Chủ Nhật, 18 tháng 3, 2012

tư liệu Việt Nam hiện đại (1954 - 1975)

Tư liệu Việt Nam hiện đại (1954 - 1975): (trích trang Web của trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh

1. KÝ ỨC “BA SẴN SÀNG 



Trong lịch sử 80 năm của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, phong trào “Ba sẵn sàng” chính là một điểm sáng ghi nhận một thực tế lịch sử: khi vận mệnh Tổ quốc lâm nguy thì một lời kêu gọi đúng lúc có thể tạo nên những mốc son chói lọi của tình yêu đất nước.
Kỳ 1: Thủ đô những ngày rực lửa
TT - Đã 78 tuổi nhưng với ông Trịnh Ngọc Trình - nguyên bí thư Đoàn ĐH Sư phạm Hà Nội (ĐHSPHN) - ký ức về những ngày sục sôi của phong trào Ba sẵn sàng vẫn vẹn nguyên như mới hôm qua. Ông tự hào kể: “Sau này bí thư khu ủy khu 6 đã nói với tôi: Phong trào Ba sẵn sàng của các anh đã tạo thêm khí thế cho miền Nam chiến đấu”. ĐHSPHN là nơi khai sinh phong trào “Tam bất kỳ” - tiền thân của phong trào Ba sẵn sàng.
Những năm 1964-1965, lớp trẻ thủ đô sẵn sàng “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” - Ảnh tư liệu chụp lại từ Bảo tàng LSQS Việt Nam
Bí thư Thành đoàn Hà Nội khi đó là Vũ Hữu Loan - nay đã 83 tuổi, người trực tiếp chỉ đạo phong trào của ĐHSPHN - nhớ lại: “Tôi suy nghĩ rất lung khi anh Nguyễn Lam (bí thư Trung ương Đoàn) nói: Cách mạng đã chuyển giai đoạn rồi. Đánh Mỹ là nhiệm vụ chính của đất nước. Các anh phải chuyển phong trào của thanh niên Hà Nội sang một phong trào cách mạng mới”.
Và phong trào của ĐHSPHN mà đặc biệt là “Tam bất kỳ” đã gợi cho ông Loan suy nghĩ: Thành đoàn Hà Nội phải có một phong trào thể hiện lý tưởng của thanh niên và thể hiện tầm suy nghĩ về thời đại mới.
Suy nghĩ đó trở thành chỉ thị cho bí thư Đoàn ĐHSPHN Trịnh Ngọc Trình. Sau một cuộc thảo luận, ĐHSPHN đã tìm ra một cái tên thuần Việt Nam thay cho “Tam bất kỳ”: phong trào Ba sẵn sàng.
Lời thề Mai Dịch
Đêm 30-4-1964. Tại nghĩa trang Mai Dịch, hơn 7.000 SV ĐHSPHN đứng xen kẽ kín quanh những ngôi mộ liệt sĩ. Sau khi Bí thư Thành ủy Hồ Trúc thắp hương trầm ở đỉnh nghĩa trang xong, tất cả đồng loạt đốt đuốc.
7.000 ngọn đuốc như biển lửa làm rực sáng cả góc trời phía tây thủ đô. Ông Hồ Trúc ra chỉ thị cho Đoàn Trường ĐHSPHN, rồi đến ông Vũ Hữu Loan đọc diễn văn. Sau đó, bí thư Đoàn ĐHSPHN Trịnh Ngọc Trình đọc bản tuyên thệ với lời thề: “Trước anh linh các anh hùng liệt sĩ, chúng tôi - đoàn viên thanh niên SV - xin thề: Sẵn sàng làm bất cứ việc gì Tổ quốc giao; sẵn sàng đi bất cứ nơi nào Tổ quốc yêu cầu; sẵn sàng nhập ngũ, sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng hi sinh!. Hơn 7.000 SV đồng loạt giơ đuốc, hô vang “Sẵn sàng”! Chúng tôi chọn nghĩa trang Mai Dịch vì anh linh, hồn thiêng của các liệt sĩ sẽ chứng giám cho lời thề và huyết tâm của mình. Chúng tôi không sợ hi sinh, quyết noi gương cha anh chiến đấu bảo vệ Tổ quốc”. Quang cảnh ấy bây giờ còn làm ông Trình xúc động đến rơi nước mắt.
Dòng người trong biển lửa hừng hực khí thế bắt đầu rước đuốc về phía Cầu Giấy. Hơn 7.000 bó đuốc trùng trùng điệp điệp đi qua các dãy phố cổ kính, tiến về hồ Gươm, Tràng Tiền rồi lại quay trở về Trường ĐHSPHN. Người rước đuốc cuối cùng về trường hơn 1 giờ đêm. Họ lại tiếp tục rì rầm luận bàn suốt đêm không ngủ.
Sáng 1-5-1965, không ồn ào phô trương, hàng trăm SV ĐHSPHN lặng lẽ trích máu viết huyết thư. Những nét chữ nguệch ngoạc còn đỏ tươi dòng máu nóng tha thiết xin được ra chiến trường làm bí thư Đoàn Trịnh Ngọc Trình run run xúc động. Ông kể: “Khí thế rừng rực quá. Ngay cả cán bộ giảng dạy cũng nhấp nhổm không yên tâm: không biết mình được gọi đi hay chưa?”.
Và chỉ sau một đêm, ĐHSPHN đã trở thành một công trường của trận địa phòng không dày đặc. Bảy tòa nhà cao năm tầng của trường biến thành một trận địa pháo. Mỗi tòa nhà trang bị 2 - 3 khẩu súng pháo, nòng súng vươn lên trời cao.
Toàn bộ vũ khí được huyện đội huyện Từ Liêm cấp. SV còn được một trung đội bộ đội huấn luyện bắn máy bay. Mỗi khoa là một tiểu đoàn, luyện tập rất say sưa. “Cả trường rầm rộ đào hào xung quanh khuôn viên trường để máy bay Mỹ đến là bắn ngay. Đã hơn 50 năm trôi qua nhưng không khí hối hả, gấp gáp đào hầm cá nhân, hầm để đặt súng liên thanh, cảnh SV nhận súng, đạn, phân ban, phân đội... vẫn làm tôi thấy rừng rực như đang trở về những ngày tháng đó mỗi khi nhớ lại”, ông Trình xao xuyến.
Ban đêm học, ban ngày tập quân sự, đào hầm. Những lớp học ban ngày thì buổi tối lên trường tập quân sự. Hơn 1.000 SV ròng rã xây dựng trận địa trong hơn một tháng. Họ thay nhau làm ngày làm đêm. Có người được cử đi nước ngoài học nài nỉ xin được chiến đấu. Những người chuẩn bị đi vào Nam ráo riết tập cõng gạo, vác gạch, đeo súng, đeo băng đạn... chạy xung quanh khuôn viên trường. Vẻ mặt rất tự hào. Những ai không được đi thì nhìn với ánh mắt ngưỡng mộ, thèm muốn lẫn ghen tị.
Trước đó, mỗi năm ĐHSPHN có khoảng 200 cán bộ và SV tốt nghiệp xung phong vào Nam. Nhưng trong hai năm 1964-1965, con số này lên đến hàng nghìn người.
Cuộc họp khẩn trong đêm
Trước khí thế Ba sẵn sàng hừng hực ở ĐHSPHN, Thành đoàn nhận thấy cần phải nhân rộng phong trào lên quy mô toàn thành. Tối 7-8-1964, tại trụ sở 43 Lý Thái Tổ, thường vụ Thành đoàn Hà Nội họp đột xuất và thống nhất việc phát động phong trào Ba sẵn sàng càng sớm càng tốt. “Chúng tôi gấp rút quyết định phát động phong trào, gấp rút viết lời kêu gọi, chạy khắp nơi để chuẩn bị tổ chức từ ngày 7 đến ngày 9 để phát động toàn thành”, ông Vũ Hữu Loan hào hứng kể.
4g30 chiều 9-8-1964, hàng ngàn SV ĐHSPHN đi bộ hơn 7km từ trường ra hội trường Bộ Công nghiệp nặng (phố Hai Bà Trưng), vừa đi vừa hô “Ba sẵn sàng” rộn ràng khắp đường phố thủ đô. Các trường ĐH khác cũng nườm nượp hàng ngàn SV kéo về. Đêm. Hội trường Bộ Công nghiệp nặng đã chứng kiến một sự kiện lịch sử: Thành đoàn Hà Nội phát động phong trào Ba sẵn sàng toàn thủ đô. Trong hội trường chỉ có 500 đại biểu thanh niên - SV tham gia trực tiếp. Nhưng ở bên ngoài có tới hai vạn học sinh, SV, thanh niên tập trung trong những khu phố, con đường xung quanh được bắc loa ra nghe.
Đêm ấy hàng vạn thanh niên, học sinh, SV đã xuống đường. Cả rừng người đi từ hồ Hoàn Kiếm đến đường Hai Bà Trưng và hô vang “Ba sẵn sàng”. Dòng người như lũ tràn thác đổ. Hà Nội rúng động trong biển người rừng rực khí thế. Người dân đổ ra đường xem. Những em nhỏ, những cụ già cũng cùng hô “Sẵn sàng chiến đấu! Sẵn sàng! Sẵn sàng!”. Ngay sau đó, bài viết “Thanh niên thủ đô quyết xứng đáng với thủ đô anh hùng” của ông Nguyễn Hoàng Tùng - lúc đó là tổng biên tập báo Nhân Dân - đã thổi bùng thêm ngọn lửa hi sinh vì Tổ quốc trong tuổi trẻ thủ đô.
Tháng 3-1965, khi Trung ương Đoàn phát động phong trào trên toàn quốc thì phong trào Ba sẵn sàng như triều dâng thác đổ. Hơn 26.000 đoàn viên thanh niên thủ đô và hàng triệu thanh niên miền Bắc nhập ngũ.
Lý giải về sự thành công kỳ diệu của phong trào Ba sẵn sàng, nguyên bí thư Thành đoàn Hà Nội Vũ Hữu Loan khẳng định: “Sáng kiến và nguyện vọng là của quần chúng, thanh niên. Thành đoàn chúng tôi nắm bắt được đúng lúc nên phát động kịp thời, đáp ứng được hàng triệu nguyện vọng của thanh niên. Điều đó làm nên sức sống mãnh liệt của phong trào”.
MY LĂNG - ĐỨC BÌNH
_____________
“Biết bao thanh niên xin được đi chiến đấu. Nhiều học sinh muốn gia nhập quân đội vào chiến trường. Có nhiều thanh niên tự nhiên mất tích. Về sau cả làng mới biết anh ấy đã lẳng lặng đi B...”.
http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/Phong-su-Ky-su/430855/Chiec-gay-Truong-Son.html


Kỳ 2: Những con người của thời đại
Anh hùng quân đội - thiếu tướng Lê Mã Lương, một trong những nhân vật nổi tiếng trưởng thành từ phong trào Ba sẵn sàng, kể: “Năm 1964-1965, khi ấy tôi đang học cấp II, không khí ra trận len lỏi đến tận ngõ ngách làng quê. Nhiều học sinh muốn gia nhập quân đội vào chiến trường. Có người ở quê tôi (Nông Cống, Thanh Hóa) tự nhiên mất tích. Về sau cả làng mới biết anh ấy đã lẳng lặng đi B”.
Xẻ dọc Trường Sơn
“Bất cứ thanh niên nào ngày ấy cũng chỉ khao khát được tham gia Ba sẵn sàng: sẵn sàng làm bất cứ việc gì Tổ quốc giao, sẵn sàng đi bất cứ nơi nào Tổ quốc yêu cầu và sẵn sàng lên đường đi chiến đấu” - ông Trịnh Ngọc Trình nói bằng chất giọng bừng lửa của thời trai trẻ.
Trong ký ức của mình, ông Trình vẫn còn nhớ rõ không khí hào hùng của những buổi tối “truyền hịch” lên đường xuất quân tại quảng trường Ngân hàng Trung ương, quảng trường nhà hát lúc nửa đêm. Lớp lớp người rừng rực trong không khí sôi sục như hào khí Đông A thời Trần của thế kỷ 13, 14.
Phong trào “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” bùng lên mạnh mẽ như lửa gặp gió.
Sau cuộc phát động tại hội trường Bộ Công nghiệp nặng ngày 9-8-1964, phong trào Ba sẵn sàng ào ạt lan rộng đến nhiều đơn vị khác như lũ tràn thác đổ: ĐH Bách khoa, ĐH Y, Nhà máy cơ khí Chung Quy Mô Hà Nội, HTX Việt Trung... Chỉ sau một tuần đã có 240.000 người ghi tên tham gia, trong đó 80.000 người xin được vào miền Nam chiến đấu.
Ông Phạm Quốc Anh (nguyên phó bí thư Đoàn ĐH Bách khoa) nhớ lại: “Sinh viên thành lập các tiểu đoàn và phát động phong trào hành quân vượt Trường Sơn đánh Mỹ cứu nước. Tối thứ tư, thứ bảy, chủ nhật, tất cả nam nữ sinh viên và nhiều cán bộ giảng dạy trẻ nườm nượp tham gia phong trào hành quân từ Hà Nội lên Sơn Tây, Đa Phúc (Bắc Ninh)... Mỗi đoàn viên đeo balô gạch 20kg và mang theo một chiếc gậy. Rồi nửa đêm báo động tập họp đội ngũ như trong quân đội rầm rập suốt đêm. Những ngày đó không ai muốn ngủ, không ai muốn đứng ngoài vì thấy lạc lõng và thật sự muốn được góp sức mình cho đất nước”.
Gia nhập đoàn quân lúc ấy còn có rất nhiều công nhân của các nhà máy, xí nghiệp. Ngày đó, Hoàng Đức Chính (trung đoàn Bình Giã) mới 25 tuổi, là công nhân một công ty may, đã lẳng lặng rời xa tình yêu của mình để toàn tâm lên đường ra chiến trường. Anh giấu người yêu chuyện nhập ngũ.
“Tôi chủ động chia tay vì đã xác định: đi không biết ngày về. Con gái có thì, mình không nên để cô ấy phải bị ràng buộc. Tôi không dám gặp cô ấy lần cuối vì sợ không đủ can đảm mà đi...” - ông Chính kể.
Đặc biệt, trong danh sách đăng ký ra trận có rất nhiều cán bộ Thành đoàn. Như anh Đặng Quang Ngọc, cán bộ Thành đoàn Hà Nội đầu tiên, được gọi đi nhập ngũ dù sức khỏe chỉ đạt loại A2 (gầy), anh Đỗ Nguyên Phương (bí thư Đoàn ĐH Y), sau này là bộ trưởng Bộ Y tế, chị Tô Thị Tĩnh (bí thư chi đoàn khoa hóa), đi chiến đấu bị địch bắt và tra tấn chết đi sống lại nhưng kiên quyết không khai một lời...
Hàng ngàn sinh viên, học sinh đã viết thư bằng máu xin được ra trận. Những bức huyết thư ấy vẫn còn lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử quân sự VN. Nhiều người đang du học ở Liên Xô tức tốc gửi đơn xin về nước chiến đấu. Hàng trăm người chấp nhận tạm dừng việc học, kể cả ra nước ngoài làm nghiên cứu sinh, nóng lòng mong được ra trận cầm súng chiến đấu...
Giữa hào khí ấy, ông Phạm Quốc Anh (nguyên phó bí thư Đoàn ĐH Bách khoa) kể: “Tất cả đoàn viên của bách khoa đều viết quyết tâm thư gửi đảng ủy xin tình nguyện làm bất cứ việc gì Tổ quốc cần. Rất nhiều người viết huyết thư xin được ra chiến trường”. Chính ông Anh - khi đó là giảng viên - đã gặp hiệu trưởng và bí thư Đảng ủy tha thiết xin được ra chiến trường. Theo dự kiến, phó bí thư Đoàn ĐH Bách khoa thuộc diện cán bộ nguồn, sẽ đi nghiên cứu sinh lấy bằng tiến sĩ, lại bị cận. Bị từ chối, ông trích máu viết thư.
“Số lượng tình nguyện rất đông nên phải có sự bình chọn. Ai có sức khỏe tốt, học lực tiên tiến mới được nhập ngũ” - ông Quốc Anh kể.
Trong ký ức của mình, ông vẫn nhớ rất rõ hình ảnh buổi lễ tiễn quân ở công viên Trường ĐH Bách khoa và nội dung lời thề tối hôm ấy: “Chúng tôi ra đi không một chút tính toán, không một yêu cầu nào. Chỉ có một mong muốn là được tổ chức và quân đội phân công. Xin thề không bao giờ có ý nghĩ quay trở lại dù có phải hi sinh...”.
Tôi đã kêu gọi, tôi phải lên đường...
Trong lớp lớp những chàng trai Hà Nội ra chiến trường ngày ấy có phó bí thư Đoàn Trường ĐH Sư phạm Hà Nội Đặng Xuân Rương. Trong ký ức về người bạn thân của mình, ông Trịnh Ngọc Trình không thể nào quên hình ảnh chàng sinh viên cao to, đẹp trai, mắt sáng, học rất giỏi và giọng nói hùng biện.
Ngày anh Rương nhận được giấy gọi nhập ngũ cũng là lúc có quyết định đưa sang Liên Xô làm nghiên cứu sinh. Không đắn đo suy nghĩ, anh lựa chọn được nhập ngũ ngay.
Ông Trình kể: “Chính tôi cũng khuyên Rương đi Liên Xô để làm nguồn lực sau này về xây dựng đất nước. Nhưng Rương có vẻ nổi giận, trả lời: “Tôi vừa phát động phong trào Ba sẵn sàng xong, hàng ngàn thanh niên, sinh viên đã được đáp ứng nguyện vọng của mình lên đường đi chiến đấu. Vậy tại sao tôi lại không được làm những gì mình thích?”.
Cả hai hướng đều là yêu cầu của Đảng, vì quá rối nên ông Trình bảo Rương nên hỏi ý kiến anh trai của bạn: ông Trường Chinh, lúc đó là chủ tịch Quốc hội.
Vì muốn làm “sức ép” buộc gia đình đồng ý, anh Rương đã dẫn người bạn thân đến gặp anh trai mình.
Ông Trình nhớ lại: “Khi chủ tịch Quốc hội Trường Chinh hỏi ý kiến của Đoàn thanh niên, tôi trả lời: Ý của Đoàn thanh niên là cứ để anh Rương đi miền Nam chiến đấu trước rồi về đi Nga cũng không muộn. Ông Trường Chinh khen: Chú Trình nghĩ được như thế là rất tốt. Bây giờ nhiệm vụ hàng đầu là chiến đấu”.
Lúc Rương đi (năm 1964) anh khoảng 28, 29 tuổi. Cuối năm 1970 anh hi sinh tại Khe Sanh (Quảng Trị). Khi đó Đặng Xuân Rương đã là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn huấn luyện của sư đoàn 308. Anh chưa kịp về làm đám cưới với người yêu.
“Lúc được tin Rương hi sinh tôi ngất đi... Rương có quyền từ chối gian khổ, hi sinh để được sung sướng và một tương lai rạng ngời... Hơn nữa, anh trai làm chủ tịch Quốc hội, gia đình đã có người đang chiến đấu ngoài chiến trường lại được cử đi Liên Xô học. Nhưng Rương là người luôn chịu hi sinh, luôn xung phong nên đã không làm như thế” - ông Trình kể sau những giây trầm ngâm và rưng rưng xúc động.
Ông Trình đã gặp được người trực tiếp chứng kiến những ngày, những giây phút cuối cùng của người bạn thân. Theo lời kể, sau một loạt bom từ máy bay chiến đấu của đối phương, người chỉ huy Đặng Xuân Rương bị một mảnh bom rơi trúng đỉnh đầu và ngất đi. Sau ba ngày sốt, thấy anh tỉnh lại ai cũng mừng. Đến ngày thứ tư anh lên cơn sốt dữ dội và đã không qua được cơn sốt ác nghiệt ấy. Đặng Xuân Rương ra đi trong sự ngỡ ngàng và đau xót của các y bác sĩ. “Cậu ấy biết mình sắp mất nhưng vẫn nở nụ cười bình thản...”.
MY LĂNG - ĐỨC BÌNH
http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/Phong-su-Ky-su/430713/Ky-uc-%E2%80%9Cba-san-sang%E2%80%9D---Ky-2-Nhung-con-nguoi-cua-thoi-dai.html

Kỳ 3: Chiếc gậy Trường Sơn
Không chỉ thanh niên Hà thành hừng hực khí thế “Ba sẵn sàng”, một làng quê nằm bên bờ sông Đáy cũng “dậy sóng” khi trai gái nô nức kéo nhau lên xã đăng ký tuyển quân, sẵn sàng vào chiến trường miền Nam chiến đấu.
Để động viên con cháu, các bô lão đêm ngày chặt tre ven đê làng làm gậy, đan sọt tặng con cháu như lời nhắn nhủ của quê hương: hãy đi, chiến đấu và chiến thắng như Thánh Gióng. Chính ở ngôi làng dệt Hòa Xá (huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Tây cũ) ấy đã sản sinh “chiếc gậy Trường Sơn” huyền thoại.
Cựu binh Phùng Văn Quán với “chiếc gậy Trường Sơn” huyền thoại của mình - Ảnh: Đ.Bình
Làng dệt “dậy sóng”
Đã 85 tuổi nhưng ký ức về một thời chiến tranh vẫn không phai mờ trong tâm trí cụ Vũ Văn Phúc, nguyên bí thư chi bộ HTX Tiểu thủ công nghiệp Hòa Xá. Cụ Phúc kể: Người Hà Tây khi đó rất xấu hổ vì mang tiếng xấu bởi đám con cháu cứ vào lính là... sợ. Tình trạng lính Hà Tây đào ngũ nhiều đến bị bêu riếu là “Hà chuồn”.
Các cụ già trong làng giận đỏ mặt kiên quyết yêu cầu làng Hòa Xá phải thay đổi tình hình. Sau nhiều “hội nghị Diên Hồng”, cuối cùng chính quyền xã Hòa Xá quyết định phát động hàng loạt phong trào: “Vai đeo 25 cân, chân đi ngàn dặm, vượt suối băng ngàn”, “Tiền tuyến cần một, Hòa Xá có hai, đã đi là đến, đã đến là đánh thắng”... Phong trào như một luồng gió mới thổi vào từng ngóc ngách của làng. Hàng trăm phụ lão, phụ nữ, đặc biệt là trai tráng trong làng nao nức tham gia.
Phong trào ngày càng mạnh, nhất là khi Trung ương Đoàn phát động phong trào “Ba sẵn sàng”. “Có nhiều cháu mới 16, 17 tuổi thấy anh chị xung phong cũng tình nguyện ghi tên. Đơn tình nguyện nhiều đến nỗi bí thư đảng ủy Vũ Văn Tước phải vắt óc và nghĩ ra việc xây dựng lực lượng ba thứ quân, lập thành các phân đội bộ đội địa phương sẵn sàng chiến đấu, phân đội dự bị (dành cho thanh niên chưa đến tuổi) và với những nữ thanh niên thì đưa vào phân đội dân quân du kích”, cụ Phúc tự hào kể.
Để xóa sạch cái tiếng “Hà chuồn”, lãnh đạo xã và các bô lão phát động phong trào “Hành quân mang nặng đường dài” để rèn luyện sức khỏe cho thanh niên chờ ngày ra trận. Suốt đêm ngày, các cụ phụ lão lên đê chặt tre rồi cặm cụi đan sọt. Đan sọt xong, các cụ chất gạch và đá cho đủ 25 kg để con cháu tập khênh vác. Đồng sâu, ruộng cạn cần cải tạo, mương máng thủy lợi cần được làm mới... các cụ đều đưa sọt tre và thanh niên ra đồng để vừa làm việc, vừa rèn luyện sức khỏe, sức bền. Bà Lưu Thị Bạo (66 tuổi, cựu dân quân du kích) mỉm cười nhớ lại “Khí thế ngày đó rạo rực lắm, náo nhiệt lắm. Đến giờ chúng tôi vẫn không thể quên”.
Hòa Xá lúc ấy có những gia đình như cụ Tương, Sơn, Hồng, Mùi... nhà có 2, 3 người con trai đều xung phong ra trận. Nhiều gia đình có con tái ngũ, thậm chí là nhà con “độc đinh” cũng kiên quyết lên đường vào Nam. Gần 50 năm trôi qua, cụ Phúc vẫn nức lòng mỗi khi nhớ đến câu nói bất hủ của cụ Mùi khi đó: “Thằng Mỹ đi đến đâu cũng gặp bố con tôi, nó thoát làm sao được”.
“Sự tích” gậy Trường Sơn
Theo ông Phùng Văn Mạnh (cán bộ phụ trách văn hóa, thương binh và xã hội xã Hòa Xá), trong những năm chống Mỹ, gần 600 lượt thanh niên Hòa Xá đã lên đường vào Nam chiến đấu. Trong số 140 liệt sĩ của xã, gần 90 người là liệt sĩ chống Mỹ. Hiện xã còn 30 cựu chiến binh thời chống Mỹ đang được hưởng chế độ thương, bệnh binh, nạn nhân chất độc da cam... Năm 1973, Hòa Xá vinh dự nhận danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang.
Người đầu tiên đưa hình ảnh chiếc gậy Trường Sơn đến với người Hòa Xá là anh bộ đội Phùng Văn Quán. Chiếc gậy huyền thoại năm nào giờ vẫn được chính chủ nhân lưu giữ tại nhà như một vật bất ly thân. Trong ngôi nhà cấp bốn tuềnh toàng ở xóm Thượng Đoạn, chiếc gậy được vợ chồng ông Quán nâng niu giữ cẩn thận trong túi vải mềm cất dưới gối đầu giường.
Chỉ khi có khách quý ông mới đem ra hoặc ngày lễ tết ông đặt trang trọng lên bàn thờ gia tiên. Rút chiếc gậy khỏi túi vải, người thương binh già - với vẻ mặt rất đỗi tự hào - chỉ từng dòng chữ khắc trên thân gậy: dòng chữ to nhất, chạy dọc giữa thân gậy “Thà quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Phía đầu gậy là các chữ nhỏ hơn: “Trường Sơn 1-4-1967”. Cuối gậy là dòng chữ nhỏ hơn nữa: “Fùng Quán - Trường Sơn - Hòa Bình 4-4-1967”.
Người cựu chiến binh kể ông sinh ra trên mảnh đất Hòa Xá và từ nhỏ đã chỉ có cảnh một mẹ, một con vì cha ông mất sớm. Tháng 2-1961 khi mới qua tuổi 18, ông đã xung phong đi chiến đấu tại chiến trường B3, Bắc Ấn (Quảng Trị). Đến năm 1963 ông bị sốt rét nặng, được đơn vị đưa ra Nghệ An điều trị. Bác sĩ kết luận ông không đủ sức chiến đấu, đơn vị cho ông xuất ngũ về quê.
Một ngày cuối năm 1965, chàng thanh niên Phùng Văn Quán trốn mẹ cùng hai người bạn thân trong làng (Đỗ Tít và Lưu Tiến Long) vượt gần 15km đường lên Kim Bôi (Hòa Bình) gia nhập đoàn tân binh. Trên đường hành quân vào chiến trường Quảng Trị, khi vượt Trường Sơn anh bộ đội Phùng Văn Quán chặt một cây rừng nhỏ làm gậy chống cho đỡ mỏi. Quán cũng mách Tít và Long làm gậy để trèo đèo, vượt suối. Tít và Long cũng làm cho mình cây gậy bằng tre, trúc rừng.
Một ngày nọ, có người chú họ cùng làng từ chiến trường miền Nam về phép đi ngược ra Bắc gặp Quán ở đường Trường Sơn. Quán liền gửi chiếc gậy về tặng mẹ với hàm ý chiếc gậy thân thiết ấy như thay mình nâng đỡ những bước chân mẹ. Hai người bạn thân Tít và Long thấy vậy cũng gửi gậy về quê gửi tặng trai tráng trong làng.
Trao món quà đặc biệt cho người thân xong, người chú của Quán kể về chiếc gậy. Các cụ già trong làng nghe thấy, xin gậy mang lên trưng bày ở xã như một lời động viên tới lớp trai làng chuẩn bị ra trận. Không chỉ có phong trào đan sọt rèn quân, các cụ phụ lão còn cất công đi tìm những thân tre ngà thật đẹp, tỉ mỉ đẽo gọt làm gậy tặng con cháu ngày lên đường.
Và từ đó mỗi dịp tiễn quân, cây gậy mộc mạc lại như vật thiêng của làng được các cụ trao từng tay con cháu. Hình ảnh này giờ được lưu giữ, tái hiện trang trọng ngay chính giữa bảo tàng của quê hương “chiếc gậy Trường Sơn” với bức tượng người thanh niên trong bộ quân phục mới, một tay cầm gậy, một tay đưa ra đón nhận chiếc “nhẫn thủy chung” từ người yêu.
Hình ảnh “chiếc gậy Trường Sơn” đã trở thành nguồn cảm hứng dào dạt để nhà thơ Nhuệ Giang viết: Gậy này là gậy Trường Sơn/Của trai Hòa Xá lên đường tòng quân/Gậy này gửi tặng quê nhà/Gậy ra tiền tuyến, gậy ra ruộng đồng/Chỉ ra đồng nở bông sáu tấn/Chỉ lên trời thần sấm cháy tan/Chỉ ra tám triệu mét màn/Chỉ vào tiếng hát, tiếng đàn thêm trong/Mẹ già chống gậy Trường Sơn/Tưởng như mẹ cũng lên đường xông pha. Tháng 7-1967 khi về ngang Hòa Xá, nhạc sĩ Phạm Tuyên đã sáng tác bài hát Chiếc gậy Trường Sơn nổi tiếng.
MY LĂNG - ĐỨC BÌNH






2. 
CUỘC CHIẾN TRANH TÂM LÝ 20 NĂM CỦA MỸ TẠI VIỆT NAM: TIỀN TỈ DÃ TRÀNGInEmail
Thứ tư, 07 Tháng 12 2011 21:25
9:10, 30/11/2011




Ngày 23/6/1955, cuộc lựa chọn vị nguyên thủ của quốc gia Việt Nam và thể chế chính quyền diễn ra ở phía nam vĩ tuyến 17 với sự vắng mặt của Bảo Đại. Kết quả: Ngô Đình Diệm đắc cử với 98,2% số phiếu.
Ngày 6/10, Thủ tướng Ngô Đình Diệm tuyên bố quyết định mở cuộc trưng cầu dân ý. Các cơ quan truyền thông phổ biến những câu nhắc nhở cử tri như:
Phiếu đỏ ta bỏ vô bì
Phiếu xanh Bảo Đại ta thì vứt đi.
Ngày 23/6/1955, cuộc lựa chọn vị nguyên thủ của quốc gia Việt Nam và thể chế chính quyền diễn ra ở phía nam vĩ tuyến 17 với sự vắng mặt của Bảo Đại. Kết quả: Ngô Đình Diệm đắc cử với 98,2% số phiếu. Đại tá CIA là Lansdale, cố vấn cho Ngô Đình Diệm nói rằng: "Trong lúc tôi đi vắng, tôi không muốn bỗng nhiên nhận được tin rằng ông thắng 99,99%. Vì nếu như thế thì biết đó là âm mưu sắp đặt trước". Vì thế cho nên Diệm đắc cử với 98,2%.
Tất nhiên là kết quả diễn ra đúng với nguyện vọng của Lansdale. Ngô Đình Diệm chính thức trở thành Tổng thống của Việt Nam cộng hòa. Một mối lo ngại lớn của người cầm đầu trò chơi tâm lý chiến đã được thanh toán.
Để giữ cho chế độ thực dân kiểu mới đứng vững, Lansdale còn phải tiếp tục tiến hành nhiều công việc nữa trong sứ mệnh mờ ám của ông ta.
Cỗ xe khổng lồ
Tại tòa nhà số 8 đường Lê Quý Đôn ở Sài Gòn có một tấm biển đề United States Information Service viết tắt là USIS. Đó là tên tổ chức Liên vụ Thông tin Hoa Kỳ ở Sài Gòn, chi nhánh của Hãng Thông tin Hoa Kỳ USIS, chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Đại sứ quán Mỹ tại Sài Gòn.
Với chiếc áo dân sự hiền lành, USIS không chỉ làm chức năng thông tin báo chí, nó là đầu mối chỉ đạo các hoạt động chiến tranh tâm lý và phá hoại tư tưởng của CIA ở nước ngoài. Không có một hoạt động văn hóa truyền thông nào của bộ máy đó lại không xuất phát từ chính sách đối ngoại của Nhà nước Mỹ và mưu đồ của CIA bành trướng cái gọi là sức mạnh Mỹ, lối sống Mỹ, tư tưởng Mỹ trên toàn thế giới.
USIS được giao chỉ đạo chương trình hoạt động của hàng mấy chục cơ quan văn hóa thông tin Hoa Kỳ ở Sài Gòn và các tỉnh, thành phố miền Nam Việt Nam. Các giám đốc của USIS đều là nhân viên của CIA. Thời kỳ chiến tranh ở vào giai đoạn ác liệt từ năm 1966 đến 1970 USIS được đổi tên thành JUSPAO - Joint United States Public Affairs Office.
JUSPAO có thêm bộ phận liên quan đến thông tin liên lạc của Cơ quan Phát triển quốc tế Hoa Kỳ USAID và của Bộ chỉ huy quân sự Hoa Kỳ ở Việt Nam MACV  dưới sự chỉ đạo của Ủy ban hoạt động của Đại sứ quán Hoa Kỳ. Ủy ban này có thành phần gồm đại diện của đại sứ, Chủ tịch JUSPAO, đại diện MACV, đại diện USAID, Văn phòng trợ lý đặc biệt của Đại sứ, OSA, phụ trách các hoạt động chiến tranh tâm lý thực chất là tên gọi công khai của CIA ở Việt Nam.
Nhiệm vụ của USIS - JUSPAO trước hết là công khai tuyên truyền cho đường lối chiến tranh và văn hóa Mỹ, trợ giúp và chỉ đạo hoạt động bộ máy chiến tranh tâm lý của chính quyền Sài Gòn, trực tiếp thực hiện các chiến dịch tâm lý chiến theo yêu cầu của USAID và phục vụ cho Đoàn thanh niên tình nguyện quốc tế Mỹ IVS, tham gia chương trình bình định nông thôn, thu thập tin tức và xây dựng mạng lưới cộng tác viên cho hoạt động tình báo của CIA.
Nó có 37 cơ sở tại các tỉnh, thành phố miền Nam gồm các trụ sở đại diện, các hội Việt Mỹ, các phòng triển lãm, phòng bán sách, trường dạy Anh ngữ, các báo tạp chí như Thế giới tự do, Hương quê, Triển vọng, Đối thoại, Tạp chí Trẻ và Ban Vô tuyến VOA phục vụ Đài Tiếng nói Hoa Kỳ ở Việt Nam.
Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, CIA còn sử dụng các căn cứ, các cơ sở ở Singapore, Thái Lan, Philippines vào các hoạt động tuyên truyền chiến tranh tâm lý và phá hoại miền Bắc Việt Nam. Chẳng hạn các căn cứ Mỹ ở Philippines còn là điểm huấn luyện và xuất phát cho các nhân viên tình báo và biệt kích người Việt Nam xâm nhập vào bờ biển miền Bắc và Trung Việt Nam. Một tài liệu của Larry Kiepatrick, một nhân viên CIA đã bỏ nghề tiết lộ:
Ngoài cơ sở viễn thông khổng lồ của CIA gọi là Trạm tiếp âm khu vực ở căn cứ không quân Clark, căn cứ quân sự lớn nhất của Mỹ ở nước ngoài, hiện ít nhất có một căn cứ quan trọng khác ở Philippines. Cách Sứ quán Mỹ ở Manila khoảng 1 dặm có một cơ sở được gọi là Trung tâm Dịch vụ khu vực RSC. Mặc dù danh nghĩa bề ngoài hoạt động của nó được sự bảo trợ của tổ chức thông tin quốc tế ICA, cơ sở in cực kỳ hiện đại này hoạt động như một nhà máy tuyên truyền công khai và bí mật cho CIA.
Với khả năng sản xuất một số lượng lớn tạp chí, áp phích, truyền đơn và các loại tài liệu khác có màu sắc rất đẹp và in ra bằng ít nhất 14 thứ tiếng châu Á. Sản phẩm của cơ sở này đã nhận được bằng khen của Bộ Quốc phòng Mỹ vì những đóng góp vào toàn bộ nỗ lực chiến tranh tâm lý nói chung. Một nguồn tin ở Manila còn cho biết RSC là nguồn sản xuất giấy bạc giả để đem thả bằng máy bay xuống miền Bắc Việt Nam.
Ngoài các chuyên viên chiến tranh tâm lý của Anh, Australia được mời làm cố vấn cho chính quyền Sài Gòn, các cơ quan chiến tranh tâm lý của  Nam Hàn, Đài Loan cũng tham gia hỗ trợ cho chiến tranh tâm lý ở Việt Nam.
Hệ thống tổ chức bộ máy chiến tranh tâm lý của chính quyền Sài Gòn rất lớn gồm ba bộ phận:
Bộ phận hành chính dân sự
Do phụ tá đặc biệt cho tổng thống về các vấn đề chính trị và văn hóa điều hành, bộ phận này chỉ đạo công tác chiến tranh tâm lý trong phạm vi toàn quốc, cả dân sự và quân sự. Từ năm 1968 về trước, cơ quan này chỉ đạo chung về chiến tranh tâm lý lấy tên là Ủy ban Điều hợp tâm lý chiến. Năm 1969, nó đổi thành Ủy ban Động viên chính trị. Sang năm 1970 lại đổi ra Ủy ban Thông tin đại chúng.
Tính chất đặc biệt của ủy ban này là sự tập trung chỉ đạo rất cao. Ủy ban trung ương do thủ tướng làm chủ tịch, Phó thủ tướng làm Phó chủ tịch, Tổng trưởng Thông tin làm tổng thư ký, Tổng cục trưởng Chiến tranh chính trị và Bộ trưởng các Bộ làm ủy viên. Còn các ban thông tin đại chúng ở các cấp thì do chính thủ trưởng các cơ quan đó làm trưởng ban.
Ngoài cơ quan chỉ đạo chung như đã nói ở trên còn có các cơ quan đặc trách về chiến tranh tâm lý như:
Bộ Thông tin sau đổi thành Tổng ủy Dân vận, rồi Bộ Dân vận và Chiêu hồi. Cuối cùng là Bộ Thông tin chiêu hồi.
Bộ Thông tin chiêu hồi phụ trách thông tin tuyên truyền trong và ngoài nước. Hệ thống của nó xuống tới các quận, huyện gọi là Chi thông tin chiêu hồi.
Ở một số cơ quan có liên quan đến chương trình chiến tranh tâm lý như Cảnh sát quốc gia,  Xây dựng nông thôn, Phát triển sắc tộc… có Nha Chiến tranh tâm lý để phối hợp với Bộ Thông tin chiêu hồi thực hiện chương trình chiến tranh tâm lý trong nội bộ cơ quan và bên ngoài.
Bộ phận do Mỹ trực tiếp phụ trách
Trước hết là hệ thống đài phát thanh bí mật do Mỹ tổ chức và trực tiếp điều hành hoạt động. Hệ thống này gồm có Đài Phát thanh Tự Do, Đài Phát thanh Mẹ Việt Nam, Đài Phát thanh Gươm thiêng Ái quốc, Đài Phát thanh Giải phóng Nam Bộ.
Đài phát thanh Tự Do.
Đài Phát thanh Mẹ Việt Nam. Trụ sở của đài này đặt ở số 7 đường Hồng Thập Tự, Sài Gòn. Các trạm phát sóng của nó đặt ở Thủ Đức, Cát Lở, Vũng Tàu và Thanh Lam, Huế.
Đài Phát thanh Gươm thiêng Ái quốc. Đài Phát thanh Giải phóng Nam Bộ. Đến năm 1973, Mỹ mới giao Đài Phát thanh Tự Do cho Tổng cục Chiến tranh chính trị quân đội Sài Gòn, chỉ giữ lại Đài Phát thanh Mẹ Việt Nam cho tới trước ngày 30/4/1975  thì tháo gỡ máy móc và đưa một số lớn nhân viên sang Mỹ.
Theo lời khai của một số nhân viên làm việc ở Đài Phát thanh Mẹ Việt Nam và căn cứ vào cơ sở vật chất còn để lại thì các đài Mẹ Việt Nam, Gươm thiêng Ái quốc, Giải phóng Nam Bộ chỉ có một cơ sở kỹ thuật chung là Đài Mẹ Việt Nam. Còn Gươm thiêng Ái quốc và Giải phóng Nam Bộ chỉ là một chương trình phát thanh của Đài Mẹ Việt Nam mà thôi.
Bộ phận Chiến tranh tâm lý của Quân đội Việt Nam cộng hòa
Bộ phận chiến tranh tâm lý của quân đội Sài Gòn được tổ chức theo hệ thống dọc từ trung ương xuống tới cấp trung đội dân vệ do Mỹ chỉ huy có sự cộng tác của chuyên gia chiến tranh tâm lý Đài Loan, Australia, Philippines, Nam Hàn.
Ngay từ năm 1955 chính quyền Sài Gòn đã thành lập Nha Chiến tranh tâm lý thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam Cộng hòa. Hoạt động của Nha Chiến tranh tâm lý chủ yếu là những buổi truyền thanh, truyền hình, ấn loát, chiếu bóng và trình diễn văn nghệ. Hai phương tiện chính là Đài Phát thanh Quân đội và tờ báo Chánh Đạo. Các buổi phát thanh trên đài có những chương trình tân nhạc như "Nhạc thời chinh chiến" và "Tiếng ca gửi người tiền tuyến". Ngoài ra là "Chương trình Thép Súng" trên Đài truyền hình hay "Chương trình Dạ Lan" trên radio VTVN.
Nha Chiến tranh tâm lý cũng tổ chức những khóa học cho quân nhân ở trụ sở số 15 đường Lê Thánh Tôn, Sài Gòn. Ban nhạc AVT thành lập năm 1958 với 3 ca sĩ Anh Linh, Vân Sơn và Tuấn Đăng là một trong những nhóm văn nghệ của Nha Chiến tranh tâm lý.
Đến năm 1965, Nha Chiến tranh tâm lý được tổ chức thành Tổng cục Chiến tranh chính trị trực thuộc Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa, là cơ quan chỉ đạo, chỉ huy ngành chiến tranh tâm lý trong quân đội Sài Gòn. Bộ máy của nó rất lớn, có đài phát sóng riêng, có cơ sở in truyền đơn, báo chí và tài liệu chiến tranh tâm lý, có các cục nghiệp vụ, có hai trường đào tạo cán bộ chiến tranh tâm lý, Trường đại học Chiến tranh chính trị Đà Lạt, Trung tâm Huấn luyện cán bộ tâm lý chiến, các Nha tuyên úy Công giáo, các tiểu đoàn chiến tranh chính trị, các đại đội Dân sự vệ, Biệt đoàn văn nghệ trung ương.
Tại các Bộ tư lệnh Không quân, Hải quân, Lục quân, các quân khu, các binh chủng, sư đoàn, quân trường, trung đoàn, liên đoàn, tiểu khu và cấp tương đương đều có khối chiến tranh tâm lý. Cấp tiểu đoàn có sĩ quan phụ tá chiến tranh tâm lý và một số ủy viên chiến tranh tâm lý giúp việc. Cấp đại đội, trung đội thì đại đội phó và trung đội phó phụ trách chiến tranh tâm lý. Cho đến năm 1970, quân số làm chiến tranh tâm lý đã chiếm 1/5 quân lực của quân đội Sài Gòn.
Bộ máy chiến tranh tâm lý của quân đội Sài Gòn được giao nhiệm vụ “phản tuyên truyền hạ uy thế cộng sản, tranh thủ nhân dân, nhất là nông dân, tách rời tâm hồn và tư tưởng của nhân dân ra khỏi cách mạng. Về chiến lược phải xây dựng cho nhân dân lập trường quốc gia, ý thức hệ dân chủ tự do để giữ lòng tin đối với chế độ Sài Gòn và tạo cho dân có cơ sở lý luận chống lại cách mạng một cách tích cực, vững chắc”.
Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã chi cho ngành chiến tranh tâm lý ngân sách rất lớn. Chỉ riêng ngành vô tuyến truyền thanh truyền hình năm 1972 được JUSPAO chi tới 20 triệu USD. Theo kế hoạch phát triển hệ thống thông tin 4 năm 1974-1977 của chế độ Sài Gòn thì cấp xã sẽ được trang bị máy truyền hình, xây trạm thông tin, phòng trưng bày tranh ảnh và đọc sách, có dụng cụ âm thanh và nhạc cụ. Cấp ấp có bảng thông tin, chòi phát thanh, máy ghi âm, loa thiếc, khẩu hiệu cho mỗi gia đình, lập các hội văn thơ nhạc họa cho giới trẻ để tuyên truyền tác động tư tưởng. Ngân sách cho kế hoạch này dự chi là 6.802.585 USD.
Trong một tài liệu của Trần Văn An, cố vấn đặc biệt về chính trị và văn hóa của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cho biết nếu như chưa thất bại thì chính quyền Sài Gòn sẽ nâng cao tầm vóc hơn nữa của bộ máy chiến tranh tâm lý để giành lại thế thắng. Họ sẽ nâng Bộ Thông tin chiêu hồi thành Bộ Chính trị và chi phí hoạt động có ngân sách ngang với ngân sách của Bộ Quốc phòng.

Thái Kế Toại

3. ĐƯỜNG TRƯỜNG SƠN TRONG 16 NĂM KHÁNG CHIẾN
Thứ năm, 23 Tháng 12 2010 14:03
Năm 1959, đúng vào sinh nhật lần thứ 69 của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đoàn 559 thành lập, đánh dấu sự khởi đầu của tuyến đường Trường Sơn. VnExpress.net xin giới thiệu một số hình ảnh đang được trưng bày tại Hà Nội nhân ngày kỷ niệm 50 năm ngày khai sinh tuyến đường huyền thoại này.
> Những người mở đường năm xưa trở lại Trường Sơn
Được trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam, triển lãm "Huyền thoại đường Trường Sơn" trưng bày hơn 500 hiện vật, tranh ảnh trong 16 năm chiến tranh giải phóng đến thắng lợi năm 1975.
Đến triển lãm, người xem sẽ được tận mắt chứng kiến chiếc xe cút kít do bộ đội Trường Sơn chế tạo, bộ sưu tập các loại bi đông; bức ảnh về tiểu đội trưởng thanh niên xung phong La Thị Tám đã đánh dấu hơn 1.000 trái bom chưa nổ trong 7 tháng, chỉ dẫn cho xe qua an toàn...
Sự phát triển của tuyến đường trong cuộc chiến tranh giải phóng đã trở thành nỗi khiếp sợ của Mỹ, Ngụy, đến nỗi các chuyên gia quân sự Mỹ đã phải gọi đây là "trận đồ bát quái xuyên rừng rậm".
Từ phương thức đi bộ, gùi thồ sơ khai những năm đầu, việc vận chuyển hàng hóa trên tuyến đường chuyển sang cơ giới. Đến năm 1967, vận tải cơ giới kết hợp với hợp đồng binh chủng, hình thành thế trận chi viện chủ động, vừa chi viện vừa đánh lui địch. Với chiến thắng đường 9 Nam Lào 1971 và "Điện Biên Phủ trên không" 1972, bộ đội ta hoàn toàn giành được thế chủ động trên tuyến đường - chiến trường Trường Sơn. Đường Trường Sơn từ đây phát triển hoàn thiện, chi viện đắc lực cho chiến trường miền Nam, góp phần đẩy nhanh việc thống nhất nước nhà.
Nhiều chuyên gia quân sự Mỹ sau này bình luận, sở dĩ Mỹ thất bại ở Việt Nam là do không ngăn chặn được tuyến chi viện từ miền Bắc.
Sau 16 năm xây dựng, tổng kết lại tuyến đường có 5 trục dọc, 21 trục ngang như một trận đồ phủ kín dãy Trường Sơn, cả sườn Đông lẫn sườn Tây. Tổng chiều dài toàn tuyến lên tới 20.000 km, xuyên Bắc - Nam, xuyên 3 nước Đông Dương, vươn tới tất cả các chiến trường. Hệ thống hậu cần đường Trường Sơn đã chuyển được hơn một triệu tấn hàng, vũ khí vào cho các chiến trường, bảo đảm chỉ huy hành quân cho hơn 2 triệu lượt người vào chiến trường hoặc từ chiến trường ra Bắc; vận chuyển cơ động 10 lượt sư đoàn, 3 quân đoàn, hộ tống 90 đơn vị binh chủng kỹ thuật...
Dưới đây là một số hình ảnh trên tuyến đường huyền thoại này:

Đường Trường Sơn trong 16 năm kháng chiến
Vào những năm đầu, việc vận chuyển hàng chi viện được thực hiện bằng hình thức đi bộ, gùi thồ.
Đường Trường Sơn trong 16 năm kháng chiến
Tuy giữ được bí mật nhưng hiệu quả không đáng kể do quãng đường vận tải dài tới 2.000 km
Sau 2 năm như vậy, chúng ta bắt đầu thực hiện vận tải cơ giới. Hiệu quả vận chuyển tăng lên rõ rệt nhưng nhiều cung đường đã trở thành mục tiêu không kích của quân đội Mỹ.
Mỹ, Ngụy liên tục dùng máy bay, bộ binh, chất độc hóa học... ngăn chặn khiến việc chi viện trở nên vô cùng nan giải. Đến năm 1967, với bước phát triển mới của hợp đồng binh chủng bảo vệ các đoàn xe, xây dựng các tuyến đường tránh, đường nghi binh, vấn đề này mới được giải quyết. Tuyến đường từ đây hoạt động ngày càng thông suốt, hiệu quả.
Trong thời gian này, vai trò của lực lượng thanh niên xung phong thể hiện rõ hơn bao giờ hết. Trong ảnh là chị La Thị Tám, tiểu đội trưởng TNXP làm nhiệm vụ tại Ngã ba Đồng Lộc. Trong 7 tháng chị đánh dấu được 1.039 quả bom chưa nổ, chỉ dẫn cho người và xe qua tọa độ lửa này an toàn. Chị và 9 đồng đội hy sinh vào trưa 24/7/1968, khi 1 quả bom trong trận bom thứ 15 trong ngày dội sát miệng hầm các chị tránh bom. Tất cả đã hy sinh khi tuổi đời còn rất trẻ, chưa ai trong số họ lập gia đình.
Xuyên dãy Trường Sơn, bộ đội ta được đồng bào các dân tộc thiểu số dốc lòng giúp đỡ. Trong ảnh là đồng bào Vân Kiều (Quảng Bình) cung cấp lương thực dọc đường.
Trọng điểm Tha Mé tan hoang vì bom đạn. Trên toàn tuyến đường có tới 2.500 trọng điểm đánh phá của địch. Suốt 16 năm, chiến trường Trường Sơn hứng chịu hơn 4 triệu tấn bom mìn đủ loại.
Tuy nhiên, với sự phát triển của thế trận phòng ngự chủ động, ta ngày càng làm chủ chiến trường. Với tổng chiều dài hàng chục ngàn km trải dài trên 5 trục dọc, 21 trục ngang... các đoàn xe vận tải có thể dễ dàng xuyên dãy Trường Sơn từ Bắc vào Nam. Trong ảnh là một xưởng sửa chữa xe quy mô ngay dưới tán rừng.

Năm 1968, Mỹ phát hiện ta có tuyến đường ống dẫn xăng dầu ở Tây Nam thành phố Vinh (Nghệ An). Đến 1969, hệ thống này đã vượt qua biên giới với Lào, 1970 vươn tới thung lũng A Sầu (Thừa Thiên Huế)...
Mặc dù ra sức đánh phá, nhưng đến cuối cuộc chiến, hệ thống này đã được nối dài tới 2.000 km, đến tận cụm cuối tuyến đường tại Lộc Ninh (Bình Phước), tiếp "máu" cho các đoàn xe vận tải.
Thông tin liên lạc trên toàn tuyến lúc phát triển cao nhất lên tới 1.600 km đường dây, giúp nối thông giữa tổng hành dinh chỉ huy tới các chiến dịch.
Dũng sĩ diệt máy bay Mỹ cấp ưu tú Khơth (người cầm súng) đã bắn rơi 3 trực thăng Mỹ khi mới 15 tuổi (1969). Chiến trường đường Trường Sơn ghi dấu vô số tấm gương anh hùng song cũng để lại những mất mát khó có thể bù đắp, 22.000 chiến sĩ đã ngã xuống tại đây, 30.000 người nhiễm chất độc da cam...
Đại tướng Võ Nguyên Giáp (giữa) và trung tướng Đồng Sỹ Nguyên (bên phải) trong chiến dịch đường 9 Nam Lào 1971 - chiến dịch đem lại quyền kiểm soát hoàn toàn trên mặt đất cho bộ đội ta trên chiến trường Trường Sơn.
Đội tuyên truyền văn hóa xung kích E515 công binh phục vụ bộ đội mở đường Đông Trường Sơn, mùa khô 1973-1974. Đây là thời kỳ ta hoàn toàn làm chủ chiến trường Trường Sơn cả trên không lẫn mặt đất.
Đoàn xe vận tải hùng hậu và quân đội ta trong chiến dịch Hồ Chí Minh 1975 trên đường Trường Sơn - chiến dịch cuối cùng thống nhất hai miền Nam, Bắc. Sau 16 năm xây dựng và phát triển, đường Trường Sơn thực sự đã trở thành tuyến đường huyền thoại.
Nguyễn Hưng
Ảnh: Bảo tàng Lịch sử Quân sự VN



4. ĐƯỜNG TRƯỜNG SƠN DƯỚI LÒNG ĐẤT
Thứ năm, 16 Tháng 12 2010 21:37
18/05/2009

Những chuyến xe trên đường Trường Sơn.
Để đảm bảo xăng cho chiến dịch vận tải của Đoàn 559, cả công trường lao vào xẻ núi, rạch đèo, không quản mưa dầm, gió rét, đạp lên sên vắt và bom nổ chậm, mìn vướng, bất chấp cả bão đạn của quân thù, làm cả ngày cả đêm, làm quên ăn, quên ngủ. Thành quả là đã tạo thành một đường ống xuyên qua Cổng Trời và đèo Mụ Giạ, xuống Na-tông đúng vào giữa tháng 12/1968.
Cõng xăng trên lưng tiếp lửa cho mặt trận
Sau những thất bại nặng nề trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1968, đế quốc Mỹ vội tập trung chống đỡ. Chúng đã phải xuống thang phá hoại miền Bắc từ vĩ tuyến 19 trở ra để bước vào bàn đàm phán, đồng thời phản kích quyết liệt ở những vùng còn lại. Thực chất là thay đổi thủ đoạn, điều chỉnh lực lượng, dồn sức để " hủy diệt những vùng đất hiểm", mà trọng điểm phong tỏa đánh phá là vùng "cán xoong" từ Hà Tĩnh trở vào để chặn đứng nguồn chi viện của miền Bắc vào chiến trường miền Nam.
Trên các tuyến sông Nậy, sông Gianh và sông Son địch thả bom từ trường và thủy lôi dày đặc. Đường qua Đá Đẽo, Phong Nha, Khương Hà, Chà Ang, Khe Diêm... cả tuyến đường 20 - Quyết thắng chúng đánh liên tục, dày đặc đủ loại bom tấn, bom tạ, bom sát thương, bom bi, rốc két, tên lửa pôn-pớp, mìn vướng... bom nổ ngay, bom nổ chậm, thả cả một loạt cây nhiệt đới thu phát tiếng động để phát hiện mục tiêu và chỉ dẫn cho máy bay đến đánh phá.
Tình hình ngày càng căng thẳng. Cả 15 ngày đầu tháng 3/1968, Đoàn 559 không còn xăng cho cơ giới hoạt động, kế hoạch vận tải cho mùa khô có nguy cơ bị trì hoãn. Có lúc cả ngàn xe vận tải nằm chờ.
Lúc này, ở phía trong tam giác lửa, Binh trạm 12 nhận lệnh bằng mọi giá phải đưa nốt số xăng dầu còn lại vượt Trường Sơn giao cho Đoàn 559, nhưng đường đi lại quá khó khăn. Đoạn đường từ ngã ba Khe Ve đến đèo La Trọng bị bom đạn chà đi xát lại, đất đá trên núi trút xuống thành một vùng lầy dài vài cây số. Trên đoạn này đã có 8 chiến sĩ bị mất bàn chân do vướng phải các loại mìn lá, mìn gíp...
Lực lượng công binh dùng hàng tấn bộc phá để bạt bùn lầy mở đường cho xe qua, nhưng hiệu quả đem lại chưa đáng là bao. Binh trạm đành phải bơm xăng vào thùng phuy 200 lít rồi bố trí 4 chiến sĩ khỏe mạnh khiêng qua bãi lầy, nhưng 12 người mỗi ngày cũng chỉ khiêng được 15 phuy.
Ròng rã 2 ngày đêm lăn lộn binh trạm chỉ giao đủ 2 xe xăng cho Đoàn 559, nhưng phải trả giá là 1 chiến sĩ trượt chân rơi xuống vực thẳm và 2 chiến sĩ trúng mìn bị hy sinh. Không chịu khuất phục, cả binh trạm tiến hành gùi xăng vượt bùn lầy. Xăng được đóng bọc trong 4.000 túi nylon, với mỗi túi là 20 lít, được cho vào balô, để từng người cõng qua trọng điểm. Sau một ngày đầu đội bom, hứng đạn, chân lội bùn lầy, 500 chiến sĩ mới chuyển đủ 2 xe tẹc 10m3 xăng, trong quá trình vận chuyển, 40 người bị rộp lưng, bỏng da. Một số chiến sĩ bị bỏng quá nặng do nhiễm độc chì đã hy sinh.
Không chịu bó tay, quyết đưa hàng vào mặt trận, Binh trạm trưởng Nguyễn Đàm bàn với kỹ sư Lưu Vĩnh Cường và anh em làm đường ống dẫn xăng qua trọng điểm. Họ đã dùng tôn cuốn thành ống nối với nhau, thiếu thì nối thêm ống tre lồ ô khoét rỗng, nối với một thùng phuy 200 lít, bơm xăng lên thùng cho xăng chảy về "điểm hẹn". Suốt hai tháng dùng sáng kiến tự tạo này, Binh trạm 12 đã đưa được khá nhiều xăng vào chiến trường.
Cùng lúc đó, Binh trạm trưởng Binh trạm 14 Hoàng Trá nhận được điện mật của Binh trạm trưởng Binh trạm 12 Nguyễn Đàm báo: "... Đường 12 tắc tị rồi. Bọn mình phải chuyển xăng bằng túi nylon, nhưng anh em rộp hết lưng, có người nhiễm độc... Hy sinh đau lắm, bỏ thôi...". Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên cũng điện vào. Bức điện viết: "Nếu Binh trạm 14 không tiếp xăng vào, sẽ có hàng vạn bộ đội đói, chết". Thế là đã rõ. Tất cả chỉ còn trông vào đường 20 - Quyết thắng, cái "cổ họng" chủ yếu, cửa ngõ duy nhất vào Nam lúc này. Binh trạm 14 phải tập trung sức, dồn hết cả xe hậu cần bảo đảm sinh hoạt, đưa vào vận chuyển theo kế hoạch.
Binh trạm 14 huy động lực lượng chuẩn bị như sắp mở cuộc tấn công vào tử huyệt quân thù. Trên trọng điểm được đặt 4 đài quan sát phòng không suốt ngày đêm. Hai đại đội súng 12,7 ly được đưa lên đỉnh núi đón đánh máy bay địch. Dọc hai bên suối, lực lượng công binh chịu trách nhiệm xây dựng hệ thống công sự kiên cố. Khi có lệnh, đội chuyển tải khẩn trương kéo những phuy xăng ngược dòng 4 cây số, vòng qua trọng điểm. Khi nghe hiệu súng báo động, phải nhanh chóng đưa xăng vào công sự. Đường sắp thông, bỗng nhiên 8 loạt bom nối nhau ập vào vách núi. Đá sụt xuống chắn cả mặt đường.
Đội chuyển tải đang kéo 20 phuy xăng ngược suối, không nghe tiếng máy bay phản lực, chỉ kịp thấy ánh chớp chói lòa. 5 phuy xăng bị trúng mảnh bom vỡ toác ra, xăng ộc tràn mặt suối bốc cháy. Lửa trôi quấn lấy đội quân chuyển tải đang bì bõm. Các chiến sĩ nhanh chóng tạt sang hai bên, lột hết áo quần, vừa dập lửa, vừa dồn sức kéo 15 phuy xăng còn lại vào công sự...
Cuộc chiến đấu chống giặc lửa ở đây khẩn cấp tới độ không ai kịp ngượng ngùng vì trần trụi. Chỉ cần chậm một phút thì áp lực của lửa làm cho phi xăng nổ tung, đám lửa cháy to hơn, máy bay địch phát hiện, tiếp tục ném bom chết cả đội. Vậy là, trong 6 chuyến chuyển tải đợt đầu chỉ được 30 phuy xăng, nhưng đã phải đổi bằng 29 chàng trai, cô gái đang độ tuổi thanh xuân... Suối Chà Ang lại đượm máu và xăng. Cái giá phải trả quá đau xót, nhưng yêu cầu của chiến trường, không thể dừng lại được... Cũng trong đêm ấy, đoạn đường vượt đèo bị tắc. Hơn 80 xe đầy hàng hóa đang ùn lại trong vòng tọa độ lửa. Binh trạm trưởng Hoàng Trá gặp tham mưu trưởng.
- Đã có cách gì chưa? - Hoàng Trá hỏi.
- Chưa tính ra anh ạ! - Tham mưu trưởng lo lắng trả lời.
- Vượt đèo một đợt thì nguy hiểm - Hoàng Trá lắc lư đôi vai, nói tiếp: - Chia đôi cho gọn.
- Đợt sau sợ trời sáng mất.
Binh trạm trưởng lặng im. Điều khó nhất cũng là nghệ thuật của người chỉ huy biết bắt được những ý nghĩ đang chen nhau để ra quyết định. Binh trạm trưởng Hoàng Trá rút khăn lau những giọt mồ hôi đang làm cay mắt, ngước nhìn Chính ủy Nguyễn Việt Phương nói:
- Tranh thủ lúc chưa tan sương, cho vượt từng tốp...
-  Có thể làm như vậy - Chính ủy Việt Phương gật đầu: - Lúc đó không có địch thì kể gì đêm hoặc ngày.
Có được sự đồng tình, Hoàng Trá linh hoạt hẳn lên:
- Thằng địch đã dùng phương pháp đánh "tọa độ", thì việc ta dựa vào bóng đêm là vô nghĩa - Hoàng Trá nói.
Câu lý giải đầy thông minh làm anh nhẹ hẳn đầu óc. Tin vào công tác nắm tình hình của cơ quan tham mưu, sự yểm trợ của Sư đoàn Cao xạ pháo 375 và lực lượng công binh vững... Binh trạm 14 có cơ sở khoa học để tin tưởng việc thực hiện thắng lợi kế hoạch này. Vốn là người cẩn thận, Hoàng Trá kiểm tra nhanh các yêu cầu then chốt, rồi cho một xe đi thử. Hàng chục con người có mặt hồi hộp, dán mắt dõi theo chiếc xe Zin 157 vượt dốc...
Sau hơn 90 phút vật lộn với bùn đất, đường lại thông. Cả đoàn xe, 80 chiếc, vừa vượt qua đoạn đường tai ác ấy chừng 15 phút thì máy bay địch kéo đến đánh xuống cả vùng đó. Cứ liên tục như vậy, liên tiếp suốt 20 ngày đêm tiếp theo, lực lượng chiến đấu trên tuyến đường này đã giải phóng hơn 3.500 chuyến xe tải và 400 tăng pháo vượt khẩu kịp vào các chiến trường.
Xăng xuyên lòng đất, thấm đẫm máu, mồ hôi, nước mắt
Vấn đề nan giải còn lại đối với các binh đoàn, với cả Đoàn 559 là tiếp tế xăng dầu. Theo nhận định của Quân ủy Trung ương, địch sẽ đánh ác liệt xuống các cửa khẩu của hậu phương vận chuyển hàng vào cho Đoàn 559. Quân ủy Trung ương đã đồng ý đưa đường ống vào làm tuyến từ Khe Ve, vượt đèo Mụ Giạ, xuyên qua Tây Trường Sơn, xuống Lùm Bùm (Lào), để tiếp cận đường 9, tạo điều kiện thuận lợi cho Đoàn 559 vận tải vào Nam.
Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần Bộ Quốc phòng Đinh Đức Thiện cử Cục trưởng Cục Xăng dầu quân đội Phan Tử Quang trực tiếp đến báo cáo tình hình với Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp. Sau khi nghe báo cáo, Đại tướng chỉ thị phải đảm bảo xăng dầu cho Đoàn 559 hoạt động. Đại tướng cũng đồng ý với phương án triển khai làm đường ống, trước mắt là làm đường ống vượt các trọng điểm đánh phá, nhưng sau đó phải làm ngay đường ống vượt Trường Sơn vào càng sâu càng tốt.
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Đại tướng, ngày 12/4/1968, Phó phòng Xăng dầu quân đội Trần Xanh dẫn 12 CBCS của Đoàn 559 tiến hành khảo sát tuyến từ Khe Ve qua đèo Mụ Giạ sang Lùm Bùm. Một đoàn khác do đồng chí Hoàng Ngọc Minh dẫn đầu khảo sát tuyến từ Thiệu Dương (Thanh Hóa) vào Nam Đàn, Linh Cảm, qua Hương Khê vào giáp với tuyến của Trần Xanh. Từ đó Công trường 18 được thành lập do Thiếu tá Mai Trọng Phước, Chủ nhiệm khoa Xăng xe vận tải của Trường sĩ quan Hậu cần phụ trách, Thiếu tá Hoàng Sùng làm Chính ủy, chuẩn bị làm đường ống vượt "tam giác lửa".
Đồng hành với các đoàn khảo sát và công việc triển khai của Công trường 18, trên tuyến đường 20 - Quyết thắng Binh trạm 14 vẫn liên tục triển khai kế hoạch chuyển tải cấp cứu xăng dầu. Họ đã kết nhiều phuy xăng thành bè, đưa xăng từ Minh Cầm xuôi dòng sông Nậy, ngược dòng sông Son về bến Khương Hà. Để đưa được xăng vào chiến trường, công sức mồ hôi, kể cả máu của các chiến sĩ đã đổ rất nhiều.
Đêm 12/6/1968, hơn 400 người của Công trường 18, bao gồm 240 cán bộ công nhân của Bộ Công nghiệp nhẹ, Bộ Thủy lợi, Công ty gang thép Thái Nguyên, công nhân xây dựng khu nam Hà Nội đã rời thủ đô Hà Nội, hành quân vào Nam Đàn. Khúc sông Lam nằm giữa bến đò Vạn Rú (xã Nam Đông) được chọn làm điểm khởi đầu thi công tuyến đường ống.
Đúng 21 giờ, hiệu lệnh vượt sông bắt đầu.
Đại úy Trần Xanh chỉ huy lực lượng mình phụ trách nhanh chóng nối ống. Thiếu tá Mai Trọng Phước chỉ huy lực lượng Công trường 18, được sự nhiệt tình tham gia của lực lượng dân quân xã Nam Đông kéo ống qua sông. Sau 38 ngày đêm vật lộn trên sông nước, tránh sự quan sát và oanh tạc của máy bay địch, đến 5h sáng ngày 23/6, 500 mét đường ống đầu tiên đã vượt sông an toàn. Từ đó, đường ống tiếp tục vượt sông La, vào Nga Lộc...
Đến ngày 10/8, tuyến đường ống dài 42 km vượt "tam giác lửa" hoàn thành. Dòng xăng từ đại kho N1 ở Nam Thanh (Nam Đàn) được chảy nhanh  vào kho N2 ở Nga Lộc, giữa tiếng hò reo vui mừng, phấn khởi của cả quân và dân dọc tuyến đường ống từ Nghệ An vào Hà Tĩnh. Thắng lợi bước đầu đã tạo nên sức mạnh và lòng tin của quân và dân trên tuyến lửa. Công trường 18 tiếp tục dẫn ống vào Hương Khê, tiến dần tới Khe Ve (Quảng Bình).
Vào thời điểm này, máy bay giặc Mỹ tăng cường đánh phá dữ dội các tuyến đường và cửa khẩu sang Lào, đặc biệt là các trọng điểm cua chữ A, Ta-lê, Phu-la-nhích, nhưng theo yêu cầu của Tổng cục Hậu cần là phải thi công nhanh đoạn vượt đèo Mụ Giạ sang Na-tông của tỉnh Khăm Muộn  (Lào) để đảm bảo xăng cho chiến dịch vận tải của Đoàn 559.
Thế là cả công trường lại lao vào xẻ núi, rạch đèo, không quản mưa dầm, gió rét, đạp lên sên vắt và bom nổ chậm, mìn vướng, bất chấp cả bão đạn của quân thù, làm cả ngày cả đêm, làm quên ăn, quên ngủ, tạo thành một đường ống xuyên qua Cổng Trời và đèo Mụ Giạ, xuống Na-tông đúng vào giữa tháng 12/1968.
Tưởng như đã thông suốt, không ngờ khi vận hành thử rửa đường ống bằng nước, thì nước không vượt qua được độ cao 700 mét của đèo Mụ Giạ. Các chiến sĩ đường ống đã nghiên cứu và dùng hai máy bơm, bơm nối tiếp nhau, thì bơm được, nhưng việc vận chuyển xăng tới kho Na-tông mới được mấy ngày, thì bị máy bay B52 của giặc Mỹ rải thảm, đổ xuống đoạn đường vận chuyển và kho hàng chục tấn bom. Bom đạn phá nát cả đường ôtô, làm vỡ đường ống chạy theo dọc đường. Hết tốp B52 này đến tốp khác. Hết loại máy bay này đến loại khác. Chúng thay nhau đánh suốt cả ngày đêm.
Đơn vị công binh đã bạt hàng trăm khối đá, tạo thành một đường hào dài hơn 10km, để chôn ống sâu xuống, nhưng bom đạn vẫn cày xới lên. Công trường liền sáng tạo ra để lộ 1.000 mét đường tránh để đánh lừa địch và dùng một số phuy xăng dầu đốt cách xa tuyến. Vậy là chúng tập trung bom đạn dội xuống đoạn đường tránh và nơi có xăng dầu cháy, còn tuyến đường dẫn xăng của chúng ta vẫn bình yên. Xăng cứ liên tục chảy vào kho Na-tông có trữ lượng 500m3. Đến đêm giao thừa năm Kỷ Dậu (1969) xăng vẫn đầy kho.
Ngày 3/3/1969, toàn tuyến đường ống dài 350km hoàn thành, vượt qua dãy Trường Sơn hiểm trở, nối thông từ Vinh, qua Cổng Trời, tới kho Ka Vạt  (Lào), đảm bảo xăng dầu kịp thời cho 5.000 xe của Đoàn 559 vận tải, phục vụ các đợt đột kích mùa khô 1968-1969 giành thắng lợi. Từ đó, xe chở xăng dầu của các binh trạm không phải qua các trọng điểm để lấy xăng
Kim Cương
http://antg.cand.com.vn/vi-vn/tulieu/2009/5/69348.cand?Page=2


5. 
NHỮNG KỲ TÍCH CỦA TUYẾN ĐƯỜNG TRƯỜNG SƠN - HỒ CHÍ MINH HUYỀN THOẠI
Thứ năm, 16 Tháng 12 2010 21:36

Đường Trường Sơn năm xưa (Ảnh tư liệu)
Trong lời tuyên dương công trạng bộ đội Trường Sơn có đoạn viết: “Suốt 16 năm qua, bộ đội Trường Sơn đã không ngừng phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng và tinh thần quyết chiến quyết thắng, kiên quyết tiến công, chủ động tiến công, liên tục tiến công, vượt qua mưa bom, bão đạn, đạp bằng mọi khó khăn gian khổ, anh dũng mở đường thắng lợi, hoàn thành thắng lợi một cách đặc biệt xuất sắc, lập nên kỳ công trong lịch sử chiến tranh chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta”.
Qua 16 năm, bộ đội Trường Sơn đã đào đắp, san lấp khoảng 29 triệu m3 đất đá, xây dựng mạng đường bộ gồm 5 hệ thống đường trục dọc, 21 đường trục ngang ở Đông và Tây Trường Sơn với chiều dài gần 2 vạn km, một tuyến đường kín dài 3140 km, hệ thống đường sông dài gần 500 km. Bộ đội Trường Sơn đã xây dựng được hệ thống đường ống dẫn xăng dầu dài 1400 km vào tới Đông Nam Bộ, san lấp 78.000 hố bom, phá 12.600 quả bom từ trường, 8000 bom nổ chậm, 85.100 mìn các loại. Bộ đội Trường Sơn tham gia đánh 2500 trận bộ binh, diệt 18.740 tên địch, thu, phá hủy hơn 100 xe quân sự, hàng ngàn súng, bắn rơi 2.455 máy bay các loại. Bộ đội Trường Sơn đã vận chuyển, tổ chức hành quân hơn 2 triệu lượt bộ đội, cán bộ dân, chính, đảng vào ra qua Trường Sơn. Mỗi năm bình quân chuyển được hơn 1 triệu tấn hàng chi viện cho chiến trường, riêng năm 1974 có lượng hàng gấp 22 lần năm 1966.
Trong chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975, bộ đội Trường Sơn đã đảm bảo giao thông toàn bộ tuyến đường quốc lộ 1 và 7 tuyến đường khác có tổng chiều dài lên tới 2577 km, bắc lại 88 cây cầu, sử dụng trên 1000 xe ô tô chở các quân đoàn chủ lực và chở bổ sung gần 20 vạn quân cho các chiến trường để giải phóng miền Nam.
Với những chiến công ấy, tập thể bộ đội tuyến đường Trường Sơn- Hồ Chí Minh được Nhà nước tuyên dương Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Sao vàng; 81 tập thể đơn vị (có 4 đơn vị cấp sư đoàn, 17 đơn vị cấp trung đoàn, 32 tiểu đoàn, 25 đại đội, 1 Đội điều trị quân y, 1 trạm sửa chữa ô tô, 1 trạm giao liên, trong đó có 3 đơn vị được tuyên dương Đơn vị anh hùng lần thứ hai); 48 cán bộ, chiến sĩ được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Trong quá trình chiến đấu, phục vụ chiến đấu trên tuyến đường Trường Sơn, hơn 20.000 cán bộ, chiến sĩ đã anh dũng hy sinh, hơn 32.000 người bị thương.
Chế tạo máy phát điện và xe ô tô chạy bằng than củi
Giữa rừng già Trường Sơn, khi không còn xăng, bộ đội Trường Sơn đã chế tạo thành công máy phát điện và ô tô chạy bằng than củi- nguồn nguyên liệu dồi dào từ những cánh rừng. Người sáng tạo ra hai thiết bị độc đáo đó là Anh hùng Nguyễn Ngọc Quỳnh, Trạm trưởng trạm sửa chữa ô tô của tiểu đoàn 56, binh trạm 44. Sau cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa xuân năm 1968, đế quốc Mỹ đã điên cuồng ngăn chặn và bắn phá tuyến chi viện chiến lược Trường Sơn. Các đoạn tuyến phía trong của tuyến chi viện thiếu lương thực, thực phẩm nghiêm trọng. Khẩu phần ăn của mỗi người giảm xuống còn 0,3 kg gạo mỗi ngày. Nguy hại hơn, xăng thiếu đã làm tê liệt tuyến vận chuyển cơ giới. Lúc đó trạm sửa chữa ô tô thuộc tiểu đoàn 56, binh trạm 44 do Nguyễn Ngọc Quỳnh làm trạm trưởng đóng quân trong rừng già Trường Sơn. Không có xăng, máy phát điện bỏ xó, trong khi hàng loạt xe hỏng chờ sửa chữa để chuẩn bị cho chiến dịch vận chuyển mùa khô. Chỉ cần có điện, hàn vài mối hoặc tiện thêm vài chi tiết là xe có thể lên đường. Lúc đó, Nguyễn Ngọc Quỳnh đã nhớ lại việc nhà máy cơ khí Long Biên, nơi anh từng làm việc đã chế tạo ra ô tô chạy bằng than. Một câu hỏi lóe lên: Tại sao không dùng than củi cho máy phát điện? Sau một thời gian mày mò nghiên cứu, chiếc máy phát điện chạy bằng than củi đã được chạy thử với kết quả trên cả sự mong đợi. Sau đó, Nguyễn Ngọc Quỳnh cùng trạm sửa chữa ô tô thuộc tiểu đoàn 56 lại chế tạo ra ô tô chạy bằng than củi để vận chuyển hàng, bởi xăng dự trữ của đơn vị đã cạn. Nhờ việc chế tạo thành công máy phát điện và ô tô chạy bằng than củi, trạm sửa chữa ô tô thuộc tiểu đoàn 56 đã hoàn thành tốt nhiệm vụ, được công nhận là đơn vị quyết thắng 4 năm liền. Riêng trạm trưởng Nguyễn Ngọc Quỳnh được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm 1973.
“Tiền Trường Sơn”
Trong danh mục tiền tệ qua các thời kỳ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có nhắc đến một loại tiền khá lạ và coi đây là một hiện tượng tiền tệ độc đáo trong lịch sử, đó là “Tiền Trường Sơn”. Trong bối cảnh bộ đội Trường Sơn ngày một đông, địa bàn hoạt động lại trải dài trên 21 tỉnh của Việt Nam, Lào và Campuchia thì việc bảo đảm các chế độ, tiêu chuẩn cho cán bộ, chiến sĩ là một thách thức không nhỏ. Thêm nữa, đồng tiền Ngân hàng không được phép đưa vào sử dụng ở nam giới tuyến. Theo đề nghị của Bộ Tư lệnh Trường Sơn, Cục tài vụ- Bộ Quốc phòng đã phối hợp với Ngân hàng tổ chức in và đưa vào lưu thông trong lực lượng bộ đội Trường Sơn ở phía nam sông Bến Hải loại “Tiền Trường Sơn” còn được gọi là “phiếu bách hóa”. Tiền có 4 mệnh giá: 1 đồng, 2 đồng, 5 đồng và 10 đồng. Việc đưa vào sử dụng “Tiền Trường Sơn” đã giải quyết tốt các nhu cầu thanh, quyết toán, đảm bảo chế độ tiêu chuẩn cho cán bộ, chiến sĩ Trường Sơn. Thay vì bộ đội hậu cần phải chuyển nhu yếu phẩm đến từng đơn vị đóng quân dọc Trường Sơn, người ta chỉ cần chuyển hàng đến từng binh trạm cố định. Việc phân phối, cấp phát sau đó được thực hiện bằng hình thức “mua hàng”. Việc đưa “Tiền Trường Sơn” vào lưu thông như một hình thức thanh toán đã tạo ra rất nhiều tiện lợi, giúp các đơn vị tiết kiệm được thời gian, đơn giản hóa các thủ tục chứng từ, tem phiếu, sổ theo dõi của cả hai bên xuất và nhập hàng. Đặc biệt, các đơn vị, bộ phận hậu cần đã tiết kiệm được nguồn nhân lực đáng kể, giảm chi phí kho lán ở từng đơn vị, do đó hạn chế thương vong cho cán bộ, chiến sĩ trên đường đi phân phối nhu yếu phẩm. Khi cán bộ, chiến sĩ được luân chuyển từ đơn vị này sang đơn vị khác hoặc chuyển công tác ra khỏi chiến trường, “Tiền Trường Sơn” sẽ được sử dụng để thanh toán chế độ, tiêu chuẩn tại 2 địa điểm chính (Cự Nẫm (Quảng Bình) và Hà Nội). “Tiền Trường Sơn” hết sức thân thuộc với bộ đội Trường Sơn.
AP (Tổng hợp
http://www.gdtd.com.vn/gdtdroot/2009-058/bai02.htm


6. NIXON ÉP SÀI GÒN KÝ HÒA ĐÀM 1973
Thứ năm, 16 Tháng 12 2010 21:35

Các cuốn băng ghi âm từ năm 1973 được giải mật cho thấy Tổng thống Nixon đã muốn đạt được thỏa thuận tại Hòa đàm Paris với Hà Nội bằng mọi giá và gây sức ép rất lớn đối với Sài Gòn.
Một đoạn băng trong số 150 giờ thu âm và 30 nghìn trang tài liệu được Thư viện Nixon công bố hôm thứ Ba vừa qua có lời của Tổng thống Nixon nói với Cố vấn An ninh Henry A. Kissinger về Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.
Nixon nói để bắt Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa ký vào hòa đàm, ông sẵn sàng "cắt đầu y nếu cần thiết" (cut off his head if necessary).
Bài của Shaun Tandon trên AFP hôm 23/06 thì mô tả ông Nixon đã yêu cầu ông Kissinger nói với Tổng thống Việt Nam Cộng hòa rằng Quốc hội Mỹ sẽ cắt viện trợ nếu Sài Gòn không đồng ý với kết quả hòa đàm.
Nhưng có vẻ như ông Nixon sẵn sàng làm mạnh hơn nếu lời đe dọa cắt viện trợ không đạt mục đích.
Các đoạn băng cũng cho thấy một thứ ngôn ngữ rất 'Kissinger' mà Cố vấn An ninh của Tổng thống Hoa Kỳ dùng để nói về đồng minh.
Ông Kissinger nói với Tổng thống về Ngoại trưởng Trần Văn Lắm của Nam Việt Nam, người có mặt khi đó tại Paris để dự họp.
Dùng từ tục để gọi ông Lắm là 'an ass', ông Kissinger nói " Y cũng chẳng làm được gì cả đâu".
Cũng chỉ tháng trước, ông Nixon đã tiếp Ngoại trưởng Nam Việt Nam và hứa sẽ "làm tất cả để giúp Nam Việt Nam" và "nền độc lập" của nước này.
Ông Nixon còn nói: "Điều chính yếu là cần phải nhớ: chúng tôi biết ai là những người bạn thực thụ".
"Tôi không rõ đe dọa đó có đủ hay không, nhưng tôi sẵn sàng làm bất cứ điều gì, kể cả cắt đầu của y nếu cần thiết".
Tổng thống Nixon đe dọa Tổng thống Thiệu
Nhà nghiên cứu về Nixon, ông Ken Hughes từ đại học Virginia nói ông bị chấn động khi nghe đoạn ghi âm mà ông Nixon nói về ông Thiệu.
Báo New York Times 23/06/2009 trích lời ông Hughes, người nghiên cứu các băng ghi âm của nhiều tổng thống Mỹ, nói cuộc đàm thoại trên càng làm ông tin tưởng vào quan điểm rằng cả ông Nixon, ông Thiệu và ông Kissinger đều biết trước rằng cuộc ngưng bắn không thể duy trì nổi.
Đó cũng chẳng phải là "hòa bình trong danh dự" như ông Nixon mô tả, mà chẳng qua chỉ là cách để Hoa Kỳ rút khỏi cuộc chiến mà "không mất mặt".
Vẫn các báo Mỹ trích lời Ken Hughes tin rằng các nhân vật trong cuộc biết rằng Bắc Việt Nam sẽ vi phạm thỏa thuận ngưng bắn và tiến chiếm miền Nam.
Quan điểm Nixon
Các đoạn băng cũng cho thấy một nhân vật Nixon tiếp tục tạo ra các tranh cãi.
Giới quan sát chú ý cả quan điểm của Tổng thống Hoa Kỳ khi ấy về sắc tộc, về người Do Thái và tất nhiên là về vụ Watergate.
Ông Nixon, qua lời thu âm và tài liệu nay được đưa ra ánh sáng dư luận, có quan điểm rằng phá thai là cần thiết nếu quan hệ nam nữ là khác chủng tộc hay thai nhi là hậu quả của hiếp dâm.

Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu (1923-2001) trong hình bên phải, đã chịu sức ép rất lớn từ Washington trong năm 1973
Ông nói:
"Có những khi phá thai là cần thiết. Tôi biết. Như khi có quan hệ giữa một người đen và một người da trắng. Hay là trong trường hợp hiếp dâm".
Còn về người Do Thái tại Mỹ, ông cũng chia sẻ phần nào quan điểm của một số giới bảo thủ Hoa Kỳ.
Trong cuộc điện đàm tháng 2/1973 giữa ông và nhà truyền giáo Billy Graham, người ta nay nghe được lời ông Graham than phiền về các lãnh đạo Mỹ gốc Do Thái "chống lại nỗ lực truyền đạo của Cơ đốc giáo".
Hai người đã đồng ý với nhau rằng các nhân vật Do Thái "có nguy cơ làm khuấy động thái độ bài Do Thái".
Tổng thống Nixon còn nói, "Ông cũng biết rằng đã có vấn đề với những người bạn Do Thái của chúng ta từ hàng thế kỷ nay".
Các đoạn băng được ghi bằng các microphone mật đặt trong Phòng Bầu Dục từ tháng 1 đến tháng 2/1973.
Theo New York Times, các cuốn băng rọi thêm ánh sáng vào một giai đoạn quan trọng trong lịch sử Mỹ, gồm cả lễ đăng quang lần thứ nhì của Tổng thống Nixon, cuộc ngưng bắn tại Việt Nam, vụ xử bảy người đột nhập vào trụ sở đảng Dân chủ tại khu nhà Watergate.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2009/06/090624_nixon_tapes_vn.shtml




8. NĂM 1968, NIXON ĐÃ PHÁ HOẠI HỘI NGHỊ PARIS NHƯ THẾ NÀO?
Tội lỗi lớn nhất của vị Tổng thống Mỹ thứ 37 Richard Nixon không phải là vụ Watergate, cũng không phải là mối quan hệ lâu năm của ông ta với bọn mafia mà là tội “phản quốc” - từ của Tổng thống tiền nhiệm Lyndon Braines Johnson dùng để nói về hành động phá hoại Hội nghị Paris về chiến tranh Việt Nam của Nixon vào năm 1968.
Vào năm 1968, chiến tranh Việt Nam nổi lên thành vấn đề số 1 trong chiến dịch tranh cử tổng thống Mỹ. Richard Nixon được nhìn nhận là người thuộc phái "bồ câu" vì ông ta hứa hẹn sẽ thực thi một kế hoạch bí mật để "kết thúc chiến tranh và đạt được hòa bình".
Trước đó, Tổng thống Lyndon Johnson đã tuyên bố rút khỏi cuộc chạy đua vào Nhà Trắng. Ông ta hy vọng rằng sự ra đi của mình sẽ đem lại một cái kết cho cuộc chiến ở Việt Nam  thông qua Hội nghị ba bên gồm Hà Nội, Sài Gòn và Washington đang diễn ra ở Paris.
Trong suốt chiến dịch tranh cử năm 1968, thông qua một nhân vật "bí mật", Nixon đã yêu cầu Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu tẩy chay mọi  cuộc thương lượng hòa bình do Tổng thống Johnson bảo trợ, tìm cách trì hoãn để chờ đợi một thỏa thuận có lợi hơn trong nhiệm kỳ tổng thống của Nixon sắp tới. Thiệu tuân lời, phá hoại mọi cuộc thương thuyết và khước từ mọi cơ hội dành cho hòa bình trong những tháng cuối cùng của nhiệm kỳ Johnson.
Kênh liên lạc bí mật của Richard Nixon được thực hiện thông qua Anna Chennauld, biệt hiệu "Rồng Cái". Bà này là vợ của tướng Claire Chennault - người hùng của Không quân Mỹ trong Thế chiến II - và là đồng Chủ tịch Ban phụ nữ của liên danh tranh cử Nixon - Agnew.
Theo yêu cầu của Nixon, Anna Chennault đã tiếp cận với Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Mỹ - Bùi Diễm. Tháng 7/1968, Chennault đã bí mật giới thiệu viên đại sứ với ứng cử viên tổng thống của đảng Cộng hòa tại căn hộ riêng của Nixon tại New York.
Theo bà ta, Nixon đã hứa với Bùi Diễm rằng, nếu trúng cử, ông ta sẽ gặp Thiệu và sẽ tìm ra giải pháp để thắng trong cuộc chiến này. Ông ta còn nói thêm rằng Anna Chennault là "kênh liên lạc duy nhất giữa tôi và chính phủ của ông". Anna Chennault còn có một vài cuộc nói chuyện, hoặc trực tiếp, hoặc qua điện thoại với Giám đốc điều hành chiến dịch tranh cử của Nixon - John Mitchell. Trừ những lần nói chuyện qua đường dây an toàn, Mitchell rất thận trọng và luôn giấu kín những suy nghĩ thật của mình. Ông ta lo ngại mật vụ của chính phủ đang theo dõi mọi hoạt động của "Rồng Cái".

Nghi ngờ của Mitchell là rất chính xác. Các cơ quan an ninh và tình báo của Mỹ như NSA (Cục An ninh quốc gia), FBI và CIA đã lén đọc thư tín, nghe trộm điện thoại và đặt máy ghi âm theo dõi những hoạt động phá hoại ngầm Hội nghị Paris của Richard Nixon và Nguyễn Văn Thiệu. Thậm chí, văn phòng làm việc của ông Thiệu ở Sài Gòn cũng bị đặt máy nghe trộm. Họ đã thông báo cho Tổng thống Johnson toàn bộ sự việc. Ông ta rất tức giận và đã nhiều lần cảnh cáo Nixon về những hành động lén lút và phạm pháp này.
Vào ngày 2/11/1968, 3 ngày trước cuộc bầu cử, Johnson đã có cuộc nói chuyện qua điện thoại với Thượng nghị sĩ Everett Dirksen - thủ lĩnh nhóm Cộng hòa trong Thượng viện. Đoạn băng ghi âm cuộc nói chuyện này đã được thư viện Johnson công bố gần đây. Johnson gọi hành động "đi đêm" của Nixon với Nguyễn Văn Thiệu là "phản quốc". Ông ta không ngần ngại hé lộ cho Dirksen biết "con bài tẩy" mình đang có trong tay - những bằng chứng về việc Nixon chống phá Hội nghị Paris do các cơ quan an ninh của Mỹ cung cấp - có thể làm sự nghiệp chính trị của Nixon sụp đổ và dọa sẽ tiết lộ chuyện này cho giới báo chí.
Thậm chí, sau cuộc bầu cử, Johnson vẫn tiếp tục gây sức ép đối với Nixon về vấn đề này. Tất nhiên, Nixon chối phắt và trấn an Tổng thống rằng ông ta sẽ không làm điều gì có hại cho tiến trình hòa bình tại Việt Nam. Ông ta còn "bán đứng" thuộc hạ bằng cách tố cáo với Johnson rằng Anna Chenault và Thượng nghị sĩ bang Texas John Tower - lúc bấy giờ ông này là người tình của Anna - là những người đã lén lút liên lạc với Nguyễn Văn Thiệu. Nixon biết Tổng thống và John Tower là những kẻ thù không đội trời chung và chính ông ta là người thay thế vị trí của Johnson trong Thượng viện.
Chẳng bao lâu sau, Richard Nixon đã quay ngoắt 180 độ khi tuyên bố tiếp tục đường lối chiến tranh ở Việt Nam. Anna Chennauld và Thiệu đã nhanh chóng nhận ra rằng họ đã bị "ông chủ" lừa.
Năm 2002, trong một cuộc trả lời phỏng vấn báo Ngôi sao Thượng Hải, Anna Chennauld cay đắng tuyên bố: "Kết thúc chiến tranh là nguyện vọng duy nhất của  tôi. Nhưng sau khi (Nixon) trở thành Tổng thống, ông ấy đã quyết định tiếp tục chiến tranh. Những chính trị gia chẳng bao giờ giữ lời cả".
Giữa năm 1971, khi đã trở thành Tổng thống Mỹ, Nixon được Chánh văn phòng Nhà Trắng Bob Haldeman thông báo rằng những hồ sơ của Johnson về chiến tranh việt Nam, bao gồm những sự kiện đằng sau quyết định ngừng ném bom miền Bắc của ông ta cũng như những bằng chứng về tội "phản quốc" của Nixon, đang được lưu trữ tại Viện Brookings, Washington D.C. Dễ hiểu là Richard Nixon vô cùng lo lắng vì số tài liệu này, nếu bị tiết lộ, sẽ gây nguy hại nghiêm trọng đến uy tín của ông ta.
Thừa lệnh của Nixon, các cố vấn của ông ta đã soạn thảo một bản kế hoạch "điên rồ" và gây sốc để lấy cắp số tài liệu đó. Họ sẽ cho ném bom cháy tại khu vực Brookings và sử dụng những tên Cuba lưu vong từ Miami đến đóng giả làm lính cứu hỏa để đột nhập vào khu vực này. Bọn chúng sẽ tìm những hồ sơ Việt Nam và chuyển chúng lên xe tải đang đợi sẵn. Thậm chí địa điểm gây án cũng đã được người của Nixon đến để thăm dò trước. Tác giả của bản kế hoạch này là G. Gondon Liddy - một trong những nhân vật chính của vụ bê bối bẩn thỉu Watergate sau này.




Trong cuốn tự truyện của mình, Liddy thừa nhận bản kế hoạch của ông ta có nhiều sơ hở và một vụ cháy ở Brookings có thể thu hút sự "tò mò" của giới báo chí. Tuy nhiên, ông ta cho rằng nếu không có bằng chứng nào được tìm thấy thì vụ việc sẽ nhanh chóng bị xếp lại.
John Dean, luật sư của Nixon tại Nhà Trắng lại nhìn nhận vụ việc theo một hướng khác. Ông ta đã thuyết phục John Ehrlichman - trợ lý Tổng thống - tin rằng nếu có người chết trong vụ hỏa hoạn thì đây sẽ trở thành một vụ án lớn và dấu vết của nó có thể dẫn đến Nhà Trắng. Cuối cùng thì Ehrlichman cũng ra lệnh hủy bỏ bản kế hoạch.
Thử tưởng tượng vụ đột nhập Viện Brookings diễn ra như kế hoạch, có người thiệt mạng trong vụ hỏa hoạn và sự việc bị đổ bể! Richard Nixon và người của ông ta đã phạm tội tổ chức khủng bố và giết người. Và còn hàng đống bằng chứng về hành động "phản quốc" hồi năm 1968 của ông ta nữa chứ! Sẽ có một vụ bê bối ầm ĩ chẳng kém vụ Watergate sau này.
Còn một câu hỏi nữa: Tại sao Tổng thống Johnson đã không hành động kiên quyết hơn để ngăn chặn những hành động phi pháp của Nixon? Johnson đã giải thích suy nghĩ của mình trong một cuộc nói chuyện điện thoại với Thượng nghị sĩ bang Florida George Smathers - một người bạn tốt của Nixon. Ông ta nói: "Tôi đã không phanh phui chuyện này vì tôi không thể tiết lộ nguồn cung cấp tin (FBI và NSA) và tôi cũng không muốn đẩy Nixon vào thế không thể cai trị được đất nước này. Nếu tôi công khai hoặc vô tình tiết lộ vụ việc này, Nixon sẽ bị thiệt hại nặng".
Hành động và thái độ "khoan dung" của Tổng thống Johnson đối với đối thủ chính trị lớn nhất của ông ta có lẽ thuộc vào hàng có "một không hai" trong lịch sử chính trường Hoa Kỳ. Tuy nhiên, nước Mỹ đã phải trả giá cho hành động "hiệp sĩ" ấy: Họ đã đánh mất cơ hội kết thúc sớm cuộc chiến tranh phi nghĩa, "hao người, tốn của" tại Đông Dương và đưa nửa triệu con em của họ trở về nhà.
Trên cương vị Tổng thống, Nixon ra lệnh thả nhiều bom hơn bất kỳ đời tổng thống nào của Mỹ. Ông ta còn bí mật ra lệnh ném bom tàn phá Campuchia trong vòng hơn một năm trời. Nixon còn chơi trò hai mặt với Nguyễn Văn Thiệu hết lần này đến lần khác và cuối cùng còn đe dọa sẽ lấy mạng viên tổng thống bù nhìn này.
Khoảng 20.000 lính Mỹ đã chết trận trong những năm tháng Richard Nixon cầm quyền trong Nhà Trắng, và khi ông ta phải ra đi một cách nhục nhã do hậu quả của vụ bê bối Watergate vào năm 1974 thì cuộc chiến ở Việt Nam vẫn đang tiếp diễn.
Cuối cùng thì nước Mỹ vẫn cứ bị thua trong cuộc chiến đó
Vũ Thương Huyền (theo Crime magazine)



QUAN HỆ VIỆT NAM - LIÊN XÔ TRONG GIAI ĐOẠN KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ (1954 - 1975)


Hơn ba mươi năm đã trôi qua kể từ khi cuộc Kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam kết thúc bằng thắng lợi của nhân dân Việt Nam, nhưng những cuộc thảo luận về giai đoạn lịch sử quan trọng này vẫn tiếp diễn. Một trong những nội dung của các cuộc thảo luận đó là mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước đồng minh, đặc biệt là với Liên Xô.
Theo đánh giá của một số học giả nước ngoài, nhìn chung sự giúp đỡ của Liên Xô đối với Việt Nam trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ thể hiện một số khía cạnh chủ yếu sau đây. Thứ nhất, mặc dù giúp đỡ Việt Nam, Liên Xô vẫn không muốn “hy sinh” chiến lược hoà dịu của họ trong quan hệ với Hoa Kỳ. Thứ hai, Liên Xô sẵn sàng đáp ứng tất cả nhu cầu cần thiết của Việt Nam nhằm chống lại sự tấn công ngày một mở rộng và ác liệt của đế quốc Mỹ. Thứ ba, Liên Xô mong muốn thực hiện đàm phán để chấm dứt cuộc chiến hơn là ngày một dấn sâu vào cuộc chiến tranh đó. (1) Nói một cách khác, với tư cách là thành trì của phe XHCN và một cực đối trọng với Mỹ, Liên Xô mong muốn thông qua cuộc chiến tranh này thực hiện những mục đích đối ngoại có tính toàn cầu, chiến lược của mình.
Thông qua việc khai thác một số tài liệu trong nước và nước ngoài, bài viết này cố gắng phác hoạ mối quan hệ Việt Nam-Liên Xô trong giai đoạn từ năm 1954, tức là từ sau khi Hiệp định Geneve được ký kết, Việt Nam tạm thời bị chia cắt làm hai miền, cho đến khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng vào năm 1975. Trong giai đoạn này, quan hệ Việt-Xô có thể được chia làm 4 giai đoạn chính: 1954- cuối những năm 1950; cuối những năm 1950 – mùa thu 1964; mùa thu 1964-1/1973; 1/1973-4/1975.
2. Quan hệ Việt-Xô giai đoạn 1954-cuối những năm 1950 
Trong giai đoạn đầu, Liên Xô đã hình thành quan hệ chính trị toàn diện với Việt Nam, ủng hộ chủ trương và đường lối khôi phục và xây dựng miền Bắc Việt Nam. Tuy nhiên, quan hệ này lại không đậm đà bằng quan hệ với các nước khác. Ví dụ ngày 3/2/1950, Liên Xô mới đặt quan hệ ngoại giao với Inđônêxia (sau Việt Nam 3 ngày), song tháng 1/1953 Liên Xô đã cử đại sứ đi Giacacta, trong khi đó mãi đến gần 2 năm sau tức là ngày 4/11/1954, Liên Xô mới cử Lavraschev - đại sứ đầu tiên của Liên Xô đến Hà Nội. ch Tổng bí thư Khrushev và Boulganin đã đi thăm Ấn Độ, Miến Điện và Apganistan vào tháng12/1955 và đã 2 lần đi thăm Trung Quốc (vào tháng 8/1958 và tháng 10/1959), song không hề đi thăm Việt Nam. Đoàn đại biểu xô viết tối cao Liên Xô do chủ tịch Vôrôsilốp dẫn đầu đi thăm Inđônêxia trước rồi mới đến Việt Nam (tháng 5/1957). Bộ trưởng quốc phòng Liên Xô cũng đã đi thăm Ấn Độ và Miến Điện (2/1957), song vẫn không đi thăm Việt Nam. Hội hữu nghị Việt Xô được thành lập từ tháng 3/1950, nhưng hội hữu nghị Xô Việt mãi đến ngày 31/7/1958 mới được thành lập. (2)
Về kinh tế, biểu hiện cụ thể là Liên Xô đã giúp Việt Nam thực hiện kế hoạch 3 năm khôi phục kinh tế 1955-1957 và kế hoạch 3 năm phát triển kinh tế và văn hoá 1958-1960. Theo Hiệp định ký ngày 18/7/1955, Liên Xô đã viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam 40 triệu rúp để xây dựng và khôi phục 146 xí nghiệp công trình công nghiệp và cơ quan thuộc các ngành cơ khí, than, điện lực và công nghiệp nhẹ. Tháng 3/1959, Liên Xô cho Việt Nam vay 100 triệu giúp để thực hiện kế hoạch 3 năm phát triển kinh tế nói trên. Ngoài ra, Liên Xô còn giúp Việt Nam xây dựng 21 đài khí tượng thuỷ văn, 156 trạm thuỷ văn các cấp, cho Việt Nam vay 350 triệu rúp để mua trang thiết bị máy móc và xây dựng một số nông trường, trông cây nhiệt đới theo hiệp định 14/6/1960. Trong thời gian từ 1955-1960, Liên Xô đã cử 1547 chuyên gia các ngành sang công tác tại Việt Nam và nhận 420 thực tập sinh và 1267 sinh viên Vịêt Nam sang học tập tại Liên Xô. Tuy nhiên sự giúp đỡ của Liên Xô cho Việt Nam so với các nước không phải XHCN ở châu Á là khá khiêm tốn. (3)
Tuy nhiên, trong thái độ của Liên Xô đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ có một số biểu hiện sau đây: Thứ nhất, Liên Xô chủ trương giữ nguyên trạng ở miền Nam và chủ trương hoà bình để thi hành hiệp định Geneve. Liên Xô muốn Việt Nam phấn đấu giành thắng lợi trong xây dựng miền Bắc để động viên và thúc đẩy đấu tranh chính trị ở miền Nam, giải quyết vấn đề miền Nam bằng thương lượng, bằng con đường hoà bình. Do vậy Liên Xô ít đề cập đến đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị ở miền Nam. Các phương tiện thông tin đại chúng của Liên Xô rất ít đưa tin về thắng lợi quân sự của nhân dân miền Nam và cũng không lên án thẳng chính quyền Mỹ trong các hoạt động ở miền Nam.
Lý do Liên Xô có thái độ trên đây theo Đảng Lao động Việt Nam là sau khi Stalin mất, Khrushev lên thay đã đi vào con đường xét lại. Năm 1956, tại Đại hội lần thứ XX, Đảng Cộng sản Liên Xô đã đưa ra đường lối “cùng tồn tại hoà bình”, “quá độ hoà bình”, “thi đua hoà bình” và chương trình đầy tham vọng “đuổi kịp và vượt Mỹ” về sản xuất sản phẩm tính theo đầu người trong thưòi gian ngắn nhất”. Vì mục tiêu và lợi ích của mình, Liên Xô chủ trương hoà hoãn với chủ nghĩa đế quốc nhất là đế quốc Mỹ, coi đó là nhiệm vụ chiến lược hàng đầu, nhằm tranh thủ vốn và kỹ thuật của Mỹ và Tây phương và giữ nguyên trạng của châu Âu để tạo ra những điều kiện quốc tế thuận lợi cho xây dựng CNXH ở Liên Xô. Liên Xô e ngại phong trào giải phóng dân tộc sẽ như “đốm lửa cháy rừng”, cản trở hoà hoãn, ảnh hưởng đến mục tiêu chiến lược của Liên Xô. Thứ hai, do trọng tâm chiến lược mới của Liên Xô là nhằm củng cố khối XHCN ở Đông Âu, mà biểu hiện rõ nhất là vịec thành lập khối SEV năm 1949 và tổ chức Hiệp ước Varsava 1955, đòi các nước đế quốc giữ nguyên trạng châu Âu, thực hiện hoà hoãn Đông-Tây, đẩy lùi chiến tranh lạnh, nên Liên Xô tránh những đối đầu căng thẳng với Mỹ và các nước phương Tây.
Cần nói thêm là yếu tố Trung Quốc cũng đóng một vai trò quan trọng trong mối quan hệ giữa Việt Nam và Liên Xô. Sau Hội nghị Geneve, uy tín của Trung Quốc tăng cao trên trường quốc tế. Trung Quốc đã bắt đầu mở rộng ảnh hưởng, tập hợp lực lượng ở châu Á và châu Phi, đặc biệt là ở Đông Nam Á và Nam Á. Điều đó thể hiện trong vai trò của Trung Quốc ở Hội nghị Băngdung (Inđônêxia 1955), gạt bỏ ảnh hưởng của Liên Xô. Trung Quốc cũng tìm cách hạn chế ảnh hưởng của Liên Xô trong khu vực thông qua vấn đề Việt Nam, tránh gây căng thẳng với Mỹ. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, mâu thuẫn Xô-Trung chưa bộc lộ công khai, nên quan hệ Việt-Xô vẫn giữ được ở mức độ bình thường. 
3. Quan hệ Việt-Xô giai đoạn cuối những năm 1950-10/1964
Trong giai đoạn tiếp theo từ cuối những năm 1950 đến tháng 10/1964, quan hệ Việt-Xô diễn ra trong bối cảnh mới. Đây là giai đoạn đường lối cách mạng Việt Nam có sự thay đổi. Trong thời gian này, Việt Nam chủ trương “tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hoà bình, đẩy mạnh cách mạng XHCN ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe XHCN và bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và trên thế giới.” (4)
Thái độ và sự giúp đỡ của Liên Xô được biểu hiện trên một số khía cạnh sau. Để giúp Việt Nam thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965), Liên Xô đã cho Việt Nam vay 430 triệu rúp theo hiệp định 23/12/1960 với những điều kiện ưu đãi. Ngoài ra, Liên Xô cũng cho Việt Nam vay 350 triệu rúp để phát triển các nông trường trồng cây nhiệt đới theo hiệp định 14/6/1960. Ngoài ra, Liên Xô còn viện trợ cho Việt Nam 20 triệu rúp để chống sốt rét trong những năm 1961-1965. 
Với sự giúp đỡ của Liên Xô, Việt Nam đã hoàn thành cải tạo và xây dựng 90 xí nghiệp và công trình các loại trong đó có 43 công trình công nghiệp, đáng kể là một số nhà máy điện có tổng công suất là 71.300 kw, các công trình khai khoáng như mỏ thiếc Tĩnh Túc, mỏ apatit Lào Cai, nhà máy cơ khí Hà Nội, nhà máy supe phốt phát Lâm Thao, nhà máy chè Phú Thọ, nhà máy cá hộp Hải Phòng, Trường Đại học Bách Khoa, Trường Đại học Nông Nghiệp I Hà Nội.
Tuy nhiên, trong suốt giai đoạn này, Liên Xô không cử bất cứ đoàn cán bộ cao cấp nào sang thăm Việt Nam. Đoàn lớn nhất cũng chỉ do Uỷ viên Bộ chính trị, Bí thư trung ương Đảng Mukhidinop dẫn đầu sang dự Đại hội lần thứ III Đảng Lao động Việt Nam. Năm 1960, Hồ Chủ Tịch đã mời Khrushop sang thăm Việt Nam, nhưng Khrushop đã không sang, trong khi đó lại đi thăm Inđônêxia, Ấn Độ, Miến Điện và Apganixtan vào tháng 2 và 3/1960. Liên Xô chỉ cử đoàn quan sự cấp thấp do Đại tướng Patov, Phó Tổng tham mưu trưởng, dẫn đầu sang thăm Việt Nam, trong khi đó cả bộ trưởng quốc phòng, tư lệnh không quân lẫn tư lệnh hải quân đã lần lượt đi thăm Inđônêxia vào tháng 3/1963. (5)
Thái độ của Liên Xô đối với Việt Nam xấu hẳn đi kể từ giữa năm 1963, sau khi Việt Nam công khai phát biểu một số quan điểm về các vấn đề quốc tế và sau khi Chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ thăm Việt Nam vào tháng 5/1963. Thái độ đó được biểu hiện rõ nét trong các bức thư của Trung ương Đảng Cộng sản liên Xô gửi Trung ương Đảng Lao Động Việt Nam ngày 28/11/1963 và nhất là lá thư ngày 6/7/1964. Bức thư đó viết:
“Trong thời gian gần đây, một số hoạt động của các đồng chí trong trung ương đảng lao động Việt Nam đã làm cho chúng tôi nghi ngại và phiền lòng vì những hành động đó rõ ràng đi ngược lại những lời tuyên bố của các đại biểu Việt Nam về tình hữu nghị Xô Việt...một chiến dịch không thân thiện chống Liên Xô gần đây được tiến hành ngày càng rộng rãi và tích cực tại nước VNDCCH...trong các hội nghị bí mật của Đảng và trong nhân dân đã phổ biến rộng rãi đủ điều bịa đặt nhằm reo rắc sự hoài nghi đối với đất nước của Lênin, khêu lên tình cảm không tốt đẹp đối với đất nước của Lênin...phải chăng những sự kiện kể trên...đang gây thiệt hại lớn lao cho mối tình hữu nghị Xô-Việt...chúng tôi mong muốn một cách chính đáng rằng hữu nghị thì phải được đáp lại bằng hữu nghị.” (6)
Đối với nhiệm vụ đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Miền Nam Việt Nam, thái độ của Liên Xô cũng có những biểu hiện tiêu cực. Cũng như giai đoạn trước, Liên Xô chủ trương giải quyết vấn đề miền Nam Việt Nam bằng phương pháp hoà bình, không muốn Việt Nam phát động cuộc đấu tranh vũ trang ở miền Nam Việt Nam, chỉ muốn Việt Nam tập trung sức lực xây dựng CNXH ở miền Bắc và bằng cách đó tác động vào diễn biến của tình hình miền Nam. Vì vậy, ngày 25/2/1963, Trung ương Đảng cộng sản Liên Xô đã khuyên Việt Nam nên lợi dụng đề nghị của chính quyền Kennedy về thương lượng nhằm “trung lập hoá” Việt Nam để phục vụ cho việc củng cố vị trí của nước VNDCCH, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh của các lực lượng yêu nước miền Nam Việt Nam, đồng thời giúp thủ tiêu lò lửa căng thẳng ở Đong Nam Á. Vì thế, Liên Xô viện trợ rất ít vũ khí cho cuộc đấu tranh quân sự ở miền Nam. Tháng 9/1962, khi đồng chí Văn Tiến Dũng sang Liên Xô đề nghị tăng cường viện trợ quân sự, Liên Xô chỉ nhận giúp với số lượng rất ít. Ngày 28/1/1963, Đại sứ Liên Xô tại Hà Nội Tovmasyan đã được Trung ương đảng cộng sản Liên Xô uỷ nhiệm đến gặp thủ tướng Phạm Văn Đồng nhấn mạnh chỉ viện trợ kinh tế cho miền Nam thôi. (7) Liên Xô cũng đón tiếp một cách lạnh nhạt các đại diện của Mặt trận DTGPMNVN. Liên Xô cũng phản ửng yếu ớt trước việc Mỹ dùng không quân tấn công miền Bắc ngày 5/8 và 18/9/1964. Đặc biệt, Liên Xô đã tìm cách thoái thác nghĩa vụ đồng chủ tịch cả hai Hội nghị Geneve về Lào và Đông Dương thể hiện trong thư của Bộ ngoại giao Liên Xô ngày 27/7 và 17/8/1964. Đặc biệt, Liên Xô đã thoả hiệp với Mỹ về vấn đề Lào trên cơ sở ngừng bắn, lập chính phủ liên hiệp đứng đầu là Phouma. Sở dĩ liên Xô muốn hợp tác với Mỹ để giải quyết vấn đề Lào là để đánh đổi lấy việc Mỹ chấp nhận sự kiện “bức tường Berlin” được dựng lên vào ngày 13/8/1961.
Chính trong giai đoạn này, mâu thuẫn Xô-Trung và nhân tố Trung Quốc đã trở thành trở ngại lớn cho sự phát triển quan hệ Việt-Xô. Điều này được biểu hiện rõ rệt qua những hành động và thái độ của Liên Xô đối với Việt Nam. Trong thời gian từ 1960-1964, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã nhận được khoảng 13 lá thư và các thông báo của Ban chấp hành trung ương và Bộ chính trị Đảng cộng sản Liên Xô. Phần lớn những bức thư và thông báo này đều đề cập đến sự bất đồng Xô-Trung, đề nghị hội đàm hai đảng Xô-Việt, phàn nàn lãnh đạo đảng và báo chí Việt Nam phê phán lập trường của Đảng cộng sản Liên Xô, phê phán Việt Nam có thái độ không thân thiện với chuyên gia Liên Xô ở Việt Nam. Các chuyến viếng thăm của Liên Xô tới Việt Nam do Pônômarinốp, Bí thư trung ương Đảng dẫn đầu vào tháng 2/1962 và đoàn do Andrôpốp, Bí thư trung ương Đảng dẫn đầu vào tháng 1/1963, đều nhằm lôi kéo tranh thủ Việt Nam. (8) Trong lá thư gửi Trung ương đảng Lao động Việt Nam ngày 6/7/1964, Trung ương đảng cộng sản Liên Xô đã đề nghị Trung ương đảng Lao động Việt Nam phải “thay đổi lập trường”. 
Trong bối cảnh bất đồng Xô-Trung bộc lộ công khai, Liên Xô quan tâm nhiều hơn đến việc tranh thủ các nước lớn khác trong khu vực như Inđônêxia, Ấn Độ, nhằm tranh giành ảnh hưởng với Mỹ và Trung Quốc. Tuy nhiên, Liên Xô đã không cắt quan hệ với Việt Nam như đã làm với Albani và Trung Quốc vì vị thế của Việt Nam trong ván bài với Mỹ. Đây là giai đoạn xấu nhất trong lịch sử quan hệ giữa hai nước.