Thứ Tư, 6 tháng 11, 2013

Những bài học kinh nghiệm Cách mạng Tháng Mười Nga được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc vận dụng ở Việt Nam

Những bài học kinh nghiệm Cách mạng Tháng Mười Nga được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc vận dụng ở Việt Nam

  1. 1. Cách mạng Tháng Mười vĩ đại soi sáng con đường cách mạng Việt Nam
Ngày 07-11-1917, tức ngày 25-10 lịch Nga, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản (B) Nga đứng đầu là V.I. Lênin, giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga đã nhất loạt khởi nghĩa, lật đổ chính quyền của giai cấp tư sản và phản cách mạng, lập nên Nhà nước Xô-viết. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà Cách mạng Tháng Mười mở ra đã làm thay đổi cục diện thế giới, đó là sự thể nghiệm thắng lợi chủ nghĩa Mác-Lênin trong thực tiễn, đã để lại những phương pháp cũng như những bài học kinh nghiệm vô giá cho các quốc gia, dân  tộc trong cuộc đấu tranh cách mạng vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội:
Một là, "trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi" (1) . Đảng đó là Đảng Cộng sản, "Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động..."(2). "Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy, Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bản chỉ nam" (3). Hai là, liên minh công nông và trí thức là sự bảo đảm chắc chắn nhất cho thắng lợi của cách mạng. Ba là, sử dụng bạo lực cách mạng chống bạo lực phản cách mạng, giành chính quyền và bảo vệ chính quyền.Bốn là, nghệ thuật chọn đúng thời cơ khởi nghĩa còn hết sức quan trọng vì thời cơ đó có thể qua đi rất mau. Lê-nin trong buổi chiều 24/10/1917 đã viểt rõ: “Rõ ràng hơn ban ngày là hiện nay nếu khởi nghĩa thì thật là xuống hố… lịch sử sẽ không tha thứ cho các nhà cách mạng nếu chậm trễ, họ có thể thắng ngày hôm nay (và nhất định sẽ thắng ngày hôm nay) nếu chậm đến ngày mai thì sẽ mất nhiều và có thể mất hết”. Tháng 6 -1923, Nguyễn Ái Quốc đến Liên Xô tận mắt chứng kiến những thành tựu vĩ đại do Cách mạng Tháng Mười mang lại trên đất nước Xôviết. Người đã rút ra kết luận: Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mạng Nga là đã thành công và đã thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật; không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam. Cách mạng Nga đã đuổi được vua, tư bản, địa chủ rồi lại ra sức cho công, nông các nước và dân bị áp bức các thuộc địa làm cách mệnh để đập đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa và tư bản trong thế giới. Bởi vậy, muốn cách mạng thành công thì phải đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga. Nguyễn Ái Quốc coi Cách mạng Tháng Mười Nga, coi chủ nghĩa Mác-Lênin, là “cẩm nang thần kỳ” nhưng không phải theo nghĩa đơn giản rằng trong đó đã chứa sẵn những công thức, những khuôn mẫu, những ''đơn thuốc'' kê sẵn... mà phải biết vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước: “Mác đã xây dựng một học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử. Nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà Châu Âu là gì? Đó chưa phải toàn thể nhân loại…Xem lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông”(4).
2. Nguyễn Ái Quốc vận dụng những bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Mười Nga vào cuộc đấu tranh giành chính quyền ở Việt Nam (8-1945)
- Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo
Nguyễn Ái Quốc khẳng định, muốn giải phóng dân tộc thành công phải có: “… sự lãnh đạo của đảng cách mạng chân chính của giai cấp công nhân toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân”(5). Vai trò lãnh đạo của Đảng đã được Mác, Ăng ghen, Lê-nin khẳng định và trong Cách mạng Tháng Mười Nga Lênin đã vận dụng rất thành công. Nhận thức về vấn đề này, ngay từ tác phẩm “Đường cách mệnh” (1927), Người đã chỉ rõ: “Trước hết phải có đảng cách mệnh để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với vô sản giai cấp và bị áp bức dân tộc mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”(6). Rời nước Nga, ngày 11-11-1924, Hồ Chí Minh về đến Quảng Châu (Trung Quốc), mang theo những khát vọng về giải phóng, về độc lập, tự do, hạnh phúc, về tình đoàn kết quốc tế của Lê-nin vĩ đại để thực hiện ở Việt Nam. Từ Quảng Châu - trung tâm cách mạng của Châu Á, Hồ Chí Minh bắt đầu xây dựng những cơ sở ban đầu cho sự ra đời của một chính Đảng kiểu mới ở Việt Nam theo nguyên tắc Mácxít Lê-nin nít. Người đã gặp tại đây “vài ba nhà cách mạng quốc gia An Nam, trong số này có một người đã xa rời xứ sở từ ba mươi năm nay... Ông không hiểu chính trị, và lại càng không hiểu việc tổ chức quần chúng”(7).Trước tình hình đó, Nguyễn Ái Quốc cho rằng để xây dựng Đảng Cộng sản, trước hết phải giải quyết tốt vấn đề nhận thức tư tưởng chính trị và phương pháp tổ chức cho những người yêu nước; phải giác ngộ chủ nghĩa yêu nước truyền thống, chủ nghĩa dân tộc Việt Nam theo lập trường cách mạng vô sản… Trong quá trình huấn luyện cán bộ cho cách mạng Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc không chỉ truyền bá lý luận Mác-Lênin vào công nhân mà còn truyền bá vào các tầng lớp trí thức yêu nước. Cuối những năm 20 của thế kỷ XX, các tổ chức cộng sản lần lượt được thành lập: Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập ở Bắc Kỳ, An Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở Nam Kỳ, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được thành lập ở Trung Kỳ.Tuy nhiên, sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia là nguy cơ dẫn đến chia rẽ trong phong trào công nhân, phong trào cách mạng giải phóng dân tộc. Yêu cầu bức thiết lúc đó là thống nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng cộng sản duy nhất để lãnh đạo phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam. Thay mặt cho Quốc tế Cộng sản, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã bằng uy tín và kinh nghiệm của mình, đưa đến thành công của Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam đầu năm 30 của thế kỷ XX. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời phản ánh sự kết hợp giữa cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc ở nước ta trong những năm đầu thế kỷ XX. Sự ra đời của Đảng chứng tỏ sự sáng tạo của Người trong việc kết hợp 3 nhân tố: Phong trào yêu nước, phong trào công nhân, chủ nghĩa Mác - Lênin. Nó chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối yêu nước và là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam.
- Tập hợp, huy động lực lượng toàn dân tham gia vào sự nghiệp cách mạng
Tiếp thu tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin và bài học kinh nghiệm từ Cách mạng tháng Mười Nga: “ Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”, Nguyễn Ái Quốc cho rằng cần vận động tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân Việt Nam đang bị mất nước. Thành lập mặt trận dân tộc thống nhất, để huy động sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân. Công nông là gốc, liên minh với các giai tầng khác phải chú ý đến lợi ích của giai cấp công - nông và của dân tộc. Chủ trương tập hợp lực lượng của Nguyễn Ái Quốc phản ánh tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Người. Năm 1942, Người chủ trương già, trẻ, gái, trai, dân, lính đều tham gia đánh giặc. Năm 1944, Người viết: “Cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến toàn dân, vũ trang toàn dân”. Thực hiện đường lối đoàn kết dân tộc với việc thành lập Mặt trận dân tộc mà thời kì trước đó đã tiến hành với nội dung hình thức thích hợp, Nguyễn Ái Quốc đã đóng góp lớn vào việc quyết định và thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) thay cho “Mặt trận dân tộc thống nhất Phản đế Đông Dương”, nhằm đoàn kết và phát huy sức mạnh của các tầng lớp nhân dân, đánh đuổi Pháp, Nhật.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ VIII và lời Kính cáo đồng bào của Nguyễn Ái Quốc, ngày 6.6.1941, đã làm dấy lên phong trào cách mạng trong cả nước. Mọi người ra sức thực hiện Nghị quyết của Đảng và lời kêu gọi của Người: “Giờ giải phóng đã đến. Hãy phất cao cờ độc lập, lãnh đạo toàn dân đánh tan thù chung. Tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc đương vang dội bên tai các đồng chí! Máu nóng các bậc anh hùng đương sục sôi trong lòng các đồng chí! Chí phấn đấu của quốc dân đương chờ đợi sự lãnh đạo của các đồng chí!”(8).
- Tự chủ và sáng tạo, tranh thủ những điều kiện và thời cơ thuận lợi do tình hình quốc tế đem lại.
Sau khi phát xít Đức đầu hàng 9.5.1945, quân Đồng minh tiến hành phản công trên mặt trận Châu Á - Thái Bình Dương. Ngày 8.8.1945, Liên Xô tuyên chiến với Nhật Bản. Ngày 6.8 và 9.8, Mĩ ném bom nguyên tử xuống thành phố Hirôsima và Nagasaki; cũng trong ngày, Hồng quân Liên Xô mở cuộc tổng công kích vào đạo quân Quan Đông của Nhật ở Đông Bắc Trung Quốc. Ngày 14.8.1945, Nhật Bản tuyên bố đầu hàng trên đài phát thanh. Tin Nhật đầu hàng đã nhanh chóng lan truyền trong nhân dân. Khắp nơi trên đất nước ta, Việt Minh tổ chức những cuộc mít tinh, biểu tình thị uy vũ trang, có tới hàng nghìn quân tham gia. Hàng triệu quần chúng sẵn sàng đứng lên giành chính quyền. Các tầng lớp trung gian đã ngả hẳn về phía cách mạng. Nhiều lính trong quân đội phát xít và lính bảo an, cảnh sát, các công chức trong chính quyền bù nhìn ủng hộ Việt Minh giành độc lập.
Nắm vững nghệ thuật chọn đúng thời cơ để khởi nghĩa
Trước tình hình như vậy, mặc dù đang ốm nặng Hồ Chí Minh vẫn quyết định: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hi sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”(9). Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi to lớn, cách mạng cũng đứng trước những khó khăn không nhỏ. Mặc dù chính phủ Nhật đã đầu hàng Đồng minh nhưng mãi đến 21.8 quân Nhật ở Đông Dương mới được lệnh ngừng bắn. Vì thế quân Nhật ở Hà Nội vẫn đi tuần, canh gác nghiêm ngặt. Ngay 16.8, Nhật tuyên bố trao trả Nam Kỳ cho chính phủ bù nhìn vào ngày 18.8, bày trò “trao trả độc lập cho Việt Nam”. Các tổ chức phản động cũng tìm cách phá phong trào cách mạng của nhân dân ta. Trong khi đó các nước lớn như Mĩ, Anh, Pháp, Trung Hoa Quốc dân Đảng cũng có mưu đồ riêng đối với Đông Dương. Chính phủ Trùng Khánh của Tưởng Giới Thạch ráo riết chuẩn bị “Hoa quân nhập Việt” và ngày 9.8.1945 đã ra thông báo sẽ đưa quân vào giải giáp quân đội Nhật ở Bắc Đông dương theo thỏa thuận giữa các nước Đồng minh chống phát xít. Trước những chuyển biến mau lẹ của tình hình thế giới và trong nước, ngày 12.8.1945, Ủy ban chỉ huy lâm thời khu giải phóng ra lệnh khởi nghĩa. Ngày 13.8, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh đã thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc. Vào 23 giờ cùng ngày, Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc đã ban bố Quân lệnh số 1, chính thức phát lệnh khởi nghĩa toàn quốc. Cách mạng Tháng Tám 1945 ở Việt Nam đã thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, trên cơ sở chọn lọc những yếu tố tích cực của mô hình tổ chức nhà nước Xôviết và các nhà nước dân chủ khác, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Một quan điểm có ý nghĩa phương pháp luận mang tính chỉ đạo lâu dài đối với Đảng và nhân dân ta được Hồ Chí Minh chỉ ra là: “Đi theo con đường do Lênin vĩ đại vạch ra, con đường của Cách mạng Tháng Mười, nhân dân Việt Nam đã giành được những thắng lợi rất to lớn. Chính vì vậy mà mối tình gắn bó và lòng biết ơn của nhân dân Việt Nam đối với Cách mạng Tháng Mười vẻ vang, đối với Lê-nin vĩ đại … là vô cùng sâu sắc”(10).
Ngày nay, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục soi sáng con đường chúng ta đi. Dưới sự lãnh đạo đúng đắn và sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, toàn dân ta đang tiếp tục chiến đấu để bảo vệ, xây dựng và phát huy những thành quả tốt đẹp và vô cùng quý báu do Cách mạng Tháng 10 và Tháng 8 mang lại. Đường đi tuy vẫn còn không ít chông gai nhưng không có gì có thể cản lại sự phát triển tất yếu của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Có nhiều sự kiện lịch sử, khoa học, có nhiều dấu hiệu cho thấy Chủ nghĩa xã hội nhân đạo, ưu việt sẽ chiến thắng.
____________________

(1) Hồ Chí Minh Toàn tập, NXBCTQG, Hà Nội, 1995, T 2, tr 267-268
(2) Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, T 6, tr175
(3) Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, T 2, tr268
(4) Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, T 1, tr465
(5) Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, T 12, tr303
(6) Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, T 12, tr267-268
(7) Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, T 2, tr8
(8) Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, T 3, tr198
(9) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, tr. 421-422.
(10) Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, T12, tr309

Sáng mãi lý tưởng Cách mạng Tháng 10

Sáng mãi lý tưởng Cách mạng Tháng 10

Vũ Trung Kiên - báo Đồng Nai
Năm 1917, nhà văn người Mỹ John Reed có mặt ở nước Nga, được chứng kiến toàn bộ cuộc cách mạng vĩ đại trong lịch sử nhân loại - Cách mạng Tháng 10 Nga. Từ những trải nghiệm của người trong cuộc và tài liệu thu thập được, về Mỹ, ông đã viết tác phẩm nổi tiếng Mười ngày rung chuyển thế giới.
 V.I. Lênin, lãnh tụ Cách mạng Tháng 10 vĩ đại.
V.I. Lênin, lãnh tụ Cách mạng Tháng 10 vĩ đại.
Trong lời tựa của cuốn sách, nhà văn viết: “Quyển sách này kể lại một giai đoạn lịch sử quyết liệt đã diễn biến dưới mắt tôi. Trong quá trình của cuộc chiến đấu, tôi không phải là kẻ bàng quan”.
* Xóa bỏ triệt để chế độ người bóc lột người
Dưới sự lãnh đạo của lãnh tụ thiên tài, bằng lý luận sắc bén của một hệ tư tưởng tiến bộ, với việc nắm chắc quy luật khách quan và thời cơ cách mạng, những người lao động nước Nga 96 năm trước đã làm nên cuộc cách mạng vĩ đại - Cách mạng Tháng 10 Nga. Thế giới cho tới khi Cách mạng Tháng 10 Nga nổ ra cũng từng diễn ra biết bao cuộc cách mạng, trong đó cũng không phải không có những cuộc cách mạng long trời, lở đất. Song, cái mà các cuộc cách mạng ấy đem lại không phải là những thành quả ấm no, hạnh phúc cho nhân dân lao động, mà nó chỉ thay thế chế độ bóc lột này bằng chế độ bóc lột khác. Chỉ đến Cách mạng Tháng 10 Nga, quần chúng nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã chính thức lật đổ quyền lực thống trị của giai cấp tư sản; xóa bỏ tận gốc chế độ người bóc lột người; giành chính quyền về tay nhân dân; xây dựng một nhà nước kiểu mới vì hạnh phúc của đại bộ phận nhân dân lao động. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử của nhân loại, những người lao động đã vươn lên làm chủ cuộc đời, vận mệnh của mình.
Cách mạng Tháng 10 Nga đã làm biến chuyển cục diện thế giới, làm cho chủ nghĩa đế quốc phải tự điều chỉnh những hành vi dã man mà trước đó nó đã gieo rắc đau thương trên khắp địa cầu.
* Chỗ dựa vững chắc cho cách mạng thế giới
Cho đến đầu thế kỷ XX, nhu cầu giải phóng dân tộc, nhất là tại các thuộc địa ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latinh đã trở nên bức thiết hơn bao giờ hết. Bằng sự thắng lợi của Cách mạng Tháng 10 Nga, các dân tộc bị áp bức trên thế giới đã tìm thấy ở đây nguồn cổ vũ động viên to lớn và chỗ dựa vững chắc. Trong đó, người cộng sản vĩ đại Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy ở Cách mạng Tháng 10 Nga con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam.
Dưới ảnh hưởng của Cách mạng Tháng 10 và sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn của Liên Xô, phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới đã phát triển mạnh mẽ, trở thành dòng thác cách mạng của thời đại, xóa bỏ chủ nghĩa thực dân cũ, làm thất bại chủ nghĩa thực dân mới, cổ vũ các dân tộc bị áp bức vùng lên giành độc lập dân tộc. Nhà nước Liên Xô ra đời sau Cách mạng Tháng 10 Nga đã trở thành thành trì vững chắc đóng vai trò quan trọng và quyết định trong việc đập tan chủ nghĩa phát xít, cứu loài người khỏi họa diệt chủng do chủ nghĩa phát xít gây ra.
* Sáng mãi lý tưởng Cách mạng Tháng 10 Nga
Sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, đã xuất hiện những lời buộc tội đối với Cách mạng Tháng 10 Nga. Ngày kỷ niệm Cách mạng Tháng 10 Nga trên quê hương của Cách mạng Tháng 10 đã được đổi sang “Ngày hòa hợp dân tộc”. Thế nhưng, nhân dân lao động trên toàn thế giới vẫn dành cho Cách mạng Tháng 10 Nga tình cảm trân trọng và biết ơn sâu sắc.
Cách mạng Tháng 10 Nga thành công nhờ sức mạnh vĩ đại của đông đảo quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Bài học mà Cách mạng Tháng 10 Nga để lại là trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng không được xa rời quần chúng nhân dân, bởi đây là động lực cơ bản của các cuộc cách mạng và cải biến xã hội. Bài học này đã được Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng một cách trung thành và sáng tạo những năm qua.
Hơn 20 năm sau ngày Liên Xô sụp đổ, giới chính khách và học giả trên thế giới đã có những đánh giá, nhìn nhận lại khách quan hơn về thành quả mà cuộc cách mạng vĩ đại này đem lại. Tổng thống Nga Putin từng phát biểu: “Những ai muốn phủ nhận hoàn toàn những thành quả của chế độ Xô-viết, người ấy không có trái tim”. Ngày 11-4-2009, Tổng thống Nga Medvedev đã ký đạo luật Liên bang khôi phục ngày kỷ niệm Cách mạng Tháng 10 Nga. Theo đó, bắt đầu từ năm 2010, Ngày kỷ niệm Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng 10 trên quê hương của Cách mạng Tháng 10 sẽ được kỷ niệm như những thập kỷ trước đây. A. Dinoviep, một người từng chống đối Nhà nước Xô-viết, bị ngồi tù dưới thời Liên Xô, sống lưu vong tại Mỹ đã viết: “Những thành tựu của chủ nghĩa cộng sản Xô-viết do Lênin mở đầu đã thấm vào máu thịt của loài người... Nếu không có Lênin, không có Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng 10 và sau đó là Liên bang Xô-viết thì trong lịch sử không thể xuất hiện cả một tuyến tiến hóa có quy mô ngang với tuyến mà đại diện là thế giới tư bản phương Tây. Tuyến tiến hóa đó có ảnh hưởng to lớn đến toàn bộ sự phát triển tiếp theo của nhân loại... Nhờ có cuộc cách mạng vô sản đó mà nhân loại đã được cứu thoát khỏi sự thụt lùi đáng sợ nhất, thoát khỏi sự suy tàn, thoái hóa”

Đề cương tuyên truyền Kỷ niệm 95 năm Cách mạng Tháng Mười Nga (7/11/1917 - 7/11/2012) và 165 năm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” (24/2/1848 - 24/2/2013)

Đề cương tuyên truyền Kỷ niệm 95 năm Cách mạng Tháng Mười Nga (7/11/1917 - 7/11/2012) và 165 năm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” (24/2/1848 - 24/2/2013)

I. CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI NGA THỂ HIỆN SỰ VẬN DỤNG SÁNG TẠO NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN NÊU TRONG “TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN”
1. Những giá trị bền vững và ý nghĩa thời đại của “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”:
- “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” đã phân tích, làm rõ quá trình ra đời và sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản ra đời và phát triển là một tất yếu lịch sử, giai cấp tư sản đã từng đóng vai trò là giai cấp tiến bộ của thời đại và thống trị xã hội, đã “tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại”1. Nhưng chính sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã tạo ra mâu thuẫn không thể điều hòa giữa giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô sản. Đây là nguyên nhân cơ bản dẫn chế độ tư bản đến chỗ sụp đổ. Giai cấp vô sản, đại diện cho lực lượng sản xuất mới, là giai cấp tiến bộ của thời đại sẽ giành quyền thống trị xã hội.
- “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” chỉ rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản, người “đào huyệt” chôn chủ nghĩa tư bản, xây dựng xã hội mới; chỉ rõ Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định hàng đầu để giai cấp vô sản và nhân dân lao động hoàn thành sứ mệnh lịch sử thủ tiêu chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, tiến tới cộng sản chủ nghĩa. Giai cấp vô sản là lực lượng tiêu biểu cho sức sản xuất xã hội mới, là đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến của thời đại, là đại biểu chân chính duy nhất cho lợi ích của toàn xã hội, là một giai cấp cách mạng và duy nhất chỉ có giai cấp vô sản mới có tính triệt để cách mạng, tự giải phóng cho mình và giải phóng cho toàn xã hội loài người. Đảng Cộng sản là bộ phận tự giác nhất và không thể tách rời của giai cấp vô sản, luôn đại biểu cho giai cấp vô sản về lợi ích và do đó, đại biểu cho quyền lợi của nhân dân lao động. Để hoàn thành sứ mệnh vẻ vang đó, Đảng Cộng sản phải không ngừng nâng cao trình độ lý luận và nắm bắt thực tiễn, đủ khả năng lãnh đạo giai cấp vô sản và toàn thể nhân dân lao động đấu tranh thắng lợi trong công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Mục đích của Đảng Cộng sản là thực hiện chủ nghĩa cộng sản, gồm hai giai đoạn: thứ nhất, Đảng Cộng sản lãnh đạo giai cấp vô sản và nhân dân lao động giành chính quyền “bằng cách lật đổ giai cấp tư sản bằng bạo lực”2; thứ hai, Đảng Cộng sản lãnh đạo giai cấp vô sản và nhân dân lao động sử dụng công cụ chính quyền để cải tạo xã hội cũ, xây dựng chính quyền mới. Nguyên lý cơ bản trên đây về sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô sản và vai trò của Đảng Cộng sản đã được Đảng Bôn-sê-vích Nga và Vla-đi-mia I-lich Lênin vĩ đại vận dụng thành công trong Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917.
- “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” đã chỉ ra những vấn đề trọng yếu về chiến lược, sách lược của cách mạng vô sản; khái quát những nguyên lý cơ bản về con đường giải phóng giai cấp vô sản và xây dựng xã hội tương lai cộng sản chủ nghĩa. Tuyên ngôn khẳng định tinh thần cách mạng không ngừng và triệt để của cách mạng vô sản; trình bày tư tưởng về hai cuộc cách mạng; về sự chuyển biến từ cuộc cách mạng thứ nhất sang cuộc cách mạng thứ hai. Do đó Tuyên ngôn có ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn to lớn đối với các cuộc cách mạng vô sản. Tuyên ngôn vừa khẳng định tính tất yếu phải tiến hành cách mạng vô sản, nhưng không nhất thiết phải sử dụng các biện pháp như nhau và tiến hành nhất loạt ở tất cả các nước. Tuyên ngôn cũng phác họa mô hình xã hội cộng sản trong tương lai.
- “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” đã vạch trần thực chất phản động, bảo thủ, lỗi thời của các trào lưu tư tưởng phi mác-xít, trá hình dưới chiêu bài khác nhau về chủ nghĩa xã hội để chống chủ nghĩa xã hội.
Qua 165 năm lịch sử thế giới đón nhận tác phẩm bất hủ “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” của Các-Mác và Ăng-ghen, vượt qua bao thử thách của những biến cố lịch sử, những thăng trầm của phong trào cộng sản và công nhân thế giới đã khảo nghiệm và minh chứng cho những giá trị bền vững vượt thời đại của những nguyên lý cơ bản trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”. Đối với giai đoạn hiện nay và đối với công cuộc đổi mới ở Việt Nam, tư tưởng của Các-Mác và Ăng-ghen trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” và kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Mười Nga vẫn nguyên giá trị chỉ lối, soi đường trong thế kỷ XXI đối với giai cấp vô sản và nhân dân lao động toàn thế giới, trong đó có Việt Nam.
2. Cách mạng Tháng Mười Nga thành công là bước phát triển tất yếu của lịch sử nhân loại, là sự vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản nêu trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”:
- Vào những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản thế giới chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, tăng cường bóc lột nhân dân lao động chính quốc, biến các nước Á, Phi và Mỹ La tinh thành thuộc địa và phụ thuộc, gây chiến tranh để phân chia lại thế giới. Những mâu thuẫn cơ bản trên thế giới giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản, mâu thuẫn giữa các nước thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc, mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với nhau, ngày càng tăng lên. Thế giới xuất hiện những điều kiện khách quan làm bùng nổ cách mạng xã hội.
- Nước Nga bước vào giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, mâu thuẫn giai cấp và mâu thuẫn dân tộc ở nước Nga ngày càng gay gắt. Giai cấp công nhân Nga trưởng thành, có chính đảng lãnh đạo là Đảng Công nhân Xã hội dân chủ Nga. Nước Nga tham gia đại chiến thế giới I (năm 1914 - 1918) và chịu thất bại về quân sự, suy sụp về kinh tế, làm cho đời sống nhân dân ngày càng cực khổ, sự bất đồng xã hội ngày càng gay gắt. Nước Nga trở thành nơi tập trung tất cả các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới, là khâu yếu nhất của chủ nghĩa đế quốc, tạo ra tình thế cách mạng trực tiếp.
- Đảng Công nhân Xã hội dân chủ Bôn-sê-vich Nga đã được chuẩn bị đầy đủ về tư tưởng và tổ chức lãnh đạo cuộc cách mạng vô sản. Được thành lập tháng 8 năm 1903, Đảng Công nhân Xã hội dân chủ Bôn-sê-vích Nga trung thành với học thuyết Mác - Ăng-ghen, xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, có tổ chức chặt chẽ, chủ trương đấu tranh cách mạng giành chính quyền, thiết lập chuyên chính vô sản. Đảng Công nhân Xã hội dân chủ Bôn-sê-vích Nga qua đấu tranh cách mạng đã trưởng thành toàn diện, đủ sức lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân lao động tiến hành sự nghiệp cách mạng vĩ đại nhằm thực hiện mục tiêu cao cả của cuộc cách mạng vô sản.
- Lênin, lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân và nhân dân lao động đã phân tích sâu sắc thực tiễn nước Nga, chỉ rõ nước Nga đã bước vào giai đoạn đế quốc chủ nghĩa và nhiệm vụ của những người cộng sản Nga là lãnh đạo nhân dân làm cách mạng tư sản kiểu mới, lật đổ ách thống trị của Nga hoàng và giai cấp tư sản, tiến tới cách mạng xã hội chủ nghĩa. Lênin phân tích sâu sắc tình hình chủ nghĩa đế quốc, đã phát hiện ra quy luật phát triển không đều của chủ nghĩa đế quốc và rút ra kết luận quan trọng: “ Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, cách mạng vô sản có thể thắng lợi trong một số ít nước, thậm chí trong một nước, không phải là nước phát triển nhất, nhưng là khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền của chủ nghĩa tư bản”3. Kết luận của Lênin về khả năng thắng lợi của cách mạng vô sản đã cổ vũ những người cộng sản, giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga và thế giới kiên trì mục tiêu cách mạng. Trong tác phẩm “Làm gì”, Lênin đã thể hiện sự chuẩn bị về tư tưởng, tổ chức, đề ra nguyên lý xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp công nhân và các vấn đề về phương pháp tiến hành cuộc cách mạng vô sản nước Nga.
- Phong trào cách mạng và kinh nghiệm đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động châu Âu và thế giới, nhất là cuộc đấu tranh tư tưởng lý luận của những người cộng sản chống các trào lưu xét lại, cải lương, cơ hội… nhằm bảo vệ và phát triển Học thuyết Mác cũng là cơ sở rất quan trọng tạo điều kiện thuận lợi cho Cách mạng Tháng Mười Nga.
- Cuộc cách mạng tư sản Nga Tháng Hai năm 1917 do giai cấp công nhân lãnh đạo giành thắng lợi, chế độ phong kiến Sa hoàng sụp đổ, chính quyền được trao vào tay giai cấp tư sản. Từ tháng 02 đến tháng 7 năm 1917, ở Nga có hai chính quyền song song tồn tại. Chính phủ lâm thời trong tay giai cấp tư sản, các Xô viết đại biểu công nhân và binh lính thuộc về nhân dân. Tình thế giành chính quyền bằng biện pháp hòa bình kết thúc ngày 04 tháng 7 năm 1917 khi Chính phủ lâm thời tư sản đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân. Tình thế cách mạng Nga chuyển hướng hành động, chuẩn bị tích cực cho khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.
- Ngày 25 tháng 10 năm 1917 (ngày 07 tháng 11 dương lịch), Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, chính quyền đã thuộc về nhân dân. Đại hội II - Xô viết toàn Nga ban bố Sắc lệnh về hòa bình kêu gọi các nước ngừng chiến tranh để đàm phán; Sắc lệnh về ruộng đất cho nông dân; Tuyên bố về chính quyền của các dân tộc Nga, thừa nhận quyền phát triển tự do và quyền bình đẳng của các dân tộc sống trên lãnh thổ Nga. Những Sắc lệnh và Tuyên bố nêu trên thể hiện bản chất của Chính quyền Xô viết là chính quyền của nhân dân, bảo đảm quyền lợi của nhân dân, đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng, chính đáng của toàn thể nhân dân lao động.
- Sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, nước Nga phải đương đầu với cuộc chiến tranh can thiệp của 14 nước đế quốc câu kết với các lực lượng phản cách mạng trong nước. Cuộc chiến tranh can thiệp của chủ nghĩa đế quốc vào Nga thất bại, nội chiến kết thúc. Chính quyền Xô viết được bảo vệ. Ngày 30 tháng 12 tháng 1922, Đai hội các Xô viết toàn liên bang lần thứ nhất đã ký tuyên bố thành lập Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết, gọi tắt là Liên Xô. Trong 69 năm tồn tại, Liên Xô đã trở thành cường quốc trên thế giới, đóng góp to lớn vào phong trào cách mạng vô sản toàn thế giới vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ.
3. Ý nghĩa lịch sử và thời đại của Cách mạng Tháng Mười:
Cách mạng Tháng Mười Nga có ý nghĩa lịch sử và thời đại to lớn, là sự kiện vĩ đại nhất của thế kỷ XX, đánh dấu một mốc mới trong lịch sử phát triển của nhân loại, báo hiệu sự sụp đổ của chế độ người bóc lột người đã tồn tại hàng ngàn năm và mở ra một thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Cách mạng Tháng Mười Nga đã thức tỉnh các giai cấp, các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới và đã vạch ra con đường giải phóng cho các giai cấp, các dân tộc bị áp bức trên hành tinh.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga đã làm nổi bật tinh thần cách mạng triệt để và tính khoa học sâu sắc là bản chất và nguồn sức mạnh vô địch của Chủ nghĩa Mác - Lênin. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát biểu trong dịp Kỷ niệm 50 năm Cách mạng Tháng Mười Nga: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người, chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”4.
- Cách mạng Tháng Mười Nga phá vỡ khâu yếu nhất của dây chuyền chủ nghĩa đế quốc, xây dựng và bảo vệ thành công nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên. Từ đây, trên thế giới dần hình thành hai hệ thống chế độ xã hội: xã hội xã hội chủ nghĩa và xã hội tư bản chủ nghĩa, chấm dứt thời kỳ độc quyền thống trị của chủ nghĩa tư bản và chế độ phong kiến. Tiếp sau Liên Xô, nhiều nước châu Âu, châu Á, châu Mỹ La tinh đã lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa cho sự phát triển, hình thành hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới.
- Cách mạng Tháng Mười Nga đã mở ra con đường giải phóng dân tộc cho các dân tộc thuộc địa trên toàn thế giới. Vào đầu thế kỷ XX, cuộc đấu tranh giải phóng các dân tộc khỏi ách nô dịch, bóc lột của các nước đế quốc là nhu cầu cấp thiết của các quốc gia, dân tộc trên toàn thế giới. Cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga và quan điểm của Lênin trong “Luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa” đã chỉ cho các dân tộc bị áp bức con đường đấu tranh để đạt các mục tiêu của dân tộc. Dưới ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga và sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn của Liên Xô vĩ đại, phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới đã phát triển mạnh mẽ, trở thành dòng thác cách mạng của thời đại, xóa bỏ chủ nghĩa thực dân cũ, làm thất bại chủ nghĩa thực dân mới, cổ vũ các dân tộc bị áp bức vùng lên giành độc lập dân tộc, hướng tới chủ nghĩa xã hội.
- Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, sự ra đời Nhà nước Xô viết và bước phát triển to lớn của Liên Xô sau cách mạng, thể hiện đầy đủ sức mạnh và tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội. Cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga thành công và sự ra đời Nhà nước Xô viết đầu tiên trên thế giới. Liên Xô đã là thành trì của chủ nghĩa xã hội, là chỗ dựa vững chắc của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào đấu tranh vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội. Sức mạnh toàn diện và tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô bắt đầu từ Cách mạng Tháng Mười đã tác động lớn đến sự phát triển của các phong trào cách mạng trên thế giới trong thế kỷ XX. Trải qua 95 năm, chủ nghĩa xã hội hiện thực đã có những cống hiến vô giá cho nhân loại, giải phóng 1,5 tỷ người thoát khỏi chế độ áp bức, bóc lột; tiêu diệt chủ nghĩa phát xít, cứu nhân loại khỏi họa diệt chủng; đánh bại chủ nghĩa thực dân kiểu cũ, giải phóng hàng chục quốc gia thoát khỏi cảnh nô lệ và buộc chủ nghĩa tư bản phải điều chỉnh; là chỗ dựa vững chắc, là lực lượng tiên phong đẩy mạnh cuộc đấu tranh vì hòa bình, hợp tác và phát triển, giúp các dân tộc, quốc gia ngăn chặn các thế lực phản động quốc tế gây chiến tranh xâm lược, tạo thêm tiền đề cho các quốc gia, dân tộc tăng cường xây dựng mối quan hệ theo hướng bình đẳng, hợp tác, phát triển.
- Cách mạng Tháng Mười Nga thành công và sự ra đời Nhà nước Xô viết là sự kết hợp giữa những nguyên lý cơ bản của học thuyết Mác - Lênin với việc vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nước Nga, đã cung cấp cho các cuộc cách mạng sau đó những bài học kinh nghiệm quý báu. Cách mạng Tháng Mười Nga thành công là sự thể nghiệm thắng lợi Chủ nghĩa Mác - Lênin trong thực tiễn, đã cung cấp những bài học lịch sử vô giá cho các cuộc cách mạng vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của các quốc gia, dân tộc. Đó là những bài học về xây dựng đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo cách mạng, tổ chức lực lượng cách mạng, nắm vững thời cơ cách mạng, phát động khởi nghĩa vũ trang, giành chính quyền thật sự về tay nhân dân; bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ, chống thù trong, giặc ngoài; thiết lập hình thái kinh tế - xã hội mới.
II. CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI NGA VÀ CÁCH MẠNG VIỆT NAM
1. Cách mạng Tháng Mười Nga đã chỉ ra con đường giải phóng dân tộc Việt Nam:
- Đầu thế kỷ XX, giữa lúc phong trào yêu nước Việt Nam đang khủng hoảng sâu sắc về đường lối thì ánh sáng của Cách mạng Tháng Mười Nga rọi chiếu đến nước ta. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sau khi đọc “Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin đã nhận ra chân lý: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không còn con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”5; “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các giai cấp bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”6 và “Mãi mãi đi theo con đường của Lênin vĩ đại”. Từ đó, Chủ nghĩa Mác - Lênin truyền vào Việt Nam, kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, đưa đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, mở ra bước ngoặt quyết định cho cách mạng Việt Nam.
- Sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930 cùng với phong trào cách mạng đã đưa đến thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tiếp đó, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi năm 1954, chống đế quốc Mỹ thắng lợi năm 1975, thống nhất đất nước, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội và ngày nay đang đẩy mạnh công cuộc đổi mới để xây dựng, bảo vệ, phát triển đất nước. Đó là những cột mốc quan trọng thể hiện cách mạng Việt Nam đã kế tục vẻ vang sự nghiệp Cách mạng Tháng Mười Nga. Nhân dân Việt Nam rất tự hào tiếp tục giương cao ngọn cờ của Cách mạng Tháng Mười Nga. Là một dân tộc tiên phong trên tuyến đầu chống chủ nghĩa đế quốc, Việt Nam đã trở thành tấm gương sáng cho các dân tộc đang đấu tranh vì độc lập dân tộc trên toàn thế giới noi theo.
2. Cách mạng Tháng Mười Nga khởi đầu sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn và toàn diện của Đảng, Nhà nước và nhân dân Liên Xô đối với cách mạng Việt Nam:
- Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, nhân dân ta đã nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ nhiều mặt của Liên Xô. Tình đoàn kết, hữu nghị đặc biệt Việt Nam - Liên Xô được nảy nở từ Cách mạng Tháng Mười Nga, không ngừng được củng cố và phát triển.
- Cách mạng Tháng Mười và Nhà nước Xô viết đã ảnh hưởng rất sâu sắc tới lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, những người cộng sản và toàn thể dân tộc Việt Nam. Đồng chí Tôn Đức Thắng là người Việt Nam đầu tiên kéo cờ đỏ trên chiến hạm của Pháp để ủng hộ Cách mạng Tháng Mười. Quốc tế Cộng sản và Liên Xô đã giúp Việt Nam đào tạo nhiều nhà lãnh đạo cách mạng tiền bối như Đồng chí Trần Phú, Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai… Thắng lợi quân sự của Hồng quân Liên Xô trước chủ nghĩa phát xít tạo điều kiện vô cùng thuận lợi cho Cách mạng Tháng Tám ở Việt Nam thành công.
- Đảng, Nhà nước và nhân dân Liên Xô luôn đi đầu, cùng với các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào giải phóng dân tộc, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới đã dành cho cách mạng Việt Nam sự cổ vũ to lớn, trực tiếp, hiệu quả trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, Liên Xô đã dành cho Việt Nam sự giúp đỡ to lớn về chính trị, quân sự, ngoại giao, góp phần quan trọng vào chiến thắng đế quốc Mỹ. Cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam trên tuyến đầu chống chủ nghĩa thực dân Pháp và đế quốc Mỹ thắng lợi đã góp phần mở đường cho phong trào độc lập dân tộc, tạo điều kiện thuận lợi để Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em xây dựng và phát triển đất nước, tạo ra cân bằng về chiến lược quân sự với các nước tư bản chủ nghĩa, ngăn chặn âm mưu gây chiến tranh của chủ nghĩa đế quốc, góp phần quan trọng vào sự nghiệp bảo vệ hòa bình thế giới.
- Đảng, Nhà nước và nhân dân Liên Xô đi đầu trong việc giúp đỡ Việt Nam khắc phục hậu quả chiến tranh, cải tạo, xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội: Viện trợ nhiều hàng hóa, vật tư, thiết bị; cử nhiều đoàn chuyên gia giúp phát triển các lĩnh vực kinh tế quan trọng; đào tạo các thế hệ cán bộ, xây dựng nhiều công trình kinh tế - xã hội quan trọng.
- Tình đoàn kết, hữu nghị, hợp tác, phát triển Việt Nam - Liên Xô trong nhiều thập kỷ đã là mẫu mực của quan hệ quốc tế theo chủ nghĩa quốc tế vô sản giữa hai dân tộc cùng chung lý tưởng, trong sáng, thủy chung. Mỗi bước đường thắng lợi của cách mạng Việt Nam đều ghi lại dấu ấn quan trọng sự đóng góp nhiều mặt của nhân dân Liên Xô anh em. Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam mãi mãi ghi nhớ, tôn vinh, biết ơn sâu sắc sự ủng hộ, giúp đỡ chí tình, to lớn, toàn diện, hiệu quả của Liên Xô. Quan hệ Việt Nam - Liên Xô đã được lý tưởng Cách mạng Tháng Mười và tư tưởng Lênin vĩ đại soi sáng; được Đảng, Nhà nước và nhân dân hai nước dày công xây dựng, vun đắp trở thành truyền thống quý báu, có tác dụng thiết thực đối với các bước đường phát triển của cách mạng Việt Nam.
III. KIÊN ĐỊNH, VẬN DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN SÁNG TẠO NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA “TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN”; TRUNG THÀNH VỚI LÝ TƯỞNG CỦA CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI NGA, TĂNG CƯỜNG CUỘC ĐẤU TRANH BẢO VỆ, PHÁT TRIỂN CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN TRONG THỜI KỲ MỚI
- Sau năm 1991, tình hình quốc tế có những biến đổi to lớn và sâu sắc có lợi cho chủ nghĩa tư bản. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại diễn ra mạnh mẽ, cuốn hút tất cả các nước ở những mức độ khác nhau. Xu thế toàn cầu hóa vừa tạo thời cơ hội nhập và phát triển nhanh cho các nước, vừa đặt ra những thách thức gay gắt, nhất là đối với những nước đang và kém phát triển. Hiện tại, chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển, nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bốc lột và bất công. Những mâu thuẫn cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội vẫn tiếp tục xảy ra. Chính sự vận động của những mâu thuẫn nội tại đó và cuộc đấu tranh của nhân dân lao động sẽ quyết định vận mệnh của chủ nghĩa tư bản. Trong giai đoạn hiện nay, cuộc đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp, chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố, tranh chấp lãnh thổ, biển, đảo, tài nguyên và cạnh tranh quyết liệt về lợi ích kinh tế tiếp tục diễn ra phức tạp. Chủ nghĩa xã hội đứng trước nhiều khó khăn, thử thách. Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co, song loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội. Đó là quy luật tiến hóa phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử. Xu thế hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển là khát vọng của nhân loại và là nhân tố quyết định làm thất bại làm mọi âm mưu, thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc.
- Sau năm 1991 là thời kỳ các nước xã hội chủ nghĩa còn lại và phong trào cộng sản quốc tế khắc phục khủng hoảng, thoái trào để tiếp tục phục hồi và phát triển trên một trình độ mới thông qua cải cách, đổi mới để phát triển. Chủ nghĩa xã hội trên thế giới, từ những bài học thành công và thất bại cũng như từ khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc, có điều kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới. Với tư tưởng gắn cải cách, đổi mới với sự nghiệp giải phóng, sáng tạo và phát triển của các nước xã hội chủ nghĩa; Việt Nam, đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin phù hợp với tình hình đất nước, đề ra các biện pháp đột phá để giải quyết các vấn đề của mình trên cơ sở kiên định mục tiêu, lý tưởng, con đường xã hội chủ nghĩa. Những thành tựu to lớn của Việt Nam và một số nước trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; sự phục hồi của các đảng cộng sản, đảng cánh tả ở khắp nơi trên thế giới, nhất là ở khu vực châu Âu; xu hướng cánh tả và hướng theo chủ nghĩa xã hội của nhiều nước châu Mỹ La tinh… đã khẳng định sức sống mãnh liệt của chủ nghĩa Mác - Lênin, của Cách mạng Tháng Mười; khẳng định sức sáng tạo và tương lai tươi sáng của chủ nghĩa xã hội.
- Từ năm 1991 đến nay, chủ nghĩa Mác - Lênin đứng trước những thử thách mới nghiêm trọng. Hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa đang bị tiến công, xuyên tạc, bôi nhọ từ nhiều phía. Lý tưởng cộng sản và Đảng Cộng sản đang bị công kích thô bạo, bỉ ổi từ các thế lực chống cộng cuồng tín, hận thù. Hiện nay, chủ nghĩa đế quốc và các lực lượng phản động quốc tế đang dấy lên chiến dịch kết tội chủ nghĩa cộng sản. Với Việt Nam, chúng gây sức ép về dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, dân tộc; đồng thời cấu kết với các phần tử cơ hội chính trị trong nước lợi dụng việc chống tham nhũng và dân khiếu kiện để chống phá chế độ ta. Trong bối cảnh đó, việc Kỷ niệm 95 năm Cách mạng Tháng Mười Nga và 165 năm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” là việc làm hết sức thiết thực, có ý nghĩa nhiều mặt. Chúng ta đã nhận thức rõ rằng: Thắng lợi của cách mạng Tháng Mười Nga là cội nguồn sâu xa dẫn tới thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam, thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước hiện nay. Những thành tựu vĩ đại của chủ nghĩa xã hội hiện thực trong 95 năm qua, nhất là thành tựu cải cách, đổi mới ở các nước xã hội chủ nghĩa và Việt Nam thể hiện bản chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, sức sáng tạo, năng lực tự đổi mới và những đóng góp của các nước xã hội chủ nghĩa cho hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, văn minh và tiến bộ xã hội. Công cuộc đổi mới nước ta trong hơn 26 năm qua là minh chứng sinh động về sự trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, những nguyên lý cơ bản trong Tuyên ngôn, những bài học lịch sử của Cách mạng Tháng Mười Nga, những kinh nghiệm từ sự thành công và thất bại của chủ nghĩa xã hội hiện thực vào thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Kỷ niệm 95 năm Cách mạng Tháng Mười Nga và 165 năm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” cũng là dịp để chúng ta triển khai mạnh mẽ cuộc đấu tranh ý thức hệ nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho hành động của cách mạng Việt Nam là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên quyết bác bỏ các luận điệu xuyên tạc, phủ nhận đi tới xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin; vạch trần các âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch chống phá cách mạng của Đảng và nhân dân ta là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; củng cố lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng, tạo ra động lực mới trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng./.

BAN TUYÊN GIÁO THÀNH ỦY BÌNH TÂN - TP. HỒ CHÍ MINH
___________________________________________
1: Mác-Ăngghen, Tuyển tập, T1, NXB Sự Thật, Hà Nội, 1980, trang 547.
2. Mác-Ăngghen, Tuyển tập, T1, NXB Sự Thật, Hà Nội, 1980, trang 555.
3. V.I Lênin: Chủ nghĩa đế quốc - giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản.
4. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 12, trang 300.
5. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 9, trang 314.

6. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 10, trang 128.

CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI NGA VÀ SỰ LỰA CHỌN CON ĐƯỜNG ĐÚNG ĐẮN CHO CÁCH MẠNG VIỆT NAM CỦA HỒ CHÍ MINH

CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI NGA VÀ SỰ LỰA CHỌN CON ĐƯỜNG ĐÚNG ĐẮN CHO CÁCH MẠNG VIỆT NAM CỦA HỒ CHÍ MINH
Th.S. Nguyễn Anh Minh
                                            PGĐ Khu di tích Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch
Trong lịch sử phát triển của các dân tộc trên thế giới, có những thời điểm xuất hiện của những con người làm nên lịch sử và có những quyết định lựa chọn của những con người mang lại sự thay đổi cho cả một dân tộc, Một trong những con người như vậy là Hồ Chí Minh, Người đã lựa chọn cho cách mạng Việt Nam một con đường đi đúng đắn, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam đó là con đường cứu nước giải phóng dân tộc theo con đường Cách Mạng Tháng Mười Nga.
Vào đầu thế kỷ XX sự tác động của nhiều trào lưu tư tưởng nước ngoài, trong đó có trào lưu của các cuộc cách mạng tư sản phương tây, đặc biệt là cách mạng tư sản Pháp (1789) đã ảnh hưởng và thu hút sự chú ý của nhiều nhà yêu nước Việt Nam. Tuy vậy, việc lựa chon con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam vẫn là một câu hỏi lớn chưa tìm được câu trả lời cho các nhà yêu nước Việt Nam lúc bấy giờ. Sinh ra và lớn lên khi đất nước bị thực dân Pháp xâm lược, Nguyễn Tất Thành với tấm lòng yêu nước thương dân lại đang ấp ủ ý chí và hoài bảo lớn, không khỏi băn khoăn khi thấy nhiều cuộc nổi dậy của dân ta không thành công và câu hỏi “ làm thế nào để cứu nước ” sớm hình thành lớn dần trong tâm trí Anh. Những ngày được Cha xin cho học lớp dự bị ở Trường tiểu học Pháp bản xứ ở thành phố Vinh, Nguyễn Tất Thành lần đầu tiên được tiếp xúc với khẩu hiệu: Tự do, bình đẳng, bác ái. Từ đó Anh muốn tìm hiểu nền văn minh Pháp và những gì ẩn giấu đằng sau những từ ấy. Điều đó, hơn mười năm sau khi trả lời phỏng vấn một nhà báo Nga rằng: “Khi tôi độ 13 tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ tự do, bình đẳng và bác ái. …và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm hiểu xem những gì ẩn giấu những từ ấy” (1). Thời gian học tại trường Quốc học Huế Nguyễn Tất Thành đượcgiao lưu với những luồng tư tưởng yêu nước, tiếp xúc với nhiều sách báo Pháp, các thầy giáo của trường có những người yêu nước. Chính nhờ ảnh hưởng của các thầy giáo yêu nước và sách báo tiến bộ mà Anh được tiếp xúc, Nguyễn Tất Thành mang một bản lĩnh mới, một tầm nhìn sâu sắc về xã hội, con người,ý muốn sang phương tây tìm hiểu tình hình các nước và học hỏi những thành tựu của văn minh nhân loại từng bước lớn dần cổ vũ cho ý chí ra đi tìm đường cứu nước. Những tháng ngày làm thầy giáo ở trường Dục Thanh, Phan Thiết, ngoài giờ lên lớp, Anh thường tìm những cuốn sách quý trong tủ sách của cụ Nguyễn Thông để đọc. Lần đầu tiên anh được tiếp cận với những tư tưởng khai sáng Pháp như: Rútxô, Vônte, Môngtétxkiơ. Sự tiếp cận với những tư tưởng mới đó càng thôi thúc ý chí và nghị lực anh phải đi ra nước ngoài. Một lần trả lời nhà văn Mỹ, Người nói: “ Nhân dân Việt Nam trong đó ông cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường tự hỏi nhau ai sẽ là người giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp, Người này nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ. Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi”(2).
Nhìn lại các phong trào yêu nước như Phong trào Cần Vương; Phong trào Đông Du; Phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, khởi nghĩa Yên Thế; cuộc vận động cải cách của cụ Phan Châu Trinh… Anh rất khâm phục và coi trọng các các bậc tiền bối, nhưng Nguyễn Tất Thành không đi theo con đường đó. Thực tiễn thất bại của các phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX đã đặt ra nhiều câu hỏi và tác động đến lựa chọn của Nguyễn Tất Thành, để rồi anh có một quyết định là xuất dương tìm đường cứu nước cho dân tộc.
 Sau nhiều năm suy ngẫm, trăn trở , ngày 5-6-1911, Nguyễn Tất Thành với cái tên Văn Ba, rời bến cảng Nhà Rồng trên con tàu Amiran Latusơ Tơrêvin bắt đầu cuộc hành trình mang theo hành trang là tấm lòng yêu nước nồng nàn và ý chí quyết tâm tìm con đường đi đúng đắn cứu dân tộc Việt Nam thoát khỏi ách xâm lược. Nguyễn Tất Thành đã đi đến nhiều nơi trên khắp các Châu lục: châu Âu, châu Á, châu Phi, châu Mỹ, Người trải qua những tháng ngày lao động gian khổ với nhiều nghề vất vả, khó khăn hoà mình cùng với cuộc sống của những người lao động để xem xét và khảo nghiệm nhiều khía cạnh khác nhau trong đời sống nhân dân các nước trên thế giới mà Người đã có dịp đặt chân đến.
Những ngày đầu tiên đặt chân lên nước Pháp (7/1911) tại thành phố cảng Mác- xây tiếp xúc với cuộc sống văn minh, Nguyễn Tất Thành đã trăn trở đi tìm những giá trị thực tiễn của cái khẩu hiệu mà giai cấp tư sản thường rêu rao: “Tự do, bình đẳng, bác ái”. Anh không khỏi ngạc nhiên khi nước Pháp nổi tiếng là văn minh mà ngập tràn các tệ nạn xã hội: gái điếm, ăn xin, các khu nhà ổ chuột bẩn thỉu tối tăm và hôi hám ở một thành phố cảng lớn nhất nước Pháp. Anh đã nhân thấy, ở Pháp cũng có những người dân nghèo khổ và đáng thương như ở Việt Nam. Từ đó Nguyễn Tất Thành thay đổi cách nhìn về nước pháp và người Pháp và hoài nghi về cái goi là: “tự do, bình đẳng, bác ái” mà giai cấp tư sản Pháp tự vẽ ra để che đậy bản chất Thực dân của mình. Ở lại nước Pháp một thời gian ngắn, Nguyễn Tất Thành tiếp tục cuộc hành trình vòng quanh châu Phi, đó là quãng thời gian mà anh đã chứng kiến sự bất công, bóc lột, tra tấn dã man của của bon Thực dân đối với những người dân thuộc địa da đen. Từ thực tiễn trải nghiệm đã giúp Nguyễn Tất Thành rút ra nhân thức quan trọng: “Vậy là, dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người : giống người bóc lột và giống người bị bót lột. Mà cũng chỉ có một tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản”(3).Đây là nhận thức ban đầu có ý nghĩa quan trọng trong thế giới quan, nhân sinh quan của Người, đặt nền móng cho tinh thần chủ nghĩa quốc tế vô sản trên hành trình tìm đường cứu nước.
Cuối năm 1912, Nguyễn Tất Thành đặt chân đến nước Mỹ. Anh lao động để kiếm sống và tìm hiểu cuộc sống của người dân nơi đây, nhất là những ngày ở khu Háclem đã để lại trong anh nhiều ấn tượng về cuộc sông nghèo khổ của người Mỹ da đen bên cạnh những khu phố sang trọng và những toà nhà cao chọc trời. Những ngày trên đất Mỹ, Nguyễn Tất Thành đã có dịp tìm hiểu về cuộc cách mạng tư sản Mỹ và biết đến bản tuyên ngôn độc lập nổi tiếng trong lịch sử . Tuy nhiên, càng tìm hiểu cụ thể hơn thì Nguyễn Tất Thành lại càng nhận thấy trong thực tế sự bất bình đẳng, nạn phân biệt chủng tộc và đời sống đói nghèo, đau khổ của hàng triệu người lao động và phụ nữ, đặc biệt là người da đen. Khi đến thăm Nữ thần tự do ở thành phố NewYork, Nguyễn Tất Thành đã nhận thấy sự cách biệt giữa thực tiễn và những điều mà giai cấp tư sản thường ca ngợi về quyền con người ở Mỹ:“Anh sáng trên đầu thần tự do toả rộng khắp trời xanh, còn dưới chân thần tự do thì người da đen đang bị chà đạp, số phận người phụ nữ bị chà đạp. Bao giờ người da đen được bình đẳng với người da trắng? Bao giờ có sự bình đẳng giữa các dân tộc? Bao giờ người phụ nữ được bình đẳng với nam giới?”(4).
Năm 1913, Nguyễn Tất Thành rời nước Mỹ để đến nước Anh, một đất nước có nhiều thuộc địa nhất thế giới và được mệnh danh là: “mặt trời không bao giờ lặn trên đất nước Anh”. Mặc dù không có những cuộc chiến tranh xung đột, nhưng nước Anh cũng tiềm ẩn những mâu thuẫn sâu sắc giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, đặc biệt là cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa Anh ở khắp các Châu lục. Những ngày trên đất nước Anh, Nguyễn Tất Thành cũng trải qua những tháng ngày lao động với nhiều nghề vất vả hoà mình cùng với cuộc sống của những người lao động và tìm hiểu bản chất thực sự của xã hội tư bản. Từ thực tiễn sinh động trên đất nước Anh, Nguyễn Tất Thành đã hoàn toàn cảm nhận được sự bất ổn trong xã hội tư bản Anh lúc bấy giờ. Không những vậy, Người còn tích luỹ được thêm nhiều hiểu biết về chế độ chính trị của xã hội tư bản, về đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, giữa chính quốc và thuộc địa.
Trong những năm đầu hành trình tìm đường cứu nước cho dân tộc, Nguyễn Tất Thành đã đặt chân đến các nước tư bản đế quốc, Người đã dành nhiêu thời gian, tâm sức dể nghiên cứu, tìm hiểu về tình hình kinh tế- xã hội ba nước tư bản là Pháp, Mỹ, Anh, Người đã nhận thấy rõ sự trái ngược giữa thực tiễn đời sống khổ cực của nhân dân lao động với lý tưởng tự do, bình đẳng, bác ái được nêu trong các cuộc cách mạng tư sản. Từ đó, Người đã rút ra những nhận xét sát thực hơn, sâu sắc hơn về tính chất không triệt để của các cuộc cách mạng tư sản, Người cho rằng: “ Mỹ tuy rằng cách mệnh thành công đã hơn 150 năm nay, nhưng công nông vẫn cứ cực khổ, vẫn cứ lo tính cách mệnh lần thứ hai. ấy là vì cách mệnh Mỹ là cách mệnh tư bản, mà cách mệnh tư bản là chưa phải cách mệnh”(5) Còn :“Cách mệnh Pháp cũng như cách mạng Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hoà và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Cách mệnh đã 4 lần rồi, mà nay công nông Pháp hẵng còn phải mưu cách mệnh lần nữa mới hòng thoát khỏi vòng áp bức. Cách mệnh An Nam nên nhớ những điều ấy” (6).
 Có thể nói rằng, lá cờ dân chủ tư sản của các nước phương Tây đầu thế kỷ XX với sự hấp dẫn của khẩu hiệu: “tự do, bình đẳng, bác ái” đã góp phần thôi thúc Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước. Những cũng chính quá trình hoạt động thực tiễn ở các nước tư bản đã giúp Người nhìn nhận ra những mặt trái của xã hôi tư bản và bản chất của những lời lẽ hoa mỹ mà giai cấp tư sản thường ra sức tô vẻ lừa bịp nhân dân lao động với thực tế phũ phàng của xã hội phương Tây lúc đó.Vì nền độc lập dân tộc giành được từ các cuộc cách mạng tư sản chỉ mở đường cho sự phát triển và lợi ích của giai cấp tư sản, chứ không giải phóng con người và xã hội loài người ra khỏi sự áp bức bóc lột. Do đó chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư sản và cách mạng tư sản chỉ thực hiện dân tộc một cách có giới hạn. Độc lập dân tộc của chủ nghĩa tư bản không những không thủ tiêu áp bức bót lột mà con duy trì và phát triển ở trình độ cao hơn, tinh vi hơn.Mặc dù không tán thành với Cách mạng tư sản Pháp và Cách mạng tư sản Mỹ Nguyễn Tất Thành vẫn chưa tìm ra con đường đi đúng đắn cho dân tộc mình.
Cuối năm 1917 Nguyễn Tất Thành trở lại Pháp giữa những ngày ác liệt của chiến tranh thế giói lần thứ nhất để tiếp tục tìm con đường cứu nước cho dân tộc, Anh đã lao vào cuộc đấu tranh của công nhân Pháp. Giữa những ngày đang hoạt động sôi nổi thì một sự kiện quan trọng trong lịch sử nhân loại đã nổ ra: Cách mạng Tháng Mười Nga thành công làm chấn động địa cầu. Như tiếng sấm mùa xuân, cách mạng Tháng Mười Nga đã thức tỉnh giai cấp công nhân và nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới vừng dậy đấu tranh cách mạng. Cách mạng tháng mười là một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa do đảng của Lênin lãnh đạo, nhằm mục đích là đánh đổ tư bản chủ nghĩa, giải phóng nhân dân lao động. Cách mạng Tháng Mười thực hiện quyền tự quyết của dân tộc. Chính quyền được thành lập từ các quốc gia dân tộc trước kia bị Nga Hoàng sáp nhập, nay đã có thể tự quyết định lấy vận mệnh của mình. Chính quyền Xô Viết tuyên bố ủng hộ cuộc đấu tranh của giai cấpcông nhân ở các nước tư bản và ủng hộ phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa:“Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là thành công đến nới, nghĩa là dân chúng được hưởng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật.. Cách mệnh Nga đã đuổi được vua, tư bản, địa chủ rồi lại ra sức cho công, nông các nước và dân tộc bị áp bức các thuộc địa làm cách mệnh để đạp đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa và tư bản trong thế giới”(7). Từ thành công của cách mạng Tháng Mười Nga đã có một ảnh hướng quyết định trong đời hoạt động hoạt động cách mạng của Người. Phấn khởi và tin tưởng, Người quyết tâm lựa chon đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười Nga.
Sau Cách mang Tháng Mười, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế phát triển mạnh mẽ. Đầu năm 1919 quốc tế thứ ba được thành lập, đánh dấu sự thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lênin đối với đường lối cơ hội hưu khuynh và chủ nghĩa sô - vanh của quốc tế thứ hai. Tiếp đó tháng 7 năm 1920 Người đã đọc được sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin. Luận cương đã vạch ra đường lối cơ bản cho phong trào cách mạng ở các nưóc thuộc địa và phụ thuộc, đã giải đáp cho Người con đường giành độc lập dân tộc và tự do cho đồng bào mà người đã trải qua bao nhiêu gian truân để tìm kiếm. Luận cương Lênin đã đến với Người như một luồng ánh sáng mới đầy hy vọng và tin tưởng, Người nhớ lại:“Luận cương của Lênin là cho tôi rât cảm động phấn khởi, sáng tỏ và tin tưởng biêt bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo:“Hỡi đồng bào bị đoạ đầy đau khổ! đây là cái cần thiết của chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”(8). Từ đó, Người hoàn toàn tin theo Lênin, đứng hẳn về Quốc tế thứ ba. Tại Đại hội của Đảng Xã hội Pháp họp tại Tua (12-1920). Người đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế thứ ba và trở thành một trong những người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Đây là một sự kiện vô cùng quan trọng trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Nó đánh dấu bước chuyển biến quyết định trong nhận thức tư tưởng và lập trường chính trị của Người. Từ đó, Người đã trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên, người tìm ra con đường cách mạng đúng đắn cho nhân dân Việt Nam, con đường kết hợp đấu tranh giai cấp với đấu tranh dân tộc, kết hợp tinh thần yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản.
 Như vậy, có thể nói rằng từ chủ nghĩa yêu nước chân chính và khát vọng giải phóng dân tộc thoát khỏi ách xâm lược của thực dân, Hồ Chí Minh đã quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước.Trải qua hành trình bôn ba khắp các châu lục vừa tìm hiểu vừa khảo nghiệm từ thực tiễn của các cuộc cách mạng tư sản phương tây, đặc biệt là sự tìm hiều về tình hình kinh tế- xã hội ba nước tư bản là Pháp, Mỹ, Anh. Hồ Chí Minh đã nhận thấy sự bất ổn trong lòng xã hội tư bản và tính chất không triệt để của các cuọc cách mạng tư sản. Giữa lúc đang trăn trở để tìm một con đường đi mới, thì cách mạng Tháng Mười Nga thành công và sau đó Luận cương của Lênin về dân tộc và vấn đề thuộc địa đến với Người. Từ những trải nghiệm thực tiễn và nhạy cảm chính trị cùng với những nhận định và cách nhìn biện chứng trên cơ sở phân tích đánh giá khoa học, Hồ Chí Minh đã quyết định lựa chọn đưa dân tộc Việt Nam đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga và chủ nghĩa Mác - Lê nin, con đường cách mạng vô sản. Đây là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn cho dân tộc Việt Nam và phù hợp với quy luật phát triển của xã hội loài người, mang lại độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân, đưa đất nước phát triển theo con đường XHCN vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ , công bằng, văn minh./.
 
Chú thích:
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2002, t1, tr.477.
(2) Báo Nhân dân, ngày 18-5-1965.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2002, t1, tr.266.
(4 )Mai Văn Bộ: Con đường vạn dặm của HCM, Nxb. Trẻ, H.1999, tr62.
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2002, t2, tr.270.
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2002, t2, tr.274.
 (7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2002, t2, tr.280.
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2002, t10, tr.127.

Bác Hồ với Cách mạng Tháng Mười Nga

Bác Hồ với Cách mạng Tháng Mười Nga
TS Phạm Văn Khánh - báo Nam Định
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thắng lợi đã mở ra một thời đại mới trong lịch sử loài người. Đó là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, thời đại giai cấp công nhân và nhân dân lao động bị áp bức trên toàn thế giới đoàn kết đấu tranh để giải phóng mình khỏi chủ nghĩa tư bản, thực dân, tự mình làm chủ vận mệnh của mình để xây dựng xã hội mới tốt đẹp.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười soi sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu, hàng triệu người đứng lên đấu tranh chống lại áp bức, bóc lột của chủ nghĩa đế quốc… Có thể khẳng định rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người có tình cảm đặc biệt với Cách mạng Tháng Mười và V.I.Lênin lãnh tụ thiên tài của Cách mạng Tháng Mười và nhân dân lao động toàn thế giới. Từ lòng kính trọng và biết ơn vô cùng sâu nặng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm hiểu những kinh nghiệm quý báu của Cách mạng Tháng Mười và cuộc đời, sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Lênin, học tập, nghiên cứu học thuyết của Lênin để vận dụng vào cách mạng Việt Nam, đưa nhân dân ta vào cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do và tiến vào thời đại mới.
Tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh tại trung tâm thủ đô Mátxcơva (Liên bang Nga). Ảnh: Internet
Tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh tại trung tâm thủ đô Mátxcơva (Liên bang Nga). Ảnh: Internet
Nhớ lại những năm 20 của thế kỷ XX, trên hành trình tìm đường cứu nước lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc được tiếp xúc với học thuyết của Lênin về vấn đề giải phóng thuộc địa và Người nhận ra rằng, đây là cái cần thiết cho dân tộc Việt Nam… Ngay từ đấy Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã nghiên cứu và viết nhiều tác phẩm về Lênin và cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga. Người ca ngợi thiên tài và tấm gương đạo đức cách mạng cao cả của Lênin. Tin tưởng và đi theo con đường cách mạng do Lênin lãnh đạo, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và ủng hộ Quốc tế Ba do Lênin thành lập. Đồng thời lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam.
Sự gặp gỡ của Nguyễn Ái Quốc với chủ nghĩa Lênin là một cuộc gặp lịch sử. Với quyết tâm tìm con đường cứu nước, sau bao năm bôn ba khắp các châu lục, vừa lao động kiếm sống, vừa hoạt động trong phong trào các dân tộc bị áp bức, phong trào công nhân, tháng 7 năm 1920, trên đất Pháp, Nguyễn Ái Quốc được đọc tác phẩm: Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin, đăng trên báo Nhân đạo (L’Humanité) của Đảng Xã hội Pháp. Chủ tịch Hồ Chí Minh hồi tưởng: Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao. Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình mà Người đã nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: Hỡi đồng bào bị đoạ đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta.
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh vui mừng như vậy đã tìm thấy con đường cứu nước, cứu dân, con đường giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ, áp bức, bóc lột của chủ nghĩa tư bản thực dân Pháp và chế độ phong kiến - đó là con đường cách mạng vô sản. Tại Đại hội Tua của Đảng Xã hội Pháp cuối năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên.
Hướng về Lênin - lãnh tụ của Cách mạng Tháng Mười Nga, từ cuối năm 1923, đầu năm 1924, Nguyễn Ái Quốc bí mật đến Liên Xô. Ngay sau khi Lênin từ trần, Hồ Chí Minh đã viết bài: Lênin và các dân tộc thuộc địa đăng trên báo Sự thật, số ra ngày 27-1-1924, với những dòng vô cùng xúc động: Khi còn sống, Người là cha, thầy học, đồng chí và cố vấn của chúng ta. Ngày nay, Người là ngôi sao sáng chỉ đường cho chúng ta đi tới cuộc cách mạng xã hội. Trong những năm tháng học tập, hoạt động, nghiên cứu trên đất nước Xô viết, Hồ Chí Minh đã viết nhiều tác phẩm xuất sắc về Lênin và cuộc Cách mạng Tháng Mười. Đặc biệt vào năm 1927, Hồ Chí Minh đã cho xuất bản cuốn sách Đường cách mệnh làm tài liệu huấn luyện cán bộ để chuẩn bị cho việc thành lập Đảng. Trong tác phẩm quan trọng này, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Đảng có vững cách mạng mới thành công. Ngày nay học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng cách mạng nhất, chân chính nhất là chủ nghĩa Lênin…; trong thế giới bây giờ chỉ có cách mạng Nga là đã thành công và đã thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam. Cách mạng Nga đã đuổi được vua, tư bản, địa chủ rồi lại ra sức cho công, nông các nước và dân bị áp bức các thuộc địa làm cách mệnh để đập đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa và tư bản trong thế giới. Cách mạng Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mạng thành công thì phải dân chúng (công nông) làm gốc. Phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo Chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin…
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nước nhà độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn viết nhiều tác phẩm về Cách mạng Tháng Mười và Lênin đã giáo dục cán bộ, đảng viên, nhân dân ta luôn ghi nhớ công ơn và học tập, vận dụng học thuyết cách mạng của Mác, Ăng-ghen, Lênin, học tập kinh nghiệm của nhân dân các dân tộc Xô-viết trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Vấn đề cốt tử nhất mà Chủ tịch Hồ Chí Minh giáo dục Đảng và toàn dân ta là chăm lo xây dựng Đảng thật sự là một đảng Mác - Lênin chân chính. Cán bộ, đảng viên phải thường xuyên rèn luyện đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, phấn đấu hy sinh vì lợi ích của nhân dân, mà Lênin là tấm gương tiêu biểu để Đảng xứng đáng là “trí tuệ, lương tâm, danh dự” của dân tộc và thời đại, được nhân dân tin yêu…
Từ khi Đảng ta thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã dẫn dắt nhân dân ta vùng lên làm cách mạng giải phóng dân tộc, giành lại độc lập tự do, kháng chiến chống các cuộc chiến tranh xâm lược thắng lợi, thống nhất đất nước, hàn gắn các vết thương chiến tranh, xây dựng đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tiến hành đổi mới và hội nhập quốc tế, bảo vệ thành quả cách mạng, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định xã hội, phát triển toàn diện, nâng cao mức sống nhân dân và vị thế dân tộc Việt Nam trên trường quốc tế.
Đảng ta, nhân dân tự hào khẳng định rằng, trong hơn 8 thập kỷ qua, đi theo con đường cách mạng của Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã phát triển và làm phong phú lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin bằng thực tiễn lãnh đạo cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đó là các vấn đề về xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, đã kết hợp nhuần nhuyễn ba yếu tố là chủ nghĩa Mác - Lênin, phong trào yêu nước và phong trào công nhân; về con đường cách mạng Việt Nam giải phóng dân tộc và đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội; về đoàn kết toàn dân trên nền tảng liên minh công, nông, trí; về tiến hành hai chiến lược cách mạng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam; về xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân do Đảng lãnh đạo; về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc…
Trong quá trình tiến hành đổi mới đất nước, trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân vượt qua những thử thách khắc nghiệt của thời cuộc và đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử đưa đất nước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH với những cơ hội mới và thách thức to lớn. Kỷ niệm 95 năm Cách mạng Tháng Mười, chúng ta cần suy ngẫm và hành động theo lời dạy của Bác Hồ, mỗi khi cách mạng gặp khó khăn hay trước những bước ngoặt cần có những quyết sách đúng đắn thì phải nghiên cứu những chỉ dẫn của Lênin - Vì đó chính là cẩm nang thần kỳ cho Đảng và cách mạng Việt Nam.