Thứ Ba, 13 tháng 12, 2011

SỰ BIẾN ĐỔI TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ Ở ẤN ĐỘ CUỐI THẾ KỶ XIX – MỘT CÁI NHÌN TỪ VĂN MINH HÓA CỦA NHẬT BẢN


SỰ BIẾN ĐỔI TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ Ở ẤN ĐỘ CUỐI THẾ KỶ XIX – MỘT CÁI NHÌN TỪ VĂN MINH HÓA CỦA NHẬT BẢN

Văn Ngọc Thành
(Đăng trong Kỷ yếu hội thảo về văn minh hóa tại Thành phố Hồ Chí Minh, thang 12/2011)
Trong sự phát triển của lịch sử thế giới, quãng thời gian từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX có một dấu ấn khá đặc biệt, nó đánh dấu sự bùng phát của chủ nghĩa tư bản ở phương Tây và đi cùng với sự phát triển ấy là sự bùng nổ của cuộc “cách mạng thương nghiệp”, “cách mạng giá cả” và cả phong trào “lùng kiếm không gian sinh tồn”. Đồng thời, đây cũng là thời kỳ ở các nước châu Á chế độ phong kiến bước vào khủng hoảng và đối diện trước những nguy cơ mang tính thời đại. Đó là những thách thức nội tại của một xã hội đặc thù, không thể tiến đến một cuộc cách mạng, là nguy cơ xâm lược của các nước thực dân phương Tây.
Hầu hết các quốc gia châu Á đều tìm cách phản ứng trước những thách thức của họa xâm lăng bằng ý thức hệ phong kiến lạc hậu nên khó có thể thoát khỏi nanh vuốt của của các nước thực dân phương Tây. Ở Nhật Bản, giai cấp phong kiến cầm quyền đã tìm cách vượt qua những thách đố nghiệt ngã của thời đại bằng những chính sách khá chủ động và khôn khéo, còn lại các nước châu Á khác, trong đó có Ấn Độ đã bị “cưỡng bức” bước vào thời kỳ “cận đại hóa”. Nói cách khác, đây là thời kỳ các quốc gia này diễn ra hai quá trình: “cận đại hóa” và “thực dân hóa”.
1. Khác với Nhật Bản, sự thay đổi của xã hội Ấn Độ diễn ra một cách thụ động, khó khăn bởi những chính sách của chủ nghĩa thực dân.
Sự tiếp xúc của Nhật Bản với phương Tây, ngay từ đầu, đã diễn ra khá chủ động. Như chúng ta đã biết, dù tự nguyện hay cưỡng bức, người châu Á bắt đầu hòa vào dòng hải thương với người Bồ Đào Nha khá sớm. Trên cơ sở Hiệp ước Tordesillas (1494) , đến đầu thế kỷ XVI, lộ trình của con đường hàng hải quốc tế ở Đông Á buổi đầu do người Bồ Đào Nha xây dựng đã thành hình thông qua các thương điếm, cơ sở mà họ xây dựng: Sofala (bờ biển Đông Phi) năm 1505; Cochin và Goa (Ấn Độ) năm 1503, 1510; Malaca (Indonesia) năm 1511; Macau (Trung Quốc) năm 1557; Nagasaki (Nhật Bản) năm 1571. Hình hài của Estado da India (Chính thể hoàng gia Bồ Đào Nha ở Đông Ấn) được đã hiện hữu.
Năm 1543, một chiếc thuyền buôn Bồ Đào Nha gặp bão, bị thổi dạt đến Tanegasima, một hòn đảo nhỏ phía đông nam Kyushu của Nhật. Họ trở thành những người châu Âu đầu tiên đặt chân lên vùng đất “Zipangu” huyền thoại với “dòng chảy bạc” nổi tiếng trong nền thương mại thế giới lúc bấy giờ. 2 năm sau, năm 1545 quan hệ chính thức giữa Nhật Bản với Bồ Đào Nha được chính thức bắt đầu. Năm 1571, sau khi tập hợp các thương nhân Hirado, Shimabara… về Nagasaki, lãnh chúa Omura đã cho xây dựng 6 khu phố lớn ở đây, biến Nagasaki thành trung tâm buôn bán với người nước ngoài ở vùng Tây Nam Nhật Bản. Mậu dịch tơ lụa Macau – Nagasaki trở nên hết sức quan trọng đối với Bồ Đào Nha.
Từ năm 1600 trở đi, Nhật Bản bắt đầu chủ động tham gia vào hải thương quốc tế. Năm 1615, một đoàn sứ thần và thương nhân do Hasekura Tsunenaga dong buồm ra Thái Bình Dương đến Nueva Espana (New Spain) trên con thuyền buồm lớn của người Nhật San Juan Bautista. Cho đến năm 1635, Tướng quân đã cấp rất nhiều giấy phép cho các “Chu ấn thuyền” với sứ mệnh giao thương với châu Á. Mặc dù có Luật bế quan tỏa cảng năm 1635 (Tỏa quốc) nhưng người Nhật vẫn buôn bán với nhiều nước, trong đó có Hà Lan thông qua thương điếm Dejima, ngoài khơi Nagasaki. Nhờ vậy, người Nhật vẫn tiếp tục nghiên cứu, tìm hiểu và học hỏi người phương Tây. Trên cơ sở đó, các học phái ra đời: Các học phái Nhật Bản Kokugaku (Quốc học) và Rangaku (Lan học, tức là học Hà Lan) với tư tưởng thoát Á, hòa nhập vào tư trào văn minh hiện đại của phương Tây.
Đến thế kỷ 19, người Anh đã thay thế người Bồ Đào Nha và người Hà Lan làm chủ về thương mại tại các vùng biển châu Á và những nguồn lợi buôn bán của người Anh cũng bắt đầu phát triển tại Trung Hoa. Trong khi đó Hoa Kỳ lại chú ý hơn tới Nhật Bản. Năm 1858, Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ đầu tiên là Towsend Harris đã ép Nhật Bản ký một thoả ước thương mại toàn phần, có hiệu lực từ năm 1860. Nhật Bản cũng phải ký các thoả ước bất công với người Anh, người Hà Lan, người Pháp, người Nga và hải cảng Nagasaki phải mở cửa cho tầu thuyền Nga cập bến. Sau đó vào năm 1866 còn có thoả ước về thuế 5% đánh trên hàng hoá nhập cảng vào Nhật Bản. Các thương gia nước ngoài rất chú ý tới hai thành phố mới phát triển là Yokohama, rất gần kinh đô Edo, và Kobe ở phía bờ kia vịnh, đối với Osaka. Binh lính Anh và Pháp cũng đi theo các thương nhân để bảo vệ các cơ sở thương mại và nhân viên khỏi sự đe doạ của các hiệp sĩ Samurai… Những thách thức mang tính thời đại lộ rõ. Đó là sự phá sản của chính sách “Tỏa quốc” cùng những mâu thuẫn từ trong lòng xã hội cổ truyền đang kìm hãm Nhật Bản và nguy cơ xâm lược từ bên ngoài của các nước phương Tây. Trong bối cảnh đó, cuộc cải cách Meiji được triển khai.
Cải cách là hoạt động có ý thức của con người, và dĩ nhiên nó mang tính chủ động của chủ thể hoạt động. Sự kiện lật đổ Tướng quân của các Samurai và thành lập Hội đồng Hoàng gia (4-1868), công bố “Hiến chương Tuyên thệ” (Charter Oath) hay “Năm điều tuyên thệ” (Five Articles Oath)… cũng như khoảng thời gian mười năm của thời kỳ “văn minh khai hóa” (bunmei kaika, civilization and enlightenment) sau đó đã thể hiện rất rõ tính chủ động của người Nhật trong quá trình tham gia vào trào lưu chung của chủ nghĩa tư bản. Các giải pháp chủ động của chính quyền Meiji nhằm tiếp thu văn minh phương Tây bao gồm:
- Khảo sát nền văn minh phương Tây để tìm ra những thế mạnh của từng quốc gia .
- Mời các chuyên gia phương Tây làm cố vấn và giảng dạy ở Nhật .
- Đưa người Nhật sang phương Tây học tập .
Người Nhật Bản đã không chọn hẳn một quốc gia nào làm khuôn mẫu, mà học lấy những gì hay nhất của từng nước: nước Anh về hải quân và hàng hải thương thuyền, nước Pháp về luật pháp và tổ chức chính quyền địa phương, nước Đức về quân đội và y khoa, còn Hoa Kỳ được chú ý về cách khai thác thương mại… Nhờ tính chủ động trong việc tiếp thu văn minh phương Tây, trong khoảng 3 thập kỷ người Nhật đã duy tân thành công, trở thành một nước tư bản chủ nghĩa tiên tiến, ngang hàng với các cường quốc trên thế giới.
Khác với Nhật Bản, Ấn Độ là một thuộc địa quan trọng nhất của thực dân Anh, được người Anh quản lý trực tiếp và hết sức chặt chẽ. Sau trận Plassey năm 1757 , Ấn Độ đã bị người Anh chính phục. Một thế kỷ sau, từ sau cuộc khởi nghĩa 1857 (Khởi nghĩa Sepoy) chính quyền Anh đã biến Ấn Độ trở thành một thuộc địa nằm dưới quyền cai trị trực tiếp của chính phủ Anh thông qua Đạo luật cải tiến quản lý Ấn Độ. Công ty Đông Ấn bị giải tán, một Phó vương (Viceroy) được cử ra để thay mặt vua Anh cai trị Ấn Độ. Theo đó, ngày 1- 1-1874, Nữ hoàng Anh Victoria tuyên bố đồng thời là Nữ hoàng Ấn Độ. Mọi quyền hành nằm trong tay Phó vương, các cơ quan khác chỉ có quyền tư vấn. Để bảo vệ bộ máy thống trị này, chính phủ Anh quyết định tăng cường lực lượng quân đội Anh ở Ấn Độ từ tỷ lệ 1/6 lên 1/2 hoặc 1/3 .
Như vậy, với tư cách là một quốc gia thuộc địa, Ấn Độ hoàn toàn không có cơ hội lựa chọn trong quá trình tiếp nhận, học hỏi văn minh phương Tây. Nói cách khác, sự tiếp thu văn minh phương Tây của Ấn Độ mang tính thụ động.
2. Khác với Nhật bản, sự chuyển biến tư tưởng chính trị diễn ra từ “trên xuống”, nhằm bảo vệ nền độc lập dân tộc và hòa nhập vào dòng chảy chung của thời đại, ở Ấn Độ, quá trình này diễn ra từ “dưới lên” với mục tiêu giải phóng dân tộc.
Sự chuyển biến của xã hội Ấn Độ vào nửa sau thế kỷ XIX đã diễn ra như là kết quả tất yếu của quá trình du nhập của chủ nghĩa tư bản Anh. Sự chuyển biến này là sâu sắc và toàn diện. Sâu sắc bởi vì nó xâm nhập vào cả những khu vực khó biến đổi nhất – nông thôn Ấn Độ, toàn diện bởi vì nó biến đổi tất cả các mặt kinh tế, xã hội lẫn chính trị .
Bên cạnh sự xuất hiện và phát triển của hai giai cấp cơ bản trong xã hội hiện đại, tầng lớp trí thức tiểu tư sản Ấn Độ cũng nhanh chóng phát triển. Điều đặc biệt là tầng lớp này được hưởng nền giáo dục phương Tây nên họ đã nhanh chóng tiếp thu các giá trị tinh thần của phương Tây. Năm 1880, tổng số người Ấn Độ hưởng nền giáo dục Anh khoảng 50.000 người, số người đạt tiêu chuẩn cử nhân (B.A) được phỏng đoán chừng 5000 người. Số lượng người học tiếng Anh tăng nhanh từ 298.000 người lên 505.000 người năm 1907. Các tờ báo lưu hành bằng tiếng Anh đạt 90.000 bản năm 1885 lên 276.000 bản năm 1905 . Nếu tính cả báo chí phương ngữ thì con số đó còn lớn hơn nhiều. Những con số này cũng đã nói lên sự hiện diện đông đảo của đội ngũ phóng viên.
Sự phát triển của báo chí Ấn Độ, một mặt phản ánh sự tiến bộ về tư tưởng, chính trị của xã hội Ấn Độ, mặt khác, nó đẩy mạnh hơn nữa quá trình tiến bộ đó. Quá trình này được khởi xướng bởi một lực lượng mới trong xã hội – tầng lớp trung lưu có giáo dục. Nền giáo dục mới mà bộ phận trung lưu có giáo dục hấp thụ ở các nhà trường phổ thông, cao đẳng, đại học do người Anh thiết lập đã trang bị cho họ những kiến thức về tư tưởng dân chủ của châu Âu hiện đại và cả các cuộc đấu tranh dân tộc vì tự do đã diễn ra ở các nước khác, “những người Ấn có giáo dục đã đọc về cuộc chiến tranh giành độc lập của nhân dân Mĩ, cuộc đấu tranh của nhân dân Italia vì sự tự do dân tộc từ sự thống trị của áo, các cuộc đấu tranh vì tự do của Ireland. Họ cũng đã nghiên cứu các tác phẩm của Thomas Paine, Spencer, Burke, Mill, Voltaire, Mazzini, và các nhà văn khác đã thuyết giáo các học thuyết về tự do dân tộc và các cá nhân. Những người Ấn có giáo dục này đã trở thành các lãnh tụ chính trị và tư tưởng của phong trào dân tộc ở Ấn Độ” .
Sự thức tỉnh ý thức dân tộc dân chủ của nhân dân Ấn Độ được biểu hiện đầu tiên dưới hình thức tôn giáo. Một mặt là những mâu thuẫn giữa những tôn giáo cũ về quan điểm, thực tế và tổ chức, mặt khác là thực tế xã hội và kinh tế mới đã dẫn đến sự phát triển của các phong trào cải cách tôn giáo khác nhau. Các phong trào này biểu thị những cố gắng phục hưng tôn giáo cũ theo tinh thần những nguyên lý mới của chủ nghĩa dân tộc, dân chủ mà nó là những điều kiện cho sự phát triển của xã hội mới. Đây không phải là hiện tượng cá biệt ở Ấn Độ, ở châu Âu cũng đã nẩy sinh trường hợp tương tự từ thế kỷ XVI. Để thiết lập nhà nước dân tộc, phong trào dân tộc ở châu Âu đã đưa chủ nghĩa dân tộc phôi thai vào các hình thức tôn giáo như Đạo Tin lành (Protestantism) và Cải cách (Reformation). Ở châu Âu trung cổ, nhà thờ Roma đã ủng hộ nền kinh tế phong kiến và hệ thống nhà nước phong kiến – nhân tố cản trở sự thống nhất kinh tế dân tộc của nhân dân trong nước trên cơ sở mở rộng những thay đổi mới quan hệ quốc gia dân tộc của kinh tế tư bản chủ nghĩa đang phát triển – cho nên đã cản trở sự thiết lập nhà nước dân tộc, nhân tố cần thiết cho tự do và sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế mới tư bản chủ nghĩa. Do vậy, sự thức tỉnh của nhân dân châu Âu đầu tiên được thể hiện trong những cuộc đấu tranh chống lại tôn giáo phong kiến. Ở Pháp, Voltaire, Rousseau, Helvetins, Holbach và những người khác đã lãnh đạo cuộc nổi dậy ban đầu này để chống lại nhà thờ Roma – sự ủng hộ tinh thần của nền kinh tế và hệ thống nhà nước phong kiến. Như vậy là cuộc nổi dậy chống tôn giáo đã đi trước sự nổi dậy chính trị thế tục của dân tộc chống lại chế độ phong kiến. Ở Ấn Độ, sự thức tỉnh dân tộc tự nó thể hiện lần đầu tiên dưới hình thức một loạt các phong trào cải cách tôn giáo. Một vài phong trào này nhằm vào việc phục hưng tôn giáo dân tộc theo tinh thần những nguyên lý của chủ nghĩa tự do, một số khác nhằm vào việc duy trì nó trong hình thức trong sạch mà nó đã tồn tại trong các thời kỳ cổ đại. Chính phong trào cải cách tôn giáo đã phát động một cuộc vận động lớn chống tôn giáo trung cổ với việc thần thánh hóa chế độ đẳng cấp đã cản trở mạnh mẽ sự thống nhất dân tộc của nhân dân Ấn Độ và sự phát triển của nền kinh tế mới ở Ấn Độ. Họ tấn công vào đa thần giáo nhằm thống nhất tôn giáo để đặt cơ sở cho sự thống nhất Ấn Độ. Rõ ràng các phong trào cải cách này là dân tộc về nội dung nhưng tôn giáo về hình thức. Điều đáng chú ý ở đây là phong trào này phát triển cả trong hai cộng đồng tôn giáo lớn của Ấn Độ: Ấn Độ giáo và Hồi giáo. Trong cộng đồng Ấn Độ giáo có các phong trào tiêu biểu như:
- Brahmo Samaj, thành lập năm 1828, do Raja Ram Mohan Roy lãnh đạo. Ông được xem là “Người cha của chủ nghĩa dân tộc Ấn Độ”.
- Prarthana Samaj, thành lập năm 1867 ở Bombay, do M.G.Ranade lãnh đạo. Ông cũng là một trong số lãnh tụ của Đảng Quốc Đại sau này.
- Arya Samaj, thành lập năm 1875 ở Bombay, do Dayanand Saraswati lãnh đạo.
Trong cộng đồng Hồi giáo có các phong trào tiêu biểu sau:
- Phong trào Ahmadiya do Mirra Ghulam Amad sáng lập năm 1889.
- Phong trào Aligarh do Sir Sayad Ahmed Khan khởi xướng.
Như vậy, sự chuyển biến tư tưởng của xã hội Ấn Độ đã phát triển khá sâu rộng, không chỉ những người Ấn Độ giáo ở các trung tâm kinh tế mà nó đã phát triển cả trong cộng đồng người Hồi giáo vốn có trình độ phát triển thấp hơn, sống ở vùng Tây Bắc xa xôi. Chính sự trưởng thành ý thức chính trị đó, cùng với sự bóc lột, đàn áp nặng nề của thực dân Anh, đã làm cho tình trạng bất mãn của nhân dân Ấn Độ ngày càng tăng lên.
Tình trạng bất mãn của người nông dân Ấn Độ được thể hiện rõ ràng nhất qua các cuộc đấu tranh của họ ở cuối thế kỷ XIX. Trong những năm 1870 – 1880 đã có gần 30 cuộc đấu tranh vũ trang của quần chúng. Mở đầu là các cuộc khởi nghĩa ở Penjab năm 1872, chống lại “bộ ba bẩn thỉu” (gồm địa chủ, người cho vay lãi và thực dân Anh), do hội Namdari lãnh đạo. Tổ chức này xuất hiện trong nông dân người Sikh, do Maharaja Ranjit Singh – người được mệnh danh là “Sư tử của Penjab” – đứng đầu. Đồng thời với cuộc khởi nghĩa của nông dân Penjab là cuộc khởi nghĩa của nông dân Bengal trong hai năm 1872 – 1873, do Khania Bhahatgi Kenhelia cầm đầu. Cũng từ những năm 70 này phong trào nông dân đã phát triển mạnh ở nhiều vùng thuộc Trung Ấn. Đặc biệt, trong nạn đói ở những năm 1876 – 1878, khởi nghĩa đã phát triển lên một mức độ lớn ở Trung Ấn mà lịch sử ghi nhận như là những cuộc nổi dậy Deccan (Deccan Riots). Những người cầm đầu các cuộc khởi nghĩa ở khu vực này như Chendria, Dkhara, Retdi, Pkhatca đã hoạt động trên một vùng lớn với 13.000 km2. Năm 1879, phong trào đã bao trùm lên toàn cao nguyên Deccan. Nhìn chung, các cuộc khởi nghĩa diễn ra mạnh mẽ, liên tục nhưng do thiếu tổ chức, rời rạc và mang nặng màu sắc tôn giáo, nên tất cả đều đi đến chỗ bị thực dân Anh đàn áp.
Tình trạng bất mãn trong tầng lớp trên và tầng lớp trung lưu trí thức, tiểu tư sản Ấn Độ cũng không ngừng tăng lên vào 30 năm cuối thế kỷ XIX. Ngoài sự chèn ép của tư bản Anh, nguyên nhân của tình trạng bất mãn này do chính các đạo luật của Anh gây ra. Chẳng hạn như Đạo luật diễn kịch (Dramatic Performance Act) năm 1876, Đạo luật sửa đổi việc tuyển người Ấn vào Cục dân sự (The Indian Civil Service) (hạ tuổi từ 21 xuống 19) năm 1877, Luật báo chí phương ngữ năm 1878 (Vernacular Press Act), Luật vũ khí năm 1878 (Airms Act). Sự bất mãn của tầng lớp trên trong xã hội trước các đạo luật này rõ ràng là mang tính chính trị.
Những thay đổi trên đây đã được chính quyền Anh nhận thấy. Năm 1880, Rippon (“Tự do”) thay Lytton (“Bảo thủ”) làm Phó vương Ấn Độ. Đây là việc thay thế của “sự phiêu lưu của những người bảo thủ” bằng “cuộc thử nghiệm của những người tự do”, bởi vì như William Wedderburn đã nhận xét: “Tình trạng của sự việc vào lúc kết thúc của chế độ Lord Lytton là tiếp giáp với một cuộc cách mạng”. Chính vì vậy, chính quyền thực dân Anh đã tìm cách vượt trước phong trào dân tộc Ấn Độ bằng cách tham gia và thúc đẩy vào quá trình thành lập Đảng Quốc Đại Ấn Độ vào tháng 12 năm 1885 nhằm tạo ra một “chiếc van an toàn” để chống lại phong trào dân tộc Ấn Độ . Tuy nhiên, chính quyền thực dân đã không thể khống chế được tổ chức chính trị này, bởi lẽ những biến đổi mạnh mẽ trong xã hội Ấn Độ đã chuẩn bị điều kiện đủ cho sự thành lập một tổ chức chính trị của phong trào dân tộc và sự ra đời của Đảng Quốc Đại Ấn Độ chính là sự đáp ứng cho yêu cầu của những biến đổi đó. Nói cách khác, những biến chuyển mạnh mẽ về kinh tế, chính trị, xã hội ở Ấn Độ cuối thế kỷ XIX đã chuẩn bị các điều kiện cho sự ra đời của một tổ chức chính trị. Đồng thời chính những chuyển biến mạnh mẽ đó cũng đặt ra yêu cầu phải có một tổ chức chính trị. Thực tế này góp phần chứng minh rằng sự ra đời của Đảng Quốc Đại vào tháng 12 năm 1885 trước hết là kết quả của những chuyển biến trong xã hội Ấn Độ trong nửa sau thế kỷ XIX, còn A. O. Hume chỉ là một trong những nhân tố góp phần thúc đẩy sự ra đời của tổ chức này mà thôi .
Như vậy, sự tiếp xúc một cách “cưỡng bức” với văn minh phương Tây của người Ấn Độ đã dẫn đến hệ quả là sự ra đời của một tầng lớp xã hội lấy các giá trị phương Tây làm mục tiêu và họ đã cấu trúc hóa tư tưởng này thành một tổ chức chính trị tương ứng – Đảng Quốc Đại Ấn Độ. Điều đó có nghĩa là, những chuyển biến mạnh mẽ về tư tưởng chính trị ở Ấn Độ vào nửa sau thế kỷ XIX xuất phát từ yêu cầu của những biến đổi về kinh tế xã hội dưới ách thống trị của thực dân Anh cũng như yêu cầu của cuộc đấu tranh chống xâm lược. Đây là sự thay đổi từ “dưới lên”.
Khác với Ấn Độ, ở Nhật Bản, sự thay đổi được tiến hành từ “trên xuống”. Ngay từ đầu, khi những thách thức nổi lên gay gắt trong xã hội, một bộ phận của giai cấp phong kiến Nhật đã nhận thức cần có sự thay đổi để ứng phó với sức ép của các cường quốc phương Tây. Khi Chính phủ Edo không còn khả năng bảo vệ Nhật Bản, phải ký kết nhiều thoả ước và cúi đầu trước các người phương Tây, một bộ phận Samurai đã tự nhận là “Samurai không chủ”, tấn công các người phương Tây, giết chết viên thư ký của Lãnh sự Hoa Kỳ Harris vào năm 1859 và đốt toà nhà Lãnh sự Anh tại Edo vào năm 1863. Họ cũng đã phục kích và giết chết Ii Naosuke, lãnh chúa chủ trương hoà hoãn với phương Tây, bên ngoài cổng lâu đài tại Edo năm 1860.
Cuộc cải cách của Nhật Bản lấy Nhật Hoàng làm trung tâm, do đó công cuộc “văn minh hóa” được chính giai cấp phong kiến nhận thức và tiến hành. Sau khi lật đổ chế độ Tướng quân, ngày 08-4-1868 các nhà lãnh đạo mới đã nhờ Thiên Hoàng công bố Tuyên ngôn với nội dung: a. Loại bỏ tất cả các hủ tục; b. Tạo cơ hội cho mọi người một cách công bằng; c. Học hỏi các nước trên thế giới.
Dưới danh nghĩa đoàn kết chung quanh Thiên Hoàng, những nhà lãnh đạo mới đã không làm sống lại cơ chế cổ xưa hay các chức tước đã có từ trước, mà cố gắng học hỏi ở các nước phương Tây tiến bộ hơn nhằm tiến đến “Phú quốc, cường binh”. Điều này cũng có nghĩa là: Mục tiêu chính của Nhật Bản trong văn minh hóa không phải là giải phóng dân tộc như của người Ấn Độ mà chỉ ở mức độ bảo vệ nền độc lập dân tộc.
CHÚ THÍCH
Hiệp ước Tordesillas (7-6-1494), được ký kết giữa Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha, do Giáo hoàng Alexander VII làm trung gian và được Giáo hoàng Jules II xác nhận năm 1506, nhằm giải quyết cuộc tranh chấp giữa Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha đối với quyền kiểm soát các lãnh thổ mới được khám phá ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ – nơi được xem như terra nullius (đất vô chủ). Theo hiệp ước này, phạm vi ảnh hưởng của Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha được phân chia bằng đường phân định là một kinh tuyến Nam – Bắc cách quần đảo Cap Vert (hồi đó thuộc về Bồ Đào Nha) 370 hải lí (1770 km), đường kinh tuyến này hiện ở 46°37′ tây. Như vậy, Bồ Đào Nha bành trướng về phía Đông, qua châu Phi, Ấn Độ cho tới Việt Nam và Trung Quốc lục địa; còn Tây Ban Nha bành trướng về phía Tây, qua lục địa châu Mỹ tới vùng quần đảo Philippine.
Estado da India (Chính thể hoàng gia Bồ Đào Nha ở Đông Ấn) là tên gọi do Quốc vương Bồ Đào Nha đưa ra. Đây không phải là một nhà nước mà là sự tập hợp của những pháo đài, những hạm đội và các cộng đồng người Bồ Đào Nha kéo dài từ Đông Phi đến Nhật Bản (G.B. Souza, The Survival of Empire, Cambridge University Press, 1986, p. 13). Cùng với hoạt động truyền giáo, mục tiêu kinh tế cơ bản của Estado da India ở phương Đông là chi phối nền hải thương châu Á trong lĩnh vực buôn bán hương liệu, đặc biệt là hồ tiêu – vốn là động lực cho sự tồn tại và phát triển của nền hải thương năng động ở Ấn Độ Dương từ nhiều thế kỷ trước. Lúc bấy giờ thương mại hương liệu có giá trị lớn hơn so với giá trị các hàng hóa xa xỉ phẩm. Estado da India
Tên gọi Nhật Bản, theo âm Hán đọc là “Nihon” hay “Nippon”, người Bồ Đào Nha khi đó nghe vậy đọc là “Zipangu”, sau biến thành “Japan”.
Về khái niệm này có thể tham khảo thêm: Vĩnh Sính, Hội trí thức Meirokusha và tư tưởng khai sáng ở Nhật Bản, Thời đại mới, số 4, tháng 3-2005 (http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai4/200504_VSinh.htm) hoặc http://vietsciences.free.fr/lichsu/lichsucacnuoc/Meirokusha.htm)
Từ năm 1871 đến năm 1873, Iwakura đã dẫn một phái đoàn thực hiện một chuyến công du, trước tiên tới Hoa Kỳ, rồi sau qua một số nước phương Tây nhằm mục đích: 1. Thăm đáp lễ các nước đã ký hiệp ước với Nhật; 2. Thuyết phục họ sửa đổi các hiệp ước bất công, đã áp đặt lên chính quyền Tokugawa do Bakufu đã ký; 3. Thị sát, nghiên cứu chế độ văn vật của các nước tiên tiến Âu Mỹ.
Việc mời các chuyên gia phương Tây làm việc được đặc biệt ưu tiên cho các lĩnh vực mà Nhật Bản còn yếu: Công nghệ, kỹ thuật, giáo dục, hải quân…
Vấn đề này được đặt ra từ năm 1869. Đến năm 1871, chính phủ Meiji đã tiến hành sửa đổi và ban hành Quy chế về lưu học sinh (Kaigai Ryugakusei Kisoku).
Plassey nằm ở Đông Bắc Ấn Độ, Tây Bengal, Tây Bắc Calcutta, nơi diễn ra trận đánh của một nhóm nhỏ quân đội Anh, dưới sự chỉ huy của Robert Clive, đánh bại quân Bengal, thiết lập sự thống trị của Anh ở đây. Giới sử học Ấn Độ xem đây là sự kiện mở đầu cho sự thống trị của người Anh ở Ấn Độ.
Vũ Dương Ninh (CB), Lịch Sử Ấn Độ, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1995, tr. 90.
Văn Ngọc Thành, Sự chuyển biến ở Ấn Độ vào nửa sau thế kỷ XIX . Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Vinh, tập XXXII, số 1(2003), tr. 30 – 38 (http://user.hnue.edu.vn/index.php?page=news&uid=118&news_id=521 )
Kumar S., Modern India 1885 – 1947, Macmillian, Madras – Bombay – Delhi – Patna, 1985, pp. 65, 66.
Desai A.R, Social Background of Nationalism (ed 5th), Bombay, 1976, p. 317.
Xem: Đớt R.P. , Ấn Độ hôm nay và ngày mai, Nxb. Sự thật, Hà Nội 1960, tr. 122; Nguyễn Thừa Hỷ, Ấn Độ qua các thời đại, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1986. Tr.90.
Văn Ngọc Thành, Sự ra đời của Đảng Quốc Đại Ấn Độ (25 – 12 – 1885), Nghiên cứu lịch sử, số 5 (330), 2003, Viện Sử học Việt Nam, tr. 70 – 79.