Thứ Ba, 30 tháng 4, 2013

Ai soạn thảo “Bản thông cáo số 1” của BTL Quân giải phóng SG- Chợ Lớn - Gia Định ngày 30-4-1975?


Ai soạn thảo “Bản thông cáo số 1” của BTL Quân giải phóng SG- Chợ Lớn - Gia Định ngày 30-4-1975?
L.T.S: Thời gian vừa qua, trên một tờ báo phụ san có bài viết về thiếu tướng C.T, người có mặt trong dinh Độc Lập trưa 30-4-1975, lúc Tổng thống Việt Nam cộng hòa (VNCH) Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng (lúc ấy ông C.T là đại tá). Bài báo cho rằng ông C.T là người thảo “Bản thông cáo số 1” của Bộ Tư lệnh Quân giải phóng Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định, theo chỉ thị của tướng Nguyễn Hữu An - Tư lệnh Quân đoàn 2, đơn vị chiếm lĩnh dinh Độc Lập. Đây có thể có sự nhầm lẫn đáng tiếc của người viết bài về tướng C.T, bởi tác giả của “Bản thông cáo số 1” lại là người khác.

Ông Nguyễn Văn Khiêm (Sáu Trí) sinh năm 1925 ở Gò Công. Cách mạng tháng Tám thành công, ông hoạt động trong ngành tình báo, từng giữ chức vụ Trưởng chi quân báo đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn. Năm 1953, ông được cài vào hoạt động bí mật trong Nha Công an tỉnh. Năm 1962, bị lộ, ông thoát ra chiến khu, tiếp tục hoạt động quân báo. Năm 1975, khi đang học Học viện Quân sự cao cấp ở Hà Nội, ông được đại tướng Văn Tiến Dũng, Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, cử vào tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh. Ngày 26-4-1975, ông bí mật vào nội thành Sài Gòn, ở nhà điệp viên mang bí số H.3 (tức Nguyễn Văn Lễ, nguyên Chủ tịch Ủy ban thương binh xã hội Hạ viện VNCH) để trực tiếp chỉ đạo các điệp viên đang hoạt động trong lòng địch. Đơn vị do ông chỉ huy là Đoàn J.22, được phong danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang. Trong đơn vị này có các nhà tình báo nổi tiếng như Vũ Ngọc Nhạ, Phạm Xuân Ẩn, Nguyễn Văn Lễ (Ba Lễ), Nguyễn Văn Tàu (Tư Cang), Lê Văn Vĩnh (Bảy Vĩnh), kỹ sư Tô Văn Cang.
Thiếu tướng tình báo Nguyễn Văn Khiêm (Sáu Trí, bên phải) và Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Văn Tàu (Tư Cang) Ảnh do nhân vật cung cấp

Ngay sau khi vào Sài Gòn, ăn tối xong, Sáu Trí tranh thủ nhờ H.3 đưa đi gặp H.1 (tức Trần Bá Thành, nguyên Giám đốc Công an Nam Việt) lúc này ở khách sạn Hoàng Gia chỉ đạo một số công việc sau khi chiến dịch thắng lợi. Hôm sau, lần lượt gặp đại tá Lộc, đại tá Lê Quang Hiền, đại tá Đỗ Tấn Đức và một số cơ sở khác.
Trưa 28-4-1975, Sáu Trí đang đọc báo trên gác nhà H.3 khu Nguyễn Tri Phương - Chợ Lớn thì con của H.3 xuống kiểm tra xem khách lạ là ai. Một lát sau, H.3 lên báo cáo cho biết đó là kỹ sư Tô Văn Cang thuộc cụm A.24 của Hai Thắng, còn kỹ sư Giàu là cơ sở trí vận. Vậy là gặp được. Khi Sáu Trí và H.3 xuống phòng khách, kỹ sư Tô Văn Cang chào và tự giới thiệu anh và con trai đều hoạt động trong cụm A.24, xin lỗi vì đến gặp là vi phạm nguyên tắc bí mật, nhưng vì công việc khẩn cấp nên phải đến (do cụm trưởng Hai Thắng cho biết chỗ ở).

Việc khẩn cấp đó là việc ông Dương Văn Minh nhờ Nguyễn Văn Diệp - Tổng trưởng Tài chánh trong nội các, là bạn thân của kỹ sư Cang - đi tìm đại diện Mặt trận Dân tộc Giải phóng cấp trung ương để thương lượng. Diệp nhờ anh Cang đi tìm người đại diện này. Cang giải thích việc tướng Minh tìm người của ta vì trong nội các có hai phe, một phe chủ hòa chịu thương lượng để kết thúc chiến tranh với bất cứ giá nào, một phe chủ chiến do Nguyễn Bảo Kiếm cầm đầu, chủ trương tử thủ, kéo dài chiến tranh. Phe chủ hòa do Nguyễn Văn Diệp cầm đầu rất có ảnh hưởng với Dương Văn Minh. Sáu Trí trả lời ngay với kỹ sư Cang là anh vào đây với công việc riêng của ngành chớ không đại diện cho cách mạng, còn nếu Dương Văn Minh muốn gặp Chính phủ cách mạng lâm thời thì đến cơ quan đại diện bốn bên tại Tân Sơn Nhất, ở đó luôn có người thường trực. Kỹ sư Cang chuyển câu hỏi thứ hai của ông Diệp là trong hoàn cảnh bức bách thì nội các Dương Văn Minh nên xử trí thế nào thì Sáu Trí trả lời thêm: “Đại tướng Dương Văn Minh là một nhà quân sự có thừa khả năng để đánh giá tình thế trước mắt của Sài Gòn đang bị các quân đoàn Quân giải phóng bao vây, nhân dân Sài Gòn sẵn sàng xuống đường khởi nghĩa, pháo binh Quân giải phóng sẵn sàng đập nát mọi sự đề kháng và đã bắn cảnh cáo vào phi trường Tân Sơn Nhất.
Quân đội Sài Gòn không còn lực lượng chống đỡ. Mỹ đã rút quân do bị thất bại và bị áp lực phong trào phản chiến của nhân dân Mỹ, nên Mỹ không thể đưa quân trở lại và cũng không còn thời gian để tiếp cứu Sài Gòn. Các ông đừng có ảo tưởng về sự cứu viện của Mỹ cũng như bất kỳ một cường quốc nào. Quân dân Việt Nam sẽ đập tan mọi sự đề kháng. Sự sụp đổ của chế độ Sài Gòn tính từng ngày, từng giờ. Chính phủ Dương Văn Minh không còn thái độ nào có đầy đủ lương tri hơn là chấp nhận đầu hàng vô điều kiện như lời kêu gọi của Chính phủ cách mạng lâm thời đã loan báo trên các đài phát thanh. Nếu hành động khác để kéo dài chiến tranh, chế độ Sài Gòn cũng sẽ sụp đổ. Thời gian không lâu, có thể tính theo ngày, nhưng sự kéo dài ấy sẽ gây tác hại khôn lường, đồng bào thành phố sẽ bị thương vong nhiều, thành phố Sài Gòn sẽ đổ nát. Hậu quả đau thương này, nội các Dương Văn Minh nếu chọn giải pháp tử thủ Sài Gòn, sẽ chịu trách nhiệm trước lịch sử, trước lương tâm và trước nhân dân. Nhân dân sẽ không dung thứ thái độ vô trách nhiệm đó.
Đại tướng Dương Văn Minh là người thức thời nên thấy rõ tình hình thực tế để chọn thái độ khôn ngoan, đúng đắn, không phạm sai lầm, không cứu vãn được lúc cuối đời. Đầu hàng ngay và đầu hàng vô điều kiện là thái độ có trách nhiệm trước sinh mạng của nhân dân Sài Gòn đó”. Kỹ sư Cang ghi chép cẩn thận những lời của Sáu Trí và cảm ơn về cuộc gặp gỡ ý nghĩa này, hứa sẽ phản ánh đầy đủ với ông Diệp để ông này tác động với tướng Minh và nội các của ông ta biết rõ chủ trương của Mặt trận Dân tộc Giải phóng.
Thiếu tướng Nguyễn Văn Khiêm (Sáu Trí)

Thực hiện lời hứa, kỹ sư Cang báo cáo với ông Diệp và ông này nói lại với bộ ba Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Huyền và Vũ Văn Mẫu. Cố gắng cuối cùng của họ là cử chuẩn tướng Hạnh, phụ tá Tổng tham mưu trưởng, cùng Tổng trưởng Diệp và Nguyễn Đình Đầu là trí thức có nhiều ảnh hưởng tới tướng Minh, nhờ ông Cang dẫn đi vào trại Đa-vít ở Tân Sơn Nhất gặp đại diện Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Lúc đầu, họ từ chối không tiếp, ông Cang phải nói là cán bộ TB nội thành của tướng Ba Trần, họ mới tiếp và cũng nói rõ nội các Dương Văn Minh nên đầu hàng vô điều kiện ngay chứ không có thương lượng gì hết. Sau khi thảo luận với ông Diệp, đoàn có sáng kiến đề nghị với mặt trận nên xem chính phủ Dương Văn Minh đầu hàng vô điều kiện nếu chiều 29-4. Lúc 16 giờ, Phó tổng thống Huyền lên đài phát thanh tuyên bố “Sẵn sàng thương thuyết hòa bình với mặt trận”. Phải tuyên bố như vậy để bọn Mỹ và bọn ngụy hiếu chiến rút hết.
Sáng 30-4-1975, khoảng 9 giờ 30 phút, Sáu Trí ở nhà H.3 nghe trên Đài phát thanh Sài Gòn lời phát biểu của Dương Văn Minh kêu gọi quân đội Sài Gòn buông súng, chấp nhận những điều kiện của Chính phủ cách mạng lâm thời. Vài giờ sau, kỹ sư Tô Văn Cang đến mời Sáu Trí và H.3 (Ba Lễ) vào ngay dinh Độc Lập chứng kiến sự đầu hàng của nội các Dương Văn Minh và để tránh mọi hành động đáng tiếc có thể xảy ra khi quân ta vào tiếp quản dinh Độc Lập. Anh Cang còn cho biết do tác động của anh với anh Diệp cầm đầu phe chủ hòa trong nội các Dương Văn Minh nên ông Minh ngã theo phương án đầu hàng vô điều kiện, dù ngày 29-4 và sáng 30-4, tướng tình báo người Pháp tên Vanuxem (từng là tù binh của ta ở Điện Biên Phủ tháng 5-1954) - dưới vỏ bọc “nhà báo quốc tế” - còn đến dinh Độc Lập thuyết phục Dương Văn Minh cố gắng tử thủ Sài Gòn 48 giờ, đồng thời kêu gọi quốc tế can thiệp thì sẽ có một cường quốc giúp chặn đứng bước tiến Quân giải phóng và tìm giải pháp thương lượng có lợi cho chính phủ Dương Văn Minh. Nhưng Dương Văn Minh đã bác bỏ ý kiến của Vanuxem vì ông ta không muốn bán nước một lần nữa và quyết định chấp nhận đầu hàng vô điều kiện.
Sáu Trí cùng H.3 lên xe anh Cang do kỹ sư Giàu lái. Đầu xe có cờ Mặt trận Giải phóng do anh Cang chuẩn bị sẵn, nên việc vào dinh Độc Lập được thuận tiện vì quần chúng kéo ra đường đông nghẹt, phấn khởi hò reo, thấy xe có cờ Giải phóng, họ tự giác dạt ra nhường đường xe chạy.
Vào dinh, Sáu Trí thấy cánh bộ đội ta đòi bắt toàn bộ nội các Dương Văn Minh làm tù binh. Anh vội đến giải thích nội các tướng Minh, đã chấp nhận điều kiện của Mặt trận Dân tộc Giải phóng, đã có thông báo đầu hàng trên đài phát thanh, chắc các đồng chí bộ đội thiết giáp đang tiến hành nên không nắm được tin này. Thấy Sáu Trí mặc thường phục, một số bộ đội tỏ vẻ không tin, anh phải xưng danh là đại tá Sáu Trí, sĩ quan Bộ tham mưu B2 vào Sài Gòn công tác đặc biệt chiến dịch Hồ Chí Minh. May sao, lúc đó xuất hiện đồng chí Lữ đoàn phó Lữ đoàn thiết giáp là đại tá Công Trang, bạn học cùng khóa, khi học lớp quân sự cao cấp ở Hà Nội. Thấy Sáu Trí, đại tá Công Trang đến bắt tay tươi cười thân mật: “Đi đâu cũng gặp thằng cha tình báo này!”.
Đồng chí Nguyễn Văn Lễ (Ba Lễ), đồng chí Tô Văn Cang (Bảy Cang)

Sau đó, Sáu Trí gặp thiếu tướng Nguyễn Hữu An, Tư lệnh Quân đoàn 2, tướng Nam Long cùng bàn bạc và nhất trí nên có lời công bố chính thức của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam trên đài phát thanh và vì quân ta đã vào Sài Gòn tiếp quản được dinh Độc Lập, cơ quan đầu não ngụy quyền, tướng Dương Văn Minh đầu hàng vô điều kiện, để đồng bào cả nước và người nước ngoài biết, đồng thời làm tan rã tinh thần bọn ngụy quân ở những nơi ta chưa giải phóng, để chúng buông súng đầu hàng nốt. Tướng Nguyễn Hữu An phân công Sáu Trí soạn thảo gấp văn bản này. Lập tức anh cùng Ba Lễ, kỹ sư Tô Văn Cang bắt tay bàn bạc soạn thảo “Bản thông cáo số 1” do anh Cang chấp bút. Viết xong, Sáu Trí đến gặp tướng An và đề nghị ông đứng tên bản thông cáo này. Nhưng tướng An sau khi thông qua, đã tế nhị từ chối đứng tên và đề nghị không để tên đơn vị do ông chỉ huy mà đề là Bộ Tư lệnh Quân giải phóng Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định. Kỹ sư Cang cùng anh Giàu được Sáu Trí phân công đọc “Bản thông cáo số 1” này trên Đài phát thanh Sài Gòn. Cang đọc trước, Giàu đọc sau, cứ năm phút lặp lại một lần. Toàn văn “Bản thông cáo số 1” như sau:

“Thông cáo số 1 của Bộ Tư lệnh Quân giải phóng Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định.
Quân giải phóng đã chiếm dinh Độc Lập và làm chủ tình hình. Tất cả Sài Gòn lúc 12 giờ trưa hôm nay, ngày 30-4-1975.

Bắt đầu từ giờ phút này, yêu cầu tất cả nhân dân thi hành mệnh lệnh của Bộ Tư lệnh Quân giải phóng:
- Lệnh giới nghiêm bắt đầu từ 18 giờ đến 6 giờ sáng.
- Tất cả quân đội Sài Gòn, nhân dân tự vệ, cảnh sát của ngụy quyền Sài Gòn phải đến trình diện nộp vũ khí tại các ủy ban Quân giải phóng các quận.
- Anh chị em công nhân phải giữ gìn, bảo vệ các xí nghiệp, nhà máy.
- Công chức các cấp trên lĩnh vực điện nước, viễn thông, vệ sinh công cộng... phải tiếp tục điều hành và tuyệt đối không được hủy hoại tài sản nhà nước.
Bộ Tư lệnh Quân giải phóng sẽ nghiêm trị hành động trộm cướp, gây xáo trộn, làm mất trật tự. Nghiêm cấm gây tiếng nổ, bắn súng bừa bãi gây hoang mang trong dân chúng.
Sài Gòn ngày 30-4-1975.
Bộ Tư lệnh Quân giải phóng Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định”.
“Bản thông cáo số 1” này là bản tin đầu tiên của Bộ Tư lệnh Quân giải phóng Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định loan báo với đồng bào cả nước và thế giới: Quân giải phóng đã giải phóng Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định, thủ đô của chế độ ngụy quyền Sài Gòn. Bản tin chính thức này được đọc kế tiếp vài giờ sau tuyên bố đầu hàng của Tổng thống Dương Văn Minh.
Để trấn an nội các Dương Văn Minh còn đầy đủ trong dinh Độc Lập, tướng An đã cử Sáu Trí đến nói chuyện với họ vì “cậu là dân trong này, cậu làm tình báo, cậu biết tâm lý, tình cảm của họ. Cậu nói họ sẽ an tâm. Đối xử với họ thế nào còn chờ chỉ thị cấp trên, nhưng ta nên gặp họ!”. Vậy là Sáu Trí đến nói chuyện với nội các tướng Minh với nội dung đã trao đổi với tướng An. Sau cuộc nói chuyện của Sáu Trí, các thành viên nội các tướng Minh vui mừng ra mặt vì lúc quân ta mới vào họ rất lo sợ. Bây giờ, họ rất an tâm. Sáu Trí là sĩ quan cao cấp đầu tiên của Quân giải phóng mà họ tiếp xúc, ghi nhận công lao của họ góp phần sớm chấm dứt cuộc chiến, đỡ biết bao xương máu cho đồng bào, chiến sĩ.
Công tác của Sáu Trí vào Sài Gòn còn rất nhiều việc quan trọng khác không kể hết và cũng không thể công khai được, nhưng riêng sự có mặt của anh ở dinh Độc Lập ngày 30-4 cùng với nhiều nhà tình báo khác của quân đội và công an nhân dân được gài vào bộ máy địch trong giờ phút lịch sử đó, đã xác nhận công lao những người tình báo trong “mặt trận thầm lặng” đã góp phần đáng kể vào chiến thắng vĩ đại của dân tộc trong mùa xuân lịch sử: 30-4-1975.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đầu năm 1980, ông Dương Văn Minh được Chính phủ nước ta cho ra nước ngoài chữa bệnh và thăm gia đình. Trước khi đi, ông tự lái xe lên Ngã năm Bình Hòa (quận Bình Thạnh) đến nhà thăm kỹ sư Tô Văn Cang. Tiếc rằng hôm đó kỹ sư Cang có việc đi vắng nên không gặp được. Với thái độ vui vẻ thân mật, ông Minh nói với vợ kỹ sư Cang: “Tôi được như thế này cũng nhờ có sự góp ý rất tốt của anh Cang đó chị”.
Năm 1999, kỹ sư Tô Văn Cang qua đời. Rồi đầu năm 2008, ông Ba Lễ - Nguyễn Văn Lễ cũng ra đi vì một tai nạn giao thông ở quận 10. Vậy là tổ soạn thảo “Bản thông cáo số 1” gồm ba người - chỉ còn lại thiếu tướng Nguyễn Văn Khiêm (tức Sáu Trí) năm nay đã 88 tuổi, hiện cư ngụ tại quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.
Theo DƯƠNG LINH (CATP)

Chủ Nhật, 28 tháng 4, 2013

Những chuyện xúc động giờ mới kể của ba vị tướng quân đội VN


Những chuyện xúc động giờ mới kể của ba vị tướng quân đội VN


(GDVN) - Trong cuộc đời binh nghiệp của mình, mỗi người lính sẽ không thể không có những giây phút phải rơi nước mắt khi chứng kiến những người đồng chí, đồng đội của mình, những đồng bào phải hy sinh, bỏ lại một phần thân thể, thậm chí mãi mãi nằm xuống nơi chiến trường, trên chính mảnh đất quê hương.
Kỷ niệm ngày Thương binh liệt sĩ 27.7, đúng 9h sáng 26/7, tại tòa soạn Báo điện tử Giáo Dục Việt Nam, hai vị tướng một thời binh lửa đã bắt đầu chia sẻ cùng độc giả những kí ức, kỉ niệm không thể quên nơi chiến trận, trong đó có những câu chuyện giờ mới kể về sự hi sinh của đồng đội nơi chiến trường khói lửa.
 Buổi giao lưu sẽ có sự tham gia của hai vị Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân là Thiếu tướng Lê Mã Lương và Trung tướng Phạm Xuân Thệ.

Cuộc giao lưu không chỉ nói về những phút giây đau thương khi người lính chứng kiến người đồng chí, đồng đội của mình, những đồng bào phải hy sinh mà còn khẳng định ý chí chiến đấu của những “Anh bộ đội Cụ Hồ” vượt lên trên đau thương mất mát để đấu tranh bảo vệ Tổ quốc.
Khách mời của buổi giao lưu gồm: Trung tướng Lê Hữu Đức, Thiếu tướng - Anh hùng lưc lượng vũ trang Lê Mã Lương, Trung tướng - Anh hùng lực lượng vũ trang Phạm Xuân Thệ.
Trung tướng Lê Hữu Đức, dù đã 89 tuổi, và vừa trải qua cơn bạo bệnh, nhưng vẫn sốt sắng nhận lời tham gia cuộc giao lưu. Tuy nhiên đến 8h sáng hôm nay, khi xe của Báo đến đón, phu nhân của ông đành quyết định để ông ở nhà vì sức khỏe quá yếu. Ông chỉ đủ sức viết một lá thư ngắn đầy xúc động và nuối tiếc gửi Báo vì đã lỡ hẹn cuộc giao lưu ý nghĩa này.

Báo điện tử Giáo dục Việt Nam xin trích đăng lá thư này:

Ngày 26/7/2011

Kính gửi: đồng chí Nguyễn Tiến Bình
Tổng biên tập Báo Giáo dục Việt Nam

Được các nhà báo nhớ tới là một vinh dự lớn đối với tôi, một quân nhân đã 89 tuổi đời, 66 tuổi Đảng, đã trọn gói: 4 cuộc chiến tranh (kháng chiến chống Pháp, kháng chiến chống Mỹ, chiến tranh Tây Nam và chiến tranh phía Bắc năm 1979).
Nhưng rất tiếc vì sức khỏe nên không dự được. Rất tiếc, tiếc lắm! Hẹn gặp sau! Xin đừng quên!
Cám ơn rất nhiều!

Lê Hữu Đức, nhà số 2 ngách 6/22 phố Đội Nhân phường vĩnh Phúc, quận Ba Đình, Hà Nội
Dù cố gắng trả lời suốt 3 giờ liên tục, các vị khách mời cũng chỉ đáp ứng được phần nào mong muốn của độc giả. Báo Giáo dục Việt Nam trân trọng giới thiệu toàn bộ nội dung cuộc giao lưu.
Thưa thiếu tướng Lê Mã Lương, trong suốt cuộc đời binh nghiệp của bác, trải qua hàng trăm trận đánh,có kỷ niệm nào đau thương, mất mát nào khiến bác không thể quên? Bác có thể chia sẻ để thế hệ trẻ chúng cháu thêm hiểu, thêm trân trọng về những hy sinh của thế hệ ông cha mình. (Huyền Lê, Hà Nội)
Suốt cuộc đời tôi đã trải qua hàng trăm trận đánh khác nhau, ở những địa phương khác nhau và rất nhiều kỷ niệm sâu sắc. Nhưng có lẽ, một trận đánh tôi không thể quên được đó là trận đánh ngày 17/3/1971 ở Đường 9, Nam Lào.
Khi đó, chúng tôi thủ trên đèo để đánh chặn một đoàn xe tăng thiết giáp của địch. Người đồng đội của tôi là anh Trần Văn Tẩy đảm trách vị trí xạ thủ bắn B40. Với người bình thường, chỉ bắn đến lần thứ 3 là đã không thể chịu nổi nhưng Tẩy đã bắn liền 5 phát. Lúc ấy, máu ở tai Tẩy bắt đầu chảy đầm đìa và không còn nghe thấy gì. Tôi chạy lại, đập vào vai Tẩy, ra dấu hiệu để tôi bắn thay nhưng Tẩy nhất định không chịu.
Khi Tẩy đang chuẩn bị nạp đạn để bắn lần thứ 6 thì bị địch bắn trúng, một ở tay và một ở trán. Máu Tẩy chảy xối xả. Tôi vội vàng lao đến và ôm lấy Tẩy nhưng Tẩy ngất thiếp đi. Khi y tá đến cấp cứu và định tiêm thì Tẩy tỉnh dậy. Tẩy nhất quyết từ chối và bảo: “Tôi khó qua khỏi, máu tôi đã ra quá nhiều rồi. Mũi tiêm này hãy dành cho đồng đội khác cần hơn tôi”. Rồi Tẩy quay sang nhìn tôi, ứa nước mắt: “Tôi xin lỗi vì có những lúc đã làm cho anh buồn về sự ngang ngạnh của mình…”. Nói đoạn, Tẩy lả thiếp đi.
Thời điểm đó, toàn đoàn không còn một giọt máu dự trữ, Tẩy không thể đợi được đến khi máu được tiếp về. Tẩy đã vĩnh viễn ra đi trong chính vòng tay của tôi. Đó là một trong những kỷ niệm đau nhất. Đau vì bất lực chứng kiến đồng đội ra đi mà không thể làm gì.
Đến giờ, hình ảnh của Tẩy vẫn còn hiện lên mồn một trong suy nghĩ của tôi, một chàng trai có nước da nâu rám nắng, vóc dáng to cao, vạm vỡ… và cả binh chủng ai cũng phải quý mến vì sự dũng cảm và cá tính anh hùng, mạnh mẽ.
Thưa trung tướng Phạm Xuân Thệ, trong cuộc đời binh nghiệp, ông đã từng trải qua nhiều trận mạc chủ yếu trong chiến trường miền Nam. Đã từng là người dẫn giải tướng Dương Văn Minh ra đài phát thanh tuyên bố đầu hàng. Sự kiện lịch sử đó đã giúp cho cuộc chiến giành độc lập ít đổ máu hơn. Tuy nhiên mãi năm 2011, ông mới được phong AHLLVTND. Ông có nghĩ việc đó là quá muộn? (Binh, Đồng Nai)

Trung tướng Phạm Xuân Thệ:
 Tôi không nghĩ đó là quá muộn. Do thành phần gia đình còn nặng nề. Tôi được xếp vào đợt tuyên dương từ năm 1973 cùng đợt với anh Lê Mã Lương… Vì các anh ấy thuộc thành phần trung nông nên được tuyên dương trước. Còn tôi thì được tuyên dương sau.
Thưa bác Lương, cháu được biết, trong kháng chiến chống Mỹ, bác thuộc diện được miễn nghĩa vụ quân sự và được cử đi học đại học. Vậy tại sao bác lại từ chối để xông pha nơi tiền tuyến đầy bom đạn? Gia đình bác phản ứng ra sao? (hungb...@hotmail.com)
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cả nước lên đường vì miền Nam, phần máu xương của Tổ quốc. Tinh thần ấy tác động tới bất cứ người thanh niên nào, từ làng quê, hải đảo cho tới nhà máy, núi rừng… giục giã họ bước vào trận mạc dù khó khăn, gian khổ và đô máu. Bản thân tôi không nằm ngoài số ấy.
Tôi vốn là con của liệt sĩ trong kháng chiến chống Pháp nên được quyền miễn giảm và ưu tiên học lên đại học. Tuy nhiên, đối với tôi, tham gia chiến trường không chỉ là một nhiệm vụ thiêng liêng mà còn là một cái quyền để phục vụ Tổ quốc khi có giặc ngoại xâm. Đặc biệt, mỗi khi nghĩ về người cha, người đã cống hiến cả bản thân mình cho sự nghiệp ấy, tôi càng quyết tâm được theo bước ông, làm trọn cái “đạo” của mình.
Biết tin tôi xung phong ra trận, mẹ tôi là người đau lòng hơn cả. Mẹ đã một lần tiễn người chồng ra đi không trở về, giờ đây, lại phải tiễn con trai ra đi, chưa biết ngày quay lại… Mẹ đã thuyết phục tôi bằng đủ lý lẽ, thậm chí nhờ người bạn thân nhất của bố can thiệp nhưng tôi vẫn giữ nguyên ý chí của mình. Ngày lên đường, mẹ chỉ nói với tôi một câu duy nhất mà khiến tôi vẫn còn nhớ mãi: “Ra đi cho bằng anh, bằng em”. Và lời nói đó chính là thứ hành trang quý báu đã theo tôi suốt năm tháng chiến trường.
Thưa các bác, những ngày nay, dư luận đang có nhiều ý kiến nghi ngờ về việc tìm mộ liệt sĩ bằng ngoại cảm, trong khi đó, biện pháp dùng phân tích AND có phần chậm trễ trong việc đưa vào triển khai. Tại sao như vậy, thưa các ông? Vừa qua, Bộ LĐTBXH đưa ra ý kiến không tiếp tục áp dụng ngoại cảm trong việc tìm mộ liệt sĩ, ý kiến các ông như thế nào? (Phạm Hùng, Lạc Trung, Hà Nội)

Thiếu tướng Lê Mã Lương: Có thể nói vừa qua các nhà ngoại cảm tham gia vào quá trình tìm mộ liệt sĩ, một số trường hợp chính xác tuy nhiên cứ áp dụng việc tìm kiếm thông qua các nhà ngoại cảm thì không đủ độ tin cậy. Nhiều trường hợp đã xác định không đúng. Ngay trường hợp của cha tôi (ông đã tham gia trận đánh ở đồi A1, Điện Biên Phủ năm 1954)  đến nay vẫn chưa tìm được đích xác. Tuy đã tìm thấy phần mộ nhưng chưa cảm thấy tin tưởng.
Tôi quen rất nhiều nhà ngoại cảm nhưng chưa bao giờ nhờ các nhà ngoại cảm tìm giúp phần mộ của cha tôi. Vì vậy, tôi không tin vào tìm mộ liệt sĩ thông qua các nhà ngoại cảm. Do đó, Bộ LDTBXH nêu ra vấn đề này, tôi thấy đồng tình. Chúng ta không nên thông qua các nhà ngoại cảm để phát hiện mộ một cách phổ biến và công khai.
Trung tướng Phạm Xuân Thệ: Hiện nay, chúng ta còn rất nhiều anh hùng liệt sỹ hi sinh trong các trận đánh trên các chiến trường. Chúng ta chưa tìm được hài cốt của các anh hùng liệt sỹ đó. Đây là một điều băn khoăn không chỉ của những người cán bộ chiến sỹ trực tiếp chiến đấu với kẻ thù trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại mà đây cũng là nỗi băn khoăn, day dứt của toàn Đảng, toàn dân. Chúng ta bằng nhiều biện pháp, rất nhiều nỗ lực để tìm kiếm các hài cốt của các anh hùng, liệt sỹ đã hy sinh trong các trận chiến đấu nhưng đến nay cũng còn hàng vạn anh hùng liệt sỹ chưa tìm được hài cốt.

Tuy nhiên, trong nhiều năm gần đây, chúng ta đã dùng phương pháp ngoại cảm để tìm hài cốt của đồng chí, đồng đội. Tôi là người cũng đã trực tiếp được nhà ngoại cảm dẫn đến nơi hi sinh của anh ruột tôi. Anh tôi hi sinh từ tháng 6/1966 đến năm 2005 thì cũng do bạn bè mách bảo thì tôi có nhờ nhà ngoại cảm ròng rã 2 ngày trời nhưng khi tìm không có hiệu quả. Và một số đồng chí bạn bè của tôi cũng dùng phương pháp nhờ nhà ngoại cảm để tìm nhưng kết quả không đạt.

Chính vì vậy, đối với các nhà ngoại cảm tìm các mộ liệt sỹ thì tôi thấy còn nhiều điều rất băn khoăn. Nếu như chúng ta cứ dùng phương pháp nhà ngoại cảm thì rất tốn kém nhưng không mang lại kết quả cao.

Tôi nhớ gần đây nhất, một nhà ngoại cảm có tiếng được gia đình của đồng chí chính trị viên đại đội 11, tiểu đoàn 9, trung đoàn 66, sư đoàn 304 nhờ tìm mộ. Tôi và đồng chí đó cùng đơn vị, tôi làm đại đội trưởng. Ngày 30/5/1972, đơn vị hành quân từ động Ông Do cách thị xã Quảng Trị khoảng 20km đi tới một điểm có địa danh là Tân Téo, đội hình chúng tôi bị bom đánh, đồng chí hi sinh tại chỗ.
Chúng tôi đã tổ chức mai táng có mộ chí nhưng gia đình nhờ nhà ngoại cảm đó, nhà ngoại cảm cứ khẳng định với tôi là hài cốt của đồng chí chính trị viên đại đội vẫn còn ở trong một hầm chữ A, chưa được lấy ra, tôi hoàn toàn không chịu, vì tôi khẳng định với nhà ngoại cảm là chúng tôi đang hành quân thì bị bom đánh vào đội hình, cho nên không có hầm chữ A. Và thực sự là hài cốt của đồng chí chính trị viên này đã được đội quy tập mộ liệt sỹ của bộ chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Trị đưa vào nghĩa trang liệt sỹ.

Trường hợp thứ 2, cũng qua nhà ngoại cảm, gia đình của một đồng chí trưởng phòng tài chính thuộc Cục tài chính – Bộ Quốc phòng đi tìm hài cốt người anh hi sinh ngày 1/4/1972 tại Động Toàn (Cam Lộ, Quảng Trị). Khi đồng chí này bị thương, đồng đội đã đưa về đội phẫu của trung đoàn, sau đó đồng chí hi sinh. Đã mai táng ở phía đông nam Động Toàn, bên bờ sông Đakrong. Nhưng nhà ngoại cảm chỉ cho gia đình và khẳng định là hài cốt của anh đồng chí trưởng phòng tài chính đó mai táng tại xã Cam Chính (Cam Lộ, Quảng Trị) mà xã Cam Chính này đến ngày 10/4, chúng tôi mới giải phóng.
Anh của đồng chí này đã hi sinh vào mùng 1/4/1972 thì không lý gì lại đưa liệt sỹ vào vùng chưa giải phóng để chôn cất. Nhưng nhà ngoại cảm cứ khăng khăng khẳng định là ở khu vực xã Cam Chính, làm cho gia đình và đồng đội đi tìm rất nhiều lần mà không thấy.
Khi đồng chí trưởng phòng tài chính tới gặp tôi và mang tấm bản đồ khu vực tác chiến mà nơi trận đánh xảy ra mà anh đồng chí đó hi sinh, tôi vẽ và chỉ vị trí của trạm phẫu trung đoàn – nơi mà anh đồng chí đó hi sinh và chôn cất tại đó thì gia đình và đồng đội vào tìm thấy, lấy được hài cốt và có cả các di vật của liệt sỹ đó, trong đó có chiếc bi – đông đựng nước mà anh đồng chí đó khắc tên mình. Vì thế, gia đình rất tin và khẳng định đây là anh của đồng chí trưởng phòng tài chính.

Đấy là một số trường hợp tôi được chứng kiến mà trực tiếp với các nhà ngoại cảm. Cho nên, tôi khẳng định: Tìm hài cốt liệt sỹ qua các nhà ngoại cảm là một điều không hiệu quả.
Thưa trung tướng Thệ và thiếu tướng Lê Mã Lương, lịch sử dường như ít nhắc tới những trường hợp chiến sĩ ta hy sinh ngay trước cửa ngõ Sài Gòn, hy sinh khi chỉ cách hòa bình ít giờ đồng hồ? Các bác có thể kể lại những câu chuyện mà bác trực tiếp chứng kiến? (Phạm Hải Phong, Hải Phòng)
Thiếu tướng Lê Mã Lương: Tôi là người có may mắn tham gia chiến dịch xuân 75 và chiến dịch mang tên Bác. Trước cửa ngõ Sài Gòn, tôi đã chứng kiến nhiều sĩ quan và chiến sĩ quân đội hy sinh, chỉ ít giờ sau khi chúng ta giải phóng toàn bộ Sài Gòn. Có những trường hợp như Tiểu đoàn phó Hoàng Thọ Mạc, sau này được truy tặng anh hùng; Trung úy Hoàng Khắc Tàng, chính trị viên Đại đội 6, tiểu đoàn 5, trung đoàn 24, sư đoàn 504, người cuối cùng hy sinh tại căn cứ Nước Trong, trước khi mở toang cánh cửa tiến vào nội đô Sài Gòn.
Sau này Nhà nước còn tuyên dương hàng chục anh hùng đã chiến đấu, hy sinh, bị thương trước cửa ngõ Sài Gòn. Nói như vậy để chứng tỏ, chúng ta không quên những người con ưu tú của đất nước đã ngã xuống trước ngày thắng lợi. Ngay những phần mộ của anh em hy sinh, chúng tôi đã tổ chức đưa anh em về các nghĩa trang liệt sĩ...
Tôi không thể quên trường hợp hy sinh của Trung úy Hoàng Khắc Tàng. Ngày 29/4/1975, từ trên trung đoàn, tôi điện thẳng xuống cho Trung úy chính viên đại đội 6 Hoàng Khắc Tàng: "Đại đội của anh đã vào vị trí xuất phát tấn công chưa?", Trung úy Hoàng Khắc Tàng báo cáo: "Thưa chủ nhiệm, toàn bộ đại đội 6 đã vào vị trí xuất phát". Tôi nói ngay: "Động viên anh em, đây là cửa ngõ Sài Gòn, là cơ hội lịch sử của chúng ta trong trận đánh quyết định này. Lưu ý giảm thương vong tối đa". Trong một đợt xung phong, Hoàng Khắc Tàng dẫn đầu Đại đội 6, lao vào trường Bộ binh tại căn cứ Nước Trong.
Anh bị thương nặng, trước khi tắt thở, anh có dặn lại: “Hãy lao lên phía trước để tôi nằm lại ở đây, không sao đâu”. Sau đó, anh dùng chút sức lực cuối cùng của mình nói với đồng đội: “Báo cáo cho Đại úy Lê Mã Lương biết, tôi đã hoàn thành nhiệm vụ” và anh tắt thở.
Trung tướng Phạm Xuân Thệ: Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, với sức mạnh tiến công như vũ bão của 5 cánh quân bộ đội chủ lực và sự phối hợp của bộ đội địa phương, dân quân du kích và lực lượng đồng bào nổi dậy của TP. Sài Gòn – Gia Định.

Địch, lực lượng địch dồn từ các mặt trận Huế - Quảng Trị- Đà Nẵng – Tây Nguyên và nhiều tỉnh thành phố khác. Khi quân ta đánh chiếm và giải phóng, chúng dồn về thành phố Sài Gòn với lực lượng quân rất lớn, chúng tổ chức các tuyến phòng thủ ngoại vi TP. Sài Gòn nhằm ngăn chặn lực lượng tiến công của chúng ta. Chúng thành lập các tuyến phòng thủ rất kiên cố, việc chi viện hỏa lực, pháo binh và không quân rất lớn, nhưng với sức mạnh tiến công của quân và dân ta, từng tuyến phòng thủ của địch đã bị ta tiến công, tiêu diệt và giải phóng.

Trên hướng Đông của chiến dịch Hồ Chí Minh, lực lượng quân đoàn 2 đảm nhiệm tiến công, tiêu diệt lực lượng địch tại căn cứ Nước Trong, tổng kho Long Bình và lực lượng địch trên địa bàn tỉnh Long Khánh, Vũng Tàu.

Chiều 26/4/1975, chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mở màn bằng trận đánh của trung đoàn 9 và trung đoàn 24, sư đoàn 304, quân đoàn 2, tiến công địch ở căn cứ Nước Trong, tổng kho Long Bình. Từ ngày 26 hết ngày 28, chúng tôi mới tiêu diệt địch ở căn cứ Nước Trong và một phần ở tổng kho Long Bình. Với sự kháng cự quyết liệt của kẻ thù, sau 2 ngày đêm chiến đấu, cán bộ chiến sỹ của trung đoàn 9 đã thương vong và hi sinh hàng trăm đồng chí.

Sau khi giải phóng được căn cứ Nước Trong và tổng kho Long Bình, trung đoàn 66, sư đoàn 304, quân đoàn 2, chúng tôi được nằm trong đội hình của binh đoàn thọc sâu có nhiệm vụ thọc thẳng vào trung tâm TP. Sài Gòn theo trục đường xa lộ Biên Hòa – Sài Gòn.

17h ngày 29/4, đội hình thọc sâu của chúng tôi bắt đầu hành quân, nhiệm vụ của chúng tôi là nếu gặp địch chống cự trên dọc đường thì triển khai chiến đấu, tiêu diệt địch lại tiếp tục hành quân vào nội đô TP. Sài Gòn. Lúc này, tôi là Đại úy tham mưu phó trung đoàn 66, sư đoàn 304, quân đoàn 2, tôi được Ban chỉ huy trung đoàn giao nhiệm vụ đi đầu chỉ huy lực lượng bộ binh của tiểu đoàn 7, trung đoàn 66, đi cùng với lực lượng xe tăng của lữ đoàn 203.

Với nhiệm vụ đánh chiếm các mục tiêu, Dinh Độc Lập, đài phát thanh Sài Gòn, Bộ Tư lệnh Hải quân ngụy Sài Gòn, trong quá trình hành quân đến khoảng 5h sáng ngày 30/4, đội hình chúng tôi tới cầu Sài Gòn, trong khi đó, lực lượng địch ở cầu Sài Gòn phòng thủ rất kiên cố với nhiều ụ súng lô cốt, hỏa lực và lực lượng xe tăng.

Dưới sông Sài Gòn có rất nhiều tàu chiến địch. Khi đội hình của chúng tôi tới đầu cầu Sài Gòn bên này, các loại hỏa lực của địch bắn trả một cách quyết liệt, chúng tôi dừng lại triển khai đội hình chiến đấu, xe tăng và bộ binh của ta triển khai 2 bên đường, dùng hỏa lực tiêu diệt địch. Chúng tôi bắn cháy 4 chiếc xe tăng M41, 2 chiếc tàu chiến ở dưới sông Sài Gòn và tiêu diệt nhiều ụ súng lô cốt của địch ở bên kia cầu Sài Gòn sau khoảng 10 phút chiến đấu.

Nhiều đồng chí, đồng đội của chúng tôi hi sinh ngay chân cầu Sài Gòn bên này, trong đó có đồng chí đại úy Ngô Văn Nhỡ - tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn xe tăng hi sinh ngay trên tháp pháo cùng nhiều đồng chí chiến sỹ bộ binh cũng hi sinh và bị thương.
Khoảng 7h sáng thì chúng tôi giải phóng được cầu, đội hình vượt qua cầu Sài Gòn, tiến công thẳng vào nội đô TP. Sài Gòn. Lực lượng bộ binh của tiểu đoàn 7 cùng với xe tăng đánh chiếm Dinh Độc Lập, tiểu đoàn 8, trung đoàn 66 đánh chiếm đài phát thanh, tiểu đoàn 9 đánh chiếm Bộ Tư lệnh Hải quân và cảng Ba Son.
Đặc biệt là trên hướng đánh chiếm vào Dinh Độc Lập của tiểu đoàn 7, chỉ còn cách Dinh Độc Lập khoảng hơn 100m, đồng chí Tô Văn Thành là chiến sỹ bộ binh của tiểu đoàn 7, ngồi trên xe tăng của ta bị địch bắn, đồng chí ngã từ trên xe tăng hi sinh khi chỉ cách Dinh Độc Lập khoảng 100m.

Đấy là một số cán bộ chiến sỹ của đơn vị chúng tôi hi sinh chỉ cách giờ giải phóng khoảng 1 tiếng đồng hồ mà tôi được chứng kiến mà trực tiếp chỉ huy họ chiến đấu tại đầu cầu Sài Gòn. 
Thưa bác Lương, từ một người lính vốn xông pha trên trận mạc, vậy khi trở về phụ trách ở Bảo tàng quân sự Việt Nam, bác có cảm thấy bị “hẫng hụt”? Theo nhiều người, đó là một môi trường quá bình lặng, yên tĩnh? Thậm chí có ý kiến còn cho rằng: với người có danh hiệu anh hùng, đã về bảo tàng thì coi như sự nghiệp cũng... đi vào bảo tàng luôn (Hương, Hà Đông, Hà Nội)
Thiếu tướng Lê Mã Lương: Tôi chưa bao giờ cảm thấy như vậy. Khi cấp trên quyết định chuyển tôi về làm ở bảo tàng tôi hết sức vui vẻ nhận lời. Bên ngoài, có thể nhiều người có cảm giác, bảo tàng là nơi bình lặng và yên tĩnh nhưng thực tế thì không phải vậy. Nếu chỉ nghĩ đơn thuần bảo tàng là nơi chỉ chứa đựng những hiện vật chiến tranh để hàng ngày mở cửa cho khách tham quan… thì như thế còn thiếu hụt lắm.
Càng đi sâu vào bảo tàng, tôi càng thấy được cuộc sống ở bảo tàng sôi động không kém gì một đơn vị. Ở bảo tàng, đây trước hết là một cơ quan khoa học, vì vậy nên người ta phải có trình độ, năng lực nhất định để nghiên cứu, tìm hiểu. Mỗi một hiện vật không đơn thuần là một cái ca, cái cốc… mà ở mỗi cái đó còn chứa đựng cả một câu chuyện hấp dẫn, có hồn, đầy sức mạnh… mà ta phải tìm hiểu mới có thể rõ được. Kể cả những hiện vật của địch, chúng không chỉ là những chiến lợi phẩm mà còn là minh chứng cho những giọt mồ hôi, xương máu của cha anh ta.
Chính vì vậy, đối với tôi, đời sống bảo tàng đa dạng và phức tạp lắm. Mỗi ngày, nhìn thấy dòng người đông đúc vào bảo tàng tham quan, họ chăm chú lắng nghe về từng hiện vật, về từng câu chuyện… mình càng ý thức được ý nghĩa và giá trị của công việc mình đã làm.
Thưa các bác, cảm giác lần đầu xung trận như thế nào? Ở nơi chiến trường, yếu tố nào giúp cho chiến sĩ vững tâm, chắc tay súng? (Văn Hương, Thái Bình)
Thiếu tướng Lê Mã Lương: Vừa rời ghế nhà trường gia nhập quân đội, sau một thời gian ngắn huấn luyện, chúng tôi bắt đầu hành quân trên đường ra mặt trận. Đi qua những trọng điểm, những túi bom của địch, ngày và đêm chứng kiến sự hy sinh của dân, bộ đội, thanh niên xung phong và dân công hỏa tuyến, làm cho mỗi người lính chúng tôi như được tăng thêm tinh thần và quyết tâm chiến đấu với kẻ thù.
Trận đánh đầu tiên của tôi là đánh vào tập đoàn cứ điểm Huội San – Tà Mây, phối hợp cùng các đơn vị xe tăng. Khi chúng tôi lao vào căn cứ địch, tiếng bom, tiếng đạn nổ tạo ra những vầng sáng chói lòa trong đêm tối làm cho mỗi chiến sĩ chúng tôi thêm hưng phấn, như được tiếp thêm sức mạnh để tiến lên tiêu diệt quân thù.
Vào thời điểm đó, bản thân tôi không hề có cảm giác sợ hãi. Có lẽ là do trong quá trình hành quân, tôi đã tận mắt chứng kiến nỗi đau và sự hy sinh của những người dân và đồng đội của mình. 
Trung tướng Phạm Xuân Thệ: Tôi nhập ngũ ngày 5/8/1967, sau 4 tháng huấn luyện tại  Thái Nguyên, chúng tôi hành quân đi bộ ròng rã gần 3 tháng trời. Ngày 15/4/1968, tôi được bổ sung vào đại đội 11, tiểu đoàn 9, trung đoàn 66, sư đoàn 304, tại mặt trận Khe Sanh. Mùng 2/5/1968, tôi được tham gia trận chiến đấu đầu tiên, đại đội 11 chúng tôi cùng đại đội đặc công của sư  đoàn tập kích tiêu diệt vào đại đội Mỹ đóng trên điểm cao 425 năm phía Bắc Khe Sanh khoảng 3km.
Khi bắt đầu nhận nhiệm vụ hành quân tiếp cận, tôi luôn luôn suy nghĩ: Mình mới được bổ sung vào chiến trường và đây cũng là trận đầu tiên trong đời binh nghiệp của mình, còn rất nhiều băn khoăn, lo lắng, lo vì không biết trận đánh diễn ra như thế nào, có tiêu diệt địch hay không, có hoàn thành nhiệm vụ hay không và cũng rất sợ: Nếu bị thương vong thì như thế nào. Nhưng được các đồng chí cán bộ tiểu đội, trung đội động viên nên tôi yên tâm hành quân chiếm lĩnh cùng đội hình.
Trước giờ nổ súng, tôi cảm thấy rất run, nhưng khi có hiệu lệnh nổ súng thì chúng tôi đồng loạt nổ súng và xung phong. Lúc này, mọi sự lo sợ đều biến mất. Và chúng tôi xung phong chiến đấu rất dũng mãnh.

Chúng tôi đánh chiếm từng ụ súng, từng lô cốt, sau khoảng 2h chiến đấu, chúng tôi làm chủ được trận địa, tiêu diệt được rất nhiều địch. Lúc này đã củng cố được lòng tin và sức mạnh của chúng tôi mà chúng tôi nghĩ đến phải chiến đấu và chiến thắng mỗi khi xung trận. Vì đây là trách nhiệm và nghĩa vụ của những người lính khi vào chiến trường mang theo cả niềm tin của gia đình, và nhân dân ở hậu phương miền Bắc giao nhiệm vụ, trọng trách cho mình, phải chiến đấu để tiêu diệt kẻ thù. 

Sau trận đánh này, tôi từng bước trưởng thành và tham gia nhiều trận chiến đấu khác. Cứ mỗi trận đánh lại trưởng thành thêm một bước, mặc dù, trong chiến đấu, cũng có đồng chí, đồng đội hi sinh, bản thân mình cũng bị thương, vào bệnh viện chữa lành vết thương, tôi lại trở lại đơn vị để chiến đấu.
Đi qua mấy cuộc chiến tranh, ông đã từng được đồng đội cứu sống bao nhiêu lần, thưa Trung tướng Phạm Xuân Thệ? (Hồng Lam, Ngô Quyền, Hải Phòng)

Trung tướng Phạm Xuân Thệ: Với những người lính trong quân đội nhân dân Việt Nam, 2 chữ “đồng đội” rất thiêng liêng, gần gũi, mà theo tôi chỉ có những người lính thì từ “đồng đội” đó mới thực sự thiêng liêng, gắn bó, gần gũi và tình cảm. Bởi vì, trong chiến đấu cũng như là lúc bình thường, tình đồng chí, tình đồng đội lúc này như tình anh em ruột thịt, luôn chia ngọt, sẻ bùi, lúc gian khổ, hi sinh, mỗi người đều nhận về mình những sự hi sinh, gian khổ đó, nhường lại thuận lợi cho đồng chí, đồng đội mình.

Tôi là một chiến sỹ bộ binh, khi bước chân vào chiến trường và tham gia chiến đấu và trực tiếp chiến đấu, hầu như trận nào tôi cũng bị thương, đặc biệt, ngày 17/3/1971, trong chiến dịch Nam Lào, tôi là đại đội trưởng đại đội 10, tiểu đoàn 9, trung đoàn 66, sư đoàn 304, đại đội tôi được giao nhiệm vụ  tiêu diệt một cụm xe tăng địch ở ngã ba Bản Đông. Trận chiến đấu xảy ra vô cùng ác liệt, rất nhiều đồng chí, đồng đội thương vong sau khi đã tiêu diệt được một số xe tăng địch. Tôi bị thương cả 2 tay, không tự băng bó được. Cánh tay trái bị đạn đại liên của xe tăng bắn vào cánh tay, bị thương rất nặng. Tôi được các đồng chí, đồng đội băng bó, đưa ra khỏi trận địa và đưa về bệnh viện điều trị.

Nhờ có đồng chí, đồng đội nên tôi được cứu chữa kịp thời nên vết thương sau 3 tháng điều trị lại lành và tôi lại về đơn vị chiến đấu. Hay đêm mùng 1, rạng mùng 2/5/1972, lúc này tôi là đại đội trưởng đại đội 11, tiểu đoàn 9, trung đoàn 66, tôi chỉ huy đại đội hành quân chiếm lĩnh đánh vào thành cổ Quảng Trị, dọc đường hành quân còn cách thành Quảng Trị khoảng hơn 1km, bị máy bay địch ném bom vào đội hình, nhiều đồng chí, đồng đội hi sinh, tôi bị thương rất nặng.
Hai mắt bị thuốc bom và đất đá đập vào, không mở mắt được, chân trái bị mảnh bom phạt vào đầu gối. Tôi ngất đi. Sau đó, được đồng chí, đồng đội cấp cứu và băng bó kịp thời và khiêng tôi về trạm phẫu của trung đoàn. Tại đây, tôi được điều trị chu đáo và chỉ sau 2 tháng điều trị, vết thương của tôi khỏi và sức khỏe bình phục, tôi lại tiếp tục trở lại đơn vị, chiến đấu và công tác.

Đấy là những lần tôi được đồng chí, đồng đội cứu tôi khỏi “lưỡi hái tử thần” trong chiến tranh.
Thưa Thiếu tướng Lê Mã Lương, trong cuộc đời chinh chiến của mình, trận chiến nào ông cảm thấy đau đớn nhất? (Bùi Hoàng Hải và nhóm đồng nghiệp tại Xí nghiệp xây lắp điện..., Hải Phòng)
Thiếu tướng Lê Mã Lương: Trận đánh khiến tôi đau đớn nhất là trận đánh ngày 20/3/1971 ở Đường 9, Nam Lào.  Khi Đại đội tôi được lệnh vượt qua đường 9, sau đó vượt qua sông Sê Pôn để chặn đường rút lui của địch. Cả Đại đội đang vận động giữa ban ngày thì bất ngờ gặp địch. Tôi cho đội hình tản ra và bao vây chặt quân địch. Sau 20 phút, chúng tôi đã tiêu diệt 37 tên, bắt sống 43 tên, trong đó có viên đại úy chỉ huy tiểu đoàn biệt động quân Sài Gòn.
Về phía ta, có 1 hy sinh và 3 bị thương. Sau khi làm chủ trận địa, chúng tôi bắt đầu cơ động sâu sang phía Nam của sông Sê Pôn để phục kích quân địch. Đang cơ động thì bị máy bay địch phát hiện. Chúng rải bom bi với hàng chục quả bom bi mẹ bung ra hàng nghìn quả bom bi con. Đây là loại bom bi vướng nổ, trong mỗi quả bom bi bung ra 4 đoạn dây dài, mỗi đoạn khoảng 2 mét. Chỉ cần vướng vào 1 trong 4 dây đó, quả bom sẽ phát nổ. Cả đội hình đại đội lọt trong vong vây của bom bi.
Chúng tôi không thể tiến và cũng không thể lui được...
Tôi lập tức điện về tiểu đoàn: “Cho tôi mở đường máu để thoát ra khỏi khu vực hiểm nguy này”. Đại úy Tiểu đoàn trưởng Lê Hồng Loan đồng ý với phương án của tôi. Được tiểu đoàn cho phép, tôi giao nhiệm vụ cho các trung đội trưởng hành quân theo một đội hình hàng dọc. Tôi dẫn đầu đội hình.
Đi chừng 30 mét thì hai bên sườn có tiếng phát nổ của bom bi. Lập tức, có hai chiến sĩ hy sinh. Tôi nhanh chóng gọi các trung đội trưởng, giao nhiệm vụ: “Chấp hành nghiêm lệnh của tôi, không được để cho bất kỳ ai bước chân ra khỏi lộ trình đã được vạch ra để đảm bảo an toàn tuyệt đối”. Sau đó tôi động viên các chiến sĩ hãy bình tĩnh để thoát ra khỏi bãi bom bi này. Toàn bộ đội hình của đại đội đã trật tự hơn nhưng rồi do sơ ý, một chiến sĩ bị vướng vào một dây của bom bi khiến quả bom phát nổ. 3 chiến sĩ lại hy sinh.
Tôi ra lệnh cho đại đội: “Tất cả nằm xuống thành hàng dọc, trườn ra khỏi bãi bom bi”. Tôi vừa trườn vừa quan sát hai bên dây vướng của bom bi thì chiến sĩ liên lạc tên Thanh trườn nhanh lên phía trước tôi, dùng chiếc mũ cối đang đội trên đầu của mình che khuôn mặt cho tôi.
Với hành động đó, tôi vô cùng xúc động và nghĩ ngay đến trách nhiệm của mình là phải đưa toàn bộ đại đội thoát ra khỏi bãi bom bi này an toàn. Và cứ như vậy, chúng tôi trườn nhích lên từng bước một. Nhiều người trong đại đội tôi, bàn tay và cùi tay đã rớm máu vì cọ sát trên mặt đá, cát.

Sau 1 giờ 30 phút, chúng tôi đã thoát ra khỏi bãi bom bi. Tất cả mọi người, ai nấy đều nhìn lại bãi bom bi như vừa trải qua một trận đánh khốc liệt. Không ai bảo ai, mọi người òa lên khóc nức nở. Trong đó, nhiều chiến sĩ lao đến ôm chặt lấy tôi. Nước mắt tôi rưng rưng và vụt nghĩ: “Chưa bao giờ mình lại chứng kiến một thời khắc hiểm nguy tới sinh mạng của hàng trăm con người như vậy”.
Chiến trường khốc liệt, nhưng có những người lính gồng mình để họ không phải yếu lòng, không phải khóc trước mất mát hy sinh của đồng đội, trước sự khắc nghiệt của hoàn cảnh. Nhưng có những chuyện xảy ra ở hậu phương, xảy ra với gia đình, người thân lại khiến họ rơi lệ. Ông đã bao giờ ở trong hoàn cảnh đó hoặc chứng kiến đồng đội mình ở trong hoàn cảnh đó? (hoangtlv..@yahoo.com)
Trung tướng Phạm Xuân Thệ: Là người lính trực tiếp chiến đấu với kẻ thù, không tránh khỏi những sự hi sinh, mất mát của đồng chí, đồng đội, là người trực tiếp chiến đấu với đồng chí, đồng đội qua nhiều những trận đánh của năm tháng chiến tranh, tôi được chứng kiến rất nhiều đồng chí, đồng đội của tôi hi sinh và bị thương. Như phần trên tôi đã nói: Ngày 2/5/1968, lần đầu tiên, tôi xung trận, sau khi tiêu diệt địch ở cao điểm 425, đại đội chúng tôi giao nhiệm vụ chốt giữ cao điểm không cho quân Mỹ đánh chiếm lại cao điểm mà chúng tôi đã chiếm được, bắt đầu sáng 3/5/1968, địch bắt đầu dùng máy bay và pháo binh đánh phá vào trận địa chúng tôi chiếm giữ rất ác liệt.
Tôi và đồng chí Nguyễn Văn Miêng, quê ở Ý Yên – Hà Nam, cùng trong 1 hầm, để sẵn sàng đánh địch khi địch tiến công lên. Khoảng 9h sáng ngày 3/5, sau khi địch dùng máy bay và pháo binh đánh phá, bộ binh Mỹ bắt đầu tiến công lên cao điểm chúng tôi chiếm giữ. Theo kinh nghiệm của cán bộ cấp trên dạy chúng tôi là để Mỹ vào thật gần hãy nổ súng, trước hầm tôi là đội hình của một trung đội Mỹ tiến công lên, tôi để chúng vào gần cách chúng tôi khoảng 5m, tôi nổ súng.
Ngay loạt đạn đầu tiên, tôi đã tiêu diệt được một tên Mỹ nằm ngay trước cửa hầm chúng tôi. Sau đó, tôi tiêu diệt được 3 tên khác, ở ngách hầm bên kia, đồng chí Miêng cũng nổ súng nhưng chỉ một loạt đạn sau đó, tôi thấy súng đồng chí không nổ nữa, tôi nhìn sang thì đồng chí đã ngã gục ngay ở ngách hầm.

Sau những loạt đạn của chúng tôi, địch lùi xuống không tiến công. Tôi bò sang chỗ đồng chí Miêng thì đồng chí ấy đã tắt thở. Tôi đưa đồng chí đó vào trong hầm và suốt 4 ngày đêm chiến đấu giữ điểm cao 425, hàng ngày, địch vẫn tiếp tục tiến công nên chúng tôi chưa đưa thương binh tử sỹ về phía sau được nên trong hầm của tôi, đồng chí Miêng vẫn nằm trong đó.
Tôi lấy tăng, võng khâm liệm đồng chí để tại trong hầm. Ban ngày, địch tiến công, tôi lại tiếp tục chiến đấu. Đêm xuống, địch không tấn công trong hầm, tôi là người còn sống, đồng chí Miêng đã hi sinh, chứng kiến sự mất mát của đồng chí, đồng đội đầu tiên trong đời người lính, cứ nhìn thi hài đồng chí, đồng đội nằm bên cạnh vị trí chiến đấu của mình, tôi lại như bật khóc. Nhưng phía trước mình là kẻ thù đang tiếp tục tiến công vào vị trí chốt giữ của mình nên lòng căm thù lại lấn át đau thương để chiến đấu.

Tôi nghĩ: Nếu như lúc bình thường chứng kiến đồng chí, đồng đội của mình hoặc người thân hi sinh thì không thể cầm được nước mắt và bật òa lên khóc, nhưng trong tình huống chiến đấu thì mình lại kìm nén để không bật lên tiếng khóc.
Bác Lương ơi, trong chiến tranh, bác đã được đồng đội cứu sống bao lần ạ? (Nam Long, Hà Nam, 37 tuổi)
Thiếu tướng Lê Mã Lương: Từ một chiến sĩ cho đến khi trở thành Trung đoàn trưởng, tôi đã trực tiếp chiến đấu và chỉ huy chiến đấu hàng trăm trận đánh và hàng chục chiến dịch, thực sự tôi không thể nhớ nổi đã đồng đội được chia lửa, cứu sống bao nhiêu lần.
Nhưng có những trận đánh mà tôi không bao giờ quên được. Có thể kể đến trận đánh đầu tiên của tôi trên đường 9, năm 1968. Khi đó, tôi bị thương nặng, hỏng mắt trái và hàng chục vết thương trên người, tôi ngất đi, lúc tỉnh dậy đã được đồng đội băng bó, đưa tôi rời khỏi trận địa.
Ngày 17/6/1969, 12 giờ trưa, tôi đi đầu trong đội hình đang hành quân ở thung lũng Pa Trang – Khe Sanh thì bất ngờ bị một lính Mỹ da đen phục sẵn ở đường mòn, quật ngã tôi. Sau những giây phút vật lộn với tên lính Mỹ ấy, được đồng đội phía sau bắn yểm hộ, tôi đã dùng dao găm đâm chết tên lính này.
Ngày 15/2/1971, trong một trận đánh chốt ở khu vực 351, Ka Ki đường 9, Nam Lào, tôi bị thương. Tiểu đoàn trưởng Lê Hồng Loan đã ra lệnh tôi rời khỏi trận địa nhưng tôi đã xin ở lại để tiếp tục chỉ huy anh em chiến đấu. Trong lúc bọn địch ồ ạt xông lên, tôi được anh em bắn chặn để địch không dồn đạn về phía tôi.
Sự chia lửa của những đồng đội thân thương ấy, tôi không bao giờ quên được. Nếu không có họ, chắc chắn tôi đã hy sinh. Trong chiến tranh là vậy, tình đồng đội, đồng chí vô cùng cao cả, sẵn sàng xả thân mình để bảo vệ đồng đội khỏi hiểm nguy.
Thưa tướng Thệ, ông nhớ nhất những tấm gương nào trong chiến đấu? (Phạm Duy, Seatle, Mỹ)

Trung tướng Phạm Xuân Thệ: Trong chiến đấu, sự hi sinh gian khổ, ác liệt luôn luôn đến với những người lính, chính những lúc hi sinh, gian khổ ác liệt như vậy, đã xuất hiện rất nhiều tấm gương chiến đấu dũng cảm, ngoan cường. Đã là người lính thì đức tính chịu đựng gian khổ hi sinh không thể thiếu được, nhưng những người trực tiếp chiến đấu thì đức tính ấy luôn luôn xuất hiện đối với người lính. Tôi còn nhớ, tháng 8/1974, lúc này tôi là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 9, trung đoàn 66, sư đoàn 304.

Trung đoàn 66, sư đoàn 304 chúng tôi được giao nhiệm vụ tiêu diệt địch ở chi khu quận lỵ Thượng Đức. Sau nhiều ngày chiến đấu ta và địch giành giật từng đoạn hào, từng lô cốt, từng ụ súng, nhiều đồng chí, đồng đội của tôi đã hi sinh và thương vong. Nhưng chúng tôi vẫn tiếp tục chiến đấu. Đồng chí này ngã xuống, đồng chí khác lại xông lên. Sở chỉ huy tiểu đoàn của tôi cách hàng rào của địch khoảng 100m, tôi quan sát rất rõ những hành động của đồng chí, đồng đội chúng tôi xông lên tiêu diệt địch.
Tôi còn nhớ: Đồng chí Nguyễn Văn Nam – quê ở Nghệ An là đại đội trưởng đại đội 10, tiểu đoàn 9, dưới quyền chỉ huy của tôi, đây là một đồng chí rất xông xáo, gan dạ. Khi mở được hàng rào, chiếm được lô cốt đầu cầu, đồng chí xông lên dẫn dắt bộ đội xung phong. Khi đồng chí bị thương nặng, đồng chí vẫn tiếp tục chỉ huy bộ đội chiến đấu đến khi đồng chí tắt thở. Đây là một đồng chí cán bộ đại đội rất ngoan cường, dũng cảm và nhiều các đồng chí khác cũng ngoan cường, dũng cảm chiến đấu tới hơi thở cuối cùng để tiêu diệt được nhiều địch. 

Hay sáng ngày 30/4/1975, tại đầu cầu Sài Gòn – nơi xảy ra trận chiến đấu rất ác liệt giữa lực lượng đi đầu binh đoàn thọc sâu chúng tôi với quân địch, khi địch bắn vào đội hình chúng tôi, đồng chí Ngô Văn Nhỡ - tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn xe tăng của lữ đoàn 203, đồng chí đứng lên tháp pháo để chỉ huy xe tăng ta chiến đấu. Đồng chí bị thương rất nặng, nhưng vẫn tựa mình vào tháp pháo để chỉ huy bộ đội. Đến khi đồng chí tắt thở, đồng chí, đồng đội mới đưa đồng chí ra khỏi xe tăng.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang có nói về đoàn kết người Việt Nam ở nước ngoài trong bài phát biểu hôm 25.7. Thưa Trung tướng Phạm Xuân Thệ, nếu gặp một người lính, một sĩ quan của chế độ VNCH đang định cư ở nước ngoài, ông sẽ nói với họ câu gì? (Nguyễn Văn Ba, Chiềng Mai, Thái Lan)

Trung tướng Phạm Xuân Thệ: Như chúng ta đã biết, chúng ta đều là con lạc cháu hồng, là người dân Việt Nam mang dòng máu của người Việt Nam, trong chiến tranh, mỗi người ở một chiến tuyến khác nhau, có người cầm súng của đế quốc chống lại dân tộc Việt Nam.

Theo tôi, đây là tình thế bắt buộc hoặc họ chưa hiểu hết ý nghĩa của việc làm của họ khi chống lại dân tộc mình, nhưng khi hòa bình lặp lại thì dân tộc Việt Nam vẫn là dân tộc Việt Nam, chúng ta cùng chung một Tổ quốc. Quan điểm của Đảng và Nhà nước khép lại quá khứ hướng tới tương lai là một quan điểm vô cùng đúng đắn, nhằm xóa bỏ hận thù để cùng nhau xây dựng đất nước Việt Nam giàu đẹp.
Vì thế, nếu tôi gặp họ - những người trước đây là sỹ quan hoặc là lính của quân đội Việt Nam Cộng hòa, hiện nay, đang định cư tại nước ngoài hoặc bất cứ ở đâu trên trái đất này thì tôi vẫn nói với họ: Chúng ta là người Việt Nam nên chúng ta phải đoàn kết một lòng để xây dựng Tổ quốc, quê hương, không vì mặc cảm mà mang lòng chia rẽ, phân biệt.
Đọc báo Giáo dục Việt Nam, cháu rất ấn tượng với câu nói của bác về sự hy sinh của chiến sĩ ta khi bảo vệ quần đảo Trường Sa. “Chúng ta đã chịu không ít tổn thất nặng nề. Nhiều chiến sĩ ưu tú của Việt Nam đã ngã xuống để bảo vệ vùng biển Tổ quốc. Chúng ta đã ứng xử bằng một thái độ hết sức mềm dẻo nhưng kiên quyết. Tuy nhiên, đối với những người lính như chúng tôi, những người trực tiếp chứng kiến đồng đội mình hy sinh thì đó là một nỗi đau tới tận cùng”. Bác có thể cho chúng cháu được biết, bác nghe thông tin đó trong hoàn cảnh nào và tâm trạng của bác khi đó ra sao?  (Quỳnh, 29 tuổi, Hà Nội)

Tôi nghe thông tin đó từ thông báo của Bộ quốc phòng. Cái cảm giác nhói đau trong tim như tôi đã từng chứng kiến, từng bất lực nhìn cái chết của đồng đội. Nhưng ở đây, nỗi đau đó đã lên tới cực điểm chỉ vì tham vọng và sự ngạo mạn của “nước lớn”, đất nước đã từng là người bạn chí cốt trong cuộc chiến tranh giải phóng 30 năm của dân tộc Việt Nam.
Tôi bàng hoàng và không thể tưởng tượng được về sự xử sự không còn tình người của họ và tiếc thương cho những người chiến sĩ đã xả thân để bảo vệ biển đảo thân yêu của Tổ quốc.
27/7 là dịp để tất cả chúng ta cùng tưởng nhớ đến các vị anh hùng đã hi sinh cho độc lập dân tộc ngày hôm nay, nhưng cũng là dịp nhắc nhở thế hệ trẻ phải luôn yêu nước. Thưa Trung tướng Phạm Xuân Thệ, ông từng là người chỉ huy quân trong nhiều trận đánh, ông có nhận xét thế nào về thế hệ trẻ ngày xưa và ngày nay? (Duy, du học sinh tại Singapore)

Trung tướng Phạm Xuân Thệ: Chúng ta phải khẳng định rằng: Thế hệ trẻ ngày xưa và ngày nay đều là những người sinh ra và lớn lên trên Tổ quốc Việt Nam đều mang dòng máu Lạc Hồng của ông cha, đều có trách nhiệm để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thế hệ trẻ chúng tôi ngày xưa sinh ra và lớn lên trong thời kỳ đất nước có chiến tranh, luôn luôn ghi lòng, tạc dạ là phải đóng góp sức mình chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, dành lại hòa bình, độc lập cho non sông. Khi lớn lên, rời khỏi ghế nhà trường, mọi người thanh niên nam nữ đều hăng hái xung phong lên đường chiến đấu. Mỗi người ở mỗi lĩnh vực khác nhau, ở một trận chiến đấu khác nhau nhưng đều mang một mục đích: Nhanh chóng giải phóng quê hương, đất nước. Vì vậy, thế hệ trẻ trước đây được rèn luyện trong chiến đấu, trưởng thành trong chiến đấu, họ chịu đựng hi sinh, gian khổ trong chiến tranh ác liệt, họ quyết một lòng không sợ khó khăn, gian khổ, thực hiện bằng được lý tưởng của mình và chiến đấu thắng lợi.

Khi đất nước được hòa bình, thống nhất, thế hệ trẻ hiện nay được sinh ra và lớn lên, học tập trong mái trường XHCN, trong điều kiện đất nước được hòa bình, độc lập, tự do, hầu hết đều đã học hết lớp 12, có trình độ kiến thức hơn tầng lớp chúng tôi ngày xưa rất nhiều. Bởi vì, chúng tôi khi đi bộ đội chỉ mới học hết lớp 7. Bây giờ, các bạn trẻ học hết lớp 12 và học lên bậc Đại học, lại được thừa hưởng truyền thống chống ngoại xâm của ông cha, của lớp người đi trước. Do vậy, tôi tin tưởng: Lớp thanh niên ngày nay nếu được rèn luyện lòng yêu nước và sự chịu đựng gian khổ, hi sinh như chúng tôi trước đây thì họ sẽ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN một cách toàn vẹn.
Tuy nhiên, chúng tôi cũng không khỏi băn khoăn: Hiện nay, một bộ phận thanh niên không chịu rèn luyện mà chỉ biết hưởng thụ nên khi gặp khó khăn gian khổ, họ không vững vàng và sẵn sàng chịu đựng sự hi sinh.

Thưa trung tướng Thệ và thiếu tướng Lương, cháu và ba mẹ rất mừng vì lại được nhìn thấy hình ảnh trung tướng, thấy hai vị anh hùng vẫn còn khỏe, minh mẫn. Có thể hơi ngoài lề một chút, nhưng mong nhận được đánh giá của bác về những tướng lĩnh Sài Gòn từng đương đầu với bác? Trận chiến nào đáng nhớ nhất? Trong các danh tướng thời kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, bác muốn nhắc đến ai? (Lê Kiên P, quận 3, TP Hồ Chí Minh)

Trung tướng Phạm Xuân Thệ: Trong kháng chiến chống Mỹ, tôi trưởng thành từ một người lính cho tới cấp cán bộ trung đoàn, khi hòa bình lập lại, tôi được học qua các trường trong quân đội và trưởng thành như ngày nay là nhờ sự chỉ huy tài tình của các tướng lĩnh và các cán bộ chỉ huy quân đội nhân dân Việt Nam. Như chúng ta đã biết, đất nước của chúng ta trải qua các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm đều dành được thắng lợi vẻ vang, đó là sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó, có đường lối đúng đắn của Đảng CSVN, sự chỉ huy tài tình của Bác Hồ - vị cha già của dân tộc.
Đặc biệt, trong quân đội nhân dân Việt Nam, các vị tướng như bác Giáp, bác Văn Tiến Dũng và nhiều danh tướng khác đều rất giỏi trong chỉ huy chiến đấu và xây dựng lực lượng quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh.

Đã là tướng lĩnh thì vị tướng nào cũng có bản chất anh hùng của một dân tộc anh hùng, có sự thông minh và trí tuệ, bản lĩnh của người Việt Nam nên tất cả các tướng lĩnh đã chỉ huy trong chiến đấu chống Pháp và chống Mỹ đều là những tướng tài của quân đội ta, nhân dân ta.

Đối với các tướng lĩnh của quân đội Sài Gòn thì hầu hết họ được học về kiến thức quân sự một cách bài bản qua các trường trong nước và ở Mỹ. Họ cũng trưởng thành nhưng sự trưởng thành của họ mang một ý nghĩa khác, họ chiến đấu cho chính quyền Sài Gòn hay làm tay sai cho đế quốc Mỹ. Mục đích của họ là đồng lương và sự nhận thức sai lầm bằng lòng hận thù dân tộc. Họ chỉ huy cấp dưới của họ tiêu diệt được nhiều đồng bào ta thì họ càng được thăng tiến.
Nhưng khi chiến đấu với quân đội nhân dân VN, họ cũng rất dễ dao động vì lý tưởng của họ và sự trông chờ của họ là viện trợ của nước ngoài, nếu không có sự viện trợ đó thì họ chùn bước, vì cuộc chiến tranh của họ là phi nghĩa. Cầm súng của kẻ thù, chống lại dân tộc mình, bắn giết đồng bào ta. Sự phi nghĩa đó khi gặp sự chiến đấu dũng cảm, sự chỉ huy tài tình của các tướng lĩnh của quân đội nhân dân VN thì họ không đủ sức chống trả.
Họ bỏ chạy, thậm chí như Tổng thống Thiệu, khi mất Tây Nguyên và Huế - Đà Nẵng (tháng 3/1975) đã kêu gọi tự thủ nhưng thực tế, ông ta cũng nghĩ tới cách chuồn. Hay tướng Ngô Quang Trưởng – là chỉ huy quân khu I, đóng quân tại TP. Đà Nẵng, khi bị quân giải phóng tiến công cũng nhanh chóng bỏ chạy. Và nhiều tướng lĩnh khác cũng bỏ rơi quân lính mà thoát thân.
Thiếu tướng Lê Mã Lương: Trong kháng chiến chống Mỹ, quân đội Sài Gòn có nhiều tướng lĩnh, trong đó có một số tướng lĩnh đã từng đối đầu trực tiếp với chúng tôi như Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, Trung tướng Tôn Thất Đính … và phải kể đến cả Đại tướng Trần Thiện Khiêm, Đại tướng Dương Văn Minh… Đó là những vị tướng bên kia chiến tuyến mà chúng tôi rất nể vì được đào tạo cơ bản, có năng lực và kinh nghiệm giải quyết chiến tranh.
Tôi nhớ nhất là những trận đánh ở Xuân Lộc năm 1975 với đối phương là Chuẩn tướng Lê Minh Đảo, người quyết tâm tử thủ để giữ thị xã Xuân Lộc. Nhưng với sức mạnh quân sự to lớn của ta, tướng Lê Minh Đảo đã không thể trụ vững sau hơn 10 ngày chiến đấu. Toàn bộ sư đoàn 3 của ông đã tan rã hoàn toàn.
Trong các danh tướng thời kỳ chống Pháp, chống Mỹ, người tôi muốn nhắc đầu tiên là Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nhà cầm quân lỗi lạc của Việt Nam. Với trí tuệ uyên bác, văn võ song toàn, Đại tướng là một trong số ít danh tướng trên thế giới được kính trọng nhất.
Tôi đã từng tiếp xúc và làm việc với Đại tướng nhiều lần. Đằng sau vẻ uy nghi của một Đại tướng lừng danh, toát lên sự thông tuệ, minh mẫn và đậm nét văn hóa phương Đông. Ngoài ra, Đại tướng còn có tác phong giản dị, gần gũi đến ngỡ ngàng khiến những người lần đầu gặp mặt cũng tưởng như đã trở nên quen thuộc.
Thưa Trung tướng Phạm Xuân Thệ, ông đã từng đảm nhiệm vị trí Tư lệnh Quân khu I, một lực lượng quan trọng tại địa bàn quan trọng ở miền Bắc Việt Nam, thực tế trên cương vị chỉ huy, ông nhận thấy quân đội của chúng ta hiện nay đang có thế mạnh gì, những hạn chế trong quá trình xây dựng quân đội vững mạnh tòan diện? (Lan, Hưng Yên)

Trung tướng Phạm Xuân Thệ: Như chúng ta đã biết, sức mạnh của quân đội nhân dân VN là một sức mạnh tổng hợp gồm có chính trị, quân sự và kinh tế. Quân đội nhân dân VN trải qua nhiều cuộc kháng chiến chống ngoại xâm đến nay trưởng thành rất nhiều so với những ngày đầu khi thành lập, đội ngũ tướng lĩnh và chỉ huy trong quân đội nhân dân VN hiện nay đã trải qua các cuộc chiến tranh được trưởng thành trong từng trận chiến đấu, có nhiều kinh nghiệm chỉ huy, huấn luyện và chiến đấu.

Quân đội nhân dân VN được sự chỉ huy tuyệt đối, toàn diện của Đảng CSVN luôn luôn có đường lối quân sự đúng đắn, trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, được thừa kế nhiều kinh nghiệm trong các cuộc kháng chiến. Lực lượng chiến sỹ của quân đội nhân dân VN hiện nay có trình độ văn hóa cao, kiến thức hiểu biết về xã hội rất rộng. Họ được những người chỉ huy huấn luyện và rèn luyện đầy đủ thì sức mạnh của họ được nhân lên gấp bội.

Quân khu I (Quân khu Việt Bắc trước đây) đúng như bạn nói ở một vị trí đặc biệt quan trọng, có đường biên giới chung với nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 614,8km. Hai nước núi liền núi, sông liền sông, có truyền thống đoàn kết lâu đời nhưng cũng có lúc này, lúc khác, xảy ra chuyện nọ, chuyện kia, là một lực lượng được Đảng và quân đội giao cho quân khu đảm nhiệm là phên dậu của Tổ quốc, nên quân khu I chúng tôi luôn luôn giữ  vững niềm tin bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, biên giới của Tổ quốc.

Như chúng ta đã biết, tình cảm, tình đoàn kết thì không có biên giới, nhưng một quốc gia thì phải có biên giới rõ ràng. Mà đã có biên giới, là lực lượng bảo vệ biên giới, chúng tôi luôn cùng toàn quân, toàn dân, đặc biệt là các dân tộc trên tuyến biên giới bảo vệ vững chắc từng tấc đất, giữ vững hòa bình, an ninh biên giới quốc gia.
Kính thưa các vị tướng! Câu chuyện về Việt Nam anh hùng trong hai cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại thì lớp trẻ Việt Nam ai cũng biết, cũng hiểu và được học từ ghế trường phổ thông. Nhưng có lẽ sự băn khoăn nhất, có con đường nào để hai cuộc chiến ấy giảm bớt xương máu của nhân dân hay không? Hay cứ phải có nhiều xương máu mới có độc lập, tự do? Chúng tôi thấy nhiều quốc gia trên thế giới, họ cũng độc lập đấy thôi, nhưng họ ít nghĩa trang liệt sỹ, ít bà mẹ Việt Nam anh hùng hơn chúng ta? (Thông Thiện, phóng viên tại Hà Nội)
Trung tướng Phạm Xuân Thệ: Như chúng ta đã biết, vị trí địa lý lãnh thổ đất nước VN của chúng ta là một vị trí vô cùng quan trọng, Đảng ta, đất nước ta không bao giờ muốn chiến tranh và cũng không bao giờ mang quân đi chiến tranh ở nước khác, luôn luôn mong muốn sống trong hòa bình, độc lập, tự do, hạnh phúc. Nhưng với kẻ thù, họ không muốn đất nước ta được như vậy. Họ luôn mang quân tới xâm lược nhằm thôn tính đất nước ta, buộc dân tộc ta phải đứng lên cầm súng để chống lại kẻ xâm lược.

Như chúng ta đã biết, chiến tranh xảy ra không tránh khỏi sự mất mát, đau thương mà những cuộc chiến tranh trên đất nước ta, cuộc chiến tranh nào cũng gay go, quyết liệt, kẻ thù nhiều âm mưu, xảo quyệt, vũ khí đạn dược mạnh hơn ta gấp nhiều lần, nên trong cuộc chiến tranh của đất nước, dân tộc ta, không tránh khỏi sự hi sinh.

Trong kháng chiến chống Pháp, chúng ta đã hi sinh hàng vạn người, trong chiến tranh chống Mỹ, riêng lực lượng quân đội nhân dân Việt Nam đã hi sinh trên một triệu người và nhiều đồng bào, đồng chí của chúng ta đã hi sinh trong các cuộc chiến  tranh đó. Chính nhờ sự hi sinh của đồng bào, đồng chí chúng ta nên chúng ta mới được hưởng độc lập, hòa bình, ấm no, hạnh phúc như ngày nay.

Trong cuộc chiến tranh vĩ đại của hồng quân Liên Xô và một số nước Đông Âu khi Chủ nghĩa phát xít xâm lược họ, cuộc chiến tranh ấy cũng hi sinh vài chục triệu người mới dành được thắng lợi. Chính vì vậy, không vì lý gì mà đế quốc tới xâm lược đất nước mình mà mình không chiến đấu để bảo vệ. Có chiến đấu, bảo vệ thì mới giữ được Tổ quốc.
Thiếu tướng Lê Mã Lương: Việt Nam là một trong những dân tộc trên thế giới phải gánh chịu nhiều đau thương và mất mát nhất. Chúng ta đã trải qua 1117 năm Bắc thuộc. Vì vậy dân tộc Việt Nam thấu hiểu nỗi đau của sự mất nước, đô hộ và xâm lược ngoại bang. Là một dân tộc rất yêu chuộng hòa bình nhưng kẻ thù buộc chúng ta phải cầm súng để tự bảo vệ nền độc lập dân tộc mà các thế hệ cha anh đã chiến đấu và giữ gìn. Lịch sử đã chứng minh rất rõ điều đó.
Điển hình như năm 1946, Bác Hồ cũng như nhân dân ta đã kiềm chế không để chiến tranh với Pháp xảy ra nhưng thực dân Pháp đã không cho chúng ta lựa chọn hòa bình và Bác phải ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.
Trong chiến tranh, dân tộc Việt Nam là một nước nhỏ nhưng luôn phải chiến đấu với kẻ thù hùng mạnh hơn gấp nhiều lần. Hơn nữa, những cuộc kháng chiến thường xuyên kéo dài và ác liệt nên việc tổn thất, hy sinh của nhân dân ta để dành độc lập tự do cũng là một tất yếu, không thể tránh được.
 
Những lần rơi nước mắt của Tướng Lê Hữu Đức
Dù đã ở tuổi gần cửu thập, nhưng mỗi lần nhắc đến người vợ đầu – người đồng đội tuyệt vời của mình, “Hổ cụt Tây Nguyên” - trung tướng Lê Hữu Đức lại khóc. Ông làm những người đối diện ông cũng khóc theo khi đưa cánh tay cụt (bị thương ở chiến trường) lên lau nước mắt nghẹn ngào.
Ông kể, trong những ngày đầu đi chiến đấu, ông gặp được “ý trung nhân” của mình, một cô gái xứ Nghệ rất trẻ, nhưng đảm nhiệm cương vị Bí thư đảng đoàn phụ nữ huyện Đại Lộc. Người con gái đó tên là Nguyễn Thị Đạm Liên.
- Cô ấy thấp, nhỏ nhưng có khuôn mặt dễ thương, cử chỉ nhẹ nhàng, thanh thoát. Đạm Liên quê ở Nam Đàn, từng học trường Đồng Khánh. Ngày xưa những người con gái có học như thế ít lắm. Mến tài nhau, vừa đồng chí lại vừa đồng hương, chúng tôi đã đến với nhau. Trung tướng Lê Hữu Đức kể.
Yêu nhau cuối năm 1946, đến tháng 3-1947, ông bị thương nặng, phải cắt cánh tay. Nghĩ đến tương lai của người yêu - một cô gái trí thức mới 21 tuổi, ông chủ động “cắt” quan hệ. Không ngờ Đạm Liên biết chuyện, tìm đến “xạc” cho ông một trận: “Anh tiểu tư sản quá. Vợ chồng ai mà chẳng muốn trọn vẹn, đã hứa với nhau thì phải giữ lời chứ!”.
Năm 1950, họ tổ chức đám cưới ở thị xã Tam Kỳ. Không nhà không cửa, đêm tân hôn, đôi vợ chồng trẻ dắt tay nhau đi suốt một đêm khắp thị xã rồi sáng hôm sau mỗi người lại lao vào công việc của mình. Cuộc sống gian khổ, vất vả nhưng rất lãng mạn của những ngày tháng đó vẫn in đậm trong trái tim ông.
Năm 1953, Lê Hữu Đức được điều ra Việt Bắc nhận nhiệm vụ ở tổ chức miền Nam của Bộ Tổng tham mưu, Đạm Liên về công tác ở Quân khu 4. Vợ chồng xa nhau cho đến năm 1955, khi bà được điều ra Ban Đối ngoại của Trung ương Hội Phụ nữ Việt Nam, họ mới được sống bên nhau. Có lần ông tâm sự:
- Vợ tôi hiền lắm, tuyệt vời, tôi phục lắm! 10 năm ở với nhau, chưa bao giờ thấy bà ấy đánh con bao giờ. Tôi thỉnh thoảng nóng quá, cũng đánh con, phết chúng nó vào đít. Những lúc đó vợ tôi đưa chúng đi rửa mặt, xong bắt vòng tay xin lỗi ba. Đêm về, khi các con đã đi ngủ hết, bà mới phê bình tôi. Bà ấy bảo rằng, anh là quân sự, nhưng đừng dậy con bằng roi vọt. Các con còn nhỏ, nên anh phải tình cảm với chúng nó chứ. Trước những lời dịu dàng chân thành ấy, tôi mới thấy hối hận…
Năm 1965, Trung tá Lê Hữu Đức rời Hà Nội, chia tay người vợ thân yêu và 3 đứa con thơ vào chiến trường Tây Nguyên nhận nhiệm vụ Tham mưu trưởng Sư đoàn 1, sau đó là Tham mưu trưởng Sư đoàn 6, dưới quyền chỉ huy của Sư đoàn trưởng Nguyễn Hữu An. Không ngờ ngày chia tay cũng là ngày ông vĩnh biệt người vợ thủy chung và hiền thục.
Ngày 15-6-1968, một ngày đã khắc vào trái tim ông một nỗi đau không thể nào quên. Lúc đó ông đã là Tham mưu phó Mặt trận Tây Nguyên. Buổi chiều, đi công tác về cơ quan, ông nhận được bức điện khẩn từ Hà Nội gửi vào. Giở ra, ông choáng váng, đất dưới chân ông như sụp đổ: Bức điện của Tổng cục Chính trị báo tin vợ ông vừa mới mất! Ông không tin vào mắt mình, mặc dù đó là sự thật. Vợ ông còn trẻ thế kia, hiền hậu và giỏi giang thế kia, làm sao mà chết được.
Sau này khi trở ra Hà Nội, nghe cơ quan của bà kể lại, ông mới biết bà chết vì làm việc quá sức. Một nách ba con nhỏ, chiến tranh phải đưa đi sơ tán tận Vĩnh Phúc, bà vẫn bám cơ quan làm việc không ngày nghỉ. Giỏi tiếng Pháp, bà còn học tiếng Nga, tiếng Anh để dịch tất cả các bài phát biểu của lãnh tụ và các nghị quyết của Đảng, thông báo của Nhà nước ra ba thứ tiếng. Xong việc cơ quan bà lại lóc cóc xe đạp đi thăm nuôi con.
Việc nhiều, cuộc sống vất vả, lại không có chồng bên cạnh đỡ đần, nên bà bị bệnh huyết áp. Một buổi sáng, đang làm việc thì bà bỗng nhiên kêu nhức đầu. Bà bỏ dở công việc ra ngoài bàn uống nước thì thổ ra máu. Mọi người tức tốc đưa bà đi bệnh viện Hữu nghị Việt - Xô cấp cứu, nhưng 24 giờ sau bà vĩnh viễn ra đi mà không kịp gặp được ba đứa con thơ. Lúc đó bà mới 39 tuổi!
Sau khi vợ mất, Lê Hữu Đức mất thăng bằng một năm trời, sức khỏe giảm sút nhiều. Khuôn mặt ông hốc hác, đôi mắt trũng sâu vì thiếu ngủ. Thương người vợ hiền bao nhiêu, ông lại lo cho ba đứa con thơ dại nay mất mẹ không biết sống như thế nào giữa bom đạn của giặc Mỹ. Ban ngày lo chiến đấu, nỗi đau tạm vơi đi, nhưng đêm về mắc võng thì khuôn mặt của người vợ lại hiện lên đến đau lòng.
- Sau này tôi có đi bước nữa. May mắn là người vợ sau của tôi là một nhà giáo, rất tâm lý và cũng hiền lành, tôn trọng quá khứ của tôi. Chúng tôi sống hạnh phúc và có thêm con gái. Nhưng anh ạ, tình yêu ấy mà, nó lạ lắm… Tôi không thể nào quên được Đạm Liên.
(Hồng Sơn)
(Xin bấm F5 để tiếp tục cập nhật)



Một lần nữa, mong đừng quên nhau. Khi cần, cứ gọi điện thoại. Cám ơn nhiều lắm.

QUAN ĐIỂM CỦA C.MÁC, PH.ĂNG GHEN, V.I.LÊNIN, HỒ CHÍ MINH VỀ THỜI CƠ; SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA TRONG ĐẠI THẮNG MÙA XUÂN NĂM 1975

QUAN ĐIỂM CỦA C.MÁC, PH.ĂNG GHEN, V.I.LÊNIN, HỒ CHÍ MINH VỀ THỜI CƠ; SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA TRONG ĐẠI THẮNG MÙA XUÂN NĂM 1975 


Cách đây 35 năm, mùa xuân năm 1975, lịch sử dân tộc Việt Namđã ghi thêm một chiến công vĩ đại làm nức lòng nhân dân cả nước và thế giới. Trong một trận quyết chiến lịch sử, thần tốc, với 55 ngày đêm tiến công và nổi dậy, quân và dân ta đã đánh bại hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm lược và đập tan ách thống trị thực dân kiểu mới của đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam thân yêu, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ nhất và vĩ đại nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta, mở ra kỷ nguyên mới đầy hứa hẹn cho Tổ quốc ta, kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi của chiến dịch Đại thắng mùa xuân 1975 để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu trong lãnh đạo, chỉ đạo tiến hành chiến tranh nhân dân của Đảng ta. Một trong những bài học đó là bài học về sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nghệ thuật nắm và vận dụng thời cơ cách mạng.
Thời cơ là hoàn cảnh thuận lợi để làm một việc nào đó có kết quả, thường đến và qua đi rất nhanh. Thời cơ là một yếu tố quan trọng trong mọi hoạt động của con người. Trong lĩnh vực chiến tranh, đấu tranh vũ trang, trong nghệ thuật tác chiến, thời cơ càng có ý nghĩa to lớn. Chính vì vậy, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin, rất coi trọng việc tận dụng và nắm thời cơ cách mạng.
Ph.Ăngghen chỉ ra rằng “nếu trong buôn bán, thời gian là tiền bạc thì trong chiến tranh thời gian là thắng lợi”. Vì thế, “bỏ lỡ thời cơ thuận lợi, không lợi dụng cơ hội để tung vào chiến đấu với địch những lực lượng vượt trội thì có nghĩa là sai lầm lớn nhất mà người ta có thể mắc phải trong chiến tranh” 1 .
Năm 1917, phân tích đặc điểm, tình hình nước Nga, V.I.Lênin đã kêu gọi phải “lập tức chuyển sang khởi nghĩa”, vì thời cơ đã hoàn toàn chín muồi, “trì hoãn là  một tội ác” 2 . Và, “những người cách mạng sẽ phạm tội ác vô cùng lớn, nếu họ bỏ mất thời cơ” 3 . Nhờ đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng bôn-sê-vích đứng đầu là V.I.Lênin, giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động ở Nga đã đứng lên làm cuộc cách mạng vô sản thành công, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử nhân loại, kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của toàn Đảng, toàn dân tộc ta cũng nêu một mẫu mực về nắm thời cơ trong khởi nghĩa. Mùa thu năm 1944, biết thời cơ chưa đến, Người đã kịp thời chỉ thị hoãn cuộc khởi nghĩa Cao - Bắc - Lạng, tránh cho cách mạng khỏi bị tổn thất. Tháng 10 năm 1944, Người dự đoán “Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ  ở trong vòng một năm hoặc  năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh!” 4 . Tháng 8 năm 1945, trước tình hình thế giới, trong nước chuyển biến dồn dập, Người khẳng định: lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù phải hy sinh đến đâu, “dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập” 5 .
Thời cơ là một hiện tượng khách quan. Nó là sản phẩm sự vận động tổng hợp của nhiều yếu tố chủ quan và khách quan; nhưng động lực chủ yếu và trực tiếp làm nảy sinh thời cơ là nỗ lực chủ quan của con người trong quá trình hoạt động cải tạo sự vật, hiện tượng.
Thời cơ không phải là một yếu tố vật chất, nên tự nó không thể đem lại hiệu quả vật chất nào hết. Thời cơ chỉ là điều kiện, khả năng và điều quyết định là con người nhận biết và sử dụng điều kiện, khả năng ấy như thế nào để đạt tới mục đích của mình. Nếu nắm đúng thời cơ và hành động phù hợp với thời cơ thì sức mạnh được tăng lên gấp bội. Ngược lại, bỏ lỡ thời cơ thì hành động không đạt được kết quả mong muốn, thậm chí có thể rơi vào thế bị động suy thoái. Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong bài học đánh cờ đã viết: “Lạc nước, hai xe đành bỏ phí, gặp thời, một tốt cũng thành công”. Nguyễn Trãi, Người  anh hùng dân tộc, nhà quân sự thiên tài của dân tộc ta cũng đã tổng kết “thời cơ, thời cơ, chớ nên để lỡ”. Trong thực tiễn, Nguyễn Trãi cùng Lê Lợi luôn chỉ đạo nghĩa quân Lam Sơn nắm đúng thời cơ, hành động đúng thời cơ.
Cũng như mọi sự vật, hiện tượng khác, thời cơ hình thành và phát triển theo quy luật từ những biến đổi về lượng chuyển hoá thành biến đổi về chất, từ sự phát triển tuần tự đến những bước nhảy vọt. Thời cơ là những điểm nút trong suốt tiến trình tác chiến và chiến tranh, là sản phẩm của sự tích tụ những điều kiện cần thiết cho sự nảy sinh cái mới. Tuy nhiên, khi đến những điểm nút ấy, sự biến đổi về chất hay bước nhảy vọt có diễn ra được hay không còn tuỳ thuộc vào hoạt động của con người. Thời cơ là lúc mâu thuẫn đã phát triển đến độ chín muồi cần giải quyết. Vì vậy, nghệ thuật vận dụng thời cơ giữ một vị trí quan trọng trong nghệ thuật chỉ đạo tiến hành chiến tranh, trong nghệ thuật tác chiến.
Một trong những nhân tố quan trọng làm nên những thắng lợi vẻ vang của cách mạng Việt Nam trong  80 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng ta là bài học về nắm và vận dụng thời cơ cách mạng. Đại thắng mùa xuân 1975 là một trong những bài học thành công xuất sắc nhất.
Nhìn lại chiến dịch Đại thắng mùa xuân 1975 ta thấy, tiền đề dẫn đến sự xuất hiện thời cơ cho tổng tiến công và nổi dậy giành thắng lợi quyết định là việcký Hiệp định Pari về Việt Nam, đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam, rút hết quân Mỹ và chư hầu ra khỏi miền Nam. Việc này đã dẫn đến tương quan so sánh lực lượng trên chiến trường có sự thay đổi có lợi cho ta, bất lợi cho địch.
Tháng 10 năm 1974, Hội nghị Bộ Chính trị phân tích, đánh giá tình hình đi đến nhận định: “Diễn biến cơ bản của tình hình trong gần 2 năm qua rõ ràng là ta đang ở thế thắng, thế đi lên; địch, từ những cố gắng ban đầu đã bị ngăn chặn, bị đẩy lùi, bị động, lúng túng, thế và lực bị suy yếu nhanh toàn diện và bị sụp đổ từng phần ở nông thôn” 6 . Về khả năng can thiệp trở lại của Mỹ vào miền Nam, Bộ Chính trị nhận định “Mỹ sẽ can thiệp ở mức độ tăng cường viện trợ quân sự, kinh tế cho nguỵ, tăng cường không quân và hải quân đánh phá ta ở miền Nam” 7 . “Khả năng Mỹ dùng lục quân và máy bay B.52 để can thiệp miền Nam và tấn công miền Bắc nay càng ít hơn nhưng ta vẫn phải cảnh giác” 8 . Bộ Chính trị kết luận: “Lúc này chúng ta đang có thời cơ. Hai mươi năm chiến đấu mới tạo được thời cơ này, chúng ta phải biết nắm lấy để đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc đến thắng lợi hoàn toàn”, ngoài thời cơ này ra không còn có thời cơ nào khác. Do đó   kế hoạch chiến lược giải phóng hoàn toàn miền Nam trong vòng hai năm 1975 - 1976 đã được Bộ Chính trị thông qua.
Bộ Chính trị hạ quyết tâm “Động viên nỗ lực lớn nhất của quân và dân ta ở cả hai miền, mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy cuối cùng, đưa chiến tranh cách mạng phát triển đến mức cao nhất, tiêu diệt và làm tan rã  toàn bộ quân ngụy, đánh chiếm Sài Gòn, sào huyệt trung tâm của địch cũng như tất cả các thành thị khác, đánh đổ ngụy quyền ở trung ương và các cấp, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân, giải phóng hoàn toàn miền Nam, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thống nhất nước nhà” 9 . Tây Nguyên được chọn làm hướng tiến công chủ yếu trong năm 1975.
Trong chiến dịch Tây Nguyên, Buôn Ma Thuật được chọn là trận then chốt, việc này đã gây nên một sự bất ngờ lớn cho địch. Kết quả sau 2 ngày chiến đấu, Buôn Ma Thuật đã giành thắng lợi nhanh hơn dự kiến, từ đó quyết định chuyển từ kế hoạch hai năm sang kế hoạch giành thắng lợi ngay trong năm 1975. Quyết định này chứng tỏ Đảng ta, với nghệ thuật lãnh đạo chiến tranh tài tình đã không dừng lại ở bước nắm thời cơ, mà khi thời cơ xuất hiện nhanh hơn dự kiến đã kịp thời tận dụng thời cơ và hành động kịp thời, giành thắng lợi lớn hơn, nhanh hơn.
Sau chiến thắng Buôn Ma Thuật, chiến dịch Huế - Đà Nẵng tiếp tục giành được thắng lợi. Lúc này, so sánh lực lượng trên chiến trường có sự chuyển biến vượt bậc có lợi cho ta. Ngày 31 tháng 3 năm 1975, Bộ Chính trị  họp và đi đến kết luận “Cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam không những đã bước vào giai đoạn phát triển nhảy vọt, mà thời cơ để mở  tổng tiến công và nổi dậy tại Sài Gòn- Gia Định đã chín muồi. Từ giờ phút này, trận quyết chiến chiến lược cuối cùng của quân và dân ta đã bắt đầu 10 . Vì vậy, Bộ Chính trị quyết định “Chúng ta phải nắm vững thời cơ chiến lược, quyết tâm thực hiện tổng tiến công và nổi dậy, kết thúc thắng lợi chiến tranh giải phóng trong thời gian ngắn nhất. Tốt hơn cả là bắt đầu và kết thúc trong tháng 4 năm nay, không để chậm. Phải hành động “thần tốc, táo bạo, bất ngờ” 11 . Ngày 30 tháng 4 năm 1975, chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta kết thúc trọn vẹn.
Có thể nói, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trên cơ sở đánh giá đúng tương quan so sánh lực lượng địch- ta, Đảng ta đã nhiều lần hạ quyết tâm chính xác: quyết tâm đánh quân  viễn chinh Mỹ, cuộc tấn công đồng loạt và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968, cuộc tấn công chiến lược năm 1972. Song, nổi bật nhất là việc nắm bắt thời cơ, hạ quyết tâm chiến lược sắc bén, kịp thời trong giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mà chiến dịch Đại thắng mùa xuân 1975 là điển hình về bài học tạo thời cơ, tận dụng thời cơ cách mạng của Đảng ta.
Hiện nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đang ra sức phát huy thành quả 35 năm chiến tranh giải phóng dân tộc vào sự nghiệp cách mạng mới, sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức nhằm  mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” trong bối cảnh tình hình quốc tế và trong nước có những diễn biến phức tạp. Trước mắt, nhân dân ta có cả cơ hội lớn, lẫn thách thức lớn.
Vấn đề có ý nghĩa quyết định để đưa sự nghiệp cách mạng nước ta đến thắng lợi là phải phát huy tinh thần cách mạng tiến công, tranh thủ nắm thời cơ, tạo ra thời cơ ngay cả từ trong nguy cơ, ra sức khắc phục nguy cơ để đẩy nhanh sự phát triển.
         Trong bối cảnh như vậy, bài học về sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo nghệ thuật nắm và tận dụng thời cơ cách mạng của Đảng ta trong Đại thắng mùa xuân 1975 mãi mãi vẫn còn nguyên vẹn giá trị cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hôm nay.
                                                                   
Đại tá, TS Lê Văn Thanh - Trường Chính trị Lâm Đồng