Thứ Năm, 10 tháng 5, 2012

Quan hệ Nhật Bản - Việt Nam 1954 - 1975


1. Quan hệ Nhật Bản - Việt Nam 1954 - 1975


Mối quan hệ Nhật Bản – Việt nam được hình thành từ thế kỉ XVI – XVII, trãi qua những bước thăng trầm ở các thế kỉ sau và đến những năm 90 của thế kỉ XX thì bước sang một  “tầm cao mới”. Trong bối cảnh chung như vậy, chúng tôi tập trung tìm hiểu bối cảnh quốc tế cũng như điều kiện lịch sử mỗi nước, những hình thức quan hệ giữa hai quốc gia, hai dân tộc Nhật Bản – Việt Nam từ 1954 – 1975.
1. Thất bại trong chiến tranh thế giới thứ hai, từ thắng 8 – 1945, Nhật Bản bị quân đội Đồng minh  - Hoa Kì chiếm đóng. Do bối cảnh quốc tế và khu vực khiến mỹ phải có những thay đổi trong chính sách đối với Nhật Bản.
Chiến tranh Triều Tiên (1950 – 1953) ảnh hưởng lớn, mở ra cục diện mới cho sự phát triển kinh tế Nhật Bản. Nhờ những đơn đặt hàng mua vật dụng quân sự, cơ sở phục vụ cho chiến tranh của Mỹ với hơn 4 tỉ USD, cùng trên 2 tỉ USD viện trợ của Mỹ trước đó giúp Nhật có điều kiện phát triển mạnh. Có thể nói, chiến tranh được ví như “ngọn gió thần thổi vào nền kinh tế Nhật Bản”[1]. Nhằm biến Nhật Bản tại vùng đệm chiến lược thành đồng minh trụ cột ở châu Á – Thái Bình Dương, Mỹ kí với Nhật Bản Hiệp định Xan Phrăngxicô (9 – 1951) và sau đó là Hiệp ước an ninh Mỹ  - Nhật (5 – 1952). Việc chiếm đóng Nhật Bản chấm dứt, Nhật trở thành nước độc lập. Năm 1954, Nhật Bản tham gia Ủy ban Viện trợ phát triển (DAC) do Mỹ cầm đầu, để làm cho các nước phụ thuộc vào Mỹ nhiều hơn. Năm 1956, Nhật Bản là thành viên của Liên hợp quốc. Chính sách đối ngoại của Nhật cơ bản lệ thuộc vào Mỹ, trở thành một bộ phận trong chiến lược toàn cầu của Mỹ.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, chính quyền Nhật Bản đã động viên được lòng tự trọng dân tộc, nghị lực, ý chí và tinh thần sáng tạo của nhân dân, đưa “cả dân tộc đônà kết một lòng để cải cách và xây dựng lại nền kinh tế”[2].
Trong thời kì chiến tranh xâm lược Việt Nam (1954 – 1975), Mỹ biến Nhật Bản thành căn cứ quân sự và cơ sở hậu cần, phục vụ cho mục đích quân sự - chính trị của Mỹ. “Cuộc chiến tranh Việt Nam “ được đánh giá là ngọn gió thần thứ hia thổi vào nền kinh tế Nhật Bản vì những đơn đặt hàng của Mỹ[3].
Từ năm 1965 đến năm 1972, đơn đặt hàng quân sự của Mỹ cho Nhật Bản đạt 4,5 tỉ USD. Từ năm 1965 – 1968, theo Viện nghiên cứu Nômura Sôgô thì Nhật Bản thu lợi trong chiến tranh Việt Nam là 1.369 triệu USD[4].
Từ cuối thập niên 60, đầu thập niên 70, trước những thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam, Mỹ phải tiến hành đàm phán và kí Hiệp định Pari với Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa (1973), đồng thời tích cực hòa hoãn với Trung Quốc.
Để ngăn chặn sự lạm phát trong “chiến tranh thương mại” với Nhật, Mỹ đã định lại giá trị đồng yên qui đổi (từ 360 xuống 308 yên /1USD), đánh thuế hàng nhập khẩu của Nhật vào Mỹ thêm 10%. Tiếp tục chiến dịch “ngoại giao bóng bàn”, Níchxơn bất ngờ đến thăm Trung Quốc và ra “Thông cáo Thượng Hải” (1972) mà không báo cho Nhật Bản biết, dù Nhật được coi là “Đồng minh số 1” của Mỹ ở châu Á. Những biện pháp về kinh tế, chính trị mà Níchxơn thực hiện đã gây cho Nhật Bản những hậu quả khá nặng nề, mà người Nhật thường gọi là “cú đòn Níchxơn” (Nison shock).
Tuy bị lệ thuộc vào Mỹ, nhưng bằng tiềm lực kinh tế của Mình, Nhật Bản cố gắng tăng cường tính chủ động trong quan hệ đối ngoại, khiến quan hệ Mỹ  - Nhật bị biến dạng về kinh tế và chính trị. Nhật Bnar đã thực hiện chính sách “Seikei Bunri” – tách vấn đề kinh tế ra khỏi vấn đề chính trị một cách tích cực hơn.
Lợi dụng áp lực của phong trào chống Mỹ can thiệp vào châu Á, bằng chính sách ngoại giao khôn khéo, Nhật Bản đã đòi Mỹ trả lại quần đảo Ôkinaoa (Okinaoa gồm 160 hòn đảo, diện tích 2.250 Km2). Nhật Bản cũng cố gắng giữa vị trí trung gian trách không để bị lôi kéo trực tiếp tham gia vào cuộc chiến tranh Việt Nam và có quan điểm mền dẻo hơn với Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Từ năm 1971, Nhật Bản đã có những cuộc gặp gỡ không chính thức với đại diện Việt Nam dân chủ cộng hòa tại Pari. Năm 1972, Trưởng phòng Đông Nam Á của Nhật sang Việt Nam để đàm phán, nhằm xúc tiến lập lại quan hệ đối ngoại giữa hai nước. Sau khi Hiệp định Pari được kí kết, thì 8 tháng sau – tháng 9 – 1973, Đại sứ lâm thời Nhật Bản đến Hà Nội. Nhật Bản là nước thứ 59 công nhận Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Quan hệ ngoại giao của Nhật Bản – Việt Nam được thiết lập tuy còn hạn chế về quy mô mức độ, nhưng đã thể hiện một nền ngoại giao bình đẳng, tạo cơ hội đối thoại trực tiếp mở ra một trang mới trong quan hệ hai nước.
Quan hệ kinh tế chính thức giữa hai nước trong thời kì này cũng chưa được thiết lập, mới có sự trao đổi hàng hóa thông thường. Giá trị xuất khẩu còn nhỏ bé: năm 1960 tổng kim ngạch đạt 16,1 triệu USD, năm 1965 là 15,3 triệu USD và năm 1970 là 11,3 triệu USD[5].
Thắng lợi của dân tộc ta trong đại thắng mùa xuân 1975 làm cho Nhật Bản càng nhận rõ vai trò Việt Nam trong khu vực cùng tiềm năng kinh tế của một đất nước thống nhất. Cùng với việc mở rộng quan hệ chính trị, tháng 10 – 1975, Nhật Bản đã viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam 8,5 tỉ Yên (thực chất là bồi thường chiến tranh lần hai) để nhập vật tư hàng hóa, máy móc phụ vụ cho công cuộc xây dựng đất nước. Cho đến trước khi xảy ra “vấn đề Capuchia” năm 1978, Nhật là nước tích cực viện trợ cho Việt Nam và Việt Nam cũng là nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên nhận viện trợ từ Nhật Bản. Kim ngạch buôn bán giữa hai nước tăng nhanh chóng: năm 1975 là 27,5 tỉ Yên, năm 1976 tăng lên 64 tỉ Yên, 1977 là 65,9 tỉ Yên.
2. Nếu như quan hệ chính phủ Nhật Bản – Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975 bị mối quan hệ giữa hai hệ thống đối lập nhau chi phối, thì mối quan hệ giữa các tổ chức phi chính phủ, quan hệ nhân dân hai nước phát triển mạnh mẽ vì trong lịch sử đã có mối quan hệ tốt đẹp.
Khi Nhật Bản đầu hàng Đồng minh (15 – 8 1945), nhiều sĩ quan, binh lính quân đội Thiên Hoàng choáng váng vì “lòng tin của họ vào số phận tổ quốc mình bị lung lay”[6]. Được chứng kiến cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, một số người cho rằng đã “tìm thấy con đường sống lại lý tưởng của mình” và tham gia vào cuộc đấu tranh này. Có “khoảng 400 sĩ quan và binh lính Nhật Bản đã tham gia vào Việt Minh[7]”. Họ được gọi là những “chiến sĩ Việt Nam mới”. Nhiều người đã đóng góp xương máu và mồ hôi trong công cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc từ sau 1954. Ghi nhận sự cống hiến của các “chiến sĩ Việt Nam mới”, Đảng và chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã trao tặng nhiều Huân chương Chiến thắng, Chiến sĩ, Huân chương lao động và Bằng khen của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam[8].
Theo chủ trương của Chính phủ hai nước, từ năm 1954 đến 1960, phần lớn các “chiến sĩ Việt Nam” đã hồi hương về Nhật Bản. họ lại tích cực tham gia phong trào đấu tranh ủng hộ nhân dân Việt Nam, làm nòng cốt trong tổ chức Hội hữu nghị Nhật – Việt, như ông Takeshi Sugiharna – người đầu tiên sáng lập Hôi hữu nghị Nhật – Việt OSAKA từ năm 1959, nay là Chủ tích Ban lãnh đạo Hội hữu nghị Nhật –Việt Osaka.
Từ năm 1954, các đảng phái đối lập và nhân dân tiến bộ Nhật Bản đã tích cực ủng hộ cuộc đấu tranh vì hòa bình độc lập của nhân dân Việt Nam, kịch liệt phản đối chính phủ Nhật đặt quan hệ ngoại giao và bồi thường riêng rẽ cho ngụy quyền miền Nam. Ủy ban phản đối bồi thường, gồm 15 đoàn thể hợp thành cùng nhiều tổ chức, công ty có quan hệ buôn bán với Việt Nam dân chủ cộng hòa, đấu tranh đòi Quốc hội không được thông qua Hiệp định bồi thường cho chính quyền Sài Gòn. Họ khẳng định đây là sự bất công, vì sự tàn phá do chiến tranh đối với miền Nam không đáng kể (“bằng ba con gà thép” – Ni Watorissanba) mà “nạn đói năm 1945 ở Việt Nam” và những hậu quả nặng nề mà nhân dân miền Bắc phải gánh chịu trong thời gian 1940 – 1945 mới nặng nề to lớn. Tuy Hiệp định được phê chuẩn, nhưng Ngoại trưởng Nhật Ôhira phải cam kết trước Quốc hội là viện trợ của Nhật cho chính quyền Sìa Gòn “không mang tính chất quân sự”[9], chỉ là hàng hóa tiêu dùng và “công cụ sản xuất”.
Khi đế quốc Mỹ tăng cường can thiệp và mở rộng chiến tranh xâm lược Việt nam, phong trào đấu tranh của nhân dân Nhật ủng hộ Việt Nam bùng lên mạnh mẽ. Nổi bật là cuộc mít tinh ngày 9-6-1963, thu hút tới 3 triệu người trong cả nước tham gia.
Khi Mỹ tiến hành chiến tranh bằng không quân ra miền Bắc (5-8-1964) và trực tiếp tham chiến ở miền Nam thì phong trào đấu tranh chống Mỹ, ủng hộ Việt Nam nổi lên mạnh mẽ. Phong trào do Đảng Cộng sản, các lực lượng cánh tả và nhân dân yêu chuộng hòa bình, tiến bộ ở Nhật tổ chức, diễn ra liên tục với những hình thức và nội dung phong phú về tinh thần cũng như vật chất.
Trong thời gian này, nhiều tổ chức quần chúng đã được thành lập để xúc tiến việc giao lưu với Việt Nam[10].
Ngày 19 – 5 – 1965, Ủy ban Nhật Bản – Việt Nam được thành lập. Cùng với Hội hữu nghị  Nhật – Việt, Ủy ban là trung tâm của phong trào ủng hộ Việt Nam.
Ngày 13 – 2- 1966, Ủy ban điều tra tội ác chiến tranh của Nhật Bản được thành lập và tổ chức nhiều đợt sang Việt nam điều tra và phối hợp với các tổ chức quốc tế tố cáo tội ác chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam.
Các báo, như “Akahata”, hãng truyền hình NDN của Nhật đã cử phóng viên thường trú sang Hà Nội, đưa nhiều tin tức sốt dẻo, kịp thời về cuộc chiến tranh chống Mỹ của nhân dân ta. Chỉ từ ngày 5 – 8 đến 2 – 9 – 1964, nhiều cuộc mít tinh, biểu tình được tổ chức tại 14 tỉnh và 10 thành phố, riêng ở Tokyo có 29 cuộc. Ngày 31 – 5 – 1965, các tổ chức cách tả huy động lấy 40 triệu chữ ký, phản đối Mỹ tiến hành chiến tranh ở Việt Nam. Từ năm 1965 đến 1968, có hơn 20 triệu lượt người tham gia mít tinh chống Mỹ. Nhiều người như Kaneko, Oki, Matxuhara và Takahasi, trong số nhiều năm đã luôn đeo trước người khẩu hiệu phản đối Mỹ xâm lược Việt nam. Khi thủ tướng Sato lên đường sang thăm miền Nam Việt Nam (21 – 10 – 1967) thì “những cuộc biểu tình khổng lồ” đã xảy ra tại phi trường Haneda. Cuộc biểu tình bị đàn áp, một số người chết, một số người bị thương[11]. Cụ Jui Chunoshin, 73 tuổi đã tự thiêu trước dinh Thủ tướng Nhật Bản vào 17 giờ ngày 11 – 11 – 1967. Cụ đã để lại hai bức thư phản đối gửi Thủ tướng Sato và tổng thống Mỹ Johnson. Trong bức thư gửi L.B.Johnson, cụ viết: “Mặc dù tôi biết trước là ông chẳng bao giờ chịu lắng nghe những tiếng nói nhỏ bé như tiếng nói của tôi, song giờ đây tôi không thể không nhắc nhở lương tâm ông về những hành động ghê tởm, vô nhân đạo của ông ở Việt Nam, về việc leo thang chiến tranh không chỉ ở miền Nam mà còn ở miền Bắc Việt nam. Trước hết, tôi tuyên bố rằng tôi không phải là người cộng sản, để ông khỏi cho rằng ý kiến của tôi là ý kiến cộng sản. Tôi nhấn mạnh điều đó, bởi vì khuynh hướng người Mỹ gọi mọi người là “cộng sản” khi họ chống lại chính sách của Mỹ hoặc thúc đẩy phong trào hòa bình...
Tôi cực lực phản đối thái độ tiêu cực của Thủ tướng Nhật và đòi ông chấm dứt ngay và không điều kiện việc ném bom miền Bắc Việt Nam…
“Có thể có người sẽ cười nhạo tôi về việc tự thiêu này, bởi vì tôi không phải là người Mỹ cũng chẳng phải là người Việt nam mà là người của một nước thứ ba. Song tôi chắc chắn rằng những ai mong muốn hòa bình thế giới và giải pháp nhanh chóng cho vấn đề Việt nam, sẽ không coi cái chết của tôi là vô ích[12]
Lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm, đặc biệt là cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta, Đảng Cộng sản Việt Nam và lãnh tụ Hồ Chí Minh là những chủ đề nổi bật và được các nhà trí thức tiến bộ Nhật Bản, nhất là các nhà sử học Nhật Bản đã tập trung nghiên cứu và công bố nhiều công trình có giá trị. Công lao đó thuộc về các nhà nghiên cứu lão thành như GS. Yamato Tatsuro, Kawamato Kunie.
Giáo sư Kunie đã xuất bản hàng chục công trình nghiên cứu về lịch sử Việt Nam và nhà yêu nước Phan Bội Châu. Với tấm lòng kính mến đối với chủ tịch Hồ Chí minh, sau hai đợt sang thăm Việt Nam (1970 và 1976). Giáo sư Kunie đã viết nhiều bài giới thiệu về Người. Giáo sư Yamato Tatsuro và Kawamato Kunie là những người đã góp phần đào tạo nhiều nhà Việt Nam học của Nhật Bản.
Nhiều tác phẩm viết về Chut tịch Hồ chí minh của Naxaka Xanđo (Chủ tịch Đảng cộng sản Nhật Bản) đã được xuất bản. Các nhà khoa học đã tổ chức thành “Hội nghiên cứu Hồ Chí Minh” và “Ban nghiên cứu Đảng lao động Việt Nam” (Thuộc Hội hữu nghị Nhật – Việt và Đảng Cộng sản Nhật). Thế hệ Việt Nam học thứ ba ở Nhật cũng được hình thành còn được gọi là “thế hệ chiến tranh Việt Nam”. Ngày nay, nhiều đã trở thành những nhà Việt Nam học xuất sắc ở Nhật như Sakurai Yumio, Masaya Shiraisi, Furuta Moto...Họ là giáo sư các trường đại học lớn của Nhật Bản như Đại học Quốc gia Tookyo, Kyoto, Yakohama...
Không chỉ dừng lại ở việc ủng hộ về chính trị, tinh thần, mà nhân dân nhật bản còn tổ chức nhiều phong trào quyên góp ủng hộ nhân dân Việt Nam về vật chất. Nhiều đợt hoạt động quyên góp như: “Tháng ủng hộ bà mẹ, trẻ em Việt Nam” để xây dựng bện viện Nguyễn Văn Trỗi; phong trào quyên góp 100 triệu – 200 triệu yên ủng hộ nhân dân Việt Nam để mua thuốc men và dụng cụ y tế...Từ năm 1966 đến 1975, nhân dân Nhật Bản được khoảng 700 triệu yên[13] để mua hàng hóa và tổ chức 11 chuyến tàu chở sang Việt Nam. Nhật Bản là nước có phong trào đấu tranh và ủng hộ nhân dân Việt Nam đấu tranh chống Mỹ (về vật chất và tinh thần) cao nhất trong các nước tư bản.
Nhìn chung, từ năm 1954 – 1975, do bối cảnh quốc tế và điều kiện lịch sử mỗi nước mà quan hệ Nhật Bản và Việt Nam đã diễn ra rất tế nhị, phức tạp. Do hai nước thuộc về hai hệ thống chính trị đối lập nhau nên quan hệ Nhật – Việt trong thời kì này “mang tính chất quan hệ hai nước bốn bên[14]”. Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, nhật bị lệ thuộc vào Mỹ nên đặt quan hệ và bồi thường riêng rẽ cho chính quyền Sài Gòn. Tuy “tuân theo Mỹ”, nhưng chính quyền Nhật Bản cố gắng tránh dính líu trực tiếp vào cuộc chiến tranh Việt Nam, và trên thực tế nhật Bản chỉ “ủng hộ Mỹ về chính trị, chia sẻ gánh nặng về kinh tế, giúp đỡ Mỹ tích cực về hậu cần, nhưng kiên quyết tránh dính líu với Mỹ về quân sự và chỉ lợi dụng về cuộc chiến tranh này để kiếm lợi[15]”.
Quan hệ chính thức hai nước tuy phát triển chậm, nhưng mối quan hệ giữa nhân dân Nhật Bản và Việt Nam phát triển mạnh mẽ. Phong trào nhân dân Nhật Bản ủng hộ, đoàn kết với Việt Nam chống Mỹ đã diễn ra liên tục, kịp thời với nhiều hình thức đấu tranh phong phú và đã thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia. Nó là nhịp cầu hữu nghị nối tiếp quan hệ truyền thống tốt đẹp và làm cơ sở vững chắc cho quan hệ giữa hai nước Nhât Bản – Việt Nam ngày nay bước vào tầm cao mới.
TS. Trịnh Tiến Thuận
Khoa Lịch sử, Trường ĐHSP TP Hồ Chí Minh

[1] Phan Ngọc Liên (Chủ biên), Lịch sử Nhật Bản, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, 1995, tr.236 – 242.
[2] Athur M.Vhitehill, Quản lý Nhật Bản truyền thống và quá độ, Trung Tâm Nghiên cứu Nhật Bản, Hà Nội, 1996, tr.48.
[3] Phan Ngọc Liên (Chủ biên), Lịch sử Nhật Bản, sđd, tr.236 – 242.

[4] Masaya Shiraishi, Quan hệ Việt Nam – Nhật Bản 1951 – 1987, Nxb Khoa học xã hội, H, 1994, tr.73.
[5] Vũ Hà, Những xu hướng mới trong quan hệ Nhật Bản – Việt nam, Tạp chí nghiên cứu Nhật Bản, số 2 – 1995, tr.12.
[6] Furuta Moto, Oka Kazuaki, Từ binh lính quân đội Thiêng Hoàng đến chiến sĩ Việt Minh – Vài nét về nhừng người Nhật Bản tham gia Việt Minh, trong quyển “Cách mạng tháng Tám một số vấn đề lịch sử” (Văn Tạo – Chủ biên), Nxb Khoa học Xã hội, H, 1995, tr.314 – 315.
[7]  Furuta Moto, Oka Kazuaki, Sđd, tr.314 – 315.
[8] Vũ Hà, sđd, tr.58 – 59..

[9] Việc bồi thường chiến tranh và đầu tư của Nhật Bản vào miền nam Việt nam (1954 – 1975), tr.3.
[10] Hoàng Nhật, 30 năm Hội hữu nghị Việt Nam – Nhật Bản, Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản, số 4 – 1995, tr.12.
[11] Phạm Lương Giang, Nền bang giao Việt – Nhật, tạp chí Bách khoa thời đại, 11 – 1967, tr.9.
[12] Báo Quân đội nhân dân, ngày 21 – 11 – 1992.
[13] Phong trào đấu tranh của nhân dân Nhật Bản ủng hộ Việt Nam chống Mỹ (1954 – 1975).
[14] Hà Hồng Hải, Sự thăng trầm quan hệ Việt – Nhật, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, số 3, tr.23.
[15] Việc bồi thường chiến tranh và đầu tư của Nhật bản vào miền Nam Việt nam (1954 – 1975), tr.3.



2. Những nguyên nhân tạo sự thần kì kinh tế Nhật Bản được hình thành từ các cuộc cải cách dân chủ sau chiến tranh thế giớ hai

Sau khi đã loại trừ những yếu tố về điều kiện quốc tế, khoa học kỹ thuật, những di sản trước chiến tranh, chi phí quốc phòng ít ỏi và những yếu tố thuộc về truyến thống con người Nhật Bản. Trên cơ sở tổng hợp phân tích, những nguyên nhân của các nhà nghiêncứu nói trên, phân tích những tác động ảnh hưởng của các cuộc cải cách dân chủ sau chiến tranh, bài viết cho thấy những nguyên nhân còn lại đều trực tiếp hoặc gián tiếp được xuất hiện từ trong cuộc cải cách dân chủ sau chiến tranh.
Tuy nhiên,  trong mức độ cho phép bài viết chỉ trình bày những nguyên nhân trực tiếp được hình thành trong các cuộc cải cách sau chiến tranh và tác động của nó đối với sự tăng trưởng kinh tế  Nhật Bản giai đoạn sau đó.
1. Cải cách kinh tế
* Công cuộc cải cách kinh tế được bắt đầu ngay sau khi chiến tranh kết thúc đã có tác dụng to lớn đến sự phát triển kinh tế Nhật Bản sau này. Cải cách ruộng đất được coi là cải cách quan trọng nhất và đạt hiệu quả cao nhất trong các cuộc cải cách kinh tế với mục tiêu "xoá bỏ những trở ngại kinh tế nhằm khắc phục và củng cố các thiên hướng dân chủ để phá bỏ sự kìm hãm kinh tế vốn đoạ đày người nông dân Nhật Bản trong nhiều thế kỷ áp bức phong kiến". Đạo luật cải cách ruộng đất ban bố ngày 11/10/1946, với nội dung là nghiêm khắc với đối tượng mua đất, lập các uỷ ban ruộng đất, đề ra các phưng thức mua đất, cách thanh toán và qui định về địa chủ vắng mặt. Cuộc cải cách này được thực hiện khá cương quyết từ năm 1946 đến năm 1950 dưới sự chỉ đạo chặt chẽ của lực lượng chiếm đóng. Tính đến 1948, số lượng đất chính phủ mua lên đến 163.000 hecta thực hiện liên tiếp trong 10 lần. Diện tích phát canh tính đến tháng 8/1950 chỉ còn 10%. Địa chủ vắng mặt* đã bị xoá bỏ; 80 đến 90% đất của họ đã bị chuyển nhượng cho tá điền; khoảng 70 đến 80% số ruộng đất cho thuê hoặc canh tác của địa chủ làng xã đã bị chuyển nhượng cho nông dân. Nhiều nhà chính trị, chính khách và nghiên cứu Nhật Bản trong và ngoài nước đánh giá cao những thành tựu của chương trình cải cách ruộng đất. Toshino Kawa Goe cho rằng cải cách ruộng đất Nhật Bản giai đoạn sau chiến tranh được coi là "Ví dụ về thành tựu lịch sử của cải cách ruộng đất trong nông nghiệp". Tác động của cuộc cải cách ruộng đất rất to lớn đối với ý nghĩa phát triển kinh tế Nhật Bản. Vì ruộng đất ở nông thôn Nhật Bản đã bị xoá bỏ, xoá bỏ luôn cả tàn dư phong kiến của nền nông nghiệp Nhật Bản và từ đó làm tan rã chế độ đẳng cấp ở nông thôn 4 làm thay đổi hẳn trật tự xã hội nông thôn. Điều này tạo ra sự phân phối tài sản và thu nhập bình đẳng hơn. Sau khi quyền sở hữu ruộng đất đã được chuyển nhượng nông dân đã tiến hành cải tạo ruộng đất gieo trồng, tích cực áp dụng kỹ thuật canh tác mới, tăng năng suất lao động nông nghiệp. Những tiến bộ kỹ thuật trong việc trồng lúa và thu nhập của nông dân cũng đã góp phần mở rộng đáng kể thị trường trong nước.
Cùng với hàng loạt chương trình "cải cách nông thôn", cải cách ruộng đất đã không chỉ trực tiếp mà gián tiếp làm thay đổi toàn bộ chiều hướng phát triển của làng xã Nhật Bản.
* Giải thể các công ty lũng đoạn Zaibatsu cũng là một nội dung quan trọng của cải cách kinh tế và tác động lớn đến sự thần kỳ Nhật Bản. Việc giải thể này nhằm giải tán các tập đoàn tài phiệt theo quan hệ gia tộc mang tính phong kiến.
Sự tập trung công nghiệp vào một số Zaibatsu "gây ra quan hệ nửa phong kiến giữa chủ, thợ và kìm hãm tiền lương, cản trở sự phát triển công đoàn". Nhằm thực hiện giải thể  Zaibatsu, lực lượng Đồng minh đã lập ra ủy ban giải quyết vấn đề công ty cổ phần. Do đó 57 gia đình  Zaibatsu phải giao nộp tài sản tổng cộng lên đến 233 triệu cổ phần và bán cổ phần này cho nhiều công ty, hiệp hội. Những tập đoàn tài phiệt lớn: Mitsuibishi, Sumitomo, Yasuda đã bị giải thể. Nhờ vậy, những công ty chịu sự kiểm soát  của chúng đã được độc lập loại trừ sự chi phối và sức mạnh của các cá nhân và các gia tộc Zaibatsu. Việc giải thể phần lớn các công ty khổng lồ trong các ngành công nghiệp chủ chốt của Nhật như thép, đóng tàu... đã làm thay đổi hoàn toàn bản đồ công nghiệp của Nhật Bản. Nhiều nhà kinh tế đã đánh giá việc gii thể các Zaibatsu góp phần vào việc xoá bỏ tình trạng  tập trung kinh tế, thiết lập một khuôn khổ cạnh tranh 7 và giúp cho nền kinh tế Nhật Bản phát triển mạnh. Việc thanh lọc kinh tế đã loại bỏ trong thực tế 1.535 người ở 295 công ty, có tư tưởng quân phiệt, hiếu chiến 8 tạo cơ hội cho các nhà quản lý trẻ tuổi, năng động, táo bạo, phát huy tốt chức năng "thuyền trưởng mới" của các ngành công nghiệp. Do đó, nền kinh tế Nhật Bản có điều kiện lấy lại sức sống của nó.
* Cùng với các cải cách dân chủ khác, việc thực hiện ngay cuộc cải cách lao động của Nhật Bản sau chiến tranh nhằm ngăn chặn phục hồi quân phiệt, nâng cao tự do và đời sống vật chất cho nhân dân. Trong những năm 1945 - 1951 các cuộc cải cách lao động được thể hiện chủ yếu dưới hình thức đòi cải thiện quan hệ chủ, thợ trong xí nghiệp, công ty, đề cao tự do, dân chủ, nâng cao đời sống vật chất cho công nhân tạo nên mối quan hệ mới có lợi cho sự phục hồi và phát triển kinh tế.
Những cải cách lao động được thực hiện thông qua các luật công đoàn lao động được ban bố trong những năm này. Trên cơ sở đó, phong trào công nhân phát triển nhanh chóng, số lượng đoàn viên tăng mạnh mẽ. Cải cách công đoàn và nhiều nội dung thể hiện trong cải cách tăng cường quan hệ hợp tác chủ thợ (sẽ nói phần sau), góp phần tạo ra năng suất lao động cao và khả năng cạnh tranh vào cuối thập kỷ 50 và các giai đoạn lịch sử sau đó của Nhật Bản.
2. Những nhà kinh doanh tích cực
Một trong những nguyên nhân quan trọng giúp cho nền kinh tế Nhật Bản phát triển mạnh sau chiến tranh là các nhà kinh doanh xí nghiệp đã tỏ rõ năng lực kinh doanh tích cực. Điều này được hình thành mạnh mẽ nhất trong các cuộc cải cách: thanh trừng chính trị, gii thể Zaibatsu, thanh lọc kinh tế, qua đó đã tạo ra lực lượng nhà kinh doanh có tư tưởng năng động, sáng tạo, táo bạo, tích cực trong kinh doanh là nền tảng cho sự tăng trưởng kinh tế Nhật Bản. Sau khi lấy lại tinh thần do tình trạng chiến tranh mang lại dưới tác động của các cuộc cải cách kinh tế, các tổ chức kinh tế tư nhân Nhật Bản được thành lập khắp nơi với quyết tâm phát triển kinh tế, tổ chức lại các hoạt động kinh tế, làm cho cỗ máy kinh tế vận hành. Tháng 4 năm 1946, Hội đồng hữu kinh tế (Keizai Doyukai - tổ chức của các nhà kinh doanh) đã được thành lập với quyết tâm của những nhà kinh doanh dưới 50 tuổi như: Kanichi Mori, Otsuka...Họ đã phê phán những nhà kinh doanh lỗi thời không chịu tuân  thủ nguyên tắc dân chủ hoá chiến  tranh và phong trào cùng công nhân quá khích, tuyên bố xác lập vị trí riêng của tổ chức mình, phân chia ranh giới giữa tư bản và kinh doanh... trong đó dựa vào sự thỏa hiệp giữa chủ và thợ. Nhiều hội viên của tổ chức này khá cao tuổi, Có người gọi đó là "Hội kinh tế của những người già". Sau đó liên tục có nhiều tổ chức những nhà kinh tế trẻ, ví dụ: tháng 8/1946, Keidansen (Liên đoàn các tổ chức kinh tế Nhật Bản); năm 1948, thành lập Mikeiren (Liên đoàn các tổ chức kinh doanh Nhật Bản) nhằm đối phó lại phong trào công đoàn đang lên, kêu gọi, xác lập và giữ vững quyền kinh doanh của mình.
Những nhà kinh doanh tích cực của Nhật Bản thời kỳ sau chiến tranh thế giới có thể chia thành 3 loại:
+ Những nhà kinh doanh trẻ được đề bạt thay thế các nhà lãnh đạo xí nghiệp hàng đầu đã bị loại bỏ chức vụ thông qua các cuộc giải thể Zaibatsu và thanh lọc kinh tế. Đây là lực lượng các nhà kinh doanh có tư tưởng dân chủ, hoà bình và năng động phát triển kinh tế. Ví  dụ: Chikara Karuta (hãng chế tạo Hitachi), Ishisaka (xí nghiệp đồ điện Toshiba), Nishiyama (hàng sắt thép Kawasaki).
+ Những nhà doanh nghiệp mới nổi lên sau chiến tranh. Các xí nghiệp trung tiểu trước chiến  tranh, chớp thời cơ lợi dụng cơ chế tự do cạnh tranh do việc giải thể các tập  đoàn tài phiệt quá lớn sau chiến tranh để vượt lên kinh doanh, trở thành các công ty lớn dưới sự lãnh đạo của các nhà kinh doanh lớn mới nổi lên. Ví dụ: Konosuke Matsu (công ty điện Matushita), Sazo Idemitsu (Idemitsu Hunsan), Shojiro Ishibashi (hãng sản xuất lốp xe Bridgestone)
+ Loại thứ 3 các nhà kinh doanh mới nổi lên sau chiến tranh. Ví dụ: Oh Ibuka (Soni), Tsuyoshi Mitarai (Canon)...
Thời cơ sau Chiến tranh Thế giới thứ II dưới tác động của các cuộc cải cách trên mọi lĩnh vực (thanh lọc chính  trị, kinh tế, hiến pháp mới ban hành) đã tạo điều kiện cho hàng loạt các nhà kinh doanh tích cực thử sức mình và thi thố tài năng của họ. Sự cạnh tranh gay gắt giữa các xí nghiệp do các tập đoàn tài phiệt bị giải thể và bầu không khí tự do sau chiến tranh là mảnh đất tốt cho sự ra đời các nhà doanh nghiệp mới. Điều đầu tiên mà các nhà doanh nghiệp đó đã làm là mạnh dạn chuyển đổi các ngành công nghiệp phù hợp, hoà bình và phục hồi đời sống, xây dựng kinh tế cho nhân dân. Họ có tinh thần đi tiên phong đổi mới kỹ thuật chủ yếu từ Mỹ và phương Tây và cải biến nó để tạo ra những sản phẩm mới tốt hơn, đẹp hơn và giá hạ hơn. Họ tiếp tục cải cách đầu tư thiết bị, đó là nguồn gốc sức mạnh chủ yếu để kinh tế Nhật Bản có thể thích ứng được môi trường kinh tế sau chiến tranh. Đó là phương pháp kinh doanh cải cách mà các nhà kinh doanh trước đó rất ít thấy. Ví dụ: 1951, Công ty Toyo Rayon nhân việc có sự tranh chấp về vấn đề xâm phạm bí quyết kỹ thuật với Công ty Ruybon của Mỹ, đã quyết định du nhập kỹ thuật sản xuất Nilon 66 sử dụng bí quyết kỹ thuật. Quyết định táo bạo đó trở thành nguồn gốc cho sự phát triển tơ sợi  tổng hợp ở Nhật Bản thời kỳ sau đó. Năm 1953, Hãng Sony đã quyết định mua kỹ thuật bán dẫn (Transistor) của Hãng Western Electronic và đã thành công trong việc sản xuất đài bán dẫn (Transistor Radio).
Cùng với lực lượng các nhà kinh doanh tích cực, họ có nhiệm vụ hướng dẫn hành chính, hoạch định kế hoạch, hình thành mục tiêu đạt tới trong tương lai. Với bản tính tài ba, năng động, sáng tạo và liêm khiết, bộ máy quan chức Nhật Bản cũng đã chịu sự tác động trực tiếp và gián tiếp của cải cách dân chủ sau chiến tranh một trong những chìa khoá tạo sự tăng trưởng Nhật Bản sau chiến tranh.
3. Lực lượng lao động ưu tú
Trên cơ sở những điều kiện quốc tế  và trong nước sau chiến tranh, dưới tác động của hàng loạt các cuộc cải cách dân chủ: cải cách kinh tế, cải cách hiến pháp, cải cách lao động, cải cách giáo dục văn hoá xã hội khác, lực lượng lao động Nhật Bản đã có điều kiện, cơ hội đóng góp có hiệu quả vào thời kỳ tăng trưởng kinh tế cao của Nhật Bản sau chiến tranh.
Sau chiến tranh, Nhật Bản có một lợi thế là nguồn lao động dồi dào. Chiến tranh kết thúc, dân số Nhật Bản tăng thêm 10 triệu người: từ các thuộc địa trở về, binh lính giải ngũ và sự gia tăng dân số. Nguồn cung cấp lao động lúc đó là quá dư thừa và họ sẵn sàng làm việc với đồng lương rẻ mạt. Nhưng dù đồng lương thấp đến mức nào mà chất lượng lao động kém, năng suất lao động thấp thì cũng không thể có giá trị thặng dư. Nhật Bản không ở trong trường hợp đó, mặc dù số lượng dân số bùng nổ rất đông và hàng loạt những khó khăn vô kể sau chiến tranh nhưng phần lớn lao động ở Nhật Bản có trình độ giáo dục cao, được đào tạo về kỹ năng lao động, cần cù, chịu khó và trung thành với các xí nghiệp. Đó là những yếu tố rất có lợi cho Nhật Bản để tăng trưởng kinh tế. Dưới tác động mạnh mẽ của các cải cách đã tác động trực tiếp đến lực lượng lao động này. Cải cách hiến pháp cho phép mọi người công dân đều có quyền tự do, dân chủ, nam nữ có quyền ngang nhau; cải cách kinh tế tạo điều kiện cho cơ chế tự do cạnh tranh, cơ hội phát triển kinh tế; cải cách giáo dục đã loại bỏ tư tưởng quân phiệt hiếu chiến ra khỏi nhà trường, thổi vào tư tưởng hoà bình xây dựng kinh tế, tạo mọi cơ hội áp dụng thành tựu giáo dục phương Tây hiện đại vào Nhật Bản. Đặc biệt với hàng loạt các chính sách văn hoá xã hội như: hạn chế gia tăng dân số, đạo luật về cải cách giáo dục đã tạo điều kiện đảm bảo đến những năm 1970 có đủ lực lượng lao động ưu tú cho thời kỳ "cất cánh" của Nhật Bản.
Cùng với những cải cách dân chủ trong các lĩnh vực khác, cải cách giáo dục, cải cách chính trị, văn hoá xã hội Nhật Bản sau chiến tranh thực sự có tác dụng to lớn trong tiến trình phát triển lịch sử Nhật Bản. Nó đóng góp đắc lực xoá bỏ những tàn tích phong kiến, loại bỏ tư tưởng quân phiệt và những hạn chế khác trong hệ thống giáo dục cũ của Nhật Bản và thổi vào xã hội Nhật Bản một xu hướng mới dân chủ tự do. Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc những thành tựu tinh hoa của nền giáo dục truyền thống Nhật Bản trước và trong thời kỳ Minh Trị, kết hợp với những xu hướng mới trong cải cách giáo dục... các cải cách chính trị, xã hội Nhật Bản có công lao to lớn trong việc đào tạo thế hệ con người mới sau chiến tranh. Họ là những con người có năng lực chuyên môn phục vụ cho mục đích kinh tế, xây dựng nền dân chủ, phát triển khoa học kỹ thuật, đáp ứng nhu cầu hiện đại hoá ngày càng cao của đất nước trong xu thế hoà bình, hợp tác cùng phát triển của thế giới.
4. Hợp tác chủ - thợ
Theo nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới, ở Nhật Bản khác hẳn các nước công nghiệp tiêu biểu Tây Âu và Mỹ trong mối quan hệ chủ - thợ, góp phần tích cực cho sự phát triển kinh tế của Nhật Bản giai đoạn sau chiến tranh. Ngoài những lý do về yếu tố truyền thống cơ sở xã hội, ý tưởng đạo đức phong kiến đạo Khổng còn rơi rớt lại thì rõ ràng tính chất tập thể đặc thù hợp tác chủ - thợ chủ yếu được xuất hiện dưới tác động của các cuộc cải cách sau chiến tranh tạo nên nguyên nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế giai đoạn sau đó.
Trước Chiến tranh Thế giới II, quan hệ công nhân và giới chủ ở Nhật Bản phổ biến không phải là quan hệ hợp đồng mà là quan hệ phụ thuộc gần như quan hệ của nông dân và chủ phong kiến, hình thành chế độ làm thuê "bán mình". Công nhân không có quyền hành, thiếu tổ chức và chịu theo mệnh lệnh của chủ. Họ thường làm, ăn, ở ngay trong xí nghiệp và không được ra ngoài. Chế độ này làm cho công nhân mất quyền tự do về sinh hoạt cũng như hành động.
Ngược lại, sau chiến tranh nhờ phong trào lao động và các cuộc cải cách lao động mối quan hệ chủ - thợ đã thay đổi tạo hình thức lao động mới là công đoàn xí nghiệp. Trong xí nghiệp đó, họ khuyến khích công nhân cổ trắng và công nhân cổ xanh cùng hoạt động; đồng thời cấp nhà ở và những điều kiện thuận lợi khác cho các hoạt động của công đoàn. Giới chủ đã thoả thuận ký kết với công đoàn về chế độ trả lương theo thâm niên, việc làm ổn định trong xí nghiệp. Xí nghiệp như một gia đình lớn trong đó chủ có "trách nhiệm" quan tâm đến công nhân và ngược lại công nhân cũng phải "tận tâm", "trung thành" với chủ. Vì vậy, trong các phong trào công đoàn, hầu hết công nhân đều có chung một ý nghĩ "những cuộc đấu tranh sẽ không gây nguy hại cho tương lai của công ty mình". Việc thực hiện lương trả theo thâm niên và đảm bảo ổn định việc làm thường xuyên buộc giới chủ phải thường thuyên chuyển hoặc đào tạo lại công nhân của xí nghiệp nếu họ muốn áp dụng khoa học kỹ thuật hiện đại nhằm tăng  năng suất lao động. Như vậy, việc cải cách chế độ công đoàn từ công đoàn ngành trước chiến tranh thành công đoàn  xí nghiệp (*) trong các công ty và việc thay đổi quan hệ giữa người chủ và những người nhân viên nhằm đảm bảo việc làm ổn định đã giúp các công ty Nhật Bản tích cực phát huy sáng kiến và áp dụng nhanh chóng những thành tựu khoa học kỹ thuật, tăng năng suất lao động và gắn bó với công nhân. Bên cạnh đó, sự đối xử công bằng với cả công nhân lẫn viên chức trong công đoàn xí nghiệp tạo điều kiện tăng cường hợp tác trong quá trình sản xuất. Công đoàn công ty và cải cách quan hệ lao động giới chủ và công nhân đã góp phần tạo ra năng suất lao động cao và khả năng cạnh tranh chuẩn bị tiền đề cho sự tăng trưởng kinh tế nhanh vào cuối thập kỷ 1950 và đầu thập kỷ 1960. Việc làm ổn định, lương theo thâm niên và công đoàn công ty cũng như quan hệ hợp tác chủ thợ ở Nhật Bản có sự kết hợp ví chủ nghĩa truyền thống lao động có tính chất gia đình. Nhưng đó không phải là những điều kiện có sẵn sau chiến tranh mà chính là sản phẩm của cuộc đấu tranh lâu dài giữa giới chủ và công nhân sau Chiến tranh Thế giới thứ II tạo  ra 14.
5. Ổn định chính trị và xã hội
Kể  từ sau khi thực hiện các cuộc cải cách dân chủ đến khi Nhật Bản bước vào giai đoạn thần kỳ kinh tế vào cuối những năm 1970 nhìn chung xã hội Nhật Bản có những sự kiện đôi lúc gây chia rẽ trong xã hội. Ví dụ, phong trào tổng bãi công của công nhân có thái độ đối đầu với Chính phủ vào những năm 1946, 1947. Và năm 1960 dư luận đã bị chia rẽ mạnh mẽ khi sửa đổi kéo dài Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật. Các đảng phái, tổ chức sinh viên, công đoàn, cơ quan ngôn luận đã phản đối mạnh mẽ sự sửa đổi này; hoặc năm 1968 cuộc bãi khóa của sinh viên các trường đại học lớn ở Nhật Bản, phong trào lên cao đến mức người ta có cảm tưởng như đêm trước của một cuộc cách mạng. Chính phủ đã tăng cường các biện pháp cưỡng chế và nhiều lý do khác đã làm cho các cuộc bãi khoá dịu đi và được giải quyết ổn thoả. Xã hội Nhật được coi là xã hội ổn định là một trong những nguyên nhân tạo sự "tăng  trưởng thần kỳ" Nhật Bản. Đó là hiệu quả tác động trực tiếp do các cuộc cải cách Nhật aanr mang lại. Hàng loạt các biện pháp giải quyết cấp  bách sau chiến tranh như: khuyến khích phát triển các tổ chức dân chủ,  cho phép thành lập các công đoàn, hiệp hội, và thực hiện một loạt biện pháp gim lạm pháp, cứu đói, khuyến khích sản xuất để tạo thêm sức mạnh và tinh thần dân tộc Nhật Bản.
Các cuộc cải cách chính trị: thanh trừng phạm tội phát xít, phong trào đòi tự do hoạt động của các đảng  phái chính trị đã đi trước một bước tạo tiền đề cho cải cách, làm trong sạch bộ máy chính trị, chuyển  toàn bộ bộ máy chính trị phục vụ chiến tranh sang phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế, và đã  thổi một  làn gió tự do, dân chủ trong nền kinh tế, tạo điều kiện cho Nhật Bản bước vào kỷ nguyên tăng trưởng kinh tế.
Cải cách chính trị quan trọng nhất ở Nhật Bản sau chiến tranh là cải cách hiến pháp. Hiến pháp mới đã được  ban bố vào ngày 7/10/1946 dưới hình thức chế độ Thiên hoàng là tượng trưng chủ quyền thuộc về nhân dân hoà bình, tôn trọng quyền cơ ảan của con người. Hiến pháp trên thực tế đã tuyên bố xoá bỏ những hình thức phong kiến ràng buộc quyền cơ bản của con người. Hiến pháp 1946 thực tế công khai xoá bỏ ràng buộc phong kiến và là điểm khởi đầu cho những tư tưởng dân chủ, tự do, bình đẳng của xã hội Nhật Bản ngay sau Chiến tranh Thế giới  thứ II.
Những thành quả của cải cách lao động đã tạo mối quan hệ hợp tác tốt đẹp giữa chủ - thợ trong quá trình lao động. Cải cách giáo dục đã tạo nên một  thế hệ con người mới sau chiến tranh có trình độ học vấn cao, có tư tưởng hoà bình và phát triển kinh tế. Các cuộc cải cách đã góp phần vào việc xây dựng và củng cố một nền chính trị xã hội ổn định, một xã hội mà trong đó số đông 87% người Nhật tự cho mình thuộc tầng lớp trung lưu được hình thành (*. Tuy là một đất nước hiện đại bậc nhất của thế giới nhưng vẫn giữ gìn được cốt cách truyền thống  tốt đẹp của dân tộc Nhật Bản. Các tệ nạn xã hội ở Nhật Bản ít hơn so với Mỹ. Trên chính trường, trừ thời gian nội các Katayama của Đảng Xã hội chỉ tồn tại được 7 tháng còn hầu hết thời gian sau chiến tranh liên tiếp do Đảng Dân chủ - Tự do Nhật Bản nắm **, và Đảng này đã có các chính sách đúng đắn, nhất là đối với nông dân sau cải cách ruộng đất. Tình hình trên đây đã mang lại sự ổn định xã hội duy trì được tính nhất quán của chính sách. Chính sách của Đảng Dân chủ - Tự do Nhật Bản đã có không ít những mặt tiến bộ mang lại sự thay đổi cho Nhật Bản.
Mặc dù cho đến nay, Nhật Bản cường quốc kinh tế thứ hai thế giới đã không còn sự thần  kỳ đáng kinh ngạc như cuối những năm 1970, tuy nhiên Nhật Bản vẫn là cường quốc kinh tế thế giới đáng khâm phục về mọi mặt, nhất là về tài chính. Trong khi, Nhật Bản cho nước ngoài vay 1 nghìn tỷ USD thì Mỹ lại nợ nước ngoài 1 tỷ USD. Do đó, mô hình Nhật Bản vẫn cần được nghiên cứu và khám phá. Bài học thành công hay chưa thành công của mô hình kinh tế Nhật Bản vẫn là một điều cần tìm hiểu sâu kỹ để phục vụ cho chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam vì Việt Nam và Nhật Bản có rất nhiều nét tương đồng về truyền thống, lịch sử, con người, văn hoá.

TS. Hoàng Thị Minh Hoa
Trường Đại học Khoa học Huế
(Lược trích từ Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, số 1 - 2003)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét