệp định Sơ bộ (6-3-1946) trong gần một tháng trời báo Độc lập đã dùng khẩu hiệu ''Đoàn kết, bình tĩnh, chuẩn bị, kỷ luật'' cùng hàng loạt bài giải thích cho nhân dân ý đồ của Chính phủ. Cũng có khi trong cùng một số báo. Ở mỗi trang, Độc lập có các khẩu hiệu khác nhau phục vụ cho nhiều nội dung xã hội.
Trước khi kháng chiến toàn quốc nổ ra, báo Độc lập đã có nhiều bài kêu gọi dân chúng ủng hộ đường lối kháng chiến kiến quốc của Mặt trận Việt Minh. Công tác chuẩn bị kháng chiến vườn không nhà trống, tố cáo dã tâm xâm lược của kẻ thù là những nội dung chính báo Độc lập đề cập đến trong những tháng cuối năm 1946. Từ quãng thời gian này trở về sau báo không còn giữ hình thức trung lập nữa mà nghiêng hẳn về phía những người cộng sản. Tư tưởng này đặc biệt bộc lộ rõ khi Độc lập chuyển lên Việt Bắc.
d) Báo Lao động
Sau Cách mạng Tháng Tám, báo Lao động chuyển từ bí mật ra công khai, tòa soạn đặt tại 51 phố Hàng Bồ, Hà Nội, do ông Trần Quốc Diệp (tức Trần Lưu Trác) làm Chủ nhiệm. Trong những số đầu, báo hoạt động trên danh nghĩa cơ quan tuyên truyền huấn luyện của Việt Nam Công nhân cứu quốc miền Bắc (trong Việt Minh), sau mở rộng phạm vi hoạt động thành Cơ quan Thông tin tuyên truyền tranh đấu của công nhân Việt Nam. Ngày 20-7-1946 Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam được thành lập và từ số 24 ra ngày 3-8-1946 báo Lao động trở thành diễn đàn của tổ chức cho đến nay.
Trong quãng thời gian từ cuối năm 1945 đến đầu năm 1946 báo Lao động ra 2 trang khổ lớn (420x295mm) giá bán 0đ5 (sau tăng lên 0đ8). Khi chuyển lên chiến khu, báo Lao động được bổ sung thêm một số gương mặt như: Nguyễn Huy Đàn, Lưu Huy Hòa, Đỗ Như Khánh, Phạm Văn Nhàn, Nguyễn Minh Tần (họa sĩ)... Nhờ sự hoạt động tích cực của đội ngũ này mà báo Lao động có một diện mạo khác hẳn với tờ báo cùng thời với những trang mục hết sức ấn tượng. Mặc dù nhiều lần nhắc đi nhắc lại là tờ báo không chịu sự chi phối của bất kỳ tổ chức chính trị nào, nhưng vừa ra công khai Lao động đã mở mục Chống tơrốtxkít do Nguyễn Quang Huy phụ trách, phê phán mạnh mẽ tính chất phản động, giả danh cộng sản để chống cộng sản của phe nhóm này. Qua chuyên mục Chống tơrốtxkít báo đã gián tiếp thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng nước ta, tạo niềm tin cho quần chúng nhân dân đối với Đảng.
Lúc đầu, Lao động ra hàng tuần vào thứ 7, in typô tại nhà in riêng, mỗi số phát hành từ 1.500 đến 2.000 bản, sau tăng dần lên tới 6.000 bản/kỳ. Tại trang 1 phía góc trái trên cũng thường là câu khẩu hiệu được đóng khung, nội dung đề cập đến một vấn đề xã hội nào đó đang được nhân dân cả nước quan tâm. Phía dưới là bài thời luận (nếu bàn về quốc tế) hoặc xã thuyết (bàn về vấn đề trong nước). Góc bên phải là phần tin tức hoạt động công đoàn các nước. Giữa trang đăng văn bản mới của chính quyền và chính kiến của báo Lao động đối với văn bản đó. Dưới cùng trang nhất lại là khẩu hiệu khác in chữ to, đậm, chạy suốt chiều ngang trang báo kiểu như ''Tăng gia sản xuất” “Giờ làm cứu nước''. Số chuyên mục phong phú nhất tập trung ở trang 2. Có những mục chỉ xuất hiện một lần trong tháng như Tự do diễn đàn, Công nhân tập viết. Trong số này đáng chú ý nhất là các mục Rút kinh nghiệm, Trên đe dưới búa, Tự phê bình, Lao động trả lời, Công nhân đọc sách. Các mục này tuy đề cập đến những vấn đề khác nhau, nhưng lại có chung mục đích định hướng dư luận, xã hội. Mục Rút kinh nghiệm viết về những yếu kém, những tồn tại của ta trong việc phát động phong trào tăng gia sản xuất, tổ chức lớp học bình dân học vụ tại nông thôn, những khó khăn khi làm thuỷ lợi ở miền núi... Mục Thư ngỏ cũng rất gây ấn tượng với bạn đọc. Qua mục này, báo Lao động bày tỏ thái độ một cách nhã nhặn, nhưng cũng không kém cương quyết đối với những oan trái như giới chủ sa thải công nhân bừa bãi, tăng giờ làm, giảm lương trái luật, vì lợi nhuận không chú tâm tới việc trang bị bảo hộ lao động... Bên cạnh đó báo còn có mục nói nhỏ để uốn nắn những hành động, việc làm chưa đúng của công nhân như nghe lời xúi giục của bọn phản động, bãi công không đúng lúc, còn manh động trong đấu tranh đòi hỏi quyền lợi, chưa biết chia xẻ, đùm bọc nhau khi hoạn nạn... Trong số này, có lẽ Trên đe dưới búa là mục được bạn đọc gần xa hoan nghênh nhất. Mục này thường được ký bởi bút danh Búa Tạ, phê phán, chỉ trích mọi kẻ thù của giai cấp cần lao, từ trò hề của Chính phủ bù nhìn Nguyễn Văn Thinh, tội ác dã man của thực dân Pháp đối với Nam Bộ, cho đến bệnh quan liêu cửa quyền bắt đầu xuất hiện trong một số vị ''quan cách mạng''... Nhiều khi để chiều lòng bạn đọc, Trên đe dưới búa đã đi quá đà, công kích kẻ thù không đúng lúc, ảnh hưởng tới uy tín của Đảng và Chính phủ, làm lộ ý đồ chính trị của ta. Báo Lao động đã phản ứng lại bằng cách chỉ đăng tên bài, còn phần nội dung để trắng, không thay vào đó nội dung khác ví dụ trong số 35 ngày 24-10-1946, báo Lao động có bài ''Thôi đừng già họng nữa'' lên án thái độ vừa ăn cướp vừa la làng của quân đội Pháp. Nội dung này tuy đúng đắn nhưng vẫn bị kiểm duyệt toàn bộ vì dễ kích động thái độ hung hãn của người Pháp, ảnh hưởng đến Tạm ước 14-9-1946. Mặc dù ghi là đại diện cho giai cấp công nhân, nhưng thực chất Lao động là tờ báo của nhiều tầng lớp nhân dân. Thỉnh thoảng báo vẫn có xã luận bàn về thuế nông nghiệp, làm thế nào để thâm canh tăng năng suất, việc xây dựng nếp sống mới tại các làng quê, công tác tổ chức hợp tác xã nông nghiệp... Tuy nhiên, số bài viết về người nông dân, trí thức, bộ đội chiếm tỷ lệ không lớn, không xuất hiện đều đặn, diện tích mặt báo hầu hết dành cho công nhân. Qua Lao động, người công nhân có điều kiện nói lên suy nghĩ, tâm tư, nguyện vọng của mình. Mỗi tháng một lần, trang 3 của báo lại xuất hiện hai mục Công nhân tập viết Lao động trả lời. Bài vở nhận được, anh em trong tòa soạn lựa chọn cẩn thận rồi cho đăng ở vị trí quan trọng. Đối với những câu hỏi liên quan đến luật lao động, chế độ tiền lương hay đơn thuần chỉ là những vướng mắc trong công việc của người công nhân, báo Lao động bao giờ cũng cố gắng giải đáp hết bằng thư hoặc trực tiếp trên báo. Những nội dung nào chưa phù hợp hoặc chưa đạt yêu cầu, báo tập hợp lại ở mục nhắn tin, nói rõ nguyên nhân bài không được đăng, kèm lời động viên, khuyến khích tác giả. Việc là này đã tạo niềm tin cho độc giả, gây cho họ cảm giác tờ báo chính là sân chơi chung cho mọi người bất kể họ thuộc giới tính, trình độ, tuổi tác nào.
Khi chuyển lên Việt Bắc, Lao động vẫn tiếp tục sứ mệnh bảo vệ quyền lợi cho người công nhân của mình. Tuy nhiên, mọi sự phê phán những tiêu cực mới nảy sinh trong xã hội giờ phải gắn liền với lợi ích dân tộc. Việc làm này đã dần dần biến Lao động từ một tờ báo của một tầng lớp xã hội thành báo Đảng, đấu tranh hết mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đúng theo nguyện vọng của những người sáng lập ra tờ Công hội đỏ vào năm 1929.
3. Sự ra đời một số cơ quan báo chí
a) Tạp chí Tiền phong
Năm 1943, Đảng công bố bản Đề cương văn hóa Việt Nam và thành lập Hội Văn hóa cứu quốc Việt Nam. Ngay từ ngày đó Hội đã chủ trương ra một tờ báo làm cơ quan ngôn luận riêng. Công việc được xúc tiến khẩn trương và số cũng đã chuẩn bị xong, nhưng do tình hình chính trị Đông Dương lúc đó diễn ra nhiều biến cố quan trọng nên báo không ra được. Cách mạng Tháng Tám thành công, những người lãnh đạo Hội Văn hóa cứu quốc Việt Nam còn phải giải quyết nhiều việc quan trọng hơn nên phải tới ngày 10-11-1945 Tiền phong mới xuất bản số 1, đặt dấu ấn quan trọng cho dòng báo chí phục vụ văn hóa – văn nghệ của Đảng. Trong mấy số đầu, Tạp chí Tiền phong được giao cho nhà văn Nam Cao phụ trách với chức danh Thư ký tòa soạn (tương đương với Tổng biên tập hiện nay). Bộ biên tập của tạp chí rất hùng hậu gồm đầy đủ các văn nghệ sĩ cách mạng có tên tuổi của Việt Nam thuộc mọi lĩnh vực: thơ, văn, nhạc, họa, sân khấu, lý luận phê bình như: Tâm Kính, Nam Cao, Ngô Quang Châu, Xuân Diệu, Nguyễn Hữu Đang, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Vũ Hầu, Kim Lân, Đặng Thai Mai, Nguyễn Công Mỹ, Vương Thế Nghiêm, Học Phi, Như Phong, Nhân Tâm, Nguyễn Huy Tưởng, Hải Thanh, Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi, Trần Huyền Trân, Hải Triều, Bùi Công Trừng. Việc trình bày tạp chí do các họa sĩ Nguyễn Thị Kim, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Đỗ Cung, Phạm Văn Đôn, Trần Đình Thọ phụ trách. Tòa soạn của Tạp chí Tiền phong được đặt tại trụ sở của Hội Văn hóa cứu quốc, số 40, phố Quang Trung, Hà Nội. Báo được in tại nhà in Lê Văn Tân, khổ 270x195mm. Những số đầu tiên, báo ra 42 trang khá đều dặn, nhưng từ khoảng giữa những năm 1946 thì tuỳ theo tình hình có khi chỉ ra 30 - 32 trang. Vào những ngày kỷ niệm báo thường in từ 80 đến 100 trang.
Tạp chí Tiền phong là dạng bán nguyệt san, ra vào các ngày 1 và 16 hàng tháng, là cơ quan vận động văn hóa mới của Hội Văn hóa cứu quốc Việt Nam. Báo phục vụ người đọc theo nguyên tắc ''Khoa học khi đã đi sâu vào đại chúng cũng tác động như một sức mạnh vật chất''. Ngoài ra trang bìa in 3 màu, các trang trong in 1 màu, giá bán khá cao, lúc đầu 3,5đ/số, sau tăng lên 5,0đ rồi 6,0đ/số. Tạp chí in typô, nét chữ nhỏ, rõ ràng, giấy cũng tương đối tốt, lúc trắng, lúc đen, có khi sử dụng cả giấy màu vàng, giấy gió. Sau gần chục số, Nam Cao đi nhận nhiệm vụ mới, Trần Huy Liệu về thay thế chức danh chủ bút. Mặt sau của trang bìa là tranh áp phích hoặc khẩu hiệu như: ''ủng hộ chính phủ Hồ Chí Minh'', ''Nước mới, người mới, đời sống mới'' .. Phía dưới của những trang trong là quảng cáo, giới thiệu các loại sách báo triết học, chính trị, văn nghệ. Tạp chí Tiền phong hầu như không dùng ảnh, thỉnh thoảng mới có tranh minh họa của Bùi Xuân Phái, Trần Văn Cẩn, Trần Đình Thọ. Tạp chí không có mục cố định, trừ phần ''Điểm tin văn hóa ở mấy trang cuối. Về thể loại, Tiền phong chủ yếu sử dụng chính luận, truyện ngắn, kịch, ký sự, thơ (trích lại từ các tập thơ đã xuất bản của Xuân Diệu, Thâm Tâm, Trần Huyền Trân, Tế Hanh...) Nói chung Tiền phong ít sửa bài của cộng tác viên. Bộ biên tập tạp chí làm việc rất xông xáo, năng nổ, tích cực. Không có ai sáng tác chỉ trong phạm vi sở trường của mình. Xuân Diệu không chỉ làm thơ mà còn viết cả truyện ngắn, phê bình văn học. Nguyễn Huy Tưởng vừa viết ký sự, vừa sáng tác kịch ngắn kiêm luôn cả lý luận. Nguyễn Đình Thi vừa làm thơ, vừa viết nhạc, truyện vừa và những bài có tính định hướng cho anh em văn nghệ sĩ ''Văn nghệ với cuộc chiến đấu hiện thời của dân tộc'' (số ngày 1-12-1945)...  Những người viết thuần một thể loại hoặc chuyên về một vài lĩnh vực nào đó có Bùi Công Trừng, Minh Tranh, Ngô Quang Châu. Những người viết bài có tính khái quát, tổng kết hoặc có ý nghĩa định hướng là Đặng Thai Mai, Vũ Ngọc Phan, Lưu Hữu Phước, Lưu Quý Kỳ... Sau khi ra được ba số đầu, số 4, số 5 của tạp chí không giữ tên Tiền phong nữa mà thay vào đó là cái tên Nguồn sống mới (dạng chuyên đề bàn về vấn đề đặc biệt nào đó). Từ số 6 lại trở về với cái tên Tiền phong quen thuộc.
Vì là cơ quan ngôn luận của một tổ chức văn hóa lớn, nên phần lớn nội dung của Tiền phong chỉ bàn về các khía cạnh của đời sống văn hóa - xã hội. Những vấn đề chính trị nếu có được đề cập cũng có mối liên hệ ít nhiều với nội dung trên.
Nói chung, Tiền phong bám rất sát với các chủ trương của Đảng và Nhà nước về văn hóa - xã hội. Đây là một trong những tờ báo hoạt động hiệu quả nhất trong phong trào ''Diệt giặc đốt'' do Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động. Tạp chí không chỉ cử người tham gia, theo dõi chương trình “Bình dân học vụ'' mà còn xây dựng kế hoạch, góp ý với Chính phủ tiến hành cải cách chế độ cũ. Hầu như trong số nào Tiền phong cũng có bài về vấn đề này. Tiêu biểu trong số đó là chùm bài về ngôn ngữ tiếng Việt của tác giả Ngô Quang Châu (Vấn đề cải cách chữ quốc ngữ - số 1, Hợp lý hóa chữ viết - số 14); Trần Huy Liệu (Bệnh dùng chữ Nho trong tiếng Việt - số 9); Giám mục Hồ Ngọc Cẩn (Bàn góp về cải cách vần quốc ngữ - số 19)... Việc tiến hành xây dựng nếp sống mới trong cả nước, đặc biệt là nông thôn cũng là nội dung trọng yếu của Tiền phong. Tạp chí luôn có bài phê phán các di chứng của chế độ cũ, đề cao, khuyến khích các làng xã ban hành hương ước, phát động các phong trào thi đua xây dựng nếp sống mới giữa các cụm dân cư, giữa các gia đình, cá nhân. Tiêu biểu trong số này phải kể tới các bài ''Địa vị Hải Phòng trong văn hóa mới ngày mai'' - Trần Cư - số 21, ''Tiến tới đời sống mới'' - Trần Huy Liệu - số 12. ''Chương trình và kế hoạch vận động đời sống mới” - Ngô Quang Châu - số 12... Ngoài ra, tạp chí còn cho đăng các bài viết thể hiện quan điểm về đời sống văn hóa mới của Bác Hồ, của văn nghệ sĩ và của các nhà nghiên cứu văn hóa. Không đừng lại ở việc lên án cái cũ, Tiền phong còn phê phán khá gay gắt những căn bệnh mới nảy sinh trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân như thói quan liêu, hống hách, ăn chơi, hưởng lạc, tiêu sài vung phi, thói ăn diện, sùng ngoại, thói la cà hàng quán, rượu chè, bài bạc...
Là cơ quan ngôn luận của tầng lớp văn nghệ sĩ, nên trong số nào Tiền phong cũng dành dung lượng khá lớn cho các tác phẩm nghệ thuật, ưu tiên số một cho tác phẩm mới được sáng tác. Viết nhiều nhất cho Tiền phong là Xuân Diệu, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyên Hồng, Nguyễn Đình Thi, Văn Cao, Trần Đăng, Lưu Hữu Phước, Mạnh Phú Tư, Tế Hanh, Trần Huyền Trân... Nhiều tác phẩm đã để lại dấu ấn không thể phai mờ trong lòng bạn đọc như: ''Một lần tới Thủ đô'' của Trần Đăng, bài hát “Chiến sĩ không quân'' của Văn Cao, ''Rãnh cày nổi giận'' của Mạnh Phú Tư, các vở kịch ''Bắc Sơn'', ''Vết cũ'' của Nguyễn Huy Tưởng... Nhưng có lẽ, cái làm bạn đọc quan tâm nhất là những bài có tính định hướng văn nghệ, phê bình vô lý luận văn học.
Giữ vai trò trung tâm là các bài viết của tác giả Đặng Thai Mai với ''Vấn đề lập trường trong văn nghệ'', Lưu Hữu Phước với ''Tiếng ta với sự phổ nhạc và cách hát ngày nay'' - số 20. Học Phí có ''Nhiệm vụ của văn hóa trong thời kỳ kháng chiến kiến quốc”, số 18, Nguyễn Đình Thi có ''Văn nghệ với cuộc chiến đấu hiện thời của dân tộc'' - số 2...
Vì là tờ tạp chí có tính cách văn nghệ đầu tiên của chế độ dân chủ nhân dân nên Tiền phong không tránh khỏi những hạn chế, vấp váp. Mặc dù quy tụ được khá đông đảo đội ngũ họa sĩ nổi tiếng nhưng cách trình bày tạp chí còn đơn điệu, quá chân phương, ở một vài số, có thể do chưa có kế hoạch từ trước, tình trạng bài vở còn lôn xộn, gay cảm giác không có sự lựa chọn bài hoặc chưa cân nhắc kỹ càng khí chọn bài. Một số tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao nhưng không được sử dụng đúng lúc, đúng chỗ nên hiệu quả phản ánh, giáo dục bị giảm. Chẳng hạn, trong lúc nhân dân cả nước đang hừng hực khí thế cách mạng, đang rất cần những tác phẩm mô tả không khí đó thì Tiền phong lại cho đăng truyện ngắn ''Mò sâm banh” của Nam Cao. Tuy câu chuyện được phản ánh bởi bút pháp hiện thực phê phán đã một thời được các cây bút tiểu tư sản thành thị ưa dùng, được đông đảo bạn đọc Việt Nam trước năm 1945 yêu thích, nhưng giờ đây, chúng đã trở nên lạc lõng so với phương pháp sáng tác hiện thực cách mạng. Nhiều bài thơ (nhất là những tác giả trước đây có chân trong Tự lực văn đoàn) có nội dung trong sáng, tin tưởng ở cách mạng nhưng cách biểu hiện vẫn chưa thoát khỏi phương thức cũ. Các tôi đôi khi vẫn được đề cao. Hình ảnh người chiến sĩ cách mạng có lúc được mô tả như người khách chính phủ, giàu lòng nghĩa hiệp nhưng lại xa rời quần chúng, không thực tế...
Ngày 19-12-1946 cả nước đồng lòng đứng lên làm cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ. Tiền phong cũng theo gót chân kháng chiến lên chiến khu Việt Bắc, kết thúc 24 số xuất bản ngay trong lòng Thủ đô Hà Nội. Nhờ tôi rèn trong khói lửa chiến tranh, văn nghệ sĩ Việt Nam ngày càng trưởng thành hơn. Nhiều biên tập viên, phóng viên của Tiền phong như Nam Cao, Trần Đăng đã ngã xuống trong chiến tranh, đóng góp xương máu cho cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp, giải phóng dân tộc, bảo vệ những thành quả của cách mạng.
b) Qúa trình hình thành Thông tấn xã Việt Nam
Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ở Việt Nam nói riêng, toàn Đông Dương nói chung chưa có hãng thông tấn. Mọi tin tức, báo chí sử dụng thời kỳ này đều lấy từ các hãng thông tấn nước ngoài chủ yếu là của Pháp và Nhật. Sau ngày giành được độc lập, vừa đặt chân về đến Hà Nội, Bác Hồ lúc đó giữ cương vị Chủ tịch lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã chỉ thị cho Bộ Thông tin - Tuyên truyền phải gấp rút bằng mọi giá xây dựng hệ thống thu phát sóng.
Để thuận lợi cho công việc và cũng do cơ sở vật chất lúc đó còn khó khăn, thiếu thốn nên cả hai bộ phận phát sóng (Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam) và thu sóng (Thông tấn xã Việt Nam) vẫn cùng ở trong một tổ chức điều hành, trực thuộc Nha Thông tin, Bộ Thông tin - Tuyên truyền (sau này Nha Thông tin trở thành bộ phận của Bộ Nội vụ). So với bộ phận phát sóng, bộ phận thu sóng có nhiều thuận lợi hơn vì phòng thu tin của Pháp để lại ở nhà số 6 phố Pierre Pasquier (nay là phố Điện Biên Phủ) đã khá hoàn chỉnh không cần cải tiến, sửa chữa nhiều. Chính vì vậy, sau khi nhận được chỉ thị ít ngày, bộ phận thu tin (Thông tấn xã Việt Nam) đã tổ chức thu tin từ các hãng thông tấn nước ngoài, tin của quân đội Pháp ở Sài Gòn. Tuy nhiên ngày 23-8-1945 không được coi là ngày khai sinh ra Thông tấn xã Việt Nam bởi mọi tin tức lúc này chưa phổ biến cho các báo mà chủ yếu nhằm giúp Chính phủ nắm được tình hình trong và ngoài nước, từ đó có kế sách kịp thời đối phó với âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù. Ngày 7-9-1945, Đài Tiếng nói Việt Nam chính thức ra mắt. Ngoài chương trình tiếng Việt, Đài Tiếng nói Việt Nam còn phát hai chương trình tiếng Anh Pháp tổng cộng 30 phút. Đây cũng chưa phải thời khắc ra đời Thông tấn xã Việt Nam bởi thực tế Thông tấn xã Việt Nam lúc này vẫn chưa có hô hiệu  chính thức, các bản tin cũng chưa được biên tập theo thể văn thông tấn như ở nước ngoài. Ngày 15-9-1945, khi Đài phát sóng Bạch Mai phát đi toàn thế giới bản Tuyên ngôn độ lập và danh sách Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bằng ba thứ tiếng Việt - Anh - Pháp với các hô hiệu VNTTX, VNA, AVI, đánh dấu thời điểm khai sinh chính thức của Thông tấn xã Việt Nam.
Vì bộ máy nhân sự, cũng như điều kiện vật chất lúc này của Thông tấn xã Việt Nam còn nghèo nàn nên việc tổ chức cung cấp tin cho các báo trong cả nước chưa thể thực hiện được. Việc lập phân xã tại các địa phương hoặc đặt cơ quan thường trú tại nước ngoài cũng chưa được đặt ra. Chính vì vậy mà mảng tin trong nước của Thông tấn xã Việt Nam vào thời điểm những năm 1944 - 1946 thường bị chậm, không đầy đủ, toàn diện. Đối với phần tin tức thế giới cũng vậy, Thông tấn xã Việt Nam thời kỳ này chưa có mối quan hệ với các hãng thông tấn nước ngoài nên không được cung cấp tin tức một cách trực tiếp. Các biên tập viên (Trần Văn Chương phụ trách phần tiếng Anh, Lê Chân, Nguyễn Tư Huyên phụ trách phần tiếng Pháp) phải thay phiên nhau nghe đài BBC, VOA, chương trình tiếng Anh của đài Mátxcơva, đài Paris..., ghi chép rồi chọn lọc, biên soạn lại cho thích hợp. Ngoài ra, họ còn sử dụng cả các nguồn tin lấy từ báo, tạp chí nước ngoài (mượn hoặc xin các cơ quan nước ngoài đóng ở Hà Nội) như Time, Newsweek, Reader's Digest...
Để kiểm soát tốt thông tin, cuối năm 1945 Nha Thông tin - Tuyên truyền được chuyển từ Bộ Tuyên truyền sang Bộ Nội vụ đặt trụ sở tại nhà số 71, phố Gambeta (nay là phố Trần Hưng Đạo). Nha Thông tin do đồng chí Nguyễn Tấn Gi Trọng làm Giám đốc, đồng chí Trần Kinh Xuyến làm Phó Giám đốc (bao gồm cả Đài Tiếng nói Việt Nam và Thông tấn xã Việt Nam). Vì là cơ quan đầu nguồn nên mọi tin tức do Thông tấn xã Việt Nam biên soạn bao giờ cũng mang tính chính thống, được coi như tiếng nói chính thức của Đảng và Nhà nước ta. Vào dịp Tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Thông tấn xã Việt Nam đã chủ động ra một bản tin bằng tiếng Pháp để phân phát cho các báo, thông qua Đài Tiếng nói Việt Nam công bố sự kiện này ra thế giới. Thông qua các bản tin này, người dân Việt Nam lần đầu tiên hiểu rõ quyền công dân của mình, từ đó xác định trách nhiệm đối với việc xây dựng, bảo vệ chế độ, nghĩa vụ của mỗi cá nhân trước những đòi hỏi của một xã hội tự do, công bằng, dân chủ. Để ủng hộ và nắm bắt kịp thời mọi thông tin của cuộc kháng chiến chống Pháp tại Nam Bộ, Thông tấn xã Việt Nam đã cử phóng viên đi theo các đoàn quân Nam tiến. Phóng viên Nguyễn Bá Khoản là một trong những người đầu tiên có mặt tại các vùng bưng biền Nam Bộ. Các bài viết, đặc biệt là hàng trăm bức ảnh của ông là bằng chứng quý giá về tinh thần đấu tranh bất khuất của người dân nơi đây trước kẻ thù xâm lược.
Từ đầu tháng 8-1946, Thông tấn xã Việt Nam phát hành thêm bản tin tiếng Anh, mở rộng đối tượng phục vụ đến từng cơ quan báo chí. Từ thời điểm đó phần tin thế giới trên mỗi tờ báo đã phong phú, đa dạng hơn. Trong các dịp đoàn đại biểu Chính phủ ta sang Pháp ký Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946, Tạm ước 14-9-1946, Thông tấn xã Việt Nam đều cử phóng viên đi theo. Ngoài nhiệm vụ thông tin, tường thuật diễn biến các cuộc họp một cách nhanh nhất, mà thông qua các bài viết họ còn cố gắng bộc lộ chính kiến của mình đối với các chủ trương, sách lược sáng suốt đúng đắn của Đảng và Chính phủ ta. Đây là việc làm khó bởi theo thông lệ, chức năng chính của một hãng thông tấn là chỉ có nhiệm vụ cung cấp thông tin một cách nhanh nhất, tránh đưa ra những đánh giá có tính thiên kiến. Để định hướng tốt dư luận và cũng để báo chí không vượt ra ngoài quỹ đạo chung. Thông tấn xã Việt Nam chủ trương mọi thông tin cung cấp cho các báo phải trung thực và được chọn lựa kỹ càng. Mọi thông tin có hại cho lợi ích dân tộc đều cương quyết bị loại bỏ. Những tin tức quá xa vời không có mối liên hệ nào với nội tình đất nước, chỉ có ý nghĩa kích thích tò mò hoặc thỏa mãn thị hiếu tầm thường của độc giả, dễ làm băng hoại đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc cũng không được Thông tấn xã Việt Nam sử dụng. Đối tượng hàng đầu của Thông tấn xã Việt Nam lúc này là các thông tin chính trị, quân sự. Các thông tin về kinh tế, văn hóa nhiều khi bị coi là thứ yếu. Đây chính là hạn chế của Thông tấn xã Việt Nam không chỉ xuất hiện trong năm đầu độc lập (1945 - 1946) mà còn biểu hiện trong suốt 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp.
Nói chung, với hơn một năm hoạt động, Thông tấn xã Việt Nam đã có những đóng góp to lớn cho công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Các bản tin của Thông tấn xã Việt Nam được thể hiện trên hệ thống phát thanh đã cho thế giới biết đến một nước Việt Nam yêu chuộng tự do, độc lập, quyết tâm đấu tranh đến giọt máu cuối cùng để bảo vệ nền tự do, độc lập ấy. Tuy nhiên, vì thời gian quá ngắn trong khi đất nước còn gặp muôn vàn khó khăn, thiếu thốn, Thông tấn xã Việt Nam chưa có điều kiện mở rộng quy mô hoạt động.
c) Sự ra đời và phát triển của Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam
- Sự hình thành hệ thống phát thanh cách mạng tại Bắc Bộ
Vừa giành được chính quyền ở Hà Nội (19-8-1945), lãnh đạo Đảng và Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã có chỉ thị phải gấp rút xây dựng một đài phát thanh chuẩn bị cho ngày Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn độc lập và lễ ra mắt chính quyền nhân dân. Nhận được lệnh của đồng chí Xuân Thuỷ (Nguyễn Trọng Nhâm), các ông Trần Kim Xuyến, Chu Văn Tích, Trần Lâm bắt tay ngay vào việc tổ chức, xây dựng Đài Phát thanh. Hoàn cảnh lúc đó hết sức khó khăn. Dưới chế độ cũ, Hà Nội chưa có đài phát thanh, mới chỉ có Sở Vô tuyến điện viễn thông dùng để liên lạc với Sài Gòn, Paris bằng tín hiệu morse. Cả ba cán bộ đứng ra thành lập đài phát thanh đều là những thanh niên, sinh viên yêu nước đi theo cách mạng. Họ hầu như chưa có chút kiến thức nào về kỹ thuật điện tử và nghiệp vụ làm các chương trình phát thanh.
Được sự đồng ý của các cấp lãnh đạo, ông Trần Kim Xuyến đã mời một số nhân viên kỹ thuật của chế độ cũ tham gia xây dựng Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam. Chỉ trong 10 ngày, một trung tâm phát sóng radio đã ra đời tuy vẫn còn hết sức thô sơ, lạc hậu. Ngày 2-9-1945 lời Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn đã được phát lên không trung trong buổi phát thanh đầu tiên. Do máy phát sóng công suất quá nhỏ, lại không phải dạng máy chuyên dụng, nên tiếng nói của Bác Hồ nghe không được rõ lắm. Vì sự hạn chế về chất lượng phát sóng và việc xây dựng studio chưa được hoàn chỉnh nên sau buổi phát thanh đó, Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam tạm ngừng hoạt động để tu bổ máy móc, thiết bị. Đến ngày 7-9-1945, Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam mới chính thức đi vào hoạt động. Đây được coi là ngày truyền thống của ngành. Hai phát thanh viên đầu tiên của Đài là chị Dương Thị Ngân và anh Nguyễn Văn Nhất. Bài ca Diệt phát xít của nhạc sĩ Nguyễn Đình Thi được chọn làm nhạc hiệu. Hàng ngày, ngoài chương trình tiếng Việt kéo dài 30 phút, các chương trình thời sự bằng tiếng nước ngoài gồm các thứ tiếng: Anh, Pháp, Trung Quốc, Lào, quốc tế ngữ (Espe's ranto), Đài phát thêm chương trình thời sự tiếng Việt từ 6 giờ 30 và buổi đọc chậm tin tức cho các địa phương và báo chí chép lại. Cơ sở vật chất của Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam lúc này hết sức nghèo nàn, thiếu thốn đủ bề. Kể từ ngày thành lập cho tới cuối tháng 9-1946, Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam chủ yếu áp dụng phương thức phát trực tiếp, chưa có máy ghi âm để lưu lại những nội dung quan trọng. Trước mỗi chương trình, phát thanh viên và dàn nhạc đều phải nhắc lại câu danh xưng, nhạc hiệu. Studio được chuẩn bị vô cùng đơn giản, cách âm với bên ngoài chỉ là lớp chăn chiên mỏng nên các nội dung đọc trước máy luôn bị lẫn các tạp âm. Người nghe thỉnh thoảng còn bắt gặp cả tiếng ho khan, tiếng dịch chuyển bàn ghế. Việc kiểm soát chương trình không thể thực hiện được, chương trình có thể bị kéo dài ra hoặc rút ngắn lại do không có dàn dựng. Cũng vì lý do này mà Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam không thể thực hiện được các chương trình phỏng vấn trực tiếp. Trong đợt đi cùng phái đoàn đại biểu Chính phủ ta sang Pháp ký Tạm ước 14-9-1946, đồng chí Nguyễn Tấn Gi Trọng có mang về theo một máy ghi âm, tình hình mới được cải thiện. Lời Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn độc lập giờ mới được ghi lại làm tài liệu lịch sử. Câu danh xưng và bản nhạc hiệu cũng được thu âm, không cần phát thanh viên và ban nhạc phải chầu chực như trước.
Trong buổi ban đầu trứng nước, mặc dù điều kiện vô cùng khó khăn, thiếu thốn, nhưng những kết quả mà Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam đạt được là vô cùng to lớn. Nhờ nghe đài mà nhân dân hiểu và nắm bắt được những diễn biến đang xảy ra hàng ngày trong toàn quốc. Nhiều nước trên thế giới lần đầu tiên hiểu rõ về Việt Nam, về tính chính nghĩa trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của chính quyền Việt Minh. Hoạt động của Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam đã làm lực lượng quân đội Tưởng Giới Thạch tại Bắc Bộ và các đảng phái tay sai phản động tức tối. Chúng tìm cách gây khó dễ cho ta. Tướng Lư Hán ra yêu sách đòi ta phải đóng cửa Đài Phát thanh. Khi yêu cầu ấy không được chấp nhận, chúng đòi được kiểm duyệt trước nội dung các chương trình phát sóng. Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, nhờ sự khôn khéo của cán bộ phụ trách Đài, hình thức này bị huỷ bỏ.
Sau ngày giành độc lập, Trung ương Đảng và Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản, chỉ thị kêu gọi nhân dân đoàn kết chống lại ba kẻ thù: giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam đã tham gia rất tích cực vào các  hoạt động này, cùng với các báo vận động nhân dân hỗ trợ nhau trong cơn hoạn nạn, người giàu giúp người nghèo, người có ít giúp người không có. Những khẩu hiệu: ''Lá lành đùm lá rách'', “Bầu ơi thương lấy bị cùng”, ''Một miếng khi đói bằng cả gói khi no''... xuất hiện thường xuyên trên sóng. Chúng gần như thành câu cửa miệng của phát thanh viên. Bên cạnh đó, Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam còn hướng dẫn nhân dân tiết kiệm, tăng gia sản xuất, trồng các rau ngắn ngày xen với trồng lúa và các cây lượng thực khác, coi biện pháp này như quốc kế lâu dài của nhân dân ta. Tuần lễ vàng được toàn dân nhiệt thành hưởng ứng, nhân dân khắp nơi tình nguyện đóng góp chăn màn, giày dép, áo ấm cho binh sĩ... Tất cả các phong trào đó đều có công đóng góp không nhỏ của Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam.
Về mặt tuyên truyền văn hóa - xã hội, Đài hỗ trợ cùng Nha Bình dân học vụ, đưa ra nhiều sáng kiến thúc đẩy phong trào xóa nạn mù chữ tại các địa phương tiếng cả nước. Các khẩu hiệu người biết nhiều dạy người biết ít, người biết chữ dạy người chưa biết luôn được đề cập tới trong các chương trình phát thanh. Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam không chỉ dừng lại ở việc giới thiệu những kinh nghiệm, giới thiệu những điển hình tiên tiến trong dạy và học mà còn hướng dẫn các phương pháp truyền thụ kiến thức, phương pháp tiếp thu bài giảng, động viên toàn dân vượt qua các khó khăn về giới tính, tuổi tác, vật chất để đến với các lớp học. Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam rất chú trọng đến việc động viên trí thức thành thị đi về nông thôn mở lớp dạy học. Đài có những chương trình riêng, tuyên truyền cho nhân dân thực hiện nếp sống mới. Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam thường xuyên lên án, kêu gọi nhân dân xóa bỏ những tệ nạn xã hội như cờ bạc, rượu chè, hủ tục, lề thói đạo đức phong kiến, mê tín dị đoan, luôn động viên bà con nông dân đoàn kết, sống lành mạnh trong tình làng nghĩa xóm, phát huy cao độ đời sống văn hóa mới, hiếu hỷ phải tiết kiệm, có tính văn hóa.
Quân đội Tàu - Tưởng và các đảng phái chính trị ngày càng lộng hành. Chúng ép Chính phủ lâm thời phải san sẻ quyền lực. Ở miền Nam, quân Pháp cấu kết với quân Nhật, núp sau lưng quân Anh dùng bạo lực dành chiến một số cơ quan trọng yếu của chính quyền cách mạng. Kẻ thù bao vây tứ phía buộc Đảng và Nhà nước ta phải tổ chức tổng tuyển cử, sớm bầu Quốc hội, ban hành Hiến pháp, thành lập Chính phủ mới để có tiếng nói chính thức trên trường quốc tế. Để xoa dịu quân Tưởng, tập trung vào kẻ thù trước mắt là quân Pháp, ta phải nhường một số ghế trong nội các cho Việt Quốc, Việt Cách. Nhờ biết tuyên truyền, gắn tổng tuyển cử với lòng yêu nước, Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam đã góp phần đập tan luận điệu xuyên tạc của kẻ thù. Đối với miền Bắc và miền Trung, Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam dùng khẩu hiệu ''Mỗi lá phiếu là một viên gạch xây dựng Tổ quốc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa''. Ở miền Nam ta dùng khẩu hiệu ''Mỗi là phiếu là một viên đạn bắn thẳng vào quân thù xâm lược''. Phương thức tuyên truyền linh hoạt trên đã góp phần không nhỏ cho chiến thắng của cuộc tổng tuyển cử. Quốc hội khóa đầu tiên được nhóm họp bầu ra Chính phủ liên hiệp do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch nước.
Khi Chính phủ ta ký Tạm ước (14-9-1946) với người Pháp, tình hình chính trị nước ta cũng có những diễn biến phức tạp. Quân Pháp liên tục vi phạm các điều khoản đã được ký kết. Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam được lệnh chuẩn bị sơ tán, cùng với toàn dân bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp lâu dài, gian khổ và đầy hy sinh.
- Đài Phát thanh tiếng nói Nam Bộ:
Như trên đã nói, trước Cách mạng Tháng Tám, tại Nam Bộ chỉ có duy nhất một Đài Phát thanh Sài Gòn Radio. Sau khi cướp chính quyền thành công, ta chưa kịp tiếp quản đài này thì đã nổ ra cuộc kháng chiến của đồng bào Nam Bộ. Cuộc kháng chiến bộn bề không cho phép Uỷ ban hành chính kháng chiến Nam Bộ có điều kiện xây dựng một đài phát thanh riêng. Phải tới giữa năm 1946, Đài Phát thanh tiếng nói Nam Bộ mới chính thức ra đời theo Chỉ thị của đồng chí Phạm Văn Đồng - đại diện của chính quyền Việt Minh tại miền Trung. Lúc đầu Đài Phát thanh tiếng nói Nam Bộ là tiếng nói chung cho có hai khu vực Nam Trung Bộ và Nam Bộ được đặt tại đình Thọ Lộc, làng Tôn Đình, huyện Sơn Tịnh (Quảng Ngãi), do đồng chí Nguyễn Văn Huyên làm Giám đốc. Ngày 1-6-1946 Đài Phát thanh tiếng nói Nam Bộ phát chương trình đầu tiên. Sau khi chị Tuyết Minh đọc câu danh xưng và quốc ca được cử lên, Đài phát đi lời hiệu triệu ''Toàn dân đứng lên đi theo kháng chiến, của Chủ tịch Uỷ ban hành chính kháng chiến Nam Bộ Phạm Văn Bạch. Trong vài tháng đầu, ngoài phần tiếng Việt, Đài Phát thanh tiếng nói Nam Bộ có chương trình tiếng Anh, Pháp, sau bổ sung thêm phần tiếng Thái Lan, Bắc Kinh, Quảng Đông.
Trong năm đầu độc lập (1945 - 1946), Đài Phát thanh tiếng nói Nam Bộ xác định cho mình hai nhiệm vụ chính: Phản ánh kịp thời tình hình chiến sự, thông báo tin tức của miền Bắc đến với toàn thể đồng bào miền Nam, làm cầu tiếp sóng Đài Phát  thanh tiếng nói Việt Nam. Trong hoàn cảnh kháng chiến khó khăn, thiếu thốn, bị địch đánh phá ác liệt, Đài Phát thanh tiếng nói Nam Bộ vẫn cố gắng duy trì đều đặn, liên tục các buổi phát sóng. Các chương trình của đài cũng khá phong phú. Ngoài những nội dung phản ánh đời sống kháng chiến là phần tin tức, bình luận các vấn đề chính trị nổi cộm trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, Đài Phát thanh tiếng nói Nam Bộ rất chú trọng xây dựng các chương thanh văn hóa, văn nghệ lành mạnh. Mọi chủ trương, đường lối của Trung ương đều được Đài Phát thanh tiếng nói Nam Bộ thông báo kịp thời cho đồng bào chiến sĩ, đảm bảo sự thông suốt, thống nhất trong nhận thức, quan điểm cũng như các sách lược cách mạng.
Vì ở quá xa Trung ương cũng như các trung tâm kháng chiến của Nam Bộ nên tin tức đến được với Đài Phát thanh tiếng nói Nam Bộ thường xuyên bị chậm, diện phủ sóng cũng bị hạn chế. Khi cuộc kháng chiến toàn quốc chuẩn bị nổ ra, đồng chí Phạm Văn Đồng chỉ thị cho Đài Phát thanh tiếng nói Nam Bộ rời lên núi Sơn Tân (huyện Sơn Hà) để bảo toàn lực lượng, mặt khác xin cấp trên trang bị máy phát có công suất mạnh hơn. Ngoài ra, đồng chí còn chỉ thị Ban Giám đốc của Đài Phát thanh tiếng nói Nam Bộ chuẩn bị kế hoạch, xây dựng cơ sở vật chất cho Đài Phát thanh tiếng nói Đồng Tháp Mười. Lúc đầu tạm thời phát thử nghiệm trên đất Quảng Ngãi, chuẩn bị cơ sở, kỹ thuật lắp ráp Đài Phát thanh tiếng nói Nam Bộ kháng chiến đặt tại xã Nhơn Hòa Lập, huyện Mộc Hóa (Đồng Tháp Mười). Ngày 1-12-1947 Đài Phát thanh tiếng nói Nam Bộ chính thức ra mắt khán thính giả trong và ngoài nước. Đài đặt dưới sự quản lý trực tiếp của Sở Thông tin - Tuyên truyền Nam Bộ. Đây là thời kỳ phong trào báo chí yêu nước Nam Bộ đang lên cao. Dòng báo chí này chủ yếu tập trung tại Sài Gòn. Để nâng cao hiệu quả tuyên truyền, hòa nhịp với trào lưu chung Sở Thông tin - Tuyên truyền Nam Bộ quyết định tách một bộ phận Đài Phát thanh tiếng nói Nam Bộ thành Đài Phát thanh Sài Gòn – Chợ Lớn tự do (Đài chính thức ra mắt ngày 25-1-1951 do đồng chí Nguyễn Khắc Cẩn phụ trách). Đối tượng phục vụ của Đài Phát thanh Sài Gòn - Chợ Lớn tự do là mọi tầng lớp nhân dân các tỉnh miền Đông Nam Bộ, công chức, trí thức đang sống và làm việc tại Sài Gòn và các vùng lân cận, trong kháng chiến chống Pháp, Đài Phát thanh tiếng nói nam Bộ nói riêng, Sở Thông tin - Tuyên truyền Nam Bộ nói chung hoạt động hết sức năng động, hiệu quả, quy tụ được nhiều văn nghệ sĩ, trí thức của một nửa đất nước, tiêu biểu như Thiếu Sơn, Triệu Công Minh, Ái Lan, Huỳnh Văn Gấm, Nguyễn Cao Thương, Dũng Tiến, Nguyễn Văn Hanh, Hoàng Xuân Nhị, Lưu Quý Kỳ, Chương Minh Ngọc, Nguyễn Sơn, Đào Hoàng Thuý, Nguyễn Ngọc Bạch, Lưu Cầu, Hà Mậu Nhai, Hoàng Phố, Hoàng Tấn, Đoàn Giỏi, Dương Tử Giang. Tất cả họ đều trực tiếp hoặc gián tiếp làm việc hay cộng tác thường xuyên với Đài. Đài luôn xác định là công cụ chính trị sắc bén giúp đỡ đắc lực cho Đảng và Chính phủ chỉ đạo kịp thời mọi diễn biến của cuộc kháng chiến ở Nam Bộ. Khi còn đặt ở Quảng Ngãi, mỗi ngày Đài phát thanh hai buổi sáng và tối trên làn sóng điện 24,26TH. Nội dung chính của Đài lúc này là kêu gọi toàn thể đồng bào Nam Bộ đứng lên đấu tranh chống thực dân Pháp, tố cáo tội ác của giặc, cổ vũ phong trào báo chí thống nhất, chống chính phủ bù nhìn Nguyễn Văn Thạnh, Lê Văn Hoạch, ủng hộ phong trào đòi hòa bình, đấu tranh vì dân chủ, dân sinh. Từ giữa năm 1947, Đài cùng một lúc phải quản lý ba lán sóng bới ba danh xưng tiếng nói Nam Bộ, tiếng nói Đồng Tháp Mười và Phát thanh tiếng nói Việt Nam. Để đảm bảo an toàn, chính quyền Liên khu V quyết định chuyển vào sâu trong vùng rừng núi thuộc huyện An Lão, tỉnh Bình Định. Nhiều khi, để tránh sự truy lùng gắt gao của địch, anh em phải đặt thiết bị phát sóng lên xe goòng. Chương trình vừa phát xong, mọi người lập tức xúm lại đẩy xe và máy trên đường ray xe lửa chạy sang khu vực khác. Khi Đài Phát thanh tiếng nói Nam Bộ (đặt tại Đồng Tháp Mười) bắt đầu phát sóng thì Đài Tiếng nói Đồng Tháp Mười tại An Lão đổi tên thành Tiếng nói miền Nam, tiếp tục hoạt động đến năm 1953. Trong hoàn cảnh kháng chiến thiếu thốn, khó khăn mọi bề, Đài luôn nhận được sự quan tâm, động viên của đồng chí Phạm Văn Đồng, đại diện của Chính phủ tại khu vực miền Trung. Đồng chí đã nhiều lần chỉ thị cho các cơ quan Đảng, chính quyền phải giúp đỡ, cung cấp thông tin cho Đài. Từ chỗ chỉ có một máy thu phát liên hoàn MK2 công suất 15W đến cuối năm 1947, Đài được trang bị máy phát công suất 500W, nhờ đó tình hình thu và phát tin bước đầu được cải thiện đáng kể. Đối với tin trong nước, Đài chủ yếu lấy từ Thông tấn xã Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Nam Bộ, Uỷ ban hành chính kháng chiến Nam Bộ, Sở Thông tin - Tuyên truyền Nam Bộ. Còn tin nước ngoài thì được chọn lọc từ hệ thống phát thanh của các hãng Tass, Reuter, AFP và qua đài vô tuyến điện tử của ông Trần Văn Luân, đại diện Việt Nam tại Băng Cốc. Đây là dịp để Đảng và Nhà nước ta phổ biến ra thế giới để thế giới hiểu rõ tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Pháp do Mặt trận Việt Minh phát động.
III. BÁO CHÍ CÁCH MẠNG TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP 1946 - l954
1.Tình hình báo in trong vùng kháng chiến
Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, hàng loạt cơ quan báo chí chuyển lên vùng chiến khu. Nhiều tờ báo tiến bộ mang màu sắc yêu nước ở các đô thị trước đã ủng hộ Mặt trận Việt Minh, giờ không có điều kiện ra đi, đã đóng cửa chờ thời hoặc ngấm ngầm giúp đỡ cách mạng bằng cách lập quỹ từ thiện, mua thuốc men lương thực gửi theo các đường dây bí mật lên Việt Bắc. Có ký giả đã đưa cả gia đình đi kháng chiến. Hầu hết đều nhanh chóng hòa nhập với đời sống khó khăn, thiếu thốn nơi rừng núi. Người thì tham gia làm báo cách mạng, người đứng ra tập hợp anh em cùng cảnh ngộ lập tờ báo riêng. Ít có ai chịu cảnh ăn không ngồi rồi. Nói chung, loại báo chí tư nhân này hoạt động khá nhộn nhịp. Do hoàn cảnh chiến tranh nên hầu hết chúng đều được in bởi các phương tiện hết sức lạc hậu, không cần nhiều nhân lực. Cá biệt có tờ vẫn sử dụng hình thức in xu – xoa (in thạch) hoặc bằng loại máy đạp chân tự chế. Mực in cũng là loại chất lượng kém nên nhìn bề ngoài tờ báo không được đẹp, chữ in thường nhòe, mất nét, không ngay ngắn, chữ to, chữ nhỏ. Những người chủ trương ra loại báo này hoàn toàn không vì lý do vật chất, nhiều khi chỉ để tránh đời sống quá nhàn tản tại các vùng quê. Mỗi tờ báo loại này thường chỉ in chừng vài trăm bản mỗi kỳ, dùng để tặng bạn bè, thậm chí biếu không người qua đường, ít khi bán. Vào thời kỳ này, báo của tư nhân không sử dụng nhiều các nội dung chính trị hoặc mang tính chất loại báo thông tin thuần tuý. Chúng thường là các loại báo văn hóa, văn nghệ đăng các tác phẩm của chủ báo và của bè bạn. Vì không được nuôi dưỡng tốt, ra đời có khi do ngẫu nhiên nên loại báo tư nhân ít có tờ nào tồn tại được lâu dài, thường chỉ được vài tháng, có tờ ra được duy nhất một số rồi tự đóng cửa không kèn không trống. Nói chung với loại báo này, Chính phủ kháng chiến không kiểm soát được. Điều đáng mừng là trong suốt 9 năm kháng chiến trường kỳ, không có tờ báo tư nhân nào xuất bản ở các vùng tự do có giọng điệu chống đối chính quyền đi ngược lại với chủ trương, chính sách của Mặt trận Việt Minh. Chúng luôn sát cánh cùng hệ thống báo chí của Đảng và Nhà nước đấu tranh vì sự nghiệp chung: Độc lập dân tộc, thống nhất đất nước.
Từ những năm 1948 trở đi, báo chí tại các vùng kháng chiến được tổ chức, sắp xếp lại, dần đi vào thế ổn định. Báo của tư nhân tờ tự đóng cửa, tờ thì sáp nhập với báo của chính quyền. Phần lớn ký giả trước sống tự do, giờ đều vào biên chế nhà nước, có điều kiện cống hiến sức lực, trí tuệ cho đất nước. Nhiều người, nhờ sự thay đổi môi trường làm việc này đã trở thành đảng viên, thành những nhà báo cách mạng có tên tuổi. Đây cũng là báo chí của các đảng phái tiến bộ, của các hội, đoàn thể, tổ chức yêu nước hòa chung dòng chảy của hệ thống báo Đảng. Mối quan hệ này trở nên đặc biệt khăng khít kể từ sau ngày Đảng ra công khai trở lại (1951). Nói cách khác, sau vài năm kháng chiến, tại các vùng tự do chỉ tồn tại dòng báo duy nhất, Báo chí cách mạng.
Mặc dù không có báo chí đối lập, báo chí trung gian nhưng dòng báo chí cách mạng tại các vùng chiến khu lúc này không vì thế mà cho phép mình được ỷ lại hay trở lên đơn điệu, bảo thủ. Mỗi tờ báo đều tự xác định cho mình một nhiệm vụ cụ thể. Với số đầu báo ít ỏi (năm 1952 chỉ có 52 tờ). Báo chí cách mạng gần như vẫn bao quát được toàn bộ mọi đối tượng trong xã hội, tất cả đều đặt công tác tuyên truyền chính trị lên hàng đầu, coi việc phục vụ kháng chiến là quyền lợi, trách nhiệm, nghĩa vụ của mình. Sở dĩ có được kết quả trên là do Đảng và Nhà nước ta luôn tôn trọng và đặt hết niềm tin vào đội ngũ ký giả. Chính quyền nhân dân không tìm cách kiểm soát báo chí mà chỉ vạch ra những định hướng tuyên truyền cơ bản cho một tờ báo của trung ương. Mọi sự định hướng này nhất thiết phải phù hợp với đường lối kháng chiến do Mặt trận Việt Minh đề ra, phải phục vụ lợi ích dân tộc. Trên cơ sở này, những tờ báo nhỏ của ban, ngành, đoàn thể cứ thế mà tuyên truyền một cách tự giác. Phương thức quản lý này để hạn chế đến mức thấp nhất việc thông tin trái chiều nhau trong khi mỗi tờ báo vẫn có điều kiện bộc lộ bản sắc riêng, cũng như tôn chỉ, mục đích của mình. Nói cách khác, tính tự do, dân chủ của báo chí được tôn trọng trong khi vẫn duy trì tốt tính thống nhất vế tư tưởng và hành động đối với hệ thống báo chí. Báo Quân du kích (báo Quân đội nhân dân) đặt công tác tuyên truyền cho sự đồng lòng nhất trí của sĩ quan, binh lính lên hàng đầu, coi tình quân dân cả nước như là điều kiện có tính quyết định đến thắng lợi của cách mạng nước ta. Báo phụ nữ Việt Nam có nhiệm vụ tập hợp phụ nữ, báo Văn nghệ tập hợp văn nghệ sĩ trí thức, báo Lao động tập hợp công nhân... Tất cả hòa vào dòng chảy chung, cùng đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giành độc lập cho Tổ quốc thân yêu. Ngoài nội dung chủ yếu trên, báo chí kháng chiến còn đề cập đến nhiều lĩnh vực quan trọng khác của đời sống xã hội có liên quan trực tiếp đến cuộc đấu tranh. Tố cáo âm mưu, thủ đoạn, tội ác của kẻ thù xâm lược và bè lũ tay sai là đề tài thường trực của mỗi tờ báo từ trung ương đến địa phương. Có tờ dành hẳn trang hoặc chuyên mục riêng để phản ánh những vấn đề của các vùng tạm chiến, nói lên tâm tư, tình cảm, những đau khổ, mất mát mà mỗi người dân sống trong ách kìm kẹp của thực dân đế quốc đang phải gánh chịu.
Về đối ngoại, báo chí cách mạng lúc này tập trung tuyên truyền về chủ nghĩa cộng sản, về những thanh tự của Liên bang Xôviết cũng như các nước nằm trong hệ thống xã hội chủ nghĩa đã và đang đạt được, tuyên truyền cho cách mạng Trung Quốc và các dân tộc thuộc địa đang đấu tranh vì độc lập, tự do, hạnh phúc. Thông qua hệ thống phát thanh vẫn còn thô sơ, lạc hậu, Đảng và Nhà nước ta đã chứng tỏ cho thế giới thấy và hiểu rõ về cuộc đấu tranh chính nghĩa của chính phủ kháng chiến, thà hy sinh đến giọt máu cuối cùng, tuyệt không trở lại kiếp nô lệ một lần nữa.
Cuộc sống kháng chiến cũng là một đề tài được báo chí cách mạng khai thác triệt để từ các lĩnh vực chính trị, kinh tế đến văn hóa, xã hội. Riêng khía cạnh quân sự, để giữ bí mật, báo chí ít đề cập, nếu có cũng chỉ là những vấn đề chung chung, bề nổi như tâm tư, tình cảm của người lính khi xa nhà, tinh thần hy sinh vì đồng đội của người chiến sĩ cách mạng, những tấm gương giết giặc lập công điển hình, bộ đội giúp dân dựng nhà, dạy trẻ em học, thu hoạch mùa màng,..
Việc tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện nếp sống mới, lành mạnh, kêu gọi mỗi làng kháng chiến xây dựng tổ chức một bản hương ước phù hợp với tình hình đất nước có chiến tranh được báo chí cách mạng nói đến nhiều hơn cả. Diệt giặc đốt, bài trừ mê tín dị đoan, phê phán tệ cờ bạc, tảo hôn, trộm cắp, ca ngợi lối sống lành mạnh, duy trì ''tình làng nghĩa xóm'', ''tối lửa tắt đèn có nhau'' là những nội dung thường xuyên xuất hiện trên mặt báo. Để cải thiện đời sống cho nhân dân cũng như cán bộ chiến sĩ, báo chí kháng chiến không chỉ vạch ra chiến lược phát triển kinh tế ở tầm vĩ mô mà còn rất chú trọng phản ánh những mô hình trang trại nhỏ làm ăn giỏi, đề cao hình ảnh những anh hùng, chiến sĩ thi đua trong lao động sản xuất...
2. Các tờ báo chủ lực ra đời trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp
a) Báo Nhân dân
Kể từ tháng 9-1950 khi chiến dịch biên giới kết thúc, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta bước sang giai đoạn thứ hai, chuyển từ thế phòng thủ sang thế chủ động trên khắp các chiến trường. Đây cũng là lúc Liên Xô và các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa đang ngày càng khẳng định vai trò, vị trí của mình trên trường quốc tế. Nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời. Tại châu Phi, Mỹ La tinh, nhiều nước thuộc địa đã tự vùng lên giành độc lập dân tộc. Xu thế này đòi hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam phải ra công khai trở lại. Đại hội toàn quốc lần thứ II của Đảng đã được triệu tập tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang diễn ra từ ngày 11 đến ngày 19- 2-1951 thông qua Tuyên ngôn, Chính cương, Điều lệ của Đảng. Để phù hợp với tình hình trong nước, tập hợp được đông đảo mọi tầng lớp nhân dân, Đảng lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam. Đồng chí Trường Chinh được bầu làm Tổng Bí thư. Nghị quyết của Đại hội Đảng chỉ rõ, tờ báo Sự thật đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử, nay thay thế bởi tờ Nhân dân. ''Để tuyên truyền chủ nghĩa và động viên đảng viên và quần chúng nhân dân thực hành chính sách của Đảng''. Nội dung Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ II cũng nêu rõ, trước mắt, vì hoàn cảnh thời chiến, báo Nhân dân tạm thời ra hàng tuần, khi có điều kiện, báo sẽ ra hàng ngày. Đối tượng chính của báo là đảng viên và quần chúng nhân dân có còn yêu nước. Ngoài sự chỉ đạo sát sao của Tổng Bí thư Trường Chinh, đội ngũ cán bộ đầu tiên của báo Nhân dân là các đảng viên cốt cán như Tố Hữu, Hoàng Tùng, Thép Mới. Nhiều phóng viên làm ở báo Sự thật trước đây giờ chuyển sang Nhân dân. Một số cây bút trưởng thành từ các phong trào sáng tác tại các đơn vị cũng được tuyển chọn về làm việc cho báo. Vượt qua mọi trở ngại, khó khăn, ngày 11-3-1951 báo Nhân dân ra số đầu tiên, in 6 trang. Ngay trên trang nhất của số báo này in trang trọng Tuyên ngôn của Đảng Lao động Việt Nam, bài của Tổng Bí thư Trường Chinh với tiêu đề ''Hồ Chủ tịch người sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo Đảng ta'' và bài ''Bàn về cách mạng Việt Nam''. Đây là loạt bài có tính tổng hợp, chỉ đạo, vạch rõ đường lối cách mạng khi đất nước có chiến tranh.
Trong những số đầu, Nhân dân phát hành mỗi kỳ gần 2 vạn bản. Ban biên tập báo gồm 8 đồng chí: Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương, Nguyễn Chí Thanh, Trần Quang Huy, Hà Xuân Trường, Quang Đạm, được thành lập theo Nghị quyết số 26-NQ/TW của Bộ Chính trị. Đồng chí Trường Chinh làm chủ nhiệm, phụ trách chung, Trần Quang Huy làm thư ký ban biên tập. Lúc này, do Đảng chưa có điều kiện ra tạp chí, nên báo Nhân dân, ngoài chức năng thông tin, còn đảm trách thêm nội dung lý luận nhằm tuyên truyền sâu rộng tới các cấp uỷ về công tác xây dựng Đảng, bồi dưỡng, giáo dục lý tưởng cộng sản cho cán bộ, đảng viên, tổ chức, phát triển chi bộ cơ sở từ thấp đến cao… Báo lấy tên Nhân dân một mặt để khắc phục tên hệ thống báo Đảng của những giai đoạn trước thường mang tính giai cấp nặng nề như Dân cày, Lao khổ, mặt khác là nhằm thể hiện ý chí của cách mạng là phục vụ nhân dân.
Từ những năm năm mươi, các vùng tự do ngày càng được mở rộng, số lượng đảng viên cũng tăng cao, giao thông giữa các chiến khu đã dễ dàng thuận tiện hơn. Thực tế này đòi hỏi báo Nhân dân phải có sự đầu tư thích ứng cả về cơ sở vật chất lẫn chất lượng bài vở. Để in hàng chục vạn bản mỗi kỳ, Nhà xuất bản Sự thật giờ không đáp ứng được, Đảng và Nhà nước quyết định cho xây dựng 2 nhà in riêng cho báo Nhân dân, một đặt ở khu Việt Bắc, một ở Liên khu IV. Việc làm này đã giải quyết được mấy vấn đề:
- Đáp ứng được tính kịp thời của thông tin;
- Mở rộng được đối tượng bạn đọc;
- Hạn chế đến mức thấp nhất sự kiểm soát của kẻ thù, giảm thiểu rủi ro. Nếu thực dân Pháp đổ quân lên Việt Bắc, chẳng may đánh trúng cơ quan báo, thì báo của Đảng vẫn in được ở Liên khu IV.
Kể từ khi báo Nhân dân ra đời cho đến khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp, Đảng ta đã ban hành nhiều văn bản, chỉ thị, nghị quyết về việc xây dựng mạng lưới thông tin viên, yêu cầu các đồng chí uỷ viên trung ương, lãnh đạo các ban, ngành, địa phương viết bài cho báo, coi đây như là quyền lợi, trách nhiệm, nghĩa vụ của các đảng viên, đồng thời các cấp uỷ đảng phải có nhiệm vụ chuyển báo đến từng chi bộ. Phong trào đọc và làm theo báo Đảng được phát động ở hầu khắp các vùng kháng chiến. Thậm chí một số người dân vùng tạm chiếm từ nhiều nguồn khác nhau cũng có trong tay tờ Nhân dân, bí mật truyền cho nhau đọc. Càng về sau báo Nhân dân không chỉ phục vụ riêng đối tượng cán bộ, đảng viên nữa mà dần trở thành món ăn tinh thần chung của toàn dân.
Ngoài những trang mục đề cập đến tin tức trong và ngoài nước, xã luận, bình luận quen thuộc, báo Nhân dân thời kỳ kháng chiến chống Pháp còn có những chuyên mục rất gây ấn tượng với bạn đọc như ''Nói và nghe'', ''Mũi tên nhọn'', “Bảng vàng thi đua'', ''Ý kiến bạn đọc'', ''Trả lời bạn đọc''... Trong số này, các chuyên mục ''Nói và nghe'', ''Mũi tên nhọn'' có tính  chiến đấu cao, thường đăng bài của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước hoặc của những cây bút dày dặn kinh nghiệm nghề nghiệp, có quan điểm, lập trường vững vàng. Theo con số thống kê chính thức, tính đến ngày 14-10-1954, riêng trong mục ''Nói và nghe'' đã đăng 236 bài của Bác Hồ qua bút danh CB. Việc làm gương mẫu này của Bác đã được nhiều nhà lãnh đạo cao cấp noi theo. Các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Thanh Nghị, Tố Hữu cũng thường xuyên có bài gửi cho Nhân dân, tạo nên phong trào viết cho báo Đảng trong cán bộ, chiến sĩ và quần chúng nhân dân. Đây là nguyên nhân làm cho tờ báo có sự phong phú về giọng điệu, phong cách, màu sắc trong khi vẫn tuân thủ nghiêm ngặt tôn chỉ mục đích của mình. Cũng như nhiều tờ báo Đảng trước đó, Nhân dân rất năng động, bám sát mọi diễn biến của thời cuộc. Tuỳ theo tình hình chiến sự và nhu cầu của bạn đọc mà các chuyên mục của báo cũng thường xuyên biến đổi cho phù hợp.
Là cơ quan ngôn luận của Trung ương Đảng, báo Nhân dân rất chú trọng đến những nội dung có tính chỉ đạo về chủ trương, đường lối, chính sách cũng như chiến lược cách mạng của Đảng và Nhà nước. Ngay từ số đầu tiên báo đã dành toàn bộ nội dung cho Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II. Ngoài Văn kiện, Tuyên ngôn, Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam, báo còn có bài viết của các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước kêu gọi toàn Đảng, toàn quân, toàn dân thi đua giết giặc lập công, tăng gia sản xuất, tiết kiệm, đưa cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc đến thắng lợi cuối cùng. Mọi diễn biến của cuộc chiến tranh đều được báo phản ánh trên diện rộng, cổ vũ kịp thời tinh thần đấu tranh của quân và dân trong cả nước. Những tấm gương điển hình trong chiến đấu, lao động sản xuất thường xuyên xuất hiện trên mặt báo. Hầu như số nào Nhân dân cũng có bài tố cáo âm mưu, tội ác của kẻ thù.
Bên cạnh chức năng thông tin, báo Nhân dân luôn chú trọng đến việc định hướng dư luận. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp bao giờ báo cũng đặt công tác tuyên truyền: phân tích các chủ trương, Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II lên hàng đầu, góp phần tạo niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước. Báo cũng thường xuyên có bài bàn về chiến lược cách mạng, các phương pháp đấu tranh vũ trang của các vị tướng lĩnh tài ba như Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh. Ngoài việc đề cập đến các vấn đề chính trị, quân sự, báo Nhân dân không xem nhẹ đường lối phát triển kinh tế thời chiến, khái quát được những chính sách cơ bản của nền kinh tế dân chủ nhân dân, đề ra các biện pháp kinh tế trong thời gian trước mắt và lâu dài. Việc vận động nhân dân thực hiện nếp sống mới của từng địa phương cũng được báo quan tâm đặc biệt. Bài trừ mê tín dị đoan, nạn cờ bạc, rượu chè, nghiện ngập luôn là những nội dung để báo  Nhân dân tuyên truyền. Báo dành nhiều chuyên mục kêu gọi nhân dân thực hiện lối sống lành mạnh, tích cực tham gia sản xuất, tiết kiệm, tổ chức cưới xin, ma chay có văn hóa.
Là cơ quan ngôn luận của toàn Đảng, toàn dân, báo Nhân dân rất chú trọng đến văn phong, cách trình bày. Các bài viết thường ngắn gọn, dễ hiểu, ít dùng những thuật ngữ qúa trừu tượng. Các vấn đề báo nêu đều súc tích, sắc bén, cách trình bày nghiêm túc, trang trọng, ảnh minh họa cũng được sử dụng nhiều đã làm tăng hiệu quả tuyên truyền. Vì lý do thời chiến, báo mới chỉ tập trung vào những vấn đề thiết thực, còn xem nhẹ mảng văn học, giải trí. Đây là nguyên nhân làm cho báo dễ bị coi là khô khan, chưa thu hút được hết đối tượng bạn đọc, nhất là những người ngoài Đảng.
Cùng với báo Nhân dân - cơ quan của Trung ương Đảng, thời kỳ này còn có hai tờ báo mang tên Nhân dân của Trung ương cục miền Nam và Liên khu uỷ khu V. Đây là những tờ báo có vai trò rất quan trọng trong việc lãnh đạo, chỉ đạo phong trào cách mạng tại các địa phương xa trung ương.
Báo Nhân dân miền Nam - cơ quan của Trung ương cục miền Nam ra số đầu tiên ngày 15-4-1951. Báo do đồng chí Nguyễn Thượng Vũ (Nguyễn Văn Kỉnh) làm chủ nhiệm, ra mỗi tháng 2 kỳ. Ngay trong số 1, báo đăng trang trọng văn kiện của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II, Tuyên ngôn của Đảng Lao động Việt Nam và các chính sách của Đảng và Nhà nước. Bên cạnh đó là loạt bài của các đồng chí Phạm Hùng, Nguyễn Văn Nguyễn, Lưu Quý Kỳ bàn về các vấn đề xung quanh việc ra công khai của Đảng, đề ra nhiệm vụ cụ thể cho cách mạng Việt Nam. Lúc đầu, báo Nhân dân miền Nam ra khổ 24x34cm với số lượng 12.000 tờ/kỳ. Sau để dễ phát hành báo thu hẹp khổ thành 16x24cm, tăng từ 8 lên 32 trang.
Ngoài những nội dung gắn bó chặt chẽ với tình hình chính trị Nam Bộ, báo Nhân dân miền Nam thường xuyên đăng lại những bài có tính chỉ đạo của báo nhân dân trung ương, coi đây như phương châm cách mạng cho cả nước. Để phù hợp với nhu cầu tâm lý, sở thích của đảng viên, quần chúng Nam Bộ, báo khá linh hoạt trong việc tổ chức, xây dựng các mục. Không kể các mục chính như ''Nhiệm vụ - công tác - kinh nghiệm'', ''Công tác chi bộ'', ''Đồng bào nói, đồng bào viết''..., báo còn sử dụng khá hiệu quả mảng văn chương để thể hiện những nội dung chính trị Truyện ngắn, thơ ca là những thể loại được báo dùng nhiều nhất, chủ yếu đề cập đến đời sống của cán bộ, chiến sĩ, nhân dân tại các vùng kháng chiến. Mục ''Búa công nhân'' được bạn đọc rất hoan nghênh, thích thú. Với những tranh minh họa, thơ đả kích, châm biếm, mục này đã góp phần nâng cao nhận thức chính trị cho người đọc, giúp cho nhân dân nhận thức rõ nét bộ mặt thật của kẻ thù. Mặc dù hoàn cảnh kháng chiến hết sức khó khăn, nhưng báo Nhân dân miền Nam luôn được các cấp lãnh đạo từ trung ương đến địa phương tạo điều kiện thuận lợi, giúp đỡ cả về vật chất lẫn tinh thần. Đội ngũ phóng viên, biên tập viên của báo được lựa chọn kỹ càng từ các cơ quan đơn vị. Báo cũng luôn được đặt dưới tự quản lý của các cây bút tên tuổi thư Lưu Quý Kỳ, Trần Bạch Đằng, Tô Hoài. Những phóng viên Triều Dương, Việt Hùng, Phùng Lương, Lê Điện Biên luôn xông xáo trên khắp các chiến trường để viết tin, bài. Do được quan tâm đầy đủ, Nhân dân miền Nam là một trong những tờ báo ít ỏi lúc đó sử dụng ảnh kẽm, in màu trang bìa. Vào thời điểm gần cuối cuộc kháng chiến, báo còn được trang bị loại máy in nhiều màu hiện đại Rotavive.
Kháng chiến thành công, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, đất nước bị chia hai, báo Nhân dân miền Nam hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, ra số cuối cùng vào ngày 5-1-1955.  Trong số 84 này có đăng thư chúc Tết gửi đồng bào cả nước của Bác Hồ, thư gửi đồng bào miền Nam của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, của Liên đoàn Thanh niên Việt Nam, có bài xã luận của đồng chí Trần Bạch Đằng bày tỏ sự tin tưởng tuyệt đối của nhân dân miền Nam đối với sự lãnh đạo sáng suốt của Bác, của Đảng và Nhà nước, tin vào thắng lợi cuối cùng của cách mạng nước ta.
Báo Nhân dân Liên khu V ra số 1, này 10-5-1951, trụ sở tòa soạn đầu tiên của báo đặt tại xã Hoài Ân, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định. Có thời gian báo đóng trụ sở tại các huyện Đức Phổ, Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Báo do đồng chí Trần Tống làm chủ nhiệm, Hồ Dưỡng làm thư ký tòa soạn. Lúc đầu báo chủ trương ra mỗi tháng 2 kỳ sau là 10 ngày 1 kỳ, khổ 20x30cm, 12 trang (số đặc biệt in 16 trang).
Cũng như những tờ báo Đảng của trung ương và địa phương khác, báo Nhân dân Liên khu V thường dành những trang quan trọng đăng các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, của cấp uỷ đảng và chính quyền địa phương. Những bài viết quan trọng trên báo Nhân dân trung ương cũng thường xuyên được báo Nhân dân Liên khu V đăng tải lại, đặc biệt là các bài của Bác Hồ dưới bút danh CB in trong mục ''Nói và nghe”. Hệ thống phóng viên, biên tập viên của báo Nhân dân Liên khu V cũng khá đông đảo, có trình độ nghề nghiệp cao. Nhiều người sau ngày báo tự đóng cửa, đã chuyển sang làm cho báo Nhân dân trung ương.
Mặc dù chỉ in số lượng trung bình 5.000 bản/kỳ nhưng báo Nhân dân Liên khu V khá năng động trong khâu phát hành. Nhờ nhiều đường dây khác nhau, báo đến được với bạn đọc khá nhanh chóng kể cả đối với những vùng xa xôi nhất của cả dải miền Trung và Tây Nguyên, đưa được cả vào các vùng tạm chiếm, những nơi đang có chiến sự gay go, khốc liệt. Do hoàn cảnh riêng, báo Nhân dân Liên khu V thực hiện triệt để chủ trương tự  túc, tự cấp. Giá bán báo của báo khá cao nhưng độc giả vẫn tìm mua và ủng hộ nhiệt tình.
Theo điều khoản của Hiệp định Giơnevơ, toàn bộ Liên khu V sẽ được đặt dưới sự quản lý của quân đội Pháp. Miền đất này là trạm trung chuyển của lực lượng hai bên. Báo Nhân dân Liên khu V không thể tiếp tục tồn tại và đã ra số cuối cùng đúng vào ngày sinh nhật Bác 19-5-1955.
b) Tạp chí Cộng sản (1950)
Năm 1950, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta có bước phát triển mới. Đội ngũ đảng viên ngày càng đông: cuối năm 1949, Đảng đã có hơn 70 vạn đảng viên. Hầu hết các cơ sở nông thôn, đại đội lực lượng vũ trang và xí nghiệp Nhà nước đều có chi bộ đảng. Mặc dù Đảng chưa ra công khai, nhưng vai trò lãnh đạo của Đảng đã được khắp nơi thừa nhận.
Hội nghị toàn quốc lần thứ ba của Đảng họp tại Việt Bắc từ ngày 21-1-1950 đến ngày 3-1950, trên cơ sở đánh giá trình độ lý luận và ý thức chính trị của cán bộ, đảng viên chưa tiến kịp những nhiệm vụ mỗi ngày một nặng, đã quyết định đẩy mạnh việc học tập chủ nghĩa Mác - Lênin và đấu tranh tư tưởng. Để góp phần tiến hành tốt nhiệm vụ đó, hội nghị đã quyết định ''ra một tạp chí lý luận thay cho tờ Sinh hoạt nội bộ''. Sau khi quyết định đó được Trung ương Đảng thông qua Tạp chí Cộng sản ra số 1 vào tháng 7-1950, mang tiêu đề ''Cơ quan trung ương huấn luyện lý luận và công tác của Đảng do đồng chí Trường Chinh làm chủ nhiệm.
Tập chí Cộng sản ra hàng tháng, in typô, khổ giấy 16x24cm. Cũng như Sinh hoạt nội bộ, trên bìa Tạp chí Cộng sản có ghi: ''Báo này chỉ lưu hành trong Đảng”. Chủ nhiệm tạp chí là đồng chí Trường Chinh. Trong Lời nói đầu đăng số 1, có đoạn nói rõ mục đích của tạp chí ''là góp phần vào việc giáo dục tư tưởng Mác - Lênin, nâng cao trình độ lý luận và công tác của cán bộ và của đảng viên toàn Đảng, đặc biệt là cho cán bộ trung cấp. Nó có nhiệm vụ giải thích đường lối, chủ trương của Đảng, đem chủ nghĩa Mác - Lênin soi sáng các vấn đề cách mạng Đông Dương và các vấn đề quốc tế. Nó là nơi để các cán bộ, đảng viên trao đổi ý kiến, tranh luận về các vấn đề lớn thuộc chính sách của Đảng và lý luận cách mạng, dưới sự điều khiển và hướng dẫn của Trung ương. Nó dùng phương pháp phê bình và tự phê bình đấu tranh chống những tư tưởng và lý luận sai lầm, những chủ trương và hành động trái với đường lối Mác - Lênin của Đảng. Nó phổ biến những kinh nghiệm vận động cách mạng lớn của Đảng ta và các Đảng anh em. Nó hướng dẫn việc học tập trong Đảng, thông báo tin tức lớn về sinh hoạt nội bộ của Đảng v.v..
Về cơ cấu lãnh đạo, đồng chí Trường Chinh làm chủ nhiệm tạp chí, đồng chí Trần Đăng Huy là thư ký tòa soạn. Hồi còn Tạp chí Sinh hoạt nội bộ, đồng chí Trường Chinh là người phụ trách chính, không những phụ viết bài mà còn phải trực tiếp viết nhiều bài. Đối với Tạp chí Cộng sản với chức danh chủ nhiệm, đồng chí Trường Chinh chịu trách nhiệm về đường lối chính trị, thông qua kế hoạch từng số và duyệt bài xã luận. Mọi việc điều hành cụ thể về hoạt động biên tập của tạp chí, như tổ chức bài, chữa bài, duyệt bài, v.v. được giao cho đồng chí Trần Đăng Huy (Hồi đó, trong hệ thống báo chí của Đảng, chưa dùng chức danh ''Tổng biên tập'', mà dùng chức danh ''Thư ký tòa soạn''; chức danh này có trách nhiệm và quyền hạn như Tổng biên tập). Tuy vậy, đồng chí Trường Chinh vẫn viết nhiều bài cho tạp chí. Hàng tháng, đồng chí còn cho ý kiến rút kinh nghiệm về số vừa qua, và chuẩn bị nội dung số tới.
Việc in ấn Tạp chí Cộng sản vẫn theo nếp của Sinh hoạt nội bộ, vẫn in ở nhà in Hồng Phong. Những người và những tổ chức trước đây đã gửi tiền mua dài hạn Sinh hoạt nội bộ thì nay được gửi Tạp chí Cộng sản thay cho Sinh hoạt nội bộ. Việc phát hành cũng vẫn tổ chức như trước, nghĩa là Ban phát hành sách báo các Liên khu uỷ gửi tạp chí tới các đảng bộ địa phương. Các cán bộ thuộc các cơ quan trung ương và các chi bộ trực thuộc trung ương đều có thể đặt tiền mua thẳng với Ban trị sự Tạp chí Cộng sản do đồng chí Lê Đăng Ninh làm quản lý.
Tạp chí Cộng sản chỉ ra được hai số (số 1, tháng 7-1950 và số 2, tháng 8-1950). Ở số 2, trang 66, có đóng khung lời thông báo cho bạn đọc như sau: ''Số báo này đang in thì chúng tôi tiếp được tin: vì lý do chuyên môn, Trung ương quyết định tạm đình bản tờ Tạp chí Cộng sản cho đến khi có quyết định mới”.
Đồng chí Trần Quang Huy đã kể lại rằng, sở dĩ phải đình bản Tạp chí Cộng sản vì công tác chung của Đảng lúc đó đặc biệt khẩn trương, Trung ương Đảng vừa phải lo công việc kháng chiến dồn dập (ta đang chuẩn bị chiến dịch Biên giới vừa phải lo chuẩn bị Đại hội lần thứ II của Đảng. Nhiều cán bộ lãnh đạo và cán bộ lý luận của Đảng bị cuốn hút vào những nhiệm vụ lớn đó. Bản thân đồng chí Trần Quang Huy cũng được điều động tham gia việc biên tập các văn kiện chuẩn bị cho Đại hội. Do thiếu người phụ trách, thiếu người viết, nên tạp chí phải tạm thời đình bản.
Về mặt nội dung, tuy chỉ ra được hai số, Tạp chí Cộng sản cũng đã đề cập đến nhiều vấn đề phong phú. Trước hết đó là những vấn đề nóng hổi của cuộc kháng chiến lúc bấy giờ. Có thể kể các bài: ''Hoàn thành nhiệm vụ, chuyển mạnh sang tổng phản công'' (số 1, tháng 7-1950); ''Chúng ta đã làm gì và còn phải làm gì để chuyển sang giai đoạn mới?'' (số 2, tháng 8-1950), v.v.. Trong nội dung các bài đó đều có phần phân tích, phê phán những nhận thức sai lệch về tổng phản công như cho rằng tổng phản công là phản công đều một lượt trên khắp các chiến trường, hoặc là đánh ào một trận quyết phân thắng bại chỉ trong dăm mười hôm là xong, v.v.. Đồng thời cũng phê phán các khuynh hướng không đúng về thời cuộc kháng chiến lúc bấy giờ, như khuynh hướng lạc quan tếu, ỷ lại vào sự giúp đỡ của các nước bạn, “tả” khuynh phiêu lưu, và khuynh hướng bi quan, cho rằng vì Pháp được Mỹ viện trợ, ta khó lòng đánh bại được chúng v.v.. Bài “chống thực dân Pháp và bọn can thiệp Mỹ'' (số 2) đã trình bày và phân tích rõ chính sách can thiệp của đế quốc Mỹ ở Đông Dương, nhằm thuyết minh nhận định quan trọng trong Chỉ thị của Thường vụ Trung ương Đảng ngày 1-7-1950: ''Không tích cực chống bọn can thiệp Mỹ thì không thể hoàn toàn tiêu diệt thực dân Pháp xâm lược. Trái lại, không kiên quyết chống thực dân Pháp xâm lược thì không thể phá tan chính sách can thiệp của đế quốc Mỹ ở Đông Dương''.
Hội nghị toàn quốc lần thứ ba của Đảng đã có phần ''Tự chỉ trích nghiêm khắc những thiếu sót về công tác xây dựng chính quyền và Nhà nước cộng hòa dân chủ nhân dân''. Để uốn nắn những nhận thức, tư tưởng không đúng về Nhà nước nhằm nhanh chóng  khắc phục những thiếu sót trong việc xây dựng chính quyền, đồng chí Phạm Văn Đồng đã viết bài ''Nhà nước và Nhà nước cộng hòa dân chủ nhân dân Việt Nam'' đăng liền trên số 1 và số 2.
Tạp chí Cộng sản cũng dành nhiều bài bàn về việc học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, về sửa chữa tư tưởng. Tạp chí đã đăng bài nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh về ''Học tập chủ nghĩa Mác - Lênin và đấu tranh tư tưởng để chiến thắng'' của đồng chí Trường Chinh tại Hội nghị đại biểu toàn quốc lần thứ nhất, ngày 6-5-1950 và bài “Sửa chữa tư tưởng'' của đồng chí Nguyễn Chí Thanh (số 1 và số 2).
Tạp chí cũng đã đăng báo cáo của đồng chí Trường Chinh ở phiên họp mở rộng của Ban Chấp hành Trung ương (ngày 5, 6, 7 tháng 7-1950) với nhan đề “Chính sách của Đảng ở nông thôn'' (số 2).
Ngoài các bài chuyên án về các vấn đề trọng yếu trong nước, Tạp chí Cộng sản còn có bài về các vấn đề quốc tế, chẳng hạn ''Nguy cơ chiến tranh mới và cuộc chiến đấu cho hòa bình thế giới'' (số 1); ''Để hiểu vấn đề Triều Tiên'' (số 2) và một số bài dịch từ các báo nước ngoài như ''Công tác tư tưởng của Đảng Mác-Lênin (số 1)''; ''Chiến lược Xtalin và chủ nghĩa Mác – Lênin” (số 2).
Cuối mỗi số tạp chí có mục ''Tin sinh hoạt nội bộ'', đưa tin về các hoạt động xây dựng Đảng của liên khu, của tỉnh; mục “Tin thế giới'' và mục “tin trong nước''. Cách viết các mục này ngắn gọn, nhằm thông tin được nhanh và nhiều các sự kiện trong tháng.
So với Sinh hoạt nội bộ thì Tạp chí Cộng sản đi vào lý luận nhiều hơn. Nó cũng làm nhiệm vụ hướng dẫn công tác, hướng dẫn chính sách như Sinh hoạt nội bộ, nhưng ở mức cao hơn. Nếu Sinh hoạt nội bộ coi việc hướng dẫn công tác là chính thì Tạp chí Cộng sản vừa coi trọng việc hướng dẫn công tác, vừa coi trọng bồi dưỡng lý luận, qua hướng dẫn công tác mà bồi dưỡng lý luận. Các vấn đề đề cập trên Tạp chí Cộng sản cũng có tính khái quát cao hơn. Tạp chí Cộng sản đã thể hiện được rõ nét việc vận dụng lý luận Mác - Lênin nhằm giải quyết những vấn đề cụ thể của cách mạng Việt Nam.
Đại hội lần thứ II của Đảng họp từ ngày 11 đến ngày 19 tháng 2-1951 đã nghe Báo cáo chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Báo cáo Bàn về cách mạng Việt Nam của đồng chí Trường Chinh, thông qua Tuyên ngôn, Chính cương và Điều lệ cuả Đảng. Đại hội đã quyết định đưa Đảng ra công khai, lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam. Sau Đại hội Đảng, cuộc kháng chiến càng phát triển mạnh mẽ. Mọi mặt hoạt động của Đảng càng dồn dập, khẩn trương, Đảng ta tập trung sức vào việc ra tờ báo Nhân dân, cơ quan trung ương của Đảng, nên tạm thời ngừng việc xuất bản tạp chí lý luận,
c) Báo Quân đội nhân dân
Từ cuối năm 1949, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân ta đang từng bước gặt hái được những thành công đáng kể, đang chuyển từ thế phòng ngự sang thế chủ động trên chiến trường. Trước tình hình này, Trung ương Đảng đã tổ chức Hội nghị toàn quốc lần thứ ba diễn ra vào tháng 1-1950. Thực hiện Nghị quyết của Ban Thường vụ Trung ương Đảng về chấn chỉnh, tổ chức Bộ Quốc phòng - Bộ Tổng tư lệnh và bộ máy chỉ đạo quân sự Trung ương, Bộ Tổng tư lệnh quyết định sáp nhập hai tờ Vệ quốc quân (số 1 ra ngày 10-3-1947) và tờ Quân du kích (số 1 ra ngày 1-4-1948) thành tờ Quân đội nhân dân. Hai nhà in của các tờ báo trên cũng hợp lại thành Nhà in Quân đội. Thời gian đầu, cơ quan báo được đặt tại bản Quặng, xã Định Biên, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên. Lực lượng phóng viên đầu tiên của báo có khoảng 20 người với những cây bút quen thuộc: Trần Cư, Lê Bách, Ngọc Bằng, Lê Phong, Hoàng Phượng, Hoài Tín, Hoàng Vân, Trần Việt, Thanh Tâm, Vũ Tú Nam... Báo là một phòng của Cục Tuyên truyền, Tổng cục Chính trị. Báo Quân đội nhân dân lúc đầu do đồng chí Lê Liêm làm chủ nhiệm, Lưu Văn Lợi làm thư ký tòa soạn.
Sau gần 3 tháng chuẩn bị, ngày 20-10-1950 báo Quân đội nhân dân ra số đầu tiên. Lời giới thiệu có đoạn ghi: ''Hôm nay chúng tôi ra mắt Quân đội nhân dân. Chúng tôi có nhiệm vụ góp phần vào việc đem đường lối, chủ trương của Tổng tư lệnh, Chính phủ, đoàn thể thấm nhuần vào toàn thể quân đội và nhân dân để ai nấy đều ngùn ngụt lửa căm thù, kiên quyết vượt mọi gian khổ, chiến thắng giặc Pháp xâm lược và bọn Mỹ can thiệp...” Lúc đầu Quân đội nhân dân dự định ra mỗi tháng 2 kỳ, nhưng sau đó do điều kiện chiến trường, báo tuỳ theo tình hình mà ra thưa hoặc ra mau. Có khi hàng tháng mới báo mới ra một số. Những khi chiến sự ác liệt, Quân đội nhân dân lại ra dồn dập. Có lúc báo ra 10 ngày một số, tuần một số, 5 ngày rồi 3 ngày một số, thậm chí là 1 ngày một số. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, báo hầu như giữ nguyên khổ 25x42cm, nhưng số trang không ổn định (thường là 8 trang, lúc 4 trang hoặc 6 trang).
Trang số 1, báo Quân đội nhân dân sử dụng các chuyện mục như: ''Phê bình và tự phê bình'', ''Quân Đội nhân dân trả lời”, ''Thời sự 15 ngày qua'', ''Từ hậu phương ra tiền tuyến”, “Phóng sự''... Bên cạnh một số mục có sức sống lâu dài và những mục cơ động hơn được sử dụng tuỳ theo tình hình. Có những mục khi quân dân ta tổ chức chiến dịch hay các trận đánh lớn như: ''Thơ ca dân công'', ''Chuyện căm thù và yêu nước''... Những mục này bao giờ cũng mang tính thiết thực cao, cổ vũ, động viên kịp thời cán bộ, chiến sĩ đánh giặc.
Ngày 10-11-1950, Quân đội nhân dân đã ra số 2, có đăng nguyên văn thư của Hồ Chủ tịch gửi bộ đội nhân chiến dịch Biên giới kết thúc thắng lợi. Có thể nói, tại các vùng chiến khu Bắc Bộ, Quân đội nhân dân là một trong những tờ báo được người đọc ngóng đợi nhất, đặc biệt là đối tượng cán bộ, chiến sĩ. Họ không chỉ đọc, nhiều người còn thường xuyên viết bài về các vấn đề của đơn vị mình gửi cho báo Quân đội nhân dân. Không ít người trở thành cộng tác viên, thông tin viên đắc lực của báo. Chính vì vậy, mặc dù quân số có hạn, Quân đội nhân dân không bao giờ phải chịu cảnh thiếu bài vở, kể cả khi chiến sự diễn ra ác liệt nhất. Để thông tin một cách kịp thời, sống động mọi hoạt động của chiến trường, báo thường xuyên cử phóng viên ra chiến trường, tham gia các chiến dịch. Anh em trong tòa soạn đã cố gắng vượt qua muôn ngàn khó khăn, cố gắng ra những tờ tin phát ngay cho chiến sĩ khi khói súng chưa tan. Báo in bao nhiêu hết bấy nhiêu. Tình hình này đã khích lệ phóng viên rất nhiều, khiến họ quên ăn, quên ngủ, tổ chức tờ báo ngày càng tốt hơn.
Nhờ xác định rõ hướng đi cho mình, nên ngay từ những số đầu báo Quân đội nhân dân rất chú trọng đến việc tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, cổ vũ, động viên kịp thời toàn dân đóng góp hết sức mình cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng đất nước. Sau mỗi trận đánh quan trọng, một chiến dịch lớn, báo đều có nhiều bài để tổng kết, rút kinh nghiệm, đồng thời chỉ ra những ưu điểm và hạn chế của ta, giúp người đọc nhìn nhận một cách toàn diện tương quan lực lượng giữa quân đội cách mạng với kẻ thù. Qua báo Quân đội nhân dân, kiến thức của cán bộ, chiến sĩ về công tác chiến đấu, nghệ thuật chỉ huy quân sự, về nhận thức chính trị, tư tưởng cũng đã được nâng cao lên nhiều. Năm 1951, Đảng ta công khai trở lại, báo Quân đội nhân dân đã dành hàng tháng trời phản ánh. Đại hội toàn quốc lần thứ II của Đảng, nói lên sự cần thiết của việc thống nhất hai tổ chức Việt Minh và Liên Việt. Báo cũng nói rõ mối liên hệ hữu cơ giữa quân đội với Đảng Nhà nước, giữa quân đội cách mạng với nhân dân lao động, quân đội phải phục tùng tuyệt đối sự lãnh đạo của Đảng.
Không chỉ đề cao thắng lợi, Quân đội nhân dân còn nghiêm khắc và thẳng thắn trước những thất bại, khuyết điểm. Báo không ngần ngại phê phán cán bộ, chiến sĩ chưa có lối sống, tác phong tốt. Đối với những đối tượng lợi dụng chức quyền để tham ô, hủ hóa, ngược lại với đạo đức cộng sản, Quân đội nhân dân dân, bằng các bài viết mang nặng sức chiến đấu, thẳng cánh gạt họ ra khỏi đội ngũ của mình.
Báo Quân đội nhân dân cũng đã thẳng thắn và kịp thời rút kinh nghiệm, khắc phục những yếu kém trong công tác phòng gian, bảo mật. Sau khi nhận được nhiều lời góp ý, phê bình về những bài để lộ bí mật quân sự, bị kẻ thù lợi dụng, Quân đội nhân dân là một trong những tờ báo đầu tiên tại vùng chiến khu thực hiện triệt để ''10 điều kỷ luật về phòng gian, giữ bí mật'' đúng theo tinh thần Thông tư 191-TTg ban hành ngày 23-7-1952 do Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký. Nói chung từ thời điểm này trở về sau, báo Quân đội nhân dân nói riêng, hệ thống báo chí của các lực lượng vũ trang nói chung ít đề cập đến các nội dung như chương trình, phương pháp huấn luyện tại các đơn vị, địa điểm tập trung binh lính, trang bị khí tài, đặc biệt là các kế hoạch tác chiến trước mắt…
Báo Quân đội nhân dân sử dụng nhiều bài vở nhằm mục đích giáo dục lối sống cho bộ đội, cho đăng nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật, khuyến khích người lính viết lên những tâm tư tình cảm, suy nghĩ của mình đối với cách mạng, bày tỏ thái độ đối với kẻ thù. Những tấm gương anh hùng bất khuất trong chiến đấu được báo đặc biệt quan tâm, được phát động thành các phong trào thi đua giết giặc lập công trong toàn quân, nhằm giáo dục tinh thần yêu nước cho bộ đội.
Trong chiến dịch Đông Xuân (1953 - 1954), đặc biệt là chiến dịch Điện Biên Phủ, 6 cây bút chủ lực của báo được cử ra trận trong đợt đầu là Hoàng Xuân Tùng, Trần Cư, Phạm Phú Bằng, Nguyễn Khắc Tiếp, Nguyễn Đình Thiết và Nguyễn Bích (họa sĩ). Mọi tin tức bài vở gửi từ mặt trận về được khẩn trương biên tập, sắp chữ cho in ngay. Đội phát hành túc trực sẵn sàng lập tức đưa những tờ báo còn nóng hổi, ướt mực đến tận tay các chiến sĩ.
Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc, 9 năm kháng chiến chống Pháp thắng lợi, báo Quân đội nhân dân trở về thủ đô với nhiệm vụ xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa và đấu tranh thống nhất đất nước. Ngày 5-11-1964 Tổng cục Chính trị đã đề nghị Quân uỷ Trung ương và Ban Bí thư cho phép báo Quân đội nhân dân ra hàng ngày. Đúng vào dịp sinh nhật thứ 75 của Bác, Quân đội nhân dân chính thức trở thành nhật báo, đáp ứng nhu cầu của bạn đọc cả nước.
d) Báo Văn nghệ
Ngày 3-10-1947 tại huyện lỵ Đại Từ (tỉnh Thái Nguyên) diễn ra cuộc gặp mặt quan trọng của một số văn nghệ sĩ cách mạng bàn về việc lập Hội Văn nghệ Việt Nam. Tham gia cuộc gặp mặt này có những người nổi tiếng như Tố Hữu, tướng Nguyễn Sơn, nhà sử học Trần Huy Liệu. Hội Văn nghệ Việt Nam được thành lập trên cơ sở Hội Văn hóa cứu quốc (1943) và đã bầu ra Ban Chấp hành khóa I gồm: Hoài Thanh (Tổng thư ký), Nguyễn Đình Thi, Tố Hữu (ngành văn học), Tô Ngọc Vân (ngành mỹ thuật), Lưu Hữu Phước (ngành âm nhạc). Tại Hội nghị lần thứ hai nhóm họp ngày 6-4-1948 tại Việt Bắc, Thế Lữ được bầu thêm. Trong cuộc họp lần đầu tiên, Ban Chấp hành Hội Văn nghệ Việt Nam tán thành việc lập tờ báo Văn nghệ là cơ quan ngôn luận của hội.
Sau hơn 5 tháng chuẩn bị, tháng 3-1948 tờ Văn nghệ ra số 1, in khổ nhỏ (225x150mm) trên giấy gió (sau này khi ta sản xuất được giấy, báo in bằng giấy đen thông thường). Tờ báo ra đời nhằm thu hút đông đảo tầng lớp văn nghệ sĩ có tâm huyết với lợi ích dân tộc. Trong mấy số đầu, báo Văn nghệ do đồng chí Tố Hữu phụ trách với cương vị Thư ký tòa soạn (tương đương Tổng biên tập hiện nay). Từ số 5 trở đi báo được giao cho nhà văn Nguyễn Huy Tưởng phụ trách trực tiếp. Ban biên tập của tòa soạn đều là những cây bút có tên tuổi như Hoài Thanh, Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Lưu Hữu Phước, Tô Ngọc Vân, Thế Lữ. Cộng tác thường xuyên với báo là nhiều văn nghệ sĩ nổi tiếng: Ngô Tất Tố, Xuân Diệu, Nguyễn Xuân Khoát, Huy Cận, Nam Cao, Trần Văn Cẩn, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Trần Huyền Trân, Như Phong, Chế Lan Viên, Kim Lân, Thép Mới, Văn Cao, Nguyễn Tuân, Đoàn Phú Tứ, Đặng Thai Mai, Phan Khôi, Nguyễn Công Hoan, Trần Huy Liệu, Thanh Tịnh, Nguyễn Hữu Đang... Thời gian đầu báo Văn nghệ được in tại Nhà in Độc Lập (trong rừng Thâu Sơn thuộc địa phận Tam Đảo), dự kiến ra mỗi tháng một kỳ vào ngày 15 hàng tháng, khổ báo tương đương với một cuốn sách thông thường, lúc to lúc nhỏ không cố định, tuỳ theo khổ giấy nhà in có được. Báo Văn nghệ in typô nên nét chữ nhỏ nhưng rõ ràng, dễ đọc. Cách trình bày cũng như đặt đầu đề nghiêm túc, không hoa hòe hoa sói. Khi còn in bằng giấy gió, Văn nghệ không được xén cẩn thận nên ngay trong cùng một tờ báo mà có tờ nhô ra, thụt vào, mép giấy lởm chởm, đôi khi còn lẫn cả rơm khô. Tuỳ theo tình hình mà Văn nghệ tăng hoặc giảm trang cho phù hợp, thông thường là 60 - 70 trang. Số đặc biệt có khi lên tới gần 100 trang, có số chỉ chừng 40 trang, trong đó có 6 - 7 trang quảng cáo, giới thiệu những tác phẩm sắp xuất bản do Nhà xuất bản Văn nghệ ấn hành.
Nói chung, trong vài số đầu tiên, báo Văn nghệ chưa hoàn chỉnh cả về nội dung lẫn hình thức, còn xảy ra tình trạng mạnh ai nấy viết, miễn không chệch khỏi chủ trương kháng chiến kiến quốc của Đảng và Nhà nước là được. Các trang mục còn nghèo nàn, chưa bao quát được hết các lĩnh vực văn học - nghệ thuật. Mảng lý luận nói chung còn yếu, những bài viết hô hào là chính, ngôn ngữ còn đao to búa lớn, nên công tác định hướng sáng tác cho văn nghệ sĩ chưa đạt hiệu quả cao. Các vấn đề báo đặt ra mới chỉ ít nhiều có tác dụng đối với tầng lớp văn nghệ sĩ đi theo kháng chiến, chưa thiết thực, lôi kéo được đội ngũ sáng tác tiến bộ tại vùng tạm chiếm đi theo cách mạng. Trong một số  tác phẩm còn rơi rớt phong cách cũ, mang đậm dấu ấn tư tưởng tư sản, tiểu tư sản, không thích hợp với người có trình độ thấp. Có những tác giả tuy đề cập đến mảng đề tài nông thôn nhưng lại quá dân dã, giả tạo, tô hồng, một chiều, xem nhẹ yếu tố nghệ thuật, nên các tác phẩm của họ ít gây được tiếng vang... Để rút kinh nghiệm, khắc phục được những khuyết điểm trên, tại Đại hội Văn nghệ toàn quốc diễn ra ở Việt Bắc từ ngày 23 đến ngày 25-7-1948, Ban Chấp hành Hội đã bàn bạc nhất trí đề ra “Những vấn đề căn bản cho sự sáng tác trong thời kỳ kháng chiến'' và đưa nội dung này vào Nghị quyết Đại hội. Trên cơ sở này, Hội Văn nghệ Việt Nam đã công bố bản Thông đạt gửi tới văn nghệ sĩ trong cả nước: ''Hội nghị đồng lòng nhận ra rằng văn nghệ cần phải gần gũi đại chúng, lấy sinh lực ở nhân dân. Đồng thời phát triển những tài năng mới và nâng cao trình độ thưởng thức nghệ thuật ở đại chúng''.
Để thông tin kịp thời, đầy đủ tình hình hoạt động của giới văn nghệ sĩ kháng chiến, năm 1949 Hội Văn nghệ Việt Nam cho ra thêm tờ Tin Văn nghệ. Tờ báo có nhiệm vụ giới thiệu những tác phẩm, cây viết mới, ít đề cập đến các vấn đề lý luận. Tính tới thời điểm cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc, Văn nghệ ra được tổng cộng 56 số. Đây là một cố gắng rất lớn của giới văn nghệ sĩ Việt Nam trong suốt 6 năm đấu tranh gian khổ. Trong quá trình hoạt động của mình, anh em phóng viên, biên tập viên luôn phát huy tính sáng tạo, xây dựng những tổng mục mới đáp ứng nhu cầu của bạn đọc, thiết thực với đời sống kháng chiến. Các trang mục này luôn thay đổi tùy theo tình hình, đáng chú ý là các trang thơ, kịch, truyện ngắn, phê bình văn học và các mục Trên những nẻo đường đất nước, Văn  nghệ thời đại, Đọc sách, Ý kiến bạn đọc... Về cơ bản, các trang mục trên đã bao quát được hết đời sống văn hóa - nghệ thuật tại các vùng tự do trong cả nước. Tuy nặng tính giáo dục, định hướng chính trị tư tưởng nhưng Văn nghệ không bảo thủ luôn mở cửa cho những quan điểm sáng tác khác, thậm chí đối lập với mình. Khi chuẩn bị diễn ra một sự kiện quan trọng nào đó, Văn nghệ thường mở mục mới để đông đảo mọi tầng lớp nhân dân tham gia, góp ý kiến. Để đấu tranh có hiệu quả trên mặt trận tư tưởng, văn hóa, Văn nghệ duy trì thường xuyên mục ''Chống văn nghệ phản động vùng sau lưng địch''. Nhiều bài viết mang tính chiến đấu cao, không khoan nhượng với những biểu hiện suy đồi phản động trong sáng tác ở vùng tạm chiếm, đề cao lối sống văn hóa cách mạng lành mạnh. Bên cạnh đó, báo Văn nghệ còn mở mục ''Giới thiệu hình thức nghệ thuật dân tộc”; được đông đảo bạn đọc hoan nghênh. Với những nghiên cứu chuyên sâu về chèo, quan họ (Bắc Bộ), tuồng, bài chòi (Nam Trung Bộ), múa xòe (Tây Bắc) v.v., tờ báo đã góp phần giáo dục tình yêu, niềm tự hào đối với truyền thống văn hóa dân tộc cho nhân dân, động viên, cổ vũ lòng yêu nước trong mỗi con người.
Có thể nói, Văn nghệ là nơi quy tụ giới văn nghệ sĩ cả nước, nơi phát hiện bồi dưỡng nhiều tài năng trẻ. Nhiều người đã khẳng định tên tuổi qua hàng loạt cuộc thi sáng tác do Báo phát động. Từ những năm 1950, báo đã đóng góp công sức trong việc mở Trường huấn luyện văn nghệ nhân dân. Khóa học đầu tiên của trường đã được mở ra từ tháng 4 đến tháng 6-1950 tại Chiến khu Việt Bắc với gần 300 học viên, trong đó có nhiều người là những cộng tác viên thường xuyên của báo được cử đi học.
Từ sau tờ Sinh hoạt Văn nghệ ra đời, Văn nghệ chú trọng hơn tới mảng lý luận, giảm dần việc đăng tải các tác phẩm, nhất là các tác phẩm của các tác giả trẻ. Tuy nhiên, nội dung lý luận trên Văn nghệ đôi khi còn tỏ ra quá tả, quá nặng về những vấn đề chính trị, mới chỉ quan tâm đến bần, cố nông, chưa có sự chú ý thích đáng đến các tầng lớp khác trong xã hội. Trong 56 số, Văn nghệ hầu như đều không dùng tranh, ảnh minh họa. Cách trình bày cũng đơn giản, không gây được sự chú ý của người đọc. Mục “Học tập văn nghệ nước bạn” không phát huy được thế mạnh vì sử dụng quá nhiều bài dịch nặng về lý luận. Do khó khăn về thông tin liên lạc và nguồn khai thác nên tác phẩm văn học nước ngoài nếu có đăng cũng chỉ quanh quẩn của các tác giả Liên Xô, Trung Quốc.. Lối viết tô hồng, một chiều cũng ảnh hưởng không nhỏ tới những thành tựu chung sáng tạo văn học thời kỳ này.
Điểm yếu nhất của Văn nghệ trong những năm 1948 – 1954 là không bám sát tình hình chiến sự để có các tác phẩm động viên kịp thời tinh thần chiến đấu của quân và dân ta. Chẳng hạn, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, trên Văn nghệ hầu như không có bài viết nào có giá trị cao, tạo được sự chú ý của người đọc về trận chiến có ý nghĩa quyết định này. Chỉ đến khi chiến dịch kết thúc, Văn nghệ mới có một số bài mang ý nghĩa tổng kết tuyên truyền về ý nghĩa to lớn của thắng lợi. 
đ) Tạp chí nghiên cứu
Đây là tạp chí do Trung ương Cục miền Nam của Đảng xuất bản trong những năm cuối của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (3-1951), Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định thành lập Trung ương Cục miền Nam gồm các đồng chí Uỷ viên Trung ương Đảng công tác ở Nam Bộ để thay mặt Trung ương Đảng trực tiếp chỉ đạo cuộc kháng chiến ở miền Nam trong điều kiện giao thông liên lạc có nhiều khó khăn. Trung ương Cục miền Nam gồm các đồng chí Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Phạm Hùng, Hà Huy Giáp, Nguyễn Văn Kỉnh, Ung Văn Khiêm; do đồng chí Lê Duẩn làm Bí thư.
Trung ương Cục đã chủ trương xuất bản tạp chí lý luận, lấy tên là Tạp chí nghiên cứu với tiêu đề ''Cơ quan lý luận của Trung ương Cục miền Nam Đảng Lao động Việt Nam''. Tạp chí xuất bản không định kỳ, khuôn khổ và độ dày các số cũng không đều nhau.
Số 1, khổ 16x23cm, dày 107 trang, in typô, tháng 7-1951.
Số 2, khổ 11,5x17,5cm, dày 110 trang, in typô, tháng 1-1952.
Số 3, khổ 11,5x17,5cm, dày 92 trang, in typô, tháng 5-1952.
Số 4, khổ 10,5xcm, dày 146 trang, in typô, tháng 7-1952.
Số 5, khổ 10,5x16cm, dày 246 trang, in rônêô, tháng 1-1953.
Số 6, khổ 10,5x16cm, dày 126 trang, in rônêô, tháng 4-1953.
Giá bán tạp chí thay đổi theo từng số. Số 1 giá 50 đồng, số 2 giá 100 đồng, số 3 giá 100 đồng, số 4 giá 150 đồng, số 5 giá 350 đồng, số 6 giá 250 đồng. Tạp chí do Nhà xuất bản Nhân dân miền Nam làm tổng đại lý phát hành, qua bộ máy Sở Giao thông liên lạc  Nam Bộ mà chuyển đến các nơi nhận.
Tạp chí do đồng chí Hà Huy Giáp làm chủ nhiệm, đồng chí Nguyễn Văn Nguyễn làm chủ bút, đồng chí Nguyễn Hồng Việt làm quản lý trị sự.
Về mục đích, tôn chỉ của tạp chí, trong bài ''Tạp chí Nghiên cứu ra đời'', đăng số 1 (tháng 7-1951) có đọan viết: ''Cán bộ hy sinh chiến đấu gian khổ nhiều, nên kinh nghiệm thực tế khá phong phú, nhưng không biết tổ chức tổng kết kinh nghiệm, đúc thành lý luận. Mặt khác, chúng ta thiếu lý luận căn bản để hướng dẫn công tác, sử dụng kinh nghiệm thực tế”.
“Bị mờ hết mắt là khó thấy rõ đường lối, khó mà có được sự sáng suốt để làm tròn nhiệm vụ mỗi ngày một nặng trên sự nghiệp kháng chiến kiến quốc trường kỳ, gian khổ và vinh quang của dân tộc''.
“Trung ương Cục miền Nam của Đảng Lao động Việt Nam cho xuất bản Tạp chí Nghiên cứu này để bổ khuyết một phần nào cho tình trạng nói trên''.
“Với những bài rút trong tạp chí, cơ quan lý luận của Trung ương Đảng để đăng lại, với những mục thương xuyên của Tạp chí Nghiên cứu chúng tôi sẽ cố gắng'':
'' - Phát huy lý luận căn bản của chủ nghĩa Mác-Lênin trên thực tế cách mạng của Việt Nam nói chung và của miền Nam Việt Nam nói riêng”.
“ - Tổng kết kinh nghiệm công tác cách mạng kháng chiến kiến quốc ở Việt Nam nói chung, ở miền Nam nói riêng''.
“Tôn chỉ của Tạp chí Nghiên cứu là: kết hợp lý luận với thực tế''.
Về nội dung, tạp chí có ba loại bài:
1. Những bài viết, bài nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh, như “Phải thiết thực chu đáo trong công tác huấn luyện'', ''Hiệu triệu nhân dịp phát động phong trào sản xuất và tiết kiệm'', v.v. và của đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh như ''Học tập chủ nghĩa Mác - Lênin và đấu tranh tư tưởng để chiến thắng'': ''Thi đua ái quốc chủ nghĩa anh hùng mới''; ''Phóng tay phát động quần chúng thực hiện chính sách ruộng đất'', v.v..
2. Những bài viết của các đồng chí ủy viên Trung ương Cục và cán bộ đảng ở miền Nam. Loại bài này chiếm tỷ lệ lớn.
3. Những bài giới thiệu kinh nghiệm công tác của các Đảng Cộng sản Liên Xô, Trung Quốc, v.v,..
Các bài viết, bài nói quan trọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của đồng chí Trường Chinh đăng trên các báo của trung ương được Tạp chí Nghiên cứu đăng lại, mỗi số ít nhất có một hai bài.
3. Báo chí cách mạng xuất bản tại các địa phương
a) Báo chí cách mạng  Bắc Bộ
Kể từ ngày toàn quốc kháng chiến (19-12-1946) cho đến chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi (7-5-1954), Bắc Bộ luôn được coi là địa bàn có số lượng báo chí lớn về quy mô và đa dạng về phương thức hoạt động. Có thể áng chừng trong gần 8 năm, tại các vùng tự do Bắc Bộ đã xuất hiện hơn 100 tờ báo cách mạng các loại, trong số đó có gần một nửa là báo chí của trung ương (của Trung ương Đảng, Chính phủ, của Tổng bộ Việt Minh, Mặt trận Liên - Việt, của các đảng phái yêu nước, các hội, đoàn thể, bộ, ngành. Loại báo này tuy phát hành rộng rãi trong cả nước nhưng tòa soạn, nhà in và lực lượng phóng viên lại chủ yếu tập trung tại các vùng kháng chiến Bắc Bộ, nên có thể coi chúng thuộc hệ thống báo chí cách mạng Bắc Bộ. Cũng vào thời điểm này, tại các vùng Bắc Bộ còn tồn tại một hệ thống báo chí tư nhân rất lớn do các trí thức, văn nghệ sĩ, nhà báo phát hành. Mặc dù những tờ báo này đều tán thành, ủng hộ đường lối kháng chiến do Mặt trận Việt Minh phát động, không đối lập với các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, nhưng quan điểm của chúng thường in đậm dấu ấn cá nhân, không đại diện cho một tầng lớp dân chúng nào cả. Đối với các loại báo này, ngay cả với những tờ có màu sắc tiến bộ nhất, cũng chỉ nên xếp vào dòng báo chí yêu nước.
So với các khu vực khác, báo chí tư nhân tại các vùng chiến khu Bắc Bộ chiếm số lượng lớn hơn rất nhiều. Tuy nhiên có rất ít tờ trong số này tồn tại được lâu. Có tờ mới ra được vài số đã phải đóng cửa vì lý do kinh phí hoặc đơn giản không có người đọc. Nhân dân thích đọc báo của chính quyền hơn bởi thông tin luôn mang tính chính thống, nhanh nhạy, đầy đủ, tuy đôi khi vẫn có tình trạng phản ánh một chiều phiến diện. Nhìn chung hình thức của báo Nhà nước đẹp hơn, giá lại rẻ, có nhiều chuyên mục hấp dẫn, hướng đến nhiều loại đối tượng. Nội dung của chúng cũng đáp ứng được một cách đầy đủ tâm tư, tình cảm, khát vọng của quảng đại quần chúng nhân dân, tuyệt đối phục vụ lợi ích dân tộc. Nếu xét về số lượng, trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, số báo chí cách mạng tại Bắc Bộ thấp hơn nhiều so với đầu báo tại vùng địch tạm chiếm. Nhưng nếu đứng ở góc độ hiệu quả tuyên truyền thì hệ thống báo chí cách mạng lại chiếm thế áp đảo, đặc biệt từ năm 1949 đến năm 1954. Nói chung, người dân vùng tạm chiếm lúc này không còn mặn mà với dòng báo chí nô dịch. Họ đã chán ngấy chế độ thực dân, phong kiến thối nát. Chỉ với hơn một năm được sống trong môi trường tự do dân chủ (8-1945 - 12-1946), họ đã hiểu hết giá trị của việc thoát khỏi thân phận nô lệ, trở thành người làm chủ xã hội, dù xã hội đó còn gặp muôn vàn khó khăn gian khổ. Tại các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, chỉ những tờ báo yêu nước, công khai bày tỏ thái độ ủng hộ chính phủ kháng chiến, tuyên truyền cho những chiến thắng của quân đội cách mạng đối với kẻ thù xâm lược là còn chiếm được thiện cảm của người dân. Số còn lại sống lay lắt, buồn tẻ. Có tờ không ăn quá 1.000 bản mỗi kỳ.
Đối với những tờ báo cách mạng được bí mật chuyển vào nội thành, tình hình lại khác hẳn. Để mua được một tờ báo Cứu quốc, người dân vùng tạm chiếm có khi phải trả gấp 20 lần giá thực. Tình trạng đầu cơ báo chí cách mạng diễn ra khá phổ biến. Một số đầu lậu còn cho in lại báo Sự thật, Cứu quốc, Lao động ngay tại Hà Nội để bán kiếm lời. Người dân nội thành cũng rất có ý thức trong việc truyền bá báo chí cách mạng. Họ giữ gìn, chuyền cho nhau đọc hoặc chép lại những bài quan trọng rồi đưa cho người khác. Chính vì vậy mà mọi diễn biến của cuộc chiến tranh đều được người dân vùng địch tạm chiếm nắm chắc.
Nếu như báo chí vùng tạm chiến Bắc Bộ chủ yếu phát hành tại các đô thị, thì báo chí cách mạng có mặt khắp nơi, len lỏi từ những vùng sâu, vùng xa cho tới cả những nơi địch kiểm soát ngặt nghèo nhất. Ở đâu báo chí cách mạng cũng được chào đón với một tình cảm nồng nhiệt. Chính vì vậy mà có những thời điểm báo Nhân dân, báo Quân đội nhân dân in hàng vạn bản mà cũng vẫn không đủ cầu, phải ra thêm phụ trương mà vẫn không đáp ứng được hết nhu cầu bạn đọc. Báo chí cách mạng còn có một lợi thế là đều tự đặt mình dưới sự chỉ đạo chung. Mọi diễn biến của thời cuộc đều được nhìn nhận, đánh giá khá thống nhất cho dù mỗi tờ báo trực thuộc một tổ chức, cơ quan khác nhau. Chính vì vậy, khi đọc báo của chính quyền cách mạng, người dân hoàn toàn đặt trọn niềm tin vào đường lối kháng chiến của Đảng và Nhà nước, tin tưởng ở thắng lợi cuối cùng của quân và dân ta.
Bên cạnh những tờ báo cách mạng từ các vùng tự do chuyển vào các thành phố lớn, Đảng ta còn chủ trương xây dựng một hệ thống báo chí ngay trong lòng địch. Càng về cuối cuộc kháng chiến, dòng báo chí bí mật cũng lớn lạnh, quy tụ xung quanh mình cả một đội ngũ báo chí yêu nước hùng hậu. Ngoài vai trò chỉ đạo phương thức đấu tranh, xác định quan điểm lập trường cho báo chí yêu nước, những tờ báo cách mạng bí mật còn có nhiệm vụ xây dựng và tập hợp lực lương sẵn sàng nổi dậy khi thời cơ đến. Nhiệm vụ cơ bản của báo chí bí mật lúc này là: Tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản, đề cao thành quả của các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là nước Nga Xô viết và cách mạng Trung Hoa, làm cầu nối giữa các đảng viên vùng địch hậu với vùng tự do trong số hàng chục tờ báo bí mật hoạt động trong nội thành, đáng chú ý hơn cả là các tờ Tuyên huấn (Ban Tuyên huấn Thành uỷ Hà Nội), Tiền phong (Thành uỷ Đảng Cộng sản Đông Dương thành phố Hà Nội), Cảm tử (khu uỷ khu Hoàn Kiếm, Hà Nội).
Loại báo bí mật thu hút được đông đảo bạn đọc nhất là các tờ dành cho lớp trẻ. Các tờ báo Tiền phong (Đoàn Thanh niên cứu quốc Hà Nội), Nhựa sống đã góp phần rất lớn trong việc giáo dục tình cảm cách mạng, tư tưởng yêu nước cho thanh niên, hướng họ đi theo ngọn cờ vẻ vang của Đảng, của Đoàn. Đồng thời báo chí cũng các đánh rõ vai trò của thanh niên đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, từ đó xây dựng cho họ lý tưởng cách mạng trong sáng, cao đẹp. Việc tổ chức, xây dựng lực lượng, giác ngộ quần chúng đi theo cách mạng, đặc biệt là các tầng lớp công nhân, tiểu thương, sinh viên, trí thức cũng được báo chí bí mật hết sức quan tâm. Tờ Lao động (Liên hiệp Công đoàn thành phố Hà Nội) đã đấu tranh không khoan nhượng với giới chủ, bảo vệ quyền lợi cho người lao động. Nhiệm vụ chính của báo Lao động là tuyên truyền cho quần chúng nhân dân hiểu rõ lợi ích của việc tham gia vào các hội, đoàn thể cứu quốc, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, khi cách mạng cần sẵn sàng tham gia đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Có thể nói, so với các địa bàn khác, báo chí cách mạng bí mật tại Bắc Bộ có phần hoạt động mạnh mẽ, bài bản hơn, tuy nhiên hiệu quả tuyên truyền chưa cao, chưa bao quát được mọi đối tượng, chưa thâm nhập được vào môi trường báo chí của chính quyền thực dân kiểm soát. Cũng có tờ báo phản động sau này quay ra ủng hộ kháng chiến, nhưng đó là hoàn toàn tự phát, theo trào lưu chung, chứ không xuất phát từ sự giác ngộ cách mạng, khi địch đang thắng thế loại báo này hết lời ca tụng sức mạnh của quân đội thực dân, nhưng ta giành thắng lợi trên chiến trường, chúng lại dùng nhiều bài bày tỏ lập trường đân tộc cũng như truyền thống chống ngoại xâm của nhân dân ta. Nếu không khống chế tốt, loại báo này rất dễ gây dao động trong dân chúng làm bạn đọc mất lòng tin đối với báo chí yêu nước và báo chí cách mạng.
So với Nam Bộ và Trung Bộ, số lượng báo chí cách mạng ở Bắc Bộ lớn hơn rất nhiều, chi phối mọi mặt đời sống kháng chiến. Tuy nhiên, không phải tờ nào cũng được phổ biên rộng rãi, nhất là các tờ từ cấp huyện trở xuống, hoặc báo của các cơ quan, đơn vị nhỏ. Có tờ mỗi số chỉ phát hành khoảng 100 bản, phát không cho cơ sở. Nói chung, bạn đọc thời kỳ này chỉ thực sự chú ý đến các tờ báo của trung ương.
Đối với cán bộ, chiến sĩ, nhân dân tại các cùng tự do nằm ngoài chiến khu Việt Bắc, Đảng, Nhà nước và Mặt trận Việt Minh chủ trương cho phát hành rộng rãi một số tờ báo là chi nhánh của các tờ báo trung ương kể trên. Chẳng hạn, ngoài tờ báo Cứu quốc của Tổng bộ Việt Minh, còn có hàng loạt tờ Cứu quốc của các tỉnh, của khu hoặc liên khu. Ví dụ tờ Cứu quốc khu II, Cứu quốc khu III (sau sáp nhập thành Cứu quốc liên khu III), Cứu quốc khu IV, Cứu quốc khu X... Đối với các tờ Sự thật, Nhân dân cũng vậy. Đây là biểu hiện khá độc đáo của báo chí cách mạng thời kháng chiến và còn kéo dài sang những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Loại báo chí địa phương đứng trên danh nghĩa chi nhánh của báo chí trung ương nay cũng nhận được sự ủng hộ lớn lao của bạn đọc. Nội dung thông tin chính của các báo này bao gồm: Nội dung thông tin của địa phương, nội dung thông tin trung ương. Ở phương diện thứ nhất, tờ báo đề cập đến toàn bộ những vấn đề xảy ra trên địa bàn từ chính trị, kinh tế đến văn hóa, quân sự. Ở những tháng quan trọng nhất, báo cho đăng nguyên văn hoặc trích từng phần những bài viết có tính chất chỉ đạo của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã được đăng tải trên các báo của trung ương. Đây thường là những bài viết về những vấn đề chính trị, vạch ra chiến lược cách mạng có quy mô lớn trong thời gian trước mắt và những năm tiếp theo. Việc nhiều tờ báo có cùng một tên gọi còn có lợi thế là khi địch đánh phá ác liệt chiến khu Việt Bắc, tờ báo trung ương nào buộc phải tạm ngừng hoạt động sẽ giao cho tờ báo địa phương thay mặt trung ương để đưa thông tin đến với bạn đọc. Tình trạng trên đã có lúc xảy ra đối với tờ Nhân dân Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam. Tuy nhiên, không phải bất cứ sự trùng tên nào của báo chí cách mạng thời kỳ kháng chiến chống Pháp cũng xuất phát từ ý đồ chính trị của Đảng và Nhà nước. Có một số báo nhận thấy tôn chỉ mục đích của mình không khác gì một tờ báo đương thời nào đó nên đã lấy luôn tên của báo kia đặt cho mình. Chẳng hạn, ngoài tờ Thông tin của Thông tấn xã Việt Nam (21-3-1951), còn có các tờ Thông tin của Trung đoàn 120 (1953), Thông tin của Đoàn Vĩnh Yên (Quân đội nhân dân Việt Nam - 1954). Sự trùng lặp này còn diễn ra cả với những tờ không có liên quan gì với nhau về chức năng, nhiệm vụ cũng như đối tượng phản ánh. Từ năm 1948 đến năm 1954, đồng thời tồn tại ba tờ Tiền phong: Một là nội san của Thành uỷ Đảng Cộng sản Đông Dương Thành phố Hà Nội, một của Mặt trận Việt Minh khu Phố Đông - thành phố Hà Nội, tờ còn lại là của Đoàn Thanh niên cứu quốc Hà Nội. Đây có thể là biện pháp của các nhà quản lý báo chí cách mạng nhằm tung hỏa mù, đánh lạc hướng địch. Điều dễ nhận thấy là hầu hết các tờ báo trùng tên đều chủ yếu xuất hiện từ năm 1948 trở đi, tức là  sau khi Thông tư số 147-NV/QT được ban hành ngày 24-12-1948.  Theo thông tư này, các Uỷ ban hành chính kháng chiến liên khu có quyền cấp phép, kiểm duyệt cũng như đóng cửa tờ báo thuộc khu vực mình quản lý, hằng tháng, có khi hằng năm mới phải làm báo cáo gửi lên trung ương (Bộ Nội vụ). Chính vì vậy mà nhiều khi người trực tiếp quản lý báo chí của liên khu này chưa chắc đã biết ở liên khu lân cận có những tờ báo nào. Đây có thể là một trong những nguyên nhân dẫn tới sự trùng tên gọi của một số tờ báo.
Trong kháng chiến kháng Pháp, dòng báo chí cách mạng xuất bản bằng tiếng nước ngoài cũng được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Hệ thống báo chí này được giao cho Thông tấn xã Việt Nam, Bộ Quốc phòng và cơ quan đối ngoại của Đảng đứng ra tổ chức, quản lý. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Bắc Bộ được coi là trung tâm cách mạng của cả nước. Chính vì vậy, tại khu vực này có hệ thống báo chí cách mạng hết sức phong phú về chủng loại, về đối tượng phản ánh và phục vụ, cùng tồn tại song song hai dòng báo chí trung ương và địa phương. Gần 150 tờ báo cách mạng này có thể xếp vào nhóm chính sau:
+ Nhóm báo Đảng: bao gồm báo, tạp chí của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam (Đảng Cộng sản Việt Nam), báo, tạp chí của các liên khu uỷ, khu uỷ, tỉnh uỷ, huyện uỷ.
+ Nhóm báo chính quyền: gồm báo của Mặt trận việt Minh, Mặt trận Liên - Việt, của các tổ chức, đảng phái yêu nước (Đảng Dân chủ, Đảng Xã hội, của nhân sĩ, trí thức, văn nghệ sĩ...) của các bộ, ngành.
b) Báo chí cách mạng Trung Bộ - Tây Nguyên
Đã hàng bao thế kỷ nay miền Trung - Tây Nguyên được coi là vùng đất có ý nghĩa chiến lược quan trọng. Địa thế ở đây hẹp kéo dài, hiểm trở, rất thích hợp cho việc thiết lập căn cứ địa cách mạng. Sau lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch, miền Trung - Tây Nguyên đã nhanh chóng trở thành một trong những trung tâm cách mạng chính của cả nước. Kế thừa truyền thống báo chí cách mạng Xôviết Nghệ Tĩnh, báo chí kháng chiến chống Pháp ngày càng khẳng định vai trò to lớn của mình. Trong suốt cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, miền Trung - Tây Nguyên luôn chứng tỏ là hậu phương vững chắc, không tiếc sức người, sức của cho tiền tuyến. Hàng vạn chiến sĩ, đảng viên của miền Trung - Tây Nguyên đã ngã xuống trên chiến trường, trong đó có những nhà báo.
Theo thống kê chưa đầy đủ, trong suốt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, tại miền Trung - Tây Nguyên có khoảng hơn 50 tờ báo cách mạng. Con số trên không bao gồm những tờ báo bí mật trong các nhà lao của kẻ thù ở Buôn Ma Thuật, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Trị... và các tờ tin ở cấp huyện, cấp xã. Báo chí cách mạng miền Trung - Tây Nguyên thời kỳ kháng chiến chống Pháp mang nhiều sắc thái, đa dạng về chủng loại, phục vụ mọi loại đối tượng. Ngoài những tờ báo của các tỉnh uỷ, liên tỉnh, khu uỷ, liên khu uỷ của Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Liên - Việt, và những tờ báo dành riêng cho phụ nữ (báo Gái ra trận của Tỉnh hội phụ nữ cứu quốc Thanh Hóa), cho thanh niên (Báo Quyết tiến của Đoàn Thanh niên cứu quốc Bình  Thuận). Về văn nghệ có báo Đại chúng của Liên đoàn Văn hóa cứu quốc Trung Bộ, Thép mới, Sáng tạo của Chi hội Văn nghệ Liên khu IV, Đời sống mới của Chi hội văn hóa cứu quốc Quảng Ngãi... Báo của lực lượng vũ trang cũng rất phát triển với các tờ Chiến đấu, Vệ quốc quân, Cực Nam (Bình Thuận), Tiền tuyến, Vệ quốc quân (Thanh Hóa), Giữ làng (Nghệ An)... Ngoài ra, còn có những tờ báo về các lĩnh vực cụ thể khác như Kinh tế của Mặt trận Việt Minh Thuận Hóa - Huế, Nông thôn của Hội Sáng tác - nông thôn Phú Yên, Nội san dân tộc (Ty Giáo dục Nghệ An)... Vì điều kiện chiến tranh, nhiều đối tượng, ngành nghề, một số cơ quan, tổ chức, hội, đoàn thể chưa có báo riêng. Tuy nhiên, báo chí cách mạng thời kỳ này chưa mang tính chuyên môn hóa cao. Một tờ báo của quân đội vẫn có những trang mục riêng dành cho các đối tượng khác. Tờ báo kinh tế vẫn có thể đề cập tới các lĩnh vực thuộc văn hóa, xã hội, chính trị, vẫn thường xuyên cho đăng thơ, truyện ngắn phục vụ nhu cầu thưởng thức văn học - nghệ thuật của độc giả.
Nếu như tại vùng chiến khu Việt Bắc, Đảng và Nhà nước ta rất chú trọng phát triển hệ thống báo chí bằng tiếng các dân tộc thiểu số, thì tại Trung Bộ - Tây Nguyên loại báo trên chưa được quan tâm đúng mức. Cả một địa bàn rộng lớn quy tụ nhiều dân tộc thuộc nhiều ngữ hệ như vậy mà chỉ có tờ Buôn hổ của Mặt trận Việt Minh Tây Trung Bộ in bằng tiếng Êđê bắt đầu - xuất bản vào tháng 7-1948. Tờ báo này chủ yếu lưu hành trong địa bàn tỉnh Gia Lai. Tình hình trên ảnh hưởng rất nhiều đến việc tập hợp các lực lượng cách mạng, kẻ thù dễ len lỏi tìm cách chia rẽ, gây mất đoàn kết giữa các dân tộc. Có thể nói, báo chí cách mạng Trung Bộ - Tây Nguyên thời kỳ này chưa tận dụng triệt để công tác tuyên truyền chống giặc giữ buôn làng của Ama Trang Lơng, của anh hùng Núp với các chiến công làm khiếp vía quân thù trong chiến dịch Atlăng, với chiến thắng Kon Tum, đèo Măng Giang, Đông Xuân 1953 – 1954.
Nội dung chính của báo chí kháng chiến Trung Bộ - Tây Nguyên là phản ánh đường lối xây dựng, bảo vệ nền độc lập dân tộc, bảo vệ thành quả Cách mạng Tháng Tám đúng theo tinh thần kháng chiến kiến quốc do Trung ương Đảng đề ra. Dù xuất hiện được dạng nào, báo chí đều tập trung vào các hoạt động phục vụ kháng chiến, tham gia tích cực vào cuộc kháng chiến chống giặc đói, giặc dốt, kêu gọi nhân dân tiết kiệm, tích cực gia tăng sản xuất, đẩy mạnh các hoạt động xã hội, góp phần xây dựng các hợp tác xã, tổ đốc công. Báo chí lúc này không xem nhẹ, việc tuyên truyền xây dựng đời sống văn hóa mới, coi những nhân tố điển hình, tiên tiến trong chiến đấu, lao động sản xuất là đối tượng phản ánh chính. Ngoài những nội dung đề cập đến, gương chiến đấu chống kẻ thù ngoại xâm trong các lĩnh vực, kinh tế, báo chí còn dành dung lượng khá lớn giới thiệu kinh nghiệm của các tầng lớp nhân dân trong phong trào xóa nạn mù chữ. Cùng với những tờ báo mang tính lý luận, chỉ đạo của trung ương, của các đảng bộ địa phương, báo chí kháng chiến Trung Bộ - Tây Nguyên nói chung cũng tự xác định cho mình nhiệm vụ tuyên truyền sâu rộng trong dân chúng chủ nghĩa Mác - Lênin, đấu tranh với các khuynh hướng xét lại, cơ hội. Những tờ báo này còn rất quan tâm đến vai trò, ảnh hưởng của văn học - nghệ thuật. Nhiều tác phẩm vãn học có giá trị xuất hiện trên mặt báo mô tả trung thực đời sống, thực tiễn kháng chiến. Việc làm này đã góp phần rất lớn nhằm đi nâng cao nhận thức thẩm mỹ cách mạng cho người dân, làm cho họ thấy được cái đẹp của thứ lý tưởng họ đang theo đuổi.
Từ năm 1948 trở đi, báo chí kháng chiến chống Pháp tại Trung Bộ - Tây Nguyên có sự chuyển biến rất lớn về hình thức. Lúc này không còn tình trạng mạnh tờ nào tờ này sống như trước. Sự chỉ đạo có tình hệ thống cao từ trên xuống dưới đã hạn chế cho bản sự chồng chéo thông tin cũng như xác định rõ vai trò, nhiệm vụ cho mỗi tờ báo. Kế hoạch thông tin, tuyên truyền được xây dựng một cách khoa học nên đã khai thác được khá sâu mọi vấn đề đặt ra. Cơ cấu tòa soạn cũng từng bước đi vào nền nếp, có sự phân công rõ ràng chức năng, trách nhiệm cho từng bộ phận. Đường biên giới với các nước cũng đã được khai thông, tạo điều kiện cho việc mở mang quan hệ, tăng cường trang bị kỹ thuật. Công nghệ in đã được từng bước hiện đại hóa, tạo ra sự đồng đều về hình thức và chất lượng kỹ thuật in ấn giữa các tờ báo.
c) Báo chí cách mạng tại Nam Bộ
Nếu như báo chí cách mạng Bắc Bộ chủ yếu tập trung tại Việt Bắc, báo chí cách mạng Trung Bộ rải dọc các tỉnh duyên hải, thì báo chí cách mạng Nam Bộ được phân bố khá đồng đều từ thành thị tới các vùng cực của Tổ quốc. Mối liên hệ giữa các dòng báo chí cách mạng và báo chí yêu nước ở Nam Bộ là khá khăng khít, chặt chẽ, nhiều khi rất khó phân biệt. Có những thời kỳ, nhiều tờ báo yêu nước không chịu sự chỉ đạo, trực tiếp của các tổ chức đảng cũng như của báo chí cách mạng, nhưng vẫn không bị lệch ra khỏi quỹ đạo chung là đấu tranh vì sự nghiệp thống nhất đất nước, độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ.
Sở dĩ báo chí ở Nam Bộ đã duy trì được lâu dài tính chất này là do, ngay từ khi cuộc kháng chiến chống Pháp của đồng bào Nam Bộ vừa nổ ra, Xứ uỷ Nam Kỳ đã có chủ trương để lại một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên tại vùng địch hậu (chủ yếu là Sài Gòn). Trong số này có nhiều nhà báo cách mạng, nhiều đảng viên cộng sản cốt cán nhận nhiệm vụ trước Đảng ở lại xây dựng, chỉ đạo hệ thống báo chí cách mạng trong lòng địch như Trần Bạch Đằng, Nguyễn Hữu Thọ, Phạm Ngọc Thạch... Để che mắt địch, ta sử dụng hiệu quả đội ngũ ký giả nổi tiếng đã được cách mạng giác ngộ như Triệu Công Minh, Ái Lan, Dương Tử Giang, để họ đứng ra xin phép chính quyền thực dân ra báo. Các khẩu hiệu đấu tranh cũng không nhất thành bất biến, có thể thay đổi tuỳ theo tình hình miễn là không trực tiếp tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản. Các nội dung đấu tranh với những âm mưu, thủ đoạn của nhà cầm quyền bao giờ cũng thể hiện sự khôn khéo, mềm dẻo. Nếu như tình hình không quá căng thẳng, báo chí cách mạng bí mật, báo chí yêu nước có thể đề cập đến các vấn đề xã hội một cách toàn diện cả về chính trị, đối ngoại lẫn kinh tế, văn hóa. Khi kẻ thù đàn áp quá dữ dội, báo chí lại thu mình lại, chủ yếu chỉ đấu tranh trên phương diện văn hóa. Có thể nói, trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, hầu hết các tờ báo yêu nước tại vùng tạm chiếm đều có người của Đảng Cộng sản Đông Dương cài vào. Nhờ vậy mà mọi phát ngôn của báo chí về cơ bản vẫn phục tùng, chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Đảng và Nhà nước. Chính vì thế ta hoàn toàn có thể đặt dòng báo chí yêu nước tại vùng bị tạm chiếm Nam Bộ vào hệ thống báo chí cách mạng. Đây là điểm khác chủ yếu với báo chí Bắc Bộ - Trung Bộ và Tây Nguyên. Báo chí cách mạng Nam Bộ thời kỳ này tập trung ở hai khu vực chính là báo chí tại các đô thị miền Nam và báo chí tại các địa phương khác.
Báo chí cách mạng tại các đô thị miền Nam: Sau khi tiếp quản Sài Gòn từ tay quân Anh, người Pháp tiếp tục mở rộng chiến tranh nhằm chiếm lại các tỉnh miền Đông và Tây Nam Bộ. Họ cho khôi phục lại chế độ quản lý báo chí cũ. Chính quyền tay sai của Pháp theo lệnh chủ động nới rộng một số quyền tự do dân chủ nhằm xoa dịu dư luận, lấy lòng báo chí. Họ muốn dùng báo chí tuyên truyền cho chính phủ bù nhìn Nguyễn Văn Thinh (một chính phủ chỉ tồn tại được mấy tháng, sau đó người đứng đầu của nó đã treo cổ tự tử). Nhờ sự thay đổi chính sách này, báo chí tư nhân lục tục trở ra. Chính phủ Lê Văn Hoạch lên thay đã đàn áp báo chí dữ dội, gây bất bình trong dân chúng. Đây chính là lúc báo chí cần có sự đoàn kết, nhất trí, đấu tranh cho sự tồn tại của chính mình. Dưới sự chỉ đạo gián tiếp của Đảng, lực lượng báo chí thống nhất ra đời, có lúc quy tụ được tới 17 tờ báo, là lực lượng đối lập với hệ thống báo chí của chính quyền.
Để thống nhất trong hành động tư tưởng, những người lãnh đạo lực lượng báo chí thống nhất xác định phải lập một Bộ biên tập chung đặt tại xóm Thơm (Gò Vấp - thành phố Hồ Chí Minh). Bộ biên tập gồm đại diện của mỗi tờ báo như Lý Vĩnh Khuôn, Nguyễn Văn Hiếu, vợ chồng Triệu Công Minh - Ái Lan, Lê Thọ Xuân, Lê Văn Ngòn, Trần Thọ Phước, Trần Văn Nguyên. Bộ biên tập có nhiệm vụ vạch kế hoạch đấu tranh chung cho cả nhóm báo tuỳ theo từng tình hình cụ thể. Nhóm còn xác định nội dung cho từng tờ căn cứ ở chức năng riêng. Khi đất nước có những diễn biến chính trị phức tạp Bộ biên tập sẽ cử người viết hoặc đặt bài các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Đối với những bài có tầm cỡ chiến lược lớn như vậy, Bộ biên tập cho đăng trước hết trên 4 tờ nhật báo có uy tín nhất của lượng báo chí thống nhất là Tin điển, Kiến thiết, Nam Kỳ Việt. Trong cả một khoảng thời gian dài sau đó, các báo sẽ có bài bổ trợ hoặc khai thác, phân tích có chiều sâu. Nhiều ký giả của lực lượng báo chí thống nhất cho đến nay vẫn được mọi người đọc nhắc đến với thái độ trân trọng như Vũ Tùng, Bách Việt, Thiếu Sơn, Dương Tử Giang, Nguyễn Văn Hiếu, Bùi Danh, Nam Quốc Cang, Quốc Ấn, Trần Văn Nguyên, Vĩnh Sanh, Trần Tấn Quốc, Nguyên Kỳ Nam, Thiện Giang, Tam Ích, Thê Húc, Nguyễn Bảo Hóa, Hoàng Tấn, Hoàng Tố Nguyên, Trúc Khanh, Vũ Anh Khang, Lý Văn Sâm, Lê Thọ Xuân, Thuần Phong, Phi Bằng, Trần Minh Ký...
Có thể nói, nhiệm vụ đầu của lực lượng báo chí thống nhất là đấu tranh với báo chí của nhà cầm quyền, đập lại chủ trương phân ly, xuyên tạc đường lối kháng chiến của Đảng và Nhà nước của các tờ Phục hưng, Tiếng gọi, Tương lai. Nội dung chính của báo chí cách mạng trong những năm 1945 - 1946 là đấu tranh chống chia rẽ dân tộc, giữ gìn truyền thống yêu nước, bản sắc văn hóa, ủng hộ triệt để công cuộc kháng chiến do Mặt trận Việt Minh lãnh đạo, lên án tội ác dã man của kẻ thù, vạch trần tính chất giả nhân giả nghĩa của nhà cầm quyền thực dân. Các tờ báo trong nhóm còn trực tiếp hoặc gián tiếp ca tụng đời sống kháng chiến, ca ngợi Hồ Chủ tịch. Có tờ còn cho đăng lại thơ Tố Hữu, Chế Lan Viên và nhiều tác giả sáng tác ở Việt Bắc. Nhà cầm quyền tính mọi cách đàn áp lực lượng báo chí thống nhất, đập phá tòa soạn, bắt bớ, giết hại ký giả. Sự đàn áp dã man của kẻ thù không làm nhụt đi ý chí đấu tranh cũng như lòng yêu nước của những người luôn tâm huyết với lợi ích dân tộc, với Tổ quốc.
Khi cuộc kháng chiến toàn quốc nổ ra, người Pháp nhận thấy khó có thể kiểm soát được tình hình nếu hệ thống báo chí thống nhất vẫn tồn tại giữa Sài Gòn. Dựa vào việc các báo đồng loạt đưa tin đoàn thanh tra của chính quyền thực dân bị phục kích ở Trung Lương, Lê Văn Hoạch đã rút giấy phép của cả 17 tờ thuộc lực lượng báo chí thống nhất. Điều này không ngăn cản các nhà báo cách mạng chạy sang làm việc cho các tờ báo yêu nước khác đầy rẫy ở Sài Gòn như: Nay mai, Ngày nay, Quốc hồn, Lẽ sống, Sự thật, Tân dân, Ánh sáng, Thái bình... Các báo này đều có mục ''Tin tức Bưng Biền'', được độc giả ưa thích. Để bán được báo và cũng để hạn chế sự coi thường của người dân, một số tờ báo của chính quyền cũng bắt chước ra mục các ''Tin tức Bưng Biền'', ở đây đã bị lọc lựa kỹ càng hoặc bị bóp méo ít nhiều.
4. Hoạt động của Thông tấn xã và Đài Tiếng nói Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp
a) Một số hoạt động của Thông tấn xã Việt Nam sau ngày toàn quốc kháng chiến
Cũng như nhiều cơ quan báo chí khác, ngay trong đêm 19-12-1946, Thông tấn xã Việt Nam đã sơ tán ra khỏi Hà Nội, về vùng núi Trầm (Hà Tây) để tiện liên lạc với Đài Tiếng nói Việt Nam. Đây là thời kỳ Thông tấn xã Việt Nam hoạt động khó khăn nhất, trong khi vẫn phải bảo đảm vai trò trung gian giữa các cơ quan của Chính phủ với Đài Tiếng nói Việt Nam. Theo nguyên tắc an toàn, Đài Tiếng nói Việt Nam không được ở quá gần các khu vực trọng yếu nên việc qua lại giữa hai cơ quan rất khó khăn, có khi anh em phóng viên phải vượt qua hàng chục cây số đường rừng. Phương tiện giao thông không có, tất cả đều trông vào đôi chân. Ngoài việc chạy ăn, chạy giặc, Thông tấn xã Việt Nam còn phải đảm bảo cung cấp đầy đủ thông tin cho Đài Tiếng nói Việt Nam, cung cấp kịp thời tin tức để Đảng và Chính phủ nhanh chóng có kế sách chỉ đạo công cuộc kháng chiến. Trong cả quãng thời gian hơn 3.000 ngày kháng chiến gian khổ và ác liệt, Thông tấn xã Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình, bảo đảm cho mặt trận thông tin luôn thông suốt, góp phần rất lớn cho chiến thắng cuối cùng.
Có thể nói năm 1947 hoạt động nghiệp vụ của Thông tấn xã Việt Nam không đạt hiệu quả cao. Người Pháp lúc này đang ở thế mạnh, đang tìm cách truy đuổi các lực lượng kháng chiến. Các địa phương bị chia cắt, bao vây, nhiều vùng tự do bị rơi vào thế cô                                                            lập. Có những nơi mải lo chống giặc, không có điều kiện liên lạc thường xuyên với trung ương. Tin tức đến với Thông tấn xã Việt Nam hàng ngày không đều, trong khi không phải thông tin nào cũng được phổ biến rộng rãi. Tình trạng báo chí ''đói'' tin có khi kéo dài hàng tháng thời. Đây cũng là thời điểm Nha Thông tin (bao gồm Đài Tiếng nói Việt Nam và Thông tấn xã Việt Nam) bị đánh phá ác liệt nhất. Thông tấn xã Việt Nam liên tục phải di chuyển khắp các tỉnh thuộc miền núi phía Bắc. Đầu năm 1948, trước sự truy đuổi gắt gao của kẻ thù, để bảo toàn lực lượng, Thông tấn xã Việt Nam quyết định chia làm hai bộ phận: một vùng chợ Chu phục vụ Trung ương Đảng và Chính phủ, một đi theo Đài Tiếng nói Việt Nam. Phương tiện liên lạc giữa hai nhóm chủ yếu dựa vào hệ thống ngày thu phát công suất nhỏ có tầm hoạt động trong phạm vi hẹp. Do hoàn cảnh chiến tranh, lúc này Thông tấn xã Việt Nam ít nhận được sự trợ giúp từ trung ương phải đưa vào sức mình là chính. Các nguyên vật liệu như xăng dầu, giấy, mực in được cung cấp rất hạn chế, các cán bộ, công nhân viên của Thông tấn xã Việt Nam phải đôn đáo ngược xuôi lo cho đủ, nhiều khi phải mua giá chợ đen hoặc vận động bà con quanh vùng đóng góp ủng hộ.
Từ cuối năm 1948, người Pháp nhận thấy các kế hoạch tấn công lên chiến khu Việt Bắc không đạt kết quả như mong muốn, họ quay ra chuẩn bị cho giải pháp Bảo Đại, dùng người Việt trị người Việt. Đây là quãng thời gian khá yên ổn, Thông tấn xã Việt Nam chuyển về Tuyên Quang, đặt cơ quan ở ATK (an toàn khu) với mật danh T6. Được sự giúp đỡ của Đảng và Nhà nước, Thông tấn xã Việt Nam có điều kiện chỉnh đốn lại đội ngũ, trang bị cho mình các phương tiện, máy móc hiện đại nhằm mở rộng hoạt động. Lúc này, tình hình tại các vùng tự do trong cả nước cũng bắt đầu đi vào thế ổn định. Sợi dây liên lạc giữa các địa phương với trung ương đã được nối lại. Tin tức dồn dập đổ về Thông tấn xã Việt Nam. Chưa bao giờ Thông tấn xã Việt Nam phải xử lý một khối lượng thông tin đồ sộ, phong phú đến như vậy. Công việc nhận và chuyển tin diễn ra hết sức bận rộn, khẩn trương. Những khi có tin quan trọng, bất kể ngày đêm, Thông tấn xã Việt Nam đều tìm cách chuyển ngay đến các cơ quan chức năng để Đảng và Chính phủ nắm chắc tình hình trong và ngoài nước, từ đó vạch ra sách lược đấu tranh hợp lý. Năm 1949, nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời đã làm thay đổi cục diện ở châu Á và thế giới, hết sức có lợi cho ta. Cách mạng Lào - Campuchia cũng đang lớn mạnh từng ngày, tạo điều kiện cho Thông tấn xã Việt Nam mở rộng tầm hoạt động ra các nước. Mối quan hệ giữa Thông tấn xã Việt Nam với một số hãng thông tấn lớn trên thế giới bước đầu được thiết lập. Quá trình trao đổi thông tin diễn ra ngày càng tốt đẹp giữa các bên. Thông tấn xã Việt Nam đã tổ chức tốt công tác thu, phát tin ra nước ngoài thông qua một số âm trung gian đặt tại Trung Quốc, Miến Điện, Thái Lan. Từ các nguồn tin phong phú này, cuối năm 1949, Thông tấn xã Việt Nam quyết định phát hành ngay tờ Tin tức khổ nhỏ, 4 trang, đề cập tới các vấn đề quan trọng nhất, mới nhất xảy ra trong nước và quốc tế. Số lượng phát hành của tờ Tin tức là khá lớn, đáp ứng khá đầy đủ nhu cầu của các cơ quan, đơn vị đầu não ở trung ương, các vùng chiến khu IV, V, thậm chí tới cả các bưng biền nằm ở cực nam của Tổ quốc. Vào thời điểm đó, để tổ chức tốt một mạng lưới phát hành hiệu quả như vậy là nỗ lực vô cùng lớn của Thông tấn xã Việt Nam.
Để theo sát mọi diễn biến của cuộc kháng chiến, Thông tấn xã Việt Nam rất chú trọng đến việc cử phóng viên tới các vùng trọng điểm, nơi chiến sự đang diễn ra ác liệt. Các phóng viên, kỹ thuật viên phải làm việc ngày đêm, bám theo bộ đội, vừa viết tin, bài vừa tham gia chiến đấu. Nhiều người đã ngã xuống như những người lính thực thụ. Từ đầu những năm 1950, hoạt động của Thông tấn xã Việt Nam bắt đầu mang tính chuyên nghiệp hơn. Các phòng tin tức trong nước, tin tức quốc tế được thiết lập với các ban chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội... Phân xã tại các địa phương cũng hoạt động rất tích cực. Các phóng viên, cộng tác viên thường xuyên được tham dự các lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ do Thông tấn xã Việt Nam đứng ra tổ chức. Giảng viên là các nhà báo cách mạng có tên tuổi. Giáo trình giảng dạy do các hãng thông tấn như Tass, Tân Hoa xã cung cấp. Nhờ những lớp học kiểu này mà trình độ nghiệp vụ cũng như nhận thức tư tưởng của anh em được nâng lên rất nhiều. Việc viết tin, bài nhờ đó cũng mang tính quy phạm hơn. Truyền thống này còn được duy trì cho đến nay. Đây cũng là mối quan hệ giữa Chính phủ kháng chiến với các nước nằm trong hệ thống xã hội chủ nghĩa nói chung, với Trung Quốc nói riêng được thắt chặt hơn bao giờ hết. Việc trao đổi thông tin nghiệp vụ giữa Thông tấn xã Việt Nam với  Tân Hoa xã cũng diễn ra tốt đẹp. Được sự đồng ý của Đảng và Chính phủ, Thông tấn xã Việt Nam đã bắt đầu thành lập các phân xã ở nước ngoài để nắm tình hình quốc tế một cách nhanh nhất. Phân xã nước ngoài đầu tiên của Thông tấn xã Việt Nam được đặt ở Bắc Kinh (1952) do đồng chí Ngô Điền phụ trách, là tiền đề cho hàng loạt phân xã nước ngoài khác sau này.
Trong suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp, hoạt động của Thông tấn xã Việt Nam diễn ra rầm rộ, năng động, nhất là vào thời điểm mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ. Trước quy mô lớn của chiến dịch hơn ai hết, các phóng viên tin tưởng rằng đây sẽ là trận đánh lớn cuối cùng, có ý nghĩa quyết định đến số phận của quân đội Pháp ở Đông Dương. Ai cũng muốn mình sẽ được ra chiến trường ngay trong đợt đầu. Nhận thức rõ tầm quan trọng của chiến dịch Điện Biên Phủ, Thông tấn xã Việt Nam đã cân nhắc lựa chọn những phóng viên có năng lực nhất do đồng chí Hoàng Tuấn (Giám đốc) làm trưởng nhóm đi theo bộ đội ra mặt trận, ở đâu có bom rơi, đạn nổ là ở đó có loạt các phóng viên của Thông tấn xã Việt Nam. Mọi tin tức đều được khẩn trương truyền về bằng tín hiệu morse cho các cơ quan trung ương và hệ thống báo chí. Bộ phận ở nhà cũng cố gắng cho ra tờ tin một cách nhanh nhất để khỏi phụ công của các đồng đội đang ngày đêm xông pha nơi chiến địa. Tính cập nhật tin tức của Thông tấn xã Việt Nam đã cổ vũ rất nhiều tinh thần chiến đấu của quân và dân ta. Ngày 9-5-1954, ngay trên nóc hầm chỉ huy của địch, phóng viên Thông tấn xã Việt Nam đã có bài tường thuật phát đi toàn thế giới, gây chấn động dư luận trong và ngoài nước.
 b) Hệ thống đài phát thanh trong kháng chiến chống Pháp
Vừa nhận được lệnh sơ tán, ngay trong đêm 19-12-1946, cán bộ, phóng viên, biên tập viên, kỹ thuật viên của Đài Tiếng nói Việt Nam đã tổ chức di chuyển toàn bộ trang thiết bị máy móc lên núi Trầm (Hà Tây). Do đã nhận được chỉ thị từ mấy tháng trước nên mọi việc diễn ra nhanh chóng, thuận lợi. Vừa đặt chân lên địa điểm mới được vài giờ, Đài đã phát sóng chương hình như thường lệ, tạo được bầu không khí tin tưởng, phấn khởi nơi khán thính giả. Cũng trong buổi phát sóng đó, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch vang vọng khắp núi sông, thắp lên ngọn lửa yêu nước hừng hực trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân.
Để bảo toàn lực lượng, đề phòng địch tấn công bất ngờ, lãnh đạo Đài Tiếng nói Việt Nam chủ trương sử dụng cùng lúc vài địa điểm dự phòng. Mỗi địa điểm này đều có các trang thiết bị có thể sử dụng được ngay khi cần đến, đảm bảo cho tiếng nói của Đảng và Nhà nước luôn thông suốt, liên tục, tuyệt đối tránh đứt đoạn ảnh hưởng không tốt đến tâm lý, tình cảm của nhân dân. Đời sống kháng chiến khó khăn về mọi mặt, không chỉ lo ăn, lo ở, cán bộ, chiến sĩ của Đài phải chạy đôn, chạy đáo khắp nơi để khai thác thông tin, đáp ứng sao cho đủ 3 buổi phát sóng hàng ngày. Tin tức trong nước lúc này rất thiếu. Mạng lưới thông tin viên trước đây giờ tản mát khắp nơi. Mối liên hệ giữa họ với đài không còn được đều đặn, thường xuyên. Kẻ thù lại luôn tìm cách bao vây, cắt đứt mọi tuyến giao thông giữa các địa phương, giữa vùng tạm chiếm với vùng tự do. Các cơ quan có nhiệm vụ cấp tin cho Đài trước đây như Nha Thông tin, Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam giờ cũng đang gặp khó khăn, chưa có điều kiện nối lại mối quan hệ. Tình hình này buộc Đài Tiếng nói Việt Nam phải chủ động sử dụng nguồn tin của đài địch hoặc của các hãng thông tấn có uy tín trên thế giới, rồi chế biến lại cho phù hợp với yêu cầu chính trị đặt ra, đáp ứng nhu cầu thông tin của bạn nghe đài. Bên cạnh đó, để lấp chỗ trống và cũng để tuyên truyền sâu rộng hơn quan điểm kháng chiến lâu dài của ta, Đài Tiếng nói Việt Nam trong thời gian này sử dụng nhiều thể loại bình luận về các vấn đề trong và ngoài nước. Tất nhiên, các hình thức thông tin này không thể kéo dài được lâu. Thính giả ngày nào cũng phải nghe vài bài bình hận về các vấn đề quá chung chung, không thiết thực với sinh hoạt hàng ngày của mình, dần cũng chán. Trong khi đó Đài Con Nhạn của thực dân Pháp đặt tại Hà Nội ngày nào cũng tố cáo Đài Tiếng nói Việt Nam đưa tin không chính xác, ''xào'' lại thông tin của họ. Uy tín của Đài Tiếng nói Việt Nam ít nhiều bị sụt giảm. Trước thực tế này, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã có chỉ thị: ''không nên bịa đặt những tin quá to làm cho dư luận ngoài sinh hoài nghi Đài phát thanh của ta”6. Đồng thời, Đảng cũng giao nhiệm vụ cho các địa phương phải có mối liên hệ chặt chẽ với Nha Thông tin, với Đài Tiếng nói Việt Nam, cung cấp đều đặn thông tin cho các cơ quan này bằng mọi giá: ''Các địa phương như Hải Phòng, Lạng Sơn, Sơn La, Lai Châu, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải Dương và các tỉnh miền Nam phải gửi về cho Nha Thông tin những tài liệu xác thực thuộc về nơi mình''. ''Các đồng chí trong Nha Thông tin Tuyên truyền trung ương và địa phương có nhiệm vụ cộng tác với các ban tuyên truyền các cấp của đoàn thể...”7. Nhờ khắc phục được ngay những yếu kém nói trên, Đài Tiếng nói Việt Nam đã mau chóng khẳng định lại được vị thế của mình, góp phần tạo niềm tin cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước, tin vào chiến thắng cuối cùng của lực lượng kháng chiến.
Cuộc chiến dai dẳng giữa ta và địch tại các vùng giáp ranh đã gây cho kẻ thù nhiều tổn thất nặng nề. Hơn ai hết, thực dân Pháp hiểu rõ một trong những nguyên nhân khiến chúng gặp nhiều thất bại liên quan trực tiếp đến Đài Tiếng nói Việt Nam. Việc tiêu diệt hệ thống phát thanh của ta được người Pháp coi như nhiệm vụ hàng đầu. Ngày 3-3-1947, Pháp đã đổ một lượng lớn quân hòng đánh úp hang núi Trầm. Do đã biết trước kế hoạch của địch, Đài Tiếng nói Việt Nam đã sơ tán kịp thời, không bị tổn hại đáng kể nào về vật chất. Trong đợt chạy giặc này, đồng chí Trần Kim Xuyến, một trong những người sáng lập Đài, đã hy sinh anh dũng.
Trong thời gian ở Trầm, Đài vẫn sử dụng câu danh xưng “Đây là Đài Tiếng nói Việt Nam, phát đi gần Hà Nội, Thủ đô nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa''. Câu danh xưng này có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nó tạo cảm giác gần gũi giữa thính giả với chính phủ kháng chiến. Người dân vùng tạm chiếm cũng cảm thấy Đảng, Bác Hồ luôn hiện diện bên mình. Đêm giao thừa của Tết kháng chiến đầu tiên (Đinh Hợi 1947), dù bận trăm công nghìn việc, Bác Hồ đã tới hang núi Trầm đọc thơ chúc Tết gửi tới đồng bào cả nước. Hành động này đã gây xúc động lớn trong toàn Đảng, toàn dân, thúc đẩy thêm quyết tâm chiến đấu bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc. Trong suốt 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, Đài Tiếng nói Việt Nam đã phải thay đổi chỗ ở tới 14 lần, qua khắp các tỉnh miền núi, trung du từ Sơn Tây đến Phú Thọ, Tuyên Quang, Bắc Cạn... Địch lùng sục ráo riết nên Đài chẳng ở đâu được lâu. Vừa đặt chân đến địa điểm mới Đài đã phải lập phương án cho địa điểm tiếp sau. Do vậy, cuộc sống của anh em hết sức khó khăn, thiếu thốn. Có thời gian dài, họ phải thay phiên nhau đi đào củ, săn bắn, hái rau dại trong rừng. Có người trong lúc đi xa kiếm lương thực cho cơ quan đã làm mồi cho thú dữ. Các căn bệnh của ''rừng thiêng nước độc'' như ngã nước, sốt rét đã không từ một ai trong khi thuốc men hầu như không có. Mọi gian khổ hy sinh không làm nản lòng các chiến sĩ ngày đêm đánh địch trên làn sóng điện, làm cho họ thêm vững vàng trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung.
Từ khoảng giữa năm 1949 trở đi, mọi hoạt động của Đài Tiếng nói Việt Nam diễn ra có chiều thuận lợi hơn. Do làm tốt công tác tăng gia sản xuất, nên đời sống vật chất của anh em cũng được bổ sung, mở rộng. Dù rất bận rộn, ai cũng cố gắng tham gia các lớp bồi dưỡng ngắn hạn khi có điều kiện. Tinh thần đoàn kết nội bộ luôn được thắt chặt đã tạo không khí phấn khởi tràn ngập cơ quan. Tinh thần này đã cổ vũ cho anh em phóng viên xông xáo đi về những nơi xa xôi, hẻo lánh hoặc nơi chiến địa để đưa tin, viết bài. Thông tin ào ạt về với những đề tài phong phú, đa dạng làm cho các chương trình phát sóng của Đài Tiếng nói Việt Nam ngày càng hấp dẫn, lôi cuốn thính giả. Chiến dịch Biên giới Thu - Đông 1950 kết thúc thắng lợi đã làm thay đổi cục diện chiến trường. Ta từ thế cầm cự chuyển sang phản công, đẩy địch vào thế lúng túng, bị động. Trên đà này, Đảng và Nhà nước đã lãnh đạo quân và dân ta mở hết chiến dịch này đến chiến dịch khác. Chiến thắng vang dội làm nức lòng cán bộ, phóng viên, biên tập viên, kỹ thuật viên của Đài. Mọi người thay phiên nhau trực máy, thi đua không bỏ sót tin tức nào, dù là nhỏ nhất. Để có được thông tin chính xác, kịp thời, Đài Tiếng nói Việt Nam luôn có kế hoạch cử phóng viên theo chân bộ đội đến những mặt trận khốc liệt nhất. Tin tức bằng mọi giá phải được chuyển về một cách nhanh nhất. Nhiều bản tin do Đài phát sóng đã kết thúc trong khi khói lửa trên chiến trường còn chưa tắt. Chất lượng thông tin của Đài Tiếng nói Việt Nam đã nhiều lần được Đảng, Nhà nước và bạn bè quốc tế gần xa đánh giá cao. Do hậu quả của các chế độ trước để lại, đời sống văn hóa của bà con nông dân nước ta còn hết sức lạc hậu. Các hủ tục như mê tín dị đoan, trọng nam khinh nữ, chế độ đa thê, tảo hôn tràn lan khắp nơi. Nạn nghiện hút, cờ bạc, trộm cắp hoành hành trong từng thôn xóm. Đây là những vấn nạn rất dễ ảnh hưởng lan rộng trong đạo đức, lối sống của cán bộ, chiến sĩ. Việc xây dựng đời sống văn hóa kháng chiến lành mạnh là mục tiêu hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta. Trước nhiệm vụ được giao, Đài Tiếng nói Việt Nam đã dành thời lượng khá lớn cho các chương trình văn hóa, giáo dục. Việc xây dựng hương ước, thực hiện nếp sống mới từ gia đình đến thôn xóm, cưới xin, tang ma giản dị, tiết kiệm, kêu gọi nhân dân tham gia các lớp bình dân học vụ... là những nội dung luôn được Đài tuyên truyền rộng rãi, được toàn dân hưởng ứng, làm theo. Đài cũng không ngần ngại vạch mặt, chỉ tên những phần tử chậm tiến, đề cao những tấm gương biết ăn năn hối cải trở về với lẽ phải. Đài Tiếng nói Việt Nam còn là một trong những cơ quan báo chí đầu tiên phát động phong trào thi đua xây dựng nếp sống mới giữa địa phương này với địa phương khác.
Thực hiện chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng là phải ''chú trọng tuyên truyền quốc tế”, ngay từ những ngày đầu thành lập, Đài Tiếng nói Việt Nam đã rất quan tâm đến việc xây dựng các chương trình phát bằng tiếng nước ngoài. Ngày l5-9-1945, Đài đã phát sóng chương trình thời sự bằng hai thứ tiếng Anh, Pháp với các hô ngữ còn được sử dụng đến nay là VNA (Vietnam News Agency) và AIV (Agence d'information du Vietnam). Mỗi chương trình này kéo dài khoảng 15 phút. Được bổ sung nhân lực, mấy hôm sau Đài thêm các chương trình tiếng Quảng Đông, tiếng Lào và quốc tế ngữ (Esperanto). Nhận thức rõ tầm quan trọng của các chương trình thời sự phát bằng tiếng nước ngoài, Đài Tiếng nói Việt Nam liên tục cải tiến để tăng buổi, tăng thời lượng. Tuy nhiên, do hoàn cảnh khó khăn thời chiến, trong ba năm đầu tồn tại, phát triển, Đài chủ yếu hoạt động nhờ các trang thiết bị của Pháp để lại, đã quá cũ kỹ lạc hậu. Máy phát chỉ có công suất từ 200 - 500W lại không được duy tu thường xuyên, không có linh kiện thay thế nên hoạt động của Đài rất khó giữ được thế ổn định, lâu dài. Sóng của Đài chỉ với tới được một số nước lân cận như Lào, một phần lãnh thổ Campuchia và Thái Lan nên hiệu quả tuyên truyền quốc tế chưa cao.
Mặc dù năm 1947, Trung ương Đảng đã có Chỉ thị ''Chú ý bổ sung và cải thiện kỹ thuật phát thanh và liên lạc để lợi cho việc thông tin tuyên truyền trong nước và ngoài nước'', nhưng phải đến cuối năm 1949 đầu năm 1950, khi nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được thành lập, biên giới giữa hai nước được mở rộng, ta mới có điều kiện nhập máy móc hiện đại. Với hệ thống máy phát chuyên dụng, sóng của Đài Tiếng nói Việt Nam đã đến được với hầu hết các nước trong khu vực, góp phần đắc lực tuyên truyền cho cuộc kháng chiến chính nghĩa của dân tộc ta trên thế giới, tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè năm châu, thực hiện tốt chủ trương của Đảng và Nhà nước ''kêu gọi nhân dân Pháp, các đoàn thể và các phần tử dân chủ Pháp, các dân tộc bị áp bức và lực lượng hòa bình dân chủ trên thế giới đồng tình với ta chống phản động Pháp'', ''tiếp tục vạch rõ mưu gian và chỗ bội nghĩa của Pháp và tính chất tự vệ chính đáng của cuộc kháng chiến của ta''...
IV. MỘT VÀI NHẬN XÉT, KẾT LUẬN
Giai đoạn 1945 - 1954 đã tạo nên một dấu ấn đặc biệt trong lịch sử Việt Nam. Trong khoảng chưa tròn hai mươi năm ấy, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân đã nhất tề đứng dậy làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám long trời, lở đất, giành lại chính quyền từ tay phát xít Nhật và thực dân Pháp, kết thúc đêm trường nô lệ 80 năm. Nhưng ngay sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, dân tộc ta đã bước vào một cuộc chiến đấu mới vô cùng gian khổ, ác liệt để làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ đánh bại toàn bộ quân xâm lược Pháp dưới sự bảo trợ của bọn can thiệp Mỹ. Đây cũng là thời kỳ báo chí cách mạng Việt Nam có bước phát triển mới, đóng góp xứng đáng vào chiến thắng chung của dân tộc.
Từ nhận thức đúng đắn về vai trò to lớn của báo chí trong tuyên truyền chính sách, giác ngộ, nâng cao trình độ nhận thức của nhân dân, động viên, cổ vũ toàn dân tộc tham gia kháng chiến, kiến quốc, Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch đã đặc biệt quan tâm chỉ đạo xây dựng hệ thống báo chí cách mạng công khai. Ngay sau ngày lễ Tuyên ngôn độc lập, dưới sự chỉ đạo của Hồ Chủ tịch, Thông tấn xã Việt Nam và Đài Tiếng nói Việt Nam đã ra đời. Đây là hai loại hình phương tiện báo chí đã tạo điều kiện đưa thông tin về cuộc đấu tranh chính nghĩa của dân tộc ta, vượt ra ngoài biên giới quốc gia, góp phần tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng hòa bình, tiến bộ trên thế giới.
Trong suốt toàn cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, báo, tạp chí, đài phát thanh đã bám sát thực tiễn cuộc sống, cùng chia sẻ gian khổ, hiểm nguy với nhân dân, bộ đội, phục vụ kịp thời các nhiệm vụ chính trị của cuộc kháng chiến. Trong chiến tranh ác liệt, mỗi dòng tin báo chí, mỗi tiếng nói trên Đài Tiếng nói Việt Nam trở thành vô cùng quý báu, có sức mạnh to lớn trong việc củng cố niềm tin, động viên, cổ vũ đồng bào, chiến sĩ - đặc biệt là nhân dân vùng địch hậu. Trong bài nói tại Đại hội lần thứ II Hội Nhà báo Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định vai trò của báo chí trong giai đoạn 1945 - 1954, đó là ''đã đóng góp vào cuộc kháng chiến thắng lợi”.
Kể từ sau ngày 19-12-1946, hệ thống báo chí của Đảng, Nhà nước, của Mặt trận Việt Minh, của các tổ chức, đảng phái yêu nước, của các cơ quan thuộc bộ máy quản lý chính quyền về cơ bản đã di chuyển lên các vùng chiến khu. Trong thời gian này, những người làm báo phải sống và làm việc trong môi trường rất nhiều khó khăn, thiếu thốn. Do phải sơ tán liên tục, hầu như mọi tờ báo đều sụt giảm số lượng bạn đọc. Vai trò của lực lượng cộng tác viên cũng bị suy giảm trầm trọng. Nhà báo lúc này không chỉ làm nhiệm vụ thông tin đơn thuần mà nhiều khi họ là những chiến sĩ thực thụ trực tiếp cầm súng ra trận, không ít người đã hy sinh anh dũng trên chiến trường. Trước sức o ép ngày càng khốc liệt của kẻ thù, các cơ quan báo chí phải tự tổ chức lại. Có những tờ nhận thấy vai trò của mình không còn phù hợp với thực tiễn cách mạng đã tự đóng cửa hoặc sáp nhập với tờ khác. Các tòa soạn đều sắp xếp lại nhân sự cho gọn nhẹ, cơ động, phù hợp với tình hình thời chiến.
Trong điều kiện chiến tranh, giao thông liên lạc không thuận lợi, tình hình chiến sự mỗi nơi mỗi khác, Đảng và Nhà nước ta chủ trương khuyến khích phát triển loại báo địa phương. Để hạn chế tính quan liêu cửa quyền của một số cơ quan quản lý, từ năm 1948, Chính phủ đã ban hành một số văn bản, giao quyền cho cấp Uỷ ban hành chính kháng chiến tỉnh, liên khu cấp phép, kiểm duyệt, hàng tháng chỉ phải làm báo cáo gửi lên Bộ Nội vụ. Cách điều phối này đã tạo điều kiện cho dòng báo chí địa phương phát triển mạnh mẽ. Tình hình này cũng, làm nảy sinh một số vấn đề. Do báo ra ngày càng nhiều, địa phương lại không có khả năng bao cấp, nên để có thể tự nuôi sống mình, một số báo đã có những biểu hiện cạnh tranh không lành mạnh, việc xử lý đánh giá thông tin không thống nhất, thậm chí có khi mâu thuẫn nhau. Có địa phương quá đề cao mình, coi hệ thống báo chí của mình là trên hết. Tờ nào cũng cố kéo các nhà lãnh đạo trung ương viết bài cho mình, nhiều khi chỉ để lấy tiếng chứ không hoàn toàn vì lợi ích địa phương. Vì hình thức, những tờ báo này cũng cố bắt chước ở các báo chí trung ương từ kiểu chữ, tên báo đến cách viết, đặt đề mục... Cách làm này lúc đầu cũng được bạn đọc chú ý, nhưng dần dần họ thấy nhàm chán vì tính đơn điệu của chúng.
Nhìn chung, từ đầu năm 1947, báo chí cách mạng thu hẹp dần số lượng. Tới năm 1952, cả nước chỉ còn hơn 50 tờ báo các loại. Số đầu báo tuy giảm nhưng đối tượng phục vụ lại được mở rộng. Chẳng hạn, báo Sự thật từ đầu năm 1948 trở đi không chỉ phục vụ cán bộ, đảng viên mà còn là tờ báo chung cho mọi tầng lớp nhân dân. Ngoài những bài có tính lý luận, tài liệu huấn luyện cán bộ, báo Sự thật còn rất coi trọng việc thông tin những vấn đề thời sự. Từ ngày lên chiến khu, nguồn cung cấp thông tin báo chí không còn được thuận lợi như trước. Các địa phương bị vây hãm, chia cắt làm cho thông tin, nếu có đến được với tờ báo nào đó thì cũng thường bị chậm, không ổn định, lúc có lúc không, Tin dành cho báo chí thời này chủ yếu lấy từ các nguồn như: Chính phủ, các ban ngành đoàn thể, đơn vị, các đài phát thanh trong và ngoài nước. Một số báo đã linh hoạt khai thác thông tin của báo, đài phương Tây đưa tin về những thất bại, tổn thất của họ trong một số chiến dịch, trận đánh. Ở một mức độ nhất định, cách làm này đã giúp báo chí đưa tin kịp thời và tăng giá trị chiến thắng của ta vì địch thừa nhận các thất bại của họ. Cách làm này góp phần kịp thời cổ vũ, động viên tinh thần kháng chiến của quân dân ta và làm cho người dân vùng tạm chiếm ngày càng tin tưởng nào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến. Trong những năm 1946 - 1954 do hoàn cảnh kháng chiến và nhiều nguyên nhân khác, báo chí cách mạng tại vùng chiến khu thường không bảo đảm đúng định kỳ và số trang ổn định. Một tờ tuần báo tuỳ theo tình hình, có thể tăng lên vài số một tuần, hoặc cũng có khi hàng tháng mới ra một số. Thông thường, một tờ báo thời kỳ này chỉ ra 4 trang, nhưng nếu cần thiết, để phục vụ mục tiêu tuyên truyền quan trọng, báo sẵn sàng ra hàng chục trang. Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, báo chí tư nhân cũng khá phát triển tại các vùng chiến khu. Mặc dù chúng thuộc về cá nhân (của các nhân sĩ, trí thức, tiểu tư sản thành thị) nhưng hầu hết các tờ báo này đều mang màu sắc yêu nước, ít nhất là có thiện cảm với các chủ trương, đường lối, chính sách của Mặt trận Việt Minh, đối lập với báo chí vùng tạm chiếm. Nói cách khác, ở các vùng tự do, thời gian này không có báo đối lập với chính quyền nhân dân. Đây là điều kiện hết sức thuận lợi cho công tác quản lý báo chí của Đảng và Nhà nước. Dù là báo tư nhân hay của chính quyền thì giữa chúng vẫn có một số điểm chung, thống nhất là ủng hộ triệt để nhiệm vụ kháng chiến, kiến quốc; chống kẻ thù ngoại xâm và chế độ phong kiến đến cùng; hướng tới một chế độ tự do, công bằng, văn minh.
Những nội dung trên đã đáp ứng được tâm tư, nguyện vọng của toàn dân, được nhân dân ủng hộ. Sức tác động của báo chí cách mạng giờ đây không chỉ bó hẹp trong các vùng tự do mà còn được mở rộng ra các vùng tạm chiếm lân cận, tới các thành phố lớn trong cả nước. Nhiều tờ báo tiến bộ trong vùng địch kiểm soát cũng tạm cách bày tỏ thiện chí đối với cuộc kháng chiến chống Pháp do Mặt trận Việt Minh phát động, phần nào bày tỏ được quan điểm yêu tự do của cả dân tộc. Nếu như vào những năm đầu của cuộc kháng chiến, báo chí cách mạng còn có những hạn chế về số lượng, chất lượng, chủ yếu tập trung tại các căn cứ Việt Bắc, Liên khu IV, Liên khu V, vùng Đồng Tháp Mười, thì từ những năm năm mươi, dòng báo chí này được mở rộng ra khắp cả nước, lấn át dần các đồng báo chí khác, lôi cuốn chúng đi theo mình, nếu không muốn hứng chịu sự thờ ơ, ghẻ lạnh của bạn đọc.
_________________
1.Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, tr.548.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.480.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.164.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.11, tr.199.
5. Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp – thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.202.
6,7. Đảng Cộng sản VIệt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.8, tr.202.