1. Chiến tranh Iraq – Những điều chưa kể
Cao Minh
(Petrotimes) - Từ cuối tháng 12/2001, Nhà Trắng đã lập kế hoạch đánh Iraq, bắt đầu từ các cuộc gặp liên tục giữa Bush và tướng Tommy R. Franks. Kế hoạch càng mở rộng trong suốt năm 2002 khi CIA kết luận rằng, Saddam Hussein không thể lật đổ nếu không bằng biện pháp nắm đấm quân sự.
Ngày 14/12/2011, tại doanh trại Fort Bragg (North Carolina), Tổng thống Barack Obama đã đọc bài diễn văn đánh dấu cột mốc chính thức cho sự triệt thoái hoàn toàn quân đội Mỹ khỏi Iraq sau gần 9 năm chiến tranh với gần 4.500 người thiệt mạng và 30.000 người bị thương. Tổng thống Obama nói: “Tất cả những gì quân đội Mỹ làm ở Iraq, tất cả sự chiến đấu và hy sinh, sự đổ máu và xây dựng, sự huấn luyện và hợp tác, đã dẫn chúng ta đến thời khắc thành công này”. Tuy nhiên, Obama đã không một lời nhắc đến lý do dẫn đến việc người Mỹ đổ máu như vậy tại Iraq, không một lời đề cập đến nguyên nhân khiến Mỹ vấy bùn vào bãi lầy Iraq, không một lời nhắc lại sự ê chề của những che đậy dối trá mà người tiền nhiệm Bush đã tiến hành khi quyết định thí mạng người Mỹ vào chiến trường Baghdad…
Kỳ I: Hậu trường bộ máy chiến tranh
Bush bắt đầu “mài dao” từ lúc nào?
Từ cuối tháng 12/2001, Nhà Trắng đã lập kế hoạch đánh Iraq, bắt đầu từ các cuộc gặp liên tục giữa Bush và tướng Tommy R. Franks. Kế hoạch càng mở rộng trong suốt năm 2002 khi CIA kết luận rằng, Saddam Hussein không thể lật đổ nếu không bằng biện pháp nắm đấm quân sự. Trước đó, ngày 21/11/2001 (72 ngày sau vụ khủng bố 11/9), ông Bush đã yêu cầu Bộ trưởng quốc phòng Donald Rumsfeld lập kịch bản đánh Iraq. Ngày 16/2/2002, ông Bush ký lệnh yêu cầu CIA trợ giúp Lầu Năm Góc. Vài tháng sau, tháng 7/2002, một nhóm CIA đã bò vào Bắc Iraq, tổ chức công tác do thám đồng thời huấn luyện 87 người Iraq (mật danh ROCKSTARS – những ngôi sao rock) với nhiệm vụ cung cấp toàn bộ thông tin liên quan tình báo, quốc phòng Iraq, trong đó có một CD-ROM chứa hồ sơ cá nhân thành viên Tổ chức An ninh Iraq (SSO).
Hè 2002, ông Bush chuẩn y 700 triệu USD cho công tác chuẩn bị chiến trường vùng Vịnh, trong đó việc nâng cấp sân bay, căn cứ, đường ống dẫn nguyên liệu và đổ đầy kho đạn dược. Lấy từ ngân sách được Quốc hội chuẩn y cho Afghanistan, Nhà Trắng đã âm thầm qua mặt Quốc hội trong kế hoạch Iraq. Cũng trong hè 2002, xung đột giữa Ngoại trưởng Colin Powell và Phó tổng thống Dick Cheney bắt đầu căng thẳng. Trong khi Powell đòi đưa vấn đề ra Liên Hiệp Quốc, Cheney lại cho rằng, việc này chỉ tổ phí thời giờ. Đồng minh Powell là Brent Scowcroft, nguyên cố vấn an ninh quốc gia thời ông Bush-cha. Trên chính trường thế giới, Nhà Trắng nhận được tín hiệu ủng hộ đầu tiên từ Thủ tướng Anh Tony Blair (trong cuộc gặp Bush tại Trại David vào tháng 9/2002). Chính xác hơn, Tổng thống Bush đã yêu cầu Tony Blair ủng hộ việc lật đổ Saddam Hussein trong bữa tiệc tại Nhà Trắng vào 9 ngày sau vụ 11/9…
Cuối năm 2002, ông Bush bắt đầu bồn chồn và hết kiên nhẫn trước tiến trình thanh sát vũ khí của Hans Blix. Không lâu sau ngày đầu năm 2003, Bush nói với cố vấn an ninh quốc gia Condoleezza Rice rằng: “Chúng ta sẽ không thắng (trong chiến dịch ngoại giao). Thời gian không bên cạnh chúng ta. Có lẽ chúng ta buộc phải đi đến giải pháp chiến tranh”. 10 ngày sau, ông Bush thông báo quyết định mình cho cố vấn Tổng thống Karl Rove rồi sau đó là Cheney, Powell, Rumsfeld và cả đại sứ Arập Xêút Bandar bin Sultan.
Ngày 11/1/2003, Cheney mời Bandar bin Sultan đến văn phòng riêng tại chái Tây (Nhà Trắng). Cuộc họp có sự tham gia của Rumsfeld và tướng Richard B. Myers (Tổng Tham mưu trưởng liên quân Hoa Kỳ). Trên bàn Cheney, Myers trải tấm bản đồ to ghi “TOP SECRET NOFORN” (Tuyệt mật-Không dành cho người nước ngoài). Tiếp đó, Myers trình bày phần thứ nhất của kế hoạch chiến tranh, trong đó có chiến dịch oanh tạc dữ dội suốt nhiều ngày và mục tiêu chủ yếu là các sư đoàn Vệ binh cộng hòa Iraq cũng như bộ tư lệnh quân đội Saddam Hussein. Cuộc chiến trên bộ sẽ tiếp theo, với lực lượng bộ binh Mỹ kéo vào Iraq từ Kuwait, phối hợp mặt trận phía bắc từ Thổ Nhĩ Kỳ (nếu nước này cho phép). Ngoài ra, còn có kế hoạch triển khai lực lượng đặc nhiệm cũng như tình báo bán vũ trang, đột nhập tất cả địa điểm mà Saddam có thể phóng tên lửa hoặc máy bay vào Arập Xêút, Jordan hoặc Israel. Đặc nhiệm còn có nhiệm vụ phát 300 triệu USD cho các thủ lĩnh sắc tộc địa phương, thủ lĩnh tôn giáo và sĩ quan cấp cao quân đội Saddam.
“Một khi chúng tôi bắt đầu, Saddam sẽ bị nướng chín”!
Lính đặc nhiệm sẽ xuất phát từ biên giới Iraq – Arập Xêút và do vậy nhất thiết phải có sự trợ giúp che chắn từ Chính phủ Arập Xêút. Bandar bin Sultan cho biết Arập Xêút có thể che giấu sự xuất hiện của lính đặc nhiệm Mỹ bằng cách đóng cửa một sân bay dân sự tại Al Jawf ở sa mạc phía bắc, tung liên tục các trực thăng dọc biên giới để nghi binh làm như tuần tra rồi lẳng lặng rút lui. Trong thời gian đó, đặc nhiệm Mỹ có thể lập căn cứ dã chiến mà không gây chú ý. Nhìn chằm chằm vào tấm bản đồ tuyệt mật, Bandar bin Sultan (nguyên là phi công chiến đấu) hỏi vài câu liên quan chiến dịch oanh tạc. Liệu có thể đưa một tấm bản đồ tương tự về Arập Xêút cho Thái tử Abdullah? – Bandar bin Sultan hỏi. “Điều này vượt quá quyền hạn của tôi” – Myers trả lời. “Chúng tôi sẽ trao tất cả thông tin mà ông cần” – Rumsfeld châm vào. “Phần tấm bản đồ” – Rumsfeld nói thêm – “Tôi sẽ không đưa ông. Tuy nhiên, ông có thể ghi chú nếu ông muốn”. “Liệu Saddam Hussein có cơ hội sống sót qua chiến dịch quân sự này?” – Bandar bin Sultan hỏi. Cả Rumsfeld và Myers đều không trả lời. Đến lúc đó, Cheney mới lên tiếng: “Hoàng tử Bandar, một khi chúng tôi bắt đầu, Saddam sẽ bị nướng chín”!
Trở ra từ Nhà Trắng, trong xe hơi, Bandar bin Sultan vội phác họa lại các chi tiết trên bản đồ. Khi về đến nhà, ông xem ngay tấm bản đồ khu vực được CIA cung cấp trước đó. Hôm sau, Chủ nhật, bà Rice điện, mời Bandar bin Sultan đến Nhà Trắng vào thứ Hai, 13/1/2003. Trong buổi gặp, ông Bush cho biết mình đã xem xét các ý kiến tư vấn về phản ứng cộng đồng Hồi giáo một khi chiến sự nổ ra. Trong cùng ngày, ông triệu Powell vào Nhà Trắng và thông báo quyết định tấn công Iraq. “Ngài có chắc không?” – Powell hỏi, nhấn mạnh thêm rằng Mỹ nên lường trước hậu quả. Một lần nữa, Bush vẫn khẳng định, hàm ý rằng, đây không phải là buổi thảo luận mà là thông báo quyết định. Chẳng còn gì có thể thay đổi. Powell cũng biết rằng mình đã không được mời tham gia kế hoạch tấn công Iraq ngay từ đầu và chỉ được thông báo chiếu lệ (buổi gặp Powell kéo dài vỏn vẹn 12 phút).
Trước khi gặp Tổng thống Ba Lan Aleksander Kwasniewski vào hôm sau, ngày 14/1/2003, phản ứng mất kiên nhẫn của ông Bush về vấn đề Iraq càng lộ rõ hơn. 10 ngày trước, Bush còn nói Saddam Hussein “vẫn còn đủ thời gian”. Tuy nhiên, sáng 14/1/2003, Bush đã nóng nảy phát biểu rằng “thời gian không còn nhiều cho Saddam Hussein”. Cuộc họp giữa Bush và Aleksander Kwasniewski thật ra cũng là chiến dịch vận động Ba Lan ủng hộ Mỹ. Trong phiên bàn luận, Aleksander Kwasniewski đề nghị tiến hành phân phát lương thực cho dân Iraq song song chiến dịch quân sự. Và như Powell, Aleksander Kwasniewski cũng hỏi về hậu quả của cuộc chiến. Tuy nhiên, với ông Bush, vấn đề bây giờ không là tính toán hậu quả mà là tìm kiếm đồng minh càng nhiều càng tốt cho chiến dịch quân sự. Ít nhất đó cũng là sự thể hiện “ủng hộ quốc tế” trên mặt trận ngoại giao.
CIA và bàn tay lông lá
Ngày 2/2/2002, Giám đốc CIA George J. Tenet gặp Phó tổng thống Dick Cheney – theo yêu cầu Cheney – để trình bày kế hoạch tình báo tại Iraq. Nhiều tháng sau vụ khủng bố 11/9, với Tenet, vấn đề chống khủng bố quan trọng hơn Iraq nhiều lần. Tuy nhiên, một trong những viên chức CIA cấp cao – chỉ huy Nhóm chiến dịch Iraq (IOG), mang mật danh Saul – đã không nghĩ như vậy. Thuộc Ban Cận Đông trong CIA, nơi chuyên xử lý những điệp vụ khó khăn tại các nước “nguy hiểm”, IOG được mệnh danh là “ngôi nhà đồ chơi hỏng”, gồm các viên chức CIA nổi tiếng lì lợm hoặc nhân viên lâu năm sắp về vườn.
Sau khi được bổ nhiệm chức chỉ huy vào tháng 8/2001, Saul bắt đầu phác thảo xem CIA có thể làm gì tại Iraq. Sinh tại một thị trấn nhỏ ở Cuba, Saul 43 tuổi từng làm việc cho CIA trong nhiều năm với đủ vỏ bọc nhạy cảm. Bố Saul là một trong những điệp viên nếm mùi thất bại chiến dịch Vịnh Con heo năm 1961 khi 1.200 tay súng Cuba lưu vong bị CIA bỏ rơi ngoài bãi biển Cuba. Tường trình với Cheney, Saul cho biết CIA không thể đảo chính Saddam Hussein. Từng đi lên quyền lực bằng đảo chính, Saddam có quá nhiều kinh nghiệm đối phó. Ngoài ra, người Kurd, Shiite cũng như đám cựu sĩ quan quân đội Iraq đều biết rõ lịch sử “đem con bỏ chợ” của CIA; cho nên, điều cần làm đầu tiên là phải lấy lại lòng tin.
Với chuẩn y của George J. Tenet, Saul cùng Phó giám đốc CIA John E. McLaughlin và James L. Pavitt (phó giám đốc chịu trách nhiệm các chiến dịch đặc biệt) dựng chi tiết kế hoạch tình báo phối hợp quân đội mà ông Bush ký ngày 16/2/2002. Ngân sách cho chiến dịch là 200 triệu USD, tiến hành trong hai năm. Không ai trong Quốc hội được thông báo về chiến dịch, trừ hai chủ tịch Ủy ban Tình báo Thượng và Hạ viện (sau nhiều tranh luận, ngân sách bị rút xuống còn 189 triệu USD).
Tháng 3/2002, Tenet bí mật gặp hai nhân vật quan trọng: Massoud Barzani và Jalal Talabani (thủ lĩnh hai nhóm lớn thuộc cộng đồng người Kurd, Bắc Iraq). Tenet có một thông điệp quan trọng: lần này, Mỹ hoàn toàn nghiêm túc; rằng tình báo lẫn quân đội Mỹ đang chuẩn bị đến vùng Vịnh; một giai đoạn mới bắt đầu… Tiếp đó, Tenet đưa ra mồi nhử: hàng triệu USD đang sẵn trong tay. Nếu viên chức Bộ Quốc phòng hoặc Bộ Ngoại giao trả tiền cho chiến dịch lật đổ một chính phủ, điều này là phạm luật. Tuy nhiên, việc đó lại được xem “hợp pháp” khi CIA đứng ra thực hiện.
“Quỷ sứ hóa” Saddam Hussein
Saul biết rằng, sẽ chẳng được tích sự gì nếu CIA lởn vởn ngoài biên giới Iraq. Cần phải thâm nhập vào bên trong. Saul bắt đầu tuyển mộ tình nguyện viên. Một trong những người như vậy là Tim, nguyên lính đặc nhiệm SEAL nói rành tiếng Arập từng làm việc nhiều năm tại Trung Đông. Tim được phân công dẫn hai toán CIA bán vũ trang vào bắc Iraq, với chỉ thị: cần thâm nhập vào quân đội Saddam; vào lực lượng tình báo, vào hàng ngũ Vệ binh cộng hòa; rằng mạng lưới người dân tộc phải được mua chuộc làm việc cho Mỹ để trở thành các nhóm bán vũ trang chịu trách nhiệm phá rối và gián điệp; tạo quan hệ tốt với người Kurd; xem thử có thể huấn luyện họ để tấn công quân đội Saddam tại phía bắc được không…
Tháng 7/2002, Tim và nhóm CIA thực hiện chuyến hành trình dài 10 tiếng từ Thổ Nhĩ Kỳ vào Iraq, trên những chiếc Land Cruiser, Jeep và xe tải. Tiếp đó, họ lập căn cứ tại Sulaymaniyah (vùng núi bắc Iraq thuộc kiểm soát người Kurd). Tháng 10, họ trở lại, mang theo hàng chục triệu USD (giấy 100 USD). Không lâu sau, trò mua chuộc bắt đầu có dấu hiệu tốt. Một sĩ quan thuộc Tổ chức an ninh đặc biệt (SSO) của Saddam Hussein đã cung cấp một CD-ROM chứa hồ sơ 6.000 nhân viên SSO với đầy đủ thông tin liên quan cá nhân và ảnh. Ngoài ra, Tim còn tuyển mộ nhóm siêu mật DB/ROCKSTARS (DB là mật danh ám chỉ Iraq). Với 100 điện thoại vệ tinh mang theo, Tim phát cho 87 tay ROCKSTARS tại Umm Qasr và Mosul. Mạng lưới thông tin gián điệp bắt đầu hình thành.
Trong cùng thời gian, George J. Tenet còn mang nhiệm vụ tìm ra bằng chứng về vũ khí giết người hàng loạt (WMD) của Saddam Hussein. Bản báo cáo chính thức Đánh giá tình báo quốc gia (NIE) vào tháng 12/2000 kết luận rằng Saddam có một kho nhỏ chất hóa sinh. Thông tin trên dựa chủ yếu vào sự chênh lệch giữa báo cáo Iraq với thanh sát viên Liên Hiệp Quốc và hồ sơ ghi nhận số vũ khí – hóa chất được tiêu hủy sau đó (theo yêu cầu Liên Hiệp Quốc). Tuy nhiên, ở thời điểm 2002, CIA gần như mù tịt về WMD Iraq. Trước sức ép một số thành viên Dân chủ, Hội đồng Tình báo quốc gia – NIC (gồm đại diện các cơ quan an ninh Mỹ) bắt đầu rà soát lại thông tin tình báo liên quan. Chẳng cần mất nhiều thời giờ, NIC cũng nhận thấy hầu hết thông tin đều lạc hậu và không đáng tin cậy. Iraq vẫn là mục tiêu khó tiến hành chiến dịch gián điệp và nơi mà CIA có thể tiếp cận – bắc Iraq – lại chẳng tìm thấy gì.
Gút lại, bản Đánh giá tình báo quốc gia chỉ là… một đánh giá hơn là một kết luận chính xác! Stuart A. Cohen – chuyên gia tình báo lão luyện với thâm niên 30 năm, người ngồi ghế chủ tịch NIC thời điểm xem xét vấn đề WMD Iraq – cho biết ông đã tìm cách tránh né các từ nước đôi (“có lẽ”, “có thể”, “có khả năng”…), đơn giản vì bằng chứng quá kém thuyết phục.
Kỳ II: Những màn kịch tuyên truyền
(Tiếp theo và hết)
“Liên Hiệp Quốc kết luận rằng, Saddam Hussein có đủ nguyên vật liệu để sản xuất hơn 38.000 lít chất độc botulinum, đủ để giết hàng triệu người. Hắn không cho thấy bằng chứng hắn đã hủy bỏ chúng. Tình báo chúng ta đánh giá rằng Saddam Hussein có đủ nguyên vật liệu để sản xuất 500 tấn sarin, mù tạt và VX… Tình báo chúng ta cho biết Saddam Hussein có đến 30.000 đầu đạn dùng phát tán hóa chất độc hại… Chính phủ Anh cũng biết rằng, Saddam Hussein gần đây đã mua lượng uranium đáng kể từ châu Phi…” – đó là đoạn trích từ Thông điệp liên bang ngày 28/1/2003 của Tổng thống George W. Bush…
“Đừng lo, chắc mà!”
Vài tuần trước khi tấn công Iraq, thanh sát viên vũ khí Liên Hiệp Quốc đã tiếp cận một trong những địa điểm tình nghi nhất Iraq: Abu Ghreib, ngoại ô Baghdad, nơi từng bị bom Mỹ phá hủy ngày 23/1/1991. Iraq cho biết Abu Ghreib là nhà máy sữa, như thông tin từ phóng viên CNN Peter Arnett, nhưng Mỹ tin rằng nơi này từng là “ổ” sản xuất vũ khí sinh học. Vài giờ sau vụ không kích (23/1/1991), tướng Colin Powell tường trình tương tự trong cuộc họp báo và tiếp đó nó được nhắc lại từ phát ngôn viên Nhà Trắng Marlin Fitzwater. Trong khi đó, phóng sự Peter Arnett quay cánh cổng nhà máy với tấm biển to “Nhà máy sữa trẻ em” (bằng tiếng Arập và tiếng Anh) cùng hàng chữ tương tự trên lưng áo công nhân.
Tháng 8/1990, Peter Arnett đã có mặt ở Abu Ghreib. Lầu Năm Góc cho biết, Abu Ghreib được bảo vệ nghiêm nhặt như pháo đài bởi lực lượng quân sự Iraq cùng hàng rào thép gai vây quanh. Tuy nhiên, Peter Arnett chỉ thấy một nhân viên bảo vệ ở cổng và bên trong toàn sữa bột. “Đó là những gì tôi thấy tận mắt. Nó (nhà máy) trông vô tội như chúng ta có thể chứng kiến”. Nhà Trắng bị sốc. Một ngày sau phóng sự Peter Arnett, phát ngôn viên Nhà Trắng Marlin Fitzwater nói rằng: “Tất cả những gì Peter Arnett trình bày đều được Chính phủ Iraq kiểm duyệt và chuẩn y. Thông tin này sai, làm tổn thương Chính phủ (Mỹ) và là trò ma mãnh của Saddam Hussein”. Nói cách khác, Baghdad vẫn lừa thế giới!
Ngày 21/12/2002, Giám đốc CIA Tenet và (Phó giám đốc CIA) John E. McLaughlin vào Phòng Oval để trình bày vấn đề vũ khí giết người hàng loạt (WMD). Cuộc họp, ngoài Bush, còn có Cheney, cố vấn An ninh Quốc gia Condoleezza Rice và Chánh văn phòng Nhà Trắng Andrew H. Card Jr. Sau khi nghe McLaughlin trình bày, Bush lộ vẻ thất vọng, tương tự Andrew H. Card. Nói theo thuật từ thương mại, “món” này sẽ chẳng thể bán buôn gì được! Ông Bush quay sang Tenet: “Tôi được báo cáo nhiều về WMD. Hóa ra bằng chứng tốt nhất của chúng ta chỉ bấy nhiêu thôi ư?”. Thật bất ngờ, từ vị trí cuối phòng, sếp CIA George Tenet nhỏm dậy, giơ tay và nói: “Chắc đấy mà!”. Bush hỏi vặn: “George, chắc như thế nào?”. “Đừng lo, chắc mà!”. Sự khẳng định của Tenet khiến mọi người bất ngờ.
Sau đó, theo yêu cầu Bush, Tenet lập báo cáo 40 trang, gửi đến Nhà Trắng ngày 22/1/2003, làm cơ sở cho thông tin báo chí. Bush đưa báo cáo trên cho vài luật sư dày dặn để xem xét có chỗ sơ hở nào không. Trong số những người được đưa, có Stephen J. Hadley (phó của bà Condoleezza Rice; tốt nghiệp Đại học Luật Yale 1972) và Lewis Libby (tùy viên Cheney; tốt nghiệp Đại học Luật Columbia 1975). Cuối cùng, sau khi đến CIA trực tiếp đối chất vài viên chức, ngày 25/1/2003, Lewis Libby tiến hành buổi báo cáo trong Phòng Tình huống, với tham dự của Rice, Thứ trưởng Ngoại giao Richard L. Armitage, Giám đốc Thông tin Nhà Trắng Dan Bartlett và chuyên gia soạn diễn văn Michael Gerson. Mục đích cuộc họp là cùng soạn thảo thông tin xào nấu về WMD để công bố chính thức cho báo chí. Bà Rice đề nghị giao phần việc thông tin dư luận cho Powell và nhất thiết phải trình bày trước Liên Hiệp Quốc. Một lần nữa, Powell bị đẩy ra làm bung xung trong khi lại bị bỏ chầu rìa ở những kế hoạch hậu trường…
Đầu tháng 1/2001, trước khi Bush tổ chức lễ đăng quang tổng thống, Cheney gửi một thông điệp cho Bộ trưởng Quốc phòng sắp mãn nhiệm William S. Cohen: “Chúng tôi thật sự cần báo cáo vài điều cho tổng thống tân cử” và vấn đề thảo luận hàng đầu sẽ là Iraq. Từng ngồi ghế Bộ trưởng Quốc phòng thời Bush-cha, Cheney tỏ ra ấm ức trước sứ mạng dang dở trong cuộc chiến vùng Vịnh lần một. Ngày 10/1/2001, Bush, Cheney, Rumsfeld, Condoleezza Rice và Powell vào Lầu Năm Góc gặp Cohen và sau đó hội kiến hội đồng tham mưu quân đội. Các viên tướng trình bày về vùng cấm bay tại Iraq, cho biết khu vực này nguy hiểm và tốn kém để duy trì, bởi chiến đấu cơ hàng chục triệu USD của Mỹ luôn bị đe dọa bởi súng phòng không 57 ly của Iraq. Cheney ngồi nghe, mắt nhắm nghiền, ra vẻ mệt mỏi. Tuy nhiên, Cheney đang thai nghén một kế hoạch riêng. Trong vài tháng đầu của nội các mới, Cheney đi một vòng đến các cơ quan tình báo, từ CIA, Cơ quan An ninh Quốc gia (NSA) đến Cơ quan Quân báo Quốc phòng thuộc Lầu Năm Góc.
Trước hè 2001, Cheney thuê đô đốc nghỉ hưu Steve Abbott giám sát chương trình phòng vệ quốc gia. Với ủng hộ ngầm của Bush, Cheney trở thành người trông coi tất cả kịch bản xấu nhất có thể xảy ra cho nước Mỹ. Cheney cho rằng, nội các Clinton đã thất bại trong phản ứng trước hành động khủng bố, từ vụ tấn công Trung tâm Thương mại Thế giới năm 1993, vụ đánh bom căn cứ quân sự Mỹ tại Khobar Towers (Arập Xêút) năm 1996, vụ khủng bố hai sứ quán Mỹ tại Đông Phi năm 1998 đến vụ tấn công tàu USS Cole tại Yemen năm 2000. Ngoài ra, Cheney còn lo đối phó Colin Powell.
Tống Colin Powell vào “tủ lạnh”!
Chỉ đứng sau Cheney trong nội các Bush, Powell từng đụng độ Cheney nhiều lần. Trong hồi ký My American Journey (ấn hành năm 1995), Powell kể rằng, Cheney và mình – chưa bao giờ, trong gần 4 năm – có 1 giờ tâm tình thân mật. Từng định tranh cử tổng thống năm 1996, Powell cũng có quan hệ khá tế nhị với Bush. Do đó, không có gì ngạc nhiên khi trong 16 tháng đầu của nội các Bush, Powell đã bị quẳng vào “tủ lạnh” hay nói cách khác, ông cùng người phó mình (Richard Armitage) bị cô lập hoàn toàn, đến mức không ít tờ báo từng loan tin Powell định từ chức. Khi vụ Iraq ngày càng sôi sùng sục trong bộ máy chiến tranh Nhà Trắng, Powell càng khó chịu. Armitage có lần đề nghị Powell thường xuyên gặp riêng Bush để củng cố quan hệ cá nhân.
Ngày 5/8/2002, Bush triệu tập Powell và Condoleezza Rice. Trong tay Powell là sấp giấy phác họa vài chi tiết quan trọng, chẳng hạn chiến tranh có thể làm lung lay các chính phủ đồng minh như Arập Xêút, Ai Cập và Jordan; làm hao tốn sức lực đáng lý dành cho nhiều thứ khác, không chỉ cuộc chiến chống khủng bố; và khiến ảnh hưởng nguồn cung cấp và giá dầu. Liệu hình ảnh một viên tướng Mỹ cai quản một quốc gia Arập sẽ trông như thế nào? Điều đó kéo dài bao lâu? Chẳng ai có thể đoán chắc. Mức độ thành công được đánh giá dựa vào đâu? Iraq có một lịch sử phức tạp – Powell nói thêm và vì thế “ngài (Bush) cần phải hiểu rằng, đây không phải là chuyến đi dạo hóng mát trong rừng”. Lắng nghe suốt từ đầu, cuối cùng, ông Bush lên tiếng: “Thế tôi nên làm gì? Vậy tôi nên làm gì khác bây giờ?”. Ông Powell đề xuất: Mỹ có thể xây dựng liên minh hoặc nấp bóng Liên Hiệp Quốc. Cần phải quốc tế hóa vấn đề.
Trong khi đó, với Cheney, vấn đề Liên Hiệp Quốc, cuộc chiến ngoại giao và sự kiên nhẫn là những điều không nằm trong quan điểm hành xử của ông. Trong cùng thời gian, nhiều ý kiến của các viên chức đương nhiệm lẫn nghỉ hưu bắt đầu tập trung mổ xẻ Iraq. Scowcroft phản chiến; Baker bác bỏ hành động đơn phương và cựu Ngoại trưởng Henry A. Kissinger viết trên tờ Washington Post (12/8/2002) rằng, việc gây sức ép Saddam là cần thiết nhưng cần phải có sự ủng hộ dư luận và thế giới. Phần mình, Cheney không thể chờ lâu hơn. Ngày 27/8/2002, tờ New York Times đăng hàng tít: “Cheney nói rằng hiểm họa một vụ tấn công Mỹ bằng vũ khí hạt nhân sẽ củng cố ý kiến đánh Iraq của Mỹ”. Powell chết điếng.
Trước đó, phó tổng thống còn đọc bài diễn văn trước nhóm cựu chiến binh tại Nashville, nói rằng nên dẹp quách tiến trình thanh sát vũ khí Iraq. Bạo mồm hơn cả Bush và CIA, Cheney là người đầu tiên khẳng định chắc chắn rằng: “Không hoài nghi gì nữa, Saddam Hussein đang sở hữu vũ khí giết người hàng loạt; không hoài nghi gì nữa, hắn sẽ sử dụng để chống lại bạn hữu chúng ta, chống lại đồng minh chúng ta và chống lại chúng ta”. Powell kinh ngạc. 10 ngày trước, Bush đã nói đến chính sách đánh phủ đầu. Bây giờ, Cheney đã đổ dầu cho tư tưởng đó. Powell thấy mình như bị “đóng hộp” trước các chuyển động ngầm trong nhóm cố vấn thân cận Bush quanh vấn đề Iraq.
Tối 6/9/2002, trong phiên họp giữa các bộ trưởng liên quan ngành an ninh tại Trại David, Cheney tiếp tục đề cập một nghị quyết Liên Hiệp Quốc mới và tất cả những gì Bush trình bày trước Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc sẽ chỉ là sự nhấn mạnh về hình ảnh xấu xa của Saddam, kẻ vi phạm hàng loạt nghị quyết Liên Hiệp Quốc trong nhiều năm; và rằng Mỹ có quyền quyết định đơn phương. Cuộc họp trở thành cuộc khẩu chiến quyết liệt giữa Powell và Cheney.
Đầu năm 2003, ông Bush yêu cầu ông Powell soạn diễn văn để ông đọc tại Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc. Khi chuẩn bị viết, Powell nhận cú điện từ Cheney, đề nghị xem lại vài chi tiết kết nối khủng bố với chế độ Saddam. Dò lại báo cáo do tùy viên Cheney (Lewis Libby) đệ trình, Powell để ý chi tiết bốn cuộc gặp giữa Mohamed Atta (thành viên nhóm khủng bố 11/9) với một sĩ quan tình báo Iraq tại Prague. Biết rằng vụ này chưa bao giờ có bằng chứng, Powell xóa ngay lập tức. Lúc đó, Powell vẫn còn đủ tỉnh táo để hiểu rằng, không nên biến Chính phủ Mỹ thành trò cười cho dư luận thế giới, chỉ bởi hành động loan bố một nguồn tin chưa kiểm chứng, một cách không thận trọng… Cuối cùng, trung tuần tháng 3/2003, sau khi đã “set-up” đâu đó tương đối, bất luận làn sóng chỉ trích dâng cao ngay tại Mỹ, Bush bắt đầu xoay tay nhấn nút tiến hành. Đêm 19/3/2003, đợt oanh kích nhắm xuống Dinh tổng thống Iraq đã bắt đầu khai hỏa cho cuộc chiến Iraq…
Ngày 10/4/2003 (một ngày sau khi Baghdad thất thủ), Ken Adelman – viên chức thời Ronald Reagan và là một trong những người ủng hộ cuộc chiến Iraq – tung ra bài bình luận trên tờ Washington Post với nội dung khẳng định chiến thắng của Mỹ, nói thêm rằng sự tự tin này xuất phát từ hồi còn làm việc với Rumsfeld và “từng biết Dick Cheney lẫn Thứ trưởng Quốc phòng Paul D. Wolfowitz nhiều năm”. Cheney lập tức điện Ken Adelman (đang ở Paris), bày tỏ khen ngợi, nói thêm rằng mình sẽ tổ chức tiệc mừng chiến thắng vào ngày 13/4 với khách mời gồm cố vấn riêng Lewis Libby và Wolfowitz. Tại buổi tiệc, Ken Adelman đã ôm chầm Cheney và khóc vì sung sướng (!). Cheney kể rằng, Bush đã quyết định “làm” vụ Iraq ngay sau cuộc chiến Afghanistan. Tất cả đều hả hê dè bỉu một số viên chức từng lên tiếng phản đối, nào là Brent Scowcroft, nào là (cựu ngoại trưởng) James A. Baker, nào là Lawrence Eagleburger (kế nhiệm Baker) và trên hết là “cái thằng xúi quẩy” Colin Powell!
Kế hoạch khai thác dầu Iraq, sau gần 9 năm, vẫn tiếp tục gặp nhiều khó khăn. Giới chức dầu hỏa Iraq đang bàn đến việc giảm mục tiêu xuống còn khoảng 8 triệu thùng/ngày, so với chỉ tiêu 12 triệu thùng/ngày đưa ra trước đó. Có quá nhiều rào cản cho nền công nghiệp dầu hỏa với trữ lượng lớn thứ tư thế giới này, từ vấn đề an ninh đến thủ tục hành chính. Đến nay, các hợp đồng với hơn 10 đối tác nước ngoài chỉ có thể đưa sản lượng dầu quốc gia lên 2,95 triệu thùng/ngày. Tăng trưởng kinh tế Iraq đạt khiêm tốn 4,2% năm 2009 và 0,8% năm 2010. Đấm đá chính trị loạn cào cào là một trong những chướng ngại vật cho phát triển kinh tế Iraq nói chung và công nghiệp dầu nói riêng. Giữa tháng 10/2011, khi Exxon Mobil ký hợp đồng khai thác dầu với chính quyền tự trị Kurdistan (Bắc Iraq), Bộ dầu hỏa Iraq lập tức nói rằng, hợp đồng trên là bất hợp pháp và nó có thể khiến Exxon Mobil bị hất khỏi các dự án khai thác dầu ở Nam Iraq…
|
2. Liệu cuộc chiến tại Iraq đã kết thúc?
(Petrotimes) - Đối với quân đội Mỹ, cuộc chiến tại Iraq có thể đã kết thúc nhưng đối với người Iraq và chính phủ Mỹ thì cuộc chiến này vẫn chưa kết thúc bởi lẽ họ đang phải nỗ lực ngăn chặn xung đột phe phái tại nước này sau khi các lực lượng của Mỹ rút hết về nước.
Ngày 19/12, một ngày sau khi những binh sĩ Mỹ cuối cùng tại Iraq rút về nước, chính phủ Iraq đã quyết định phát lệnh bắt Phó Tổng thống Iraq Tareq al-Hashemi – một chính khách Hồi giáo theo dòng Sunni cấp cao nhất nước này vì nghi ngờ ông ta dính líu tới khủng bố. Trước đó, chính phủ cho biết các vệ sĩ của ông Hashemi đã nhận tội. Vụ bắt giữ ông Hashemi có nguy cơ thổi bùng căng thẳng phe phái giữa những người theo dòng Shi’ite, Sunni và người Cuốc tại Iraq. Động thái trên cũng khiến thỏa thuận chia sẻ quyền lực mong manh của Iraq có thể đổ vỡ bất cứ lúc nào.
Trước đó, ngày 17/12, khối chính trị Iraqiya của người Hồi giáo Sunni đã tuyên bố tẩy chay quốc hội để phản đối Thủ tướng Nuri al-Maliki. Ông Hashemi chính là một trong những nhà lãnh đạo của khối Iraqiya.
Thời điểm đưa ra thông báo này cũng gây bất lợi cho Tổng thống Mỹ Barack Obama khi ông xuất hiện trong một loạt sự kiện để đánh dấu sự chấm dứt của các hoạt động can thiệp của quân đội Mỹ trong một cuộc chiến kéo dài gần chín năm do cựu Tổng thống G. W. Bush phát động. Các đối thủ thuộc đảng Cộng hòa của ông Obama trong quốc hội và trong các chiến dịch vận động tranh cử tổng thống cho rằng việc Mỹ quyết định rút toàn bộ binh sĩ về nước vào cuối năm nay đã làm tăng nguy cơ gây bất ổn tại Iraq.
Claude Chafin, phát ngôn viên của Chủ tịch Ủy ban Quân lực Hạ viện Mỹ, nói: “Nguy cơ bạo lực phe phái ngày càng gia tăng tại Iraq sau khi Tổng thống Obama quyết định rút toàn bộ lực lượng Mỹ khỏi Iraq – đây là một trong những lý do khiến các tư lệnh của chúng tôi đề nghị để lại một lực lượng đáng tin cậy tại Iraq sau cuối năm nay. Nhưng rốt cuộc, Iraq sẽ phải cần tới an ninh và tự do cho mọi người dân và tự định hình vận mệnh của mình”.
Căng thẳng phe phái ở cấp chính trị cao nhất tại Iraq đặt ra một thách thức mới đối với các nhà hoạch định chính sách Mỹ về đất nước nhiều dầu mỏ và có tầm chiến lược này. Jon Alterman, nhà phân tích của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế, cho hay: “Một trong những mối lo ngại chung của mọi người là khả năng gia tăng các vụ xung đột phe phái bởi không có sự hiện diện đông đảo của quân đội Mỹ tại nước này”.
Nhận định về vụ bắt giữ ông Hashemi, ông Alterman chia sẻ: “Vẫn chưa rõ liệu vụ bắt giữ này có phải là bằng chứng về xung đột phe phái hay chỉ là vụ điều tra hình sự thông thường. Tuy nhiên, điều nguy hiểm là một cuộc điều tra thông thường sẽ bị “ngộ nhận” là một cuộc xung đột phe phái – nguyên nhân đẩy Iraq lún sâu vào tình trạng bạo lực với sự kích động từ các tổ chức bên ngoài vốn có quan hệ với các cộng đồng sắc tộc khác nhau tại Iraq”, ông ngụ ý đề cập tới các nước láng giềng của Iraq là Iran, Thổ Nhĩ Kỳ và Arập Xêút.
Nhà Trắng đã kêu gọi chính phủ Iraq giải quyết vấn đề theo các quy định quốc tế – một tuyên bố dường như phản ánh lo ngại “ngầm” của Washington rằng vụ bắt giữ ông Hashemi có thể mang động cơ chính trị hoặc được tiến hành một cách bất công. Phát ngôn viên Nhà Trắng Jay Carney nói: “Chúng tôi đang theo dõi chặt chẽ thông tin ông Hashemi bị bắt. Chúng tôi kêu gọi tất cả các bên (tại Iraq) giải quyết bất đồng thông qua đối thoại hòa bình, phù hợp với quy định luật pháp và tiến trình chính trị dân chủ của nước này”.
Michael O’Hanlon, nhà phân tích về chính sách an ninh quốc phòng thuộc Viện Brookings, tỏ ra hoài nghi về những lời cáo buộc Phó Thủ tướng Hashemi, đồng thời cho rằng có thể bùng nổ xung đột phe phái nếu vụ khởi tố ông Hashemi được coi là mang động cơ chính trị. Ông khẳng định: “Nguy cơ này là rất lớn bởi Thủ tướng Nuri al-Maliki cố đưa vụ này ra xét xử ở tòa án để phục vụ chương trình của mình, ví dụ như cố loại bỏ các ứng cử viên được cho là không đủ tiêu chuẩn trong khoảng thời gian hai năm trước khi diễn ra các cuộc bầu cử quốc hội”.
Trong khi đó, kênh truyền hình nhà nước Iraq dẫn lời Ali al-Musawi, cố vấn truyền thông của Thủ tướng Nuri al-Maliki, cho biết ông Maliki đã kêu gọi lãnh đạo các chính đảng ở Iraq tổ chức một cuộc họp khẩn để giải quyết cuộc khủng hoảng chính trị bùng phát sau khi ông Hashemi bị cáo buộc dính líu tới âm mưu khủng bố.
Phó Tổng thống Hashemi tuyên bố ông “sẵn sàng ra hầu tòa” liên quan tới những cáo buộc khủng bố với điều kiện vụ việc được xét xử tại khu tự trị của người Cuốc. Ông cũng kêu gọi các đại diện của Liên đoàn Arập (AL) tham gia tiến trình điều tra cũng như bất kỳ cuộc thẩm vấn nào, tuyên bố những lời thú tội được công bố trên truyền hình rằng các vụ giết hại và tấn công nhằm vào một số quan chức an ninh và chính phủ Iraq có liên quan tới ông là bịa đặt.
Vân Chi (Theo Reuters)
3. Đằng sau những tuyên bố về cuộc chiến ở Iraq của ông Obama
4. 5 năm chiến tranh Iraq: 10 sự thật không dễ nghe
Chiến tranh Iraq là lời cảnh báo cho nước Mỹ: Nếu người Mỹ không rút kinh nghiệm từ cuộc chiến này và xử lý thích đáng những nhân tố có trách nhiệm, thất bại tại Iraq sẽ không phải là thất bại cuối cùng của người Mỹ.
Cuộc chiến tại Iraq bắt đầu từ năm 2003, và xoay quanh nó là nhiều ý kiến tán đồng cũng như phản đối. Cái nhìn của học giảStephen M. Walt thuộc Trung tâm Belfer (Trường Kennedy, ĐH Harvard) mà chúng tôi xin được giới thiệu sau đây thuộc nhóm thứ hai.
Dưới con mắt của ông, đây là một cuộc chiếm đóng không cần thiết và tốn kém. Cho đến năm nay, chiến tranh tại Iraq đã kéo dài được 5 năm, và Stephen rút ra 10 sự thật về những sai lầm trong quá khứ, tình hình hiện tại cũng như những lựa chọn cho tương lai.
Dưới con mắt của ông, đây là một cuộc chiếm đóng không cần thiết và tốn kém. Cho đến năm nay, chiến tranh tại Iraq đã kéo dài được 5 năm, và Stephen rút ra 10 sự thật về những sai lầm trong quá khứ, tình hình hiện tại cũng như những lựa chọn cho tương lai.
1. Mỹ đã “chuốc họa vào thân” khi quyết định can thiệp vào Iraq
TT Mỹ Bush cho rằng việc chiếm đóng Iraq là quyết định đúng đắn (Nguồn BBC) |
Phái tân bảo thủ trong cũng như ngoài chính quyền Bush đã thuyết phục Chủ tịch, phó Chủ tịch, và cả người Mỹ rằng Saddam là mối đe dọa nghiêm trọng, rằng cuộc chiến tại Iraq sẽ dễ dàng và không tốn kém, và rằng việc loại bỏ Saddam sẽ đem lại nhiều lợi ích cho khu vực.
Họ đều sai lầm trên mọi mặt, và trách nhiệm của họ trong việc gián tiếp gây ra thảm họa ngày hôm nay là không thể bỏ qua được.
2. Cốt lõi của vấn đề là thiếu hụt chính sách khôn ngoan
Trận đánh bom ở một khu đền đạo Hồi hủy hoại trật tự xã hội (Ảnh: AP) |
Tuy nhiên, ngay từ đầu người Mỹ đã vấp phải một trở ngại lớn, đó chính là sự chia cắt trong xã hội Iraq. Cũng như những lực lượng chiếm đóng nước ngoài khác, Mỹ không hiểu rõ về tình hình địa phương của Iraq và điều này như một bức tường ngăn cách quân đội Mỹ với người dân Iraq.
Thực ra, chẳng xã hội nào mong muốn bị cai quản bởi những “người bạn” lạ mặt đến cùng hàng kho vũ khí trang bị cả. Vì thế, lí do quan trọng nhất là quyết định sai lầm ban đầu, và những sai lầm sau đó chỉ như dầu đổ vào lửa mà thôi.
3. Cuộc chiến tại Iraq đã làm mai một đáng kể mối quan tâm của Mỹ với Trung Đông
Cuộc xâm chiếm của Mỹ đã khiến khu vực Trung Đông trở nên bất ổn định, cùng lúc đó “vô tình” tạo đòn bẩy cho vị thế của Iran. Ngoài ra, cuộc chiến Iraq cũng góp phần đẩy giá dầu tăng một cách đột biến, hủy hoại giá trị của chế độ dân chủ và bôi nhọ hình ảnh của Mỹ trong mắt cộng đồng Ả Rập và Hồi giáo.
Đây là những hậu quả không thể tránh được, trừ khi Mỹ rút quân. Xung đột trong khu vực và nội chiến là điều rất có thể xảy ra sau khi Mỹ ngừng tham chiến.
May thay, cuộc sống của các nước láng giềng của Iraq tại khu vực Trung Đông phụ thuộc nhiều vào doanh thu đến từ dầu, và với lực lượng vũ trang còn khiêm tốn, lo ngại về xung đột leo thang trong khu vực là không khả thi.
May thay, cuộc sống của các nước láng giềng của Iraq tại khu vực Trung Đông phụ thuộc nhiều vào doanh thu đến từ dầu, và với lực lượng vũ trang còn khiêm tốn, lo ngại về xung đột leo thang trong khu vực là không khả thi.
4. Cuộc chiến Iraq là thất bại của chiến dịch đối phó với chủ nghĩa khủng bố chống tại Mỹ
Phó TT Mỹ Dick Cheney hứa hẹn rằng sứ mạng của Mỹ tại Iraq sẽ được hoàn thành |
Iraq đã trở thành đất huấn luyện mới cho lực lượng khủng bố, và những sự kiện đáng giật mình như Abu Ghraib đã đem đến cho những phần tử chống Mỹ một vũ khí mới lợi hại cho những toan tính của họ.
5. Chiến lược tăng quân là sai lầm
Việc rót thêm quân đội Mỹ vào Iraq đã làm giảm bạo động, nhưng những hòa giải chính trị vẫn ở trong tìng trạng bế tắc và đến giờ bạo động lại gia tăng.
Hơn thế nữa, lực lượng quân đội Mỹ chiếm đóng tại Iraq về lâu dài sẽ không đủ sức cầm cự, và tiếp thêm quân vào một cuộc chiến như thế sẽ chỉ tiêu tốn thêm sức người và làm giảm vị trí của Mỹ trên trường quốc tế mà thôi.
Việc rót thêm quân đội Mỹ vào Iraq đã làm giảm bạo động, nhưng những hòa giải chính trị vẫn ở trong tìng trạng bế tắc và đến giờ bạo động lại gia tăng.
Hơn thế nữa, lực lượng quân đội Mỹ chiếm đóng tại Iraq về lâu dài sẽ không đủ sức cầm cự, và tiếp thêm quân vào một cuộc chiến như thế sẽ chỉ tiêu tốn thêm sức người và làm giảm vị trí của Mỹ trên trường quốc tế mà thôi.
6. Mỹ có thể thắng cuộc chiến, nhưng với một cái giá cực đắt
Mỹ tăng quân tại Iraq (Nguồn: AP) |
Cho dù chế độ Saddam không còn và cuối cùng Iraq sẽ khôi phục lại, viễn cảnh này cũng không thể bù lại những tổn thất của Mỹ trên phương diện kinh tế, ngoại giao và nhân lực.
7. Mấp mé việc tìm kiếm người “chịu đòn thay”
Giới công dân Mỹ với niềm tin “sắt đá” rằng chiến lược vũ trang của Mỹ vẫn phát huy tác dụng đang bắt đầu “vạch lá tìm sâu” người kế nhiệm Bush, hoặc những ai ban đầu phản đối cuộc chiến này.
Bằng cách khẳng định rằng mọi thứ đang tiến triển và thắng lợi đã nằm trong tay, họ đang chuẩn bị đổ lỗi cho bất cứ ai gây ảnh hưởng tới việc Mỹ rút quân. Nhưng nếu thiếu đi viễn cảnh về một chiến thắng có ý nghĩa, việc ở lại Iraq sẽ chỉ là phù phiếm và thiếu khôn ngoan.
Bằng cách khẳng định rằng mọi thứ đang tiến triển và thắng lợi đã nằm trong tay, họ đang chuẩn bị đổ lỗi cho bất cứ ai gây ảnh hưởng tới việc Mỹ rút quân. Nhưng nếu thiếu đi viễn cảnh về một chiến thắng có ý nghĩa, việc ở lại Iraq sẽ chỉ là phù phiếm và thiếu khôn ngoan.
8. Cuộc chiến tại Iraq đã gây nhiều tổn thất hơn dự kiến
Chính quyền Bush vấp phải nhiều chỉ trích từ dư luận (Nguồn: AP) |
Việc khôi phục lại lực lượng quân đội sẽ khó khăn, tốn kém và mất nhiều thời gian hơn thế nhiều lần. Chính quyền Bush cho đến nay vẫn có khả năng hỗ trợ cho cuộc chiến bằng cách che đậy những chi phí dồn lên quân đội Mỹ, nhưng sớm hay muộn thực trạng về những con người nhụt chí, những trang thiết bị xuống cấp và tình hình tuyển và giữ quân bi đát cũng sẽ bị phơi bày.
9. Tổng thống kế tiếp của Mỹ vấp phải lựa chọn khó khăn: Kết thúc một cuộc chiến sai lầm hay chịu trách nhiệm về nó
Dù ai là tổng thống tiếp theo của Mỹ, việc tiếp tục chiếm đóng tại Iraq đồng nghĩa với việc tiếp diễn những thiệt hại từ thời Bush. Nếu điều này là có thật, bóng ma Iraq sẽ phủ đen cương vị tổng thống và khiến những thử thách mới bị lơ là. Chỉ bằng cách rút ra sớm, vị tổng thống này mới có thể khôi phục lại hoạt động của Mỹ cũng như tạo dựng lại uy tín đã mất của Mỹ trên trường quốc tế.
10. Thất bại Iraq phản chiếu đường lối sai lầm của bộ máy Mỹ
Biểu tình chống chiến tranh tại Iraq: “Tôi xấu hổ về nước Mỹ” |
Những cơ quan truyền thông chính như New York Times và Washington Post cũng xúc tiến chiến tranh bằng cách phụ họa theo đường lối của chính phủ và tạo điều kiện cho các cổ động viên trước khi cuộc chiến bắt đầu.
Chiến tranh Iraq là lời cảnh báo cho nước Mỹ: Nếu người Mỹ không rút kinh nghiệm từ cuộc chiến này và xử lý thích đáng những nhân tố có trách nhiệm, thất bại tại Iraq sẽ không phải là thất bại cuối cùng của người Mỹ.
- Catherine Trần (Theo Belfer Center, Trường Kennedy, ĐH Harvard)
Các điểm mốc trong chiến tranh Iraq
|
09/04/2003: Chính phủ của Saddam Hussein bị lật đổ
15/04/2003: Mỹ bắt đầu “nhào nặn” tương lai Iraq
06/05/2003: Mỹ cử nhân sự quản lí tới Iraq
22/05/2003: Liên Hợp Quốc bãi bỏ cấm vận kinh tế đối với Iraq
13/07/2003: Iraq tiến tới chế độ tự quản
19/08/2003: Vụ đánh bom liều chết phá hủy văn phòng của LHQ
02/11/2003: Trực thăng của Mỹ bị bắn rơi
12/11/2003: Quân đồng minh Ý bị sát hại tại trụ sở chính
13/12/2003: Saddam Hussein bị bắt
01/02/2004: Thêm một vụ đánh bom liều chết làm 100 người thiệt mạng
20/04/2004: Chuẩn bị xét xử Saddam và các thành viên của chính phủ Baathist
08/06/2004: LHQ tán đồng việc chuyển giao quyền lực cho chính phủ lâm thời Iraq
15/11/2004: Vụ nổi loạn tại Fallujia, 1200 người nổi loạn bị giết bởi quân Mỹ
22/12/2004: Cuộc tấn công gây tổn thất nặng nề nhất đối với quân đội Mỹ, 19 lính bị giết
30/01/2005: Lần đầu tiên trong 50 năm, người Iraq đi bầu cử với hệ thống đa đảng
19/07/2005: Báo cáo ước tính 25000 người Iraq thiệt mạng kể từ khi Mỹ bước chân vào Iraq
19/10/2005: Saddam Hussein bị buộc tội chống lại lợi ích của nhân loại
21/01/2006: Chiến thắng không rõ ràng của cuộc bầu cử Iraq
13/03/2006: Anh quyết định giảm quân ở Iraq
07/09/2006: Mỹ tuyên bố trao trả một phần quyền lực cho Iraq trong hải quân và không quân
31/12/2006: Saddam Hussein bị xử tội chết bằng hình thức treo cổ
10/01/2007: Bush tuyên bố kế hoạch tăng quân
19/03/2007: Đại diện từ Mỹ, Iran và Syria gặp mặt nhằm ủng hộ chính quyền Iraq
14/08/2007: Thêm 500 người chết trong bạo động tại Yazidi
16/12/2007: Tỉnh cuối cùng của Iraq là Basra dưới quyền của quân đội Anh được trao trả cho người Iraq
02/03/2008: Mahmoud Ahmadinejad tới thăm Baghdad – chuyến thăm hữu nghị đầu tiên của một chủ tịch nước Iran.
(Nguồn: BBC.co.uk)
|
5. Thấy gì từ cuộc chiến của Mỹ ở Iraq?
(VOV) - Ngày 31/8/2010 là thời hạn cuối cùng cho việc rút toàn bộ lực lượng tác chiến của Mỹ khỏi Iraq, đúng lịch trình của Tổng thống Obama. Khi quân Mỹ rút đi, đất nước Iraq vẫn chìm trong sự bất ổn và bạo lực
Mục tiêu khi đưa quân vào Iraq và chiến lược giành quyền kiểm soát của Mỹ trong khu vực đã bị phá sản. Chính Tổng thống Obama cũng phải thừa nhận, Mỹ không giành được chiến thắng nào sau 7 năm chiến tranh đẫm máu.
Lặp lại sai lầm trong chiến tranh Việt Nam
Sau chiến tranh Việt Nam, Mc. Namara - Nguyên Bộ trưởng Quốc phòng dưới các thời Tổng thống Johnson và Nixon đã thú nhận rằng, chiến tranh Việt Nam của Mỹ là một “sai lầm, sai lầm khủng khiếp”, ông đã rút ra 11 nguyên nhân gây ra thảm bại cho nước Mỹ và nhấn mạnh nguyên nhân thứ ba: “Chúng ta (tức Mỹ) đã đánh giá thấp sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc thúc đẩy một dân tộc”.
Tuy nhiên, đến tháng 3/2003, lấy cớ tìm kiếm vũ khí hủy diệt hàng loạt, liên quân do Mỹ đứng đầu với khí thế áp đảo về lực lượng và vũ khí công nghệ cao, lại tiến vào Thủ đô Baghdad, lật đổ chế độ của Tổng thống Saddam Hussein. Cuộc chiến tranh Iraq lần này đã kéo dài ngoài dự kiến của Mỹ, lâu hơn cả cuộc nội chiến ở Mỹ, Chiến tranh thế giới thứ nhất và Chiến tranh thế giới thứ hai. Hơn 7 năm qua, tiếng súng chưa bao giờ ngưng trên mảnh đất này. Những vụ đánh bom đẫm máu của lực lượng nổi dậy xảy ra với mức độ ngày càng gia tăng, gây nỗi kinh hoàng cho cả dân thường Iraq và binh sĩ Mỹ.
Trên cơ sở khái quát của người Mỹ năm 2003 về mối quan hệ giữa chiến tranh xâm lược Việt Nam (1954 – 1975) với cuộc chiến tranh ở Iraq, một số nhà nghiên cứu hồi đó đã nêu ý kiến về những bài học mà các nhà cầm quyền Mỹ cần tính tới. Rằng, “đã đến lúc cần nhìn lại cuộc chiến tại Việt Nam và Iraq và bài học gì mà cuộc chiến thứ nhất có thể dạy chúng ta về cuộc chiến thứ hai”. Tuy nhiên, sai lầm lại lặp lại, quân đội Mỹ lại phải làm cái việc mà 37 năm trước đây họ đã làm ở Việt Nam: Rút quân về nước với “hai bàn tay trắng”.
Có thể nhiều người còn nhớ, chỉ vài ngày trước khi quân Mỹ tiến quân đánh chiếm Iraq (2003), các Đài truyền hình Mỹ đã đưa lên màn ảnh cảnh các nhân viên Đại sứ quán Mỹ rút chạy bằng trực thăng từ nóc tòa Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn vào những ngày cuối tháng 4/1975.
Tạo thêm hận thù và bạo lực
Mục tiêu của Mỹ trong cuộc chiến xâm lược Iraq là phá hủy quân đội, lật đổ chế độ Saddam Hussein và lập một chính phủ thân Mỹ ở Baghdad, nhằm bảo đảm các lợi ích của Mỹ tại quốc gia giàu dầu mỏ này nói riêng và toàn bộ khu vực Trung Đông nói chung. Tuy nhiên đến nay, Iraq vẫn chưa thành lập được chính phủ sau gần 6 tháng tiến hành cuộc bầu cử Quốc hội. Đất nước Iraq rơi vào hận thù, chia rẽ.
Trái với tuyên truyền của Mỹ rằng sẽ đem lại tự do cho người dân Iraq, đất nước này hơn 7 năm qua đã chìm trong bom đạn, chết chóc, đau thương. Bạo lực đã làm hơn 100.000 dân thường Iraq chết. Mỹ không những không trấn áp được khủng bố mà Iraq còn trở thành một "địa bàn" cho khủng bố tung hoành. Sự hận thù của người dân Iraq càng thổi bùng làn sóng chống Mỹ và đây cũng là một trong những nguyên nhân làm gia tăng các vụ đánh bom liều chết.
Khi thời hạn quân chiến đấu Mỹ sắp rút khỏi Iraq, Thủ tướng Iraq ông Nouri al Maliki đã đặt nước này trong tình trạng báo động khủng bố cao nhất, đồng thời cảnh báo các âm mưu gieo rắc sợ hãi và hỗn loạn khi quân đội Mỹ chính thức rút lực lượng chiến đấu ở Iraq theo kế hoạch. Các phần tử nổi dậy ở Iraq đã tăng cường tấn công vào lực lượng cảnh sát và binh lính nước này, biến tháng 8/2010 thành tháng đẫm máu nhất trong 2 năm vừa qua, với trung bình 5 người bị giết hại mỗi ngày. Sau khi người lính chiến đấu Mỹ cuối cùng rút khỏi Iraq, một lỗ hổng lớn về an ninh sẽ càng lộ rõ khiến dư luận không khỏi hoài nghi về nguy cơ bạo loạn, bất ổn gia tăng.
Hao người, tốn của – gia tăng sự bất bình của dân Mỹ
Nhà cầm quyền Mỹ hiện đang rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan. Washington không thể tăng quân mãi và không thể đeo đuổi chiến tranh lâu dài bởi chi phí ngày càng tốn kém, như "ném tiền vào thùng không đáy". Cuộc chiến tranh Iraq đã tiêu tốn của Mỹ 740 tỷ USD, trong khi nước Mỹ đang phải gồng mình để vượt qua khủng hoảng, phục hồi kinh tế. Chính quyền Mỹ cũng phải cay đắng thừa nhận, một trong những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng kinh tế là do "sa lầy" trong cuộc chiến ở Iraq và Afghanistan. Ngay cả các đồng minh thân cận nhất của Mỹ cũng tìm cách rút quân khỏi Iraq trước cả Mỹ vì nhiều lý do khác nhau.
Làn sóng phản đối cuộc chiến tranh ở Iraq nổi lên trong lòng nước Mỹ. Cuộc chiến tranh Iraq đã làm hơn 4.400 binh sĩ Mỹ chết, hàng nghìn binh sĩ bị thương. Nhiều người dân Mỹ bất bình khi chứng kiến hằng ngày con em họ phải đổ máu ở một đất nước xa xôi. Rồi cả những nỗi đau bị giày vò cả về thể xác lẫn tinh thần, hàng ngàn người mắc bệnh tâm thần với "Hội chứng Iraq".
Việc Mỹ rút quân theo "lộ trình" để rồi rút hoàn toàn quân đội khỏi Iraq vào cuối năm 2011 chỉ là sự lựa chọn "bất đắc dĩ" trong tình thế "tiến thoái lưỡng nan". Chính các tướng, tá Mỹ và Iraq cũng thừa nhận, phải 10 năm hoặc lâu hơn nữa, quân đội Iraq mới có khả năng bảo đảm an ninh.
Tổng thống Obama coi việc rút quân của Mỹ là "dấu mốc lịch sử" và cuộc chiến đang khép lại, nhưng xét về các mục tiêu chiến lược, Mỹ đã hoàn toàn thất bại. Đây là hậu quả tất yếu, bởi cuộc chiến tranh do Mỹ tiến hành trên đất nước Iraq là cuộc chiến xâm lược một quốc gia độc lập, có chủ quyền, dù núp dưới chiêu bài nào cũng khó biện minh. Chính vì vậy, cuộc chiến này đã vấp phải sự phản kháng của người dân Iraq, sự lên án của dư luận quốc tế. Việc sử dụng sức mạnh quân sự đe dọa và xâm lược một quốc gia độc lập và có chủ quyền là không thể chấp nhận được trong quan hệ quốc tế hiện nay và do đó, thất bại là việc đương nhiên!
Cuộc rút quân chiến lược đã hoàn tất đánh dấu một bước điều chỉnh chiếc lược của Mỹ trên toàn cầu. Từ chiến lược “can dự không xác định” sang chiến lược “can dự có giới hạn” nhằm tạo điểm nhấn cho Tổng thống Obama và Đảng Dân chủ khi chỉ còn chưa đầy 3 tháng nữa là tới cuộc bầu cử Quốc hội Mỹ. Tuy nhiên, cho dù cam kết đã được thực hiện, nước Mỹ sẽ còn phải mất rất nhiều thời gian để làm mờ đi hình ảnh của một cường quốc xâm lược và bù đắp những tổn hại về kinh tế và tinh thần./.
Nguyễn Nhâm
6. Bài tiểu luận: Chiến tranh Mỹ - Iraq
Chiến tranh Iraq (20/3/2003 -
19/8/2010), mà chính quyền Hoa Kỳ gọi là Chiến
dịch Đất nước Iraq Tự do, là một cuộc chiến tranh tại Iraq giữa một bên là Lực lượng Đa Quốc gia do Hoa Kỳ dẫn đầu với một bên là chính quyền Saddam Hussein (ban đầu) và các lực lượng nổi dậy (về sau). Lực
lượng Đa Quốc gia đã lật đổ được chính quyền của Saddam Hussein. Tuy nhiên, các
lực lượng nổi dậy vẫn chưa được trấn áp hoàn toàn, khiến cho mặc dù Tổng thống
Hoa Kỳ đã tuyên bố rút hết quân chính quân và kết thúc chiến tranh nhưng vẫn phải
để lại gần 50 vạn nhân viên quân sự dưới tư cách cố vấn quân sự cho chính quyền
Iraq mới. Trong thời gian từ năm 2005
đến 2007, các hoạt động thăm
dò dư luận đã cho thấy rằng đại đa số người Iraq phản đối cuộc xâm lược
này của Hoa Kỳ.
Nguyên nhân của cuộc chiến tranh Irac
Duyên cớ trực tiếp dẫn đến cuộc chiến.
Chính phủ Mỹ có lý của họ khi họ liên tục
cáo buộc phía Iraq theo đuổi các chương trình vũ khí huỷ diệt, vũ khí sinh -
hoá học. Với việc chấp nhận phán quyết của Hội đồng Bảo an dựa trên các báo cáo
của phái đoàn thanh sát vũ khí LHQ, chính phủ Mỹ chứng tỏ họ tự tin vào cái lý
của mình.
Nguyên nhân và mục đích của cuộc chiến đó
là việc chính quyền Saddam Hussein đã từng sử dụng vũ khí hóa học trong cuộc
chiến với Iran, sử dụng vũ khí hóa học để đàn áp người Kurd làm hàng nghìn người
chết. Người Mỹ và Tây Âu cũng đã từng trợ giúp Iraq trong cuộc chiến với Iran,
giúp Iraq đào tạo 1 đội ngũ các nhà khoa học trong lĩnh vực vũ khí hạt nhân;
ông Kessinger đã thừa nhận: “Chắc chắn (Saddam Hussein) là kẻ độc tài nhưng hắn
là kẻ độc tài của chung ta ”. Vì vậy hơn ai hết Mỹ và Tây Âu phải hiểu được tiềm
năng về vũ khí huỷ diệt của Iraq và đối thủ của họ
Như vậy, cuộc chiến của Mỹ nhằm vào Iraq là
dựa trên những mối lo ngại có cơ sở. Đó cũng là mối lo ngại của cộng đồng quốc
tế, khi chứng kiến hàng loạt nghị quyết của Hội đồng Bảo an LHQ về vấn đề thanh
sát vũ khí và giải giáp Iraq đã trở thành 1 cuộc chơi cút bắt với phía Iraq.
Nguyên nhân sâu xa dẫn đến chiến tranh Iraq .
Nguồn dầu lửa dồi dào của Iraq.
Thực chất đằng sau cuộc chiến không phải là khủng bố hay
vũ khí hủy diệt như Mỹ tuyên bố, mà là nguồn dầu lửa dồi dào của nước vùng Vịnh
này. Trữ lượng dầu mỏ của Iraq đứng thứ 2 trên thế
giới (xếp sau Ảrập Xêut), chiếm gần 5% trữ lượng dầu của toàn thế giới.
Chính vì vậy, bên cạnh một bộ phận dân chúng Mỹ phản đối
chiến tranh với khẩu hiệu "không đổi máu lấy dầu", không ít người lại
ủng hộ vì cho rằng nó có lợi cho nền kinh tế Mỹ. Việc quy kết rằng Iraq có vũ
khí huỷ diệt, điều quân đội đến khu vực, vận động sự ủng hộ của đồng minh, bất
chấp thực tế Iraq đã tuân thủ nghị quyết của HĐBA, trong khi không đưa ra được
bằng chứng xác đáng càng chứng tỏ Mỹ chỉ muốn tìm cớ gây chiến.
Giả thiết Iraq có vũ khí huỷ
diệt và thực sự nguy hiểm, liệu Mỹ có đưa quân đến để hứng chịu thiệt hại
không? Khác với ở Afghanistan, bên trong Iraq không có một lực lượng quân sự và
chính trị đối lập đủ mạnh để thay thế phần nào sự tham gia của liên quân Anh -
Mỹ trong chiến tranh. Thực chất mục đích của Mỹ không phải là giải giáp vũ khí
Iraq mà là lật đổ Tổng thống Saddam Hussein. Chuyện lật đổ chỉ có thể giải quyết
bằng chiến tranh chứ không thể thực hiện được qua đàm phán.
Thực tế Mỹ mong muốn cuộc
chiến xảy ra. Vì vậy Mỹ ráo riết tìm một cái cớ đủ mạnh và sự ủng hộ của các nước
đồng minh, hoặc ít nhất là bớt chống đối trong HĐBA. Bởi vì sau cuộc chiến Mỹ sẽ
lập nên một chính phủ thân Washington, có khả năng đảm bảo các quyền lợi kinh tế
và chính trị cho Mỹ về sau này, giống như ở Afghanistan.
Thực ra, trên bế nổi
Washington muốn cả thế giới nhìn nhận, rằng Iraq là nước chứa chấp vũ
khí hủy diệt và những tên khủng bố.
Sự thật lại khác hoàn toàn.
Cách đây gần 20 năm, Saddam Hussein được Mỹ tin dùng như một
con bài chủ chốt để Mỹ bành trướng thế lực ở Trung Đông. Saddam được chính quyền
Mỹ cung cấp tài chính và vũ trang để tấn công các nước trong vùng. Đổi lại, Tổng
thống Iraq
phải cung cấp dầu cho Mỹ.
Hãy so sánh giữa CHDCND Triều Tiên và Iraq . Chính
quyền CHDCND Triều Tiên xác nhận rằng mình có vũ khí hạt nhân, nhưng Mỹ không
đánh. Ngược lại, trong khi LHQ vẫn còn rất mập mờ về việc sở hữu vũ khí hủy diệt
của Iraq thì Mỹ lại mong muốn
gây chiến tranh với Iraq .
Thật ra điều này không mâu thuẫn. Mỹ không bao giờ làm việc gì mà không có mục
đích. Iraq
"béo bở" hơn CHDCND Triều Tiên nhiều. Một lượng dự trữ dầu đủ sử dụng
đến hơn 500 năm làm sao mà không hấp dẫn đối với Mỹ được chứ? Mỹ sẽ không tấn
công CHDCND Triều Tiên chỉ để được cái danh là mình đã giúp LHQ loại trừ được
những vũ khí hủy diệt. Nên nhớ rằng Mỹ không cần danh mà chỉ cần lợi thôi.
Tương tự về bin Laden, một nhân vật được Mỹ hỗ
trợ trước đây trong cuộc chiến giữa Afghanistan và Liên Xô (cũ). Đến
khi bin Laden có "phản ứng" đối với Mỹ thì Mỹ bắt đầu gọi bin Laden
là một tên khủng bố. Vì vậy mà Mỹ đã gây ra chiến tranh trên đất nước Afghanistan .
Sở dĩ Afghanistan nằm trong tầm ngắm của Mỹ bởi nước này là giao điểm những ống
dẫn dầu đến các nước Trung Đông.
Mặc dù số phận của
bin Laden chưa rõ ràng, nhưng Mỹ không thể để nhân vật này chết được, bởi như vậy
sẽ không còn lý do để tiến hành "chiến tranh chống khủng bố" như Mỹ
tuyên bố nữa.
Sư đe dọa về giá trị của đồng Đôla so với
đồng Euro.
Những câu hỏi cơ bản nhất về cuộc
chiến này. Đầu tiên, tại sao lại có hầu như không
có sự hỗ trợ quốc tế để lật đổ Saddam? Nếu chương trình WMD của Iraq thực sự sở hữu các mức độ đe
dọa rằng Tổng thống Bush đã nhiều lần có mục đích, lý do tại sao lại không có
liên minh quốc tế để giải giáp quân sự Saddam?
Thứ hai, mặc dù hơn 300 không bị trói
buộc của Liên Hợp Quốc kiểm tra cho đến nay, đã không có bằng chứng báo cáo của
một chương trình tái tạo WMD(vũ khí hạt nhân) tại Iraq. Thứ ba, và mặc dù ngôn từ của Bush, CIA đã không tìm thấy bất kỳ
mối liên hệ giữa Saddam Hussein và Al Qaeda(trùm khủng bố).
Hơn nữa, ngay lập tức sau khi Quốc hội bỏ phiếu nghị
quyết về Iraq ,
chúng ta cũng nhận thấy chương trình hạt nhân của Bắc Triều Tiên vi phạm. Kim Jong Il được
chế biến uranium để sản xuất vũ khí hạt nhân năm nay. Tổng thống Bush đã không cung cấp một câu
trả lời lý do vì sao ở đất nước của bSaddam dường như chương trình WMD không
hoạt động , không sở hữu một mối đe dọa sắp xảy ra như là các chương trình hoạt
động của Bắc Triều Tiên? Donald Rumsfeld cho rằng nếu Saddam đã "lưu vong"
chúng ta có thể tránh một cuộc chiến tranh Iraq ? Và sự
thật cái lý do chính để lật đổ Saddam thực sự là đồng Euro.
=>Iraq thật đơn giản nhưng gây sốc. Cuộc chiến tại Iraq
chiến tranh chủ yếu là về cách thức giai cấp thống trị tại Langley và các đầu sỏ chính trị mà Bush xem ở
cấp độ địa lý chiến lược, và các mối đe dọa kinh tế vĩ mô bao quát với đồng đô
la Mỹ từ đồng Euro. Thực tế là chính phủ thành viên này
của OPEC muốn tiếp tục ngăn chặn vai trò đồng Euro- khi
giao dịch dầu là một loại tiền tệ tiêu chuẩn.
Tuy nhiên, đứng trước OPEC, họ cần phải kiểm soát địa lý chiến lược của Iraq
cùng với dự trữ dầu của nước này. Mặc dù hoàn toàn bị đàn áp trong các
phương tiện truyền thông Mỹ, câu trả lời cho những bí ẩn
thức giai cấp thống trị tại Langley và các đầu sỏ
chính trị mà Bush xem ở cấp độ địa lý chiến lược, và các mối đe dọa kinh tế vĩ
mô bao quát với đồng đô la Mỹ từ đồng Euro. Thực tế là chính phủ thành viên này
của OPEC muốn tiếp tục ngăn chặn vai trò đồng Euro- khi
giao dịch dầu là một loại tiền tệ tiêu chuẩn.
Tuy nhiên, đứng trước OPEC, họ cần phải kiểm soát địa lý chiến lược của Iraq
cùng với dự trữ dầu của nước này.
" Cơn ác mộng lớn nhất của
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ là OPEC sẽ chuyển giao dịch quốc tế của mình từ tiêu
chuẩn đồng USD để sang tiêu chuẩn đồng
Euro. Iraq
thực hiện chuyển đổi này trong tháng 11 năm 2000 (khi đồng Euro trị giá khoảng
80 cents), và đã thực sự tạo ra giống như sự đe dọa ổn định của đồng USD, làm
cho nó mất giá so với đồng Euro. " (Lưu ý: đồng đô la sụt giảm 15% so với đồng
euro vào năm 2002.)
"Như vậy chính quyền Bush muốn có một chính phủ bù nhìn ở Iraq -
hay quan trọng hơn là lý do tại sao quân đội-công nghiệp-công ty tập đoàn mạng
muốn một chính phủ bù nhìn tại Iraq - là để nó sẽ quay trở lại một tiêu chuẩn
đô la và giư chắc vai trò này "
"Saddam niêm phong số phận của mình khi ông
quyết định chuyển sang đồng euro vào cuối năm 2000 (và sau đó chuyển đổi quỹ
10000000000 dự trữ đola của ông tại Liên Hiệp Quốc sang Euro) .
N hiều
nhà phân tích rất ngạc nhiên việc Saddam đã sẵn sàng bỏ hàng triệu doanh thu
dầu cho những gì dường như là một tuyên bố chính trị. Sự giảm giá ổn định của đồng USD so với đồng Euro
kể từ cuối năm 2001 có nghĩa là Iraq đã được lợi lớn từ các chuyển đổi trong dự
trữ của họ và các đồng tiền giao dịch. Đồng Euro đã đạt được khoảng 17% so với đồng đôla trong thời
gian đó,và cũng áp dụng đối với trị giá 10 tỷ USD vào Iraq của quỹ "dầu ăn" LHQ- quỹ dự phòng mà trước
đây được tổ chức bằng đô la, nó cũng đã đạt được một phần trăm giá trị kể từ
khi chuyển đổi.
Điều gì sẽ xảy ra nếu OPEC đã thực hiện chuyển đổi đột ngột dùng euro, thay vì
chuyển đổi dần dần?
"Nếu không, tác dụng của sự chuyển đổi sang đồng Euro sẽ là các quốc
gia tiêu thụ dầu sẽ phải rửa đô la trong quỹ ngân hàng trung ương (dự trữ )của
họ và thay thế bằng đồng Euro. Các đồng đô la sẽ sụp đổ ở bất cứ đâu từ 20-40%
trong giá trị và những hậu quả sẽ sự sụp đổ tiền tệ và lạm phát lớn (ví như
cuộc khủng hoảng tiền tệ Argentina ).
Bạn sẽ có dòng vốn nước ngoài trong các thị trường chứng khoán Mỹ và các tài
sản bằng tiền đô la chắc chắn muốn được chạy trên các ngân hàng giống như những
năm 1930, thâm hụt tài khoản hiện tại sẽ trở thành hiện thực, thâm hụt ngân
sách sẽ đi vào mặc định, và như vậy. cơ bản trở thành 3 kịch bản kinh tế khủng
hoảng thế giới.
Hoa Kỳ là nền kinh tế mật thiết
gắn liền với vai trò của đồng đô la như là tiền tệ dự trữ. Điều này không có nghĩa
là Hoa Kỳ không thể có chức năng khác, nhưng đó là quá trình chuyển đổi sẽ phải
được dần dần để tránh lệch như vậy (và cuối cùng kết quả của điều này có lẽ sẽ
là Mỹ và EU chuyển đổi vai trò trong nền kinh tế toàn cầu). "
Trong
hậu quả của lật đổ Saddam rõ ràng Hoa Kỳ sẽ giữ và thường lực lượng quân sự lớn trong vùng Vịnh Ba Tư. Thật vậy, không có "lối ra chiến lược" ở Iraq, quân
sự sẽ là cần thiết để bảo vệ chế độ Iraq vừa cài đặt được, và có thể gửi thông
điệp đến các thành viên OPEC sản xuất để họ có thể nhận được "thay đổi chế
độ" nếu họ cũng chuyển sang euro cho xuất khẩu dầucủa họ.
"Iran đề nghị
nhận thanh toán cho doanh thu bán dầu thô cho châu Âu bằng Euro thay vì đôla Mỹ
là chủ yếu dựa trên kinh tế, và ngành công nghiệp nguồn Iran quyết định. Nhưng chính trị
vẫn còn có khả năng là một yếu tố nào, họ nói, là Iran sử dụng cơ hội để đánh
lại chính phủ Mỹ, mà gần đây đã có nhãn nó một phần của "trục ma
quỷ."
Các đề
xuất, hiện đang được xem xét bởi Ngân hàng Trung ương Iran, có khả năng được
chấp thuận nếu trình bày cho quốc gia của quốc hội, một đại diện quốc hội cho
biết. "Có một cơ hội rất tốt các nghị sĩ sẽ đồng ý với ý tưởng này ... bây
giờ đồng euro mạnh, nó là hợp lý hơn ", các đại diện nghị viện cho
biết."
Nhiều hơn, và có thể nói hầu hết, trong năm 2002 phần lớn các quỹ dự
trữ trong ngân hàng trung ương của Iran đã được chuyển sang euro. Iran
có ý định chuyển sang euro cho tiền dầu của họ. Có vẻ như sắp xảy ra rằng
"Hơn một nửa số quốc gia tài sản của người
trong dự trữ ngoại hối của Quỹ đã được chuyển đổi sang đồng euro, một thành
viên Phát triển Quốc hội Ủy ban, Mohammad Abasspour công bố. Ông lưu ý rằng cao
tương đương tỷ lệ của đồng euro so với đô la Mỹ sẽ cung cấp cho các nước châu
Á, đặc biệt xuất khẩu dầu, một cơ hội để mở ra một chương mới trong quan hệ với
các nước thành viên của Liên minh châu Âu.
Hoa Kỳ
thống trị các nước khác thông qua đồng tiền của mình, lưu ý rằng việc đưa ra ưu
thế của đồng USD so với các đồng tiền khác, Mỹ độc quyền thương mại toàn cầu. Các nhà lập pháp bày tỏ hy vọng rằng sự cạnh tranh giữa
đồng euro và đồng đô la sẽ loại bỏ sự độc quyền trong thương mại toàn cầu.
"
Thật
vậy, sau khi lật đổ Saddam, chính quyền này có thể quyết định rằng Iran
là mục tiêu tiếp theo trong "cuộc chiến chống khủng bố." Iran
quan tâm đến chuyển đổi sang đồng euro như là giao dịch tiền tệ tiêu chuẩn của
họ để xuất khẩu dầu.
Làn
sóng phản đối chiến tranh diễn ra trên toàn thế giới.
Thái độ phản đối chiến
tranh Iraq xảy ra trên toàn thế giới, cả trước và trong thời gian đầu cuộc xâm lược
Iraq năm 2003 của Hoa Kỳ.
Lý do cho sự phản đối là sự tin tưởng rằng
chiến tranh là bất hợp pháp theo Hiến chương
Liên Hợp Quốc , hoặc sẽ đóng góp cho sự bất ổn định cả hai bên trong
Iraq
và rộng hơn là khu vực Trung Đông
. Các nhà phê bình cũng đã đặt câu hỏi về tính hợp
lệ của mục tiêu được nêu của chiến tranh, chẳng hạn như một liên kết giữa chính
phủ Iraq và cuộc tấn công11 Tháng Chín, năm
2001 vào Hoa Kỳ, và việc sở hữu vũ khí hủy diệt hàng loạt, theo "chứng nhận"
của Niger
uranium đó là giấy tờ giả mạo.
thứ hai là tuyên bố của Hoa Kỳ trong thời gian trước chiến tranh, nhưng không có vũ khí như vậy được
tìm thấy.
Trong thời gian cuộc
chiến phổ biến ý kiến về chiến tranh đã thay đổi đáng kể theo thời gian. an ninh quốc
gia và quân nhân, trong đó có tướng
đã phục vụ trong chiến tranh..
Mặc dù đã có sự đối lập với ý tưởng trong những tháng trước cuộc tấn công, các
cuộc thăm dò tiến hành trong cuộc xâm lược đã chỉ ra rằng đa số công dân Mỹ ủng
hộ hành động của chính phủ. Tuy nhiên, dư luận đã
chuyển vào năm 2004 với một đa số tin rằng cuộc xâm lược là một sai lầm, và vẫn
như vậy kể từ đó. Cũng có những lời chỉ
trích quan trọng của cuộc chiến tranh từ các chính trị gia Mỹ và
Trên thế giới, chiến tranh và chiếm đóng của
Mỹ đã bị chính thức lên án của 54 quốc gia và người đứng đầu của nhiều tôn giáo
lớn.
bao gồm cả các đồng minh của Mỹ trong cuộc xung đột, các cuộc biểu tình lớn với hàng triệu người tham gia
Các kết quả thăm dò ý kiến có sẵn từ
Gallup International, cho thấy có hỗ trợ cho một cuộc chiến tranh thực hiện
"đơn phương của Mỹ và các đồng minh của họ" đã không vượt lên trên 11
phần trăm ở bất kỳ nước nào. Hỗ trợ cho một cuộc chiến tranh nếu ủy quyền
của Liên Hiệp Quốc dao động từ 13 phần trăm (Tây Ban Nha) đến 51 phần trăm (Hà
Lan).
Lý do phản đối
Những người chỉ trích cuộc xâm lược tuyên bố rằng nó sẽ dẫn đến cái chết
của hàng ngàn thường dân Iraq và binh lính cũng như Liên minh quân, và nó sẽ
làm tổn hại hơn nữa hòa bình, ổn định khắp khu vực và thế giới.
Một lý do thường được nêu ra cho phe đối lập
các chính phủ nước ngoài không bao giờ có quyền can thiệp vào các quốc gia nội
bộ của các vấn đề chủ quyền khác (bao gồm cả chủ nghĩa khủng bố hoặc bất kỳ vụ
không quốc tế khác). Giorgio
Agamben , nhà triết học người Ý, cũng đã cung cấp một phê phán logic của chiến tranh phủ đầu.
Những người khác đã chấp nhận một quyền hạn
chế sự can thiệp quân sự ở nước ngoài, nhưng vẫn phản đối cuộc xâm lược trên cơ
sở đó nó đã được thực hiện mà không cần Quốc 'Kỳ và đã được phê duyệt do đó vi
phạm luật pháp quốc
tế . Theo đó, tuân thủ điều khoản của Hoa Kỳ và các cường quốc khác
để Hiến chương LHQ và các điều ước quốc tế khác mà chúng ràng buộc pháp lý
không phải là một lựa chọn, nhưng nghĩa vụ pháp lý; thực hiện sức mạnh quân sự
vi phạm Hiến chương Liên Hợp Quốc làm suy yếu các quy định của pháp luật và là
bất hợp pháp trên quy mô quốc tế. Benjamin B.
Ferencz , người từng là trưởng Kiểm sát viên của Mỹ về tội ác chiến
tranh Đức Quốc xã tại các thử nghiệm
Nuremberg sau Thế chiến II, đã lên án cuộc chiến tranh Iraq như là một
chiến tranh xâm lược (được đặt tên tại
Nuremberg là "tội phạm quốc tế tối cao") và nói rằng niềm tin của ông
George W.
Bush , là "" khởi đầu của chiến tranh, nên đã tạo nên các
tội ác chiến tranh.
Cũng có sự hoài
nghi của Hoa Kỳ tuyên bố rằng chính phủ của Iraq có bất kỳ liên kết với Al-Qaeda
, phong trào Hồi giáo được coi là nhóm khủng bố chịu
trách nhiệm về Ngày 11 tháng 9 năm 2001 tấn công
vào Trung tâm Thương mại Thế giới và Lầu Năm Góc.
Một số tranh cãi nói rằng Hoa Kỳ
sẽ xem xét hành động quân sự chống Iraq và không chống lại Triều
Tiên, trong đó Triều tiên tuyên bố đã có vũ khí hạt nhân và đã thông báo rằng nó
đã sẵn sàng để chiêm ngưỡng chiến tranh với Hoa Kỳ. Điều này chỉ trích Bắc Triều Tiên tăng cường
khi báo cáo thực hiện một vũ khí thử nghiệm
hạt nhân vào ngày 09 Tháng Mười 2006.
Cũng có những lời
chỉ trích của Liên minh chính sách của những người không tin rằng hành động
quân sự sẽ giúp đỡ để chống khủng bố, với một số tin rằng nó thực sự sẽ giúp
các nỗ lực tuyển dụng Al-Qaeda, những người khác tin rằng chiến tranh và ngay
sau chiến tranh thời sẽ dẫn đến một gia tăng đáng kể nguy cơ mà vũ khí hủy diệt hàng loạt sẽ rơi vào tay kẻ
xấu (bao gồm cả Al-Qaeda).
Cả hai bên trong và bên ngoài Hoa Kỳ, một số cho rằng lý do chính quyền
Bush tiến hành cuộc chiến giành quyền kiểm soát nguồn tài nguyên Iraq tự
nhiên (chủ yếu là xăng dầu). Những nhà phê bình cảm thấy rằng cuộc chiến sẽ không giúp giảm
nguy cơ phổ biến vũ khí WMD, và rằng lý do thực sự cho cuộc chiến này là kiểm
soát an toàn của các mỏ dầu của Iraq vào thời điểm các liên kết Mỹ với Ả Rập
Saudi được xem là có nguy cơ. "Không đổi máu lấy dầu" là một tiếng kêu phản đối phổ biến
trước khi cuộc xâm lược tháng 3 năm 2003.
Một số người phản đối
của cuộc chiến cũng tin rằng sẽ không có vũ khí hủy diệt hàng loạt ở Iraq ,
và vì thế có rất ít lý do cho cuộc xâm lược một. Nổi bật trong số này là Scott Ritter
, một cựu tình báo quân
đội nhân viên và sau đó một thanh tra vũ khí Liên Hiệp Quốc
tại Iraq
, và người vào năm 1998 đã được đủ diều hâu đối với Iraq để được khuyên nhủ của
các Thượng nghị sĩ Joe Biden
, "Quyết định hay không nước nên đến chiến tranh là một chút ở trên lớp của
bạn trả tiền. " Điều tra sau khi cuộc xâm lược không có bằng chứng
WMDs ở Iraq
(ngoài một số lượng rất nhỏ chất hóa học xuống cấp vũ khí đạn nằm sau khi Chiến tranh
Iran-Iraq kết thúc vào năm 1988). Nói chung, tuy nhiên, rất ít đối thủ của
các cuộc xâm lược Iraq
công khai bày tỏ nghi ngờ về việc liệu các chế độ Saddam Hussein sở hữu vũ khí
hủy diệt hàng loạt.
Trong thời gian chiếm đóng, một số người phản
đối cáo buộc Tổng thống Bush thờ ơ với những đau khổ gây ra bởi cuộc xâm lược.
Phản đối tại Hoa Kỳ
Chiến tranh Iraq đã gặp
sự phản đối phổ biến đáng kể tại Hoa Kỳ, bắt đầu trong các giai đoạn lập kế hoạch
và tiếp tục thông qua việc chiếm đóng sau cuộc xâm lược của Iraq .
Những tháng dẫn đến chiến tranh đã thấy cuộc biểu tình trên khắp nước Mỹ, lớn
nhất trong số đó, tổ chức vào ngày 15 tháng 2,
năm 2003 tham gia khoảng 300.000 đến 400.000 người biểu tình ở New
York City, với số lượng nhỏ phản đối tại Seattle, San Francisco, Chicago, và
khác thành phố.
Phù hợp với tình cảm chống chiến tranh của
các cuộc biểu tình, trong những tháng dẫn tới cuộc chiến tranh Iraq ,
nhiều ý kiến công chúng Mỹ ủng hộ một giải pháp ngoại giao về can thiệp quân sự ngay
lập tức. Một
tháng một năm 2003 CBS News / New York Times bình chọn cho thấy 63% người Mỹ muốn
Tổng thống Bush để tìm một giải pháp ngoại giao cho tình hình Iraq , so với 31% người ủng hộ ngay
lập tức can thiệp quân sự. Đó là cuộc thăm dò cũng cho thấy, tuy nhiên, nếu ngoại
giao thất bại, hỗ trợ cho các hành động quân sự để lật đổ Saddam Hussein đã được
trên 60 phần trăm. [5]
Ngày trước khi cuộc xâm lược ngày 20 tháng
3, một TODAY Mỹ / CNN / Gallup Poll hàng hỗ trợ cho chiến tranh đã được liên
quan đến Liên Hợp Quốc phê duyệt. Gần sáu trong 10 nói rằng họ đã sẵn sàng cho cuộc xâm lược
như vậy "trong tuần tới hoặc hai." Nhưng có hỗ trợ giảm đi nếu sự ủng hộ của Liên Hợp Quốc đã
không đầu tiên thu được. Nếu Hội đồng Bảo an
Liên Hợp Quốc đã bác bỏ một nghị quyết mở đường cho hành động quân sự, chỉ có
54% người Mỹ ủng hộ một cuộc xâm lược của Mỹ. Và nếu chính quyền Bush đã không tìm kiếm một Hội đồng Bảo
an bỏ phiếu cuối cùng, hỗ trợ cho một cuộc chiến tranh đã giảm đến 47%.
Ngay sau khi cuộc xâm lược 2003 hầu hết các cuộc thăm dò bên trong nước Mỹ
cho thấy đại đa số người Mỹ ủng hộ chiến tranh, nhưng xu hướng đó bắt đầu thay
đổi ít hơn một năm sau khi chiến tranh bắt đầu. Bắt đầu từ tháng 12 năm
2004, các cuộc thăm dò đã liên tục chỉ ra rằng đa số cho rằng cuộc xâm lược là
một sai lầm. Đến năm 2006, ý kiến về những gì Hoa Kỳ nên làm ở Iraq
được chia, với một đa số nhỏ thường thiên về thiết lập thời gian biểu rút quân,
nhưng so với thu hồi ngay lập tức. Tuy nhiên, trong lĩnh vực này phản ứng rất khác nhau với
những từ ngữ chính xác của câu hỏi.
Kể từ khi cuộc xâm
lược Iraq, một trong những nhà lãnh đạo rõ ràng nhất của phe đối lập phổ biến ở
Mỹ đã được Cindy Sheehan
, mẹ của Casey Sheehan
, một người lính bị giết tại Iraq. Sheehan vai trò của một nhà lãnh đạo chống chiến
tranh đã bắt đầu với hiện cắm trại của mình ở gần trang trại của Tổng thống
Bush ở Crawford , Texas , và tiếp tục với một tour du lịch cả
nước và các chuyến đi đến châu Âu và Nam Mỹ.
Nhiều thành viên nổi bật của cộng đồng an ninh quân sự quốc gia, đặc biệt
là những người ủng hộ một cách tiếp cận hiện thực hơn cho quan hệ quốc tế đã truy
tố c cuộc chiến tranh.
Ngày 28 tháng bảy 2002, tám tháng trước khi
cuộc xâm lược Iraq, Washington Post báo cáo rằng "nhiều sĩ
quan quân đội cao cấp Hoa Kỳ" bao gồm các thành viên của mưu trưởng
liên quân chống lại một cuộc xâm lược trên cơ sở đó các chính sách
ngăn chặn đã được làm việc.
Một
vài ngày sau đó, tướng Joseph P.
Hoar (Ret.) cảnh báo rằng Ủy ban Đối ngoại Thượng viện rằng cuộc xâm
lược là nguy hiểm và có lẽ không cần thiết.
Morton
Halperin , một chuyên gia về chính sách đối ngoại với các Hội đồng Quan
hệ Đối ngoại và Trung tâm Tiến
bộ Mỹ cảnh báo rằng một cuộc xâm lược sẽ làm tăng mối đe dọa khủng bố.
Trong một cuốn sách năm 2002, Scott Ritter
, một thanh tra vũ khí hạt nhân ở Iraq 1991-98, lập luận chống lại cuộc xâm lược
một và bày tỏ nghi ngờ về tuyên bố của Tổng thống Bush chính mà Saddam Hussein
đã có một WMD năng lực.
Brent Scowcroft
, người đã từng là Cố vấn An ninh Quốc gia cho Tổng thống George HW Bush là một nhà phê bình sớm. Ông đã viết một ngày 15 tháng tám năm 2002 biên tập trong
The Wall
Street Journal có tựa đề "Không tấn công Saddam", biện luận
rằng cuộc chiến sẽ phân tâm từ cuộc chiến rộng lớn hơn chống lại khủng bố và
các cuộc xung đột Israel-Palestine
, cần được ưu tiên cao nhất của Mỹ trong Trung Đông. Các tháng tiếp theo, Tướng
Hugh Shelton
, cựu Chủ tịch của mưu trưởng
liên quân , đã đồng ý rằng cuộc chiến tại Iraq sẽ đánh từ chiến tranh chống khủng bố .
Ngày 13 tháng hai, 2003 Đại sứ Joseph Wilson , cựu đại biện tại Baghdad, đã từ
chức từ các dịch vụ nước ngoài và công khai nghi ngờ sự
cần thiết cho một cuộc chiến khác ở Iraq Sau khi chiến tranh bắt đầu, ông đã viết
một bài xã luận trên tờ New York Times có tựa đề Những gì tôi đã không Tìm ở
Châu Phi tuyên bố mất uy tín chính là Bush cho rằng Iraq đã cố gắng mua
uranium từ Niger.
Ngày 16 Tháng Sáu, 2004, 27 cựu ngoại giao
cao cấp Hoa Kỳ , các nhà quân sự cấp cao
ban hành một tuyên bố chống chiến tranh. Các nhóm bao gồm:
- William
J. Crowe , Chủ tịch của mưu trưởng liên quân dưới thời Tổng thống
Ronald
Reagan
- Joseph Hoar , cựu Tư lệnh lực lượng Mỹ ở
Trung Đông
- H. Allen
Holmes , cựu Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng đối với hoạt động đặc
biệt
- Donald
McHenry , cựu Đại sứ tại Liên Hiệp Quốc
- Merrill
McPeak , cựu quân mưu trưởng
- Jack F.
Matlock, Jr , một thành viên của Hội đồng An ninh Quốc gia
dưới Reagan và cựu Đại sứ cho Liên Xô
- John
Reinhardt , cựu Giám đốc Cơ quan
Thông tin Hoa Kỳ
- Ronald ,
Theo Tổng thư ký Liên Hợp Quốc cho Chính trị giao và cựu Đại sứ một
- Stansfield
Turner , cựu Giám đốc Cơ quan
Tình báo Trung ương
Donald
Rumsfeld là xử lý của chiến tranh, và kêu gọi ông từ chức. Các nhóm
bao gồm hai vị tướng chỉ huy quân đội ở Iraq: Thiếu tướng Charles H.
Swannack , Jr (Ret.) và Thiếu tướng John (Ret.).
Một trong những tướng là , Lieut. Tướng Greg Newbold (Ret.), người từng là nhân viên của
Lầu Năm Góc hàng đầu hoạt động trong những tháng dẫn đến cuộc xâm lược, cũng xuất
bản một bài báo trong tạp chí Time tháng tựa đề "Tại sao Iraq là một sai lầm."
Vào tháng Tư năm 2006, sáu vị
tướng nổi tiếng về hưu công khai chỉ trích Bộ trưởng Quốc phòng
Trong tháng mười năm 2007, Trung Tướng Ricardo
Sanchez , cựu chỉ huy lực lượng liên quân tại Iraq, gọi là năm 2007
"tăng" là một "sai lầm chiến lược", và cho rằng các lãnh đạo
chính trị tại Hoa Kỳ có thể đã được tòa án martialed cho hành động của họ, có họ
được quân nhân.
Phản đối từ người lính, Phản đối của Quốc hội
Ý kiến tại Quốc hội Mỹ dẫn tới cuộc chiến Iraq
nói chung ủng hộ một giải pháp ngoại giao, trong khi hỗ trợ quân sự can thiệp
ngoại giao bị thất bại .Quốc hội phê bình cuộc chiến tranh cũng đã
phản đối kế hoạch của Tổng thống Bush gửi thêm 20.000 lính Mỹ tới Iraq .
Phản đối từ các ứng cử viên tổng thống
Trong chiến dịch tranh cử Mỹ tổng thống năm 2008 , ứng cử
viên đại diện Ron Paul
, sau đó, Thượng nghị sĩ Barack Obama
(Tổng thống Hoa Kỳ hiện nay), Thượng nghị sĩ Chris Dodd
, Hillary Clinton , Dennis
Kucinich , và Mike Gravel
là các nhà phê bình thẳng thắn nhất của cuộc chiến tranh Iraq . Barack Obama (người đã giành chiến thắng
trong cuộc bầu cử) không phải là một thượng nghị sĩ tại thời điểm biểu quyết Nghị
quyết của Chiến tranh Iraq, nhưng đã nhiều lần lên tiếng không chấp thuận cả
trước và trong khichiến dịch tranh cử của ông, nói tại một cuộc biểu tình chống
chiến tranh ở Chicago vào ngày 02 tháng mười năm 2002. "Tôi không phản đối
cho tất cả các cuộc chiến tranh tôi là phản đối cuộc chiến tranh câm . " Ông cũng đã nói về "độ dài không xác định ... chi phí chưa xác định , những
hậu quả không xác định "mà ngay cả một cuộc chiến tranh thành công sẽ mang
lại.
Xung quanh các cuộc xâm lược Iraq năm 2003 và sau đó chiếm đóng Iraq , số liệu
cho thấy sự phản đối hành động quân sự chống lại Iraq đã được phổ biến rộng rãi
ở châu Âu.
Phản
đối trên toàn thế giới
Nhiều thành viên nổi bật của cộng đồng an ninh quân sự quốc gia, đặc biệt
là những người ủng hộ một cách tiếp cận hiện thực hơn cho quan hệ quốc tế đã truy
tố c cuộc chiến tranh.
Ngày 28 tháng bảy 2002, tám tháng trước khi
cuộc xâm lược Iraq, Washington Post báo cáo rằng "nhiều sĩ
quan quân đội cao cấp Hoa Kỳ" bao gồm các thành viên của mưu trưởng
liên quân chống lại một cuộc xâm lược trên cơ sở đó các chính sách
ngăn chặn đã được làm việc.
Một
vài ngày sau đó, tướng Joseph P.
Hoar (Ret.) cảnh báo rằng Ủy ban Đối ngoại Thượng viện rằng cuộc xâm
lược là nguy hiểm và có lẽ không cần thiết.
Morton
Halperin , một chuyên gia về chính sách đối ngoại với các Hội đồng Quan
hệ Đối ngoại và Trung tâm Tiến
bộ Mỹ cảnh báo rằng một cuộc xâm lược sẽ làm tăng mối đe dọa khủng bố.
Trong một cuốn sách năm 2002, Scott Ritter
, một thanh tra vũ khí hạt nhân ở Iraq 1991-98, lập luận chống lại cuộc xâm lược
một và bày tỏ nghi ngờ về tuyên bố của Tổng thống Bush chính mà Saddam Hussein
đã có một WMD năng lực.
Brent Scowcroft
, người đã từng là Cố vấn An ninh Quốc gia cho Tổng thống George HW Bush là một nhà phê bình sớm. Ông đã viết một ngày 15 tháng tám năm 2002 biên tập trong
The Wall
Street Journal có tựa đề "Không tấn công Saddam", biện luận
rằng cuộc chiến sẽ phân tâm từ cuộc chiến rộng lớn hơn chống lại khủng bố và
các cuộc xung đột Israel-Palestine
, cần được ưu tiên cao nhất của Mỹ trong Trung Đông. Các tháng tiếp theo, Tướng
Hugh Shelton
, cựu Chủ tịch của mưu trưởng
liên quân , đã đồng ý rằng cuộc chiến tại Iraq sẽ đánh từ chiến tranh chống khủng bố .
Ngày 13 tháng hai, 2003 Đại sứ Joseph Wilson , cựu đại biện tại Baghdad, đã từ
chức từ các dịch vụ nước ngoài và công khai nghi ngờ sự
cần thiết cho một cuộc chiến khác ở Iraq Sau khi chiến tranh bắt đầu, ông đã viết
một bài xã luận trên tờ New York Times có tựa đề Những gì tôi đã không Tìm ở
Châu Phi tuyên bố mất uy tín chính là Bush cho rằng Iraq đã cố gắng mua
uranium từ Niger.
Ngày 16 Tháng Sáu, 2004, 27 cựu ngoại giao
cao cấp Hoa Kỳ , các nhà quân sự cấp cao
ban hành một tuyên bố chống chiến tranh. Các nhóm bao gồm:
- William
J. Crowe , Chủ tịch của mưu trưởng liên quân dưới thời Tổng thống
Ronald
Reagan
- Joseph Hoar , cựu Tư lệnh lực lượng Mỹ ở
Trung Đông
- H. Allen
Holmes , cựu Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng đối với hoạt động đặc
biệt
- Donald
McHenry , cựu Đại sứ tại Liên Hiệp Quốc
- Merrill
McPeak , cựu quân mưu trưởng
- Jack F.
Matlock, Jr , một thành viên của Hội đồng An ninh Quốc gia
dưới Reagan và cựu Đại sứ cho Liên Xô
- John
Reinhardt , cựu Giám đốc Cơ quan
Thông tin Hoa Kỳ
- Ronald ,
Theo Tổng thư ký Liên Hợp Quốc cho Chính trị giao và cựu Đại sứ một
- Stansfield
Turner , cựu Giám đốc Cơ quan
Tình báo Trung ương
Donald
Rumsfeld là xử lý của chiến tranh, và kêu gọi ông từ chức. Các nhóm
bao gồm hai vị tướng chỉ huy quân đội ở Iraq: Thiếu tướng Charles H.
Swannack , Jr (Ret.) và Thiếu tướng John (Ret.).
Một trong những tướng là , Lieut. Tướng Greg Newbold (Ret.), người từng là nhân viên của
Lầu Năm Góc hàng đầu hoạt động trong những tháng dẫn đến cuộc xâm lược, cũng xuất
bản một bài báo trong tạp chí Time tháng tựa đề "Tại sao Iraq là một sai lầm."
Vào tháng Tư năm 2006, sáu vị
tướng nổi tiếng về hưu công khai chỉ trích Bộ trưởng Quốc phòng
Trong tháng mười năm 2007, Trung Tướng Ricardo Sanchez
, cựu chỉ huy lực lượng liên quân tại Iraq, gọi là năm 2007 "tăng" là
một "sai lầm chiến lược", và cho rằng các lãnh đạo chính trị tại Hoa
Kỳ có thể đã được tòa án martialed cho hành động của họ, có họ được quân nhân.
Phản đối của
tổ chức tôn giáo
Các Vatican cũng đã lên tiếng chống lại cuộc chiến
tại Iraq .
Đức Tổng Giám Mục Renato Raffaele Martino , một cựu
phái viên Liên Hợp Quốc và trưởng ban hiện hành của Hội đồng Tư pháp và Hòa
bình, nói với các phóng viên rằng cuộc chiến chống Iraq là một cuộc chiến
tranh phòng ngừa và thành lập một "cuộc chiến tranh xâm lược",
và do đó không tạo thành một cuộc chiến tranh chinh nghĩa . Cựu bộ trưởng ngoại giao, Đức Tổng Giám Mục
Jean-Louis Tauran, bày tỏ quan ngại rằng một cuộc chiến tranh ở Iraq sẽ làm
nóng tình cảm chống Kitô hữu trong thế giới Hồi giáo. Ngày 08 tháng hai 2003, Giáo hoàng
John Paul II cho biết "chúng tôi không bao giờ tự khuất phục
mình như thể chiến tranh là không thể tránh khỏi." Ông đã nói ra một lần nữa
vào ngày 22 tháng ba 2003, ngay sau khi cuộc xâm lược bắt đầu, và nói rằng bạo
lực và vũ khí mà "không bao giờ có thể giải quyết được vấn đề của con người."
Cả Đức Tổng Giám Mục đi của Canterbury, George Carey
, và người kế nhiệm ông, Rowan
Williams , đã lên tiếng chống lại cuộc chiến tranh với Iraq.
Phản
đối chiiến tranh Iraq
diễn ra trên khắp thế giới.
Trên khắp thế giới,
thái độ bất đồng đã dẫn đến hàng ngàn cuộc biểu tình kể từ năm 2002, chống lại
cuộc xâm lược Iraq .
Họ đã
được tổ chức tại nhiều thành phố trên toàn thế giới, thường xuyên phối hợp để xảy
ra đồng thời trên toàn thế giới. Sau khi các cuộc biểu
tình đồng thời, vào ngày 15 Tháng Hai năm 2003 ,số người biểu tình lớn
nhất- tổng số cử tri đi bầu, nhà
văn Patrick Tyler của tờ New York Times khẳng định rằng họ đã cho thấy rằng
có hai siêu cường trên thế giới: Hoa Kỳ và thế giới
công luận. Không những thế,hoạt động chống chiến tranh diễn
ra dưới nhiều hình thức các nhóm khác đã tổ chức buổi cầu nguyện thắp nến, sinh
viên bước ra khỏi trường học.
Các 15 tháng 2 năm 2003, cuộc biểu tình trên toàn thế giới đã thu hút
hàng triệu người trên toàn thế giới. Madrid
, 300.000 ở Berlin, cũng như ở Damascus
, Paris, New York, Oslo
, Stockholm
, Brussels
, Johannesburg
, Montreal
- hơn 600 thành phố trên toàn thế giới. Cuộc đại biểu tinh này đã được
liệt kê trong sách kỷ lục thế giới Guiness như cuộc biểu tình phong trào quần chúng lớn nhất
trong lịch sử. Nó thường được ước tính có hơn
3 triệu người đã tuần hành tại Rome, từ một đến hai triệu ở London, hơn 600.000
ở
Trong khi đó Washington tỏ thái độ không quan
tâm đến làn sóng phản đối chiến tranh Iraq ngày càng tăng từ Nga,Trung Quốc,
các đồng minh Đức, Pháp, Canada và trên toàn thế giới. Ngoại trưởng Colin
Powell đã từng tin tưởng sẽ tìm được những nước khác có cùng ý muốn tiến hành
chiến dịch quân sự lật đổ Baghdad .
"Chúng
ta không cần lo sẽ phải đến chiến trận một mình" (Powell )
Tại sao lại có làn sóng phản chiến mạnh mẽ như vậy?
Có người cho rằng Mỹ
có lý khi phát động tấn công Iraq, rằng Tổng thống Iraq Saddam là độc tài, rằng
người Nhật hoảng loạn và người Hàn Quốc lo lắng khi vấn đề hạt nhân ở Bắc Triều
Tiên chưa được giải quyết; rằng Mỹ là cảnh sát quốc tế...
Thực tế Mỹ không thể
có lý do chính đáng nào để tấn công một quốc gia có chủ quyền như Iraq .
Nếu nói rằng ông Saddam là độc tài, thì hãy để tự nhân dân Iraq đánh giá về sự độc tài đó. Tổng
thống Bush có độc tài không? Có, không những độc tài mà ông ta còn có
thái độ và cách ứng xử rất cường quyền. Cuộc chiến ở Nam Tư là một ví dụ. Mỹ có
vũ khí hủy diệt hàng loạt không? Có, không những thế mà có rất nhiều. Vậy ai là
người “giải giáp” Mỹ? Ai là người đòi ông Bush phải tỵ nạn chính trị như ông ta
từng yêu cầu ông Saddam?
Việc CHDCND Triều Tiên mới đây thừa nhận vẫn bí mật theo đuổi
các chương trình vũ khí hạt nhân và công khai thách thức Mỹ và đồng minh chính là lý do cho
chung ta thấy rõ mục đích cuộc chiến chống Iraq
của Mỹ. Tại sao Mỹ tấn công Iraq
mà không gây chiến vối Triều Tiên.
Phải chăng chính phủ Mỹ hiện nay đang phải phân tâm để lo đối
phó với cả Iraq và Bắc Triều Tiên, thế nhưngcó lẽ đây là 1 bài toán nan giải
cho Mỹ, họ buộc phải cân nhắc thực lực mỗi bên, đánh giá về nguy cơ và mức độ ảnh
hưởng của cuộc chiến… Mỹ không thể cùng 1 lúc đối đầu với cả hai nước, họ phải
chọn 1 giải pháp có lợi nhất. Mỹ chọn con đường đối thoại với Bắc Triều Tiên,
nhưng điều đó không có nghĩa là chính phủ Mỹ sẽ bỏ quên Bình Nhưỡng trong khi dồn
quân vào khu vực Trung Đông.
Người Mỹ đáng khâm phục ở nhiều khía cạnh, nhưng không vì thế mà
chúng ta đánh đồng tất cả các khái niệm. Mỹ không xứng đáng là một
cảnh sát quốc tế vì bản thân nội bộ nước Mỹ cũng vẫn còn đầy rẫy những bất
công, vì thái độ cường quyền của Mỹ đối với những nước nhỏ. Mỹ hô hào tự do
nhưng Mỹ không tôn trọng tự do của nước khác. Nói một cách chính xác, Mỹ chỉ là
một “sen đầm”. Cứ nhìn vào thái độ của Mỹ đối với cuộc xung đột Israel và Palestine
là chúng ta có thể nhận thấy rõ. Việc Mỹ
xóa sổ chế độ Taliban ở Afganistan không phải vì nhân dân Afganistan mà chỉ vì
quyền lợi của Mỹ ở khu vực này, vì sự khẳng định “sức mạnh” của Mỹ.
Như vậy, đây là
một cuộc chiến phi nghĩa và điều đó làm cho những người yêu chuộng hòa bình
trên toàn thế giới phản ứng mạnh mẽ.
Đánh giá chung
Mỹ lấy cái cớ chống khủng bố, coi Iraq là một đối tượng nguy hiểm của chủ
nghia khủng bố cần được ngăn chặn.Vì vậy,Mỹ sử dụng lực lượng quân sự phát động
cuộc tranh chớp nhoáng chống Iraq bất chấp sự phản đối của dư luận quốc tế. Điều
đó phần nào cho ta thấy Mỹ thể hiện rõ thái độ tham vọng thiết lập trật tự thế
giới đơn cực của mình nhằm đạt được mục
tiêu chiến lược ngăn chặn không cho cường quốc nào- dù là đồng minh hay đối thủ
vươn lên thách thức vai trò siêu cường của mình. Đây cũng là một ví dụ điển
hình cho chính sách đối ngoại đơn phương của Mỹ, chà đạp lên các nguyên tắc luật
pháp quốc tế, kể cả liên hợp quốc.
Rõ ràng, mục đích chống khủng bố chỉ là một cái cớ, Mỹ dùng chiêu bài
này đẻ thay thế cho ngọn cờ "chống cộng" trong thòi kỳ chiến tranh lạnh
nhằm tập hợp lực lượng liên minh, thân Mỹ, phụ thuộc vào Mỹ, thu nguồn lợi kinh
tế, tạo thế lưc chính trị, quân sự, khoa học kỹ thuật...ảnh hưởng toàn cầu. Tất
cả phục vụ mục đích hình thanh một trật tự thế giới đơn cực do Mỹ chi phối.
Tuy nhiên, chủ nghĩa đơn phương, ý đò thống trị thế giới của Mỹ đã vấp
phải sự chống đối của tất cả các quốc gia trên thế giới, từ các nươc lớn: Anh,
Pháp, Nga, Trung Quốc, Nhật Bản... đến các nước khác.Phong trào chống chiến
tranh, chống chính sách hiếu chiến của Mỹ ở Iraq đã lan rộng khắp thế giới. Với
tham vọng khẳng định mình của hầu hết các quốc gia trên thế giới và lọi ích dân
tộc đặt lên trên hết, yêu cầu thiết lập một trật tự đa cực của cộng đồng quốc tế là một tất yếu. Bởi vì nhìn từ bình diện toàn
cầu thì một quốc gia dù là siêu cường duy nhất cũng không có khẳ năng kiểm soát
toàn bộ các lĩnh nguyên toàn cầu. Điều đó khiến Mỹ không thể và không đủ khẳ
năng thiết lập một trật tự đơn cực mà không phải dựa vào hay chịu sự ràng buộc các quốc
gia và tổ chức quốc tế trong đó có liên hợp quốc.
Như thế trong những dòng chảy của thời đại, trào lưu chủ đạo vẫn là sự hợp
tác hướng tới một thế giới an ninh và phát triển. Thế nhưng rõ ràng là quá trình vừa hợp tác vừa
cạnh tranh, kiềm chế lẫn nhau.
Trật tự thế giới đa cực ngày càng được định hình rõ ràng hơn. Sự trỗi dậy
của Trung Quốc về kinh tế (đứng thứ 2-3 thế giới trong năm 2010) và sự suy yếu
của kinh tế Mỹ đã tạo ra cục diện chiến lược mới. Từ khi phát động chiến tranh
Iraq đến nay, tỉ trọng của Mỹ trong nền kinh tế thế giới từ đỉnh cao 35% năm
203 tuột xuống còn khoảng 24% hiện nay. Trong một thế giới mà kinh tế thị trường
chiếm thế thượng phong, quyền lực quốc tế dường như cũng diễn biến theo hướng
"cổ phần hóa". Trung Quốc vươn lên trở thành một thế lực thực sự trên
bàn cờ chính trị quốc tế.
Trong khi đó, nhóm BRIC (gồm Brazil , Nga, Ấn Độ và Trung Quốc
nay có thể thêm Nam Phi) đã khẳng định vai trò của họ trong đời sống toàn cầu
ngay trong hiện tại thay vì hai thập kỷ sau như trong dự báo của Hội đồng Tình
báo quốc gia của Mỹ (NIC). Và cả G20 cũng nổi lên lấn át vị thế của G7-G8 mới mặc
dù có Mỹ tham gia. Dẫu vẫn còn đó siêu cường Mỹ, nhưng sức mạnh của chú Sam đã
giảm vì còn phải căng mình cho hai cuộc chiến ở Iraq
và Afghanistan .
Tuy rút lực lượng chiến đấu khỏi Iraq từ ngày 19/8/2010, nhưng Mỹ vẫn
đang mang gánh nặng an ninh ở đất nước vùng Vịnh này.
Trên bình diện chính trị và an ninh quốc tế, cuộc chơi quyền lực toàn cầu
vẫn do các cường quốc cầm trịch. Cuộc cạnh tranh địa chính trị giữa các nước lớn
vẫn tiếp diễn. Những nước mới nổi lên vươn tới những vùng đất châu Phi, Mỹ
Latinh và cả châu Á để tìm kiếm nguyên, nhiên liệu phục vụ cho sự phát triển của
họ. Các nước đã hoặc có thể bị mất những vùng ảnh hưởng tìm cách trấn giữ hoặc
giành giật vì những mục tiêu năng lượng và cả mục tiêu an ninh. Nhưng các cường
quốc còn có những quan hệ "đối tác", "chiến lược", có thể
thỏa thuận, chia sẻ quyền lực mà đôi khi hy sinh cả lợi ích của các nước nhỏ có
liên quan.
Lịch sử đã nhiều lần chứng kiến chuyện đó. Vấn đề là các nước nhỏ cần phải
vươn lên, phải khôn ngoan mới khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế
trong cục diện mới. Trong bối cảnh này, đây là cơ hội và cũng là thách thức đối
với các nước đang phát triển.
Chủ nghĩa đa phương ngày càng chiếm thế chủ đạo trong đời sống quốc tế.
Liên Hiệp Quốc (LHQ) mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng tiếp tục được nhiều nước
trên thế giới tích cực tham gia Trong năm 2010, LHQ đã đạt được nhiều thành
công, từ thúc đẩy đa dạng sinh học đến hỗ trợ bầu cử ở Iraq và Afghanistan.
Cuộc chạy đua vũ trang trên phạm vi toàn cầu vẫn tiếp diễn phức tạp. Các
nước vẫn muốn giành ưu thế quân sự, mặc dù cả Mỹ và Nga đã thông qua Hiệp ước
START mới về cắt giảm tên lửa đạn đạo. Mỹ vẫn là nước dẫn đầu cuộc chạy đua vũ
trang trên thế giới, chiếm hơn một nửa tổng chi phí quân sự của toàn cầu. Ngân
sách quân sự Mỹ liên tục phá kỷ lục, năm 2010 tiêu tốn trên 600 tỉ USD! Vấn đề
hạt nhân và các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt gây tranh cãi vẫn là mối đe dọa
đối với hòa bình và an ninh quốc tế.
Cuộc chiến tại Iraq , Afghanistan
và cuộc xung đột đẫm máu ở Trung Đông, Nam Á, châu Phi… chưa chấm dứt.
Hòa bình Trung Đông vẫn là khát vọng của người Arập và người Do Thái, nhưng
trái khoáy là ở chỗ họ vẫn chưa tìm được tiếng nói chung. Lục địa Đen vẫn còn rối
ren với nhiều cuộc xung đột và hậu quả của các cuộc nội chiến…
Cuộc chiến chống khủng bố vẫn tiếp diễn với nhiều vụ đánh bom, phá hoại
kinh hoàng ở Nga, châu Âu, Mỹ, Iraq, Ấn Độ, Thái Lan, Philippines…, đặc biệt là
ở Pakistan. Chủ nghĩa cực đoan núp dưới bóng của tôn giáo, dân tộc vẫn là mối
đe dọa đối với an ninh nhiều nước...
Cục diện thế giới mới vẫn chưa ổn định và
chưa cân bằng. Chính vì vậy, những nguy cơ xung đột, cạnh tranh vẫn còn là một
đe dọa tới hòa bình và phát triển của thế giới.
7. Tương lai nào cho Iraq sau khi Mỹ rút quân?
21:21' 22/12/2011
Như vậy, sau gần 9 năm kể từ khi phát động cuộc chiến lật đổ chế độ nhà lãnh đạo Saddam Hussien, lực lượng Mỹ đã chính thức rút hoàn toàn về nước và chấm dứt chiến dịch quân sự tại Iraq. Đây là một cuộc chiến tốn kém sức người, sức của của Washington khi cao điểm, lực lượng Mỹ có gần 170.000 quân tại Iraq, đóng ở 505 căn cứ.
Trước đó, ngày 12-12-2011, tại Nhà Trắng, sau cuộc hội đàm với Thủ tướng Iraq Nouri al-Maliki, Tổng thống Mỹ Barack Obama đã tuyên bố chấm dứt cuộc chiến tranh kéo dài gần 9 năm qua tại Iraq. Sau đó ngày 14-12-2011, Tổng thống Mỹ Barack Obama đã đến thăm căn cứ quân sự Fort Bragg, Bắc Carolina (Mỹ) và có bài phát biểu chính thức thông báo về quyết định rút hết các lực lượng chiến đầu của Mỹ ra khỏi Iraq và chào đón các binh sĩ Mỹ trở về sau thời gian chiến đấu tại quốc gia Vùng Vịnh này.
Tuyên bố lạc quan của Tổng thống Mỹ Barack Obama
Trong cuộc chiến kéo dài 9 năm qua ở Iraq đã có tổng cộng 1,5 triệu binh lính Mỹ tham chiến, gần 4.500 quân nhân Mỹ thiệt mạng, 30.000 lính Mỹ bị thương, hàng trăm nghìn người dân Iraq bị chết và khoản chi phí khổng lồ “ngót nghét” 1 tỉ USD. Cuộc chiến tranh Iraq là gánh nặng quá lớn đối với nước Mỹ và là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất dẫn tới sự thâm hụt ngân sách liên bang và tăng nợ công tới mức báo động.
Trong cuộc hội đàm với Thủ tướng Iraq Nouri al-Maliki cũng như trong bài phát biểu trước các quân nhân Mỹ tại căn cứ quân sự Fort Bragg, Bắc Carolina, Tổng thống Mỹ Barack Obama đã nhận định, từ thời điểm này người dân Iraq “sẽ nắm giữ vận mệnh của đất nước”, rằng “nước Mỹ đã đem lại sự ổn định, chủ quyền, độc lập và sự tự tin cho người dân Iraq”. Tuy nhiên, không ít người trong giới phân tích chính trị quốc tế cho rằng, nhận định đó của Tổng thống Mỹ Barack Obama là quá lạc quan, khi tình hình thực tế ở Iraq lại là một bức tranh hoàn toàn khác.
Tình hình bất ổn đáng lo ngại ở Iraq
Về sự bất ổn kinh tế - xã hội, ở Iraq, do hậu quả chiến tranh, hiện có tới 2 triệu phụ nữ góa bụa và 5 triệu trẻ em mồ côi; khoảng hơn 4 triệu người Iraq di tản khỏi quê hương đất nước để lánh nạn. Chỉ tính riêng ở quốc gia Syria láng giềng đã có ít nhất 3 triệu người Iraq tới xin được tị nạn và hiện đang sống trong cảnh nghèo đói nhưng họ vẫn chưa thể quay trở về quê hương vì tình hình bất ổn. Nạn thất nghiệp ở một số tỉnh ở Iraq đạt tới 40% số người đến tuổi lao động.
Cách đây 10 đến 20 năm, Iraq là một quốc gia có nền giáo dục được xếp vào loại tốt nhất ở Trung Đông, thậm chí một số lĩnh vực đạt mức chuẩn quốc tế. Còn hiện nay 15% trẻ em Iraq không được đến trường; hạ tầng cơ sở công nghiệp, năng lượng và giao thông bị tàn phá; hệ thống y tế rối loạn. Ngay cả trong những năm chiến tranh với Iran (1980-1988), ở Iraq chưa bao giờ bị mất điện hay gặp khó khăn trong việc bảo đảm hàng hóa và dịch vụ thiết yếu; không có tội phạm hoành hành và không có khủng bố; mỗi một đồng tiền đina của Iraq có thể đổi được 3 USD. Hiện giờ, sau 9 năm được "giải phóng", tại nhiều địa phương của Iraq không có điện hoặc thường xuyên bị cắt điện trong ngày; hàng hóa tiêu dùng thiết yếu khan hiếm, 1.250 đina của Iraq mới đổi được 1 đồng USD. Xét về mức độ tham nhũng trong các cơ quan nhà nước, Iraq được xếp đầu bảng trên thế giới.
Về sự bẩt ổn an ninh, theo tin của nhiều phương tiện thông tin đại chúng của Iraq cũng như thế giới, ở Iraq hằng ngày vẫn diễn ra hoạt động quân sự dưới dạng khủng bố và chống khủng bố, khiến mỗi ngày có tới 250 người thiệt mạng, mặc dù hiện nay Iraq đã xây dựng được một đội quân lớn cùng với lực lượng cảnh sát đông tới gần 900 nghìn người.
Trên thực tế, ở Iraq, chiến tranh vẫn tiếp diễn giữa các lực lượng Mỹ chiếm đóng với các lực lượng chủ trương độc lập cho Iraq, chiến tranh giữa các phe phái chính trị và các nhóm sắc tộc, tôn giáo. Ở Iraq, tổ chức mafia hoành hành, nạn giết người để lấy nội tạng bán qua biên giới phát triển đến mức báo động và đang hình thành lĩnh vực kinh doanh tội phạm.
Về nền “độc lập” của Iraq, trong điều kiện hiện nay, quốc gia này chưa thể coi là một quốc gia độc lập vì trên toàn bộ lãnh thổ Iraq vẫn còn trên 500 căn cứ quân sự và các ổ đề kháng của quân Mỹ. Từ đây, Mỹ đã từng tiến hành kiểm soát Iraq. Do đó, tuy Mỹ tuyên bố rút các lực lượng chiến đấu ra khỏi Iraq nhưng điều đó không có ý nghĩa là hoạt động quân sự chấm dứt, chí ít với 3 lý do.
Một là , một bộ phận lớn lực lượng quân sự của Mỹ trên danh nghĩa là “rút khỏi Iraq” nhưng trên thực tế là được điều động sang các nước láng giềng của Iraq, trước hết là Kuwait và Saudi Arabia. Từ những quốc gia đó, khi có lệnh chỉ trong vòng nửa giờ, các đơn vị đó của Mỹ đã có thể có mặt tại Iraq.
Hai là, vai trò của lực lượng chiếm đóng Mỹ trước đây được chuyển giao cho các công ty quân sự tư nhân, trong đó điển hình nhất và lớn nhất là công ty “Black Water”. Các lực lượng quân sự đánh thuê tư nhân đã từng gây ra hàng nghìn cuộc tàn sát dã man trên lãnh thổ Iraq để thực hiện nhiệm vụ mờ ám nhất. Mỹ không sử dụng các lực lượng quân sự chính quy để thực hiện các nhiệm vụ đó để tránh tai tiếng của dư luận.
Ba là, số nhân viên dân sự của Mỹ ở Iraq vẫn rất lớn. Theo con số chính thức, chỉ tính riêng nhân viên Đại sứ quán của Mỹ tại Iraq đã vào khoảng 20.000 người nhưng thực tế là khoảng 60.000 người. Con số này vượt quá nhu cầu nhân lực thực tế của bất kỳ Đại sứ quán Mỹ nào ở nước ngoài. Thêm nữa, tại 15 thành phố lớn của Iraq còn mở đại diện của các công ty Mỹ đang phát triển kinh doanh tại đây. Do đó, giới phân tích cho rằng, Mỹ đã “dân sự hóa” cuộc chiến tranh Iraq.
Một trong những mục tiêu của Mỹ trong chiến dịch quân sự ở Iraq không chỉ là loại bỏ chế độ cầm quyền của Saddam Hussein mà còn là loại bỏ một nhà nước Iraq thống nhất, có thể đóng vai trò lãnh đạo trong khu vực và đi ngược lại lợi ích của Mỹ. Vì thế, trong bộ máy quyền lực của Iraq có hơn một nửa số nghị viện của Quốc hội là những người nhận được “trợ cấp” của Mỹ. Do đó, trong Quốc hội Iraq chỉ có một số rất ít nghị viện có thái độ phản đối Mỹ và chủ trương xây dựng một đất nước Iraq độc lập và thống nhất.
Biểu hiện rõ nhất về nền “độc lập” của Iraq là cuộc bỏ phiếu tại Liên đoàn các nước Arab về vấn đề Syria. Trong lần bỏ phiếu đầu, đại diện của Iraq phản đối nghị quyết trừng phạt Syria vì họ lo sợ tình hình Syria bất ổn sẽ đẩy hàng triệu người dân Iraq đang tị nạn tràn về nước. Nhưng sau khi Thủ tướng Iraq được mời sang Mỹ để “tham vấn” thì trong lần bỏ phiếu sau, Iraq đã không còn phản đối nghị quyết trừng phạt Syria. Đây là dấu hiệu về sự “độc lập” của Iraq.
Thay vì Đảng BASS của cựu Tổng thống Saddam Hussein bị tuyên bố đứng ngoài vòng pháp luật, ở Iraq hiện nay hình thành khoảng 700 tổ chức chính trị và các nhóm phe phái bị chia rẽ về tư tưởng và tôn giáo và đi theo các chủ trương phát triển đất nước theo những định hướng khác nhau. Các tổ chức tôn giáo ở Iraq hiện nay không chỉ phát triển mạnh mà còn mang tính cực đoan. Dưới chế độ cầm quyền của Iraq trước đây, các sắc tộc và tôn giáo sống tương đối hòa thuận với nhau, còn hiện nay, họ đang chống đối nhau bằng các hoạt động phá hoại, giết người và các hình thức bạo lực khác. Ở Iraq các lực lượng cực đoan sẵn sàng tiêu diệt bất kể ai không đi theo quan điểm của họ. Ngoài ra, người Curd đang lợi dụng tình hình chia rẽ ở Iraq để đưa ra yêu sách đòi thành lập chính phủ riêng với lực lượng an ninh riêng và có mối quan hệ chính trị - kinh tế quốc tế độc lập.
Về xây dựng quân đội, nếu cách đây 20 năm, đội quân đông tới hàng triệu người của Iraq được trang bị chủ yếu là vũ khí của Liên Xô (85%) thì hiện nay các lực lượng vũ trang Iraq vào khoảng 300 nghìn người được trang bị vũ khí chủ yếu của Mỹ như xe tăng “Abrams”, máy bay chiến đấu F16 và nhiều loại vũ khí khác. Từ đó, quân đội Iraq phải cần tới các dịch vụ huấn luyện của Mỹ với chi phí không nhỏ.
Cuộc chiến vẫn tiếp diễn
Theo nhận xét của giới phân tích, việc Mỹ rút quân khỏi Iraq nằm trong chiến lược bố trí lại lực lượng trên phạm vi khu vực và toàn cầu, đồng thời thay đổi chiến thuật hoạt động, còn trên thực tế chiến tranh vẫn tiếp diễn theo một kịch bản không kém phần tồi tệ là tạo ra trạng thái “hỗn loạn có điều khiển”.
Liên quan tới tình hình này, tờ “Gurdian” của Anh, đăng bài viết nhận định: “Việc Mỹ rút quân khỏi Iraq chưa phải là chấm hết xung đột mà đúng hơn là sự mở đầu một giai đoạn mới của một cuộc chiến tranh ngầm. Khi Tổng thống Mỹ G.W.Bush và Thủ tướng Anh Tony Blair đưa ra luận cứ để tiến hành cuộc chiến tranh Iraq, họ đã che dấu sự thật, đôi khi còn lừa gạt dư luận. Đánh mất niềm tin của xã hội, họ đã gây thiệt hại không thể bù đắp được cho nền dân chủ phương Tây mà hậu quả đến nay vẫn chưa thể khắc phục. Ngoài ra, không ai chịu công nhận sai lầm, cũng không ai đưa ra lời xin lỗi. Đây lại thêm một lý do nữa giải thích vì sao cuộc chiến ở Iraq vẫn chưa kết thúc và có lẽ đối với thế hệ hiện nay nó sẽ không bao giờ kết thúc”.
Còn theo nhà nghiên cứu chính trị, lịch sử và kinh tế Mỹ F. William Engdahl, tác giả cuốn sách mang tựa đề “Chiến lược giành ưu thế toàn diện hay là nền dân chủ bá quyền trong trật tự thế giới mới” (“Full Spectrum Dominance: Totalitarian Democracy in the New World Order”, Nhà xuất bản Wiesbaden, Cộng hòa Liên bang Đức, năm 2009), với các tư liệu và luận cứ được trích dẫn từ các văn kiện chính thức của Nhà Trắng, Lầu Năm góc, Bộ Ngoại giao và nhiều cơ quan, tổ chức của Mỹ chứng minh rằng, cuộc chiến tranh Iraq nằm trong kế hoạch đầy tham vọng là giành ưu thế toàn diện để sẵn sàng tiến hành các cuộc chiến tranh không ngừng nghỉ nhằm giành giật tài nguyên trong suốt cả thế kỷ XXI./.
Trước đó, ngày 12-12-2011, tại Nhà Trắng, sau cuộc hội đàm với Thủ tướng Iraq Nouri al-Maliki, Tổng thống Mỹ Barack Obama đã tuyên bố chấm dứt cuộc chiến tranh kéo dài gần 9 năm qua tại Iraq. Sau đó ngày 14-12-2011, Tổng thống Mỹ Barack Obama đã đến thăm căn cứ quân sự Fort Bragg, Bắc Carolina (Mỹ) và có bài phát biểu chính thức thông báo về quyết định rút hết các lực lượng chiến đầu của Mỹ ra khỏi Iraq và chào đón các binh sĩ Mỹ trở về sau thời gian chiến đấu tại quốc gia Vùng Vịnh này.
Tuyên bố lạc quan của Tổng thống Mỹ Barack Obama
Trong cuộc chiến kéo dài 9 năm qua ở Iraq đã có tổng cộng 1,5 triệu binh lính Mỹ tham chiến, gần 4.500 quân nhân Mỹ thiệt mạng, 30.000 lính Mỹ bị thương, hàng trăm nghìn người dân Iraq bị chết và khoản chi phí khổng lồ “ngót nghét” 1 tỉ USD. Cuộc chiến tranh Iraq là gánh nặng quá lớn đối với nước Mỹ và là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất dẫn tới sự thâm hụt ngân sách liên bang và tăng nợ công tới mức báo động.
Trong cuộc hội đàm với Thủ tướng Iraq Nouri al-Maliki cũng như trong bài phát biểu trước các quân nhân Mỹ tại căn cứ quân sự Fort Bragg, Bắc Carolina, Tổng thống Mỹ Barack Obama đã nhận định, từ thời điểm này người dân Iraq “sẽ nắm giữ vận mệnh của đất nước”, rằng “nước Mỹ đã đem lại sự ổn định, chủ quyền, độc lập và sự tự tin cho người dân Iraq”. Tuy nhiên, không ít người trong giới phân tích chính trị quốc tế cho rằng, nhận định đó của Tổng thống Mỹ Barack Obama là quá lạc quan, khi tình hình thực tế ở Iraq lại là một bức tranh hoàn toàn khác.
Tình hình bất ổn đáng lo ngại ở Iraq
Về sự bất ổn kinh tế - xã hội, ở Iraq, do hậu quả chiến tranh, hiện có tới 2 triệu phụ nữ góa bụa và 5 triệu trẻ em mồ côi; khoảng hơn 4 triệu người Iraq di tản khỏi quê hương đất nước để lánh nạn. Chỉ tính riêng ở quốc gia Syria láng giềng đã có ít nhất 3 triệu người Iraq tới xin được tị nạn và hiện đang sống trong cảnh nghèo đói nhưng họ vẫn chưa thể quay trở về quê hương vì tình hình bất ổn. Nạn thất nghiệp ở một số tỉnh ở Iraq đạt tới 40% số người đến tuổi lao động.
Cách đây 10 đến 20 năm, Iraq là một quốc gia có nền giáo dục được xếp vào loại tốt nhất ở Trung Đông, thậm chí một số lĩnh vực đạt mức chuẩn quốc tế. Còn hiện nay 15% trẻ em Iraq không được đến trường; hạ tầng cơ sở công nghiệp, năng lượng và giao thông bị tàn phá; hệ thống y tế rối loạn. Ngay cả trong những năm chiến tranh với Iran (1980-1988), ở Iraq chưa bao giờ bị mất điện hay gặp khó khăn trong việc bảo đảm hàng hóa và dịch vụ thiết yếu; không có tội phạm hoành hành và không có khủng bố; mỗi một đồng tiền đina của Iraq có thể đổi được 3 USD. Hiện giờ, sau 9 năm được "giải phóng", tại nhiều địa phương của Iraq không có điện hoặc thường xuyên bị cắt điện trong ngày; hàng hóa tiêu dùng thiết yếu khan hiếm, 1.250 đina của Iraq mới đổi được 1 đồng USD. Xét về mức độ tham nhũng trong các cơ quan nhà nước, Iraq được xếp đầu bảng trên thế giới.
Về sự bẩt ổn an ninh, theo tin của nhiều phương tiện thông tin đại chúng của Iraq cũng như thế giới, ở Iraq hằng ngày vẫn diễn ra hoạt động quân sự dưới dạng khủng bố và chống khủng bố, khiến mỗi ngày có tới 250 người thiệt mạng, mặc dù hiện nay Iraq đã xây dựng được một đội quân lớn cùng với lực lượng cảnh sát đông tới gần 900 nghìn người.
Trên thực tế, ở Iraq, chiến tranh vẫn tiếp diễn giữa các lực lượng Mỹ chiếm đóng với các lực lượng chủ trương độc lập cho Iraq, chiến tranh giữa các phe phái chính trị và các nhóm sắc tộc, tôn giáo. Ở Iraq, tổ chức mafia hoành hành, nạn giết người để lấy nội tạng bán qua biên giới phát triển đến mức báo động và đang hình thành lĩnh vực kinh doanh tội phạm.
Về nền “độc lập” của Iraq, trong điều kiện hiện nay, quốc gia này chưa thể coi là một quốc gia độc lập vì trên toàn bộ lãnh thổ Iraq vẫn còn trên 500 căn cứ quân sự và các ổ đề kháng của quân Mỹ. Từ đây, Mỹ đã từng tiến hành kiểm soát Iraq. Do đó, tuy Mỹ tuyên bố rút các lực lượng chiến đấu ra khỏi Iraq nhưng điều đó không có ý nghĩa là hoạt động quân sự chấm dứt, chí ít với 3 lý do.
Một là , một bộ phận lớn lực lượng quân sự của Mỹ trên danh nghĩa là “rút khỏi Iraq” nhưng trên thực tế là được điều động sang các nước láng giềng của Iraq, trước hết là Kuwait và Saudi Arabia. Từ những quốc gia đó, khi có lệnh chỉ trong vòng nửa giờ, các đơn vị đó của Mỹ đã có thể có mặt tại Iraq.
Hai là, vai trò của lực lượng chiếm đóng Mỹ trước đây được chuyển giao cho các công ty quân sự tư nhân, trong đó điển hình nhất và lớn nhất là công ty “Black Water”. Các lực lượng quân sự đánh thuê tư nhân đã từng gây ra hàng nghìn cuộc tàn sát dã man trên lãnh thổ Iraq để thực hiện nhiệm vụ mờ ám nhất. Mỹ không sử dụng các lực lượng quân sự chính quy để thực hiện các nhiệm vụ đó để tránh tai tiếng của dư luận.
Ba là, số nhân viên dân sự của Mỹ ở Iraq vẫn rất lớn. Theo con số chính thức, chỉ tính riêng nhân viên Đại sứ quán của Mỹ tại Iraq đã vào khoảng 20.000 người nhưng thực tế là khoảng 60.000 người. Con số này vượt quá nhu cầu nhân lực thực tế của bất kỳ Đại sứ quán Mỹ nào ở nước ngoài. Thêm nữa, tại 15 thành phố lớn của Iraq còn mở đại diện của các công ty Mỹ đang phát triển kinh doanh tại đây. Do đó, giới phân tích cho rằng, Mỹ đã “dân sự hóa” cuộc chiến tranh Iraq.
Một trong những mục tiêu của Mỹ trong chiến dịch quân sự ở Iraq không chỉ là loại bỏ chế độ cầm quyền của Saddam Hussein mà còn là loại bỏ một nhà nước Iraq thống nhất, có thể đóng vai trò lãnh đạo trong khu vực và đi ngược lại lợi ích của Mỹ. Vì thế, trong bộ máy quyền lực của Iraq có hơn một nửa số nghị viện của Quốc hội là những người nhận được “trợ cấp” của Mỹ. Do đó, trong Quốc hội Iraq chỉ có một số rất ít nghị viện có thái độ phản đối Mỹ và chủ trương xây dựng một đất nước Iraq độc lập và thống nhất.
Biểu hiện rõ nhất về nền “độc lập” của Iraq là cuộc bỏ phiếu tại Liên đoàn các nước Arab về vấn đề Syria. Trong lần bỏ phiếu đầu, đại diện của Iraq phản đối nghị quyết trừng phạt Syria vì họ lo sợ tình hình Syria bất ổn sẽ đẩy hàng triệu người dân Iraq đang tị nạn tràn về nước. Nhưng sau khi Thủ tướng Iraq được mời sang Mỹ để “tham vấn” thì trong lần bỏ phiếu sau, Iraq đã không còn phản đối nghị quyết trừng phạt Syria. Đây là dấu hiệu về sự “độc lập” của Iraq.
Thay vì Đảng BASS của cựu Tổng thống Saddam Hussein bị tuyên bố đứng ngoài vòng pháp luật, ở Iraq hiện nay hình thành khoảng 700 tổ chức chính trị và các nhóm phe phái bị chia rẽ về tư tưởng và tôn giáo và đi theo các chủ trương phát triển đất nước theo những định hướng khác nhau. Các tổ chức tôn giáo ở Iraq hiện nay không chỉ phát triển mạnh mà còn mang tính cực đoan. Dưới chế độ cầm quyền của Iraq trước đây, các sắc tộc và tôn giáo sống tương đối hòa thuận với nhau, còn hiện nay, họ đang chống đối nhau bằng các hoạt động phá hoại, giết người và các hình thức bạo lực khác. Ở Iraq các lực lượng cực đoan sẵn sàng tiêu diệt bất kể ai không đi theo quan điểm của họ. Ngoài ra, người Curd đang lợi dụng tình hình chia rẽ ở Iraq để đưa ra yêu sách đòi thành lập chính phủ riêng với lực lượng an ninh riêng và có mối quan hệ chính trị - kinh tế quốc tế độc lập.
Về xây dựng quân đội, nếu cách đây 20 năm, đội quân đông tới hàng triệu người của Iraq được trang bị chủ yếu là vũ khí của Liên Xô (85%) thì hiện nay các lực lượng vũ trang Iraq vào khoảng 300 nghìn người được trang bị vũ khí chủ yếu của Mỹ như xe tăng “Abrams”, máy bay chiến đấu F16 và nhiều loại vũ khí khác. Từ đó, quân đội Iraq phải cần tới các dịch vụ huấn luyện của Mỹ với chi phí không nhỏ.
Cuộc chiến vẫn tiếp diễn
Theo nhận xét của giới phân tích, việc Mỹ rút quân khỏi Iraq nằm trong chiến lược bố trí lại lực lượng trên phạm vi khu vực và toàn cầu, đồng thời thay đổi chiến thuật hoạt động, còn trên thực tế chiến tranh vẫn tiếp diễn theo một kịch bản không kém phần tồi tệ là tạo ra trạng thái “hỗn loạn có điều khiển”.
Liên quan tới tình hình này, tờ “Gurdian” của Anh, đăng bài viết nhận định: “Việc Mỹ rút quân khỏi Iraq chưa phải là chấm hết xung đột mà đúng hơn là sự mở đầu một giai đoạn mới của một cuộc chiến tranh ngầm. Khi Tổng thống Mỹ G.W.Bush và Thủ tướng Anh Tony Blair đưa ra luận cứ để tiến hành cuộc chiến tranh Iraq, họ đã che dấu sự thật, đôi khi còn lừa gạt dư luận. Đánh mất niềm tin của xã hội, họ đã gây thiệt hại không thể bù đắp được cho nền dân chủ phương Tây mà hậu quả đến nay vẫn chưa thể khắc phục. Ngoài ra, không ai chịu công nhận sai lầm, cũng không ai đưa ra lời xin lỗi. Đây lại thêm một lý do nữa giải thích vì sao cuộc chiến ở Iraq vẫn chưa kết thúc và có lẽ đối với thế hệ hiện nay nó sẽ không bao giờ kết thúc”.
Còn theo nhà nghiên cứu chính trị, lịch sử và kinh tế Mỹ F. William Engdahl, tác giả cuốn sách mang tựa đề “Chiến lược giành ưu thế toàn diện hay là nền dân chủ bá quyền trong trật tự thế giới mới” (“Full Spectrum Dominance: Totalitarian Democracy in the New World Order”, Nhà xuất bản Wiesbaden, Cộng hòa Liên bang Đức, năm 2009), với các tư liệu và luận cứ được trích dẫn từ các văn kiện chính thức của Nhà Trắng, Lầu Năm góc, Bộ Ngoại giao và nhiều cơ quan, tổ chức của Mỹ chứng minh rằng, cuộc chiến tranh Iraq nằm trong kế hoạch đầy tham vọng là giành ưu thế toàn diện để sẵn sàng tiến hành các cuộc chiến tranh không ngừng nghỉ nhằm giành giật tài nguyên trong suốt cả thế kỷ XXI./.
8. Chiến tranh Iraq - nỗi đau dai dẳng của nước Mỹ
|
(TinMoi) – Mọi thứ dường như đã khác so với những năm trước đây khi Mỹ kỷ niệm 6 năm ngày nước này chính thức khơi mào cuộc chiến tranh ở Iraq (19/3/2003-19/3/2009).
Với một thời gian biểu rõ ràng về kế hoạch rút quân Mỹ ra khỏi Iraq và chuyển trọng tâm sang chiến trường Afghanistan cùng với việc nềnkinh tế Mỹ đang ngập chìm trong cuộc khủng hoảng trầm trọng, lúc này người ta ít chú ý hơn đến cuộc chiến ở Iraq. Tuy nhiên, những ảnh hưởng của cuộc chiến tranh này trên mọi lĩnh vực của đời sống nước Mỹ sẽ không vì thế mà suy giảm, ngược lại nó sẽ tồn tại dai dẳng trong một thời gian dài.
Sự quan tâm của dân chúng Mỹ đối với cuộc chiến Iraq nhạt dần
Rất dễ nhận thấy rằng sự quan tâm của công chúng Mỹ đối với cuộc chiến tranh ở Iraq đã ngày một sụt giảm đi trong những năm gần đây.
Cuộc khủng hoảng kinh tế ngày một trầm trọng ở nước Mỹ được xem là nguyên nhân hàng đầu và quan trọng nhất dẫn tới việc công chúng Mỹ không còn hướng sự quan tâm vào cuộc chiến ở Iraq nữa. Lúc này, mối quan tâm lớn nhất của họ chính là vấn đề kinh tế.
Theo các cuộc thăm dò dư luận được tiến hành trong thời kỳ diễn ra cuộc bầu cử tổng thống hồi tháng 11 năm ngoái, 62% dân chúng Mỹ được hỏi đã chọn kinh tế là vấn đề họ quan tâm hàng đầu, trong khi chỉ có 10% chọn cuộc chiến Iraq.
Thứ hai, tình hình an ninh được cải thiện ở Iraq cùng với việc Tổng thống Obama đưa ra một lịch trình rút quân cụ thể hồi tháng trước đã giúp dân chúng Mỹ phần nào an tâm về vấn đề Iraq. Kết quả của một cuộc trưng cầu dân ý do Gallup tiến hành gần đây nhất cho thấy, 62% người Mỹ tin rằng họ “có thể chiến thắng” trong cuộc chiến ở Iraq và 42% cảm thấy rằng họ “sẽ chiến thắng”. Đây được xem là quan điểm lạc quan nhất về cuộc chiến tranh ở Iraq kể từ năm 2006.
Lý do cuối cùng là chính quyền Bush, kẻ đã phát động ra cuộc chiến tranh này cách đây 6 năm, không còn cầm quyền vì thế các nhóm chống chiến tranh không còn nhiều lý do để tiến hành những cuộc biểu tình lớn.
Nỗi đau dai dẳng
Với một thời gian biểu rõ ràng về kế hoạch rút quân Mỹ ra khỏi Iraq và chuyển trọng tâm sang chiến trường Afghanistan cùng với việc nềnkinh tế Mỹ đang ngập chìm trong cuộc khủng hoảng trầm trọng, lúc này người ta ít chú ý hơn đến cuộc chiến ở Iraq. Tuy nhiên, những ảnh hưởng của cuộc chiến tranh này trên mọi lĩnh vực của đời sống nước Mỹ sẽ không vì thế mà suy giảm, ngược lại nó sẽ tồn tại dai dẳng trong một thời gian dài.
Sự quan tâm của dân chúng Mỹ đối với cuộc chiến Iraq nhạt dần
Rất dễ nhận thấy rằng sự quan tâm của công chúng Mỹ đối với cuộc chiến tranh ở Iraq đã ngày một sụt giảm đi trong những năm gần đây.
Cuộc khủng hoảng kinh tế ngày một trầm trọng ở nước Mỹ được xem là nguyên nhân hàng đầu và quan trọng nhất dẫn tới việc công chúng Mỹ không còn hướng sự quan tâm vào cuộc chiến ở Iraq nữa. Lúc này, mối quan tâm lớn nhất của họ chính là vấn đề kinh tế.
Theo các cuộc thăm dò dư luận được tiến hành trong thời kỳ diễn ra cuộc bầu cử tổng thống hồi tháng 11 năm ngoái, 62% dân chúng Mỹ được hỏi đã chọn kinh tế là vấn đề họ quan tâm hàng đầu, trong khi chỉ có 10% chọn cuộc chiến Iraq.
Thứ hai, tình hình an ninh được cải thiện ở Iraq cùng với việc Tổng thống Obama đưa ra một lịch trình rút quân cụ thể hồi tháng trước đã giúp dân chúng Mỹ phần nào an tâm về vấn đề Iraq. Kết quả của một cuộc trưng cầu dân ý do Gallup tiến hành gần đây nhất cho thấy, 62% người Mỹ tin rằng họ “có thể chiến thắng” trong cuộc chiến ở Iraq và 42% cảm thấy rằng họ “sẽ chiến thắng”. Đây được xem là quan điểm lạc quan nhất về cuộc chiến tranh ở Iraq kể từ năm 2006.
Lý do cuối cùng là chính quyền Bush, kẻ đã phát động ra cuộc chiến tranh này cách đây 6 năm, không còn cầm quyền vì thế các nhóm chống chiến tranh không còn nhiều lý do để tiến hành những cuộc biểu tình lớn.
Nỗi đau dai dẳng
Một vài con số ấn tượng về cuộc chiến Iraq:
- Số binh lính Mỹ có mặt tại chiến trường Iraq đông nhất là vào tháng 10/2007 với 166.000 quân - Số nước tham gia vào cuộc chiến ở Iraq là 31 khi cuộc chiến bắt đầu năm 2003, hiện chỉ còn binh lính của 4 nước: Mỹ, Anh, Australia và Rumani, còn có mặt tại chiến trường Iraq. - Tính đến ngày 17/3/2009, ít nhất 4.259 lính Mỹ và 307 lính thuộc lực lượng liên quân đã thiệt mạng tại Iraq; và có ít nhất 31.102 lính bị thương tính đến ngày 28/2/2009. - Khoảng 2 triệu người Iraq đã phải dời bỏ nhà cửa đi tỵ nạn khi Mỹ bắt đầu đưa quân vào nước này. Hơn 91.120 người Iraq đã thiệt mạng kể từ đó. |
Theo Văn phòng ngân sách Quốc hội, tính đến hết 30/9 năm nay, chính phủ Mỹ đã chi 700 tỉ USD cho cuộc chiến ở Iraq. Nếu tính cả nguồn ngân sách mà chính quyền Obama đề nghị cho năm tài khóa 2010 bắt đầu từ 1/10 tới, thì cái giá của cuộc chiến tranh này đã lên 800 tỉ USD.
Theo tính toán của các nhà kinh tế hàng đầu thế giới, nếu tính cả chi phí bí mật cho việc thay thế vũ khí và đền bù cho các binh lính Mỹ thì cuộc chiến Iraq đã ngốn hết khoảng 2-3 nghìn tỉ USD và ảnh hưởng kinh tế của nó sẽ kéo dài hơn bản thân cuộc chiến tranh này.
Trong khi đó, mặc dù tỉ lệ thương vong của binh lính Mỹ tại chiến trường Iraq đã giảm đi sau thời kỳ tăng vọt năm 2007 thì con số đó vẫn ngày một cao lên. Hơn 4.200 binh lính Mỹ đã tử trận trong vòng 6 năm qua và con số này chắc chắn sẽ tăng lên khi mà cuộc chiến tranh này vẫn chưa kết thúc ít nhất trong vòng 18 tháng nữa theo lịch trình mà Tổng thống Obama đưa ra.
Cỗ máy chiến tranh của Mỹ sẽ không thể hồi phục với vũ khí đã hao mòn, tinh thần cũng như sức khỏe của các binh lính sa sút. Khoảng 20% các binh lính của Mỹ có vấn đề về trí não do kết quả của những cuộc chiến tranh lâu dài ở Iraq và Afghanistan.
Ngoài ra, sự chia rẽ về chính trị đối với cuộc chiến tranh sẽ không chấm dứt cho dù nó không còn là mối quan tâm hàng đầu của người dân Mỹ.
Ông Obama đã khiến một số nhân vật ủng hộ ông và cũng là những người chống chiến tranh tức giận trong cuộc tranh cử tổng thống năm 2008 khi ông không cam kết mạnh mẽ về kế hoạch rút quân Mỹ ra khỏi Iraq trong vòng 16 tháng kể từ khi nhậm chức.
Trong khi thông báo kế hoạch chiến tranh hồi tháng trước, Tổng thống đã lựa chọn lịch trình rút quân trong vòng 18 tháng nhằm giảm bớt sự chống đối của các tướng lĩnh Mỹ đối với việc rút quân nhanh chóng ra khỏi Iraq.
Quan trọng hơn, mặc dù quan điểm chung về cuộc chiến ở Iraq đã lạc quan hơn nhưng Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chru Mỹ vẫn mâu thuẫn với nhau về bản chất của cuộc chiến. Các cuộc trưng cầu dân ý cho thấy 82% thành viên Đảng Dân chủ vẫn tin rằng cuộc chiến Iraq là một sai lầm trong khi đa số người của Đảng Cộng hòa lại không nghĩ như vậy.
Theo vnmedia.vn
9. Chiến tranh Iraq và điểm yếu của Barack Obama
Cử tri có thể không đồng quan điểm với một ứng viên về nhiều vấn đề nhưng lại ủng hộ vì họ cho rằng ứng viên đó thật sự “ mạnh mẽ” hơn đối thủ của mình.
Thật là một sai lầm về mặt chính trị khi bất kỳ một ứng viên Tổng thống Hoa Kỳ nào tin rằng những cử tri đồng ý với ông Obama thì sẽ luôn luôn ủng hộ ông.
Có một điều chắc chắn: đa phần người dân Mỹ đều tin rằng việc sử dụng vũ lực để phát động cuộc chiến với Iraq là một sai lầm. Trong một cuộc trưng cầu dân ý gần đây cho thấy: ngày càng có nhiều người cho biết, những gì đang diễn ra hiện nay tại chiến trường Iraq đúng như viễn cảnh tồi tệ mà dân chúng đã hình dung ra. Chính vì thế, điểm nhấn của Obama trong đợt tranh cử lần này chính là về những sai lầm đã qua trong cuộc chiến Iraq.
Ai mạnh mẽ hơn?
Đợt tranh cử lần này chủ yếu xoáy sâu vào những định hướng tương lai của các ứng viên. Mặc dù gặp phải không ít thất bại trong quá khứ, nhưng ai sẽ là người bạn tin tưởng để gửi trọn niềm tin tiếp tục một cuộc chiến sai lầm trong những năm tới? Lincoln hay McClellan? Nixon or Mc Govern? Bush hay Kerry? McCain hay Obama?.
Về một khía cạnh nào đó, hầu hết những cuộc tranh cãi về chính sách đối ngoại, đặc biệt suốt trong thời gian một cuộc chiến tranh đang diễn ra, đều là để quyết định xem: ai là ứng viên mạnh mẽ, ai là ứng viên hèn nhát?.
Cử tri có thể không đồng ý với một ứng viên về nhiều vấn đề nhưng vẫn ủng hộ vì họ cho rằng ứng viên đó thật sự “ mạnh mẽ” hơn đối thủ của mình.
Điểm yếu của Obama?
Cho đến giờ, ông Obama vẫn chưa thật sự lưu tâm đến “thách thức” ( ai mạnh mẽ hơn?) này. Đối với cuộc chiến Iraq, ông Obama có 3 điểm đáng chú ý về chiến lược như sau:
Thứ nhất:
Ông Obama đã 2 lần bỏ phiếu chống lại việc thông qua khoản ngân sách tăng thêm cho quân Mỹ trong cuộc chiến Iraq. Đây được xem là một động thái chính trị cần thiết để giành được sự ủng hộ của phe Dân chủ ở cấp địa phương. Tuy nhiên, nếu xét ở một phạm vi lớn hơn thì chính sách này quả là một sai lầm lớn. Dù những toan tính chính trị của Obama liên quan đến vấn đề Iraq là gì đi nữa thì đây vẫn được xem là một hành động bốc đồng của một người có quan điểm cấp tiến. Do vậy, không thích hợp để trở thành một thống lĩnh quân đội.
Thứ hai:
Ông Obama ủng hộ một thời gian biểu cụ thể để rút quân chiến đấu Mỹ ra khỏi Iraq nhằm gây sức ép đối với chính quyền Iraq, buộc họ phải nhận trách nhiệm quản lý đất nước nghiêm túc hơn (Trong thực tế, theo như kế hoạch Iraq vào tháng 1 năm 2007 của Obama thì tất cả các lực lượng chiến đấu của Mỹ phải rút khỏi Iraq).
Nhưng thật sự không cân bằng nếu chỉ trích những việc mà Chính phủ của Thủ Tướng Nouri al Maliki đã làm. Dưới sự lãnh đạo của Thủ Tướng Nouri al Maliki, Chính phủ của ông đã thực hiện được 12 trong tổng số 18 điều khoản mà quốc hội Hoa Kỳ đã vạch ra. Đồng thời, chính họ cũng đã kêu gọi được sự tham gia của các chiến binh người Shiite vào trong cuộc chiến dưới sự chỉ huy của quân đội Hoa Kỳ.
Tướng chỉ huy quân đội Mỹ tại Iraq là David Petraeus trong một bài phát biểu gần đây cho biết: “ý chí thì người Iraq có thừa, nhưng cái họ thiếu chính là một người định hướng đi cho họ”. Đây cũng chính là lý do mà ông kêu gọi Quốc Hội Hoa Kỳ nên tiếp tục cuộc chiến tại Iraq đến chiến thắng cuối cùng.
Thứ ba:
Ông Obama đã hứa sẽ đích thân đàm phán với Tổng thống Iran Mahmoud Ahmadinejad về vấn đề Iran và đào tạo quân đội người Shiite. Liệu đây có phải là một động thái mang tính chiến lược qua kinh nghiệm 4 năm làm nghị sĩ của Obama mang lại và những gì mà ông đã học được từ Nixon hoặc Kissinger về cách tạo ra vẻ ngoài trông rất ngây thơ nhưng cực kỳ nguy hiểm?
Tuy nhiên, Obama , ứng viên có vẻ suy tư nhất trong 3 ứng viên, luôn thể hiện sự non kém về mặt kinh nghiệm khi đề cập tới những vấn đề chính trị như thế này. Trong một cuộc phỏng vấn gần đây, khi được hỏi về vấn đề lựa chọn người vào chức vị Phó Tổng thống (khi ông đã được bầu chính thức là Tổng thống), ông Obama trả lời: “ Tôi muốn một người nào đó biết về những điều mà tôi không phải là chuyên gia. Tôi nhận thấy: rất nhiều người cho rằng người đó phải làm một nhiệm vụ gì đó có liên quan đến quân đội để tôi có dịp thể hiện vai trò thông lĩnh của mình hơn … Thật nực cười, đây là một vấn đề luôn nằm trong chiến lược chính sách đối ngoại của tôi. Với tôi, chính sự tự tin và những hiểu biết của mình về tình hình thế giới có thể giúp tôi làm tốt hơn Thượng nghị sỹ Clinton và McCain”.
Nhưng vấn đề ở đây không phải chỉ là sự tự tin không thôi mà còn ở lòng tin của quần chúng. Những đánh giá về mặt chính trị của ông Obama chưa hẳn đã đúng. Đối với chính sách đối nội thì ông Obama chắc chắn sẽ gặp nhiều thuận lợi trong cuộc bầu cử sắp tới, bởi ở đó ông luôn thể hiện mình là một nhà hoạt động chính trị thực sự hơn là McCain.
Tuy nhiên, nếu xét về bảng đánh giá “nhà lãnh đạo mạnh mẽ” ( strong leader) thì Obama vẫn đang xếp sau McCain. Obama còn nhiều điều phải làm mới đáp ứng yêu cầu trở thành một nhà lãnh đạo, một vị thống lĩnh quân đội mạnh mẽ, quyết đoán.
Chiến tranh Iraq |
Chiến tranh Iraq và hướng giải quyết
Đối với McCain, chính bản thân ông cũng có những khó khăn riêng. Tương lai của ông cũng gắn liền với những gì đang diễn ra tại Iraq. Đây cũng là vấn đề mà các ứng viên Tổng thống Mỹ đang tập trung khai thác để giành sự ủng hộ trong chiến dịch tranh cử của mình. Mặc dù cuộc chiến tại Iraq nhằm chống lại những người Sunni cấp tiến đã thu được những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, những gì đang diễn ra tại Iraq cũng không thể nào tách rời với những hành động và thái độ của những phiến quân người Shiite được trang bị vũ khí và chỉ đạo bởi Iran – một thế lực mà Mỹ đã không thể khuất phục được trong nhiều năm nay.
Cuộc tấn công không được phối hợp tốt mà Maliki tiến hành nhằm vào phiến quân người Shiite ở Basra cho thấy rằng mặc dù tinh thần của người Iraq đang lên nhưng sức lực thì lại có hạn. Cuộc nổi dậy thất bại của phiến quân Shiite cho thấy rằng những kẻ cực đoan đã suy yếu đi rất nhiều.
Ông Fred Kagan, thuộc viện American Enterprise Hoa Kỳ, tin rằng: “Cuối cùng thì Moqtada al-Sadr cũng sẽ bị đánh bại”. “ Bằng cách truy tìm al-Sadr, thì ông Maliki đã buộc tất cả các đảng phái chính trị phải đưa ra sự lựa chọn của mình là đứng về phe nào. Do vậy, đã có không ít đảng phái chính trị nhỏ đã đứng về phía của Thủ Tướng Maliki” ông Fred Kagan cho biết thêm.
Tướng Petraeus chỉ huy quân đội Mỹ tại Iraq một lần nữa khẳng định: “ tình hình chiến sự tại Iraq đang diễn biến khó lường và có thể đảo ngược bất cứ lúc nào”.
Những tranh cãi đã vượt ra khỏi phạm vi quan điểm ban đầu mà các ứng viên đưa ra. Điều này sẽ dẫn đến một sự chuyển đổi lớn về cuộc đấu tranh giữa các thế hệ lãnh đạo. Đối với ứng viên Obama trẻ tuổi thì trọng tâm tranh cử của ông sẽ là khai thác sự ủng hộ của cử tri đối với những quan điểm của ông về những thất bại trong quá khứ. Còn đối với ông McCain lớn tuổi hơn thì luôn khẳng định về một chiến thắng về sau ở Iraq với một thái độ lạc quan, đầy trách nhiệm.
Hồng Hiệp (Theo The Financial Times)
10. Học thuyết “chiến tranh công nghệ cao” của Rumsfeld sụp đổ tại Iraq
Lính Mỹ cầu nguyện trước một đồng đội đã chết |
Lên nắm Bộ Quốc phòng Mỹ từ năm 2000, Donald Rumsfeld khẳng định: sau khi Liên Xô tan rã và chiến tranh lạnh kết thúc, trong tương lai không còn cần những đội quân đông đúc, hùng mạnh. Đổi lại, tiến bộ công nghệ sẽ củng cố sức mạnh quân đội. D. Rumsfeld buộc thuộc cấp phải viết lại các kế hoạch xâm chiếm Iraq nhiều lần cho tới khi số binh lính tác chiến thấp bằng mức ông ta mong chờ.
“Sợi chỉ đỏ” xuyên suốt trong tất cả các phát biểu của Rumsfeld trước chiến tranh Iraq tới tận ngày nay là phải giảm tới tối thiểu quân đội Mỹ tác chiến ở nước ngoài. Tháng 5-2003, sau khi Mỹ tuyên bố hoàn thành các hoạt động quân sự tại Iraq, Rumsfeld còn dự báo chẳng bao lâu tại Iraq sẽ chỉ còn 30.000 lính Mỹ (hiện nay cơ số lính Mỹ tại Iraq vẫn là 145.000).
D. Rumsfeld |
“Vận tốc quan trọng hơn chất lượng”, đó là cương lĩnh của người đứng đầu Lầu Năm Góc 71 tuổi. Khước từ học thuyết “quân đội trấn áp” (của Colin Powell, cựu binh Việt Nam và hiện là ngoại trưởng Mỹ, theo đó nước Mỹ chỉ tham chiến khi nào tin chắc vào thắng lợi với nguy cơ tối thiểu), Rumsfeld đặt cược vào những quả bom chính xác cao, sự hỗ trợ của máy tính và những “cú đánh chặt đầu” chống lại các lãnh đạo cao cấp Đảng Baath.
Trong cuộc chiến vùng Vịnh lần thứ nhất, Powell đã từng lo âu gửi tới vùng Vịnh nhiều đơn vị hơn hoạch định. Ngược lại, Rumsfeld cho rằng phải chấp nhận nguy cơ và những quyết định chớp nhoáng có thể được đưa ra ngay tại chiến trường. Quân đội Mỹ tương lai được Rumsfeld hình dung như là một xí nghiệp: uyển chuyển, năng động và phản ứng nhanh nhạy.
Nếu như trong năm 1991, trước khi đưa quân vào vùng Vịnh, người Mỹ dội bom cấp tập năm tuần lễ thì trong cuộc chiến lần thứ hai vào năm ngoái, Rumsfeld đã bẻ gãy truyền thống bằng cách đưa quân tới Baghdad cùng lúc với những quả bom đầu tiên.
Một năm sau chiến tranh, Rumsfeld đang phải đứng trước đống đổ nát của học thuyết “chiến tranh công nghệ cao”: tuy quân đội của ông ta đã lật đổ chế độ Hussein nhanh đến bất ngờ, nhưng nó hoàn toàn không được chuẩn bị cho Iraq hậu chiến. Bức tranh Iraq hiện nay thật ngán ngẩm: Rumsfeld tưởng rằng cộng đồng Shiite (bị đàn áp dưới trào tổng thống Hussein) sẽ đón quân Mỹ bằng hoa. Nhưng chính người Shiite lại nổi dậy trong khi các nhóm dân quân khác nhau bắt cóc người nước ngoài làm con tin. Số lính Mỹ ít ỏi đồn trú tại Iraq lại liên tục thương vong. Tuần qua, Rumsfeld đã phải miễn cưỡng đề cập tới khả năng tăng quân Mỹ lần thứ hai tại vùng Vịnh.
Tới nay, sở dĩ ông Rumsfeld vẫn chưa bị khiển trách nặng nề là bởi vì nước Mỹ vẫn trong tình trạng chiến tranh và việc giữ gìn sự đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ quan trọng thời chiến. Thế nhưng có vẻ như học thuyết của ông đã tới đường cùng. Ít nhất là hiện nay, khi chính những kẻ thù của Mỹ tại Iraq đang vẽ lại chiến lược chiến tranh của Rumsfeld.
TH. DANH trích lược (từ INP)
Chiến cuộc Iraq: Lời đáp cho Libya sau 20 năm?
20 năm sau Chiến tranh vùng Vịnh đầu tiên chống lại Iraq, các cuộc không kích của phương Tây vào Libya hiện tại cũng được sự ủng hộ của LHQ và các nước Ảrập, và cũng đặt ra những câu hỏi tương tự.
Libya tiếp tục bị oanh tạc đêm thứ ba
Mục tiêu thực chất của cuộc chiến Libya
Báo chí Ảrập: “Khi dầu mỏ trộn lẫn máu người Libya”
Kiềm chế Libya, Tổng thống Pháp đắc lợiChiến tranh vùng Vịnh năm 1991 (còn gọi là Chiến dịch Bão táp Sa mạc) là một cuộc xung đột giữa Iraq và liên minh gần 30 quốc gia do Mỹ dẫn đầu và được LHQ phê chuẩn để giải phóng Kuwait.
Mục tiêu thực chất của cuộc chiến Libya
Báo chí Ảrập: “Khi dầu mỏ trộn lẫn máu người Libya”
Kiềm chế Libya, Tổng thống Pháp đắc lợiChiến tranh vùng Vịnh năm 1991 (còn gọi là Chiến dịch Bão táp Sa mạc) là một cuộc xung đột giữa Iraq và liên minh gần 30 quốc gia do Mỹ dẫn đầu và được LHQ phê chuẩn để giải phóng Kuwait.
Sự kiện dẫn tới chiến tranh việc Iraq tấn công Kuwait ngày 2/8/1990, sau khi Iraq cho rằng Kuwait đã "khoan nghiêng" giếng dầu của họ vào biên giới Iraq. Hậu quả của cuộc xâm chiếm là Iraq ngay lập tức bị LHQ áp đặt trừng phạt kinh tế. Những hành động quân sự bắt đầu từ tháng 1/1991, liên quân đã buộc quân đội Iraq phải rút khỏi Kuwait.
Khói lửa ngút trời Libya Ảnh: Reuters |
Nhưng trong cuộc chiến cách đây hai thập niên, các cuộc không kích được tiếp nối bởi chiến dịch triển khai lực lượng mặt đất có sự giám sát của liên minh nhằm đảm bảo không tồn tại một lực lượng chiếm đóng.
"Quyết định đưa ra cho sứ mệnh này là thay đổi chế độ tại Libya. Chuỗi chiến lược ấy được xây dựng kể từ 1991, nhưng lần này có sự tham gia lớn hơn của châu Âu”, George Friedman thuộc Tổ chức Cố vấn an ninh Mỹ Stratfor cho biết. "Những ngày đầu sẽ rất thành công nhưng không có nghĩa chiến tranh là thành công”.
Một vấn đề lớn khi ấy cũng như bây giờ, là thay đổi chế độ.
Năm 1991, Tổng thống Mỹ George Bush đã ngừng điều lực lượng tới Baghdad để lật đổ Saddam. Sứ mệnh này phải chờ tới khi Mỹ dẫn đầu liên minh trong cuộc chiến Iraq năm 2003 dưới thời Bush con.
Tại Libya năm 2011, tình hình có lẽ “khả quan hơn” khi các nhà lãnh đạo liên minh nói rằng, họ muốn lật Kadhafi nhưng LHQ ủy nhiệm không rõ ràng cho phép hành động chống lại ông.
Tổng thống Barack Obama hôm qua (21/3) cho biết, chính sách của Mỹ là Kadhafi phải từ bỏ quyền lực, nhưng đồng thời nhấn mạnh, Washington sẽ tuân thủ sự ủy nhiệm của Nghị quyết 1973 mà Hội đồng Bảo an đưa ra về Libya.
Thủ tướng Anh David Cameron đã nhắc lại rằng, nghị quyết “không bao gồm một lực lượng chiếm đóng dưới bất kể hình thức nào trên bất kể một phần lãnh thổ nào của Libya” và không cung cấp những cơ sở pháp lý cho việc lật đổ Kadhafi bằng biện pháp quân sự.
Có điều tương đồng nữa với năm 1991 khi vùng cấm bay được thiết lập lập tức tại miền bắc Iraq sau Chiến tranh vùng Vịnh để bảo vệ cộng đồng thiểu số người Kurd khỏi sự tấn công từ lực lượng của Saddam.
Tại quốc hội Anh hôm qua, nghị sĩ Nadhim Zahani tuyên bố “có những tương đồng giữa chiến dịch hiện tại với cuộc chiến Iraq bảo vệ người Kurd”, trong khi lại phản đối việc thay đổi chế độ bởi các lực lượng phương Tây.
Bộ trưởng Quốc phòng Anh Liam Fox đã bác bỏ so sánh này và khẳng định, vùng cấm bay tại Libya không có “triển vọng” kéo dài. Và trong khi Mỹ tuyên bố không có ý định điều động lực lượng mặt đất tới Libya thì một số bộ trưởng nội các Anh đã từ chối bác bỏ khả năng triển khai lực lượng bộ binh của nước này tại quốc gia Bắc Phi. Các bộ trưởng Anh chỉ cho biết, hiện tại họ chưa có kế hoạch về vấn đề này.
Trong đêm thứ ba kể từ lúc phương Tây bắt đầu tấn công vào Libya, hỏa lực phòng không vẫn lóe sáng khắp bầu trời Tripoli nhưng hoạt động không kích dường như chậm lại, một tướng Mỹ cho biết.
Washington có thể do lo lắng sa lầy vào một cuộc chiến khác sau những chiến lịch kéo dài tại Iraq và Afghanistan, đã bác bỏ hành động cụ thể để lật đổ Gaddafi. "Cảm giác của tôi là, trừ khi xảy ra điều bất thường, chúng ta có thể thấy tần suất tấn công sụt giảm”, Tướng Carter Ham, người lãnh đạo lực lượng Mỹ trong hoạt động tại Libya nói với báo chí ở Washington.
Đài truyền hình Libya tiếp tục phát đi hình ảnh một số nơi tại Tripoli trở thành mục tiêu của những đợt tấn công mới. Đài truyền hình Al Jazeera đưa tin, hệ thống radar tại hai căn cứ phòng không ở đông Libya bị tấn công. Tuy nhiên, một phát ngôn viên lực lượng Pháp tham gia không kích ở phía đông khẳng định, không có máy bay hoạt động thời điểm này.
Mỹ và các đồng minh đang chịu nhiều chỉ trích về việc sử dụng hỏa lực mạnh mẽ tấn công Libya, trong đó có việc bắn hơn 110 tên lửa 110 Tomahawk vào hôm thứ Bảy.
Quan chức tại Tripoli cho biết, một tên lửa hôm Chủ nhật mà họ nói là nhằm giết chết Gaddafi, đã phá hủy một phần căn cứ của lãnh đạo Libya. "Đó là vụ oanh tạc khủng khiếp”, phát ngôn viên chính phủ Mussa Ibrahim, đưa ra những mảnh đạn và nói. “Nó mâu thuẫn với tuyên bố của Mỹ và phương Tây … rằng đó không phải là mục tiêu tấn công của họ”.
Thái An (Theo france24, Reuters)http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/13494/chien-cuoc-iraq--loi-dap-cho-libya-sau-20-nam-.html