Thứ Bảy, 24 tháng 3, 2012

Tư liệu về Nguyễn Trường Tộ - nhà cải cách lớn của Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX

Tư liệu về Nguyễn Trường Tộ - nhà cải cách lớn của Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX


1. Nguyễn Trường Tộ và cải cách Minh Trị

Nguyễn Trường Tộ


Nhật Bản và cải cách Minh Trị-1866
trong nhận thức của Nguyễn Trường Tộ

  
Nguyễn Tiến Dũng

Trong chuyên khảo nổi tiếng Tại sao Nhật Bản “thành công”? Công nghệ phương Tây và tính cách Nhật Bản, học giả Michio Morishima có những nhận xét độc đáo về cải cách Minh Trị: “Ở một mức độ đáng kể, tôi hiểu Cách mạng Minh Trị khác với đa số các sử gia Nhật Bản, nhưng lại giống nhiều với các sử gia phương Tây, mặc dù trọng tâm của sự luận giải có khác nhau. Ở một chừng mực nào đó, các quan điểm được chấp nhận rộng rãi ở Nhật Bản đi theo học thuyết lịch sử Mác, nhưng theo tôi, lịch sử Nhật Bản cận đại quá độc đáo nên khó có thể giải thích được một cách thích hợp bằng học thuyết Mác-xit”[1].
Với cái nhìn so sánh, PGS. TS. Nguyễn Văn Kim cũng chia sẻ thêm: “đặt trong bối cảnh lịch sử châu Á thời bấy giờ, cải cách Minh Trị, với những thành công của nó, có thể coi là một hiện tượng dị biệt, là mẫu hình tiêu biểu của phong trào cải cách châu Á những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX”[2]. Điều đó lý giải vì sao khi luận giải về cải cách Minh Trị của Nhật Bản và sự thành công của cuộc cải cách đó bên cạnh những quan điểm, vấn đề có ý kiến tương đối thống nhất đã có không ít những nhận định, đánh giá tương đối khác nhau của các thế hệ, các lớp người… về cuộc cải cách này.
Là một trí thức yêu nước, luôn trăn trở với sự nghiệp canh tân, tự cường đất nước và là người sống cùng thời điểm cuộc cải cách này diễn ra, Nguyễn Trường Tộ có những nhận thức tương đối sâu sắc, xác thực về cải cách Minh Trị trong sự liên tưởng, đối sánh với Việt Nam cũng như các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Những nhận thức và tư tưởng canh tân đó được được thể hiện rõ nét qua các di thảo của ông.

1. Cải cách Minh Trị trong bối cảnh khu vực và quốc tế nửa cuối thế kỷ XIX

Như chúng ta đã biết, sau khi các cuộc cách mạng tư sản diễn ra ở Hà Lan, Anh và nhiều nước châu Âu khác, chủ nghĩa tư bản với tư cách là một hình thái kính tế xã hội mới đã xuất hiện và bắt đầu có những tác động to lớn đến đời sống chính trị và kinh tế thế giới. Nhờ có nền sản xuất công nghiệp và việc ứng dụng thành tựu kỹ thuật tiên tiến mà năng suất lao động trong trong các nước tư bản đã tăng cao. Sau các cuộc phát kiến địa lý lớn diễn ra vào cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI, một số cường quốc châu Âu mà tiêu biểu là Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Anh, Hà Lan, Pháp… đã ra sức tìm đường đến phương Đông và nhiều vùng đất khác trên thế giới tìm kiếm thị trường, tiến hành hoạt động buôn bán và vơ vét tài nguyên thiên nhiên. Lợi nhuận thu được từ các quốc gia phương Đông trong các thế kỷ XVI-XVII đã góp phần quan trọng tạo ra nguồn tích lũy vốn nguyên thủy cho quá trình công nghiệp hóa và phát triển ban đầu của chủ nghĩa tư bản.
Trong quá trình mở rộng ảnh hưởng và bành trướng đó, đến thế kỷ XIX, các quốc gia tư bản sau một thời kỳ phát triển trong điều kiện tự do cạnh tranh đã chuyển dần sang thời kỳ đế quốc chủ nghĩa. Bằng nhiều cách và mức độ khác nhau, các dân tộc châu Á và nhiều quốc gia trên thế giới đã từng bước trở thành thuộc địa và phụ thuộc nặng nề về kinh tế, chính trị vào các nước tư bản phương Tây. Vào cuối thế kỷ XIX, trong quá trình bành trướng mạnh mẽ của chủ nghĩa thực dân, các nước tư bản Anh, Pháp, Đức, Nga, Mỹ đã dần dần nổi lên như những cường quốc trên thế giới. Theo đó, năm 1881, Pháp đã thiết lập chế độ bảo hộ ở Tunis, năm 1882, Anh chiếm Ai Cập, năm 1883, Đức bắt đầu tham gia giành đất thuộc địa ở Tây - Nam Phi. Trong các năm 1884 - 1885, Pháp và Anh tiến mạnh đến khu vực Đông Dương và Miến Điện (Myanmar) năm 1889 các nước Đức, Anh và Mỹ chiếm vương quốc Samoan và phân chia nước này thành ba vùng cộng trị[3]. Như vậy, đến giữa thập kỷ 90 của thế kỷ XIX, phần lớn khu vực Trung Đông, châu Phi, châu Á Thái Bình Dương đều lần lượt rơi vào tay các cường quốc thực dân. Ở Đông Bắc Á, cho đến giữa thế kỷ XIX, các nước như Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên cũng bắt đầu bị cơn lốc của chủ nghĩa thực dân tràn tới.
Là một quốc gia có vị trí chiến lược ở khu vực Đông Bắc Á, lại từng là một trung tâm kinh tế lớn của châu Á trong các thế kỷ XVI-XVIII, đến thế kỷ XIX, Nhật Bản trở thành đối tượng chinh phục của nhiều nước tư bản Âu - Mỹ. Từ đầu thế kỷ XIX, nhiều tàu buôn và chiến hạm của Nga, Hà Lan, Anh và Mỹ… đã đến Nhật Bản, yêu cầu chính quyền Edo từ bỏ chính sách tỏa quốc (sakoku) để mở cửa thông thương với thế giới bên ngoài[4].
Nguyễn Trường Tộ (1830[5]-1871) vốn xuất thân trong một gia đình Công giáo, nhưng là người học thông Tứ thưNgũ kinh của đạo Nho, lại có điều kiện trải nghiệm thực tế, học tập và tiếp xúc với nền văn minh của nhiều nước phương Đông và phương Tây như Hương Cảng, Singapore, Romas, Thụy Sĩ và Pháp. Chính từ vốn học vấn uyên thâm kết hợp với những trải nghiệm quý báu của bản thân, đã tạo cho ông nhãn quan sắc bén cũng như tầm nhìn sâu rộng với nhiều nhận thức vượt thời đại. Trong bối cảnh và khuynh hướng vận động chung của thế giới thời bấy giờ, Nguyễn Trường Tộ có những nhận định sâu sắc và xác thực: “Ngày nay các nước phương Tây đã bao chiếm suốt từ Tây Nam cho đến Đông Bắc, toàn lãnh thổ châu Phi cho tới Thiên Phương, Thiên Trúc, Miến Điện, Xiêm La, Tô Môn Đáp Lạp, Trảo Oa, Lữ Tống, Cao Ly, Nhật Bản, Trung Quốc và các đảo ở ngoài biển, kể cả Tây châu, không đâu là không bị chẹn họng bám lưng. Nước Nga thì từ Tây Bắc đến Đông Nam gồm tất cả các nước Đại Uyển, Cốt Lợi Cán, Mông Cổ và các xứ ở Bắc Mãn Châu, không đâu là không chiếm đất và nô dịch dân những nơi đó. Ở trên lục địa, tất cả những chỗ nào có xe thuyền đi đến, con người đi qua, mặt trời, mặt trăng soi chiếu, sương mù thấm đọng thì người Âu đều đặt chân đến, như tằm ăn cá nuốt, ở đâu thuận với họ thì phúc, chỗ nào trái với họ thì họa; ai hòa với họ thì được yên, ai cự lại thì dùng binh lực giao tranh; trong thiên hạ không ai dám kháng cự lại họ[6].
   Ông còn phân tích thêm: “Trước đây trong bài Lục Lợi từ tôi đã bẩm rằng cái kế mưu sinh của phương Tây, quá nửa do đoạt lấy từ nước ngoài… Phương pháp họ dùng để đoạt lấy, chủ yếu là ở xen lộn và thông thương buôn bán. Nếu sơ đầu mà không đạt được yêu cầu, họ sẽ không chiếm đất đai để làm chỗ bảo vệ việc thông thương buôn bán của họ. Nếu được ngay không có gì trở ngại, có thể cư ngụ yên ổn, họ không cần cưỡng bức chiếm cắt (Không phải bản tâm họ không muốn chiếm cắt, nhưng mới đầu, thế buộc phải làm như vậy). Trước tiên họ chỉ tiến hành thiết lập các phố buôn để tiện cư trú buôn bán mà thôi. Như gần đây bọn chúng đã làm ở Nhật Bản, Trung Quốc, Xiêm La vậy. Ý họ cho rằng nếu tranh chấp sớm kết oán càng sâu[7].
Như vậy, trước sự xâm nhập và bành trướng ngày càng sâu rộng, với cường độ ngày càng gia tăng của các quốc gia tư bản phương Tây, điều tất yếu là các quốc gia phương Đông phải đứng lên bảo vệ chủ quyền dân tộc và giữ gìn những nguồn tài nguyên của đất nước mình. Mỗi quốc gia phương Đông có những tiềm lực và điều kiện khác nhau, cho nên giữa họ cũng có những khuynh hướng tự vệ khác nhau. Dù đấu tranh theo hình thức nào thì cuối cùng các quốc gia phương Đông hoặc phải đứng lên đấu tranh bằng vũ trang hoặc lựa chọn con đường cải cách, duy tân tiến tới tự cường đất nước. Tuy cách thức có khác nhau nhưng cả hai con đường đó đều có mục tiêu chung là bảo vệ nền độc lập, chủ quyền dân tộc.
Là quốc gia tiêu biểu ở châu Á tiến hành thành công cải cách đất nước, giới lãnh đạo phong trào cải cách ở Nhật Bản đã có những nhận thức đúng, kịp thời và vận dụng có hiệu quả thuyết thế thời trong triết luận phương Đông vào công cuộc “phú quốc cường binh”, hơn thế họ còn vượt qua được “định mệnh” của lịch sử, bảo vệ được chủ quyền lãnh thổ, sánh vai cùng đội ngũ liệt cường thế giới. Đúng như trí sĩ Nguyễn Trường Tộ từng nhận xét về bối cảnh thế giới và hiện trạng của Nhật Bản cũng như một số quốc gia khác thời bấy giờ: “Theo phép liên hoành và cân bằng thế lực trên thế giới mà cái gương thành công thất bại gần ta nhất như nguyên do Ấn Độ mất toàn lãnh thổ, Miến Điện bỏ một nửa đất đai, Xiêm La, Nhật Bản, Trung Quốc được lợi lớn, có thể thấy được đại khái là do không biết thời thế. Không biết thời thế thì tri thức câu chấp, tâm tính hẹp hòi[8].

2. Nhận thức của Nguyễn Trường Tộ về Nhật Bản
         
Hiện nay, nghiên cứu về cải cách Minh Trị của Nhật Bản nói riêng[9]cũng như những nghiên cứu về con người Nguyễn Trường Tộ và tư tưởng canh tân đất nước của ông[10]đã thu hút nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước, nhưng nghiên cứu về đề tài Nhật Bản và cải cách Minh Trị của Nhật Bản trong nhận thức của Nguyễn Trường Tộ chưa thật sự được chú ý. Từ thực tế lịch sử cho thấy, với vốn kiến thức thực tế phong phú và tầm hiểu biết uyên thâm của mình, Nguyễn Trường Tộ có những nhìn nhận, kiến giải khá sâu sắc và có tính hệ thống về Nhật Bản trước, trong và ngay sau cải cách Minh Trị[11].
  Là người có điều kiện đi qua và tiếp xúc với nhiều nước châu Á cũng như châu Âu, điều hiển nhiên là Nguyễn Trường Tộ đã tự trang bị cho mình một tầm kiến văn phong phú, sâu sắc về thế giới. Trên cơ sở đó, ông đã đưa ra quan điểm về những khuynh hướng vận động của thời đại. Ông đã nhận định về vị thế và tình thế của Nhật Bản trong “thân phận” của nó với tư cách là quốc gia láng giềng của nước Nga: “Lại như các lớn thuộc phía Bắc nước Nhật và Mông Cổ Ngoại Minh giáp với Triều Tiên đều đã nhập hết vào bản đồ nước Nga[12]. Như vậy, trong xu thế bành trướng, xâm lược mạnh mẽ của các đế quốc châu Âu nhìn chung các dân tộc “nhỏ yếu” phương Đông đều phải gánh chịu chung một số phận. Ông cho rằng: “Ấn Độ đã thuộc Anh không phải bàn nữa. Miến Điện và Xiêm La là thân cá chậu. Còn lại nước ta và Nhật Bản coi như đô thị lớn của vùng Biển Đông, Triều Tiên bên cạnh như một cái phố nhỏ chỉ đủ cho bọn chúng điểm tâm buổi sáng, chẳng quan trọng gì. Nhật Bản tuy cứng mạnh, hung hãn, nhưng các tiểu hầu phân chiếm từng mảnh, ý chí sức lực không đều nhau, trở ngại cho việc tiếp ứng. Hơn nữa nước này bốn mặt bể bao bọc, chẳng có hàng xóm láng giềng với ai, rốt cuộc cúng khó tranh hơn với các địch thủ lớn, chuyên vẫy vùng trên biển… Hợp Chúng Quốc xưa nay đối với thế giới có tiếng là “Ông già hòa bình” nhưng nay họ phải bỏ đường lối ấy. Họ lại thấy Nga và Pháp sắp rửa áo giáp ở Thái Bình Dương thì lý nào họ lại ngồi yên để xem miếng mồi ấy lọt vào tay ai. Chắc chắn họ cũng sẽ hươi gươm vác súng vào cái chợ lớn Trung Quốc mà đánh chén với các nước phương Tây. Còn nước ta và Nhật Bản như là hai con đường lớn của hai đầu chợ ấy, chắc chắn sẽ là nơi bọn chúng buông gánh nghỉ vai. Điều đó sớm muộn sẽ xảy ra không sao tránh khỏi[13]. Như vậy, trong nhận thức của Nguyễn Trường Tộ, thế giới phương Đông rộng lớn hiện ra và có đầy sức hấp dẫn với thế giới tư bản phương Tây. Dù sớm hay muộn, các quốc gia phướng Đông đều trở thành miếng mồi béo bở để các thế lực tư bản phương Tây xâu xé, xâm chiếm. Nhật Bản là quốc gia có vị trí chiến lược quan trọng, điều tất yếu là dân tộc này cũng khó nằm ngoài âm mưu thôn tính của các nước thực dân. Trước trào lưu xâm lược của thế giới tư bản phương Tây, theo Nguyễn Trường Tộ, Nhật Bản đã lựa chọn cho mình con đường tự vệ đúng đắn và cách ứng xử khôn khéo đó là tích cực học tập phương Tây, tiến tới tự cường dân tộc.
  Trong bối cảnh quốc tế giữa thế kỷ XIX, để lựa chọn cho mình con đường đấu tranh phù hợp, điều tiên quyết là mỗi quôc gia ở châu Á phải tự nhận thức vị trí của mình trên bàn cờ chính trị khu vực cũng như điều kiện thực tế, tiềm lực vốn có của mình. Quan điểm đó gắn với năng lực tự thân, tố chất và khả năng thích ứng của chính mỗi quốc gia. Trong quá trình vận động cải cách, người Nhật đã từng bước nhận thức đúng con đường cải cách và không ngừng phát triển, hoàn thiện con đường cải cách đó theo cách thức của dân tộc mình. Theo ông, sở dĩ người Nhật có thể chuẩn bị để tiến tới một cuộc thay đổi lớn là vì những phẩm chất tự nhiên mà họ có được. Theo đó: “Trên địa cầu, có giống tốt phước, có giống vô phước. Đó là lẽ tiền định của tạo vật, nếu không xét kỹ nguồn gốc trời, đất, người, vật, không thể nào hiểu thấu và tin tưởng lẽ ấy được. Tuy nhiên, cứ xem các nước xưa nay cũng có thể hiểu biết rõ chuyện ấy có thật. Giống tốt phước ở Đông Châu (Đông bán cầu của quả đất là Đông Châu, Tây bán cầu là Tây Châu) như người phương Tây, người Ấn Độ, người Mông Cổ, người Trung Quốc, người Nhật Bản và người nước ta. Những giống dân này mỗi ngày một thịnh, mỗi thế kỷ tăng lên hai lần rưỡi[14].
    Không những vậy, trước bất kỳ một vấn đề hệ trọng mang tính bước ngoặt của mỗi quốc gia, dân tộc, điều rất quan trọng là cần có sự đồng lòng, hòa thuận từ trên xuống dưới và của quân - thần cũng như vua - tôi. Đây không chỉ là cơ sở để mỗi quốc gia vượt qua khó khăn, thử thách mà còn tạo dựng nên sự trường tồn, bền vững của mỗi dân tộc. Thực tế thì, theo Nguyễn Trường Tộ: “Mọi quyền lực hành vi trong một nước phải do vua nắm, và cùng với quốc dân chia sẻ nỗi vui buồn. Ngoài quy luật này ra đều là tội cả. Tôi xem khắp các nước trong thiên hạ, hễ nước nào có một họ được bề tôi đời đời giúp rập thì tuy có đôi khi suy vi nhưng trong nước cũng không đến nỗi có loạn lớn. Như Nhật Bản đã mấy nghìn năm, Thổ Nhĩ Kỳ đã nghìn năm, các nước phương Tây đều như thế cả, ở Nam Tây Châu cũng vậy. Sở dĩ dân ở đấy phần nhiều chỉ có loạn nhỏ mà không có loạn lớn là vì danh nghĩa đã xác lập ngôi vị ổn định, nghe thấy đã quen ít xảy ra việc đoán thoạn làm loạn[15].
          Và sự thống nhất ý chí của dân tộc Nhật Bản thể hiện rõ nét trong việc kiên tâm học tập và ứng dụng khoa học kỹ thuật của chính các quốc gia tư bản phương Tây. Điều này có nền tảng từ quan niệm thực học truyền thống của người Nhật, chúng ta thấy rằng cùng quan niệm xây dựng một hệ thống giáo dục đó là: “Trừ Trung Quốc, Nhật Bản, Cao Ly và nước ta ra không có nước nào lấy văn chương để chọn nhân tài. Đó cũng vì thơ phú không đuổi được giặc, nghìn lời không được một kế sách, cho nên thay đổi đi mà lấy những điều tạo hóa hành sự làm cái học thực dụng, vì tạo vật là bậc thầy vĩ đại của muôn dân[16]. Tuy nhiên, khi so sánh với Việt Nam, về bản chất của hệ thống giáo dục của Nhật Bản, Nguyễn Trường Tộ cũng đã nhận thấy có nhiều điểm khác biệt: “Ngày nay chúng ta, lúc nhỏ thì học văn, từ, thơ phú, lớn lên ra làm thì lại luật, lịch, binh, hình. Lúc nhỏ nào học Sơn Đông, Sơn Tây mắt chưa từng thấy, lớn lên ra làm thì đến Nam Kỳ, Bắc Kỳ. Lúc nhỏ học nào thiên văn , địa lý, chính sự, phong tục tận bên Tàu (mà nay họ đã sửa đổi khác hết rồi), lớn lên ra làm thì dùng đến địa lý, thiên văn, chính sự, phong tục của nước Nam, hoàn toàn khác hẳn. Lúc nhỏ học những lễ nhạc, cách ăn uống, cư xử chiến đấu, doanh trại từ xa xưa của Tàu, lớn lên ra làm thì phải dùng lễ nhạc, cách chiến đấu, phép ăn ở theo quan dân nước ta ngày nay. Còn biết bao nhiêu những việc tương tự như thế, mòn bút khô môi cũng không kể hết. Xưa nay các nước trên thế giới chưa từng nước nào có nền học thuật như vậy. Quả thật lạ đời! Tuy Nhật Bản, Cao Ly cũng đọc sách Tàu nhưng chỉ để làm vui (Phải đọc sách của nước họ mới biết sự thật. Nếu xem sách Nho thì bao giờ cũng thấy nói khắp thiên hạ đều học theo phép Nho của mình cả. Đó chỉ là nói để khoe tốt, không đủ tin). Còn ra thì làm theo sách của nước họ, công việc của nước họ, chưa bao giờ thấy họ học và dùng những gì mà mắt không trông thấy, chân không đặt đến như lối học của nước ta”[17]Và trước nguy cơ bị thực dân phương Tây nhòm ngó, Nhật Bản đã lựa chọn học tập kỹ nghệ của chính các nước phương Tây, đê tự cường đất nước: “Nhật Bản và Trung Quốc dần dần đã rõ cơ hội đó, nên Nhật Bản đã cho nhiều người sang các nước phương Tây du học, đồng thời để dò xét tình hình. Hiện có một hoàng tử và 35 người cùng đi với một linh mục mới đến Ba Lê (tức Paris - TG) và đã thiết lập ở đó một Đại học xã để phái người sang học[18].
    Không chỉ mời các chuyên gia nước ngoài về Nhật giảng dạy và tạo dựng cơ sở vật chất, việc cử chuyên gia sang nước ngoài học tập là hoạt động diễn ra liên tục và thường xuyên. Nhật Bản đã học tập kỹ nghệ phương Tây phong phú và trên nhiều phương diện, các di thảo của Nguyễn Trường Tộ cho biết: “Hiện nay Nhật Bản, Miến Điện cũng đã phái người đến kinh đô nước Pháp học kỹ nghệ. Đến như nước Nga ở phương Tây mà cũng cho người đến nước Anh, nước Pháp học tập. Tuy phải dụng công lâu dài, dụng công rất lớn, nhưng cũng thu hoạch được nhiều. Vì rằng muốn thành đại sự phải mất hàng trăm năm chứ đâu phải một ngày mà được. Cho nên người quân tử lo toan mọi việc chẳng những ở đời mình mà cho con cháu nữa[19]. Từ đó tác giả liên hệ: “Tôi thiết nghĩ rằng tuy là người ngoài hội, nhưng đã làm việc cho người nước ngoài nhiều như hiện nay người nước Nhật Bản cũng mời họ (tức người Pháp - TG) đến mở xưởng đóng thuyền, theo những phương pháp mới. Trung Quốc, Xiêm La, Miến Điện cũng vậy[20]; “Mỗi ngày xưởng (xưởng chế tạo súng hỏa mai ở ngoại ô Ba Lê, tức Paris ngày nay, - TG) có thể sản xuất mười vạn cây súng. Công nhân trên ba trăm (Người Nhật hiện đến mua của xưởng một trăm vạn cây súng, mua các giàn máy và thuê hai công nhân về Nhật Bản lập xưởng)[21]; “Ở đấy có một vị công tử đứng đầu hội (hội ở đây chính là xưởng đào mỏ đúc sắt – TG), y là con một ông quan lớn nhất trong Viện Thứ Dân (ông này là Viện trưởng Viện Thứ Dân, như Tể tướng). Chúng tôi đã ở nhà công tử ấy một tuần và có nói chuyện nhiều với công tử rằng nước ta vốn muốn cộng tác với nước Pháp để được thịnh lợi chung, y rất thích. Tôi cũng nói với y rằng khi về nước sẽ đem hết những gì cơ xưởng của y có bẩm lên Triều đình để biết sau này có mua sắm gì sẽ nhờ y liệu biện cho, như Nhật Bản, Xiêm La vậy[22]; “Vả lại, nếu muốn tìm các thứ máy móc theo kiểu mới thì khắp nước Pháp, không đâu hơn ở đây. Nếu các quan ta đi đến đây đính ước sự mua bán về sau như Nhật, có gì mà không được?”[23].
     Như vậy, những hoạt động tích cực trên đây của Nhật Bản tạo tiền đề quan trọng để Nhật Bản tiến hành thành công cải cách Minh Trị, đây không chỉ là kết quả của sự thích ứng với bối cảnh lịch sử mới của quốc gia này, mà còn là thành quả kế thừa từ thời kỳ Tokugawa (1600-1868). Thực tế thì, “trải qua 267 năm tồn tại và phát triển, chế độ phong kiến Tokugawa mặc dù không tránh khỏi những hạn chế lịch sử, nhưng từ trong lòng xã hội phong kiến, nhiều nhân tố kinh tế - xã hội mới đã nảy sinh. Các nhân tố kinh tế - xã hội đó đã tạo nên tiền đề và động lực hết sức quan trọng để Nhật Bản có thể tiến hành cuộc cải cách xã hội rộng lớn đồng thời bảo đảm những cơ sở cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của một nhà nước tư sản đầu tiên ở châu Á”[24].
     Kết quả là, Nhật Bản đã bước đầu tiến hành thành công cải cách Minh Trị, điều này không chỉ giúp Nhật Bản thoát khỏi vanh nuốt đô hộ của các nước phướng Tây, mà quốc gia này còn thành công trong việc thực hiện mục tiêu cơ bản của mình là xây dựng đất nước trở thành “phú quốc cường binh”. Theo nhìn nhận của Nguyễn Trường Tộ: “Lại xem Nhật Bản xưa vốn là lũ người lùn, từ trung diệp nhà Minh mới bắt đầu giao hảo với Hà Lan, làm bạn với Bồ Đào Nha, kế đến mời Hợp Chúng Quốc giúp vào việc nước, mở mắt nhìn rộng rãi thiên hạ mới có chí hướng lớn như vậy. Từ đó họ đóng tàu bè, luyện tập võ bị, ưu tiên phát triển thương nghiệp, công nghiệp, đất nước mỗi ngày một mạnh, được khen với mỹ danh là Tiểu Tây và Trung Quốc khó bắt được Nhật Bản phải thần phục. Tuy gần đây Anh, Pháp thường hay quấy nhiễu nhưng nhờ có nền nội trị ngoại giao vững vàng mà họ không chịu hạ mình. Như trước đây ba năm Anh, Pháp đem binh thuyền đến toan đàn áp, nhưng nhờ có Hợp Chúng Quốc, Hà Lan phân giải mà việc đã không xảy ra. Đó không phải là công dụng của sự giúp đỡ của các nước hay sao? Còn như ngày nay nước ấy có những kế hoạch giao thiệp rộng rãi, những mưu cơ tân tiến thì đâu đâu người ta cũng đã nghe thấy rõ rang, gương ấy không xa, không cần phải nêu ra nữa[25].
     Sự thành công ban đầu của công cuộc cải cách của Nhật Bản được trí sĩ Nguyễn Trường Tộ luận giải và nhận thức trong một logic nhất quán: “Tôi xem khắp thiên hạ từ xưa đến nay, các nước sở dĩ bảo tồn được dài lâu, không nước nào không do hai điều kiện là giàu và mạnh. Mà sở dĩ được giàu mạnh thì không thể không bắt đầu bằng việc mở rộng đất đai làm đông dân chúng, thông thương qua lại và giao du với các nước. Sau đó lấy nhân nghĩa công bằng mà qua lại với các nước làm cho mình và người cả hai đều được lợi, thì mới đạt được sở nguyện. Đó là đường lối thông thường mà tất cả các nước trên thế giới hiện nay đều tiến hành như thế, tập tành ham chuộng đường lối ấy, tìm cách thực hành đường lối ấy, mấy trăm năm càng ra làm càng có lợi mà không ai nghỉ tay, cũng vì bỏ đường lối này không còn phương sách nào khác[26].
  
3. Một số nhận xét

Mặc dù là người đi khá nhiều quốc gia trên thế giới, bao gồm cả một số quốc gia ở phương Đông cũng như phương Tây, nhưng Nguyễn Trường Tộ vẫn chưa một lần có điều kiện đặt chân đến Nhật Bản. Tuy nhiên, trong tổng số 58 di thảo của mình, địa danh Nhật Bản được Nguyễn Trường Tộ đề cập đến 23 lần, với những nhìn nhận đánh giá khá sâu sắc và tương đối xác thực so với tư liệu và nguồn tri thức chúng ta có thể tiếp nhận được ngày nay. Điều này vừa cho thấy vốn kiến thức uyên thâm của cá nhân ông nhưng đồng thời cũng thể hiện khả năng nắm bắt và truyền tải thông tin tương đối chính xác thời bấy giờ. Nhật Bản hiện lên rõ nét trong nhận thức của Nguyễn Trường Tộ trước, trong, sau cải cách Minh Trị.
   Đêm trước của cải cách Minh Trị năm 1868, với vị trí địa chiến lược quan trọng, cũng như nhiều quốc gia khác ở phương Đông, Nhật Bản phải đối diện với âm mưu xâm lược bành trướng của thực dân phương Tây. Bằng ngòi bút sắc sảo và khả năng phân tích sắc bén của mình, Nguyễn Trường Tộ nhìn nhận người Nhật, dân tộc Nhật với tiềm lực và khả năng của bản thân đã quyết tâm hướng dân tộc dến sự lựa chọn cách thức học tập phương Tây với một nội dung phong phú, đa dạng, nhằm mau chóng đưa Nhật Bản thành một quốc gia cường thịnh. Đó là một sự lựa chọn hết sức khôn ngoan và đúng đắn. Mặc dù, trong toàn bộ di thảo của Nguyễn Trường Tộ, chúng ta chưa thấy ông viết nhiều về sự vận động bên trong của phong trào cải cách, phân tích kỹ những đặc tính của một cuộc vận động cải cách đang diễn ra… song thông qua những trang viết ông luôn nhấn mạnh đến tinh thần, ý chí, quyết tâm, năng lực học tập, tính cầu thị của người Nhật. Theo ông đó là tấm gương hữu ích, thực tế, cần phải học tập.
   Từ một quốc gia có nguy cơ bị biến thành dân tộc nô lệ như nhiều nước khác ở Đông Á, sự thành công của cải cách Minh Trị khiến Nhật Bản có thể phát triển nền công nghiệp, thương nghiệp, từng bước trở thành một đất nước giàu mạnh. Cùng với chính sách ngoại giao mềm dẻo, khôn khéo, biết lựa chọn những bước đi thích hợp, (vốn là đặc tính của xã hội thương nghiệp, lối tư duy giàu lý trí của xã hội võ sĩ…), Nhật Bản đã sớm duy trì được sự cân bằng quyền lực với các thế lực thực dân phương Tây để bảo vệ chủ quyền dân tộc cùng lợi ích quốc gia. Nhận thức về Nhật Bản, về một đất nước có cùng bối cảnh, cùng tình thế, nhận thức của Nguyễn Trường Tộ luôn có những liên hệ và đặt trong tương quan so sánh với tình thế của Việt Nam. Tấm gương Nhật Bản được ông đưa vào trong các trang điều trần với nội dung đa diện, đa chiều và tâm thức tích cực nhưng qua đó cũng thể hiện không ít những cảm quan, thiên kiến của mộtnhà cải cách, một trí thức yếu nướcsống giữa cuộc chuyển giao lớn của dân tộc và thời đại.

------------
[1]Michio Morishima, Tại sao Nhật Bản “thành công”? Công nghệ phương Tây và tính cách Nhật Bản, Nxb. Khoa học Xã hội, H., 1991, tr.75.
[2]Nguyễn Văn Kim, Cải cách Minh Trị ở Nhật Bản (1868-1912); trong: Vũ Dương Ninh (Cb), Phong trào cải cách ở một số nước Đông Á giữa thế kỷ XIX- đầu thế kỷ XX, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, H., 2007, tr.50 -51.
[3]Marius B. Jasen (Ed), The Cambridge History of Japan, Vol. V, Cambridge University, 1973, p.747.
[4]Xin xem thêm: Nguyễn Văn Kim, Cải cách Minh Trị ở Nhật Bản (1868-1912), trong: Vũ Dương Ninh (Cb), Phong trào cải cách ở một số nước Đông Á giữa thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, Sđd, tr. 50-161.
[5]Từ đầu thế kỷ XX, một số trí thức cho rằng Nguyễn Trường Tộ sinh năm 1828, chúng tôi chọn năm 1830 theo như nguồn tài liệu cung cấp của ông Nguyễn Trường Cửu (trong Sự tích ông Nguyễn Trường Tộ) - Con trai của Nguyễn Trường Tộ.
[6]Nguyễn Trường Tộ, Thiên hạ đại thế luận, Di thảo số 1, tháng 3 – 4 năm 1863, in trong Trương Bá Cần, Nguyễn Trường Tộ: Con người và di thảo,Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1988, tr. 107. Toàn bộ di thảo của Nguyễn Trường Tộ dùng trong bài viết này, chúng tôi sử dụng trong công trình tập hợp và biên dịch của nhà nghiên cứu Trương Bá Cần.
[7]Nguyễn Trường Tộ, Bàn về việc cho Pháp thông thương để đổi lại sáu tỉnh, Di thảo số 41, ngày 30 tháng 3 năm 1871, Sđd, tr.333.
[8]Nguyễn Trường Tộ, Bàn về việc cho Pháp thông thương để đổi lại sáu tỉnh, Di thảo số 41, ngày 30 tháng 3 năm 1871, Sđd, tr.333.
[9]Về cải cách Minh Trị của Nhật Bản, xin xem thêm: R. H. P Mason & J. G. Caiger, Lịch sử Nhật Bản, Nguyễn Văn Sĩ dịch, Nxb. Lao Động, H., 2003, tr.294-354; Fukuzawa Yukichi, Nhật Bản cách tân giáo dục thời Minh Trị,Nxb Chính trị Quốc gia, H., 1995; Michio Morishima, Tại sao Nhật Bản “thành công”? công nghệ phương Tây và tính cách Nhật Bản, Nxb Khoa học xã hội, H. 1991, tr. 75 - 117; Nguyễn Văn Kim, Cải cách Minh Trị ở Nhật Bản (1868-1912), Sđd, 50-161; Nguyễn Văn Kim, Vai trò của các tozama daimyo trong tiến trình cải cách ở Nhật Bản thế kỷ XIX (Những vấn đề khoa học đang đặt ra), in trong Nhật Bản với châu Á những mối liên hệ lịch sử và chuyển biến kinh tế - xã hội, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, H., 2003, tr.449- 478; Đặng Xuân Kháng, Một số tư tưởng chủ đạo của cải cách giáo dục Nhật Bản thời Minh Trị duy tân, trong: Đông Á - Đông Nam Á những vấn đề lịch sử và hiện tại, Nxb. Thế giới, H., 2004, tr.179-188…
[10]Về Nguyễn Trường Tộ và những tư tưởng canh tân đất nước của ông, xin xem thêm: Trương Bá Cần, Nguyễn Trường Tộ: Con người và di thảo,Sđd; Hoàng Thanh Đạm, Nguyễn Trường Tộ: Thời thế và tư duy cách tân,Nxb. Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 2001; Đinh Xuân Lâm – Nguyễn Văn Hồng, Xu hướng đổi mới trong lịch sử Việt Nam, Nxb. Văn hóa thông tin, H., 1998; Đỗ Bang - Trần Bạch Đằng - Đinh Xuân Lâm - Hoàng Văn Lân - Lưu Anh Rô - Nguyễn Quang Trung Tiến - Nguyễn Trọng Văn, Tư tưởng canh tân đất nước dưới triều Nguyễn, Nxb. Thuận Hóa, 1999…
[11]Khi khảo sát tuyển tập công trình của Trương Bá Cần, chúng tôi nhận thấy trong toàn bộ 58 di thảo của Nguyễn Trường Tộ, danh từ Nhật Bản xuất hiện tổng số là 23 lần, tại 13 di thảo gồm di thảo số 1, 2, 4, 7, 13, 18, 26, 27, 35, 38, 41, 50, 55.
[12]Nguyễn Trường Tộ, Tám việc cần làm gấp (Tế cấp bát điều), Di thảo số 27, ngày 15 tháng 11 năm 1867, Sđd, tr. 227.
[13]Nguyễn Trường Tộ, Tám việc cần làm gấp (Tế cấp bát điều), Di thảo số 27, ngày 15-11-1867, Sđd, tr. 229.
[14]Nguyễn Trường Tộ, Tám việc cần làm gấp (Tế cấp bát điều), Di thảo số 27, ngày 15-11-1867, Sđd, tr.268.
[15]Nguyễn Trường Tộ, Ngôi vua là quí, chức quan là trọng. Tháng 5-1866, di thảo số 13, Sđd, tr.15
[16]Nguyễn Trường Tộ, Về việc học thực dụng, tr.192. Ngày 1-9-1866, di thảo số 18, Sđd, tr.192.
[17]Nguyễn Trường Tộ, Tám việc cần làm gấp (Tế cấp bát điều), Di thảo số 27, ngày 15-11-1867, Sđd, tr.249.
[18]Nguyễn Trường Tộ, Tám việc cần làm gấp (Tế cấp bát điều), Di thảo số 27, ngày 15-11-1867, Sđd, tr.229.
[19]Nguyễn Trường Tộ, Về việc đào tạo người điều khiển và sửa chữa thuyền máy, tr.157-158, di thảo số 7, tháng 2-1865, Sđd, tr.157-158.
[20]Nguyễn Trường Tộ, Tờ trình về việc ký hợp đồng với hội nước ngoài, tr. 221, di thảo số 26, ngày 12 tháng 5 năm 1867, Sđd, tr. 221.
[21]Nguyễn Trường Tộ, Tám việc cần làm gấp (Tế cấp bát điều), Di thảo số 27, ngày 15-11-1867, Sđd, tr.229.
[22]Nguyễn Trường Tộ, Nói rõ thêm về văn bản 16 – 2 Tự Đức 21, di thảo số 35,ngày 15-3-1868, Sđd, tr.301.
[23]Nguyễn Trường Tộ, Nói rõ thêm về văn bản 16 – 2 Tự Đức 21, di thảo số 35,ngày 15-3-1868, Sđd, tr.302.
[24]Nguyễn Văn Kim, Chính sách đóng cửa của Nhật Bản thời kỳ Tokugawa: Nguyên nhân và hệ quả, Nxb. Thế giới, H., 2000, tr.228.
[25]Nguyễn Trường Tộ, Nên mở cửa chứ không nên khép kín, di thảo số 55,tháng 10-1871, Sđd, tr.408-409.
[26]Nguyễn Trường Tộ, Nên mở cửa chứ không nên khép kín, di thảo số 55,tháng 10-1871, Sđd, tr.408

2. Từ Fukuzawa Yukichi nhìn về Nguyễn Trường Tộ
Nguyễn Cảnh Bình

Có thể nói, ở hai ông Nguyễn Trường Tộ và Fukuzawa Yukichi (Phúc-Trạch Dụ-Cát). Có  rất  nhiều sự tương đồng về thời đại, về đất nước, về tình hình thế giới bởi cả hai sống cùng trong một giai đoạn lịch sử. Từ thực tế trên, việc so sánh hai nhân vật lịch sử này, đồng thời cũng là những nhà tư tưởng về cải cách, mở cửa có thể mang lại cho chúng ta nhiều điều thú vị.

Những điểm tương đồng
Có thể nói, Fukuzawa Yukichi và Nguyễn Trường Tộ là hai người sinh cùng thời, và cả hai đều học rất giỏi. Điều thú vị nữa là hai người đều sinh ra từ một vùng đất có truyền thống, chứ không không phải ở thủ đô. Hai ông không xuất thân từ gia đình quá giàu có, nhưng cũng không phải ở gia đình quá nghèo.
Hai nước Nhật và Việt Nam ở thời mà các ông sinh sống thì cũng có một vài điểm tương đồng. Thí dụ như hai nước cùng đóng cửa với thế giới, nhưng bắt đầu bị các quốc gia phương Tây nhòm ngó.
Tại Nhật, năm 1853, hạm đội Mỹ xuất hiện gây một cú sốc lớn trên khắp nước Nhật. Anh trai thúc giục Fukuzawa tới Nagasaki học tiếng Hà Lan để nắm vững về súng ống phương Tây. Khi đó, ông mới 23 tuổi. Đến tháng 8-10/1858, Fukuzawa được bổ nhiệm làm người dạy tiếng Hà Lan cho lãnh địa Nakatsu. Tháng 7/1859: Nhật mở cửa ba cảng biển theo các điều khoản của "Hiệp ước hoà bình và hữu nghị", được ký một năm trước đó với Mỹ và một số nước châu Âu.                
Ở Việt Nam, năm 1858, Pháp đánh Đà Nẵng. Nguyễn Trường Tộ lúc đó 30 tuổi, Nhà thờ xã Đoài mời ông làm giáo viên dạy chữ Hán. Giám mục Gauthier dạy ông tiếng Pháp và khoa học thường thức phương Tây.
Hai người cùng đi nước ngoài hầu như cùng thời điểm, như vậy cả Nguyễn Trường Tộ và Fukuzawa có điều kiện tiếp xúc Tây học từ sớm, biết tiếng Hà Lan, tiếng Anh, tiếng Pháp. Lại có dịp được ra nước ngoài nên hai ông có điều kiện tiếp xúc trực tiếp với văn minh, với thế giới vật chất và công nghệ của phương Tây, từ đó hình dung trong đầu những hoạt động, những tư tưởng mang tinh thần cải cách.
Đầu năm 1860, trong khuôn khổ các điều khoản của hiệp ước, chính quyền Shogun quyết định phái sứ giả sang Mỹ. Fukuzawa tình nguyện đi theo đoàn sang San Francisco, Mỹ. Từ Mỹ về trong năm đó, ông dịch và xuất bản cuốn sách đầu tay “Kaeitsugo”. Khoảng ba năm đầu sau đó, Fukuzawa chỉ chuyên tâm học hành và viết cuốn sách đầu tiên.  
FUKUZAWA YUKICHI
(1835-1901)
Sinh tại thành phố Osaka, trong một gia đình Samurai cấp thấp.  Đến năm 1837, cha ông qua đời đột ngột ở tuổi 44. Cuộc sống khó khăn, ông phải giúp gia đình và cho mãi đến năm 14 tuổi mới được đến trường. Không chỉ dừng lại ở một nhà tư tưởng, Fukuzawa đã bắt tay làm rất nhiều việc, từ mở trường dạy học, lập tờ báo, dịch sách để hướng những đề xuất, ý tưởng, giải pháp của mình vào đông đảo người dân và trí thức Nhật Bản, từ đó tạo nền tảng cho sự phát triển nhanh chóng về nhận thức, hành động và phát triển của người dân cũng như đất nước Nhật Bản.
Trong những năm 1861-1863, ông sang châu Âu theo đoàn đàm phán mở thêm cảng biển và điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Ông đến các nước như Pháp, Anh, Hà Lan, Đức, Nga và Bồ Đào Nha. Trong vai trò phiên dịch, Fukuzawa quan sát được rất nhiều điều mới mẻ và các thể chế tổ chức như bệnh viện, kho vũ khí, hầm mỏ, trường học. Dựa vào những điều chứng kiến trong chuyến đi, Fukuzawa xuất bản tập đầu tiên của tác phẩmThực trạng phương Tây (Seiyo jijo). Tác phẩm này của ông được bán chạy nhất lúc bấy giờ. Đến năm 1866, ông hoãn việc viết tiếp tập hai cuốnThực trạng phương Tây để giành thời gian dịch cuốn Kinh tế chính trị của J. H. Burton. Trong cuốn sách xuất bản năm 1867, ông thảo luận về “những cột trụ chính yếu” và mạng lưới xã hội vô hình thiết lập nên xã hội văn minh. Sau đó, ông tiến hành dịch các tác phẩm quan trọng của Anh cho người Nhật đọc, học tập và tiếp thu.      
Còn ở Việt Nam, những năm 1859-1860, Nguyễn Trường Tộ được giám mục Gauthier đưa qua Hương Cảng, Singapore, Thụy Sĩ. Trên đường đi ông có ghé Roma yết kiến Giáo hoàng rồi cuối cùng sang Paris theo học trong gần 2 năm.
Vào năm 1861, khi Đại đồn Kỳ Hoà thất thủ, ông nhận làm phiên dịch cho Pháp với mong muốn góp phần mình cho sự hoà hoãn hai bên. Ông viết thư gửi triều đình trong đó nêu ý kiến là nên hoà với Pháp. Sau đó, ông viết bản điều trần đầu tiên. Đến quãng năm 1862-1863, ông thôi không làm phiên dịch nữa vì thất bại trong việc điều đình. Thời gian này, ông tham gia xây cất tu viện ở Sài Gòn và dồn tâm trí soạn kế hoạch giúp phát triển đất nước. Vào tháng 3/1863, ông gửi triều đình văn bản “Bàn về tình thế lớn trong thiên hạ”. Tiếp đó, ngày 29/3/1863, ông gửi bản Trần tình. Một năm sau đó, ông gửi triều đình văn bản “Kế hoạch duy trì hoà ước mới”, và “Kế hoạch làm cho dân giàu nước mạnh”. Tất cả là những bản điều trần!
Và những khác biệt
Nhưng đáng tiếc thay, nếu so sánh với Fukuzawa, Nguyễn Trường Tộ có nhiều nhược điểm, thiếu sót. Điểm mấu chốt làm nên sự khác biệt giữa công cuộc Duy Tân Minh Trị ở Nhật và thời kỳ trì trệ của Tự Đức ở Việt Nam có lẽ cũng bắt nguồn từ chính sự khác biệt về lối tư duy và hành động của hai nhà trí thức đại diện này.
Năm 1867, Fukuzawa lại sang Mỹ, tới Washington và New York với nhiệm vụ thương lượng mua tàu chiến của chính phủ Mỹ. Nhưng mục đích chính của Fukuzawa là tìm mua sách cho các sinh viên và ông đã mua sách bằng tất cả số tiền mà ông có. Về nước, Fukuzawa mở trường KEIO. Chỉ trong năm đó (1867), số học sinh của trường đã lên đến 100. Thời gian này, ông chủ yếu đọc, viết sách và giảng dạy. Những cuốn sách miêu tả cuộc sống phương Tây của ông rất được người dân Nhật Bản yêu thích, điều đó cho thấy sự quan tâm của người dân đối với thế giới bên ngoài.
Với kinh nghiệm học được từ người phương Tây qua sách vở và những chuyến thị sát, ông đã nhiệt huyết truyền bá những tư tưởng tiến bộ bằng mọi cách có thể. Ông đã tách mình ra khỏi biến động chính trị cuối thời Mạc phủ Edo, thầm lặng dịch và viết sách.
Ngày 4/7/1868, cuộc nội chiến giữa hai phe cải cách và bảo thủ ở Nhật Bản bùng nổ. Fukuzawa đã nói với học sinh, lúc bấy giờ chỉ còn 18 người: “Cho dù có bất kỳ điều gì xảy ra, cho dù cuộc chiến tranh tàn phá đất nước ta như thế nào, chúng ta sẽ không bao giờ từ bỏ kiến thức của phương Tây. Chừng nào ngôi trường này còn đứng vững, Nhật Bản vẫn sẽ là quốc gia văn minh trên thế giới”.                
Sau năm 1868,  Fukuzawa dành hết thời gian, sức lực cho công việc giảng dạy ở Keio và giúp lập thêm nhiều trường học mới. Ông cũng dịch và viết thêm nhiều sách về phương Tây, viết những sách giáo khoa cơ bản về rất nhiều lĩnh vực như vật lý, địa lý, nghệ thuật quân sự, nghị viện Anh, các mối quan hệ quốc tế. Sau đó, vào năm 1876, Fukuzawa xuất bản cuốn Khuyến học, tác phẩm nổi tiếng nhất. Ông thúc giục người Nhật học đọc, học viết, học những phép toán và bàn tính, cách để sử dụng khối lượng và dụng cụ đo đạc, rồi tiếp đến là học những lĩnh vực khoa học khác như địa lý, vật lý, lịch sử, kinh tế và đạo đức. Lúc này, ông 41 tuổi.
NGUYỄN TRƯỜNG TỘ
(1828 - 1871)
Sinh tại Bùi Chu, Hưng Nguyên, Nghệ An. Ông học rất giỏi, ngoài việc học với cha ở nhà, ông còn theo học nhiều thầy đồ nổi tiếng trong vùng. Tuy mất sớm ở tuổi 43 nhưng ông đã đề xuất rất nhiều kế hoạch cải cách táo bạo, nhằm đưa đất nước thoát khỏi cảnh trì trệ, tiến lên trở thành một quốc gia dân giàu nước mạnh. Đáng tiếc, những bản điều trần của ông thời đó đã không được trọng dụng.
Về Nguyễn Trường Tộ, những công việc thì vẫn như vậy. Năm 1865, ông gửi triều đình văn bản “Về việc mua thuyền và đóng thuyền máy”.  Vào đầu năm 1866, khi được mời đến Huế, ông tiếp tục gửi văn bản “Kế hoạch khai thác tài nguyên đất nước”. Đến tháng 4/1866: ông thảo thư Tây Soái có châu phê của Vua. Đây vẫn là một bản điều trần và gửi thư cho Vua. Tháng 8/1866, Nguyễn Trường Tộ cùng giám mục Gauthier đến Huế, chuẩn bị đi Pháp, được vua Tự Đức tiếp kiến.
Từ tháng 9 đến hết năm 1866, ông tiếp tục gửi văn bản và thư tới triều đình, cụ thể như văn bản “về việc học thực dụng” và “Phải tạm thời dựa vào Pháp” và những bức thư về vấn đề khác nhau. Vào năm 1867,ông  cùng một số quan chức đáp tàu đi Pháp. Tháng 3 năm đó, ông tới Paris. Rồi đến ngày 15/11/1867, ông soạn văn bản “Tế cấp bát điều”. Tháng 2/1868, về tới Huế, ông được vua Tự Đức tặng thưởng. Tháng 3 năm sau đó, Nguyễn Trường Tộ viết: “Tổ chức gấp việc khai mỏ”.Trong các tháng 3-5/1868, ông viết nhiều văn bản thúc giục triều đình cử người đi Pháp học
Tiếp tục như vậy, suốt năm 1871, Nguyễn Trường Tộ viết rất nhiều văn bản đề xuất việc thông thương với Pháp như “Chỉnh đốn quân đội và quốc phòng”, “Canh tân và mở rộng quan hệ ngoại giao”, “Về chính sách nông nghiệp”; “nên mở cửa chứ không nên khép kín”. Rất tiếc, ngày 24/11/1871, Nguyễn Trường Tộ mất ở quê, hưởng thọ 41 tuổi. Nguyễn Trường Tộ mất sớm nhưng tôi tin rằng, dù ông còn sống, ông sẽ vẫn không làm gì khác hơn ngoài việc viết tấu trình.
Nguyễn Trường Tộ đã liên tiếp gửi lên triều đình Huế 30 bản điều trần đề xuất canh tân, xây dựng đất nước giàu mạnh và gần sáu chục bản điều trần khác đề cập đủ mọi lĩnh vực.
Tôi không nghĩ rằng ở thời đại Nguyễn Trường Tộ, việc mở trường có quá nhiều khó khăn. Việc dịch sách, ngược lại thì rất khó vì lúc đó hầu như chúng ta chỉ sử dụng tiếng Hán và phụ thuộc nhiều vào sách dịch của người Trung Quốc. Tại Trung Quốc, mãi đến những năm 1903, Lương Khải Siêu và Khang Hữu Vi mới ồ ạt triển khai dịch sách của phương Tây cho người Trung Quốc, điều này cho thấy Nguyễn Trường Tộ khó lòng làm được việc này ở Việt Nam thời điểm đó.
Còn Fukuzawa thì vào năm 1875 xuất bản cuốn "Văn minh khái luận" ra đời, nhằm thuyết phục trí thức Nhật Bản chấp nhận quá trình hiện đại hoá. Ngày 1/3/1882, Fukuzawa tự mình xuất bản tờ Jiji-shimpo. Trước đó, Fukuzawa muốn mở một tờ báo nhằm thúc đẩy việc sớm thiết lập Nghị viện nhưng kế hoạch này đã bị gác lại vì sự chia rẽ nội bộ. Năm 1885,  Fukuzawa viết bài báo gây rất nhiều tranh cãi Datsu - a - ron [Thoát Á Luận], kêu gọi Nhật Bản hãy học theo phương Tây và nhanh chóng hiện đại hóa…          

Đánh giá của hậu thế
Lịch sử biết đến Fukuzawa Yukichi như một nhà cải cách chính trị xã hội, nhà giáo dục tiên phong, nhà tư tưởng tiêu biểu của Nhật Bản từ cuối thời Edo, đầu thời Minh Trị, thời kỳ diễn ra những chuyển biến lớn lao trong lịch sử Nhật Bản. Tư tưởng của ông có ảnh hưởng rất lớn tới phong trào Khai sáng ở Nhật Bản vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, tạo tiền đề cho Nhật Bản trở thành một cường quốc trên thế giới. Lòng biết ơn của người Nhật đối với Fukuzawa được thể hiện qua việc in hình ông trên tờ tiền 10.000 yen, dù ông không phải là một đấng quân vương hay võ tướng lỗi lạc của đất nước Mặt trời mọc.
Fukuzawa để lại ngôi trường Keio mà ngày nay là Đại học Keio (hiện trường Keio hệ chính thức có khoảng 28.000 sinh viên và 5.000 nghiên cứu sinh). Ông cũng để lại hàng chục cuốn sách dịch và nhiều sách do ông viết. Ông được coi là người khởi xướng cho việc dịch sách ở Nhật Bản, mang lại tác động to lớn cho xã hội Nhật Bản.
Còn đối với Nguyễn Trường Tộ, theo nhiều học giả và công chúng, các bản điều trần của ông nếu được áp dụng là một sách lược lớn biến Việt Nam thành một nước hùng cường, tạo nên chuyển biến quan trọng trong lịch sử giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Học giả Lê Thước phê bình công nghiệp bình sinh của ông: "Nguyễn Trường Tộ là nhà khoa học, nhà chính trị và cũng là nhà tân học nước ta xưa. Tư tưởng và kiến thức của tiên sinh hơn người đồng thời muôn nghìn".
Tên của ông được đặt cho nhiều trường học và đường phố tại Việt Nam, nhưng chưa có đồng tiền nào mang hình ông mặc dầu ông cũng được coi là nhà tư tưởng tiến bộ, có tinh thần cách tân. Nguyễn Trường Tộ thường được trí thức Việt Nam coi là hình mẫu thất bại trong mong ước hiện đại hóa Việt Nam vào thế kỷ 19. Nhiều người cũng coi ông như bài học để chỉ ra sai trái của triều đình mà quên đi những sai lầm của chính ông.

Tư tưởng tiền nhân để lại
Fukuzawa tin rằng giáo dục là cách duy nhất để đạt tới văn minh, bởi bản chất của văn minh là sự phát triển kiến thức và đạo đức nội tại của dân tộc:
"Văn minh có nghĩa là đạt được cả những tiện nghi vật chất lẫn sự nâng cao tinh thần của con người. Nhưng cái tạo ra những tiện nghi vật chất và nâng cao tinh thần của con người là kiến thức và đạo đức, [do đó] bản chất của văn minh chính là quá trình phát triển kiến thức và đạo đức con người."
Fukuzawa là người đưa ra nguyên tắc nổi tiếng: "Độc lập quốc gia thông qua độc lập cá nhân", tức là một xã hội muốn phát triển phải dựa trên những cá nhân có khả năng tư duy độc lập và sáng tạo, chứ không phải dựa vào chính phủ. Ông kêu gọi các sĩ phu Nhật Bản làm việc theo phương châm "coi trọng quốc gia và coi nhẹ chính phủ", tự tin vào sức mạnh cá nhân mà không phụ thuộc vào sức mạnh của người khác.
Tháng 5 năm 1863, Nguyễn Trường Tộ soạn xong ba văn bản để gửi lên Triều đình Huế: bản thứ nhất là Tế cấp luận, bản thứ hai là Giáo môn luận, bản thứ ba là Thiên hạ phân hợp đại thế luận. Trong ba bản đó, bản Tế cấp luận là văn bản quan trọng nhất. Nội dung của bản này đề cập đến việc canh tân và phát triển đất nước. Với Tế cấp luận ông đã khẳng định: "Tế cấp luận thâu tóm trí khôn của thiên hạ 500 năm nay... Bài Tế cấp luận của tôi nếu đem ra thực hành hàng trăm năm cũng chưa hết".
Trong giáo dục, ông phản đối lối học tầm chương trích cú, đóng cửa khư khư giữ lấy cái sự học lỗi thời chỉ cốt có học vị bằng cấp. Ông chủ trương học để thực hành. Ngay cả bản thân, ông không hề đề tên ứng thí một khoa nào, không hề có bằng cấp gì nhưng kiến thức của ông sâu rộng mang tầm bách khoa, uyên thâm trong nhiều lĩnh vực.
Theo ông cần phải đưa vào chương trình giáo dục những tri thức về nông nghiệp, địa lý, thiên văn, công nghệ, luật pháp, nghĩa là những gì xã hội, cuộc sống hiện đại thực sự cần tới trước mắt và lâu đài, chứ không phải dùi mài tứ thư ngũ kinh với những giáo huấn xa vời của Khổng Mạnh. Ông cũng sớm đề xuất soạn Tự điển cho người học, nghiên cứu Hán học, Tây học.


Dường như toàn bộ sự nghiệp, tư tưởng của Nguyễn Trường Tộ chỉ gói gọn trong mấy từ viết điều trần. Không thể đếm được ông đã viết bao nhiêu bản điều trần trong cuộc đời ngắn ngủi của ông, và dù những bản điều trần này được rất nhiều trí thức Việt Nam hiện đại ca ngợi là tư tưởng lớn thì cũng chỉ dừng lại ở mức độ đề xuất, chứ không phải là bắt tay vào làm (thực hiện). Trong khi đó, Fukuzawa đã dịch và viết nhiều sách, mở trường dạy học, lập báo, hợp tác và hướng dẫn các trí thức quốc gia láng giềng. Fukuzawa có gửi điều trần lên Thiên Hoàng nhưng không nhiều và không phải là hành động chính yếu của ông. Có thể khi đó, Minh Trị đã là một nhà vua anh minh nhưng ở Fukuzawa, tư duy là hành động. Điều quan trọng hơn nữa, đó là Fukuzawa hướng những đề xuất, ý tưởng, giải pháp của mình vào đông đảo người dân và trí thức Nhật Bản. Ông truyền tinh thần canh tân của mình cho hàng nghìn sinh viên theo hoc ở Keio, cho hàng triệu người Nhật qua các cuốn sách ông dịch, và qua những bài báo gây nhiều tranh cãi…

Qua bài học thành công và thất bại của Fukuzawa Yukichi và Nguyễn Trường Tộ có thể tìm ra được cách hành xử thích đáng hơn của trí thức Việt Nam trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

Theo TiaSang

3. Nguyễn Trường Tộ - sự lên ngôi của tư duy cá thể

Nguyễn Đình Chú 
I. Vấn đề tư duy - một hướng đi mới của khoa học xã hội và nhân văn
... Ở đây, xin nói riêng về vấn đề tư duy cá thể, lại vốn là điều cốt lõi nhất trong nội dung vấn đề con người cá thể ( L’individu ). Ai cũng biết sở dĩ có xã hội loài người là do có các cá thể người (cái Tôi). Cá thể người là tế bào làm nên các hình thái cộng đồng xã hội. Muốn có các hình thái cộng đồng xã hội khỏe tất yếu phải có các tế bào khỏe. Trong thực tiễn lịch sử của các khu vực, các quốc gia trên thế giới, trình độ nhận thức về con người cá thể là không đồng đều. Nước ta thuộc trường hợp chậm nhận thức về con người cá thể. Mãi đến trong văn học cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, con người cá thể mới chớm xuất hiện và khá xinh xắn. Nhưng sau đó, đất nước bị xâm lăng, nó đã phải nhường chỗ cho cái Ta là số phận dân tộc. Vào những năm 30 của thế kỷ XX, một khi giai cấp tư sản dù bị chế độ thuộc địa chi phối, kìm hãm nhưng cũng đã hình thành thứ con người cá thể (cái Tôi) có mặt lại và có sinh khí nhất định. Cách mạng thành công (8 - 1945), chưa gì đất nước đã phải đương đầu với cuộc kháng chiến chống Pháp rồi chống Mỹ. Do đó, cái Tôi lại phải nhường chỗ cho cái Ta, là số phận dân tộc. Còn hôm nay, trong hoàn cảnh đất nước được hòa bình, cuộc sống đã trở lại bình thường, thì cái Tôi có mặt lại khá rôm rả và không phải không có ý nghĩa tích cực nhưng cũng kèm theo không ít sự láo nháo, đáng buồn. Mà nguyên nhân chính là vì cho tới hôm nay, ở nước ta, nói chung chưa có sự tường minh thực sự về vấn đề con người cá thể. Vẫn có hiện tượng né tránh, ít nhiều sợ nói đến cái Tôi, đến con người cá thể do có sự lẫn lộn, không phân biệt được hai khái niệm: con người cá thể (L’ individu) và chủ nghĩa cá nhân (L’ individualisme) vốn cùng chung một đối tượng nhưng lại đi theo hai hướng: nhân bản và phi nhân bản. Điều mà cuộc sống cần và phải cầu nguyện cho nó sớm có mặt được ngày nào là đất nước được nhờ ngày ấy là hướng nhân bản. Còn với hướng phi nhân bản thì dĩ nhiên là tiêu diệt được nhiều chừng nào lợi cho đất nước chừng ấy(1).
Trong vấn đề con người cá thể, có hai nội dung cơ bản. Đó là quyền sống của cái Tôi đi đôi với việc phát huy tinh lực của cái Tôi để vừa có lợi cho cá nhân vừa có lợi cho đất nước, cho xã hội. Để phát huy được tinh lực cá thể người trước hết phải xử lý đúng đắn vấn đề tư duy cá thể. Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, Descartes - triết gia của nước Pháp ở thế kỷ 17, là người đầu tiên phát hiện ra chân lýTôi tư duy ấy là tôi tồn tại (Je pense donc je suis). Có nghĩa là cái Tôi (cá thể người) chỉ có ý nghĩa tồn tại thực sự so với muôn loài khi mà Tôi có tư duy, được tư duy. Ngược lại, không có, hoặc có mà không được tư duy thì coi như cái Tôi không tồn tại, giữa cái Tôi và muôn loài chẳng khác gì nhau. Tất nhiên, tư duy cá thể được nói ở đây là để tự phát triển cá thể và góp phần phát triển xã hội một cách chân chính, chứ không phải tư duy cá thể để rồi nghĩ bậy nghĩ bạ dẫn đến hành động bất lợi cho xã hội. Ở nước ta, vấn đề này là thế nào? Phải thẳng thắn mà nói rằng đây là chỗ yếu kém của chúng ta. Ở ta, trên bình diện xã hội mà nói, chủ yếu là thuộc tư duy cộng đồng. Dĩ nhiên trong đó có mặt chân chính cần thiết với cuộc sống. Nhưng mặt trái của vấn đề tư duy cộng đồng cũng không nhỏ. Tình trạng nói theo thời, nói theo kiểu dựa dẫm vào nhau, trên bảo sao nghe vậy, nói mà không có chủ kiến riêng, tình trạng bao cấp về kinh tế kéo theo sự bao cấp về tư tưởng, quả là một tai hại lớn, kìm hãm sự phát triển đất nước. Hôm nay, không bao cấp về kinh tế nữa nhưng sự bao cấp về tư tưởng thì đâu đã dễ thoát khỏi một khi mà văn hóa đối thoại, văn hóa phản biện, nói chung là vấn đề dân chủ xã hội chưa được giải quyết thấu đáo, vấn đề nhà nước pháp quyền đang là vấn đề phải phấn đấu một cách vất vả chứ không đơn giản chút nào. Trong phạm vi nhà trường, tình trạng thầy cô giáo cứ một bề thuyết giảng, còn trò chỉ nghe và ghi chép để về nhà học thuộc, sau đó cứ thế mà làm bài theo kiểu chép đúng nguyên si những gì thầy cô đã thuyết giảng, mà gần đây đã bị lên án nhưng cũng không dễ gì khắc phục được, một khi mà cả xã hội chưa có truyền thống tư duy cá thể. Trong nhà trường đã có khẩu hiệu phát huy khả năng suy nghĩ độc lập của học sinh, nhưng thực tế chưa có kết quả gì đáng kể là bởi tình trạng chung đó của đất nước. Cần nói dứt khoát rằng, chừng nào mà đất nước chưa giải quyết được vấn đề tư duy cá thể thì chừng đó đừng nói đến sự phát triển nhanh chóng và vững chắc, đừng hy vọng đất nước tự mình đào tạo được những tài năng có thể đoạt giải Nôben. Thử khách quan nghĩ mà xem, Giáo sư Ngô Bảo Châu được giải thưởng Field là do đâu mà có. Riêng về giáo dục, chừng nào chưa giải quyết được vấn đề tư duy cá thể thì cũng đừng nói đến chất lượng cải cách giáo dục một cách thực chất(2). 

II. Nguyễn Trường Tộ - sự lên ngôi của tư duy cá thể
Từ hướng đi mới là nghiên cứu tư duy như trên, tôi xin khẳng định: ở Nguyễn Trường Tộ là sự lên ngôi của tư duy cá thể. Hẳn là có vị đã biết, năm 2008, trong dịp kỷ niệm 180 năm sinh Nguyễn tiên sinh, tôi đã có bài viết với nhan đề Nguyễn Trường Tộ - nhà thiết kế vĩ đại của đất nước ở nửa sau thế kỷ XIX được Nguyệt san Công giáo và dân tộc, cơ quan của Ủy ban đoàn kết công giáo thành phố Hồ Chí Minh đăng trên số 168 tháng 12 - 2008 gồm 30 trang. Nhưng sau đó tôi đã bị ông Bùi Kha ở hải ngoại chê bai thậm tệ, bởi cứ theo ông thì Nguyễn Trường Tộ là một tay sai của thực dân Pháp và có tài lừa cả nước mà đến nay vẫn không một ai, chỉ ông mới là người nhận biết. Trước thái độ đó của ông Bùi Kha, tôi chủ trương im lặng vì nghĩ rằng từ trăm năm qua đã có không biết bao nhiêu bậc cao minh cao kiến, từ nhà đại ái quốc Phan Bội Châu đến Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã làm việc tôn vinh Nguyễn Trường Tộ. Tôi chỉ là người đến sau, góp thêm một tiếng nói mà tự mình tin là nghiêm túc, có căn cứ. Thế thôi. Không cần gì phải đối thoại lại. Hôm nay, nhân dịp kỷ niệm 140 năm ngày mất của Nguyễn tiên sinh, tôi viết bài này chính là một cách muốn tìm thêm đến cái gốc rễ tư duy đã sản sinh ra nhà thiết kế vĩ đại đó là thế nào.
Đến với vấn đề này vốn không dễ chút nào, một câu hỏi phải đặt ra để trả lời là căn cứ vào đâu để nói Nguyễn Trường Tộ là sự lên ngôi của tư duy cá thể? Xin thưa: trong việc nghiên cứu lịch sử tư tưởng, về phương pháp luận, đã cho phép nói đến hai trạng thái tồn tại của tư tưởng là hữu ngôn và vô ngôn. Hữu ngôn là trường hợp tác giả đã tự nói về tư tưởng của mình. Vô ngôn là trường hợp tác giả làm mà chưa nói, do đó, hậu thế có thể căn cứ vào hành động của tác giả mà nói lên tư tưởng của tác giả. Ví dụ trường hợp vua Quang Trung trên phương diện quân sự. Thì đúng là không để lại tác phẩm quân sự như Trần Hưng Đạo ngày trước nhưng căn cứ vào những gì Ngài đã làm trong các chiến dịch đánh Đông dẹp Bắc, điều binh khiển tướng, bách chiến bách thắng đó, ta có thể nói đến tư tưởng quân sự siêu việt của Ngài. Đối với Nguyễn Trường Tộ, có thể áp dụng cả hai phương pháp hữu ngôn và vô ngôn. Hữu ngôn là bởi chính Nguyễn Trường Tộ trong bài Trần tình đã nói: “Tôi bé không được dạy bảo, lớn lên lưu lạc nhiều nơi nhưng hoài bão và việc làm của tôi có chỗ khác hơn người… Từ bé tôi đã thận trọng trong việc giao du, thích yên tĩnh, đối với tất cả những sự cầu danh, lấn lướt dành công, tham lợi tôi đều coi như mây bay, nước chảy. Vả lại, tôi cũng không ham thích kinh doanh, không thích chuyện vợ con, đoạn tuyệt với hai cạm bẫy tài (tiền tài) sắc. Người ta ở đời sở dĩ không được thanh thản tự do mà phải chìm đắm trong lưới trần tục, lại theo phường phản nghịch, đều do hai cạm bẫy này mà ra cả. Tôi thoát khỏi vòng đó, cho nên việc làm của tôi có khác người…” Rõ ràng từ tư thế đó, từ ý thức đã có phần tự giác đó, Nguyễn Trường Tộ là sự lên ngôi của tư duy cá thể phù hợp với những gì thuộc lý thuyết đã nói ở trên mà sau đây là sự chứng minh.
Trước hết và cũng là điều cốt lõi nhất của vấn đề là ở khả năng tư duy cá thể trong việc tìm ra lời giải đáp hay nhất, có chất lượng nhất cho bài toán khó nhất chưa từng có trong lịch sử của đất nước, ở đương thời. Nội dung bài toán là: đất nước đã bị một kẻ thù xâm lược nhưng khác những kẻ thù xâm lược ngày trước ở chỗ không phải là chuyện phong kiến nước lớn bắt nạt phong kiến nước nhỏ trong phạm vi khu vực mà lại là trường hợp một nước trên con đường phát triển tư bản chủ nghĩa với khả năng “một trăm năm phát triển tư bản chủ nghĩa đã tạo ra một khối lượng của cải bằng hàng năm phong kiến cộng lại” (Mark- Engels, Tuyên ngôn cộng sản), nghĩa là hơn hẳn một phương thức sản xuất so với Việt Nam đang thuộc phương thức sản xuất phong kiến lạc hậu, tắc tị. Đã thế, chuyện thực dân Pháp xâm lược Việt Nam không chỉ là chuyện một nước xâm lược một nước mà còn là chuyện phương Tây trên con đường phát triển tư bản chủ nghĩa giàu mạnh áp đảo phương Đông cổ lỗ, nghèo nàn. Bài toán khó này đã được chính vua Tự Đức nêu lên trong chế sách thi Đinh năm Nhâm Tuất, niên hiệu Tự Đức thứ 15 (1862) để yêu cầu các thí sinh cao cấp hiến kế. Chế sách có đoạn viết: “… Nam kỳ thì giặc Tây lấn cướp. Bắc kỳ thì bọn phí lăng loàn. Đánh dẹp chưa ngớt, khuya sớm không yên. Tuy rằng trong triều còn có người lão thành mà sức chẳng theo lòng. Ngoài quận còn có quan lại giỏi mà chưa thật xứng đáng, làm cho quân mệt của thiếu, năm tháng chồng thêm. Trong, không thể sửa sang. Ngoài, không thể đánh dẹp. Chỉ có lo lắng làm cho già nua. Đã bao lần hạ chiếu cầu hiền, mở rộng đường nói. Khốn nỗi tài thực chưa thấy, chước hay chưa nghe. Như qua sông lớn, ai người chèo lái? Vỗ đùi than thở, chốc lát khôn quên. Vả chăng, đời nào chẳng sinh người tài, trong ấp mười nhà ắt có người trung tín. Cho nên trẫm mời rộng các vị sĩ phu, khiêm tốn nghe lời kỳ dị… Cùng với ba chước ngự nhung, chẳng qua là giữ, đánh, hòa, ba phương pháp ấy mà thôi. Nhưng có lúc lợi cho chỗ này mà không lợi cho chỗ khác. Có việc hợp với đời xưa mà không hợp với đời nay. Thế thì cái cơ trị loạn đều do người làm nên mà xét trong kinh sử lại có nhiều chỗ khác nhau, giống nhau… Cho nên, trẫm mong được nghe lời phải ngay, may ra giải được cơ nguy hiểm… Hãy vì trẫm mà trình bày hết cái lẽ trị loạn qua các triều đại, cái lý do vì sao chính sự khi sai khi đúng và các điều quan yếu hiện nay về các mặt tiêu tai, giẹp loạn, trị binh, chọn tướng, tiến hiền, yên dân, chống giặc... cốt sao cho sát với sự cơ, có thể bổ ích cho thực dụng. Để rồi, trên nhờ mệnh trời dài lâu, dưới thỏa tâm tình quần chúng, nước nhà được trị yên dài lâu...”(3).
Một vị đình thí sau đó được lấy đậu Hoàng Giáp là Nguyễn Hữu Lập, quê huyện Nam Đàn, Nghệ An, trong bài đối sách đã có đoạn viết: “Thần trộm nghĩ rằng nước ta với giặc Tây vốn chẳng có hiềm khích gì. Thế mà ba bốn năm lại đây, nó xâm lược ven biển của ta. Bắt đầu sinh sự ở Quảng Nam, tiếp đó, cướp phá ở Gia Định. Lấy lý mà nói, nó cong mà ta thẳng... Đức Hoàng thượng ta mấy lần sai tướng xuất quân, khi phòng ngự, khi ngăn chặn, hai phương sách đánh và giữ, nhà vua đã nắm được điều hơn rồi. Tuy rằng có người nêu lên thuyết bàn hòa, mà ý của Hoàng thượng chưa hề cho là phải. Cho nên, giản hoặc có giấy tờ qua lại với nó thì việc điều khiển binh lương vẫn phải như trước. Có lúc đón tiếp sứ thần của nó thì mệnh lệnh sai bảo các tướng hiệu vẫn không trễ tràng, coi như là sắp đuổi nó ra khỏi bờ cõi, phải đâu muốn cùng nó hòa hảo, là điều đã sai với cơ nghị lại trái với tình lý đó ru!... Thần đây dại dột cho rằng, chúng ta một mặt nên trau chuốt lời văn giao thiệp mà một mặt sách lược tự trị phải cho nghiêm ngặt. Chỉ có hai điều đó mà thôi…”(4).
Đáp án của Hoàng giáp Nguyễn Hữu Lập quả có hạt nhân hợp lý. Nhưng chỉ là một ý tưởng đơn sơ, buổi đầu. Còn vua Tự Đức, về sau cũng có đáp án với những lời lẽ như sau: “Sáu tỉnh Gia Định cách tuyệt với triều đình. Trong tình thế ấy, quan văn đành bó tay, tướng võ cũng thoái chí. Người phá giặc Ân ở Vũ Ninh là Đổng Thiên Vương đến nay đã vắng. Người bắt giặc Nguyên ở sông Bạch Đằng là Trần Hưng Đạo, bây giờ còn đâu. Thánh Tản Viên không còn nữa, ai vì ta hát khúc khải hoàn? Nữ thần Cát Bà(5) cũng vắng biệt, ai vì ta dâng Cáo Bình Ngô? Ví bằng đánh mà không thể thắng được, chẳng thà không đánh còn hơn. Trẫm đã nghĩ kỹ rồi, giao cho các đại thần trong triều, họ Trần, họ Ngụy (Tiễn Thành và Khắc Đản) chủ mưu, họ Hoàng họ Phạm (Kế Viêm và Văn Tuấn) bàn phụ. Trẫm tính chữ hòa có thể là quốc kế của ta được”(6).
Với đáp án này, thực tế vị vua cầm đầu vận nước đã đưa đất nước đến đâu và trách nhiệm của ông trước lịch sử dân tộc là thế nào thì đã rõ. Còn đây là đáp án của văn thân bốn tỉnh vùng Nghệ An: “Thế mà Gia Định bỗng gặp giặc phải báo cấp, nhưng triều đình lại không để ý đến biên phòng. Lúc bấy giờ kẻ mưu thần nghiến răng, người tráng sĩ dựng tóc, tấm lòng muốn đánh ai cũng như ai. Đổng Thiên Vương đã mất nhưng trong thiên hạ thiếu gì người như Đổng Thiên Vương. Trần Hưng Đạo đi đâu, chứ trong thiên hạ còn nhiều người như Trần Hưng Đạo. Thánh núi Tản Viên không ở đây, nhưng sáu thao ba lược rất nhiều bậc làm tướng tài. Thần nữ Cát Bà đã vắng rồi nhưng bốn chính tám kỳ, không hiếm người cầm quân dũng cảm. Trong khoảng mười bước, còn ba ngàn cỏ thơm, rộng như đất hai kỳ há lại thiếu người tài lạ. Ví phỏng trên miếu đường nghe theo trí dũng, ngoài cương trường mưu tính kịp thời, thì với vài vạn quân của Phạm Lãi, ba nghìn phép trận của Hàn Kỳ, lấy trung tín làm gươm đao, bọn Tây Hạ, Bắc Liêu đâu còn dám chống lại, lấy nhân nghĩa làm súng đạn, đất U, Kế, Ngân, Hạ khôi phục có khó gì…”(7). Đáp án này đã thể hiện đầy đủ truyền thống khí phách anh hùng chống ngoại xâm, “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” của dân tộc, không chỉ của riêng văn thân vùng Nghệ An mà cả phong trào chống Pháp của dân tộc nói chung trong đó có phong trào Cần vương ở nửa sau thế kỷ XIX. Nhưng thực tế đã thất bại cũng là điều dễ hiểu, mặc dù khí phách anh hùng đó thì muôn đời vẫn là niềm tự hào, vẫn là một vốn quí trong kho báu tinh thần của dân tộc. Đây nữa là đáp án của các nhà duy tân mà Nguyễn Lộ Trạch là một tên tuổi quen thuộc. Ông đã dâng bản Thời vụ sách thứ nhất đề nghị triều đình bằng con đường tự cường tự trị, chăm lo việc phòng ngự, cảnh giác với thủ đoạn hòa hiếu của giặc Pháp. ViếtThời vụ sách thứ hai nêu lên những đề nghị cải cách cần thiết đối với đất nước bấy giờ. Đáp án này dĩ nhiên là có nhiều ý nghĩa tích cực nhưng mới là một số ý chính, còn sơ lược và ít nhiều cũng còn phiến diện.
Và đây nữa là đáp án của một số người mà tiên phong là Trương Vĩnh Ký để sang đầu thế kỷ XX có người tiếp nối đắc lực là Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh… Trương Vĩnh Ký không chống Pháp, được sự đào tạo chu đáo của Giáo hội, cộng tác gắn bó với thực dân Pháp đến nỗi về sau bị một khuynh hướng coi là tay sai của kẻ thù. Nhưng thực tế, chính ông là người với tư cách một nhà bác học, đã tiên phong trong công cuộc hiện đại hóa văn hóa Việt Nam. Ngày nay, người Việt Nam ta hàng ngày viết câu văn xuôi tiếng Việt bằng chữ quốc ngữ, đọc báo này báo nọ, giở tra từ điển này khác… hỏi ai là người khai sinh ra các thứ đó, nếu không phải là cụ Tổ Trương Vĩnh Ký. Nhưng ở đây thử đặt vấn đề rằng, trong khi thực dân Pháp xâm lược đất nước, không có phong trào chống Pháp xâm lược một cách bi hùng, bi tráng như đã có dù thất bại, mà chỉ một cách như họ Trương đã làm và cần được ghi công, thì đất nước sẽ là thế nào? Đúng là cuộc sống đất nước lúc này phải có trăm phương ngàn kế trong đó sẽ có kế thành công, có kế thất bại. Nhưng không có trăm phương ngàn kế thì chưa chắc đã có gì. Chúng ta biểu dương đáp án của những người như họ Trương phải từ thực tiễn phức tạp đó của sự sống đất nước.
Cuối cùng, đáp án của Nguyễn Trường Tộ là những gì tôi đã trình bày trong bài viết Nguyễn Trường Tộ - nhà thiết kế vĩ đại của đất nước ở nửa sau thế kỷ XIX. Xin nói ngay, đây mới là nhà thiết kế mà chưa được làm nhà thi công bởi lịch sử chưa cho phép. Chứ giá gì có được hoàn cảnh như nước Nhật để có một cuộc Minh Trị duy tân trên đất nước Việt Nam với vai trò Tổng công trình sư Nguyễn Trường Tộ thì hôm nay nước ta đã là thế nào rồi nhỉ. Sự trớ trêu, éo le, cái bi kịch đến như định mệnh của lịch sử là vậy. Trong khi mệnh danh Nguyễn Trường Tộ là nhà thiết kế vĩ đại, tôi đã nhìn thấy ở Nguyễn tiên sinh do có sự lên ngôi của tư duy cá thể mà thành ra có sự khác người như tiên sinh tự nói. Khác người trước hết là khác về tư duy để từ đó mà sẽ khác về việc làm. Vậy khác là thế nào? Khác ở chỗ có cách giải tối ưu nhất trước bài toán khó nhất của lịch sử. Đúng thế! Với đáp án của triều đình đứng đầu là vua Tự Đức thì sự mất nước là điều đã rõ. Với đáp án của các nghĩa sĩ Cần vương thì cao cả nhưng thất bại như trên đã nói. Với đáp án của đường lối duy tân đơn thuần thì cũng là vô hiệu do lịch sử không cho phép nhưng cũng chính do tính phiến diện của đường lối. Với đáp án của Trương Vĩnh Ký thì cũng là phiến diện, trong khi đáng ra là phải được kết hợp với cuộc đấu tranh chống xâm lược mới thực sự có kết quả tối đa. Thành quả của Trương Vĩnh Ký là lớn nhưng vẫn chủ yếu trên một số vấn đề thuộc văn hóa, chứ đâu đã có gì đáng kể về tư tưởng và xã hội. Trong khi đáp án của Nguyễn Trường Tộ quả là toàn diện hơn hẳn. Dĩ nhiên là mới trên phương diện lý thuyết. Trong thực tế, Nguyễn Trường Tộ có làm việc cho thực dân Pháp nhưng là để có điều kiện tìm biết nó để mách cho triều đình hiểu địch để đối phó với địch. Như thế không phải là lợi hơn so với tình trạng không nắm được nhiều tình hình địch sao? Chưa nói Nguyễn tiên sinh còn là người trực tiếp bàn mưu định kế đánh Pháp giành lại Nam kỳ. Và trong khi người chống Pháp thì không duy tân, người duy tân thì không chống Pháp. Còn Nguyễn Trường Tộ thì trên phương diện thiết kế, ít nhiều đã có cả hai, vừa duy tân vừa chống Pháp. Mà duy tân thì cũng là toàn diện, phong phú, sâu sắc hơn ai hết. Chẳng phải vì thế mà hậu thế có người mệnh danh tiên sinh là “Nhà yêu nước sáng suốt nhất của thế kỷ XIX”. Riêng nhà đại ái quốc Phan Bội Châu thì mệnh danh là “người gieo mầm cho sự khai hóa”. Mà xét cho cùng, tất cả là nhờ có một tư duy cá thể trên tầm thời đại. Trên tầm trong việc tìm ra đáp án tối ưu cho bài toán khó vô cùng khó của thời đại như đã nói. Trên tầm trong việc tìm ra khả năng kết hợp hai mặt đối lập theo hướng có lợi cho đất nước mà với người khác thì không thể kết hợp. Trên tầm trong việc xử lý một lúc cả hai qui luật của cuộc sống là độc lập (L’indépendent) và phụ thuộc lẫn nhau (L’interdépendant) mà với người khác thì chỉ là thế này mà không thế khác. Trên tầm trong khả năng nhận biết vừa là những vấn đề vĩ mô, khái quát rộng lớn vừa là những hiện tượng vi mô, nhỏ nhặt của sự sống mà với người khác thường được mặt này thì kém mặt khác. Trên tầm trong khả năng tạo cho mình một không gian tư duy toàn cầu, một thời gian tư duy toàn cầu vốn liên quan trực tiếp đến trình độ văn hóa mà đương thời với trình độ của đất nước còn là của hiếm. Trên tầm trong khả năng tư duy để tạo được nội dung chủ đề mình đeo đuổi một cách phong phú, có hệ thống bề thế và chính đáng. Trên tầm trong khả năng tư duy tích hợp (L’ intégration) mang tính hiện đại của thế giới để nâng cao hiệu quả nếu được hành động. Trên tầm trong khả năng tư duy so sánh, lựa chọn để được hành động thì kết quả sẽ cao hơn cho cuộc sống… Đúng là “Một trí tuệ lớn mang tầm quốc tế” như có người đã mệnh danh và là hiện tượng đột khởi, hiếm hoi của đất nước ở đương thời. Để kết thúc bài viết, không thể không nói thêm rằng: sự lên ngôi của tư duy cá thể ở Nguyễn Trường Tộ có được vẻ vang như thế là bởi có điểm tựa là một nhân cách cao cả, một tấm lòng yêu nước kính chúa hòa quyện, làm gương sáng cho muôn đời. r
  
Chú thích:
(1) Xem: Nguyễn Đình Chú - Vấn đề “ngã” và “phi ngã” trong văn học Việt Nam thời trung đại. In lại trên Viet-studies số ra ngày 11-5-2011
(2) Xem: Nguyễn Đình Chú - Trí thức và vấn đề tư duy. In lại trên Viet- studies số ra ngày 7-10-2010
(3) Lời dịch của Nguyễn Đức Vân
(4) Lời dịch của Nguyễn Đức Vân
(5) Thần Cát Bà: tức bà chúa Liễu Hạnh, quê làng Vân Cát, huyện Vũ Bản, Nam Định
(6) Xem: Tờ tấu của văn thân bốn tỉnh vùng Nghệ An, Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX, Nxb Văn học,1970, tr 410.
(7) Xem: Chiếu Tự Đức dụ văn thân, Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX, Nxb Văn học, 1970, tr414.

4. Vị thế của Nguyễn Trường Tộ trong bối cảnh lịch sử Việt Nam những năm 60 thế kỷ XIX

Mai Thị Huyền (Tạp chí Nghệ An)
Nguyễn Trường Tộ(1828- 1871), sinh tại thôn Bùi Chu, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An, là một trong những người có tư tưởng cách tân đất nước điển hình ở nửa sau thế kỷ XIX. Đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về cuộc đời, tư tưởng của nhân vật lịch sử này trong các thập kỷ vừa qua. Ở bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến một khía cạnh có liên quan đến con người Nguyễn Trường Tộ, đó là vị thế của ông trong bối Triều Nguyễn được thành lập năm 1802, về cơ bản bộ máy chính trị vẫn được phân chia thành 6 bộ, quyền lực thâu tóm vào tay vua. Đặc biệt là triều Minh Mạng, từ năm 1831, ông thực hiện cải cách, đơn vị hành chính tỉnh ra đời. Triều đình đã quản lý được cấp tỉnh và do đó chính quyền dưới triều Nguyễn là chính quyền tập trung hơn các triều đại trước đó. Đến thời Tự Đức, ông thực hiện cai trị đất nước một cách gián tiếp thông qua chế độ quan liêu đã được thiết lập từ thời Minh Mạng. Cơ mật viện được tổ chức như mô hình của triều đình Mãn Thanh bên Trung Quốc. Đất nước gồm 31 tỉnh thành, đứng đầu mỗi tỉnh là một viên Tổng đốc và các Tuần phủ phối hợp với nhau kiểm soát tình hình địa phương.
Tuy nhiên, sự bất ổn về an ninh, quốc phòng cũng bắt đầu nảy sinh và trở nên nguy hiểm ngay từ thời Minh Mạng. Cùng với những cuộc khởi nghĩa nông dân đã có hàng loạt những cuộc phiến loạn của các nhóm cướp bóc nổi lên khắp các tỉnh Lạng Sơn, Hưng Hóa, Quảng Yên, Bắc Ninh, Ninh Bình khiến cho triều đình luôn phải phân tán lực lượng quân đội để đối phó. Tình hình này càng nghiêm trọng và trở thành mối lo lắng thường trực dưới thời trị vì của Tự Đức. Do sự truy quét gắt gao của chính quyền Mãn Thanh, các nhóm tàn quân của khởi nghĩa nông dân Trung Quốc đã tràn qua biên giới Việt – Trung cướp bóc, tàn phá các địa phương phía Bắc. Tự Đức thể hiện sự bất an đó trong công văn gửi các tỉnh biên giới, nội dung có đoạn viết: “Các ngươi thử nghĩ xem: đất là đất của ta, dân là dân của ta, đối với phận sự của chính thân các ngươi lại càng quan thiết, mà nay để cho họ khác bức bách xen vào giày xéo đất cát, sai khiến dân con, như thế thì các ngươi còn mặt mũi nào đứng được trên đời nữa”.[1]
Triều Nguyễn sau khi thành lập đã có những biện pháp nhằm khôi phục sức sản xuất.Nhưng do tác động của các cuộc chiến tranh nông dân trong suốt thế kỷ XVIII đã làm cho tình hình sản xuất giảm sút nghiêm trọng. Vấn đề trị thủy bị sao nhãng vì triều đình phải mất thời gian tập trung binh lực đàn áp các cuộc khởi nghĩa nông dân. Có tới 400 cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ từ đầu thời Nguyễn đến thời trị vì của Tự Đức. Trong khoảng thời gian 15 năm từ 1847 đến 1862, nhân dân phải chịu gánh nặng tổn thất của 11 lần thủy tai.
Tình hình thương nghiệp sút kém hơn các thời kỳ trước. Chính sách bế quan tỏa cảng của triều Nguyễn tạo ra sự ngừng trệ về công thương nghiệp. Lái buôn phương tây phải chịu thất bại trong cuộc buôn bán và rút khỏi nước ta. Đến thời Tự Đức, ông cũng bước đầu ý thức được vấn đề phải mở cửa, vai trò của thương nhân người Hoa trở nên nổi bật, tuy nhiên những đóng góp của họ đối với nền thương nghiệp Việt Nam không có gì đáng kể.
Về giáo dục thi cử, triều Nguyễn chủ trương vẫn giữ phép xưa. Đặc biệt, Nho giáo – tư tưởng đã rơi vào khủng hoảng ở thế kỷ XVIII đến thời kỳ này được triều đình phục hưng trở lại và sử dụng khá nhiều trong thi cử, trở thành khuôn sáo, xa rời hoàn toàn với hoàn cảnh thực tế lúc bấy giờ. Chính sách đóng cửa của triều Nguyễn đã hạn chế sự tiếp nhận những yếu tố mới trong tư tưởng Nho giáo từ Trung Quốc. Vì vậy, triều đình vẫn chỉ sử dụng được những sách Nho học của Chu Hy mà thôi. Các vua Nguyễn luôn yêu cầu quan lại đại thần của mình noi theo các tấm gương Trung Quốc cổ đại. Tư tưởng bao trùm lên triều đình chính là “xưa hơn nay”, “nội hạ ngoại di”,...cho rằng phương Tây là “Dương di”, “tà giáo”.Chính vì thế, sự bảo thủ của các vua Nguyễn càng trở nên mạnh mẽ.
Vấn đề trở nên nghiêm trọng ở thời Nguyễn, đặc biệt là từ thời Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức là thái đội trịch thượng, coi thường và nghi ngờ của triều đình đối với các nước phương Tây. Triều đình coi đó là phương thức trị nước. Minh Mạng cấm đạo gắt gao hơn khi ông nhận thấy sự xuất hiện của giáo sĩ Tây dương Mác – Săng trong thành Phiên An bị quân nổi loạn của Lê Văn Khôi chiếm đóng. Đặc biệt, năm Minh Mạng thứ 16, quan đô sát Phan Bá Đại tâu lên triều đình về những điều mà ông ta cho rằng đó là tác hại của đạo Thiên chúa và điều quan trọng là phải loại bỏ tôn giáo đó: “Những thuật tà đạo dị đoan xui giục mê hoặc nhân dân, kẻ đứng đầu thì bị trảm giam hậu. Vậy thì tà giáo tức là tà đạo và Vương chếkhông bao dung và xưa nay đều phải trừ bỏ hẳn. Nay xin tham bác Lễ và Luật, định rõ điều cấm, khiến cho người ta biết răn chừa, thì mới dập tắt được dị đoan”[2]. Thời trị vì của Tự Đức, ông đã giết hại 27 giáo sĩ, 300 thầy tu và 3 vạn giáo dân nước ta. Việc cấm đạo và hạn chế thương nghiệp, triều đình cho rằng đó là biện pháp ngăn chặn hữu hiệu âm mưu xâm lược của các nước phương Tây. Triều Nguyễn không nhận thấy những tác hại nghiêm trọng của những việc làm trên đang từng bước đe dọa nền độc lập của dân tộc. Đường lối sai lầm của triều đình đã khoét sâu mâu thuẫn giữa các nước phương Tây với Việt Nam, buộc họ phải giải quyết vấn đề bằng vũ lực.

Năm 1856, chính phủ Pháp cử phái đoàn Mông Ti Nhi sang Việt Nam thương thuyết về mặt truyền đạo và tự do buôn bán để dọn đường cho việc xâm lược. Hội đồng của phái đoàn đã họp 3 tuần để quyết định kế hoạch chính thức xâm lược và đường lối cai trị sau khi đã chiếm nước ta: không nên biến Việt Nam thành nước trực thuộc Pháp mà nên duy trì triều đình Nguyễn, biến họ thành tay sai, đặt nước ta dưới sự “bảo hộ” của Pháp. Ngày 1-9- 1858, liên quân Pháp và Tây Ban Nha nổ súng xâm lược nước ta ở cửa biển Đà Nẵng. Sau khi vấp phải thất bại, thực dân Pháp chuyển hướng đánh vào Gia Định. Triều đình có điều quân chống cự, tuy nhiên đã bỏ lỡ nhiều cơ hội quan trọng để có thể đánh Pháp đến cùng.Các đình thần tâu với Tự Đức rằng: “Giặc lấy thuyền bền súng nhạy làm nghề giỏi ở ngoài biển rộng sóng gió, thế ta cũng khó tranh đua được với họ. Về kế sách thì hiện giờ nên lấy thủ làm chính. Giữ có vững vàng rồi sau mới có thể nói đánh hay hòa được. Nếu trước hết mà giữ không chắc thì chiến đã không được, lại e rằng hòa cũng không đủ trông cậy. Đến như cách công thủ thì hoàng thượng đã chỉ thị đủ rồi, không thiếu gì nữa. Cứ theo đó mà làm cũng đủ thắng giặc”[3]Vào thời điểm tháng 4 năm 1861, Trương Đăng Quế cũng tâu với Tự Đức: “Người Tây dương ý muốn chiếm đóng Gia Định, lại muốn cắt tỉnh Tường, tỉnh Biên, yêu cầu như thế, sợ hòa cục không thành. Trừ ra việc chiến việc thủ không có kế gì khác”[4]. Nguyễn Bá Nghi lại bàn: “Sự thế Nam Kỳ, duy việc giảng hòa còn có thể làm được. Nếu không như thế sẽ có việc lo ngại khác”[5]Triều đình bị phân hóa thành nhiều phe phái như vậy khiến cho tư tưởng chống giặc, đường lối và phương pháp tác chiến không thống nhấtTự Đức nhiều lần huấn dụ rằng: “cốt yếu lấy sự hòa, hiếu làm quyền nghi tạm thời, mà đánh giữ làm thực vụ. Thế mà ý riêng của Bá Nghi chủ ở giảng hòa, không sửa sang việc phòng thủ”[6]Triều Nguyễn từ chủ trương “thủ để hòa”, sau đó là “chủ hòa” dẫn tới hậu quả là Pháp chiếm được ba tỉnh miền Đông Nam kỳ(Gia Định, Định Tường, Biên Hòa) (1862), tiếp đến là 3 tỉnh miền Tây Nam kỳ (Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên) (1867).
 Tầng lớp sỹ phu phong kiến nước ta trước sự tấn công của Pháp đã có sự phân hóa. Một bộ phận chủ trương chống pháp, gọi là phái chủ chiến với tư tưởng thủ cựu, bộ phận khác chủ trương hàng gọi là phái chủ hòa có tư tưởng duy tân. Những người có tư tưởng duy tân đưa ra vấn đề hòa với Pháp, tranh thủ thời gian khôi phục đất nước, chấn chỉnh võ bị, làm cho đất nước giàu mạnh có đủ thực lực để đánh Pháp. Yêu cầu cấp thiết của lịch sử những năm 60 của thế kỷ XIX là triều Nguyễn phải kết hợp hai vấn đề đánh Pháp và canh tân đất nước. Thực hiện cải cách là vấn đề quan trọng bổ trợ cho việc đánh Pháp thành công. Nguyễn Trường Tộ là người tiêu biểu nhất của dòng tư tưởng canh tân đó.
Từ năm 1861 đến năm 1871, Nguyễn Trường Tộ  gửi lên triều đình nhiều bản điều trần, trong đó có“Thiên hạ đại thế luận” (1863), Dụ tài tế cấp bẩm từ (1863), Lục lợi từ (1866), Tế cấp bát điều (1867) với những nội dung cải cách toàn diện trên nhiều lĩnh vực.
 Tư duy kinh tế của Nguyễn Trường Tộ được coi là điển hình nhất trong các nội dung cải cách của ông. Nguyễn Trường Tộ cho rằng kinh tế là nền tảng quốc gia, “trong ngũ phúc, phú đứng đầu”. Để có thể theo kịp văn minh phương Tây, triều đình cần phải chú trọng vào vấn đề phát triển nông nghiệp và công nghiệp. Trong ‘Thiên hạ phân hợp đại thế luận” ông đã nói rất cụ thể cái đại thế trong thiên hạ, vị trí của nước Việt Nam là một nơi rất ưu thế trên quả địa cầu, có nhiều tài nguyên khoáng sản, đất đai, là điều kiện rất quan trọng cho một nền công nghiệp: “Người Pháp đã biết rõ đằng sau nước ta có hai dãy núi lớn, từ núi Côn- lôn mà xuống bao bọc phía đông tây của sông Cửu- long, có nước ta làm bình phong ở phía đông, nước Xiêm làm thung lũng ở phía tây. Trong thiên hạ không có chỗ nào hiểm yếu cao quý hơn chỗ này. Vả lại, hai cái mạch núi ấy, từ phía bắc mà dọi xuống phía nam có rất nhiều lâm sản và khoáng sản quý báu, cho nên Pháp mới đến Gia- định”[7]. Vấn đề theo Nguyễn Trường Tộ chỉ là ta còn thiếu vốn và kỹ thuật mà thôi, nên hợp tác với nước ngoài trên lĩnh vực khai thác để lấy kinh nghiệm. Tổ chức đào kênh từ Hải Dương đến Huế để phát triển thương nghiệp. Khuyến khích nhân dân buôn bán để nội thương được phát triển. Đối với nông nghiệp, ông cho rằng “nông nghiệp là cái gốc, ăn mặc và hàng trăm nhu cầu khác đều từ nông nghiệp mà ra”, vì vậy ông đưa ra chủ trương thành lập bộ canh nông. Về điểm này, ông tiến xa hơn Phạm Phú Thứ, Đặng Huy Trứ. Đánh thuế trên các mặt hàng xa xỉ như tơ, lụa, các mặt hàng nhập ngoại nhằm thu tiền nhà giàu.
Về chính trị, ông chủ trương xây dựng mô hình theo kiểu quốc dân nhất thể, thượng hạ tình thông, quân chủ thần quyền, vẫn chủ trương có vua nhưng vua chỉ có quyền ân xá chứ không còn quỳên sát sinh đối với dân chúng. Ngoài ra còn đề nghị sát nhập các tỉnh để hạn chế số biên chế và tăng lương cho viên chức.
Theo Nguyễn Trường Tộ, giáo dục có vai trò quan trọng: “Học tập bồi dưỡng nhân tài là con đường đưa đến sự giàu mạnh”. Áp dụng những điều đã học vào thực tế cuộc sống chứ không phải là cái học từ chương khuôn sáo “dù bút có trọc hết lông, môi ráo hết nước bọt cũng không ích lợi gì”. Giáo dục sản sinh ra những con người của nền giáo dục ấy: trồng đậu được đậu đó cũng là lẽ tự nhiên. Theo ông là “nếu để công phu trau dồi văn hay chữ tốt đó mà học những công việc hiện tại như học đồ trận binh pháp, học xây thành giữ nước, học cách bắn đại bác,…cũng có thể chống được giặc vậy. Nếu để công lao trong mấy mươi năm đọc thuộc lòng những tên người, tên người, tên xứ, những chính sự trong sách, nghĩ lý lộn xộn của Ngu Hạ, Thương, Chu, Hán, Đường, Tống, Nguyên thưở trước đó, mà học những công việc hiện tại, như học việc binh, việc hình, luật lệ, tài chính, kiến trúc, canh cửi cày cấy và các công việc mới mẻ khác, có thể làm cho dân giàu nước mạnh vậy”[8]. Ông đề nghị cải cải cách chữ viết, lập nhà xuất bản sách báo nhằm nâng cao trình độ người dân. Chăm lo trợ cấp xã hội bằng việc lập các viện Dục Anh (chăm sóc trẻ mồ côi) và trại Tế Bần (chăm sóc người già).
Về quân sự, Nguyễn Trường Tộ chủ trương muốn thắng giặc phải dùng uy vũ chứ không phải lời nói; nêu cao vai trò của binh lính và việc học tập binh thư, chú ý lương bổng cho sỹ quan và chế tạo vũ khí mới. Về ngoại giao, muốn bảo vệ độc lập dân tộc thì phải tự lực tự cường, có chính sách ngoại giao khôn khéo mềm dẻo, kiềm chế nước Pháp.
Tạm nhượng bộ cho Pháp và tiến tới giảng hoà với Pháp là yêu cầu của Nguyễn Trường Tộ gửi lên triều đình Huế. Theo ông hoà chỉ là vấn đề sách lược: “Tôi thường nghiên cứu sự thế trong thiên hạ mà thấy cảnh ngộ nước ta ngày nay hoà với Pháp là thượng sách....Hoà thì trên không cưỡng lại ý trời, dưới có thể làm cho dân khỏi khổ, chấm dứt được sự dòm ngó của gian nghịch, ngăn chặn được sự tranh giành của nước ngoài”. (di thảo số 1, bàn về những tình thế lớn trong thiên hạ, tr 108- 110).Yêu cầu ngoại giao rộng rãi dưới hình thức mở rộng cửa giao thiệp với nước ngoài, “nên mở cửa chứ không nên đóng kín”,(di thảo số 55). Mạnh dạn mở mang các hải cảng, các cửa biển để đón tàu các nước ngoài vào buôn bán.
 Những điều trần của Nguyễn Trường Tộ gửi lên triều đình nhà Nguyễn đã cho thấy:Ông là người đầu tiên ở châu Á biết áp dụng một kiểu tư duy mới, hoàn toàn trái ngược với lối tư duy giáo điều chỉ để minh hoạ một chân lý có sẵn và xong xuôi.....theo ông không có gì là bất biến ở tự nó cả, mọi tình trạng lạc hậu hiện nay của Việt Nam đều xuất phát từ một cách nhận định là con người có thể chuyển cái thực tế bất lợi thành một thực tế có lợi để giành độc lập và phồn vinh của đất nước. Ông là người đầu tiên khẳng định con đường vượt gộp để đổi mới đất nước[9].
Khi tiếp xúc với những đề nghị của Nguyễn Trường Tộ, Tự Đức tỏ thái độ ngập ngừng. Ông đã bàn với Cơ mật viện: “Các khanh không nghĩ, không nói thì lấy ai nghĩ, ai nói cho? Chỉ vì lòng trẫm và lòng các khanh cũng đều vì việc công, việc quan trọng không mưu tính với số đông thì không thể làm được, nhưng không kín đáo lại hại cho sự thành công, chưa thể dự tính nhiều được. Truyền cho Cơ mật viện và Thương bạc với khanh (Trần Tiễn Thành) bàn luận kỹ nên phải làm thế nào cho chu đáo, phúc tâu đầy đủ, đừng để mất thời cơ. Nếu có đường lối nào hay hơn thì càng tốt”[10]. Tuy nhiên, đến thời điểm năm 1866, Tự Đức có dịp đọc mấy trang “Thảo thư gửi Tây soái” – bản thảo bức thư do Nguyễn Trường Tộ viết giúp cho triều đình đấu lý, bàn giải với Pháp, Tự Đức bớt do dự và bắt đầu cho thực hiện một số những kiến nghị của Nguyễn Trường Tộ. Triều đình “sai hai tỉnh: Vĩnh Long và An Giang lựa chọn các thuộc viên, làm thợ, hoặc sĩ nhân nhanh nhẹn, tài cán, có ý tứ tinh xảo, độ 20 người, hậu cấp cho áo quần lương thực, sai tới tỉnh Gia Định học tập các nghề công xảo (như đúc luyện sắt tây, đóng tàu thủy, đúc súng lớn, đúc hạt nổ, chế tạc đạn, làm đồng hồ, làm dây đồng để đưa tin tức và các loại máy móc…”[11]. Triều đình cho phép Nguyễn Trường Tộ cùng với giám mục Gôchie sang Pháp mời thầy dạy và mua sắm dụng cụ để lập trường kỹ thuật ở Huế. Nhưng mưu đồ lấn chiếm nước ta của Pháp ngày càng được đẩy mạnh. Năm 1867, Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây Nam kỳ. Tự Đức rơi vào thế lúng túng, các đình thần gạt bỏ việc thành lập trường kỹ thuật. Thí điểm bước đầu về việc áp dụng những điều trần của Nguyễn Trường Tộ đành bị bỏ dở.
Như vậy, Tự Đức không phải không muốn canh tân, hay nói khác đi, ông vẫn thực hiện một số đề nghị cải cách của Nguyễn Trường Tộ. Nhưng trên thực tế, mưu đồ xâm lược nước ta của Pháp đã lộ rõ, từng phần đất đai của Nam kỳ đang dần bị giặc chiếm và sự thực là 1867, ba tỉnh miền Tây Nam kỳ đã hoàn toàn rơi vào tay Pháp. Trong tình thế lúng túng đó, Tự Đức lại nhận định sai dã tâm xâm lược của địch là chỉ chiếm đất chứ không thôn tính đất nước nên đã tìm mọi cách để chuộc lại những vùng đất đã mất. Tự Đức thực hiện những kiến nghị của Nguyễn Trường Tộ ở một số mặt như kinh tế, giáo dục chỉ mang tính thăm dò, không có tâm trạng và quyết tâm đến cùng. Triều đình đặt vấn đề canh tân đất nước ở một vị trí không mấy quan trọng, hay nói cách khác là không mấy mặn mà. Như vậy, bản thân Tự Đức người đứng đầu triều đình, chưa hề chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho một chương trình canh tân thực sự.
Mặt khác, Tự Đức là người am hiểu thơ văn, say mê lý thuyết Khổng giáo nhưng lại thiếu thông tin về những sự kiện mới nhất. Do sức khỏe yếu kém nên ít khi ông đi tới các địa phương để nắm bắt tình hình trong nước. Mọi chính sách ông đưa ra chỉ bó hẹp trong triều đình, mọi thông tin nhà vua có được là nhờ qua tổ chức trung gian: quan lại. Tự Đức cũng có nhiều dịp tiếp xúc với các giáo sĩ người phương Tây, trong số đó có Giám mục Pellerin. Ông ta đã nhận xét về Tự Đức qua cuộc gặp gỡ năm 1855 như sau: “vua đã tỏ ra quan tâm muốn biết về châu Âu và các quốc gia lớn ở châu Âu, vua hỏi tôi nước Pháp nhờ đâu mà hùng cường và phồn thịnh, tôi trả lời là những sinh lực hàng đầu của một dân tộc là quyền tự do cá nhân và những quan hệ tự do giữa các dân tộc nữa. Câu trả lời có vẻ làm vua sửng sốt”[12]. Tự Đức có quan tâm đến vấn đề làm sao để đưa đất nước phồn thịnh? Song cách giải quyết vấn đề của Tự Đức lại dựa vào lý thuyết và những hình mẫu của Khổng giáo. Ông cho rằng: “Vấn đề an ninh quốc gia, vấn đề không phải là lãnh thổ rộng hay hẹp. Vấn đề là ở nhân tài. Cũng như Gia Cát Khổng Minh (người nổi tiếng nhất trong các vị tướng quốc của thời hoàng kim trong lịch sử Trung Hoa, lãnh đạo một nước nhỏ là nước Chu), nếu có nhân tài thì họ có thể bảo đảm an ninh đất nước”[13]. Tư tưởng của Tự Đức đóng khung trong phạm vi lý thuyết Nho giáo đã hạn chế tầm nhìn của ông đối với bên ngoài. “Nhưng ngoài ra, người Việt Nam không phát triển một luận thuyết độc đáo nào khả dĩ vạch ra một đường lối riêng cho dân tộc, một khẩu hiệu có thể làm bật dậy sự thức tỉnh chung vì công cuộc đề kháng dân tộc. Về mặt này, có thể nói nước Việt Nam của vua Tự Đức tỏ ra bảo thủ hơn các nước theo Nho giáo khác”[14].
Như trên đã nói, Tự Đức chỉ quản lý đất nước thông qua đội ngũ quan lại. Mà đối tượng “rường cột” của đất nước thời Tự Đức lại chính là văn thân. Nếu mất đi sự ủng hộ của văn thân, Tự Đức khó có thể nắm bắt được tình hình trong nước. Vì vậy, điều tối quan trọng của triều đình là phải thâu tóm được tầng lớp này. Nhưng Nguyễn Trường Tộ hoàn toàn không có được sự ủng hộ của sỹ phu trong triều đình và tầng lớp văn thân. Đại bộ phận tỏ ra hoài nghi những đề nghị cải cách của ông, thậm chí còn cho rằng ông là tay sai cho thực dân Pháp. Trần Tiễn Thành, quan Thượng thư Bộ Binh, là người xem xét các điều trần của Nguyễn Trường Tộ, tuy được coi là người có cảm tình với ông nhưng cũng không chuyển ngay lên vua Tự Đức những bản điều trần đầu tiên như “Thiên hạ đại thế luận”, “Giáo môn luận”, “Lục lợi từ”, “Trần tình khải”,...mà Nguyễn Trường Tộ viết từ tháng 3 đến tháng 7- 1864. Những đề nghị cải cách của Nguyễn Trường Tộ có sự phản đối đường lối thủ cựu của Tự Đức. Nhưng quần thần đông đảo vẫn tôn Tự Đức là minh quân, là thánh quân.
Năm 1868, các đại thần Nguyễn Tri Phương, Đoàn Thọ, Võ Trọng Bình,..tâu về việc mua máy móc, sách vở, lập trường dạy nghề, họ lại ca thán về tổn phí lớn quá: “Chúng tôi xét các khoản Ngô Gia Hậu và Nguyễn Trường Tộ kê biên, hoặc dùng để xem thiên văn, hoặc dùng để tìm địa lợi, hoặc giúp vào khí dụng đều là có ích, nhưng theo phương pháp đó tất phải lâu thì giờ; lại còn phải lựa chọn học sinh, thợ thuyền đi học, lính tráng canh giữ, đặt chuyên viên đôn đốc việc mới mong thành hiệu, tổn phí không phải ít”.[15] Dư luận của sỹ phu khiến Tự Đức do dự. Rốt cuộc “triều đình làm thì không chí quyết, làm chỉ từng điểm nào đó mà không theo một quốc sách có đầu có đuôi, hệ thống; không kế hoạch; không nắm những điều cơ bản; không biết cái gì làm trước, cái gì làm sau. Trước hết là triều đình không tín nhiệm Nguyễn Trường Tộ mặc dầu họ nhận định rằng ông Tộ nói đúng.[16]Như vậy, Nguyễn Trường Tộ không có được một lực lượng hậu thuẫn mạnh mẽ tạo nên tiếng nói có trọng lượng gây áp lực đối với Tự Đức cũng như những triều thần trong triều đình.
 Trải qua gần mười năm (1858 - 1867) đất nước bị xâm lược, từ đường lối chiến lược đến việc tổ chức quân đội, trang bị kỹ thuật, tác chiến, hoàn toàn không có gì khác trước trừ những việc chuộc lại những vùng đất mà triều đình đã dâng cho giặc từ 1862 đến 1874. Kế hoạch phòng thủ các vùng còn lại của đất nước của triều đình rất rời rạc, chỉ giới hạn ở việc lập thêm vài cơ lương binh ở một số tỉnh, cắt cử thuyên chuyển một số võ quan ra trấn thủ ở các nơi xung yếu.
Qua việc làm rõ bối cảnh lịch sử và thái độ của Tự Đức, các đình thần của triều Nguyễn đối với những đề nghị canh tân của Nguyễn Trường Tộ, ta có thể nhận thấy:
Triều đình nhận thức được vấn đề cần phải canh tân đất nước, nghĩa là công nhận tầm quan trọng mà những đề nghị của Nguyễn Trường Tộ đưa ra. Tuy nhiên, khi bắt tay vào thực hiện, gặp phải những khó khăn, triều đình không quyết tâm đến cùng. Đó là sự cứng nhắc, thiếu thích ứng của triều Nguyễn trước những biến động của thực tế.
Vị thế của Nguyễn Trường Tộ chỉ được nhìn nhận và đánh giá ở một mức độ nhất định trong nhãn quan của triều Nguyễn. Thực tế là sự hoài nghi của triều đình về con người Nguyễn Trường Tộ cũng như những đề nghị cải cách của ông vẫn tồn tại. Sự hoài nghi này ngăn cản quyết tâm của triều đình trong việc thực hiện canh tân đất nước.
Tuy nhiên, ảnh hưởng của Nguyễn Trường Tộ đến các trí thức có tâm huyết với đất nước sau đó lại rất mạnh. Ông là người mở đầu cho trào lưu canh tân đất nước ở nửa sau thế kỷ XIX và tư tưởng của ông đã khởi nguồn cho một dòng chảy cách tân sôi động trong lịch sử dân tộc. Cùng thời và sau thời của ông có rất nhiều tên tuổi của các trí thức: Đinh Văn Điền, Đặng Huy Trứ, Phạm Phú Thứ, Bùi Viện, Nguyễn Lộ Trạch,… đã ý thức được vấn đề quan trọng là thực hiện cải cách, làm cho đất nước giàu mạnh. Đặc biệt, Nguyễn Lộ Trạch (1852 – 1895) người làng Kế môn, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên. Là một người học rộng, biết nhiều nhưng không có mục đích đi thi để làm quan. Ông có điều kiện tiếp xúc với các bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ và nhanh chóng ảnh hưởng từ các điều trần đó. Đặc biệt là chủ trương coi vấn đề canh tân đất nước là một phương pháp để cứu nước. Vấn đề hoà với Pháp một cách tạm thời, tranh thủ thời gian hoà để cải cách, tạo ra thực lực chống Pháp. Coi vấn đề chính trị và giáo dục, đặc biệt là giáo dục có vai trò quyết định sự thịnh suy của quốc gia. Như vậy, đối với các trí thức cùng chí hướng với ông, Nguyễn Trường Tộ có một vị trí quan trọng.
Trong bối cảnh lịch sử những năm 60 của thế kỷ XIX, tình hình Việt Nam có nhiều biến cố lịch sử. Vì những nguyên nhân khách quan và chủ quan, vị thế của Nguyễn Trường Tộ chưa được nhìn nhận hợp lý. Cũng vì vậy, triều đình mới thực hiện được phần nào những kiến nghị của ông, còn đa phần những chủ trương cải cách của Nguyễn Trường Tộ vẫn nằm im trên giấy tờ.
                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                  
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.                   Trương Bá Cần, Nguyễn Trường Tộ con người và di thảo, Nxb TP. HCM, 1988.
2.                   Đinh Dung, Thử tìm hiểu ảnh hưởng của Nho giáo trong đường lối ngoại giao của triều Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX, tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 6- 1997.
3.                   Hoàng Thanh Đạm, Nguyễn Trường Tộ- thời thế và tư duy cách tân, Nxb Lý luận chính trị, 2006.
4.                   Trần Văn Giàu, Hệ ý thức phong kiến và sự thất bại của nó trước các nhiệm vụ lịch sử, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, 1996, tr 396.
5.                   Lưu Văn Lợi, Tư tưởng canh tân Nguyễn Trường Tộ, tạp chí Quan hệ Quốc tế, số 10- 1990.
6.                   Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện, tập IV, Nxb Huế - Thuận Hóa, 2006.
7.                   Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 7, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007.
8.                   Lê Văn Sáu, đánh giá Nguyễn Trường Tộ: Con người và nhân cách, trong “Nguyễn Trường Tộ với vấn đề canh tân đất nước”, Nxb Đà Nẵng, 2000.
9.                   Trần Nam Tiến, Ngoại giao giữa Việt Nam và các nước phương Tây dưới triều Nguyễn (1802- 1858), Nxb Đại học Quốc gia TP. HCM, 2006.
10.               Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX (1858- 1900), Nxb Văn học, Hà Nội, 1970.
11.                Chương Thâu, Đặng Huy Vận, Những đề nghị cải cách của Nguyễn TrườngTộ  cuối thế kỷ XIX, Nxb Giáo dục, 1961.
12.                Nguyễn Trọng Văn, Quan điểm của Nguyễn Trường Tộ về con đường cứu nước ở Việt Nam  nửa sau thế kỷ XIX, tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, 4 (396)- 2009.
13.                Nguyễn Trọng Văn, Tư tưởng ngoại giao đa phương của Nguyễn Trường Tộ, tạp chí Triết học, 3/1992.
14.                Nguyễn Trọng Văn, Phương pháp nghiên cứu của Nguyễn Trường Tộ, tạp chí Triết học, 2/1993.
15.               Yoshiharu Tsuboi, Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa từ 1847 đến 1885, Ban khoa học xã hội Thành uỷ, Thành phố Hồ Chí Minh, 1990.


[1] Thơ văn Tự Đức, Nxb Thuận Hóa- Huế, 1996, tr 203.
[2] Trần Văn Giàu, Hệ ý thức phong kíên và sự thất bại của nó trước các nhiệm vụ lịch sử, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, 1996, tr 329.
[3] Trần Văn Giàu, Hệ ý thức phong kíên và sự thất bại của nó trước các nhiệm vụ lịch sử, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, 1996, tr 405.
[4] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 7, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007, tr 714.
[5] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 7, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007, tr 715.
[6] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 7, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007, tr 743.
[7] Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX (1858- 1900), Nxb Văn học, Hà Nội, 1970, tr 336.
[8] Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX (1858- 1900), Nxb Văn học, Hà Nội, 1970, tr 342.
[9] Hoàng Thanh Đạm, Nguyễn Trường Tộ- thời thế và tư duy cách tân,   tr 9.
[10] Hoàng Thanh Đạm, Nguyễn Trường Tộ- thời thế và tư duy cách tân, Nxb Lý luận chính trị, 2006, tr 39.
[11] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập 7, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007, tr 989.
[12]Yoshiharu Tsuboi, Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa từ 1847 đến 1885, Ban khoa học xã hội Thành uỷ, Thành phố Hồ Chí Minh, 1990, tr 182.
[13] Đại Nam liệt truyện, tập IV, quyển 57, tờ 9a (tháng giêng năm Tự Đức thứ 30, ngày 13-2-1877).
[14] Yoshiharu Tsuboi, Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa từ 1847 đến 1885, Ban khoa học xã hội Thành uỷ, Thành phố Hồ Chí Minh, 1990, tr 185.
[15] Trần Văn Giàu, Hệ ý thức phong kíên và sự thất bại của nó trước các nhiệm vụ lịch sử, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, 1996, tr 364.
[16] Trần Văn Giàu, Hệ ý thức phong kíên và sự thất bại của nó trước các nhiệm vụ lịch sử, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, 1996, tr 396.

5. “MỜ LỆ SONG NGƯ DẠ CẢM HOÀI” (Kỷ niệm 140 năm ngày mất của Nguyễn Trường Tộ (28-11-1871 – 28-11-2011)
Vũ Ngọc Khánh & Chương Thâu 
Có lẽ đầu đề bài viết (lấy từ một câu thơ của chính Nguyễn Trường Tộ) khiến cho đôi người ngạc nhiên. Nhưng không, chúng tôi thành thực nghĩ rằng đây mới là câu thơ nói đúng tâm trạng của Nguyễn Trường Tộ sau bao nhiêu nỗ lực bất thành, để soạn sửa từ giã cõi đời với một niềm u uất.
Chúng ta đã nhói về Nguyễn Trường Tộ nhiều, đã có nhiều công phu phát hiện và nghiên cứu về ông. Nhưng thật ra vấn đề vẫn chưa khép lại sau nhiều vấn đề tưởng như đã nhất trí, nay vẫn lộ ra những ý kiến ngược chiều. Có lẽ giờ đây, trong cõi u huyền, Nguyễn Trường Tộ vẫn có nhiều băn khoăn vướng mắc. Lần này, chúng ta có thể đi đến điều nhất trí không.
*
*           *
Muốn nói gì thì nói, chúng tôi nghĩ rằng không thể chối cãi được một điều rõ rệt: Nguyễn Trường Tộ là một công dân Việt Nam, có nhiệt tâm về đất nước, có khả năng phục vụ cho đất nước. Mặc dầu ông cũng có những hạn chế, những khó khăn và phải kết thúc cuộc đời mình trong não nùng ưu uất. Nhưng cái tâm cái chí của ông vẫn còn đó. Hình như cả trong lịch sử chính trị, lịch sử văn hóa Việt Nam, chúng ta chưa có dịp minh định vị trí cho ông. Ông là con người thế nào trong lịch sử? Là một giáo dân, một nhà trí thức, một chiến sĩ duy tân, một người thất bại? Không! Tất cả những điều đó đều không phù hợp với ông. Ông có chí, có tài; ông đã sống giữa đời, đã có công xuất xử, nhưng ông đã không thành công. Không thành công, nhưng cái tâm vẫn còn, cái chí vẫn còn. Đúng hơn cả, dù hoàn cảnh khác nhau, cách hoạt động và xuất xử khác nhau, ông vẫn có thể sánh với những chí sĩ xưa nay trong lịch sử. Ông xứng đáng là một nhà chí sĩ.
Là chí sĩ, ông có một chí nguyện rõ ràng. Chí nguyện ấy là để phục vụ cho quốc gia dân tộc. Dù muốn dù không, không ai có thể phủ nhận được điều này, kể cả những người có ác ý hoặc thiếu thiện cảm đối với ông. Tất nhiên ông cũng phải có những sai sót nhất định. Đã có hai khuynh hướng: ca ngợi ông hết lời nhưng cũng tìm ra sự thiếu sót của ông, như là ông không biết dựa vào dân, không thấy nhiệm vụ thôi thúc trước mắt là phải đánh thẳng vào quân xâm lược, v.v…; một khuynh hướng nữa là bài bác ông kịch liệt, tìm cách suy đoán đến mức xem ông hẳn hoi là một tên Việt gian! Có lẽ giọt nước mắt của oonbg làm mờ cả đảo Song Ngư trong niềm ưu uất đã nhỏ ra về sự đánh giá bất công như thế.
Chúng tôi nghĩ rằng Nguyễn Trường Tộ xứng đáng là một nhà chí sĩ khả kính, bởi vì ông đã để lại cho chúng ta nhiều bài học sáng giá. Trước tiên đó là bài học tuyệt đối trung thành đối với dân tộc. Phải thấy rõ đất nước, thiết tha yêu nước mới có thể nghĩ ra, viết ra được những bản điều trần như thế. Chúng tôi ngạc nhiên những kẻ đánh giá ông là Việt gian. Có tên Việt gian nào mà nghĩ ra được những phương châm kế sách đối phó với kẻ thù, chấn hưng đất nước? Gần như không có một vấn đề gì có lợi cho bước đi của dân tộc mà không được ông vạch ra: trị an, binh bị, canh nông, kỹ nghệ, giáo dục, ngôn ngữ, ngoại giao, v.v…, vấn đề gì cũng được đề cập đến. Những vấn đề ấy cần thiết trước mắt, mà đối với chúng ta ngày nay vẫn còn có giá trị thời sự.
Tiếp theo bài học về quyền lợi, về sự sinh tồn của đất nước ở con người cá nhân Nguyễn Trường Tộ là bài học dấn thân. Mặc dầu bị người ta không hiểu, không dùng, nhưng Nguyễn Trường Tộ không hề chán nản. Không có đất tung hoành, nhưng ông đã không tỏ ra mỏi mệt, luôn luôn tự nguyện dấn thân. Vấn đề ông nêu ra, ông cũng nói hẳn là ông có khả năng làm được và xin nhận việc để làm vì nghĩa nước và vì lẽ tiến hóa của thời đại. Trong hoàn cảnh khó khăn nhất, ông vẫn dấn thân không sợ sự nghi ngờ. Không được ở Nghệ An thì ông vào Đà Nẵng. Ông đi Hương Cảng, về Quảng Châu, đến Paris sang La Mã. Ông tự thân đi tìm gặp những Nguyễn Bá Nghi, Trần Tiễn Thành, Phạm Phú Thứ, Ngụy Khắc Đản… và cả vua Tự Đức. Chân thành và hăng hái, ông buộc họ phải chấp nhận mình, đã không sử dụng ông. Ông xin dùng thuyền máy, mua sách vở, máy móc; xin mở trường học, cho con em đi du học. so với nhiều người, ông ở trong cảnh ngộ éo le hơn, nhưng ông vẫn cứ dấn thân không sợ tị hiềm. Sự dấn thân như vậy quả là chân thành và dũng cảm.
*
*           *
Chúng tôi thấy có một số ý kiến gần đây – chủ yếu là của các người ở nhóm Giao Điểm sống ở nước ngoài, có điều kiện khai thác được một số tài liệu tiếng Anh, tiếng Pháp cả trong phạm vi Công giáo và ngoài Công giáo. Những tài liệu ấy có thể có ích cho việc nghiên cứu đánh giá Nguyễn Trường Tộ. Tài liệu tuy phong phú, nhưng hình như cũng có ít nhiều hạn chế trong việc trích dẫn, sử dụng… Thí dụ:
+ Những tài liệu cho thấy có nhiều vị cha cố đúng là “những tên thực dân” thứ thiệt như trường hợp Bá Đa Lộc hay Penlơranh. Nhưng trường hợp Ngô Gia Hậu (Gauthier) thì chưa được cụ thể cho lắm. Đọc kỹ, chúng tôi chỉ mới biết ông này có liên hệ nhiều với quân đội thực dân, đã đi nhiều nơi, ở nhiều nơi để làm việc đạo. Còn có đúng ông ta là một tên gián điệp nguy hiểm không. (Ông Bùi Kha nêu ra sáu tư liệu ở trang 136. Bản in ronéo năm 2011, mà không cụ thể!). Ông Gauthier đã hướng dẫn Nguyễn Trường Tộ công khai hay kín đáo, làm những việc gì có hại cho đất nước, trực tiếp hay gián tiếp, trở thành Việt gian và “tay sai giặc đội lốt thầy tu” như thế nào? Chúng tôi rất chờ đợi những phát hiện đâu đó về những âm mưu thủ đoạn của tên “gián điệp” này mà các vị (ở nước ngoài) có thể công bố được! Thêm vào đó cũng có nhiều tư liệu cho biết là Gauthier cũng có nhiều điểm không tin Nguyễn Trường Tộ, nhất là Nguyễn Trường Tộ thì nói rõ trong báo cáo là việc làm của ông ta, xin đừng cho Gauthier biết. Vậy thì quan hệ giữa Gauthier với Nguyễn Trường Tộ vẫn có chỗ chưa rõ ràng. Còn việc Nguyễn Trường Tộ đi theo Gauthier hàng mấy chục năm với tư cách là người tháp tùng để thực hiện mưu đồ phản quốc thì thực chưa nên kết luận vội.
+ Nhiều tài liệu đã dành quá nhiều trang để cho ta biết rất nhiều về cha cố đấng bề trên không làm việc đạo mà chỉ làm việc đời, tham gia vào nhiều hoạt động của thực dân xâm lược, đàn áp, v.v… Đó cũng là điều liên quan để giúp vào việc tham khảo. Nhưng căn cứ vào đấy mà bảo các giáo sĩ, linh mục phương Tây tha hóa như thế, thì giáo sĩ Nguyễn Trường Tộ tất cũng như thế thì chỉ là mang máng có tính liên hệ, chứ không dễ dàng chấp nhận được. Án tại hồ sơ. Hồ sơ không có mà chỉ là suy luận, ước đoán để ghép tất cả vào một bị thì làm sao có thể thuyết phục được. Tài liệu của hai bạn Việt kiều (Bùi Kha và Chung Ngọc) chỉ có thể cho chúng tôi biết sơ sơ vậy, chứ không thể dùng để nói chuyện về Nguyễn Trường Tộ được!
Có lẽ ở đây, về phần liên quan đến Công giáo, chỉ có thể nhận định một điều: Lý thuyết của Công giáo là con người chỉ biết đến Chúa, chỉ có nước Chúa, chứ không có Tổ quốc. Nguyễn Trường Tộ là một người Công giáo đạo gốc, lại có học hành, tất phải chịu ảnh hưởng ấy. Do đó mà khi bàn rộng ra những chuyện về loài người chịu ơn Chúa, vâng lời Chúa, v.v…, Nguyễn Trường Tộ không nói khác được. Nhưng nói theo lý thuyết mà làm hay nghĩ khác với lý thuyết vẫn là một thực tế trong đời đấy thôi! So sánh những việc làm, những ý đồ của Nguyễn Trường Tộ, chúng tôi lại thấy ở đâu đó, Nguyễn Trường Tộ đã lộ ra những điều khang khác. Điều này sẽ xin phát biểu thêm ở phần sau đây.
+ Đọc các văn phẩm (điều trần), nghe các chuyện giao thiệp của Nguyễn Trường Tộ, chúng tôi nhận ra một điều khá rõ rệt là: Con người học thức như vậy, có tấm lòng thiết tha với nước nhà như vậy, tại sao không thấy ông liên hệ gì đến lịch sử nước nhà? Không hề thấy ông nói gì đến Đức tổ Hùng Vương, đến Bà Trưng, Bà Triệu, đến Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, v.v… Rõ ràng ông có thiết tha với nước nhà, nhưng ông không nói gì (hay là vì phải theo ý thức của người theo đạo?) không nhắc lại lịch sử của cha ông. Ông cũng không có một liên hệ gì đến cảnh vật của non sông đất nước, di tích thắng cảnh, v.v… Cũng có đấy. Có hai lần ông nhắc đến đảo Song Ngư (quê hương ông) và nhắc đến việc Đào Duy Từ xây Lũy Thầy (nơi ông thường qua lại). Có thể cũng do sự giáo dục (và bắt buộc) của Công giáo chăng?
Điều rõ ràng mà ta thấy ở Nguyễn Trường Tộ là quả thực ông có quan tâm đến đất nước, nhưng chủ yếu là quan tâm đến tình hình trước mắt, đến cái kém cỏi của nước mình không theo được sự tiến bộ của phương Tây. Đây mới là điều ông suy tư, ông mơ ước và muốn bắt tay vào, muốn được thực sự lao mình vào thực tế để cải thiện thực tế. Ông không nói ra được như cách nói của chúng ta. Nhưng vấn đề duy tân ở nơi ông thì rõ rệt.
+ Cũng về vấn đề duy tân, chúng tôi muốn xin lưu ý một điều: Hình như lâu nay ít người để ý. Một số bạn Việt kiều tìm cách tỉa tót xem bài Thiên hạ phân hợp đại thế luận xem có những kẽ hở, những thiếu sót gì. Chúng tôi cho rằng vấn đề nên lưu ý là ở chỗ khác. Hình như đây là lần đầu tiên mới có người ở Việt Nam nói về một điều mới trong cách nhận định về văn hóa. Cả nước ta lâu nay chỉ biết đến văn hóa Đông phương mà cũng chỉ Đông phương trong hai chiều Trung Quốc và Việt Nam. Mãi sang đầu thế kỷ XX mới có Phan Bội Châu tiếp cận với văn hóa khu vực. Cụ Phan đã biết đến Nhật Bản, Triều Tiên… và đã đề ra việc thành lập phương châm hội “Đông Á đồng minh” và đề ra phương châm “Liên Á sô ngôn”. Bà con Công giáo tiếp cận được cái mới ở phương Tây nhưng không nhìn được theo lăng kính chính trị và văn hóa, mà lại bị bó buộc bởi phép tắc của Nhà thờ. Chỉ có Nguyễn Trường Tộ với bài này nói đếnđại thể luận, như vậy là tiếp cận với văn hóa thế giới. Văn hóa dân tộc là từ xưa, văn hóa khu vực chỉ mang máng thời Lê Quý Đôn, sau mới có Phan Bội Châu tiếp nối. Nhắc đến thiên hạ lần này với cái đại thế phân hợp rõ ràng là cái mới của Nguyễn Trường Tộ đưa đến cho nước nhà. Loay hoay trong vòng trói buộc của luật lệ Công giáo mà có thấy được ánh sáng mới, ánh sáng thực thì phải công nhận là người có con mắt nhìn thấu suốt. Không nhìn nhận phần ấy mà chỉ bắt bẻ theo lối chữ nghĩa thì sao mà thỏa đáng được. Và cho đến giờ đây ta đang phải tiếp cận với thiên hạ đại thế trong hoàn cảnh thiên niên kỷ mới này.
*
*1         *
Có một điều thoáng thấy băn khoăn, là xem những điều bàn bạc về Nguyễn Trường Tộ lâu nay, hình như ta không chú ý lắm về tâm sự của ông. Tâm sự ấy thường được gửi gắm vào những sáng tác những câu thơ (tuy Nguyễn Trường Tộ không thật tỏ ra gắn bó với thơ ca). Hầu như những vần thơ ngắn ngủi, bất chợt ấy mới thực sự cho ta thấy phần sâu kín trong tâm hồn của Nguyễn Trường Tộ. Bằng thơ ca, ông muốn nói rõ là tâm hồn, chí nguyện của mình vẫn hướng về đất nước. Chúng tôi không tin là một tên “Việt gian” lại có thể ngẫm nghĩ rằng:
Hồi chiếu dẫu không nương ánh sáng,
 Hướng dương xin vẫn nếp hoa quỳ”.
(Nhật ngự tuy vô hồi chiếu xứ,
 Quỳ tâm nhưng hữu hướng dương thầm).
Hoặc như những câu thơ ông viết cho Phan Thanh Giản:
Ngụy Tào sống gửi - Từ nguyên Trực,
 Tần Lã không chờ - Lỗ Trọng Liên”.
(Ký thân Tào thị Từ Nguyên Trực,
 Bất đế Doanh Tần Lỗ Trọng Liên)[1].
Cái ý rõ ràng như thế đã tỏ ra một quyết tâm sắt đá. Tại sao ta lại có thể suy diễn khác đi một tuyên ngôn trung thực này? Có lẽ thực ra, ông chỉ có lỗi là người Công giáo nên bị nghi ngờ, bị thành kiến. Cho nên, theo chúng tôi nên suy nghĩ về tâm lý, về tư tưởng của người Công giáo này. Nhiều bài viết gần đây đều nhắc đến những linh mục, những giáo sĩ, v.v… có nhị tâm, với dụng ý là có thể xem Nguyễn Trường Tộ cũng có thể không khác họ. Chúng tôi lại thấy có cái gì hơi khang khác. Đành rằng ông theo đạo, phục vụ họ đạo và có ảnh hưởng vì Chúa sinh ra loài người, chứ ta không thấy giáo sĩ này gắn bó nhiều với các Đức cha, các Tông đồ. Trong các bài điều trần duy tân của ông chỉ có bài nói đến Tôn giáo là có những đề nghị thiết thực, cụ thể. Ở các bài khác, ý của Chúa, ý của các Thánh tông đồ hình như rất hạn chế. Không thấy ông viện dẫn câu nói của một vị Thánh, một Đức Giáo hoàng nào, mà lời giảng của Chúa cũng ít khi được viện dẫn. Nguyễn Trường Tộ có tâm sự và tâm sự ấy ông luôn luôn giữ cho non nước, cho mây gió mà thôi. Ở chốn xa xăm như khi ở Hương Cảng, tâm sự của ông là sự bồi hồi, là thấy thân mình như đám mây trôi (bồi hồi như tai bích vân trung). Rồi về đến quê nhà, thì lại thấy mắt nhòa ngấn lệ. Sao ta lại coi nhẹ được sự chí tình này mà đưa thêm những suy luận áp đặt và những chứng dẫn ngoại vi ở đâu đâu?!

[1]. Đời Tam Quốc (Trung Quốc), Từ Nguyên Trực tức Từ Thứ theo Lưu Bị, bị Tào Tháo bắt mất mẹ, ông phải về theo họ Tào để cứu mẹ, nhưng ông thề suốt đời nhất định không bày mưu cho họ Tào.
    Đời Chiến Quốc, Lỗ Trọng Liên cho Tần là nước mọi rợ, không chịu tôn Tần Thủy Hoàng làm Hoàng đế. Ông nói thà nhảy xuống biển Đông mà chết chứ không chịu làm dân của nhà Tần.

6. Nguyễn Trường Tộ và những điều trần của ông
Nguyễn Phan Quang
Cho đến nay, chắc hẳn còn những nhận thức và đánh giá khác nhau về nhân vật Nguyễn Trường Tộ và những điều trần của ông. Ở đây, chúng tôi chỉ xin có vài suy nghĩ về tính « khả thi » hay « bất khả thi » của những điều trần trong bối cảnh lịch sử Việt Nam những thập niên 60-70 của thế kỷ XIX.
I
Như chúng ta đều biết, sau khi thực dân Pháp chiếm trọn 6 tỉnh Nam Kỳ (1867), tình hình kinh tế-xã hội nước ta càng khủng hoảng nghiêm trọng, Trước nguy cơ quân Pháp mở rộng xâm lược ra cả nước, nhà Nguyễn càng tỏ ra lúng túng trong việc phòng thủ. Suốt 10 năm đối phó với ngoại xâm (1858-1867), việc tổ chức, trang bị, huấn luyện quân đội vẫn không có cải tiến gì đáng kể.
Ở Bắc hà, đời sống nhân dân khốn đốn vì luôn bị nạn đói, dịch tễ, bão lụt đe dọa, nhất là từ khi Nha đê chính bị bãi bỏ (1861). Liên tiếp hai năm 1867, 1868 các tỉnh trung du, đồng bằng và ven biển bị bão lụt lớn, nhân dân xiêu tán.
Kinh tế nông nghiệp sa sút kéo theo sự đình đốn của công thương nghiệp. Nhiều đô thị suy tàn dần, giao thông thương mại đường bìển nằm trong tay Chiêu thương cục của nhà Thanh. Những cố gắng bình ổn vật giá và đong lường không còn hiệu quả. Nha Bình chuẩn thành lập theo sáng kiến của Phan Huy Chú chỉ tồn tại mấy năm, rồi cũng bị bãi bỏ. Bấy giờ có tàu buôn nước Anh đến cửa Thị Nại (Bình Định) xin thông thương, có sứ thần của Tây Ban Nha đến Huế trình quốc thư (4-1870), có lãnh sự Phổ ở Hồng Kông liên hệ với Nha Thương bạc xin giao hảo… nhưng triều đình bỏ qua không xét hoặc không trả lời.
Tình hình tài chính ngày một kiệt quệ do chi phí chiến tranh và bồi thường chiến phí cho thực dân Pháp buộc nhà Nguyễn phải tăng các sắc thuế (1867), bán ruộng công làm ruộng tư (1869), kể cả bán quan tước để tăng thu nhập. Lại thêm nạn thổ phỉ (từ biên giới phía bắc tràn sang) gây tai họa cho nhân dân Bắc hà. Nhũng đám « giặc khách » Cờ Trắng, Cờ Vàng cùng cướp biển « Tàu ô » mặc sức tung hoành khắp thượng du, trung du và ven biển.
Nắm được tình hình suy nhược cao độ của triều đình Huế, thực dân Pháp càng xúc tiến ý đồ mở rộng xâm lược ra phía bắc, thậm chí muốn biến vua quan nhà Nguyễn thành lực lượng hỗ trợ nhằm « đặt Bắc Kỳ dưới quyền đô hộ của Pháp mà chính phủ Pháp không phải tốn một người hay một xu nào », như lời đô đốc Dupré báo cáo về bộ Hải quân và Thuộc địa Pháp.
Không thể bó tay nhìn đất nươc lâm nguy, những sáng kiến đổi mới đất nước được đề xuất lẻ tẻ trước kia trở thành một trào lưu canh tân trong những năm 60 của thế kỷ XIX. Nhiều người trong giới quan lại, sĩ phu ở các địa phương, trong đó có những người từng đi ra nước ngoài quan sát, tiếp xúc, học hỏi những thành tựu khoa học kỹ thuật châu Âu, trở về suy ngẫm trước tình hình đất nước, mà trường hợp Phạm Phú Thứ, Trần Đình Túc, Nguyễn Huy Tế, Đinh Điền v.v… là những ví dụ.
Những sáng kiến của họ đều xuất phát từ nỗi trăn trở trước vận nước và những đề xuất của họ cũng rất khiêm tốn. Đại để : họ xin triều đình mở mang kinh tế (tận dụng ruộng đất bỏ hoang, khai thác khoáng sản), đóng thuyền máy hơi nước, nâng cao hiệu quả chiến đấu của binh lính, « mở cửa » đất nước, xây dựng hải cảng, lập thương quán ở các nước, đặt quan hệ đối ngoại với nước Anh, mời chuyên viên kỹ thuật các nước đến giúp, không để Pháp độc quyền v.v…
Đáng chú ý hơn cả là những điều trần của Nguyễn Trường Tộ (1828-1871). Ông quê ở Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Năm 19 tuổi (1847), ông quyết định đi sâu tìm hiểu những thành tựu khoa học châu Âu, bắt đầu bằng những tri thức thu lượm được tại chủng viện Xã Đoài. Sau đó ông tìm cách đi du lịch Hồng Kông, Singapore rồi sang Pháp (1858) lưu học ở Paris hai năm.
Năm 1861, Nguyễn Trường Tộ về nước, trước sau gửi lên triều đình Huế một hệ thống sáng kiến canh tân bao quát mọi lãnh vực. Ông lên án mạnh mẽ ý thức hệ Khổng giáo lỗi thời mà nhà Nguyễn đang cố sức duy trì. Ông đề xuất những biện pháp cải cách cụ thể về các mặt kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao, tôn giáo, văn hóa giáo dục (1).
II
Một ý tưởng cơ bản của Nguyễn Trường Tộ là : muốn nói đến chuyện canh tân thì trước hết phải « tạm hòa » với Pháp. Đã có người nghiên cứu đánh giá cao ý tưởng này, cho rằng đó là « một sách lược » để thực hiện canh tân, « chuẩn bị các điều kiện và khi có thời cơ thì đánh đuổi Pháp » (2).
Xưa nay, trong chiến tranh - kể cả chiến tranh vệ quốc - việc đánh hay hòa cũng là chuyện bình thường, và Việt Nam cũng vây. Hòa để bảo toàn lực lượng, để mở rộng căn cứ (như trong khởi nghĩa Lam Sơn), hòa để lùi một bước tiến hai bước, có khi vừa đánh vừa đàm v.v… Thế nhưng hoàn cảnh Việt Nam những năm 60-70 của thế kỷ XIX mà nói chuyện « hòa » với thực dân Pháp để tiến hành canh tân đất nước thì e rằng người Pháp không chịu. Vì sao vậy ?
Theo Nguyễn Trường Tộ, nước Pháp - cũng như các nước phương Tây – là một nước rất mạnh : « Ở trên lục địa, tất cả những chỗ nào có xe thuyền đi đến…, mặt trời mặt trăng soi chiếu... thì người Âu đều đặt chân tới, như tằm ăn cá nuốt, ở đâu thuận với họ thì phúc, chỗ nào trái với họ thì họa ; ai hoà với họ thì được yên…, thiên hạ không ai dám kháng cự lại họ… Huống hồ nước Việt ta là một nước bé nhỏ, tại sao lại muốn trái đạo trời mà làm những việc thiên hạ khó làm được… ? Hơn nữa, ở châu Âu, việc võ bị chỉ có nước Pháp là đứng hạng nhất, hùng mạnh không thua ai cả ».
Nguyễn Trường Tộ cũng tiên liệu rằng : « Nếu như ngày kia Pháp đưa quân đến thì việc vượt biển cũng như đi trên đất bằng, trèo non như đi trên đường bộ. Nước ta tựa núi kề biển, địa thế như một con rắn dài…, đầu đuôi không liên lạc được với nhau, nếu họ đánh một trận thì ta đã bị cái thế chia năm xẻ bảy… ».
Trong lúc đó, vẫn theo Nguyễn Trường Tộ, « quân lính của ta lại chuyên dùng gươm dao gậy gộc, không thạo súng ống… Nếu họ dùng súng trường từ xa bắn suốt tới, thì quân ta chưa giáp trận mà gươm dáo đã tan tành. Khi họ đến gần thì dùng lưỡi lê xung phong một người đương được cả 100 người, xông lên như nước sông chảy xiết. Lúc ngừng lại thì như núi dựng, xông vào chẳng qua cũng như chuồn chuồn lay cột đá mà thôi.(…). Đem quân nhút nhát của mình ra đánh lại quân vô địch của họ thật chẳng khác nào như bắt muỗi đội núi, đem dê đấu hổ (…). Quân Pháp đánh thành không cần dùng những phương pháp bắc thang, đường hầm, xe kiếm, bao đất, mà đại pháo bắn ra thì núi lở, gò sập (…), trèo thành như lên đệm gối, sở dĩ lâu nay họ chưa dùng đến là vì cắt cổ gà cần gì phải dùng dao mổ trâu… ».
Theo phân tích của Nguyễn Trường Tộ thì nước Việt Nam đứng bên cạnh nước Pháp chẳng khác nào một đứa trẻ gầy còm đứng bên cạnh một người khổng lồ. Hẳn rằng Nguyễn Trường Tộ chỉ muốn nói lên điều ông nghĩ, không có ý « hù dọa » vua quan triều Nguyễn.
Sở dĩ chúng tôi trích dẫn hơi rườm rà những đoạn trong Di thảo của Nguyễn Trường Tộ, là vì từ trước tới nay trong giới nghiên cứu chẳng hiểu vì sao mà chưa mấy ai thực sự lưu ý những chi tiết như trên ; mặt khác chúng tôi cũng muốn được hiểu rằng : Nguyễn Trường Tộ thật lòng muốn vua quan triều Nguyễn hãy mở to đôi mắt để nhìn cho rõ quân lính của nước Pháp hùng mạnh như thế nào, mà quân lính của triều đình thì yếu nhược ra làm sao. Nếu thực tế đã là như vậy mà đòi chống cự với nước Pháp, liều mình như chẳng có, thì khác nào tự sát.
Tóm lại, muốn sống thì phải hòa (hòa chứ không phải đầu hàng), không hòa là mất hết, làm gì còn ngai vàng, còn đất nước mà canh tân, mà độc lập để phát triển ! Và Nguyễn Trường Tộ khẳng định : « Sự thể hiện nay chỉ có hòa (…) không hòa mà chiến thì chẳng khác gì cứu hỏa mà đổ thêm dầu, không những không cứu được mà còn cháy cả mình nữa ».
Ông chân thành mách bảo triều Nguyễn rằng : « không thể tiếc rẻ vài mảnh đất mà để mất cả giang sơn ». Vua quan nhà Nguyễn chỉ mới « trao tặng » ba tỉnh miền Đông, tiện thể họ lại « xin » nốt ba tỉnh miền Tây : nếu vua quan không rút kinh nghiệm ngay mà cứ nhùng nhằng thì có khi họ sẽ nổi nóng bắt « trao tặng » luôn cả nước, bấy giờ có hối tiếc thì đã muộn !
Về điểm này, Nguyễn Trường Tộ giải thích khá cặn kẽ : « Nay có đánh họ cũng không đi, hòa họ cũng không đi. Họ chỉ xin mình miếng đất mà thôi, nếu cứ kiên quyết không cho, họ sẽ lập mưu cướp hết, từ khách quay lại làm chủ. Như thế là tiếc một hai mảnh đất mà đem cả nước trao cho họ. Nếu biết rõ họ đã đến là không đi…, thì đánh với họ tức là mất cái lớn không đáng mất…, không kêu nài gì được (…) Hoặc giả có người nói đất đai tổ tiên để lại không được đưa gang tấc nào cho kẻ khác. Như vậy là quá câu chấp mà để hỏng việc nước. Sao không xem xưa nay có ai làm chủ giang sơn mãi đâu (…) . Vả lại những điều mà nước Pháp xin, chẳng qua là để mở bến tàu, lập phố xá, thông cửa bể để buôn bán… ». Và để cho vua quan triều Nguyễn yên tâm hơn, Nguyễn Trường Tộ cam đoan như đinh đóng cột : « Xưa nay chưa có ai buôn bán mà âm mưu chiếm nước người ta bao giờ » (3).
Chỉ tiếc rằng Nguyễn Trường Tộ lo ngại vua quan triều Nguyễn hoang mang, nên ông chưa muốn nói rõ cho họ hiểu cặn kẽ hơn tâm địa thực sự của thực dân Pháp đối với nước ta, ít nhất là từ ngày họ nổ súng bắn vào Đà Nẵng giữa năm 1858 ; mà tâm địa này thì một người thông kim bác cổ như Nguyễn Trường Tộ thấu hiểu hơn ai hết. Có lẽ cũng chính vì vậy mà cho mãi đến năm 1871 Nguyễn Trường Tộ vẫn cứ thúc giục vua quan triều Nguyễn phải chớp ngay « thời cơ đã đến » để thực hiện canh tân đất nước !
Vậy thì « thời cơ » theo Nguyễn Trường Tộ là như thế nào ?
III
Tháng 9-1871 (hai tháng trước khi qua đời), Nguyễn Trường Tộ mong triều đình nhà Nguyễn thực hiện những đề nghị canh tân mà ông đã đề xuất từ năm 1963 : « Bài Tế cấp luận của tôi nếu đem ra thực hành trăm năm cũng chưa hết ; thế mà bảy tám năm nay chưa thấy thực hành tý nào, chả lẽ đợi đến trăm năm sau mới thực hành được sao ? Nay có thể làm được rồi, thời đã đến, thế đã có, mở rộng giao thương để đem của cải thiên hạ đến, chấn hưng phương pháp mới để làm hưng thịnh nguồn lợi trong nước. Tiến hành cả hai thì mọi cái hỗ trợ nhau, lợi ích sẽ ùn ùn đưa đến. Tôi tính toán cái thời hạn 20 năm chỉ một ngày có thể hy vọng được ».
Theo Nguyễn Trường Tộ, các năm 1871-1872 là thời gian các nước tư bản đang cạnh tranh nhau gay gắt, đặc biệt là tình hình nước Pháp sau thất bại với Phổ. Vì vậy, « nếu để thời cơ bối rối của họ đi qua thì còn làm gì được nữa, hiện nay hết sức khẩn cấp. Hãy đứng dậy nhảy xổ ra bắt tay thực hiện ngay. Thời đã đến rồi. Thời khó mà dễ mất. Chớ nên nói hãy để sang năm » (4).
Những suy đoán trên đây của Nguyễn Trường Tộ về tình hình nước Pháp những năm 1870-1871 không phải hoàn toàn không có cơ sở. Nhưng theo chúng tôi, điều quan trọng hơn là cần tìm hiểu hai vấn đề sau :
Một là : về mặt chủ quan, liệu rằng cho đến những năm 60, 70 của thế kỷ XIX, triều đình Huế có còn khả năng xoay chuyển tình thế như thời vua Gia Long còn trị vì, hay ít ra là khoảng những năm cuối đời Minh Mạng, khi nhà vua bừng tỉnh về đường lối « đóng cửa » thất sách của mình ? Về vấn đề này, chúng tôi đã nói qua ở phần trên, khi nhắc lại thực trạng xã hội Việt Nam trước và trong thời gian diễn ra những đề nghị canh tân, kể cả những điều trần của Nguyễn Trường Tộ.
Hai là : về mặt khách quan, liệu rằng chính phủ Pháp và thực dân Pháp nói riêng, có vì « tình hình bối rối » của họ trong các năm 1871-1872 mà đành bó tay nhìn vua quan triều Nguyễn xông ra « chớp thời cơ » để canh tân đất nước, một khi quyết tâm xâm chiếm toàn bộ nước ta của thực dân Pháp đã được xác định ?
Như mọi người đều biết, sau khi hiệp ước 1862 được phê chuẩn, vua Tự Đức cử một phái bộ sang Pháp, xin vua Pháp (Napoléon III) cho chuộc lại ba tỉnh miền Đông. Tháng 11-1863, vua Pháp hứa với phái bộ sẽ cử đại diện (Aubaret) sang Huế để sửa lại hiệp ước 1862.
Sau một tháng điều đình (giữa tháng 6 đến giữa tháng 7-1864), Aubaret và Phan Thanh Giản ký bản điều ước gồm 21 khoản : Pháp trả lại cho Tự Đức ba tỉnh miền Đông nhưng vẫn làm chủ Sài Gòn, Thủ Dầu Một, Mỹ Tho ; đồng thời triều đình Huế thừa nhận sự « bảo hộ » của Pháp trên lục tỉnh. Các điều khoản về thương mại, truyền giáo… vẫn giữ nguyên như các điều ước 1862.
Về thực chất, « tạm ước » Aubaret - Phan Thanh Giản không lợi hơn, thậm chí nghiêm trọng hơn đối với vận mệnh đất nước so với hiệp ước 1862. Thế nhưng ngay sau khi đề án tạm ước vừa đệ trình vua Pháp và Aubaret chưa kịp đến Huế, thì thực dân Pháp (ở nước Pháp cũng như ở Nam Kỳ) đứng đầu là bộ truởng bộ Hải quân và Thuộc địa Chasseloup Laubat cực lực phản đối, yêu cầu vua Pháp ra lệnh đình chỉ việc triển khai đề án tạm ước Aubaret.
Sự phản đối này thể hiện càng quyết liệt qua ba bức thư (viết khoảng cuối tháng 9 đầu tháng 10-1863) mà chúng tôi tìm thấy trong Kho lưu trữ quốc gia Pháp tại Paris. Tác giả ba bức thư này là Rieunier - sĩ quan tham mưu ở Nam Kỳ - gửi cho một nghị sĩ có thế lực ở Viện lập pháp, đồng thời cũng là tác giả viết cuốn « Vấn đề Nam Kỳ xét theo quyền lợi người Pháp » để kịp thời phân phát trong chính giới thực dân Pháp, làm áp lực phản đối việc phái bộ Phan Thanh Giản xin chuộc đất.
Nội dung ba bức thư nhấn mạnh yêu cầu chính phủ Pháp không giảm bớt hoặc triệu hồi số quân viễn chinh ở Nam Kỳ, liệt kê những thành tựu « khai hoá » của Pháp ở Nam Kỳ trong 4 năm qua (1859-1863). Vấn đề cấp bách trước mắt - theo tác giả - là phải chiếm ngay toàn bộ Nam Kỳ :
            « Với những tài liệu gửi đến Ngài trong bức thư trước, tôi hy vọng giúp Ngài khẳng định tầm quan trọng và triển vọng đăc biệt của xứ Nam Kỳ, một báu vật mà Thượng đế đã giao phó cho chúng ta, cũng là vùng đất mà nước Anh thực sự thèm khát nhưng không dám thú nhận (…) Tại sao Chính phủ không nghĩ rằng cần phải có 3000 hay 4000 lính để thúc đẩy nhanh chóng việc chinh phục thuộc địa tuyệt vời này ? Hiện ở Nam Kỳ chúng ta chỉ có khoảng 1800-2000 lính. Và nếu chiến tranh lại nổ ra ?!! Rồi người ta sẽ hối tiếc khi không còn thời cơ nữa… » (Kho lưu trữ quốc gia Pháp – Fonds Berryer, 223AP-d2).
Cuối cùng, Napoléon quyết định hủy bỏ tạm ước. Về phía triều đình Huế, vua Tự Đức cử Phan Thanh Giản làm khâm sai đại thần ở ba tỉnh miền Tây, tiếp tục thi hành lệnh giải giáp quân đội và nghiêm trị những người nổi loạn.
Trên thực tế, ngay trong tháng 1-1865, được lệnh không thi hành tạm ước, đô đốc De Lagrandière xúc tiến kế hoạch chiếm nốt ba tỉnh miền Tây. Tháng 10-1866, y cử Vial ra Huế yêu cầu triều đình để cho Pháp cai trị luôn ba tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Tháng 2-1867, một đại diện của De Lagrandière lại ra Huế đòi chiến phí hàng năm theo điều ước 1862 và nhấn mạnh yêu cầu giao quyền cho Pháp ờ ba tỉnh miền Tây. Triều đình Huế lúng túng, cuối cùng dành toàn quyền giải quyết vấn đề cho Phan Thanh Giản.
            Nắm được tâm trạng vua Tự Đức và triều đình Huế, De Lagrandière triển khai kế hoạch đã dự tính. Và chỉ trong vòng 7 ngày (từ 18-6 đến 24-8-1867), quân Pháp chiếm luôn ba tỉnh miền Tây không tốn một viên đạn. Bất lực trước tình thế, Phan Thanh Giản uống thuốc độc tự tử.
Thực ra, mưu đồ chiếm trọn Nam Kỳ của thực dân Pháp, để từ đó nuốt gọn toàn bộ nước ta không phải chỉ mới xuất hiện từ sau hiệp ước Nhâm Tuất (5-1862), mà là từ trước khi thực dân Pháp bắt đầu tấn công Đà Nẵng năm 1858. Một số chính khách có mặt lúc bấy giờ ở Trung Hoa như De Courcy đã đề xuất việc cần cử một đạo quân viễn chinh sang Việt Nam, hoặc như Bourboulon nêu ý kiến : « phải dứt khoát và phải làm đến cùng », nhằm bước đầu chiếm cho được vài vị trí nào đó ở Viêt Nam.
Nổi bật hơn cả là ý kiến của Huc, nguyên là một nhà truyền giáo tại Trung Hoa. Tháng 1-1857, Huc gửi lên hoàng đế Pháp một bản Ghi nhớ với những đoạn như sau :
            « (…) Cuộc cách mạng Pháp đã làm cho người ta quên xứ Nam Kỳ… Vùng Viễn Đông chẳng bao lâu nữa sẽ là nơi diễn ra những biến cố nghiêm trọng. Nếu Hoàng đế muốn, nước Pháp sẽ đóng một vai trò quan trọng và vinh quang ở vùng này ; ngày nay hoàn cảnh hoàn toàn thuận lợi hơn trước cho việc chiếm Nam Kỳ…, để từ đó chúng ta có thể chiếm lấy lãnh thổ Việt Nam…
            Chiếm lấy Việt Nam là việc làm dễ dàng nhất trên thế giới này và sẽ mang lại hiệu quả vô bờ bến. Tại biển Đông hiện nay, nước Pháp có quá dư lực lượng để làm công việc này…
            Đất đai Nam Kỳ cực kỳ màu mỡ, ngang hàng với những vùng đất chí tuyến giàu có nhất. Những sản phẩm chính có thể trao đổi, mua bán hiện nay của Nam Kỳ là đường, gạo, gỗ làm nhà, ngà voi v.v… Sau nữa là vàng và bạc với những mỏ rất giàu đã được khai thác lâu nay…
            Tóm lại, trong những điều kiện hiện nay, nước Pháp rất cần có một cơ sở giàu và mạnh ở Viễn Đông. Xét về tất cả mọi phương diện, Việt Nam là vị trí phù hợp với chúng ta nhất. Chúng ta có quyền chiếm lấy Việt Nam, mà đây lại là công việc dễ dàng nhất trong mọi công việc. Nước Pháp chẳng phải mất gì hết, có chăng chỉ là đánh mất những kết quả lớn lao cả về vinh quang lẫn của cải… » ( Dẫn theo Taboulet – La geste française en Indochine, Tome I, pp.401-403).
(…La révolution fit oublier la Cochinchine… L’Extrême-Orient sera bientôt le théâtre de graves évènements. Si l’Empereur le veut, la France pourra y jouer un rôle important et glorieux (…). Aujourd’hui, les circonstances sont plus favorables pour occuper en Cochinchine le territoire auquel la France a un droit incontestable…
            … L’occupation de la Cochinchine est la chose la plus facile du monde ; elle offrirait des résultats immenses. La France a, dans les mers de Chine, des forces plus que suffisantes pour exécuter cette entreprise…
            … (détails sur la fertilité du pays et la variété de ses produits) …
            … En résumé, il importe grandement à la France, dans les circonstances actuelles, d’avoir un établissement riche et puissant en Extrême-Orient. A tous les points de vue la Cochinchine est le poste qui nous convient le mieux. Nous avons le droit de l’occuper, l’occupation est des plus faciles. Elle ne coùtera rien à la France, elle ne peut manquer d’avoir de grands résultats en gloire et en richesse…).
*
Mưu đồ trước mắt và lâu dài của thực dân Pháp như vậy là đã rõ. Ba tỉnh miền Đông rồi ba tỉnh miền Tây kế tiếp nhau rơi vào tay Pháp, nhưng nhân dân Nam Kỳ vẫn phất cao ngọn cờ kháng chiến, mặc dầu điều kiện không còn thuận lợi như trước nữa.
Tháng 1-1872, lợi dụng việc triều đình Huế nhờ quân đội Pháp dẹp giặc biển ở Bắc Kỳ, Dupré cử viên trung tá hải quân Senez đem chiến hạm « Bourayne » ra Huế báo tin rồi tiến thẳng ra vịnh Bắc Kỳ. Mười tháng sau, cũng dựa vào lý do trên, tướng D’Arbaud (tạm thay Dupré nghỉ phép) lại đưa chiến hạm ra bắc, tiến sâu vào nội địa, tìm đường lên Hà Nội. Tuy bị các quan địa phương phản đối, viên trung tá Pháp vẫn lên bộ quan sát Hà Nội và các triền sông phụ cận, và đệ trình một kế hoạch đánh chiếm Bắc Kỳ. Tháng 5-1873, Dupré báo cáo về Pháp : « Việc đánh chiếm Bắc Kỳ là vấn đề sinh tử cho tương lai thống trị của chúng ta ở Viễn Đông » (J.Chesneaux dẫn trong Contribution à l’histoire de la nation vietnamienne, p.122).
Trong việc xâm lược Bắc Kỳ, thực dân Pháp ở Sài Gòn liên kết hành động với Jean Dupuis, một lái buôn Pháp đang kinh doanh ở Trung Hoa. Từ năm 1867, Dupuis dựa vào thế lực của quan nhà Thanh ở Vân Nam, cùng thực dân Pháp ở Sài Gòn bàn tính kế hoạch xâm nhập Bắc Kỳ bằng con đường sông Hồng.
Tháng 7-1873, thống đốc Nam Kỳ Dupré điện về Pháp ; « Bắc Kỳ đã được khai phóng do thắng lợi của Dupuis, tạo hiệu quả sâu rộng trong nền thương mại… Chiếm Bắc Kỳ là tuyệt đối cần thiết để bảo đảm cho nước Pháp con đường thông thương duy nhất này. Tôi không cần viện binh gì hết, tôi giải quyết bằng cách của tôi. Bảo đảm thắng lợi. » (B.S.E.I. 2è sem. 1947 – J.Chesneaux dẫn, Sách đa dẫn, tr.122).
Giữa lúc đó, triều đình Huế cử một phái bộ vào Sài Gòn yêu cầu thực dân Pháp ngăn chặn những hành vi ngang ngược của Dupuis ở Bắc Kỳ. Chớp cơ hội, ngày 11-10-1873, thiếu tá hải quân Francis Garnier được cử ra Hà Nội phối hợp với lực lượng của Dupuis, đột nhập thành Hà Nội, yêu cầu khai phóng sông Hồng.
Ngày 20-11-1873, thực dân Pháp tấn công thành Hà Nội ; tổng đốc Nguyễn Tri Phương uất ức nhịn ăn mà chết. Quân triều tan vỡ. Quân Pháp thừa cơ chia quân chiếm các tỉnh thành Hưng Yên, Hải Dương, Ninh Bình, Nam Định chỉ trong không đầy 20 ngày.
Mấy tháng sau đó, triều đình Huế lại phải ký tiếp với thực dân Pháp hiệp ước Giáp Tuất (15-3-1874), chính thức thừa nhận Nam Kỳ là thuộc địa của Pháp, phần còn lại của Việt Nam thì người Pháp được quyền chi phối ngoại giao, nội trị. Như vậy, việc thực dân Pháp thực sự đặt nền thống trị lên toàn cõi Việt Nam chỉ còn là vấn đề thời gian.
*
Trong bối cảnh xã hội Việt Nam những năm 60, 70 thế kỷ XIX, với quyết tâm chiếm đoạt Việt Nam bằng bất kỳ giá nào của thực dân Pháp, mà chúng tôi xin kể lại hơi dài dòng như trên, thì triều đình nhà Nguyễn (cả vua lẫn quan) dù có phép thánh, cũng không thể nào nghe theo lời thúc giục của Nguyễn Trường Tộ là phài chớp lấy « thời cơ » của các năm 1871-1872 mà « nhảy xổ ra » bắt tay thực hiện ngay những nội dung trong các điều trần của ông.
Trong thế yếu đến tột cùng như vậy của triều Nguyễn và trong điều kiện thực dân Pháp đã nắm chắc trong tay hai hiệp ước 1862 và 1874, thì những xét đoán của Nguyễn Trường Tộ về vấn đề « thời cơ » của các năm 1871-1872 đáng được trân trọng về mặt tâm huyết của ông, nhưng nghiêm túc mà nói thì đó là những xét đoán thiếu cơ sở thực tế, nếu không muốn nói là quá muộn màng, ảo tưởng, thậm chí người khó tính còn cho đó là « câu chuyện hài hước ».
IV
Hơn một thế kỷ nay, người ta đã bàn nhiều về tính « khả thi » hay « bất khả thi » của những điều trần. Có một sự ghi nhận nào đó khi cho rằng toàn bộ điều trần của Nguyễn Trường Tộ phản ánh tâm huyết của một trí thức có vốn hiểu biết sâu rộng, thiết tha tìm lối thoát giải nguy cho Việt Nam.
Có ý kiến nhận thấy những điều trần của ông không có gì xa vời, ảo tưởng, mà phần lớn nằm trong tầm tay của nước ta bấy giờ. Nhưng nhiệt tình và tài năng của ông đã bị bỏ qua, chỉ vì « điều không may cho Nguyễn Trường Tộ chính là đã ở vào một thời đại với một ông vua nhu nhược, với những quan lại vô trách nhiệm, với môt tầng lớp sĩ phu lỗi thời, lạc hậu » (Trương Bá Cần – Sách đã dẫn, tr.100).
Lại có ý kiến cho rằng : mãi đến năm 1871 Nguyễn Trường Tộ mới đề xuất « sự thể hiện nay chỉ có hòa ». nhưng từ 10 năm trước (1862) vua Tự Đức đã thử nghiệm một cuộc « hòa » (hiệp ước Nhâm Tuất) và kết quả là mất 3 tỉnh miền Đông, khiến cho thực dân Pháp tranh thủ xin nốt toàn bộ Nam Kỳ lục tỉnh (1867). Nếu Nguyễn Trường Tộ còn sống cho đến năm 1874 thì triều đình Huế còn một cuộc « hòa » ngoạn mục hơn với hiệp ước Giáp Tuất ; và nếu ông còn sống lâu thêm cho đến các năm 1883, 1884 thì các cuộc « hòa » mang tên Harmand và Patenôtre còn ly kỳ, hồi hộp hơn nhiều. Đã vậy thì đâu phải triều Huế ngán chuyện « hòa », chẳng qua vì càng « hòa » càng mất đất, mất quyền, cuối cùng là mất hết !
Ý kiến này cũng cho rằng : tầm cao trí tuệ của Nguyễn Trường Tộ thể hiện sâu sắc nhất là ở một số điều tiên đoán của ông, đại để : « họ đã đến là không chịu đi nữa », « con giao long khi thấy đầm vực thì nghĩ cách đầm mình chứ không thể nào chịu bỏ mà đi », hoặc : « hiện nay quân Pháp đã chỉnh cư thành Gia Định và các phủ huyện thuộc hạt, họ đào kinh đắp lũy thủ kế lâu dài để tỏ ra không chịu đi, như hổ đã về rừng, rồng đã xuống biển…, có đánh họ cũng không đi, hòa họ cũng không đi ». Đã vậy, nếu như hậu thế có quy phần nào trách nhiệm cho triều Nguyễn đã để mất nước vào tay thực dân Pháp thì đó là vì nhiều lý do khác, chứ đâu phải vì không vâng lời Nguyễn Trường Tộ nên để tuột mất « thời cơ ».
Nhắc lại ý kiến trên đây, chúng tôi sực nhớ câu nói của một nhà sử học bậc thầy dạy các đệ tử của mình rằng : tìm hiểu con người mà bỏ qua hoặc xem nhẹ vị thế của họ trong xã hội thì chẳng khác nào vớt một con cá đang bơi tung tăng ở dưới sông đem đặt lên mặt bàn để phân tích về đời sống của loài cá .
Vậy thì nên chăng vấn đề Nguyễn Trường Tộ với những điều trần của ông cần được giới nghiên cứu tiếp tục tìm hiểu thêm - dù có phải tốn thêm thời gian và giấy mực – trong đó có việc tìm hiểu cặn kẽ hơn vị thế của chính bản thân Nguyễn Trường Tộ trong điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam những năm 60, 70 thế kỷ XIX ./.
-----------------------
(1) Tham khảo : Trương Bá Cần - Nguyễn Trường Tộ con người và di thảo – Nxb TP.HCM, 1988.
(2) Tham khảo : Nguyễn Trọng Văn –« Quan điểm của Nguyễn Trường Tộ về con đường cứu nước ở Việt Nam nửa sau thế kỷ XIX » - Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 4(396)-2009, tr.32-35.
(3) Dẫn theo Trương Bá Cần – Sđd, các tr.107-112
(4) Dẫn theo Nguyễn Trọng Văn – Tạp chí đã dẫn, tr.35.
7. Khát vọng Nguyễn Trường Tộ
Dùng luật trị nước, chống tham nhũng, áp dụng khoa học kỹ thuật… là những ý tưởng mà Nguyễn Trường Tộ đề xuất cách đây gần 150 năm. 
PGS TS Nguyễn Minh Tường, Viện Sử học cho biết: Ngay từ rất sớm, Nguyễn Trường Tộ đã nhận thấy sự cồng kềnh từ của bộ máy hành chính và tình trạng quan lại tham nhũng tràn lan trong triều đình nhà Nguyễn. Vì thế, trong “Tế cấp bát điều” (di thảo số 27, đề ngày 15/11/1867), ông đề nghị tinh giản biên chế và tăng lương cho các viên chức. “Họ được cấp lương tiền đầy đủ, để giúp giữ được thanh liêm, bấy giờ họ không thanh liêm mới có thể trách”, ông viết.  
Vào giữa thế kỷ 19, triều đình nhà Nguyễn đứng trước những thách thức đổi mới to lớn. Nhiều đề xuất cải cách được đưa ra, trong đó những ý tưởng đổi mới của Nguyễn Trường Tộ có tính chất hoàn chỉnh, toàn diện nhất. Ảnh minh họa.
Để cải cách pháp luật, Nguyễn Trường Tộ đề cao vai trò luật học và hạn chế quyền hạn của nhà vua trong việc xét xử các vụ án. Ông nói: Quan dùng luật để trị dân, dân theo luật mà gìn giữ.  
Theo TS Nguyễn Minh Tường, Nguyễn Trường Tộ từng đề xuất áp dụng mô hình của các nước phương Tây: “Phàm những ai đã tham gia xét xử các vụ kiện tụng thì chỉ có thăng chức chứ không bao giờ bị biếm truất.Vua và triều đình cũng không thể giáng chức được họ. Có như vậy mới giúp cho các vị này thong dong trong việc chấp hành luật pháp”.
Nhiều nhà sử học khác cũng đánh giá cao 2 văn bản có nội dung duy tân, cải cách trong hệ thống điều trần của Nguyễn Trường Tộ là: “Bản kế hoạch làm cho dân giàu nước mạnh” (đề ngày 20/6 đến 18/7/1864) và bản “Tám việc cần làm gấp” (ngày 15/11/1876).

Theo GS NGND Nguyễn Đình Chú, Đại học Sư phạm Hà Nội, trong “Kế hoạch làm cho dân giàu nước mạnh”, Nguyễn Trường Tộ từng đề xuất cách xây dựng phát triển khoa học kỹ thuật, tạo nền tảng cho sự phát triển kinh tế, làm giàu cho đất nước như ngày nay đất nước ta đang thực hiện. Cũng từ cách đặt vấn đề hiện đại như thế, ông cho việc làm giàu trên cơ sở: Khai thác nguồn lợi về biển, rừng, đất đai và dầu mỏ.
Trong “Tám việc cần làm gấp” để canh tân đất nước, Nguyễn Trường Tộ đề ra: Gấp rút sửa đổi việc võ bị; hợp tỉnh để giảm bớt số quan lại; gây tài chính bằng cách đánh thuế những mặt hàng xa xỉ; sửa đổi học thuật, chú trọng thực dụng; điều chỉnh thuế ruộng đất; sửa đổi lại cương giới; nắm rõ dân số; lập Viện dục anh và Trại tế bần.
PGS Chương Thâu, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam nhìn nhận: Nguyễn Trường Tộ đã từng nhiều lần đề nghị triều đình lập Viện dục anh và Trại tế bần vì ông chứng kiến nhiều cảnh đời nghèo khó, mồ côi. Ông nhấn mạnh việc nuôi dưỡng, dạy dỗ trẻ thành người; giữa việc sinh và dưỡng thì việc dưỡng quan trọng hơn. Vì vậy, đối với trẻ mồ côi, nhà nước phải đặc biệt quan tâm, chăm sóc. Nguyễn Trường Tộ cũng đề cập đến việc cứu tế người nghèo bằng việc đề xuất lập các viện dưỡng lão, viện an dưỡng, trại nuôi người tàn tật…
Khát vọng gửi hậu thế
Nghiên cứu về những bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ, nhiều nhà khoa học tỏ ra ngạc nhiên trước lối tư duy đi trước thời đại. Ngay từ những năm 1865 -1870, ông đã đề xuất tư tưởng mở cửa, bang giao, thu hút các nhà đầu tư nước ngoài để khai thác mỏ và tài nguyên trong nước. Trước những quan điểm sợ mất đất vào tay nhà đầu tư nước ngoài, ông đã thẳng thắn phê bình: “Dân của ta, đất của ta, họ có đem đi đâu được mà sợ”.

Theo kết quả nghiên cứu của TS Hoàn Xuân Lương, Phó bí thư thường trực tỉnh Nghệ An, ngay từ thời bấy giờ, Nguyễn Trường Tộ đã đề xuất triều đình khuyến khích xuất khẩu, khuyến khích vận tải biển, thưởng cho người đi buôn giỏi, đặt ra các môn khoa học: Hải lợi, sơn lợi, địa lợi, thủy lợi…. Đặc biệt, ông còn đề xuất biện pháp cho tư nhân xây dựng chung cư cho thuê để giải quyết vấn đề nhà ở (trích 2/10 tiền thuê nộp cho công ích).

Lối giáo dục truyền thống được Nguyễn Trường Tộ đề xuất thay thế bằng phương pháp giáo dục mới bám sát thực tiễn, coi trọng kỹ nghệ... Ảnh: lichsuvietnam.info
Một trong những nội dung được đông đảo các nhà nghiên cứu lịch sử sôi nổi thảo luận là những đề xuất về cải cách nền giáo dục của Nguyễn Trường Tộ. Theo TS Nguyễn Minh Tường, Nguyễn Trường Tộ là người đầu tiên phản đối cách giáo dục giáo điều, “tầm chương trích cú”. Từ đó, ông đề xuất cải cách nội dung dạy và học.

Nguyễn Trường Tộ khẳng định, việc học tập, bồi dưỡng nhân tài tức là con đường rộng lớn để đi đến giàu mạnh (di thảo số 18). Ông cũng đề nghị đưa vào các môn nông nghiệp, thiên văn, địa lý, bách khoa…, Đó là ý tưởng mà “ngày nay chúng ta chưa chắc đã theo kịp”, PGS TS Nguyễn Minh Tường nhận định.

Không chỉ đề cao cải cách nội dung dạy học, Nguyễn Trường Tộ còn đề cao tính tự cường dân tộc. Trong nghiên cứu của mình, TS Hoàn Xuân Lương chỉ rõ: Khi đề xuất việc đóng tàu biển, Nguyễn Trường Tộ cũng nói rõ chỉ mua một chiếc làm mẫu rồi phát động dân tự đóng tàu, có chính sách khuyến khích dân bỏ vốn đóng tàu lớn. Đối với người lái tàu thì không thuê người nước ngoài mà tuyển chọn, gửi người của mình đi đào tạo…
Đáng tiếc, những tư tưởng canh tân của Nguyễn Trường Tộ đã không được nhà Nguyễn thực hiện. Tuy vậy, năm 1925, vua Khải Định đã hạ chiếu truy tặng Nguyễn Trường Tộ danh hiệu “Hàn lâm viện trực học sĩ”.

Đặc biệt, 23 năm sau ngày ông mất (1894), những ý tưởng rất có giá trị của ông được khơi dậy trong “Văn minh tân học sách” của phong trào Duy Tân, được đẩy cao hơn trong bầu nhiệt huyết của Phan Bội Châu và trong trí tuệ tỉnh táo của Phan Chu Trinh, quyết đưa dân tộc vào quỹ đạo một cuộc canh tân với 2 mục tiêu: Văn minh và dân chủ.
Nguyễn Trường Tộ đã liên tiếp gửi lên triều đình Huế 30 bản điều trần đề xuất canh tân xây dựng đất nước giàu mạnh. Gần sáu chục bản điều trần này đề cập đủ mọi lĩnh vực, các mặt chủ yếu:
  • Về mặt kinh tế: Nguyễn Trường Tộ quan tâm đến công, nông, thương nghiệp. Mở mang buôn bán trong nước và giao thương với nước ngoài, mời các công ty nước ngoài đến giúp ta khai thác tài lợi, sửa đổi thuế khoá làm sao cho "nước giàu dân cũng giàu"....
  • Về mặt văn hóa - giáo dục: Nguyễn Trường Tộ đề xuất cải cách phong tục, chủ trương coi trọng dân, sửa đổi chế độ thi cử mở mang việc học hành, thay đổi nội dung giáo dục, lấy quốc âm thay thế chữ Hán, lập trại tế bần...
  • Về mặt ngoại giao: Nguyễn Trường Tộ phân tích cho triều đình thấy rõ cục diện chính trị trên toàn thế giới thời đó, những mâu thuẫn về quyền lợi giữa Pháp với Anh và Tây Ban Nha, khuyên triều đình nên ngoại giao trực tiếp với chính phủ Pháp tìm cách ngăn chặn âm mưu xâm lược của bọn Pháp bên này, khéo léo chọn thời cơ lấy lại 6 tỉnh Nam Kỳ, xác lập "tư thế làm chủ đón khách"....
  • Về mặt quân sự: Nguyễn Trường Tộ, thời đó, tuy "chủ hoà" nhưng không có tư tưởng "chủ hàng" một cách nguyên tắc. Ông khuyên triều đình cải tu võ bị, trọng võ trọng văn, ưu ái người lính, biên soạn binh pháp, đào tạo sĩ quan, mua sắm tàu thuyền vũ khí, xây dựng phòng tuyến cả ở thành thị lẫn nông thôn, đề phòng quân Pháp xâm lược lan ra cả nước...
Theo Wikipedia tiếng Việt
Mạnh Đồng