Thứ Ba, 20 tháng 9, 2011


Kỷ niệm 100 năm Ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước (5-6-1911/5-6-2011)


Kỳ 1: Chuyến ra đi thế kỷ
QĐND - Thứ Bẩy, 21/05/2011, 5:3 (GMT+7)
QĐND - 30 năm bôn ba hải ngoại để tìm ra con đường giải phóng dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại không ít “những sự thực lịch sử mà như huyền thoại”. Bằng kết quả nghiên cứu, sưu tầm, khảo cứu của các nhà nghiên cứu, nhà khoa học của ViệtNam, chúng tôi xin gửi đến bạn đọc những hồ sơ, tài liệu và những phát hiện mới về sự kiện người thanh niên Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước.
Trong số đầu tiên này, chúng tôi xin giới thiệu cùng bạn đọc nội dung buổi trò chuyện với GS, TS Đỗ Quang Hưng.
Kỳ 1: Chuyến ra đi thế kỷ
Phóng viên (PV): Thưa GS, TS Đỗ Quang Hưng, nhiều bạn trẻ hiện nay thắc mắc là vào thời điểm năm 1911, nước ta có rất nhiều bến cảng thuận lợi cho việc xuất dương, vậy vì sao người thanh niên Nguyễn Tất Thành lại chọn Bến Nhà Rồng để thực hiện hoài bão của mình?
GS, TS Đỗ Quang Hưng: Như chúng ta đã biết, chuyến đi lịch sử của người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành, dưới bí danh Văn Ba, ở bến cảng Nhà Rồng, Sài Gòn, đã bắt đầu một câu chuyện thế kỷ về Chủ tịch Hồ Chí Minh.
GS,TS Đỗ Quang Hưng (Ảnh do nhân vật cung cấp)
Tại sao lại là Sài Gòn? Điều dễ nhận thấy, trong bối cảnh cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897-1913), đô thị, nhà máy, hầm mỏ, bến cảng... đã mọc lên không ít ở nước ta. Nhưng duy nhất chỉ có cảng Sài Gòn là nơi mà người bản xứ có thể xuất dương dễ dàng; nơi “gần phương Tây” hơn cả. Nếu như ở Trung Quốc, cuộc cách mạng Tân Hợi (1911) đã “đẻ” ra nước Trung Hoa mới, dù chính phủ Trung Hoa Dân Quốc của Tôn Dật Tiên mới chỉ làm chủ ở phía Nam, thủ đô cách mạng Trung Hoa là Quảng Châu sôi sục, thì ở nước ta không khí cách mạng có phần tạm lắng. Tiếng súng Cần Vương đã tắt từ lâu. Ổ đề kháng của “con hùm Yên Thế” Đề Thám cũng đã im tiếng. Ngọn gió Duy Tân của Đông Kinh Nghĩa Thục, của xu thế “cắt tóc xin sâu” chịu ảnh hưởng của Phan Chu Trinh cũng chỉ còn là hoài niệm. Bản thân gia đình người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành lúc đó cũng ở thời điểm đặc biệt, đúng nghĩa “nước mất nhà tan”. Ông cụ thân sinh đỗ đại khoa nhưng quan lộ ngắn ngủi, gia đình ly tán, bản thân ông cũng trôi dạt vào Nam Kỳ.
Mười tám tuổi, Nguyễn Tất Thành đã tham gia phong trào chống thuế khi đang theo học tại Trường Quốc học Huế. Nguyễn Tất Thành cạo trọc đầu, tham gia biểu tình và bị đuổi học. Mái Trường Quốc học Huế tuy chỉ có thể trang bị cho anh tấm bằng cao đẳng tiểu học, nhưng lại là nơi qua những người thầy chân chính, Pháp có, Việt có, giúp anh hiểu được văn minh phương Tây, văn hóa Pháp và quan trọng hơn là khao khát “muốn tìm hiểu đằng sau những từ Tự do - Bình đẳng - Bác ái”, phải đi về phương Tây để tới chính “hang ổ của kẻ thù”. Một tờ báo tiếng Pháp ở Sài Gòn lúc đó đã viết: “Con đường đến nước Pháp cũng chính là con đường chống Pháp” (La Courrier de Sai Gon). Trước đó, một thời gian ngắn, Nguyễn Tất Thành làm việc, dạy học ở Trường Dục Thanh, thuộc Công ty Nước mắm Liên Thành, cơ sở kinh tế và hoạt động yêu nước còn sót lại của phong trào Duy Tân tại Trung Kỳ. Nhưng hướng đến của anh tất nhiên là Sài Gòn và việc anh chọn Bến Nhà Rồng làm nơi xuất dương là lẽ tự nhiên.
PV: Vậy là người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã chọn Bến Nhà Rồng để tìm đến nước Pháp theo con đường ngắn nhất. Theo GS, tại sao Nguyễn Tất Thành khi đó lại không chọn Nhật Bản hay Trung Hoa Dân quốc như một số nhà yêu nước tiền bối? Nếu là đi tìm đường cứu nước thì Nhật Bản hay Trung Hoa Dân quốc lúc đó chẳng phải là những mô hình gần gũi với Việt Nam, thuận lợi hơn trong việc học tập kinh nghiệm hay sao, thưa giáo sư?
GS, TS Đỗ Quang Hưng: Nguyễn Tất Thành đã chọn con đường sang Pháp vì rõ ràng con đường đi sang phương Tây rộng mở hơn. Mặt khác, đó cũng là phương cách “xuất dương” của tầng lớp lao động, vô sản bản xứ, nếu họ có quan hệ với ngành hàng hải, thương mại. Nguyễn Tất Thành đã chọn dòng “xuất dương” này. Nên nhớ là trong quãng thời gian này, có 1.200 “sinh viên, công nhân” của Trung Quốc cũng đã tìm đến nước Pháp.
Sơ đồ hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành từ 1911-1917. Ảnh: Nguyễn Hồng.
Câu chuyện vào Sài Gòn để chuẩn bị cho chuyến đi lịch sử ấy của Nguyễn Tất Thành ngày nay cũng thêm nhiều chi tiết sinh động. Ban đầu là sự nối kết từ đầu năm 1910 với những nhân vật của Hội Minh Tân ở Sài Gòn như với ông nghè Trương Gia Mô, Hồ Tá Bang, Trần Lê Chất... chính họ đã tạo điều kiện để Nguyễn Tất Thành có mặt ở Sài Gòn lần đầu tiên ngày 19-9-1910. Họ cũng bố trí để anh ăn, ở tại nhà ông Lê Văn Đạt, người bà con bên mẹ của ông Trương Gia Mô tại xóm Cầu Rạch Bần (nay là nhà số 185/1 đường Cô Bắc, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh). Ngay sau đó, Nguyễn Tất Thành đã liên hệ được với Liên Thành thương quán, một cơ sở của công ty Liên Thành ở Sài Gòn, nay thuộc đường Châu Văn Liêm, phường 14, quận 5. Đó cũng là cơ hội để Nguyễn Tất Thành-Văn Ba vào trường thợ máy học nghề, chuẩn bị điều kiện xuất dương. Anh cũng làm quen với một số người Việt nhân viên của hãng Năm Sao như Nguyễn Văn Hùm, Bùi Văn Viên... Hãng Năm Sao là một hãng lớn, thường chạy tuyến hàng hải Sài Gòn – Đà Nẵng và một số cảng của nước Pháp.
PV: Giới trẻ cả nước hiện nay rất thích và học được nhiều qua câu chuyện “Hai bàn tay”. Câu chuyện kể lại việc Bác Hồ lên tàu xuất dương với hai bàn tay trắng. Theo GS thì ý nghĩa và tính xác thực của câu chuyện này nằm ở đâu?
GS, TS Đỗ Quang Hưng: Câu chuyện này đã rất rõ ràng. Thời điểm của chuyến đi lịch sử là đầu tháng 6-1911. Khi đó, Văn Ba được tin hãng đang tuyển “bồi” tàu. Thế là anh cùng một số người Việt dễ dàng được hãng thu nhận. Ngày 4-6-1911, Văn Ba đã tạm biệt Liên Thành thương quán, xuống tàu Pháp mang tên Đô đốc La-tút-sơ Tơ-rê-vin, với mức lương 30 quan/tháng. Những chi tiết này rất phù hợp với câu chuyện đã quen thuộc về ý chí của người thanh niên Văn Ba. Khi một người bạn ở Sài Gòn hỏi anh, đi xuất dương nhưng làm gì để sống? Anh giơ đôi tay và trả lời: Bằng đôi tay này; như được ghi lại trong cuốn sách “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch”. Sự thật là sau 7 năm đi làm thuê bằng nhiều nghề để tìm cơ hội học tập, tìm hiểu nền chính trị-xã hội và thực sự bắt đầu cuộc đời của một nhà cách mạng chuyên nghiệp, Hồ Chí Minh đã trải qua hàng loạt nghề để kiếm sống: Bồi tàu, quét tuyết, đầu bếp khách sạn, sửa ảnh, chụp ảnh, viết báo...
Một chi tiết cảm động khác là, thời gian gần một năm sống ở Sài Gòn và học nghề ở trường thợ máy, cơ hội để Nguyễn Tất Thành được gần gũi người cha của mình là cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, lúc đó cũng đang trú ngụ ở Sài Gòn... Nhưng chúng ta phải quay trở lại với điểm mấu chốt của sự kiện: Ngày 5-6-1911, con tàu Đô đốc La-tút-sơ Tơ-rê-vin đã nhổ neo rời cảng Sài Gòn, cũng là bắt đầu thời điểm của chuyến đi thế kỷ, chuyến đi tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
PV: Hồ sơ sử liệu về những ngày đầu Nguyễn Tất Thành sống trên tàu xuất dương có gì đáng chú ý, thưa GS?
GS, TS Đỗ Quang Hưng: Gần đây, theo dõi hồ sơ về con tàu Đô đốc La-tút-sơ Tơ-rê-vin thì được biết, sau khi đến Pháp, cuối năm 1911, con tàu này đã quay lại Sài Gòn và một chi tiết thú vị là, “anh Thành đã cố gửi một ít tiền cho bố”. Cũng vậy, con tàu lịch sử nói trên còn đưa Nguyễn Tất Thành tới Niu-Yoóc (Mỹ) và dấu tích trong sổ tàu ngày 5-12-1912, có chữ ký “Paul Nguyễn Tất Thành”... đã góp thêm những chi tiết giàu chất biểu tượng của chuyến đi lịch sử. Trong những ngày tháng ấy, cũng trên con tàu này, Nguyễn Tất Thành còn để lại những dòng thư gửi chị Cả Thanh: “Em đã rời Sài Gòn cùng với một người châu Âu để tiếp tục học và trong 5 hay 6 năm nữa em sẽ về...”. “Người châu Âu” mà Nguyễn Tất Thành đi cùng chưa rõ là ai. Nhưng theo cuốn “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch”- cuốn sách đến nay vẫn được coi là giá trị nhất về Hồ Chí Minh, thì khi lên tàu nhận việc, Văn Ba được một kỹ sư canh nông, có quốc tịch Pháp là Bùi Quang Chiêu, người sau này thành thủ lĩnh Đảng Lập hiến nổi tiếng một thời ở Sài Gòn, cảm mến và nhận “đỡ đầu” cho anh trong chuyến đi Pháp. Nhưng anh Thành đã cảm ơn và từ chối. Có lẽ tôi cho rằng “người châu Âu” mà anh Thành nói trong thư chính là Bùi Quang Chiêu.
PV: Chuyến đi ngày 5-6-1911 của người thanh niên Nguyễn Tất Thành là chuyến đi lịch sử. Theo GS, điều gì đã làm nên tính lịch sử của chuyến đi ấy?
GS, TS Đỗ Quang Hưng: Chuyến đi lịch sử ấy của Nguyễn Tất Thành kéo dài đúng 40 ngày trên biển, từ Sài Gòn đến Mác-xây (Pháp). Vào năm 1911, theo sổ sách cũng chỉ có vài trăm người bản xứ ở Đông Dương thực hiện những chuyến đi như vậy. Tuy nhiên, đa số họ là những người lao động kiếm sống thuần túy trong nghề “đi biển”, chỉ có một người duy nhất lúc đó là Nguyễn Tất Thành thực hiện một bước nhảy táo bạo vào một thế giới chưa hề quen biết, cũng là sự bắt đầu một chặng đường kéo dài 30 năm của một người dân mất nước sống lưu vong. Phần lớn của câu chuyện thì ngày nay ai cũng rõ, chuyến đi 40 ngày trên biển ấy, đã mở ra một chương lịch sử hào hùng cho dân tộc ta, cho thế giới thuộc địa và nói chung cho tất cả những người bị áp bức trong cái thế kỷ đầy nghịch lý. Dù rằng, phải 8 năm sau, Nguyễn Ái Quốc mới “gặp” Lê-nin ở Pa-ri qua “Luận cương các vấn đề dân tộc và thuộc địa” và đã trở thành một trong người sáng lập ra Đảng Cộng sản Pháp (12-1920).
Hồng Hải (thực hiện)

Kỳ 2: Huyền thoại viên gạch hồng
QĐND - Chủ Nhật, 22/05/2011, 8:42 (GMT+7)
QĐND Nhà thơ Chế Lan Viên  đã viết: “Một viên gạch hồng, Bác chống lại cả một mùa băng giá”. Hiện vật “viên gạch hồng” cùng với nhiều đồ vật khác mà người thanh niên Nguyễn Ái Quốc sử dụng khi ở ngôi nhà số 9, ngõ Công-poăng, quận 17, thành phố Pa-ri (Pháp) nằm trong bộ sưu tập quý của Bảo tàng Hồ Chí Minh. Cùng với “viên gạch hồng” còn có chiếc tủ gỗ đựng quần áo; chiếc tủ con để đầu giường và mô hình ngôi nhà của Bác Hồ đã từng thuê trong những năm Người hoạt động tại Pháp. Ông Nguyễn Trường Phú, chuyên viên Bảo tàng Hồ Chí Minh tiết lộ với chúng tôi câu chuyện về quá trình sưu tầm, tiếp nhận và bảo quản bộ sưu tập quý giá này. 
Câu chuyện của chúng tôi nhắc đến một chặng đường hoạt động cách mạng sôi nổi của người thanh niên Nguyễn Ái Quốc, đó là thời gian Bác Hồ hoạt động cách mạng ở Pa-ri, Pháp (1917-1923).
- Phóng viên (PV): Thưa ông! Khách đến tham quan Bảo tàng Hồ Chí Minh rất quan tâm đến bộ hiện vật của Bác Hồ trong những năm Người hoạt động ở nước Pháp. Vậy, chúng ta có được bộ sưu tập này là từ đâu?
- Ông Nguyễn Trường Phú: Câu chuyện bắt đầu từ năm 1968, khi Đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Bộ trưởng Xuân Thủy làm trưởng đoàn và đồng chí Lê Đức Thọ làm cố vấn đặc biệt từ Việt Nam sang Pháp dự Hội nghị Pa-ri về Việt Nam. Đoàn đại biểu Chính phủ ta đã ở Pa-ri từ tháng 5-1968 đến tháng 3-1973. Trong thời gian này, Đoàn đến thăm căn phòng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ở và làm việc tại số 9, ngõ Công-poăng một vài lần. Bà chủ nhà tên là Gia-mô (Jammot) đã tiếp Đoàn rất niềm nở. Bà kể cho các thành viên trong Đoàn chuyện về lịch sử ngôi nhà; về sinh hoạt của Bác Hồ. Rồi bà dẫn Đoàn lên tầng 2 thăm phòng mà người thanh niên có tên là Nguyễn Ái Quốc đã ở từ ngày 14-7-1921 đến 14-3-1923.
Mô hình tách biệt ngôi nhà số 9, ngõ Công-poăng (Pa-ri, Pháp) nơi Nguyễn Tất Thành đã thuê trọ trong thời gian 1921-1923.
Khi nhìn thấy căn phòng và những vật dụng của Bác quá đơn sơ, tất cả anh chị em trong Đoàn hết sức xúc động. Đó là một gian buồng hẹp khoảng 9m2, một chiếc la-va-bô treo tường, có vòi nước chỉ để rửa mặt, ngay cạnh đó là một chiếc tủ quần áo làm bằng gỗ tạp. Sát tường bên trái là một chiếc giường sắt đơn vừa đủ một người nằm. Đầu giường có một chiếc tủ con để sách vở và vài đồ lặt vặt. Phía trên có một ngọn đèn nhỏ vừa đủ để thắp sáng gian buồng. Sau đó, được tin ngôi nhà sẽ bị phá để xây mới, đồng chí Xuân Thủy có ý kiến nên mua lại các đồ đạc trong căn phòng để đưa về nước. Năm 1974, những đồ dùng trong căn phòng như: Chiếc tủ đựng quần áo, tủ con để đầu giường đã được đưa về nước, còn một số đồ dùng khác như: Tấm bảng sắt ghi số 9 ngõ Công-poăng; cánh cửa ra vào bằng gỗ của căn phòng; chiếc la-va-bô rửa mặt; một số tấm gỗ sàn… sau này đã được đưa đến trưng bày với chủ đề: "Căn phòng của Chủ tịch Hồ Chí Minh” tại Bảo tàng Lịch sử sống thành phố Mông-tơ-rơi (Montreuil) của Pháp.
Theo hồ sơ khoa học, những hiện vật này đã trải qua hành trình như sau: Năm 1974, Đại sứ quán nước ta tại Pháp sau khi tổ chức lực lượng vận chuyển qua Béc-lin (Đức) bằng xe lửa, rồi gửi về nước.
- PV: Như vậy, hai chiếc tủ là những hiện vật đầu tiên trong ngôi nhà ở số 9, ngõ Công-poăng được đưa về Việt Nam. Còn “viên gạch hồng”, một hiện vật rất nổi tiếng, được nhiều người quan tâm đã được đưa về nước bằng cách nào, thưa ông?
- Ông Nguyễn Trường Phú: Viên gạch trưng bày ở Bảo tàng Hồ Chí Minh hiện nay là viên gạch được phục chế trên cơ sở viên gạch đồng thời, đồng loại do ông Tổng lãnh sự Pháp tại Thành phố Hồ Chí Minh tặng Bảo tàng Hồ Chí Minh – Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh. Căn phòng mà người thợ ảnh Nguyễn Ái Quốc thuê rất thiếu thốn tiện nghi, không có phương tiện để sưởi ấm nên rất lạnh. Bởi vậy, cũng giống như những người nghèo ở Pháp, về mùa đông, “mỗi buổi sáng trước khi đi làm, anh Nguyễn để một viên gạch vào lò bếp của bà chủ nhà. Chiều đến, anh lấy viên gạch ra, bọc nó vào trong những tờ báo cũ, để xuống nệm cho đỡ rét" và hình ảnh “viên gạch hồng” đã đi vào thơ ca của các nhà thơ. Bên cạnh bài thơ “Người đi tìm hình của nước” rất nổi tiếng của Chế Lan Viên, trong bài "Theo chân Bác", nhà thơ Tố Hữu cũng đã viết: "Muôn nỗi đời như ảnh trắng đen/Bâng khuâng đêm lạnh, thức bên đèn/Một hòn gạch nóng nung tâm huyết/Mẩu bánh mì con nuôi chí bền".
Hiện vật "viên gạch hồng" đang trưng bày tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
Một người bạn Pháp của Chủ tịch Hồ Chí Minh kể lại: “Tôi là Giăng Pho, thợ điện, đảng viên Đảng Cộng sản Pháp. Tôi quen biết đồng chí Nguyễn Ái Quốc từ năm 1920-1921, vì hồi đó chúng tôi cùng trọ một nhà, ở ngõ Công-poăng. Đó là khu công nhân nghèo, mà ngõ Công-poăng lại là nghèo nhất ở khu nghèo này. Gọi là ngõ, vì nó chỉ có đường vào, không có đường ra. Cả “phố” chỉ vẻn vẹn có 4 cái nhà lụp xụp, 3 nhà cho thuê để gửi xe. Một nhà tầng dưới là quán cà-phê nhỏ, tầng trên có hai buồng, tôi và anh Nguyễn trọ… Mùa đông giá lạnh, không đủ chăn đắp, trước khi đi làm, anh đặt nhờ một viên gạch trên bếp bà chủ nhà; tối về, anh gói viên gạch vào tờ báo, rồi để trên giường cho đỡ rét".
- PV: Hiện nay, ở Bảo tàng Hồ Chí Mình có tới hai mô hình ngôi nhà của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ở và làm việc tại số 9, ngõ Công-poăng, quận 17, thành phố Pa-ri (Pháp). Vì sao Bảo tàng lại có tới hai mô hình như vậy?
- Ông Nguyễn Trường Phú: Chúng tôi có hai mô hình, thứ nhất là mô hình mô phỏng kiến trúc những ngôi nhà trong ngõ Công-poăng; thứ hai là mô hình kiến trúc tách biệt ngôi nhà số 9, ngõ Công-poăng.
Hai mô hình này nói lên rất nhiều điều về quãng đời hoạt động của Bác Hồ trong thời gian ở Pháp. Trong cuốn sách "Thời thanh niên của Bác Hồ", tác giả Hồng Hà đã miêu tả ngôi nhà và tiện nghi sinh hoạt của Bác Hồ trong ngôi nhà số 9, ngõ Công-poăng như sau: "Cuối cùng Dêch-ki-ni kiếm được một chỗ trọ cho anh Nguyễn: Một căn buồng nhỏ hẹp trên tầng hai, nhà số 9, ngõ Công-poăng. Đây là một ngõ cụt, mặt đường lát đá với rặng cây dẻ dại hai bên đường và hơn chục ngôi nhà lụp xụp. Nhà số 9 xây từ thế kỷ trước có 3 cửa ra vào, một cửa mở thẳng vào sân sau nhà, một cửa chính liền đường và một cửa ngách dẫn lên gác. Bà Gia-mô, chủ nhà, cho anh Nguyễn thuê gian buồng mỗi bề khoảng ba mét, không bếp, không nước, không điện, không lò sưởi, gió thổi lùa qua khe cửa… Buồng anh chỉ đủ kê một cái giường sắt, một cái bàn con. Trên bàn có một cái thau, trong thau có một bình đựng nước để rửa mặt. Khi viết hoặc đọc sách thì anh đưa thau và bình nước xuống gầm giường… Nhà số 9, ngõ Công-poăng là nơi anh Nguyễn tiếp nhiều kiều bào đi lính cho Pháp đến kể với anh nỗi khổ của họ trong các trại lính sau nhiều năm làm bia đỡ đạn cho thực dân… anh Nguyễn vận động họ đấu tranh đòi thực dân đưa họ trở về Việt Nam. Cả những sinh viên Việt Nam ở cư xá sinh viên phố Xom-mơ-ra cũng tìm đến anh. Và người ta thấy những Việt kiều thường xuyên đi lại nhà số 9 là Trần Văn Kha, Trần Xuân Hộ, Nguyễn Văn Thịnh, Bạch Thái Thông, Lã Quý Lợi, Nguyễn Văn Khương, Bùi Công Ngôn…”.
Cuộc sống không tiện nghi, rất đơn sơ và giản dị, thiếu thốn đủ mọi thứ, không có chỗ để tắm giặt… khó khăn như vậy, nhưng tâm trí, hoài bão của người thanh niên Nguyễn Ái Quốc không bao giờ nguội lạnh nhiệt tình hoạt động cách mạng, tình yêu quê hương, đất nước. Trong ngôi nhà lạnh lẽo đó lại che chở, chứa đựng một con người có trái tim luôn nung nấu ý chí và lòng quyết tâm tìm đường cứu nước, giúp đồng bào mình thoát khỏi kiếp lầm than.
- PV: Sau khi chúng ta đã có được những hiện vật quý gắn liền với ngôi nhà số 9, ngõ Công-poăng, số phận ngôi nhà hiện nay ra sao, thưa ông?
- Ông Nguyễn Trường Phú: Sau khi ngôi nhà cũ ở số 9, ngõ Công-poăng bị phá đi để xây nhà mới, Đại sứ quán Việt Nam tại Pháp đã thương lượng để đặt một bảng đồng ngoài cửa trên tấm bảng ghi "Nơi đây Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ở từ 1921 -1923".
Câu chuyện về những đồ dùng của Bác Hồ trên đây giúp chúng ta hiểu rõ hơn tình cảm yêu quý của bạn bè thế giới, trong đó có nhân dân, Việt kiều ở Pháp đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh.  Kể lại câu chuyện về nguồn gốc, xuất xứ, ý nghĩa của những kỷ vật trên đây, chúng tôi hy vọng góp phần cung cấp thêm thông tin, giúp công tác tuyên truyền và chỉnh lý trưng bày sắp tới của Bảo tàng Hồ Chí Minh; đồng thời góp phần xây dựng không gian ngôi nhà số 9 trong gian trưng bày tại Bảo tàng. Qua đây cũng thể hiện được một thời kỳ hoạt động cách mạng khó khăn, gian khổ, hiểm nguy nhưng tràn đầy sôi nổi, hăng say, nhiệt huyết cách mạng của người thanh niên yêu nước Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Người đã dâng hiến cả tuổi thanh xuân và cả cuộc đời mình cho dân tộc Việt Nam.
Kỳ 3: Cái nhìn đa diện của các học giả quốc tế (Tiếp theo và hết)
QĐND - Chủ Nhật, 22/05/2011, 22:3 (GMT+7)
QĐND - Hơn 300 tác phẩm và công trình nghiên cứu, hàng nghìn bài báo của các nhà nghiên cứu lịch sử, triết học, văn học, tâm lý học, nhân chủng học, văn hóa học… trên thế giới viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó mới chỉ là thống kê sơ bộ của PGS, TS Trần Minh Trưởng, Phó viện trưởng Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng. Chúng tôi đã có buổi trao đổi với PGS, TS Trần Minh Trưởng về những hướng đánh giá chủ yếu của các học giả nước ngoài đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Phóng viên (PV): Thưa PGS, TS Trần Minh Trưởng, sự kiện người thanh niên Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước được giới học giả nước ngoài đánh giá thế nào?
- PGS, TS Trần Minh Trưởng: Sự kiện Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước, cũng như toàn bộ tiểu sử, cuộc đời, thân thế, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh được giới học giả trên thế giới rất quan tâm. Không ít công trình nghiên cứu trên thế giới đã được tiến hành công phu, theo lối lồng ghép với quá trình phát triển của lịch sử Việt Nam, lịch sử Đông Dương hoặc thể hiện thuần túy theo lối tiểu sử danh nhân, nhân vật lịch sử. Các công trình thể hiện nhiều góc độ tiếp cận, nhiều nội dung phong phú viết về cuộc đời và sự nghiệp của Người. Nhiều tác phẩm đã đề cập tương đối đầy đủ, đúng đắn về danh nhân văn hóa Hồ Chí Minh.
PGS, TS Trần Minh Trưởng.
Tuy nhiên, trong nhiều công trình vẫn còn có các sự kiện bị hiểu sai lệch, không đúng sự thật, nhất là về đời tư của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Một số học giả còn mang nặng tính chủ quan, không tin vào con người và sự nghiệp vĩ đại, sự hy sinh, cống hiến trọn đời cho Tổ quốc, cho nhân loại của Hồ Chí Minh. Ví dụ, học giả người Pháp Đa-ni-en Hê-mê-ri. Ông ta nhận định rất sai lầm khi cho rằng: Động cơ ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành chỉ là huyền thoại. Ông ta viết: “Hình ảnh chàng trai yêu nước của Nghệ An bỏ quê ra đi tìm con đường giải phóng Tổ quốc chỉ thuộc về điều tưởng tượng huyền thoại sau năm 1945 hoặc sau năm 1920…”. Tôi nghĩ, có lẽ, Đa-ni-en Hê-mê-ri quen dùng lối suy diễn toán học để khẳng định một chứng cứ lịch sử. Ông đã phạm sai lầm trong phương pháp tiếp cận nên dẫn đến một kết quả thiếu chân thực.
- PV: Theo PGS thì nguyên nhân của những cách tiếp cận sai lầm ấy đến từ đâu?
- PGS, TS Trần Minh Trưởng: Việc nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh không phải là điều dễ dàng, ngay cả với các nhà nghiên cứu trong nước. Bởi không gian hoạt động của Người quá rộng lớn, thời gian hoạt động bí mật kéo dài. Bởi vậy, đã tạo ra nhiều khoảng trống tư liệu rất khó tìm kiếm đối với các nhà nghiên cứu. Ngoài ra, còn phải kể đến một số trường hợp cố tình đưa thông tin sai lệch về Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông Béc-na Phôn, người Pháp, tác giả cuốn “Hồ Chí Minh” xuất bản ở Pa-ri thừa nhận: “Về những chi tiết đời tư của Cụ, đúng là chúng ta chưa nắm được nhiều lắm. Trước hết là vì Cụ Hồ Chí Minh đã hoạt động lâu trong bí mật. Hai là, ngay sau khi nắm được chính quyền năm 1945, Quốc dân đảng tìm cách xuyên tạc Chính phủ mà Cụ Hồ làm Chủ tịch, các cuộc đàm phán với nước Pháp cũng đang tiến hành, cho nên phải thận trọng, không thể tiết lộ rõ nguồn gốc của mình”. Một lý do khác, được rất nhiều nhà nghiên cứu trong nước cũng như quốc tế khẳng định, đó là lúc sinh thời, Người sống với đức tính khiêm tốn, không bao giờ Người muốn kể về mình, điều đó gây khó khăn cho những người muốn nghiên cứu.
- PV: Trở lại với những nghiên cứu, đánh giá về Chủ tịch Hồ Chí Minh, một điều đặc biệt là có rất nhiều công trình nghiên cứu về Người được tiến hành bởi chính những “đối thủ” của Người. Kết quả các nghiên cứu này như thế nào, thưa PGS?
- PGS, TS Trần Minh Trưởng: Đúng vậy, nhiều “đối thủ” hoặc là học giả quen biết Hồ Chí Minh đã công bố kết quả nghiên cứu, đánh giá của họ về Người. Có thể kể đến như ông J. Xanh-tơ-ni là Tổng đại diện Chính phủ Pháp, người đã thay mặt Pháp ký với Việt Nam Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946; các vị tướng chỉ huy quân viễn chinh Pháp tại Việt Nam như: Tướng Pôn Ely, tướng Ra-un Sa-lăng và GS Pôn Muýt, Trưởng đoàn đàm phán của Chính phủ Pháp. Hầu hết những người này đều có thái độ kính trọng khi viết về Bác Hồ. Đúng như nhà báo Ô-li-vơ Thôn-rơ đã viết: “Đối với một số người, Cụ Hồ là một kẻ thù quen biết lâu năm nhưng đáng kính phục, là địch thủ được kính trọng nhất trong cuộc chiến tranh thuộc địa Pháp”. Ông J. Xanh-tơ-ni thì viết: “Chắc chắn, ông Hồ Chí Minh là con người rất mực tế nhị, đến mức không cảm thấy tính giản dị của mình, lòng tha thiết với các phong tục địa phương đã làm cho ông trở nên rất quần chúng. Ngay kẻ thù của ông cũng không hồ nghi cái tính giản dị ấy… Đó đúng là một con người dễ mến, hấp dẫn. Đúng như vậy. Thực tế, ông còn hơn như vậy”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Phạm Văn Đồng (bên trái), cùng Đại tướng Võ Nguyên Giáp duyệt đội danh dự Quân đội nhân dân Việt Nam, trước khi lên đường đi thăm các nước XHCN, năm 1957. Ảnh tư liệu.
Ông A. Pát-ti, một sĩ quan tình báo Mỹ, trong thời gian làm việc cho lực lượng đồng minh ở Đông Dương (1944-1945), rất cảm phục nhà ái quốc cộng sản Hồ Chí Minh. Trong cuốn “Why Vietnam?”, ông viết: “Ông Hồ không hiện lên đối với tôi như một nhà cách mạng không thực tế hay một người cấp tiến cuồng nhiệt, theo đuổi những lời nói rập khuôn, hét to đường lối của đảng hay thiên về phá hoại mà không có kế hoạch xây dựng lại. Đây là một con người thông minh, thấu hiểu những vấn đề của đất nước mình, một con người biết điều và tinh tế” và “…chỉ có Hồ Chí Minh mới giữ cho được ngọn đuốc độc lập bùng cháy trong trái tim, khối óc của những người Việt Nam cộng sản cũng như không cộng sản, và duy nhất chỉ có ông đã trở thành hiện thân của chủ nghĩa quốc gia Việt Nam, một Gioóc-giơ Oa-sinh-tơn của Việt Nam. Từ lâu, ông đã trở thành Bác Hồ của người nghèo với một ánh hào quang trên đầu mà tất cả các chế độ bù nhìn liên tiếp không bao giờ có khả năng đánh đổ được”. 
- PV: Bên cạnh giới học giả tư bản, giới nghiên cứu của phong trào cộng sản và công nhân thế giới đánh giá như thế nào về Chủ tịch Hồ Chí Minh, thưa PGS?
- PGS, TS Trần Minh Trưởng: Những cống hiến, đóng góp của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc xây đắp tình hữu nghị giữa các dân tộc, với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế được bạn bè ghi nhận. Ông N. Khơ-rút-xốp, nguyên Bí thư thứ nhất Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô đã dành hẳn một phần trong hồi ký của mình để viết về Hồ Chí Minh: “Trong cuộc đời hoạt động chính trị của tôi, tôi đã biết rất nhiều người nhưng không người nào gây cho tôi một ấn tượng đặc biệt như Hồ Chí Minh. Những người có đầu óc tín ngưỡng thường hay nói đến các vị Thánh. Đúng vậy, với cách sống và uy tín của ông đối với đồng bào trong nước, Hồ Chí Minh đúng là có thể so sánh với các vị Thánh, một vị Thánh cách mạng...”. Điều lưu ý là, trong khi nhiều chính khách và giới sử gia phương Tây đánh giá N. Khơ-rút-xốp là người “hùng biện và cao ngạo” thì chính ông lại đánh giá rất cao về Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Những đánh giá của giới nghiên cứu quốc tế về Hồ Chí Minh còn có rất nhiều, mặc dù còn nhiều vấn đề chưa thống nhất, một số sự kiện lịch sử đang bị hiểu sai lệch, một số nhận định, đánh giá của các tác giả khác nhau về quan điểm, thậm chí một số tác phẩm viết không đúng về đời tư, song tất cả đều thừa nhận tinh thần dân tộc, sự hy sinh lớn lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với Tổ quốc và có những đóng góp tích cực vào phong trào giải phóng dân tộc, phong trào đấu tranh vì hòa bình và tiến bộ trên thế giới. Sự thừa nhận đó đã khẳng định tính đúng đắn, tính thời sự, ý nghĩa và sức sống của tư tưởng Hồ Chí Minh với thời đại ngày nay

Từ Vinh (1905) đến Sài Gòn (1911) - Hành trình kết tụ hoài bão cứu nước của Nguyễn Tất Thành

Từ Vinh (1905) đến Sài Gòn (1911) - Hành trình kết tụ hoài bão cứu nước của Nguyễn Tất Thành

Trước ngày Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc với tâm nguyện tìm kiếm con đường mới cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, nhiều miền đất Trung Kỳ và Nam Kỳ đã chứng kiến và khắc ghi những dấu ấn quan trọng, đánh dấu những chuyển biến có tính bước ngoặt trong nhận thức và hành động của người thanh niên yêu nước. Đó cũng chính là hành trình kết tụ hoài bão lớn để đi đến quyết định dứt khoát của Nguyễn Tất Thành sau những chặng đường trải nghiệm, khởi đầu từ Vinh (năm 1905) và kết thúc ở Sài Gòn (năm 1911).

Trước ngày Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc với tâm nguyện tìm kiếm con đường mới cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, nhiều miền đất Trung Kỳ và Nam Kỳ đã chứng kiến và khắc ghi những dấu ấn quan trọng, đánh dấu những chuyển biến có tính bước ngoặt trong nhận thức và hành động của người thanh niên yêu nước. Đó cũng chính là hành trình kết tụ hoài bão lớn để đi đến quyết định dứt khoát của Nguyễn Tất Thành sau những chặng đường trải nghiệm, khởi đầu từ Vinh (năm 1905) và kết thúc ở Sài Gòn (năm 1911).
1. Mùa hè năm 1905, Nguyễn Tất Thành cùng anh trai Nguyễn Tất Đạt từ bỏ việc học chữ Hán để theo học chữ Quốc ngữ và chữ Pháp (lớp dự bị - préparatoire) tại trường Tiểu học Pháp - Việt ở Vinh1. Đây có thể xem là bước ngoặt quan trọng đầu tiên trên con đường tiếp nhận và thực hành tri thức, hơn thế nữa, trên con đường cách mạng của Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh sau này.
Tại Vinh - một trung tâm công nghiệp, cũng là nơi tập trung nhiều cơ quan hành chính của người Pháp, trước và trong thời gian theo học ở trường Tiểu học Pháp - Việt, Nguyễn Tất Thành học tiếng Pháp và bắt đầu làm quen với văn hóa phương Tây. Chịu ảnh hưởng của thầy giáo yêu nước, cấp tiến như Nguyễn Quý Song, Lê Văn Miến2... (và trước đó từ các thầy Vương Thúc Quý, Trần Thân3....), tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh của Nguyễn Tất Thành càng được đắp bồi thêm từ những suy nghĩ tiến bộ, mạnh dạn của các bậc sĩ phu khả kính. Khẩu hiệu “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” của cách mạng dân chủ tư sản Pháp được nghe từ vài năm trước, nay có thêm điều kiện để tìm hiểu sâu sắc hơn, đầy đủ hơn. Thành phố Vinh trở thành nơi thôi thúc mạnh mẽ quyết tâm của Nguyễn Tất Thành: “muốn làm quen với nền văn minh Pháp” và “tìm hiểu tận nơi xem đằng sau những từ ngữ ấy ẩn dấu cái gì”.
2. Chưa hết năm học ở trường Tiểu học Pháp - Việt tại Vinh, tháng 2/1906, hai anh em Nguyễn Tất Đạt, Nguyễn Tất Thành lại cùng cha vào Huế, khi Nguyễn Sinh Sắc được bổ nhiệm làm Thừa biện Bộ Lễ. Tại Huế có những cơ quan đầu não của bộ máy cai trị thực dân ở Trung Kỳ như Tòa Khâm sứ, Sở Mật thám,...; nhưng Huế cũng là nơi hưởng ứng sôi nổi các phong trào Đông Du, Duy Tân do Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh... khởi xướng.
Tháng 9/1906, Nguyễn Sinh Sắc xin cho Nguyễn Tất Đạt và Nguyễn Tất Thành vào học lớp dự bị trường Tiểu học Pháp - Việt tỉnh Thừa Thiên (thường gọi là trường Đông Ba). Đến tháng 8/1908, sau khi hoàn thành chương trình tiểu học, cùng với 6 bạn đạt điểm xuất sắc, Nguyễn Tất Thành được bỏ qua năm thứ nhất để vào thẳng năm thứ hai Trường Quốc học Huế. Một lần nữa, những ngôi trường và môi trường xã hội trên đất Huế tiếp tục hun đúc chí khí và hoài bão của người thanh niên yêu nước.
Quãng thời gian ở trường Đông Ba và trường Quốc học, Nguyễn Tất Thành học thầy Hoàng Thông và tiếp tục học thầy Lê Văn Miến, được thầy Hoàng Thông4 giao nhiệm vụ làm liên lạc cho các hoạt động Đông Du, Duy Tân. Bên cạnh đó, Nguyễn Tất Thành còn tham gia phong trào Duy Tân ở Huế với vai trò thông ngôn cho các cuộc đấu tranh chống thuế của đồng bào.
Chính trong những tháng ngày sôi động ở Huế (1907 - 1908), Nguyễn Tất Thành đã nghe, đã biết, đã chứng kiến Đông Kinh nghĩa thục bị đóng cửa, phong trào Đông Du bị dập tắt, phong trào Duy Tân và Kháng thuế Trung Kỳ bị đàn áp dã man… Các nhà yêu nước tiêu biểu như Phan Châu Trinh bị kết án tử hình; Trần Quý Cáp, Nguyễn Hằng Chi bị xử chém; Huỳnh Thúc Kháng, Đặng Nguyên Cẩn, Ngô Đức Kế… bị đày ra Côn Đảo; hàng ngàn người khác bị giết, hoặc bị cầm cố, lưu đày. Ở Huế, các sỹ phu Hoàng Thông, Lê Đình Mộng, Lê Kiệt, Nguyễn Bình, Phạm Toản, Nguyễn Mạnh, Phan Đạm… đều bị kết tội khổ sai, hoặc bị giam cầm tại nhà lao Thừa Phủ hoặc phát vãng đi Lao Bảo. Tình cảnh ấy càng thôi thúc ý chí tìm đường cứu nước, đồng thời giúp Nguyễn Tất Thành nhận thức rõ hơn về sự bất thành trong phương thức đấu tranh mà các bậc tiền bối đã lựa chọn và thực hiện. Trong tác phẩm Ho, nhà báo Mỹ David Halberstam viết: “Tư tưởng yêu nước của Hồ (tức Nguyễn Tất Thành) được tăng cường ở Huế… Trong khi đang học ở Huế, Hồ tiếp tục các công việc yêu nước một cách tích cực và cuối cùng ông đã rời bỏ trường này trước khi có một mảnh bằng. Đây là một thời gian đặc biệt may mắn, và ông là một con người muốn học thêm nữa bằng cách chu du ra nước ngoài hơn là học trong trường khắt khe do thực dân đỡ đầu”.
Vậy là tiến thêm một bước, trong hơn ba năm trên đất Huế, không chỉ tìm hiểu và chiêm nghiệm, Nguyễn Tất Thành đã trực tiếp tham gia các phong trào yêu nước, làm dày thêm hành trang nhận thức chính trị và hoạt động thực tiễn của mình, chuẩn bị đầy đủ hơn cho cuộc dấn thân vì Tổ quốc, vì dân tộc.
3. Giữa năm 1909, Nguyễn Sinh Sắc được cử làm giám khảo kỳ thi Hương ở Bình Định, rồi nhậm chức Tri huyện Bình Khê - một huyện hẻo lánh vùng bán sơn địa thuộc tỉnh Bình Định. Đang học năm thứ hai trường Quốc Học, Nguyễn Tất Thành theo cha rời Huế. Được cha gửi ăn học tại nhà ông Phạm Ngọc Thọ (cha của bác sỹ Phạm Ngọc Thạch) đang dạy tại trường Tiểu học Pháp - Việt Quy Nhơn, Nguyễn Tất Thành tiếp tục theo chương trình “cours supérieur”, đồng thời nhận dạy tiếng Pháp và các môn khoa học sơ đẳng cho các thí sinh chuẩn bị thi Hương khoa Kỷ Dậu (1909).
Qua phối kiểm các nguồn tài liệu (không nhiều lắm), có thể xâu chuỗi một số sự kiện có ảnh hưởng đến Nguyễn Tất Thành trong thời gian sống và học tập ở Quy Nhơn. Ngay khi đến Bình Khê, Nguyễn Sinh Sắc dẫn con đi thăm các sĩ phu trong vùng và di tích lịch sử ở Tây Sơn. Thời gian Nguyễn Sinh Sắc nhậm chức Tri huyện Bình Khê cũng là lúc Nguyễn Quý Song - thầy giáo cũ của Nguyễn Tất Thành bị cách chức Tri phủ Phù Cát (Bình Định) vì “không làm tròn phận sự”. Cuối năm 1909, Thành dự khoa thi lấy Tổng sư ở Quy Nhơn, nhưng không có kết quả vì bị gạch tên6. Đáng chú ý nhất là sự kiện sau khi Nguyễn Sinh Sắc bị bãi chức (tháng Giêng năm 1910) và bị triệu hồi về kinh, trong khi Nguyễn Tất Đạt theo cha thì Nguyễn Tất Thành xin ở lại, rồi sau đó tìm cách đi tiếp vào Nam. Bước ngoặt đầu năm 1910 ở Quy Nhơn chính là thời điểm đánh dấu sự trưởng thành trọn vẹn với những suy nghĩ và quyết định hết sức tự chủ của người thanh niên 20 tuổi Nguyễn Tất Thành trên hành trình thực hiện hoài bão cứu nước.
4. Chặng đường tiếp theo của Nguyễn Tất Thành gắn với Phan Thiết - Bình Thuận, vùng đất cực nam Trung Kỳ mà từ năm 1899, báo cáo của Công sứ Phan Thiết gửi  Khâm sứ Trung Kỳ nhấn mạnh: “Vị trí của dư địa Bình Thuận khiến nó trở thành một nơi ẩn náu tự nhiên của tất cả những phần tử phiêu bạt từ Nam kỳ lánh ra cũng như từ các tỉnh phía Bắc của Trung Kỳ chạy vào thành một địa bàn tụ hội cả Trung - Nam - Bắc”7. Lý giải về việc Nguyễn Tất Thành dừng chân ở Bình Thuận, tác giả Hà Huy Giáp cho biết: “Bác Hồ có lần nói với tôi: trên đường từ Huế vào Sài Gòn, hễ nơi nào có thể vừa kiếm sống, vừa tìm được tàu ra nước ngoài thì Bác vào”8. Tác giả Vũ Kỳ cho biết thêm: Nguyễn Tất Thành lúc đầu không có ý định dừng lại ở Phan Thiết, song đến đó thì tiền lộ phí đã cạn mới quyết định ở lại tìm việc để tiếp tục cuộc hành trình9.
Tại Bình Thuận, Nguyễn Tất Thành được tiếp xúc và gặp gỡ nhiều chí sĩ yêu nước, cấp tiến như: Trương Gia Mô, Hồ Tá Bang, Nguyễn Trọng Lợi, Nguyễn Quý Anh,...- những nhà sáng lập và điều hành Công ty Liên Thành (bao gồm Liên Thành thương quán, Liên Thành thư xã và Dục Thành học hiệu)10. Nguyễn Tất Thành cũng rất quan tâm thu thập thông tin về việc đi ra nước ngoài, tìm hiểu mối liên hệ giao dịch của Liên Thành thương quán với các chuyến tàu biển11...
người Pháp ở nước Pháp và nhất là những nhận xét trong chuyến đi tàu biển ở cảng Sài Gòn sang cảng Marseille hàng tháng trời lên đênh trên mặt biển”.
12. Theo Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng - Vàng trong lửa, sđd, tr.69, 78.
13. Nhiều tài liệu cho biết: Trương Gia Mô là người trực tiếp tạo phương tiện đi lại cho Nguyễn Tất Thành. Căn nhà đầu tiên Nguyễn Tất Thành trú ngụ trên đất Sài Gòn là nhà ông Lê Văn Đạt - anh em con bạn dì của Trương Gia Mô (ở đường Cô Bắc, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh hiện nay). Các địa chỉ tiếp theo cũng gắn với Liên Thành: trụ ở Liên Thành phân cục (số 5 đường Châu Văn Liêm, quận 5 thành phố Hồ Chí Minh); đại lý hàng của Công ty Liên Thành (đường Nguyễn Tất Thành, quận 4, thành phố Hồ Chí Minh) v.v...
14. Nguyễn Ái Quốc - Bản án chế độ thực dân Pháp - NXB CTQG, Hà Nội, 2008, tr.148.
15. Wiliam j.Duiker - Hồ Chí Minh - a life, sđd, tr.19. Wiliam j.Duiker từng là viên chức Bộ Ngoại giao Mỹ, và là giáo sư sử học trường Đại học Penn States.
16. Nguyễn Văn linh - Thành phố Hồ Chí Minh 10 năm - NXB Sự thật, Hà Nội, 1985, tr.29.
17. Có tài liệu cho biết Nguyễn Tất Thành được ông Trương Cao Nho - làm trưởng bếp trên tàu của hãng Chargeurs Réunis, nhà ở đường Võ Thị Sáu (quận 3, thành phố Hồ Chí Minh hiện nay) - giới thiệu làm phụ bếp trên tàu Amiral Latouche Tréville (Xem Vàng trong lửa, sđd, tr.86).
18. Bài viết có tham khảo một số tư liệu trong luận văn thạc sĩ sử học của Huỳnh Bá Lộc - Quá trình tiếp xúc của Nguyễn Tất Thành với các sĩ phu Việt Nam trước khi ra đi tìm đường cứu nước (1895 – 1911), bảo vệ tại Trường Đại học KHXH&NV - Đại học Quốc gia TP. HCM, 2010.

LÊ HỮU PHƯỚC TS. Phó Hiệu trưởng, Trường Đại học KHXH&NV - Đại học Quốc gia TP.HCM


phương hướng phát triển kinh tế xã hội

1. Thời kỳ quá độ:
    a) Khái niệm:
    Theo Mác, thời kỳ "quá độ" là thời kỳ trung gian để đưa từ xã hội phát triển thấp lên một xã hội phát triển cao hơn. Cụ thể là trong hoàn cảnh thế giới hiện nay, theo Mác, trình tự phát triển của nó là phải trải qua 2 giai đoạn: giai đoạn thấp (giai đoạn đầu, là giai đoạn còn mang dấu vết xã hội cũ như kinh tế, đạo đức, tinh thần... mà hiện nay là giai đoạn chủ nghĩa xã hội) và giai đoạn cao (giai đoạn sau, giai đoạn chủ nghĩa cộng sản). Vì thoát thai từ xã hội tư bản, nên từ tư bản lên xã hội chủ nghĩa là phải trải qua thời kỳ quá độ chính trị đặc biệt_thời kỳ thống trị của giai cấp công nhân. Ông coi thời kỳ này là thời kỳ chuyển tiếp từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa cộng sản, và đó là điều tất yếu để đưa xã hội lên tới trạng thái tiến bộ cao nhất của nó.
     Về sau, Lenin đã phát triển học thuyết này của Mác lên một bước mới. Ông cho rằng thời kỳ quá độ tiến lên xã hội chủ nghĩa tất yếu phải trải qua một thời kỳ trung gian mà ta gọi là quá độ. Ông cho rằng đặc điểm chủ yếu của thời kỳ này đó là nền kinh tế khống thuần nhất mà nó tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau, và trong thời điểm hiện nay là tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa ở các nước lạc hâu.

     ==> Khái niệm về "thời kỳ quá độ" : là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để và toàn diện về các mặt chính trị, kinh tế, xã hội, tư tưởng, văn hóa, nghệ thuật từ xã hội cũ (tư bản chủ nghĩa) lên xã hội mới (xã hội cộng sản), mà giai đoạn thấp là chủ nghĩa xã hội.


 b) Nhận thức mới của Đảng về thời kỳ quá độ:

     _ Xã hội nước ta đang thực hiện là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triểntoàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới".
      Mô hình CNXH nêu trên thể hiện quan điểm Mác - Lê-nin về CNXH. Một mặt, lấy phục vụ con người làm mục đích, tức là "tất cả vì con người". Mặt khác, lấy việc phát huy sức mạnh của con người làm động lực chủ yếu để xây dựng thành công CNXH, tức là "tất cả do con người". Đồng thời, mô hình trên cũng thể hiện sự quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH. Mô hình ấy biểu hiện như một kết cấu tổng thể, ổn định tương đối, nó không phải là một mô hình khép kín và cứng nhắc. Mô hình CNXH thời kỳ đổi mới ở nước ta chứa đựng khả năng mở rộng nội hàm, tiếp tục bổ sung những nét mới là kết quả của việc không ngừng nâng cao trình độ lý luận và tổng kết thực tiễn phong phú, đa dạng. Nó là kết quả của sự kết hợp hài hòa cái phổ biến và cái đặc thù, cái chung và cái riêng để tạo nên một mô hình có tên gọi: mô hình CNXH Việt Nam. Nó thể hiện xu hướng gắn kết hợp lý tiến trình phát triển của CNXH với sự vận động không ngừng của nhân loại đi lên phía trước, kế thừa những thành tựu tiến bộ của loài người để xây dựng thành công CNXH.

     _ Nhận thức việc "bỏ qua tư bản chủ nghĩa tiến lên chủ nghĩa xã hội" 
       "Bỏ qua chủ nghĩa tư bản" trong chính sách của Đảng xét trên hai khía cạnh:
        + Bỏ qua ở đây, tức là "bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa",  không có nghĩa là thực hiện nghiêm túc, theo trình tự các quá trình, các quy luật kinh tế mà chủ nghĩa tư bản đã làm qua, mà phải "rút ngắn" thời gian thực hiện các quá trình, các quy luật kinh tế; mà rút ngắn ở đây không có nghĩa là đốt cháy giai đoạn một cách chủ quan, duy ý chí mà phải thực hiện theo đúng trình tự, quá trình phát triển như vậy nước ta mới phát triển được.
         + Bỏ qua ở đây, ngoài việc thực hiện đúng trình tự, quy luật phát triển còn phải biết kế thừa, chọn lọc, tìm ra các phương pháp, cách thức mới để đưa nước ta từ lạc hậu tiến  lên chủ nghĩa xã hội.
       

    Tài liệu mới viết về bỏ qua trên 4 khía cạnh:
           Một là, "bỏ qua" chế độ TBCN nhưng nước ta vẫn phải tôn trọng quá trình lịch sử - tự nhiên của sự chuyển biến từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác, đặc biệt, phải tôn trọng quá trình lịch sử tự nhiên của lực lượng sản xuất, của các nhân tố kinh tế - kỹ thuật mà xét đến cùng là những nhân tố quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của chế độ mới.
           Hai là, từ một nước chậm phát triển, bằng "con đường rút ngắn" đi lên CNXH, tất yếu nước ta phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài trong đó có sự xen kẽ "những mảnh của chủ nghĩa xã hội" với "những mảnh của CNTB" (Lê-nin). Trạng thái xen kẽ ấy làm cho các yếu tố của CNXH và các yếu tố của CNTB vừa đấu tranh với nhau, vừa "chung sống hòa bình", vừa bài trừ, vừa nương tựa, thâm nhập vào nhau.
           Ba là, nước ta "bỏ qua" chế độ TBCN nhưng không thể bỏ qua quá trình phát triển có tính quy luật từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn mà CNTB đã từng trải qua: sản xuất hàng hóa; tiến hành cách mạng kỹ thuật - theo nhu cầu phát triển biện chứng của kỹ thuật trong hiệp tác giản đơn, công trường thủ công, đại công nghiệp cơ khí - để chuyển lao động thủ công thành lao động sử dụng máy móc; mở rộng giao lưu trong nước và giao lưu quốc tế, khắc phục tâm lý sản xuất nhỏ và tư tưởng phong kiến...
           Bốn là, "bỏ qua" chế độ TBCN nhưng phải kế thừa những thành tựu tiến bộ mà loài người tạo ra trong chế độ CNTB. Sau khi "bỏ qua" phần lạc hậu của CNTB (địa vị thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN), chúng ta cần tiếp thu những thành tựu của CNTB và sử dụng chúng vào mục tiêu xây dựng CNXH. "Bỏ qua" chế độ TBCN, nhưng đồng thời sử dụng những thành quả văn minh trong CNTB một cách chủ động và tự giác, chọn lọc kỹ lưỡng trong điều kiện mới - điều kiện có nhà nước XHCN và với chủ thể mới là nhân dân lao động.

   b) Quan điểm của Đảng về thời kỳ quá độ:
     + Trong thời đại ngày nay, độc lập dân tộc đi liền với chủ nghĩa xã hội:
 Điều này được Bác nêu trong "Chính cương vắn tắt" của Đảng là "làm tư sản dân quyền cải cách thổ địa cách mạng để đi tới xã hội công sản". Sự lựa chọn này dựa trên các tiêu chí sau:
        _ Độc lập dân tộc và người cày có ruộng: là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội, giải phóng nhân dân khỏi ách áp bức bóc lột. Điều này thể hiện rõ trong tiến trình lịch sử việt nam: Dưới sự lãnh đạo của đảng, nhân dân ta tiến hành cuộc cách mạng gian khổ để tiến đến thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đưa dân tộc ta vào kỷ nguyên độc lập tự do. Trải qua 2 cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp và Mỹ, nhân dân ta đã giành độc lập hoàn toàn, thống nhất Tổ quốc, đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Mặc dù trong quá trình xây dựng Đảng có những khuyết điểm, nhưng chúng ta vẫn xây dựng đất nước thành công.
        _ Việc lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa làm mục tiêu cho cách mạng nước ta là phù hợp với nội dung của thời đại ngày nay. Điều này đúng. Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi đã mở ra thời kỳ mới_thời kỳ "quá độ từ chủ nghĩa tư bản tiến lên chủ nghĩa xã hội" và đề ra con đường hướng đến nó mà các nước khác cần theo. Sau khi Liên Xô sụp đổ, các nước xã hội chủ nghĩa khác theo liên Xô đã tiến hành cải cách, đổi mới và đạt nhiều thành tựu to lớn.
        _ Đáp ứng yêu cầu xóa bỏ ách áp bức bóc lột của chủ nghĩa tư bản tiến tới xã hội tiến bộ hơn. Sau khi giành độc lập cho đất nước, nhiệm vụ đầu tiên và bức thiết của Đảng và chính phủ hướng tới đó là xây dựng một xã hội bình đẳng, nhà nước "do dân, vì dân", không có sự bóc lột và nhờ đó sẽ thúc đẩy việc đi lên chủ nghĩa xã hội môt cách tốt đẹp hơn.
        _ Khó có thể xóa bỏ chủ nghĩa tư bản trên phạm vi thế giới. Thực vậy, việc tồn tại hai hệ thống tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa là phản ánh được bước tiến mới trong lịch sử, thế nhưng trong hệ thống đó vẩn tồn tại những mâu thuẫn nên khó giải quyết, đó là cuộc sống nhân dân, vấn đề kinh tế... .  Và tất nhiên là ở một số nước châu Á đi theo xã hội chủ nghĩa, đó là con đường "tốt" tuy nhiên cũng có nhiều khó khăn, vấn đề phải giải quyết.

     + Xã hội chủ nghĩa mà nhân dân làm chủ có các đặc trưng sau:
        _ nhân dân làm chủ
        _ có nền kinh tế phát triển dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại, chế độ công hữu về tư liệu sản xuất.
        _có nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
        _ con người được giải phóng khỏi ách áp bức bóc lột, hưởng theo lao động, sống ấm no, hạnh phúc...
        _ các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết.
        _ có quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước trên thế giới.
     + Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, có nền sản xuất rất thấp. Thực vậy, trước khi Đổi mới, nước ta còn tồn tại tàn dư phong kiến lạc hậu, mô hình kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp, có khoảng cách quá lớn về trình độ kinh tế chính trị của nước ta đối với các nước xung quanh.
     Thuận lợi: dân ta có lòng yêu nước nồng nàn, cần cù  lao động và sáng tạo, coi cuộc cách mạng khoa hoc_kỹ thuật trên thế giới là tiền đề, đòn bẩy đưa nước ta tiến lên một tầm cao mới.
  
    
     + Mục tiêu tổng quát phải đạt tới thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
          _ Hình thành về cơ bản nền kinh tế nhiều thành phần, với cơ cấu cơ bản là Công nghiệp _Nông  nghiệp _Dịch vụ gắn liến với phân công lao động, ngành nghề và hợp tác kinh tế quốc tế sâu rộng.
          _ Có kiến trúc thượng tầng về chính trị, văn hóa, tư tưởng.
          _  Làm nước ta trở thành nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh.


2. Quan điểm của Đảng ta về công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
a. Khái niệm công nghiệp hóa - hiện đại hóa.

- Từ cuối thế kỷ XVIII đến nay trong lịch sử đã diễn ra các loại công nghiệp hóa khác nhau:

+ Công nghiệp hóa TBCN
+ Công nghiệp hóa XHCN

* Xét về mặt lực lượng sản xuất, khoa học - công nghệ là giống nhau

*Khác nhau về mục đích, phương thức tiến hành và sự chi phối của quan hệ sản xuất thống trị.

Công nghiệp hóa diễn ra ở các nước khác nhau, thời điểm lịch sử khác nhau, điều kiện kinh tế xã hội khác nhau.Do vậy, nội dung khái niệm cũng có sự khác nhau.

Nhưng theo nghĩa chung nhất, khái quát nhất thì: công nghiệp hóa là quá trình biến một nước có nền kinh tế lạc hậu thành một nước công nghiệp.

- Quan niệm của Đảng ta: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội, từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng xuất lao động xã hội cao.

Quan niệm trên cho thấy, đây là một quá trình kết hợp chặt chẽ 2 nội dung:công nghiệp hóa và hiện đại hóa trong quá trình phát triển:

+ Nó không chỉ đơn thuần là phát triển công nghiệp mà còn phải thực hiện chuyển dịch cơ cấu trong từng ngành, lĩnh vực và tòan bộ nền kinh tế quốc dân theo hướng kỹ thuật và công nghệ hiện đại.

+ Là một quá trình không chỉ tuần tự từ cơ giới hóa sang tự động hóa, tin học hóa mà còn kết hợp giữa thủ công truyền thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu có thể và mang tính quyết định.

- Do những biến đổi của nền kinh tế và điều kiện cụ thể của đất nước, CNH, HĐHH ở nước ta có những đặc điểm chủ yếu sau:

+ CNH, HĐH theo đính hướng XHCN, thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh"

+ CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế trí thức

+ CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước

+ CNH, HĐH trong bối cảnh toàn cầu kinh tế và Việt Nam tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế

+ Quan điểm của Đảng:
_ Lấy định hướng xã hội chủ nghĩa với tư cách là con đường đi đến mục tiêu đã chọn làm chỗ dựa để điều chỉnh các hoạt động, các bước đi trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chuyển dịch cơ cấu kinh tế

_ Lấy hiệu quả kinh tế_xã hội làm quan điểm cơ bản xuyên suốt, chi phối quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
     Thật vậy, hiệu quả kinh tế_xã hội là phạm trù kinh tế phản ánh sự thống nhất giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Dưới góc độ chính phủ_chức năng xã hội trong quản lý vĩ mô, hiệu quả xã hội được coi là mục đích và hiệu quả kinh tế là phương tiện. Và đối với các chủ doanh nghiệp thì hiệu quả kinh tế là mục tiêu của họ. Điều đó cũng dễ hiểu vì nếu khống như vậy thì vốn của họ chắn chắn sẽ không bảo tồn và cuối cùng là không thể sinh ra lợi nhuận.
     Hiệu quả kinh tế_xã hội có liên quan đến sự hình thành nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa, ứng dụng các thành tựu khoa học_kỹ thuật và công nghệ hiện đại và chuyển từ phát triển chiều ngang sang phát triển chiều sâu, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, sớm có nhiều việc làm cho người lao động. Bằng cách đó, ta sẽ thực hiện tốt và đạt mục tiêu "dân giàu nước mạnh, xạ hội công bằng, dân chủ văn minh".

_ Trong thời đại ngày nay, công nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa:
   Quan điểm này của Đảng xuất phát từ yêu cầu:
       + phải khai thác triệt để các lợi thế của nước phát triển muộn về công nghiệp,
       + xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa.
       + nhân loại trải qua hai cuộc cách mạng kỹ thuật, nhất là cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại.
       + yêu cầu vượt qua các nước nghèo, rút ngắn khoảng cách lạc hậu, vượt qua các nguy cơ đang thách thức định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Công nghiệp hóa và hiện đại hóa còn tạo điều kiện, tạo "bước nhảy" để nước ta tiến lên thành một nước công nghiệp, một nước độc lập tự chủ đủ sức thực hiện sự phân công và hợp tác quốc tế.
     Thực hành quan điểm này, đòi hỏi ta phải sớm khắc phục thiên hướng quá nhấn mạnh đến quan hệ tỷ lệ giữa các ngành trong cơ cấu kinh tế, xem nhẹ yêu cầu nâng cao trình độ kỹ thuật, công nghệ mới trong các ngành của nền kinh tế quốc dân.
   Cụ thể:
   Đảng ta sắp xếp lại cơ cấu kinh tế theo: cơ cấu ngành (như công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ...); cơ cấu vùng (các vùng kinh tế theo lãnh thổ) và cơ cấu thành phần kinh tế
Xây dựng một cơ cấu kinh tế được gọi là tối ưu khnó đáp ứng được các yêu cầu sau:
- Phản ánh được và đúng các quy luật khách quan, nhất là các quy luật kinh tế và xu hướng vận động phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
- Nông nghiệp phải giảm dần về tỷ trọng, công nghiệp và dịch vụ phải tăng dần về tỷ trọng.
- Phù hợp với xu hướng tiến bộ của khoa học và công nghệ đã và đang diễn ra như vũ bão trên thế giới.
- Cho phép khai thác tối đa mọi tiềm năng của đất nước, của các ngành, các địa phương, các thành phần kinh tế.
- Thực hiện tốt sự phân công và hợp tác quốc tế theo xu hướng toàn cầu hoá kinh tế, do vậy, cơ cấu kinh tế được tạo dựng phải là "cơ cấu mở".
* Tiến hành phân công lại lao động xã hội: Phân công lao động xã hội là sự chuyên môn hóa lao động, tức là chuyên môn hóa sản xuất giữa các ngành, trong nội bộ từng ngành và giữa các vùng trong nền kinh tế quốc dân. Phân công lao động xã hội có tác dụng rất to lớn. Nó là đòn bẩy của sự phát triển công nghệ và năng suất lao động; cùng với cách mạng khoa học và công nghệ, nó góp phần hình thành và phát triển cơ cấu kinh tế hợp lý
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sự phân công lại lao động xã hội phải tuân thủ các quá trình có tính quy luật sau:
- Tỷ trọng và số tuyệt đối lao động nông nghiệp giảm dần, tỷ trọng và số tuyệt đối lao động công nghiệp ngày một tăng lên.
- Tỷ trọng lao động trí tuệ ngày một tăng và chiếm ưu thế so với lao động giản đơn trong tổng lao động xã hội.
- Tốc độ tăng lao động trong các ngành sản xuất phi vật chất (dịch vụ) tăng nhanh hơn tốc độ tăng lao động trong các ngành sản xuất vật chất.
ở nước ta, phương hướng phân công lại lao động xã hội hiện nay cần triển khai trên cả hai địa bàn: tại chỗ và nơi khác để phát triển về chiều rộng kết hợp phát triển theo chiều sâu.



Gắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với quá trình hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường:
    Trong thời đại ngày nay, ở hầu hết các nước. nền kinh tế đều vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, một hình thái cao nhất của văn minh nhân loại hiện nay. Nó là "động lực" thúc đẩy mạnh mẽ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Xét về thực chất, quan điểm này phản ánh mối quan hệ về phát triển giữa lực lượng sản xuất và quan hệ xuất (quan hệ hàng hóa_tiền tệ). Quan điểm này giúp ta phân biệt sự khác nhau của cong nghiệp hóa trong mô hình và cơ cấu kế hoạch hóa quan liêu, bao cấp trước đây và cong nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta.
     Giải quyết trọn vẹn quan hệ công nghiệp hóa, hiện đại hóa với kinh tế thị trường giúp ta xác lập được mộ hình công nghiệp hóa theo điều kiện phát triển rút ngắn quá trình hiện đại hóa theo mục tiêu định hướng xã hội chủ nghĩa đã chọn và đem lại hiệu quả cao.

_ Việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải đặt nó trong sự gắn bó giữa cơ cấu ngành, cơ cấu vùng lãnh thổ, cơ cấu nông thôn_đô thị giữa các thành phần kinh tế mở cửa giữa trong nước và nước ngoài.
    quan điểm này bắt nguồn từ sự phát triển ngày càng tăng của ngành dịch vụ, sự phát triển không đều về lợi thế so sánh giữa các vùng, giữa các nước, giữa thành thị và nông thôn; xu hướng toàn cầu hóa và khu vực hóa gắn với các vấn đề gay cấn trên thế giới mà việc giải quyết là phải dựa trên số đông, dựa trên sức mạnh của cả nước, lẫn  các nước khác trên thế giới, do đó Đảng cần phải quán triệt quan điểm trên một cách đầy đủ, sâu sắc.

_ Kết hợp phát triển kinh tế với quốc phòng an ninh

_ Lấy việc phát huy nhân tố con người làm yếu tố cơ bản: cho sự phát triển kinh tế bền vững, gắn tăng trưởng kinh tế với đổi mới cơ cấu kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục. thực hiện tiến bộ xã hội, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái.

_ Kết hợp hài hòa giữa công nghệ truyền thống và công nghệ hiện đại: trong tính đa dạng của nó, đồng thời tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở các khâu, ngành có ý nghĩa quyết định và mặt hàng mũi nhọn có liên quan đến quy mô và hiệu quả của kim ngạch xuất khẩu trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế

_ Kết hợp hài hòa giữa quy luật phát triển tuần tự và quy luật phát triển nhảy vọt để tìm ra con đường phát triển rút ngắn hiện đại thích hợp với điều kiện lịch sử cụ thể ở nước ta:
     Lần theo chiều dài lịch sử công nghiệp thế giới ta thấy có sự chuyển dịch qua 2 dạng sau:
      + Công nghiệp hóa cổ điển: xây dựng các tarng thiết bị kỹ thuật và công nghệ theo trật tự nhất định. Tiêu biểu là nước Anh. Nước Anh phát triển theo tuần tự, đầu tiên là thủ công, nửa co khí, cơ khí, từ nông nghiệp đến công nghiệp nhẹ rồi từng bước chuyển sang công nghiệp nặng. Việc sản xuất máy móc cũng theo tuần tự, từ việc chế tạo bằng phương pháp thủ công kéo dài đến khi có công xưởng xuất hiện, chế tạo ra máy móc. Hiện nay, Anh là một trong những nước phát triển nhất châu Âu và cả thế giới.
       Từ kinh nghiệm của Anh, các nước kế tiếp tiến hành rút bớt thời gian tiến hành để đạt nhiều thành tựu. Tiêu biểu là Liên Xô. Nhờ chính sách kinh tế (NEP) của Lenin, Liên Xô tiến hành công nghiệp hóa cả nước theo hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy có nhiều khiếm khuyết, song nền kinh tế đó là nền kinh tế "mơ ước" cho các nước XHCN khác tiếp nối.
      + Công nghiệp hóa hiện đại: phát triển rút ngắn thời gian, thiên về hiện đại hóa, mở cửa, chuyển giao công nghệ mới, sử dụng vai trò to lớn của Nhà nước, kết hợp hài hòa giữa quy luật phát triển tuần tự và quy luật phát triển nhảy vọt.
       hai loại rút ngắn: loại cổ điển và loại hiện đại
     Nhật Bản thuộc loại cổ điển. thời kỳ đầu, công nghiệp hóa Nhật toàn dựa vào nông nghiệp, phát triển tuần tự, lấy sản xuất trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài là nguồn chủ yếu.
     Đến thế kỷ XX, các nước công nghiệp mới ở châu Á lại làm ngược lại, tận dụng vốn đầu tư nước ngoài để xây dựng thị trường hướng ngoại, dùng lợi thế thông qua việc đầu tư của các công ty xuyên quốc gia, các tổ chức kinh tế quốc tế và chính phủ các nước có quan hệ. Bằng cách đó, các nước này thành công trong việc rút ngắn thời gian tiến hành trong 25_30 năm, rút ngắn này là loại công nghiệp hóa hiện đại.
     Ở nước ta, không thể rút ngắn được sự lạc hậu, tụt hậu xa về kinh tế và giữ định hướng xã hội chủ nghĩa nên không thể theo kịp các nước NIC, mà nước ta chỉ có thể sử dụng cách tiến hành công nghiệp hóa của NIC là tham khảo để tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta.


     Từ các quan điểm trên, ta có thể hệ thống lại như sau: "Quan điểm cong nghiệp hóa trong điều kiện kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước XHCN diễn ra trong bối cảnh mới là cuộc cách mạng khoa học_kcông nghệ hiện đại và xu hướng toàn cầu hóa, khu văn hóa trong thời đại ngày nay được vận dụng ở nước ta"
     Định nghĩa: "Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của cong nghiệp và tiến bộ khoa học, công nghệ tạo ra năng suất lao động cao"