Thứ Ba, 20 tháng 9, 2011

phương hướng phát triển kinh tế xã hội

1. Thời kỳ quá độ:
    a) Khái niệm:
    Theo Mác, thời kỳ "quá độ" là thời kỳ trung gian để đưa từ xã hội phát triển thấp lên một xã hội phát triển cao hơn. Cụ thể là trong hoàn cảnh thế giới hiện nay, theo Mác, trình tự phát triển của nó là phải trải qua 2 giai đoạn: giai đoạn thấp (giai đoạn đầu, là giai đoạn còn mang dấu vết xã hội cũ như kinh tế, đạo đức, tinh thần... mà hiện nay là giai đoạn chủ nghĩa xã hội) và giai đoạn cao (giai đoạn sau, giai đoạn chủ nghĩa cộng sản). Vì thoát thai từ xã hội tư bản, nên từ tư bản lên xã hội chủ nghĩa là phải trải qua thời kỳ quá độ chính trị đặc biệt_thời kỳ thống trị của giai cấp công nhân. Ông coi thời kỳ này là thời kỳ chuyển tiếp từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa cộng sản, và đó là điều tất yếu để đưa xã hội lên tới trạng thái tiến bộ cao nhất của nó.
     Về sau, Lenin đã phát triển học thuyết này của Mác lên một bước mới. Ông cho rằng thời kỳ quá độ tiến lên xã hội chủ nghĩa tất yếu phải trải qua một thời kỳ trung gian mà ta gọi là quá độ. Ông cho rằng đặc điểm chủ yếu của thời kỳ này đó là nền kinh tế khống thuần nhất mà nó tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau, và trong thời điểm hiện nay là tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa ở các nước lạc hâu.

     ==> Khái niệm về "thời kỳ quá độ" : là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để và toàn diện về các mặt chính trị, kinh tế, xã hội, tư tưởng, văn hóa, nghệ thuật từ xã hội cũ (tư bản chủ nghĩa) lên xã hội mới (xã hội cộng sản), mà giai đoạn thấp là chủ nghĩa xã hội.


 b) Nhận thức mới của Đảng về thời kỳ quá độ:

     _ Xã hội nước ta đang thực hiện là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triểntoàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới".
      Mô hình CNXH nêu trên thể hiện quan điểm Mác - Lê-nin về CNXH. Một mặt, lấy phục vụ con người làm mục đích, tức là "tất cả vì con người". Mặt khác, lấy việc phát huy sức mạnh của con người làm động lực chủ yếu để xây dựng thành công CNXH, tức là "tất cả do con người". Đồng thời, mô hình trên cũng thể hiện sự quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH. Mô hình ấy biểu hiện như một kết cấu tổng thể, ổn định tương đối, nó không phải là một mô hình khép kín và cứng nhắc. Mô hình CNXH thời kỳ đổi mới ở nước ta chứa đựng khả năng mở rộng nội hàm, tiếp tục bổ sung những nét mới là kết quả của việc không ngừng nâng cao trình độ lý luận và tổng kết thực tiễn phong phú, đa dạng. Nó là kết quả của sự kết hợp hài hòa cái phổ biến và cái đặc thù, cái chung và cái riêng để tạo nên một mô hình có tên gọi: mô hình CNXH Việt Nam. Nó thể hiện xu hướng gắn kết hợp lý tiến trình phát triển của CNXH với sự vận động không ngừng của nhân loại đi lên phía trước, kế thừa những thành tựu tiến bộ của loài người để xây dựng thành công CNXH.

     _ Nhận thức việc "bỏ qua tư bản chủ nghĩa tiến lên chủ nghĩa xã hội" 
       "Bỏ qua chủ nghĩa tư bản" trong chính sách của Đảng xét trên hai khía cạnh:
        + Bỏ qua ở đây, tức là "bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa",  không có nghĩa là thực hiện nghiêm túc, theo trình tự các quá trình, các quy luật kinh tế mà chủ nghĩa tư bản đã làm qua, mà phải "rút ngắn" thời gian thực hiện các quá trình, các quy luật kinh tế; mà rút ngắn ở đây không có nghĩa là đốt cháy giai đoạn một cách chủ quan, duy ý chí mà phải thực hiện theo đúng trình tự, quá trình phát triển như vậy nước ta mới phát triển được.
         + Bỏ qua ở đây, ngoài việc thực hiện đúng trình tự, quy luật phát triển còn phải biết kế thừa, chọn lọc, tìm ra các phương pháp, cách thức mới để đưa nước ta từ lạc hậu tiến  lên chủ nghĩa xã hội.
       

    Tài liệu mới viết về bỏ qua trên 4 khía cạnh:
           Một là, "bỏ qua" chế độ TBCN nhưng nước ta vẫn phải tôn trọng quá trình lịch sử - tự nhiên của sự chuyển biến từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác, đặc biệt, phải tôn trọng quá trình lịch sử tự nhiên của lực lượng sản xuất, của các nhân tố kinh tế - kỹ thuật mà xét đến cùng là những nhân tố quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của chế độ mới.
           Hai là, từ một nước chậm phát triển, bằng "con đường rút ngắn" đi lên CNXH, tất yếu nước ta phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài trong đó có sự xen kẽ "những mảnh của chủ nghĩa xã hội" với "những mảnh của CNTB" (Lê-nin). Trạng thái xen kẽ ấy làm cho các yếu tố của CNXH và các yếu tố của CNTB vừa đấu tranh với nhau, vừa "chung sống hòa bình", vừa bài trừ, vừa nương tựa, thâm nhập vào nhau.
           Ba là, nước ta "bỏ qua" chế độ TBCN nhưng không thể bỏ qua quá trình phát triển có tính quy luật từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn mà CNTB đã từng trải qua: sản xuất hàng hóa; tiến hành cách mạng kỹ thuật - theo nhu cầu phát triển biện chứng của kỹ thuật trong hiệp tác giản đơn, công trường thủ công, đại công nghiệp cơ khí - để chuyển lao động thủ công thành lao động sử dụng máy móc; mở rộng giao lưu trong nước và giao lưu quốc tế, khắc phục tâm lý sản xuất nhỏ và tư tưởng phong kiến...
           Bốn là, "bỏ qua" chế độ TBCN nhưng phải kế thừa những thành tựu tiến bộ mà loài người tạo ra trong chế độ CNTB. Sau khi "bỏ qua" phần lạc hậu của CNTB (địa vị thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN), chúng ta cần tiếp thu những thành tựu của CNTB và sử dụng chúng vào mục tiêu xây dựng CNXH. "Bỏ qua" chế độ TBCN, nhưng đồng thời sử dụng những thành quả văn minh trong CNTB một cách chủ động và tự giác, chọn lọc kỹ lưỡng trong điều kiện mới - điều kiện có nhà nước XHCN và với chủ thể mới là nhân dân lao động.

   b) Quan điểm của Đảng về thời kỳ quá độ:
     + Trong thời đại ngày nay, độc lập dân tộc đi liền với chủ nghĩa xã hội:
 Điều này được Bác nêu trong "Chính cương vắn tắt" của Đảng là "làm tư sản dân quyền cải cách thổ địa cách mạng để đi tới xã hội công sản". Sự lựa chọn này dựa trên các tiêu chí sau:
        _ Độc lập dân tộc và người cày có ruộng: là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội, giải phóng nhân dân khỏi ách áp bức bóc lột. Điều này thể hiện rõ trong tiến trình lịch sử việt nam: Dưới sự lãnh đạo của đảng, nhân dân ta tiến hành cuộc cách mạng gian khổ để tiến đến thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đưa dân tộc ta vào kỷ nguyên độc lập tự do. Trải qua 2 cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp và Mỹ, nhân dân ta đã giành độc lập hoàn toàn, thống nhất Tổ quốc, đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Mặc dù trong quá trình xây dựng Đảng có những khuyết điểm, nhưng chúng ta vẫn xây dựng đất nước thành công.
        _ Việc lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa làm mục tiêu cho cách mạng nước ta là phù hợp với nội dung của thời đại ngày nay. Điều này đúng. Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi đã mở ra thời kỳ mới_thời kỳ "quá độ từ chủ nghĩa tư bản tiến lên chủ nghĩa xã hội" và đề ra con đường hướng đến nó mà các nước khác cần theo. Sau khi Liên Xô sụp đổ, các nước xã hội chủ nghĩa khác theo liên Xô đã tiến hành cải cách, đổi mới và đạt nhiều thành tựu to lớn.
        _ Đáp ứng yêu cầu xóa bỏ ách áp bức bóc lột của chủ nghĩa tư bản tiến tới xã hội tiến bộ hơn. Sau khi giành độc lập cho đất nước, nhiệm vụ đầu tiên và bức thiết của Đảng và chính phủ hướng tới đó là xây dựng một xã hội bình đẳng, nhà nước "do dân, vì dân", không có sự bóc lột và nhờ đó sẽ thúc đẩy việc đi lên chủ nghĩa xã hội môt cách tốt đẹp hơn.
        _ Khó có thể xóa bỏ chủ nghĩa tư bản trên phạm vi thế giới. Thực vậy, việc tồn tại hai hệ thống tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa là phản ánh được bước tiến mới trong lịch sử, thế nhưng trong hệ thống đó vẩn tồn tại những mâu thuẫn nên khó giải quyết, đó là cuộc sống nhân dân, vấn đề kinh tế... .  Và tất nhiên là ở một số nước châu Á đi theo xã hội chủ nghĩa, đó là con đường "tốt" tuy nhiên cũng có nhiều khó khăn, vấn đề phải giải quyết.

     + Xã hội chủ nghĩa mà nhân dân làm chủ có các đặc trưng sau:
        _ nhân dân làm chủ
        _ có nền kinh tế phát triển dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại, chế độ công hữu về tư liệu sản xuất.
        _có nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
        _ con người được giải phóng khỏi ách áp bức bóc lột, hưởng theo lao động, sống ấm no, hạnh phúc...
        _ các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết.
        _ có quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước trên thế giới.
     + Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, có nền sản xuất rất thấp. Thực vậy, trước khi Đổi mới, nước ta còn tồn tại tàn dư phong kiến lạc hậu, mô hình kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp, có khoảng cách quá lớn về trình độ kinh tế chính trị của nước ta đối với các nước xung quanh.
     Thuận lợi: dân ta có lòng yêu nước nồng nàn, cần cù  lao động và sáng tạo, coi cuộc cách mạng khoa hoc_kỹ thuật trên thế giới là tiền đề, đòn bẩy đưa nước ta tiến lên một tầm cao mới.
  
    
     + Mục tiêu tổng quát phải đạt tới thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
          _ Hình thành về cơ bản nền kinh tế nhiều thành phần, với cơ cấu cơ bản là Công nghiệp _Nông  nghiệp _Dịch vụ gắn liến với phân công lao động, ngành nghề và hợp tác kinh tế quốc tế sâu rộng.
          _ Có kiến trúc thượng tầng về chính trị, văn hóa, tư tưởng.
          _  Làm nước ta trở thành nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh.


2. Quan điểm của Đảng ta về công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
a. Khái niệm công nghiệp hóa - hiện đại hóa.

- Từ cuối thế kỷ XVIII đến nay trong lịch sử đã diễn ra các loại công nghiệp hóa khác nhau:

+ Công nghiệp hóa TBCN
+ Công nghiệp hóa XHCN

* Xét về mặt lực lượng sản xuất, khoa học - công nghệ là giống nhau

*Khác nhau về mục đích, phương thức tiến hành và sự chi phối của quan hệ sản xuất thống trị.

Công nghiệp hóa diễn ra ở các nước khác nhau, thời điểm lịch sử khác nhau, điều kiện kinh tế xã hội khác nhau.Do vậy, nội dung khái niệm cũng có sự khác nhau.

Nhưng theo nghĩa chung nhất, khái quát nhất thì: công nghiệp hóa là quá trình biến một nước có nền kinh tế lạc hậu thành một nước công nghiệp.

- Quan niệm của Đảng ta: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội, từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng xuất lao động xã hội cao.

Quan niệm trên cho thấy, đây là một quá trình kết hợp chặt chẽ 2 nội dung:công nghiệp hóa và hiện đại hóa trong quá trình phát triển:

+ Nó không chỉ đơn thuần là phát triển công nghiệp mà còn phải thực hiện chuyển dịch cơ cấu trong từng ngành, lĩnh vực và tòan bộ nền kinh tế quốc dân theo hướng kỹ thuật và công nghệ hiện đại.

+ Là một quá trình không chỉ tuần tự từ cơ giới hóa sang tự động hóa, tin học hóa mà còn kết hợp giữa thủ công truyền thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu có thể và mang tính quyết định.

- Do những biến đổi của nền kinh tế và điều kiện cụ thể của đất nước, CNH, HĐHH ở nước ta có những đặc điểm chủ yếu sau:

+ CNH, HĐH theo đính hướng XHCN, thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh"

+ CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế trí thức

+ CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước

+ CNH, HĐH trong bối cảnh toàn cầu kinh tế và Việt Nam tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế

+ Quan điểm của Đảng:
_ Lấy định hướng xã hội chủ nghĩa với tư cách là con đường đi đến mục tiêu đã chọn làm chỗ dựa để điều chỉnh các hoạt động, các bước đi trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chuyển dịch cơ cấu kinh tế

_ Lấy hiệu quả kinh tế_xã hội làm quan điểm cơ bản xuyên suốt, chi phối quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
     Thật vậy, hiệu quả kinh tế_xã hội là phạm trù kinh tế phản ánh sự thống nhất giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Dưới góc độ chính phủ_chức năng xã hội trong quản lý vĩ mô, hiệu quả xã hội được coi là mục đích và hiệu quả kinh tế là phương tiện. Và đối với các chủ doanh nghiệp thì hiệu quả kinh tế là mục tiêu của họ. Điều đó cũng dễ hiểu vì nếu khống như vậy thì vốn của họ chắn chắn sẽ không bảo tồn và cuối cùng là không thể sinh ra lợi nhuận.
     Hiệu quả kinh tế_xã hội có liên quan đến sự hình thành nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa, ứng dụng các thành tựu khoa học_kỹ thuật và công nghệ hiện đại và chuyển từ phát triển chiều ngang sang phát triển chiều sâu, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, sớm có nhiều việc làm cho người lao động. Bằng cách đó, ta sẽ thực hiện tốt và đạt mục tiêu "dân giàu nước mạnh, xạ hội công bằng, dân chủ văn minh".

_ Trong thời đại ngày nay, công nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa:
   Quan điểm này của Đảng xuất phát từ yêu cầu:
       + phải khai thác triệt để các lợi thế của nước phát triển muộn về công nghiệp,
       + xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa.
       + nhân loại trải qua hai cuộc cách mạng kỹ thuật, nhất là cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại.
       + yêu cầu vượt qua các nước nghèo, rút ngắn khoảng cách lạc hậu, vượt qua các nguy cơ đang thách thức định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Công nghiệp hóa và hiện đại hóa còn tạo điều kiện, tạo "bước nhảy" để nước ta tiến lên thành một nước công nghiệp, một nước độc lập tự chủ đủ sức thực hiện sự phân công và hợp tác quốc tế.
     Thực hành quan điểm này, đòi hỏi ta phải sớm khắc phục thiên hướng quá nhấn mạnh đến quan hệ tỷ lệ giữa các ngành trong cơ cấu kinh tế, xem nhẹ yêu cầu nâng cao trình độ kỹ thuật, công nghệ mới trong các ngành của nền kinh tế quốc dân.
   Cụ thể:
   Đảng ta sắp xếp lại cơ cấu kinh tế theo: cơ cấu ngành (như công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ...); cơ cấu vùng (các vùng kinh tế theo lãnh thổ) và cơ cấu thành phần kinh tế
Xây dựng một cơ cấu kinh tế được gọi là tối ưu khnó đáp ứng được các yêu cầu sau:
- Phản ánh được và đúng các quy luật khách quan, nhất là các quy luật kinh tế và xu hướng vận động phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
- Nông nghiệp phải giảm dần về tỷ trọng, công nghiệp và dịch vụ phải tăng dần về tỷ trọng.
- Phù hợp với xu hướng tiến bộ của khoa học và công nghệ đã và đang diễn ra như vũ bão trên thế giới.
- Cho phép khai thác tối đa mọi tiềm năng của đất nước, của các ngành, các địa phương, các thành phần kinh tế.
- Thực hiện tốt sự phân công và hợp tác quốc tế theo xu hướng toàn cầu hoá kinh tế, do vậy, cơ cấu kinh tế được tạo dựng phải là "cơ cấu mở".
* Tiến hành phân công lại lao động xã hội: Phân công lao động xã hội là sự chuyên môn hóa lao động, tức là chuyên môn hóa sản xuất giữa các ngành, trong nội bộ từng ngành và giữa các vùng trong nền kinh tế quốc dân. Phân công lao động xã hội có tác dụng rất to lớn. Nó là đòn bẩy của sự phát triển công nghệ và năng suất lao động; cùng với cách mạng khoa học và công nghệ, nó góp phần hình thành và phát triển cơ cấu kinh tế hợp lý
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sự phân công lại lao động xã hội phải tuân thủ các quá trình có tính quy luật sau:
- Tỷ trọng và số tuyệt đối lao động nông nghiệp giảm dần, tỷ trọng và số tuyệt đối lao động công nghiệp ngày một tăng lên.
- Tỷ trọng lao động trí tuệ ngày một tăng và chiếm ưu thế so với lao động giản đơn trong tổng lao động xã hội.
- Tốc độ tăng lao động trong các ngành sản xuất phi vật chất (dịch vụ) tăng nhanh hơn tốc độ tăng lao động trong các ngành sản xuất vật chất.
ở nước ta, phương hướng phân công lại lao động xã hội hiện nay cần triển khai trên cả hai địa bàn: tại chỗ và nơi khác để phát triển về chiều rộng kết hợp phát triển theo chiều sâu.



Gắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với quá trình hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường:
    Trong thời đại ngày nay, ở hầu hết các nước. nền kinh tế đều vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, một hình thái cao nhất của văn minh nhân loại hiện nay. Nó là "động lực" thúc đẩy mạnh mẽ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Xét về thực chất, quan điểm này phản ánh mối quan hệ về phát triển giữa lực lượng sản xuất và quan hệ xuất (quan hệ hàng hóa_tiền tệ). Quan điểm này giúp ta phân biệt sự khác nhau của cong nghiệp hóa trong mô hình và cơ cấu kế hoạch hóa quan liêu, bao cấp trước đây và cong nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta.
     Giải quyết trọn vẹn quan hệ công nghiệp hóa, hiện đại hóa với kinh tế thị trường giúp ta xác lập được mộ hình công nghiệp hóa theo điều kiện phát triển rút ngắn quá trình hiện đại hóa theo mục tiêu định hướng xã hội chủ nghĩa đã chọn và đem lại hiệu quả cao.

_ Việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải đặt nó trong sự gắn bó giữa cơ cấu ngành, cơ cấu vùng lãnh thổ, cơ cấu nông thôn_đô thị giữa các thành phần kinh tế mở cửa giữa trong nước và nước ngoài.
    quan điểm này bắt nguồn từ sự phát triển ngày càng tăng của ngành dịch vụ, sự phát triển không đều về lợi thế so sánh giữa các vùng, giữa các nước, giữa thành thị và nông thôn; xu hướng toàn cầu hóa và khu vực hóa gắn với các vấn đề gay cấn trên thế giới mà việc giải quyết là phải dựa trên số đông, dựa trên sức mạnh của cả nước, lẫn  các nước khác trên thế giới, do đó Đảng cần phải quán triệt quan điểm trên một cách đầy đủ, sâu sắc.

_ Kết hợp phát triển kinh tế với quốc phòng an ninh

_ Lấy việc phát huy nhân tố con người làm yếu tố cơ bản: cho sự phát triển kinh tế bền vững, gắn tăng trưởng kinh tế với đổi mới cơ cấu kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục. thực hiện tiến bộ xã hội, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái.

_ Kết hợp hài hòa giữa công nghệ truyền thống và công nghệ hiện đại: trong tính đa dạng của nó, đồng thời tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở các khâu, ngành có ý nghĩa quyết định và mặt hàng mũi nhọn có liên quan đến quy mô và hiệu quả của kim ngạch xuất khẩu trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế

_ Kết hợp hài hòa giữa quy luật phát triển tuần tự và quy luật phát triển nhảy vọt để tìm ra con đường phát triển rút ngắn hiện đại thích hợp với điều kiện lịch sử cụ thể ở nước ta:
     Lần theo chiều dài lịch sử công nghiệp thế giới ta thấy có sự chuyển dịch qua 2 dạng sau:
      + Công nghiệp hóa cổ điển: xây dựng các tarng thiết bị kỹ thuật và công nghệ theo trật tự nhất định. Tiêu biểu là nước Anh. Nước Anh phát triển theo tuần tự, đầu tiên là thủ công, nửa co khí, cơ khí, từ nông nghiệp đến công nghiệp nhẹ rồi từng bước chuyển sang công nghiệp nặng. Việc sản xuất máy móc cũng theo tuần tự, từ việc chế tạo bằng phương pháp thủ công kéo dài đến khi có công xưởng xuất hiện, chế tạo ra máy móc. Hiện nay, Anh là một trong những nước phát triển nhất châu Âu và cả thế giới.
       Từ kinh nghiệm của Anh, các nước kế tiếp tiến hành rút bớt thời gian tiến hành để đạt nhiều thành tựu. Tiêu biểu là Liên Xô. Nhờ chính sách kinh tế (NEP) của Lenin, Liên Xô tiến hành công nghiệp hóa cả nước theo hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy có nhiều khiếm khuyết, song nền kinh tế đó là nền kinh tế "mơ ước" cho các nước XHCN khác tiếp nối.
      + Công nghiệp hóa hiện đại: phát triển rút ngắn thời gian, thiên về hiện đại hóa, mở cửa, chuyển giao công nghệ mới, sử dụng vai trò to lớn của Nhà nước, kết hợp hài hòa giữa quy luật phát triển tuần tự và quy luật phát triển nhảy vọt.
       hai loại rút ngắn: loại cổ điển và loại hiện đại
     Nhật Bản thuộc loại cổ điển. thời kỳ đầu, công nghiệp hóa Nhật toàn dựa vào nông nghiệp, phát triển tuần tự, lấy sản xuất trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài là nguồn chủ yếu.
     Đến thế kỷ XX, các nước công nghiệp mới ở châu Á lại làm ngược lại, tận dụng vốn đầu tư nước ngoài để xây dựng thị trường hướng ngoại, dùng lợi thế thông qua việc đầu tư của các công ty xuyên quốc gia, các tổ chức kinh tế quốc tế và chính phủ các nước có quan hệ. Bằng cách đó, các nước này thành công trong việc rút ngắn thời gian tiến hành trong 25_30 năm, rút ngắn này là loại công nghiệp hóa hiện đại.
     Ở nước ta, không thể rút ngắn được sự lạc hậu, tụt hậu xa về kinh tế và giữ định hướng xã hội chủ nghĩa nên không thể theo kịp các nước NIC, mà nước ta chỉ có thể sử dụng cách tiến hành công nghiệp hóa của NIC là tham khảo để tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta.


     Từ các quan điểm trên, ta có thể hệ thống lại như sau: "Quan điểm cong nghiệp hóa trong điều kiện kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước XHCN diễn ra trong bối cảnh mới là cuộc cách mạng khoa học_kcông nghệ hiện đại và xu hướng toàn cầu hóa, khu văn hóa trong thời đại ngày nay được vận dụng ở nước ta"
     Định nghĩa: "Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của cong nghiệp và tiến bộ khoa học, công nghệ tạo ra năng suất lao động cao"

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét