Thứ Sáu, 15 tháng 2, 2013

“Bắc Bổ Đà, Nam Hương Tích”


“Bắc Bổ Đà, Nam Hương Tích”


ANTĐ - Phương ngôn xưa lưu truyền bấy lâu nay như vậy. “Bắc Bổ Đà, Nam Hương Tích” nghĩa là nếu không bái viễn Phật bà ở động Hương Tích thuộc khu danh thắng Hương Sơn, Mỹ Đức, Hà Nội thì có thể về Bổ Đà - một trong những danh lam cổ tự, trung tâm Phật giáo thuộc thiền phái Trúc Lâm, vốn đã tạo ra những ảnh hưởng lớn cho nền Phật pháp trong suốt hàng trăm năm qua. 

Vườn tháp chùa Bổ Đà. Ảnh: Internet

Nằm ở phía Bắc chân núi Phượng Hoàng thuộc thôn Thượng Lát, xã Tiên Sơn, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Chùa còn có tên đầy đủ là chùa Quán Âm núi Bổ Đà. Tục truyền rằng xưa kia đây là nơi Quán Âm Bồ Tát hiển linh phổ độ chúng sinh, và cũng từ đó mà chùa được dựng lên. Chùa có từ đời nhà Lý thế kỉ 11 và được trùng tu sửa sang lại vào thời Lê Trung hưng những năm 1700. 

Trải qua hơn 300 năm dâu bể, những khối kiến trúc chính của chùa còn lại cho tới ngày nay mang dấu tích của triều Nguyễn – triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam. Chùa tọa lạc dưới chân đồi thông, bao quanh bởi non xanh nước biếc sơn thủy hữu tình. Kiến trúc chùa Bổ Đà có sự độc đáo và khác biệt so với các ngôi chùa truyền thống ở miền Bắc Việt Nam, đó là lối kiến trúc nội thông ngoại bế tạo vẻ u tịch, thanh vắng, linh thiêng. Không gian kiến trúc được bao phủ bởi một màu nâu đỏ của đất, lại có những đoạn tường đất sét dựng theo lối trình tường vốn đã ngót nghét 300 tuổi, đó đây một vài bức tường được dựng lên từ những mảnh sành đất nung thuộc dòng gốm Thổ Hà chỉ cách đó 3km, bởi vậy nhiều người vẫn gọi chùa Bổ Đà là chùa đất. Đặc biệt là những đoạn tường đất ngày nay còn giữ được có bề dày lên tới 0,8m đỉnh có hũ được che bởi các mảnh gốm, chum Thổ Hà chính vì vậy vẻ đẹp ấy không thể lẫn với bất cứ loại hình kiến trúc tương đồng ở các vùng miền khác. 

Trải qua những biến thiên của lịch sử chùa Bổ Đà vẫn còn bảo lưu được khá nguyên vẹn các công trình kiến trúc. Toàn bộ chùa có diện tích khoảng 51.784m2 được phân ra làm 3 khu rõ rệt. Khu vườn: 31.000m2, khu nội tự chùa 13.000m2  và khu vườn tháp rộng: 7.784m2. Trong khu nội tự gồm có chùa Tứ Ân là nơi thờ Phật cùng các chư thần. Tại đây còn lưu giữ được hệ thống tượng và đồ thờ bằng gỗ từ thời Lê gần như nguyên vẹn. Đây không chỉ là một minh chứng cho sự phát triển của đạo Phật cũng như thiền phái Trúc Lâm ở Việt Nam trong suốt mấy trăm năm mà còn là những tác phẩm nghệ thuật độc đáo có giá trị nghiên cứu cao. Ngoài ra trong tòa tam bảo còn có rất nhiều những đại tự câu đối thể hiện triết lí nhà Phật. Chùa còn lưu giữ nhiều văn bia, đại tự có giá trị lịch sử cùng với bộ mộc thư bằng gỗ thị trải qua hàng trăm năm vẫn còn nguyên vẻ sắc nét. 

Điều làm nên nét đặc biệt tại đất tổ Bổ Đà chính là vườn tháp cổ, nơi tàng lưu xá lị, tro cốt nhục thân của hơn 1.400 vị tăng ni, với 97 tòa tháp lớn nhỏ đã trải qua gần 300 năm, vườn tháp chùa Bổ Đà được đánh giá là đẹp và lớn nhất Việt Nam, được bao quanh bởi những đoạn đường kè đá xen lẫn tường đất sét nện. Tổng thể của khu vườn tháp tạo nên một công trình kiến trúc choáng ngợp và độc đáo mà ai qua Bổ Đà cũng phải một lần ghé thăm. Khối công trình này là một phần không thể thiếu trong việc tôn vinh thêm giá trị cho ngôi danh lam cổ tự.

Vườn chùa là nơi đan xen những gốc cây cổ thụ tựa vườn tiên của vương mẫu cùng với những gốc cây ăn quả gợi lên một cuộc sống vùng thôn quê chân chất, tất cả hòa quyện hài hòa với nhau không chút khiên cưỡng. Cùng với đó là những cây thuốc nam nhà chùa vun trồng để chữa bệnh cứu người, như thể thực thi cái “từ bi” của đức Phật từ bao đời nay. Lạc bước trong khuôn viên rộng rãi thơm mùi đất ẩm, hẳn tất thảy khách thập phương đều sẽ gác lại những bộn bề cuộc sống để mà thả mình vào không gian tươi mát, hiền hòa chốn linh thiêng.

Hội chùa Bổ Đà diễn ra từ ngày 16 đến 18 tháng 2 âm lịch, khi đó khách thập phương trong cả nước thường quy tụ về chùa rất đông để được bái viễn đức Phật bà Quán Âm cầu mong phúc lộc, đặc biệt là đường con cái. Bên cạnh đó, hệ thống mộc thư cổ có tuổi thọ gần 300 năm cũng là điểm thu hút được dòng người hành hương về xứ Kinh Bắc một thời xa xưa.

Tuấn Linh

Mưa xuân trong ngày khai hội chùa Hương


Mưa xuân trong ngày khai hội chùa Hương

GDVN) - Hôm nay, ngày 15/2 (mùng 6 Tết âm lịch), lễ hội chùa Hương chính thức khai hội. Mặc dù trời mưa nặng hạt, cộng thêm tiết trời lạnh nhưng vẫn không ngăn được dòng người về dâng hương lễ Phật.
Ngay từ rất sớm, những chiếc đò đã hoạt động hết công suất.
Những bộ quần áo xúng xính chơi xuân, đi lễ hội được thay bằng những chiếc áo mưa.
Hai bên sông Yến, núi mờ hơi sương. Dòng sông hôm nay bỗng nhộn nhịp bởi sự tấp nập của những con thuyền ngược xuôi.
Nét tư lự hiện rõ trên gương mặt nhiều người. Nhưng cũng có không ít người co ro vì lạnh
Giá vé năm nay giữ ở mức 85.000 đồng/lượt, bao gồm cả vé đò.
Mặc dù trời mưa rét nhưng vẫn không ngăn được dòng người đổ về chùa đi dâng hương lễ Phật ngay trong ngày khai mạc.
Dễ dàng nhận thấy cảnh nhộn nhịp, chen lấn ngay từ cửa đền Trình.
Cho tới khu vực hành lễ.
Cả khu vực bán vé cáp treo cũng “tắc đường” và phải chờ đợi rất lâu để mua được tấm vé cho hành trình du xuân lễ hội chùa Hương bằng cáp treo của mình
Cảnh chen lấn tiềm ẩn trong đó rất nhiều nguy cơ của nạn móc túi.

Ẩm thực ngày lễ tết của người Tây Nguyên


Ẩm thực ngày lễ tết của người Tây Nguyên


Ẩm thực truyền thống mùa lễ tết của người Tây Nguyên đã trở thành đặc sản có sức hấp dẫn, thu hút và mời gọi du khách cùng các lễ hội truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc mỗi dịp xuân về tết đến.
Không như người Kinh ăn tết cổ truyền vào tháng giêng âm lịch, các dân tộc ở Tây Nguyên thường ăn tết vào thời điểm giao thoa giữa hai mùa mưa và mùa khô, đây là thời điểm chuẩn bị cho vụ mùa tiếp theo trong năm và cũng là thời điểm tốt nhất để tổ chức các lễ hội tạ ơn các thần linh đã giúp đỡ cho mùa màng bội thu và cầu cho vụ mùa gieo hạt mới được mưa thuận gió hòa, lúa bắp đầy nương.
Cơm lam, thịt nướng trong mùa lễ hội
Cơm lam, thịt nướng trong mùa lễ hội
Hàng năm, vào khoảng tháng ba hoặc tháng tư dương lịch, khi mùa màng đã thu hoạch xong, lúa đã đổ đầy gùi, các công việc đồng áng được gác lại thì người Tây Nguyên bắt đầu vào mùa nghỉ ngơi và chuẩn bị ăn tết riêng của mình.
Không như người Kinh ăn tết cổ truyền vào tháng giêng âm lịch, các dân tộc ở Tây Nguyên thường ăn tết vào thời điểm giao thoa giữa hai mùa mưa và mùa khô, đây là thời điểm chuẩn bị cho vụ mùa tiếp theo trong năm và cũng là thời điểm tốt nhất để tổ chức các lễ hội tạ ơn các thần linh đã giúp đỡ cho mùa màng bội thu và cầu cho vụ mùa gieo hạt mới được mưa thuận gió hòa, lúa bắp đầy nương.
Để chuẩn bị vật phẩm cúng tế thần linh trong những ngày lễ tết, ngay trong mùa vụ, đồng bào thường chọn ra những khoảng ruộng riêng để gieo cấy lúa gạo và nuôi nhốt riêng một số gia súc, gia cầm làm thực phẩm dành riêng cho những ngày này.
Theo quan niệm của người Tây Nguyên, những vật phẩm dùng để tế lễ phải là thực phẩm được nuôi trồng và chăm sóc cẩn thận, đồng thời là những thực phẩm ngon nhất, đẹp nhất và sạch sẽ nhất. Có như vậy khi lễ vật đựơc dâng lên thì thần linh mới chứng giám và ban cho họ một cuộc sống yên ổn, sức khỏe dồi dào, làng buôn no ấm. Vì vậy, ẩm thực luôn là mối quan tâm hàng đầu và có vai trò hết sức quan trọng trong đời sống tâm linh của đồng bào các dân tộc ở Tây nguyên trong mùa lễ tết.
Thịt gà nướng
Thịt gà nướng
Có thể thấy nhiều món ăn truyền thống vô cùng phong phú và đa dạng được thực hiện trong dịp này. Tuy nhiên, đối với đồng bào Tây nguyên, thức ăn phổ biến vẫn là cơm thịt và rau được chế biến theo nhiều cách khác nhau, tùy từng phong tục, tập quán và khẩu vị của mỗi dân tộc.
Cơm lam được sử dụng phổ biến và được coi là món ăn truyền thống thay thế các loại bánh trong ngày lễ tết, và được ví như bánh chưng, bánh tét của người Kinh. Là một loại cơm được nấu trong ống nứa nên gạo được chọn để nấu cơm lam thường là gạo nếp. Cơm lam được nấu theo cách thức gạo vo sạch, ngâm trong nước một đêm rồi đổ vào trong những ống nứa dài. Ống nứa đựng gạo là những ống có độ tuổi vừa phải, lòng ống mềm, bên trong chứa nhiều nước ngọt để khi nướng lên, gạo sẽ được hấp hơi nước trong ống mà chín.
Nấu cơm lam cũng là một công đoạn đòi hỏi có kỹ thuật. Để cơm không cháy và chín đều, khi nướng lửa than phải thật hồng, ống cơm luôn được trở đều tay cho đến khi vỏ nứa khô, sem sém, mở đầu ống nứa, thoảng mùi thơm của nếp thì cơm đã chín. Ống cơm khi đã thành phẩm chỉ cần dùng tay bật nhẹ, thân ống sẽ tách rời ra, hé lộ bên trong lớp màng trắng mỏng của vỏ nứa, bọc quanh những hạt gạo dẻo, thơm, nóng hổi, dậy mùi thơm, đậm vị ngọt của hương rừng.
Rượu cần và các món ăn
Rượu cần và các món ăn
Đi cùng với cơm lam là thịt nướng. Có hai loại thịt phổ biến mà đồng bào Tây nguyên thường dùng để nướng là thịt gà và thịt heo. Thịt gà khi nướng thường được mổ banh rồi nướng trực tiếp trên bếp than. Thịt heo thái bản, luồn thành những xâu dài bởi những cây xiên bằng tre nhọn đầu gọi là thịt nướng xâu. Thịt có thể được thái nhỏ gói trong lá chuối rồi vùi vào tro nóng hoặc cho vào ống nứa với muối, ớt rồi nướng như cơm lam gọi là thịt nướng ống. Thịt nướng ống hay thịt gói lá chuối đều được thực hiện trực tiếp trên lửa, tuy nhiên so với thịt nướng xâu, cách chế biến này thường giữ được vị đậm đà, thịt ngọt, mềm và không bị khô, xát.
Bên cạnh các món nướng, các loại thức ăn được làm từ rau, bột hoặc thịt sống bóp gỏi cũng là một nét ẩm thực rất đặc trưng. Bột gạo giã chung với các loại rau, quấy thành món canh đặc, đựng trong lá chuối hay lá rừng là một trong những món ăn phổ biến không thể thiếu trong ngày lễ tết của người Tây Nguyên.
Ngoài ra, món thịt bóp sống cũng thường được làm để dâng cúng thần linh trong dịp hội lễ. Đây là món được làm từ thịt của những loại gia súc giết mổ để hiến tế. Thịt sống được bóp với phèo non còn nóng của heo, bò, dê mới được giết mổ, tạo thành một món ăn chín tái rất hợp khẩu vị của nam giới. Ngoài các món trên, đồng bào còn có các món đưa men khác dùng để khoản đãi những người đến dự lễ được làm từ phủ tạng của các loài vật trên như món lá sách cuộn gan bò hay tiết canh dê, bò, heo trộn lòng, gan, bao tử… Tuy nhiên các món này chỉ dành cho nam giới hoặc thanh niên uống rượu, trẻ con ít được ăn.
Đi kèm với các món ăn trong mùa lễ tết không thể thiếu rượu cần. Rượu Cần được làm từ chính những nguyên liệu có sẵn của núi rừng như gạo, nếp, ngô, kê, sắn… trộn với lá cây rừng ủ thành men. Để ghè rượu cần được ngon, đậm đà hương vị, ngoài các nguyên liệu trên, rượu còn được ủ thêm ớt, mía, gừng hoặc riềng để tăng thêm vị ngọt và cay cho rượu. Rượu ngon là rượu được ủ với gạo nếp, khi chín có màu vàng ươm, cay nồng và đặc sánh.
Thông thường những ghè rượu Cần ngon nhất là vật phẩm để dâng cúng thần linh và được dành riêng để tiếp đãi khách quý. Trong lễ tết, những ché rượu Cần được sắp thành những hàng dọc dài hoặc xen kẻ với những gói lá đựng thức ăn để mọi người có thể ngồi đối mặt với nhau, vừa ăn, vừa uống rượu và trò chuyện.
Rượu Cần là thức uống ngon, dân dã và là loại thức uống truyền thống duy nhất mà đồng bào Tây Nguyên sử dụng trong mùa lễ tết của mình. Cách thức ăn và uống rượu Cần thể hiện tính cộng đồng cao của đồng bào Tây Nguyên trong các mùa hội lễ, đồng thời thể hiện mối quan hệ tình cảm gắn bó giữa con người với thiên nhiên, giữa đất trời và cỏ cây hoa lá.
Ngày nay ẩm thực truyền thống mùa lễ tết của người Tây Nguyên đã trở thành đặc sản có sức hấp dẫn, thu hút và mời gọi du khách đến với Cao Nguyên, vùng đất hoang sơ, kỳ vĩ cùng các lễ hội truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc mỗi dịp xuân về tết đến.

Thứ Năm, 14 tháng 2, 2013

Kể chuyện tình lãng mạn trong ngày Valentine


Kể chuyện tình lãng mạn trong ngày Valentine
Nhân dịp ngày Valentine 2013, hãy cùng lắng nghe những câu chuyện "yêu" với nhiều cung bậc cảm xúc của các cặp tình nhân trẻ.
“Cặp đôi game thủ” Nam và Linh
“Cặp đôi game thủ” Nam và Linh.
 
Tình yêu từ quán game
Nhìn lại năm 2012, “điểm sáng” duy nhất của Nam có lẽ là quen biết, gặp gỡ và phải lòng nữ game thủ tên Linh. Ngày Valentine 2012 đó, hai con “nghiện” Dota chạm trán nhau tại một quán game nằm trong một con ngõ nhỏ ở phố Lê Thanh Nghị (Hà Nội).
Nam để mắt tới Linh vì nàng diện mũ đỏ trông rất giống “mũ đôi” với chiếc mũ đen chàng đang đội. Anh chàng chủ động tới gạ nàng làm một trận, thế là quen. Theo lời Nam kể, ngay lần đầu thách đấu, hai người đã "chửi nhau" chí chóe, nhưng không hiểu sao sau này lại phải lòng nhau.
Yêu Linh, Nam bị cuốn vào cuộc sống của cô nàng “nghiện” đủ thứ này. Ngoài game, Linh còn là một tay phượt thứ thiệt. Thậm chí những ngày mới yêu, Linh sẵn sàng làm “xế” chở Nam vi vu khắp các cung đường Tây Bắc.
“Hồi đầu phượt chưa quen mệt thật nhưng riết rồi mình cũng nghiện. Có lần, vì em buồn, mình chở em lên tận Mộc Châu lang thang. Mua cho em một bó hoa có 10.000 đồng, rồi vặt thêm hoa cúc mọc dại ven đường bó kèm, mà em cười tít mắt”, Nam tủm tỉm.
Linh vốn làm một cô gái cá tính, nhưng lại hơi thiếu… nữ tính. Bằng chính sự chân thành của mình, Nam đã “đốn tim” được cô nàng "cẩu thả" này: “Trước giờ em rất lười việc gội đầu xong phải làm khô tóc. Vì tóc dày, vì ngồi sấy rất lâu và em thì không kiên nhẫn. Lần mình kiên nhẫn sấy khô tóc em, chính là lần đầu tiên mình thấy em không chảnh chọe, ngồi im thít”.
Mùa Valentine năm nay, Nam dự định sẽ “đáp ứng” tất cả những sở thích khác người của bạn gái. “Sẽ đưa em đi ăn bún ốc chua ngọt này, đi cà phê Thái này. Sẽ mua ô mai thay cho sô cô la, mua hoa cúc dại thay cho những bông hồng đỏ thắm. Sẽ ôm em vào lòng rồi thủ thỉ vài câu tình củm nữa”, chàng kỹ sư 27 tuổi rạng rỡ.
Thay vì đi chơi như “thông lệ”, Valentine năm nay, Hùng sẽ ở nhà canh
            bà xã sắp “vỡ chum”
Thay vì đi chơi như “thông lệ”, Valentine năm nay, Hùng sẽ ở nhà canh bà xã sắp “vỡ chum”.
Cám ơn mối tình đầu của em!
Hùng (ông xã của Hằng) ở gần nhà, học cùng trường THPT Chu Văn An (Hà Nội) với Hằng, cũng chính là mối tình đầu của cô.
Hằng chia sẻ: “Hồi mình 17 tuổi, bạn chồng thích mình bỏ xừ ra còn làm trò chửi mình đầu đất, vô cảm, lăng nhăng, bướng bỉnh, xấu xí, đáng ghét… Mình thì cũng ghét bạn ý bỏ xừ ra. Nhưng mà đúng là ghét của nào trời trao của nấy”.
Chuyện tình “bọ xít” của Hằng và Hùng bắt đầu khi cả hai vào đại học, nhưng sau đó lại “gián đoạn” đến 6 năm. Hằng luôn nói rằng cô cảm ơn Hùng nhiều lắm vì anh đã giữ gìn niềm tin vào tình yêu ấy trong suốt 6 năm, để đưa hai người quay lại với nhau.
"Sau này anh ấy có nói với mình rằng lần đầu tiên nhìn thấy em, anh tin rằng em sẽ là vợ của anh. Nghe thì hơi sến, nhưng tôi tin. Thực ra, mình tin tất cả những gì anh ấy nói”, Hằng rạng rỡ.
Hằng hào hứng kể vụ tỏ tình “lần hai” của Hùng vào ngày Valentine năm 2011: “Bạn chồng gửi cho mình SMS rất bất ngờ: Xin chào, mối tình đầu của anh. Em rảnh không? Anh sẽ lại cưa em nhé".
Nhận được tin nhắn, Hằng cũng tung hứng luôn: "Anh à, em không rảnh đâu. Vì em bận... yêu anh mất rùi. Mối tình cuối của em ạ”.
Hiện tại, hai vợ chồng Hằng và Hùng đang mong chờ cô công chúa đầu lòng ra đời. Bà bầu “xì tin” này huyên thuyên kể xấu ông xã: “Bạn chồng trẻ con lắm cơ, bụng mình to tướng mà nhiều đêm đang nằm trong chăn ấm áp vẫn còn phải dậy pha trà cho bạn ý ngồi làm việc. Chỉ vì có tình yêu to đùng với hai bố con họ mà mình mới có sức mạnh khủng khiếp này thôi ý”.
Gia đình nhỏ hạnh phúc của Dương và Ngọc Anh
Gia đình nhỏ hạnh phúc của Dương và Ngọc Anh.
 
Cặp đôi ngọt ngào
Một lần, cô phóng viên Thùy Dương cần tìm hiểu viết bài nghệ thuật airbrush (một loại hình nghệ thuật mà người họa sĩ dùng súng phun sơn để thể hiện tác phẩm), thế là cô có dịp làm quen, rồi đem lòng ngưỡng mộ tài năng của anh chàng Ngọc Ánh.
Dương chia sẻ: “Thời điểm bấy giờ ở Hà Nội rất ít người biết đến loại hình nghệ thuật này, anh là một trong những nghệ sĩ hiếm hoi đó. Vì có nhiều quan niệm sống, sở thích tương đồng nên bọn mình nhanh thân nhau. Tình yêu đến lúc nào cũng không biết nữa”.
Ngọc Anh là người rất kín tiếng, không thổ lộ bằng lời nói. Có lẽ Dương sẽ không biết được tình cảm của anh nếu không tình cờ đọc được dòng tâm sự mà anh viết trên blog cá nhân trong đúng ngày Valentine 2009.
"Trên blog anh có đoạn: người tôi yêu là người khiến tôi khẽ hát khi ở bên. Chắc chắn là có tính toán từ trước nên ngay tối hôm đó, anh đèo mình đi chơi. Vừa đi anh vừa lẩm nhẩm bài hát I just called to say I love you mà mình rất thích”, Dương nhớ lại.
Trước khi đến với Ngọc Anh, Dương đã từng bị tổn thương tình cảm. Cô đã từng nghĩ sẽ chẳng thể yêu ai. Nhưng khi ở bên anh, cô được sống thật với cảm xúc của mình. Sáu tháng sau khi yêu nhau, Dương theo Ngọc Anh về dinh.
Dương vẫn hay hỏi Ngọc Anh câu hỏi “muôn thuở” của những cặp tình nhân: “Tại sao hồi đấy anh yêu em?”. Còn chàng thì luôn lém lỉnh đùa rằng: “Thì vì em hâm, chả ai yêu nên anh thương”.
Có lẽ không chỉ với Dương và Ngọc Anh, mà tất cả những cặp vợ chồng khác đều nhận ra rằng cuộc sống sau hôn nhân có rất nhiều thay đổi so với lúc đang yêu.
“Yêu và lấy được nhau là điều hạnh phúc, nhưng để giữ gìn được hạnh phúc ấy không hề đơn giản. Để đi được cùng nhau đến cuối con đường, bí quyết của chúng mình đó là tôn trọng và nhường nhịn nhau”, Dương bày tỏ.
Theo Thanh Niên
(Ảnh: Nhân vật cung cấp)

Thứ Hai, 11 tháng 2, 2013

Phong Tục Tết Nguyên đán và tục lệ đầu xuân củ người Việt?

Phong Tục Tết Nguyên đán và tục lệ đầu xuân củ người Việt?

Tết Nguyên đán (Tết Cả) là lễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới; giữa một chu kỳ vận hành của đất trời, vạn vật cỏ cây. Tết Nguyên đán Việt Nam từ buổi "khai thiên lập địa" đã tiềm tàng những giá trị nhân văn thể hiện mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, vũ trụ qua bốn mùa xuân-hạ-thu-đông và quan niệm "ơn trời mưa nắng phải thì" chân chất của người nông dân cày cấy ở Việt Nam... Tết còn là dịp để mọi người Việt Nam tưởng nhớ, tri âm tổ tiên, nguồn cội; giao cảm nhân sinh trong quan hệ đạo lý (ăn quả nhớ kẻ trồng cây) và tình nghĩa xóm làng... 

image 

Giao thừa

Lẽ trời đất có khởi thuỷ phải có tận cùng, một năm có bắt đầu ắt phải có kết thúc, bắt đầu vào lúc giao thừa, cũng lại kết thúc vào lúc giao thừa.

Giao thừa là gì? Theo từ điển Hán Việt của Ðào Duy Anh nghĩa là cũ giao lại, mới đón lấy. Chính vì ý nghĩa ấy, nên hàng năm vào lúc giao tiếp giữa hai năm cũ, mới này, có lễ trừ tịch

Lễ trừ tịch

Trừ tịch là giờ phút cuối cùng của năm cũ sắp bắt đầu qua năm mới. Vào lúc này, dân chúng Việt Nam theo cổ lệ có làm lễ Trừ tịch. Ý nghĩa của lễ này là đem bỏ hết đi những điều xấu của năm cũ sắp qua để đón những điều tốt đẹp của năm mới sắp đến. Lễ trừ tịch còn là lễ để "khu trừ ma quỷ", do đó có từ "trừ tịch". Lễ trừ tịch cử hành vào lúc giao thừa nên còn mang tên là lễ giao thừa.

Sửa lễ giao thừa

Người ta cúng giao thừa tại các đình, miếu, các văn chỉ trong xóm cũng như tại các tư gia. Bàn thờ giao thừa được thiết lập ở giữa trời. Một chiếc hương án được kê ra, trên có bình hương, hai ngọn đèn dầu hoặc hai ngọn nến. Lễ vật gồm: chiếc thủ lợn hoặc con gà, bánh chưng, mứt kẹo, trầu cau, hoa quả, rượu nước và vàng mã, đôi khi có thêm chiếc mũ của Ðại Vương hành khiển.
Ðến giờ phút trừ tịch, chuông trống vang lên, người chủ ra khấu lễ, rồi mọi người kế đó lễ theo, thành tâm cầu xin vị tân vương hành khiển phù hộ độ trì cho một năm nhiều may mắn. Các chùa chiền cũng cúng giao thừa nhưng lễ vật là đồ chay. Ngày nay, ở các tư gia người ta vẫn cúng giao thừa với sự thành kính như xưa nhưng bàn thờ thì giản tiện hơn, thường đặt ở ngoài sân hay trước cửa nhà. 
Cúng trong lễ giao thừa

Cúng ai trong lễ giao thừa và tại sao cúng giao thừa ngoài trời: Dân tộc nào cũng coi phút giao thừa là thiêng liêng. Tục ta tin rằng mỗi năm có một ông hành khiển coi việc nhân gian, hết năm thì thần nọ bàn giao công việc cho thần kia, cho nên cúng tế để tiễn ông cũ và đón ông mới. Các cụ quan niệm: Mỗi năm Thiên đình lại thay toàn bộ quan quân trông nom công việc dưới hạ giới, đứng đầu là một ngài có trí như quan toàn quyền. Năm nào quan toàn quyền giỏi giang anh minh, liêm khiết thì hạ giới được nhờ như: được mùa, ít thiên tai, không có chiến tranh, bệnh tật...Lễ giao thừa được cúng ở ngoài trời là bởi vì các cụ xưa hình dung trong phút cựu vương hành khiển bàn giao công việc cho tân vương luôn có quân đi, quân về đầy không trung tấp nập, vội vã (nhưng mắt trần ta không nhìn thấy được), thậm chí có quan quân còn chưa kịp ăn uống gì. Những phút ấy, các gia đình đưa xôi gà, bánh trái, hoa quả, toàn đồ ăn nguội ra ngoài trời cúng, với lòng thành tiễn đưa người nhà trời đã cai quản mình năm cũ và đón người nhà trời mới xuống làm nhiệm vụ cai quản hạ giới năm tới. Vì việc bàn giao, tiếp quản công việc hết sức khẩn trương nên các vị không thể vào trong nhà khề khà mâm bát mà chỉ có thể dừng vài giây ăn vội vàng hoặc mang theo, thậm chí chỉ chứng kiến lòng thành của chủ nhà.

Lễ cúng Thổ Công

Sau khi cúng giao thừa xong, các gia chủ cũng khấn Thổ Công, tức là vị thần cai quản trong nhà. Lễ vật cũng tương tự như lễ cúng giao thừa.

Mấy tục lệ trong đêm trừ tịch

Sau khi làm lễ giao thừa, các cụ ta có những tục lệ riêng mà cho đến nay, từ thôn quê đến thành thị, vẫn còn nhiều người tôn trọng thực hiện.

Lễ chùa, đình, đền: Lễ giao thừa ở nhà xong, người ta kéo nhau đi lễ các đình, chùa, miếu, điện để cầu phúc, cầu may, để xin Phật, Thần phù hộ độ trì cho bản thân và gia đình và nhân dịp này người ta thường xin quẻ thẻ đầu năm.

Kén hướng xuất hành: Khi đi lễ, người ta kén giờ và hướng xuất hành, đi đúng hướng đúng giờ để gặp may mắn quanh năm.

Hái lộc: Ði lễ đình, chùa, miếu, điện xong người ta có tục hái trước cửa đình, cửa đền một cành cây gọi là cành lộc mang về ngụ ý là "lấy lộc" của Trời đất Thần Phật ban cho. Cành lộc này được mang về cắm trước bàn thờ cho đến khi tàn khô.

Hương lộc: Có nhiều người thay vì hái cành lộc lại xin lộc tại các đình, đền, chùa, miếu bằng cách đốt một nắm hương, đứng khấn vái trước bàn thờ, rồi mang hương đó về cắm vào bình hương bàn thờ nhà mình.Ngọn lửa tượng trưng cho sự phát đạt được lấy từ nơi thờ tự về tức là xin Phật ,Thánh phù hộ cho được phát đạt quanh năm.

Xông nhà: Thường người ta kén m Xông nhàột người "dễ vía" trong gia đình ra đi từ trước giờ trừ tịch, rồi sau lễ trừ tịch thì xin hương lộc hoặc hái cành lộc ở đình chùa mang về. Lúc trở về đã sang năm mới và ngưòi này sẽ tự "xông nhà" cho gia đình mình, mang sự tốt đẹp quanh năm về cho gia đình. Nếu không có người nhà dễ vía người ta phải nhờ người khác tốt vía để sớm ngày mồng một đến xông nhà trước khi có khách tới chúc tết, để người này đem lại sự may mắn dễ dãi. 
Tục lễ đầu xuân

Tục lễ Ðộng thổ

Lễ Ðộng Thổ bắt đầu ở Trung Quốc sau truyền sang Việt Nam. Ðộng thổ nghĩa là động đất, và trong khi động đất phải có lễ cúng Thổ Thần để trình xin bắt đầu động đến đất cho một năm mới. Hàng năm, sau ngày mồng ba Tết, các làng thường làm lễ Ðộng Thổ để cho dân làng có thể đào cuốc xới được. Các bậc kỳ lão và quan viên được cử làm chủ tế và bồi tế. Lễ vật gồm hương đăng, trầu rượu, y phục và kim ngân đồ mã. Trong buổi lễ, ông chủ tế cuốc mấy nhát xuống đất để lấy một cục đất đặt lên bàn thờ, "tường trình" với Thổ Thần xin cho dân được động thổ. Sau lễ động thổ dân làng mới được động tới đất. Ai cuốc xới trước lễ động thổ bị dân làng bắt vạ. 

Lễ Khai Hạ

Theo tục lệ Việt Nam, ngày mồng bảy tháng Giêng là ngày hạ cây nêu. Cây nêu trồng trong năm, khi sửa soạn đón tết cùng với cung tên bằng vôi trắng vẽ trước cửa nhà để "trừ ma quỷ", nay được hạ xuống.

Lễ hạ nêu còn được gọi là lễ Khai Hạ. Nhân dịp này, ngoài lễ giữa trời cúng Trời Ðất, người ta còn sửa lễ cúng Gia Tiên, cúng Thổ Côngvà thần Tài. Thường sau ngày lễ này, mọi công việc thường xuyên mới được bắt đầu trở lại.

Lễ Thần Nông

Thần nông tức là vị hoàng đế Trung Hoa đầu tiên đã dạy dân nghề làm ruộng. Lễ Thần Nông tức là lễ tế vua Thần Nông để cầu mong sự được mùa và nghề nông phát đạt. Trên các quyển lịch hàng năm của người Trung Hoa thường có vẽ một mục đồng dắt một con trâu. Mục đồng tức là vua Thần Nông, còn con trâu tượng trưng cho nghề Nông. Hình mục đồng cũng như con trâu thay đổi hàng năm tuỳ theo sự ước đoán của cơ sở dự báo khí tượng về mùa màng năm đó tốt hay xấu. Năm nào được mùa, Thần Nông giầy dép chỉnh tề, còn năm nào đói kém, Thần Nông có vẻ như vội vàng hấp tấp nên chỉ đi giày có một chân. Con trâu đổi màu tuỳ theo hành của mỗi năm, vàng, đen, trắng, xanh, đỏ đúng với Kim, Mộc, Thuỷ, Hỏa, Thổ. Hàng năm, vào ngày Lập Xuân tại triều đình xưa cũng như tại các tỉnh có tục tế và rước Thần Nông. Người ta nặn trâu và tượngThần Nông có dáng vẻ và màu sắc đúng với sự ước lượng về mùa màng năm đó. Sau đó lập đài để rước trâu và tượng Thần Nông tới làm lễ tế. Sau mỗi cuộc tế, trâu và tượng Thần Nông được khiêng cất vào kho hoặc đem chôn.

Lễ Tịch điền

image 

Lễ Tịch điền còn gọi là lễ Hạ điền do chính vua Thần Nông đặt ra. Cũng như các nghi lễ khác, lễ Tịch Ðiền của người Tàu đã du nhập sang ta. Hàng năm vào đầu xuân, nhà vua lại tự thân cày mấy luống đất để làm gương cho dân chúng và cử hành lễ Tịch Ðiền. Tiếp sau vua, các hoàng thân, các quan văn võ, các chức sắc, bộ lão sở tại cũng ra cày. Tại các tỉnh, các xã cũng có lễ Tịch Điền... Ở tỉnh, quan tỉnh bắt đầu lễ Tịch Điền bằng việc cày và ở xã là vị chức sắc cao nhất trong xã. Tùy từng triều đại việc cử hành lễ Tịch Ðiền có lúc long trọng, lúc đơn giản và ở mỗi địa phương cũng có những tục lệ riêng. 

Tết Nguyên Ðán và Phật lịch liên hệ thế nào ?


Tết Nguyên Ðán và Phật lịch liên hệ thế nào ?
Nguyễn Phúc Bửu Tập
Nhân ngày Tết Nguyên đán, mọi gia đình Á đông sẽ làm lễ Phật và vui Tết. Ta thử tìm hiểu niên lịch dùng trong sinh hoạt Phật giáo nguồn gốc ở đâu, thuộc về hệ thống nào, và ngày Tết có phải là một ngày lễ Phật chăng ?
Thích Ca khai sáng ra đạo Phật tại Ấn Ðộ hai nghìn sáu trăm năm trước, và Ấn Ðộ cũng đã có nền văn minh và tôn giáo hai nghìn năm trước Phật Thích Ca. Vậy ta có thể xác quyết là không thể có một niên lịch, hay là nói rộng hơn, là một hệ thống tính thời gian riêng biệt của đạo Phật. Tìm hiểu niên biểu Phật giáo tức là đi tìm các thông lệ đã được áp dụng trong các cộng đồng tăng già ngày xưa về cách thức để áp dụng thời biểu trong năm để tu hành và tế lễ. Bài này sẽ không bàn đến các ý niệm triết lý, siêu hình và hướng linh về thời gian và không gian trong giáo lý nhà Phật.
Văn minh Ấn Ðộ trước thời đức Phật gọi là văn minh Vệ đà của giống người Arya từ trung bộ châu Âu tràn xuống đồng bằng sông Indus và sông Ganga ; tôn giáo Ấn Ðộ trước là đạo Bà la môn. Văn minh Vệ đà và tôn giáo Bà la môn dựa trên bốn bộ kinh Vệ đà căn bản, mà quan trọng nhất là bộ Kinh Rig Veda. Rig Veda gồm có, theo lý thuyết, 1028 bài ca tán tụng sức mạnh của tạo vật như mặt trời, mưa, gió, sấm sét..., biến các sức mạnh thiên nhiên này thành ra thần linh, và cầu xin thần linh ban phúc cho giống người Arya đang theo đạo Bà la môn. Ðọc kỹ các bài ca chúc tụng này, ta tìm lại rõ các nét chính trong tư tưởng, phong tục và tập quán của giống người Arya này.
Phu nhân Rhys Davids (vợ chồng giáo sư Rhys Davids được nhìn nhận đã đóng góp rất nhiều trong công trình khảo cứu văn minh Ấn Ðộ và đạo Phật) đã phân tích kỹ quan niệm về niên lịch của người Arya Ấn Ðộ. Thời gian được tính bằng ba đơn vị : năm, tháng và ngày. Trong Rig Veda quyển I đã thấy ghi rõ cách tính ngày tháng. Mỗi năm (sam vachara) gồm có 12 tháng (masa), mỗi tháng có 60 đơn vị [ban ngày kể là một đơn vị ; đêm kể là một đơn vị (ratinvida) ; hai đơn vị góp lại thành một ngày]. Mỗi năm còn chia ra mùa (utu), và vì thời gian tính theo hai hệ thống mặt trời (dương lịch) và mặt trăng (âm lịch) bị so le, không theo sát nhau được, nên đã tính phải có một tháng "nhuận", gọi là "tháng sinh sau" trong hệ thống âm.
Thời đó, giai cấp Bà la môn ngự trị đời sống tinh thần và vật chất của dân chúng. Niên lịch liên hệ tới việc cúng tế không để tiết lộ ra khỏi giai cấp giáo sĩ. Tuy vậy, vì niên lịch Vệ đà cũng đem dùng trong dân gian, nên nhà Phật chắc chắn đã dựa theo đó mà thiết kế mọi sinh hoạt trong cộng đồng Tăng già.
Trong số kinh điển khổng lồ của đạo Phật (chỉ nói tới văn hệ Pali), bà Rhys Davids không tìm được phần nào đặc biệt chuyên chú về niên lịch, và chỉ rút ra được đây đó vài đoạn nói về niên biểu, đem chắp lại để tìm hiểu ý niệm thời gian trong đạo Thích Ca. Ðể chứng minh là đức Phật đã áp dụng và có sửa đổi quan niệm niên lịch Vệ đà, bà Rhys Davids dẫn hai sự kiện. Thứ nhất là một vị đệ tử thân cận của đức Phật, Kumara Kassapa, trong Trường bộ kinh (Dighanikaya), đã thuật lại là đức Phật chấp nhận cách phân chia thời gian áp dụng và giảng giải trong kinh Rig Veda. Thứ hai là trong Tăng chi bộ kinh (Anguttaranikaya), bộ kinh quan trọng hàng thứ tư trong năm bộ kinh lớn của văn hệ Pali, cũng có nhắc lại cách giải thích niên lịch của đức Phật, không những tính theo mặt trời, mặt trăng mà còn theo các hành tinh. Nét nhận xét được rõ là niên lịch Phật giáo có khuynh hướng theo âm lịch nặng hơn, chứng cớ là đức Phật đã dùng thêm ngày trăng tròn (addhamassa) giữa tháng, cắt tháng ra làm hai đoạn, và như vậy đơn vị thời gian từ ngắn đến dài sẽ là : ngày, nửa tháng, mùa, năm.
Vào thời kỳ nguyên thủy, đạo Phật chú trọng nhất là việc tổ chức đời sống tăng già, và mục đích thiết thực của niên lịch là để lập thời khóa biểu áp dụng cho tăng chúng trong cộng đồng. Ngày chia làm hai đơn vị : sáng và đêm (ratindival), cốt để định thời khắc hai bữa ăn của người tu sĩ. Nhưng theo quy ước chung áp dụng ngoài đời, hai đơn vị sáng và đêm phải nhập làm một để gọi là ngày. Phân tích hơn nữa, ngày sáng chia làm ba đoạn (ta cứ gọi là khắc), và đêm tối chia làm ba canh (yama). Khi trời âm u thì lấy sao Kim tinh là chuẩn hiệu. Ðêm bắt đầu từ khi hết thấy mặt trời. Trên thực tế, chỉ trừ thời khắc giữa trưa (đúng ngọ), để quy định giới hạn bữa ăn của người xuất gia, ý niệm thời gian trong ngày được áp dụng khá lơi lỏng. Trong các chùa Nguyên thủy, từ xa xưa cho đến bây giờ, người ta vẫn lấy thời khóa biểu của đức Phật làm mẫu mực. Sáng bắt đầu ngày mới, đức Phật tắm gội, choàng áo và cầm bình bát đi khất thực ; gần trưa về chia bữa ăn với đệ tử ; buổi chiều ở trong tịnh xá thiền định và làm việc.
Giờ quan trọng nhất trong ngày là lúc giữa trưa (ta gọi là ngọ ; văn tự Pali majjhanha), được đánh dấu bằng cách đo ngón tay, bóng ngả về phía hữu một đốt và quay sang phía tả một đốt. Vì lẽ đó mà ngày có ba khắc : buổi sáng, giờ ngọ, và buổi chiều (aruna, majjhanha, sayamha). Ðức Phật còn dùng một đơn vị lớn hơn ngày gọi là tuần (sattaha), mà trước đó, trong kinh Vệ đà không bao giờ nói tới. Sahatta không có ngĩa là tuần lễ bảy ngày như ta quan niệm ngày nay, mà bất cứ số lượng bảy ngày nào góp chung lại với nhau trong lịch trình sinh hoạt tăng già thời nguyên thủy.
Tháng tính làm hai đơn vị : đơn vị một bắt đầu từ ngày trăng tròn, đơn vị hai bắt đầu từ ngày không trăng. Lúc đức Phật còn tại thế, khi cộng đồng tăng già đã phát triển mạnh trên lưu vực sông Hằng hà, hai ngày đầu kỳ bán nguyệt là hai buổi lễ lớn của cộng đồng. Tăng già sống trong viện hay đi hoạt động ở ngoài đến hai ngày đó phải tựu họp để đọc bổn Luật Kinh Patimoka (tức là bổn liệt kê 227 điều luật của người xuất gia; về sau môn phái Ðại thừa tăng lên 250 điều luật, môn phái Tây Tạng 253 điều).
Ðến bây giờ, trong các chùa ở Thái Lan, Miến Ðiện, Tích Lan, theo Phật giáo Nguyên thủy thuần túy, luật lệ này vẫn thông dụng.
Trong cộng đồng tăng già thời nguyên thủy, năm được chia làm bốn mùa. Ba mùa chánh : mùa nắng (ginshal) , mùa mưa (vassa) và mùa gió (hemanta) ; mỗi mùa kéo dài bốn tháng. Cuối mùa mưa lấy một tháng, gọi là tháng Serada làm một mùa tương đương với mùa Thu của ta bây giờ. Tại Ấn Ðộ, vào mùa serada, "khí trời rất trong sáng nên mặt trời hiện rõ, đừng nhìn lên trời mà hại mắt" (Trường bộ kinh, Dighanikaya).
Dưới thời đức Phật, cách thức phân chia ba mùa không nhất định, tùy theo hoàn cảnh trong năm, nhưng nói chung, mùa gió lạnh Hemanta đi trước đầu năm, kế theo là mùa nắng gimha, và mùa mưa vassa. Vassa kể như là mùa quan trọng nhất vì tu sĩ "vào hạ" lúc này. Vào hạ là biến cố quan trọng nhất trong năm, trong đời sống người đi tu, mọi chi tiết đều được định rõ trong Luật Kinh Vinaya. Ðể điều chỉnh thời gian luân chuyển so le giữa mặt trăng và mặt trời, tháng nhuận thường để vào đầu mùa mưa vassa và do chính đức Phật quyết định và công bố (về sau, do hệ thống chỉ đạo của tăng già).
Trong Luật kinh (Pali tạng) cũng ghi rõ là đức Phật đến thành Vesali, nằm trên vĩ tuyến 26 (tương đương ở xứ ta vào vùng trên Cao Bắc Lạng, rất lạnh) sống vào những tuần lễ giá lạnh nhất trong năm hầu thí nghiệm xem người tu sĩ cần bao nhiêu y phục vào mùa lạnh, để phán vào Luật kinh.
Ngoài các đơn vị tháng, mùa, năm, đức Phật cũng đã nói đến các đơn vị thời gian dài hơn như thập niên vassa dasa (mười năm), thế kỷ vassa satam (trăm năm). Vassa satam tượng trưng đời sống của một kiếp người, như dân gian ta thường nói "trăm năm trong cõi người ta", hay "ba vạn sáu nghìn ngày". Sau thế kỷ, nhà Phật dùng một đơn vị gọi là Kapa (Anh : Aeon ; Pháp : eon), chi thiên thiên, vạn vạn niên, một số lượng vĩ đại ngoài sức đếm. Ví dụ một hôm có người đệ tử hỏi đức Phật là Kapa dài bao nhiêu năm, Ngài trả lời (luôn luôn đức Phật trả lời bằng tỉ dụ và so sánh) : "Nếu bây giờ ta có một khối núi đá mỗi bề dài bốn trượng, không chỗ nào sứt mẻ. Và nếu bây giờ cứ mỗi trăm năm có một người cầm tấm vải mềm đến chùi trên chóp khối đá. Ngọn núi kia sẽ tiêu mòn hết trước khi một Kapa chấm dứt". Ý đức Phật nói là Kapa chỉ định một thời gian dài vô tận. - một đoạn khác trong kinh, đức Phật cũng nói là mỗi Kapa có thể tạo ra một đức Phật, hàm ý là phải khổ công tu học lắm mới thành được chánh quả.
Bây giờ ta trở lại tìm hiểu các chi tiết nhỏ của thời gian dùng trong giáo lý đức Phật. Ngày chia ra làm đơn vị nhỏ. Trong Tăng chi bộ kinh (đã dẫn) có đoạn : "Như nước trong nguồn chảy quanh co, lôi kéo tất cả theo giòng, không bao giờ ngừng một lúc (khana), hoặc một khắc (layo) hoặc một giây (muhutto), và đấy cũng là đời sống con người". Thầy Huyền Trang sang Ấn Ðộ thỉnh kinh hồi thế kỷ thứ 7, đã giải thích rõ ràng ý niệm thời gian nhỏ dùng trong đạo Phật : "Ðơn vị thời gian nhỏ nhất (trong kinh) gọi là t'sana (còn viết là Kshana)=sát na ; 120 sát na làm thành một đại sát na (tak shana) ; 60 đại sát na làm thành một la fo (lava) ; 30 lava làm thành một muhurta ; năm muhurta làm thành một kala và sáu kala làm thành một ngày".
Ta mặc nhiên đồng ý là các chi tiết vừa kể trên ngày nay chỉ còn giá trị lịch sử. Ta thử tìm hiểu các điểm thiết thực hơn, như ngày đầu tháng, tháng đầu năm... để ăn Tết !
Tháng bắt đầu ngày nào ? Như trên đã nói, Phật lịch thiên về mặt trăng, và trong hai bán nguyệt (một, bắt đầu từ ngày không trăng ; hai, bắt đầu từ ngày trăng tròn), thường vẫn kể bán nguyệt bắt đầu với đêm trời tối đi trước. Như vậy là tháng bắt đầu với ngày không trăng, tương đương với ngày mồng một âm lịch của chúng ta vẫn tính thời bây giờ.
Câu hỏi thứ hai là năm bắt đầu với tháng nào ? Ý niệm tháng là một phần cấu tạo của mùa thường được nhắc trong kinh, như "tháng đầu mùa lạnh", "tháng cuối mùa mưa". Cũng có chỗ trong kinh nhắc đến tên tháng như tháng Asahi, tháng Kattika, nhưng không hề chỉ định một tháng đầu năm. Bà Rhys Davids dẫn chứng một đoạn kinh Samannaphala Sutta nói về vua Ajattasatu, đương thời với đức Phật, và giải thích là ngày đó, người ta dùng tháng Savana (giữa tháng 6 qua giữa tháng 7 dương lịch ngày nay) làm tháng đầu năm. Nhiều cuộc biên khảo mới sau này chứng minh là bà Rhys Davids nhầm. Trong một bổn Luận Kinh Aghidhanapitaka chép vào thế kỷ thứ 13 tại Tích Lan, người ta tìm được bổn danh sách hoàn hảo đủ 12 tháng niên lịch Phật. Năm chia làm 12 tháng, bắt đầu là tháng Citta (giữa tháng 2 qua đến giữa tháng 3), và tháng quen thuộc với chúng ta là tháng Visakha (giữa tháng 3 tới giữa tháng 4). Ðại hội Kiết tập Phật giáo thế giới lần thứ sáu họp tại Miến Ðiện năm 1954 lấy ngày trăng tròn tháng Visakha làm ngày lễ long trọng nhất của đạo Phật, kỷ niệm vào một ngày ba lễ lớn : Thích Ca đản sanh, Thích Ca thành đạo và Thích Ca nhập niết bàn. Ngày nay hầu hết các cộng đồng Phật giáo trên trái đất đều thuận hiệp với quyết định trên.
Như vậy, ta buộc phải nhìn nhận là trong thời kỳ nguyên thủy, đạo Phật chỉ chú trọng vào lề lối tu hành, và không để ý tới những điều trong đời sống như hội hè đình đám. Các tục lệ truyền thống (đối với chúng ta ngày nay) như đi chùa hái lộc, như lễ Phật đêm Giao thừa và ngày Tết, hầu như không có ý nghĩa thích nghi với giáo lý. Có thể như vậy được chăng ?
- trên, tìm hiểu lịch Phật, ta phải sưu tầm kinh điển ; bây giờ muốn trả lời thỏa đáng câu hỏi vừa đặt ra, ta phải tạm gác kinh điển và nhìn vào lịch sử văn hóa. Năm 1939, để kỷ niệm 300 năm thành lập Viện Ðại học Harvard, giáo sư Hồ Thích, là người được xem như là lý thuyết gia của cuộc cách mệnh tam dân Trung Hoa, được mời đến đọc một bài diễn văn gợi ý cho giới trí thức, nhan đề là "Nước Ấn Ðộ chinh phục Trung Hoa". Ngày đó, vừa sáng chói nền văn minh vật chất Tây phương, và nước Tàu đang bị chìm đắm trong quên lãng, đang bị hiếp đáp đủ bề từ tinh thần đến vật chất. Bác sĩ Hồ Thích là người có tư tưởng hướng về phát triển, đóng khung trong những nguyên tắc tu, tề, trị, bình. Ông phân tích các lý do chậm tiến của người Trung Hoa : đáng lẽ xã hội Trung Hoa phải ngời sáng vì trào lưu phát triển mới đang dựa vào cơ khí kỹ thuật, mà cá tính Trung Hoa chính lại là thiên về hiện thực, thuận tiện cho phát triển. Và ông nêu lên những điểm mâu thuẫn giữa đạo Phật chuộng xuất thế, xa những mối vương lụy với cuộc đời, với thực chất phát triển là đời sống hiện thực. May thay cho xã hội Trung Hoa sau một nghìn năm cực thịnh lúc đạo Phật mới du nhập Trung Hoa, sang đời Tống các tư tưởng và sinh hoạt truyền thống của Trung Hoa lại thắng thế. Người Trung Hoa đã chấp nhận nhiệt thành, nhưng cũng quật cường biến đổi đạo Phật thành một tôn giáo thích hợp với đời sống của người Trung Hoa hơn.
Bốn mươi năm sau, cũng tại một trung tâm Ðại học lớn ở Hoa Kỳ, đại học Yale, một nhóm học giả do giáo sư Kenneth Chen dẫn đầu đã trở lại đề tài này với một nhãn quan mới lạ hơn. Thay vì quan niệm như Bác sĩ Hồ Thích là đạo Phật từ Ấn Ðộ đã chinh phục Trung Hoa ("The Indianization of China by Buddhism"), nhóm tư tưởng gia mới đặt vấn đề sát với sự thật hơn là "Trung Hoa đã biến đổi đạo Phật" ("The Chinese Transformation of Buddhism"). Ðạo Phật, như một hạt giống mầu nhiệm, đi vào Trung Hoa là một môi sinh vừa súc tích vừa hãm hại. Súc tích vô cùng, làm nẩy nở đạo của Thích Ca trên một nửa địa cầu và nhân loại ngày đó ; đồng thời cũng hãm hại vì đạo của Thích Ca đã phải thay đổi nhiều trong giáo lý căn bản để tập quán và phát triển tại Trung Hoa và các nước láng giềng Trung Hoa, như Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam...
Bởi lẽ đó mà tại các quốc gia theo Phật giáo Ðại thừa của Trung Hoa, nét phân biệt giữa nếp sống xã hội và các sinh hoạt thuần túy tôn giáo bị xóa nhòa, và ngày Tết đồng hóa với một ngày lễ Phật. Tại Trung Hoa và Việt Nam lại còn có một truyền thống đã lâu đời (trước đời Ðường, thế kỷ thứ 7) là trong dịp Tết lại làm lễ Phật Thượng nguyên vào ngày rằm tháng Giêng. Thượng nguyên là một ngày lễ Phật lớn, "lễ Phật quanh năm không bằng ngày rằm tháng Giêng", tiếp theo mấy ngày Tết. Ngày trước bên Trung Hoa, lễ này còn gọi là "Hội Hoa đăng", kéo dài ba ngày từ 14 đến 16 tháng giêng. Tại chùa và trong mỗi gia cư đều thắp đèn và dân chúng cầm đèn đi lại suốt đêm. Giáo sư Kenneth Chen, dẫn sách "Ðường lục điểm" kể lại là ngày đó, dưới đời Ðường, các chùa rất giàu có nên cấp dầu cho mỗi gia cư để làm hội đèn, vui lễ Phật.
Như vậy, nhờ các buổi lễ Phật như ngày Tết Nguyên đán và Hội Hoa đăng mà lễ Phật không còn riêng của những người trong tăng chúng, những người "đi tu tại gia" mà là của đại chúng. Người ở địa vị cao sang, kẻ bần cùng ; người giàu kẻ khó ; người thuộc quý tộc, kẻ trong tăng giới và đám dân gian đại chúng, tất cả hòa đồng vào ý niệm đoàn kết và hỗ trợ, chung một lòng tin.
Ngày xưa tại Trung Hoa, lễ lạc được thiết nghi phù hợp với nếp sống của từng giai cấp xã hội. Các buổi lễ cúng tế theo đạo Khổng trong miếu đường, ngoài phủ thất rất nhiều nghi vệ và đầy chi tiết phiền toái, đám dân gian không hiểu nổi. Mặt khác, các buổi lễ theo đạo Lão, sau sinh thời của Lão Tử đã biến thành tà thuật, bùa phép chỉ gây thêm sợ hãi cho đám bình dân. Chỉ có lễ Phật trong tinh thần hỷ xả, an vui là thích hợp với nhu cầu hướng thiện, hướng lạc của đại chúng. Vì lẽ đó mà ta hiểu được là Tết Nguyên đán, từ lâu đã được người Việt Nam ta xem như là một ngày lễ có nhiều tính cách Phật giáo.
Nguyễn Phúc Bửu Tập

Người Mông đón Tết Nguyên đán


Người Mông đón Tết Nguyên đán


Dân trí) - Mây trắng giăng phủ núi rừng, tiết trời giá lạnh là đặc trưng của xã vùng cao biên giới nhưng không làm giảm không khí náo nhiệt, vui tươi của bà con đồng bào Mông xã Nậm Cắn (huyện Kỳ Sơn, Nghệ An) phấn chấn đón Tết Nguyên đán.

Ông Lầu Giống Dìa làm lễ cúng vía bên bàn thời gia đình.
Ông Lầu Giống Dìa làm lễ cúng vía bên bàn thời gia đình.
 Ông Lầu Giống Dìa làm lễ cúng vía bên bàn thời gia đình.
 
Tạm gác bộn bề công việc nương rẫy, trai gái xúng xích trong trang phục truyền thống trẩy hội vui xuân. Ngày Tết cũng là dịp để con cháu, anh em họ hàng sum họp, gặp gỡ cùng chúc nhau một năm mới an lành, mùa màng bội thu…
 
Gia đình ông Ông Lầu Giống Dìa, già làng ở ở bản Trường Sơn (xã Nậm Cắn, huyện Kỳ Sơn) năm nay đón Tết vui lắm. Lúa, khoai, ngô, gừng gia đình ông trồng trên rẫy được mùa nên năm nay cả nhà đón Tết no đủ hơn. Ngày đầu năm mới gia đình ông Lầu Giống Dìa lúc nào cũng tấp nập người ra vào, bà con trong bản đến chung vui mừng năm mới. Địa bàn biên giới nên thời tiết ở Nậm Cắn lúc nào nhiệt độ thấp hơn những vùng khác nên mùa đông nhà nào cũng nhóm bếp lửa sưởi ấm trong nhà.
 
Ngồi quay quần bên bếp lửa, mọi người cùng nhìn lại một năm qua đã làm được gì và những gì chưa đạt, dự tính trong một năm mới. Tết của người Mông mang đậm bản sắc của bản làng vùng cao. Bên bếp lửa hồng, ông Lầu Giống Dìa chia sẻ với chúng tôi: “Trước đây người Mông ở huyện Kỳ Sơn đón tết riêng, nhưng từ khi thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước, vận động người Mông ăn tết cùng với Tết cổ truyền của cả nước, thời gian ăn tết cũng được rút ngắn hơn. Tuy nhiên, không vì thế mà nhiều nét riêng độc đáo của đồng bào Mông bị mất đi”.
  
Sau khi làm lễ tế, con gà được đem cắt tiết.
Sau khi làm lễ tế, con gà được đem cắt tiết.
 
và lấy những giọt máu làm vía cửa vào nhà.
và lấy những giọt máu làm vía cửa vào nhà.
Sáng 30 Tết cả dòng họ đều tập trung làm cây “nêu’’(theo tiếng Mông gọi là Gô Cay) để làm lễ giải xui xua đi những điều không may mắn, cầu mong những điều tốt lành sẽ đến trong năm mới. Ngày tết, người Mông không gói bánh chưng, bánh giày mà gói bánh Mông (bánh đặc trưng của đồng bào Mông). Thứ bánh được làm bằng nếp nương. Nếp được hông chín, sau đó thanh niên trai tráng giã nhuyễn rồi đem gói vào lá dong. Bánh có thể để được hàng tháng trời, khi ăn có thể đem hấp nướng hoặc rán lại. Với người Mông ở Nậm Cắn (Kỳ Sơn) bánh Mông là thứ hết sức có ý nghĩa nó tượng trưng cho mặt trăng, mặt trời, nguồn gốc sinh ra vũ trụ và loài người.
Bàn thờ của người Mông ở Nậm Cắn được đặt giữa gian thứ 2 của nhà và bày biện đơn sơ. Đêm giao thừa mỗi gia đình thường chuẩn bị 3 con gà. Hai con gà được dùng để làm vía, một con được dùng để cúng tổ tiên. Trước khi làm thịt gà, thầy cúng làm lễ với trứng gà. Số lượng trứng gà thường bằng số người trong gia đình cộng thêm 3 quả để gọi hồn vía của tổ tiên, gia súc gia cầm và hồn vía hoa màu về ăn tết.
Sau khi gà được luộc chín, thầy cúng lại làm lễ một lần nữa. Phần lễ cúng được tiến hành rất bài bản. Người Mông quan niệm rằng 3 con gà được cúng sẽ bảo vệ cho gia đình họ suốt năm. Bên cạnh bàn thờ họ cũng đặt các dụng cụ sản xuất thường dùng trong năm cũ như quốc, cào, liềm…. Lễ cúng năm mới được giao cho người đàn ông trụ cột trong gia đình.Sau khi cúng xong mâm cỗ được hạ xuống để cả nhà sum vầy chung vui.
 Biểu diễn khèn Mông không thể thiếu mỗi khi Tết đến xuân về.
 Biểu diễn khèn Mông không thể thiếu mỗi khi Tết đến xuân về.
 
 Hay như trò chơi ném pao.
 Hay như trò chơi ném pao.
Trong 3 ngày đầu của năm mới người Mông ở Nậm Cắn- Kỳ Sơn thường kiêng không giết thịt gia súc gia cầm và không tiêu tiền, họ quan niệm tiêu tiền trong những ngày đầu năm mới cả năm sẽ không giữ được tiền. Ông Lầu Giống Dìa cho chúng tôi biết thêm về ý nghĩa của mâm cỗ ngày tết: “Tết đến người Mông ở Nậm Cắn- Kỳ Sơn thường làm thịt 3 con gà để cúng, làm lễ cúng là mong cho một năm sung túc, mời gọi tổ tiên về ăn tết, mong cho năm sau nhiều vật nuôi hơn, hoa màu tươi tốt hơn”.
Sáng mồng một Tết, các già làng và chức sắc trong bản sẽ đến từng gia đình chúc tết. Nam thanh nữ tú thì kéo nhau ra sân tụ họp. Đám đứng tán chuyện, đám chơi ném po po. Lũ trẻ con thì chơi kéo co đẩy gậy. Đây là dịp để nam nữ thanh niên tìm hiểu nhau. Những cô gái Mông xúng xính trong bộ váy sặc sỡ đủ màu, e ấp đôi má ửng hồng như đóa hoa rừng mới nở.
 
Không khí xuân rộn ràng với một hương sắc thật riêng của núi rừng. Hòa chung với niềm vui đón tết của bà con người mông, Anh Lầu Bá Chày - Bí thư xã Nậm Cắn phấn khởi cho biết: “Từ khi đón Tết Nguyên đán cùng người dưới xuôi thì tết vui hơn vì có các phương tiện truyền thông đại chúng đưa tin, rất sôi nổi. Tết đến các cấp ủy chính quyền cũng quan tâm, tặng quà cho các gia đình chính sách, hộ nghèo để họ có thể đón tết đầy đủ”.
Những bếp lửa cùng nồi bánh được đun lên để ấm cúng cùng mọi người.
Những bếp lửa cùng nồi bánh được đun lên để ấm cúng cùng mọi người.
Chúng tôi, ghé thăm gia đình anh Lầu Bá Rê ở bản Trường Sơn, có khách quý đến chơi, gia đình anh làm cơm mời khách theo phong tục đón năm mới của người Mông. Bên chén rượu thắm nồng tình nghĩa ngày xuân, niềm vui no ấm lại càng được nhân lên như bếp lửa hồng luôn cháy đỏ trong mỗi căn nhà của người Mông ở Nậm Cắn.
Cùng với gia đình Lầu Bá Rê, nhiều gia đình ở Nậm Cắn đã thoát nghèo nhờ biết biết ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, chăn nuôi theo phương thức mới, có thu nhập hàng chục triệu đồng mỗi năm. Trong niềm vui hân hoan đón chào năm mới, ông Hờ Giống Nhìa- Chủ chủ tịch UBND xã Nậm Cắn cho biết: “Mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng bằng sự đóng góp công sức của nhân dân, nhiều công trình an sinh xã hội phục vụ nhân dân ở Nậm Cắn ngày càng khang trang, hiện đại hơn.
Bên cạnh đó, từ nguồn vốn đầu tư của Nhà nước và huy động công sức của nhân dân, xã đã hoàn thành và đưa vào sử dụng đường giao thông từ trung tâm xã đến hai bản Huồi Pốc và Pà Ca với tổng chiều dài 13 km. Cùng với đó, lưới điện hạ thế cũng được đầu tư xây dựng cho một số bản trong xã. Đến thời điểm này đã có trên 60% hộ gia đình có điện thắp sáng. Không chỉ phục vụ sản xuất, điện về còn giúp bà con mở mang tầm nhìn, tiếp cận nhiều cách làm ăn mới thông qua xem truyền hình, nghe đài... Bà con đón cái Tết đầm ấm, vui tươi hơn”.
Ở Nặm Cắn, phát triển KT-XH còn gắn với nhiệm vụ bảo vệ an ninh biên giới quốc gia. Nậm Cắn có đường biên giới dài 17km giáp với huyện Noọng Hét, tỉnh Xiêng Khoảng CHDCND Làocó cửa khẩu quốc tế Nậm Cắn đóng trên địa bàn. Hàng năm, lưu lượng khách và hàng hóa xuất nhập, quá cảnh khá nhiều; các đối tượng buôn lậu, buôn bán hàng giả, gian lận thương mại... lợi dụng sơ hở để hoạt động thu lợi bất chính.
Những bếp lửa cùng nồi bánh được đun lên để ấm cúng cùng mọi người.
Bánh Mông là thứ hết sức có ý nghĩa nó tượng trưng cho mặt trăng, mặt trời, nguồn gốc sinh ra vũ trụ và loài người.
 
Ngày Tết người Mông quay quần bên mâm cơm đầm ấm.
Ngày Tết người Mông quay quần bên mâm cơm đầm ấm.
 
Chính vì vậy, công tác gìn giữ an ninh trật tự, bảo vệ an ninh biên giới được chính quyền địa phương hết sức quan tâm. Là một xã biên giới trọng điểm về kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, với sự phấn đấu nỗ lực của Đảng bộ và nhân dân, sự quan tâm chỉ đạo của lãnh đạo các cấp từ huyện đến tỉnh, Nậm Cắn trở thành điểm sáng vùng biên của huyện biên giới Kỳ Sơn.
Dù cuộc sống còn nhiều khó khăn, nhưng trong mấy ngày Tết đến xuân về, người Mông ở Nậm Cắn huyện Kỳ Sơn gác lại mọi bồn bề, lo toan. Họ vui chơi thoải mái để chuẩn bị tinh thần cho một năm lao động mới. Tết ở miền xuôi đang ngày càng mất đi hương sắc cổ xưa thì ngược lên vùng đồng bào Mông người ta vẫn cảm nhận được một cái tết đơn sơ mà ấm cúng với những nét truyền thống bao đời được đồng bào lưu giữ.
Một mùa xuân mới đã về. Sắc xuân đang ngập tràn khắp mọi nẻo trên vùng biên cương của Tổ quốc. Và trên các bản làng ở xã vùng biên Nậm Cắn - Kỳ Sơn, mùa xuân năm nay sẽ càng ấm áp hơn, yên vui hơn với những thành quả mà người dân nơi đây đã nỗ lực giành được.
Cùng với sự đoàn kết, vươn lên vượt mọi khó khăn, thách thức, đời sống đồng bào các dân tộc miền biên giới này sẽ ngày càng ổn định, góp phần bảo vệ vững chắc từng tấc đất chủ quyền an ninh biên giới quốc gia.
Nguyễn Phê - Lê Thanh

NGUỒN GỐC TẾT NGUYÊN ĐÁN VÀ NHỮNG ĐIỀU KIÊNG KỴ

NGUỒN GỐC TẾT NGUYÊN ĐÁN VÀ NHỮNG ĐIỀU KIÊNG KỴ
Trong một năm Việt Nam có rất nhiều lễ Tết, ứng với tiết trời và mùa vụ khác nhau, nhưng lớn nhất, trọng đại nhất vẫn là Tết Nguyên đán.
Cái Tết bắt đầu cho năm mới, hy vọng về mọi sự may mắn tốt lành của mùa xuân nảy lộc đâm chồi, đồng thời cũng bỏ lại tất cả những rủi ro, đen đủi của năm cũ.
 Lẽ trời đất có thuỷ phải có chung, có bắt đầu thì phải có kết thúc, cho nên trong Tết Nguyên đán, đón lễ Giao thừa chính là thời khắc thiêng liêng nhất, giao lại cái cũ, đón nhận cái mới.
Vì vậy lễ Giao thừa còn gọi là Lễ Trừ tịch. Tết Nguyên đán của ta tiến hành vào phút cuối cùng của năm cũ, phút đầu tiên bước sang năm mới, tức là giữa giờ Hợi ngày 30 hoặc nếu tháng thiếu thì ngày 29 tháng Chạp năm trước và Giờ Tý ngày mùng 1 tháng Giêng năm sau.
Mâm cỗ của ngày tết
Xưa kia, ở các triều đại phong kiến, ông vua nào cũng tự xưng mình là “Thiên tử” (con trời) thay trời trị dân. Vì thế vua nào tối tăm, hôn ám, trời sẽ gieo tai hoạ để trừng trị.
Điều này đã được ghi rõ trong những bộ Chính sử của Nhà nước phong kiến để giải thích những hiện tượng như sao Chổi (điềm chiến tranh), mất mùa, lụt lội… Và tất nhiên các ông Vua đều phải trai giới lập đàn sám hối…
Cũng với quan niệm trên, người xưa cho rằng trên thiên đình có 12 vị Đại vương hành khiển, mỗi người phụ trách một năm, hết một giáp tức 12 năm lại trở lại từ đầu, vì vậy các vị Đại vương này còn được gọi là Đương niên chi thần.
Trách nhiệm của mỗi vị là theo dõi nhân gian trong cả năm, xem xét việc hay, dở của từng người, từng gia đình, từng địa phương trong cả nước để định công, luận tội, tâu lên Thượng đế.
Mỗi vị hành khiển có một vị phán quan giúp việc ghi chép sổ sách cho rành mạch. Lễ giao thừa ngoài ý nghĩa “tiễn năm cũ đón năm mới” còn là lễ tiễn Đại vương hành khiển cũ và đón vị Đại vương mới, cho nên nghi thức lễ giao thừa vừa linh thiêng vừa trọng đại. Lễ được làm ở đình làng, ở thôn xóm, ở nhà thờ họ và mỗi gia đình.
Hiện trong thư tịch Hán nôm còn lưu lại khá nhiều bài văn khấn trong lễ giao thừa ngoài phần niên tuế, tính danh chủ lễ, địa chỉ… Cuối cùng bao giờ cũng phải vọng bái.
- Đương niên đương cảnh Đại vương hành khiển
- Lâm tào phán quan
- Bản địa Thổ địa thần kỳ
- Bản cảnh Thành Hoàng
Sở dĩ phải khấn như trên bởi khi đức Đại Vương hành khiển đại diện cho Thượng đế đã giáng trần thì Thổ thần và Thành Hoàng phải nghênh tiếp, do đó cũng được phối hưởng.
Chắc chắn quan niệm “Thiên địa vạn vật nhất thể” hay “Thiên nhân tương dữ” trong dân gian chẳng mấy ai để tâm nghiên cứu hay tìm hiểu về “lý nọ”, “sự kia”, mà người ta làm theo lệ tục từ một lẽ rất đơn giản: "Có thờ có thiêng, có kiêng có lành”. Ở đây chúng tôi muốn đề cập đến một số kiêng kị trong Tết Nguyên đán xưa.
Kiêng quét nhà trong 3 ngày Tết
Họ sợ rằng sẽ quét hết vận đỏ đi. Vì thế ai cũng quét dọn nhà cửa, vườn tược, bao sái đồ thờ tự trước lúc giao thừa. Ở Nam Bộ sau khi quét dọn phải cất hết chổi, nếu trong ngày Tết bị mất chổi có nghĩa là năm đó nhà sẽ bị trộm quét sạch của cải.
Ở nông thôn ngày Tết nhà nào cũng rắc vôi bột ở bốn góc vườn, rồi vẽ mũi tên hướng ra cổng để xua đuổi ma quỷ, hung thần bốn phương kéo đến gieo tai hoạ. Còn thành thị thường hay treo “quả bùa gỗ” để trấn ma quỷ.
Tranh Tết
Kiêng không treo những tranh “xui xẻo” như đánh ghen, kiện tụng mà phải tìm bằng được những tranh lợn, gà, cậu bé, vinh hoa phú quý… hy vọng năm mới sẽ có nhiều điều tốt lành, trâu bò chật ních, thóc lúa đầy bồ. Ngày Tết nhà nào cũng có lọ hoa, tuỳ theo gia cảnh mà trang trí bày biện.
Ở nông thôn thì phần nhiều là những cành hoa giấy, hoa lông gà lông vịt màu sắc rực rỡ mua ở những phiên chợ Tết hàng tổng, hàng huyện.
Song ở thành thị nhiều nhà cầu kì và kĩ tính, kén chọn những cành đào bích không những đầy hoa mà còn phải có nhiều nụ, nhiều lộc. Hoặc những cây sung thế lúc lỉu quả.
Hình như trong sâu thẳm đáy lòng ta vẫn tin vào một sự huyền bí, siêu nhiên nào đó sẽ đáp ứng được mong mỏi và nguyện vọng của mỗi người.
Xông nhà
Xông nhà ngày Tết là một việc hết sức trọng đại vì thế hầu như nhà nào cũng kiêng kị rất cẩn thận. Bởi nếu không những điều xấu sẽ vận vào bản thân, gia đình mình. Vì sợ “dông” nên phải chọn người xông nhà, tuổi tính theo hàng can không xung với năm đó và không xung tuổi với chủ nhà.
Người ta thường chọn những người gia cảnh song toàn, con cháu đông đàn dài lũ, làm ăn thịnh vượng, vì thế mới có lệ “hẹn trước”, mời đến xông nhà.
Người Nam Bộ còn có thói quen chọn người có tên đẹp như Phúc, Lộc, Thọ, Tài, Lợi… mời đến xông nhà để cả năm sẽ thuận lợi, may mắn.
Thật không may cho nhà ai bị những người nặng vía xông nhà, hoặc mùng một Tết có người đến nhà xin lửa, xin nước. Thường thì trước khi bước sang năm mới ở nông thôn nhà nào cũng lo đổ đầy nước vào bể, vào chum hoặc vại.
Từ trong tâm thức người ta tin rằng năm mới đến sẽ đem theo của cải nhiều như nước. Chẳng thế mà sáng mùng một Tết rất nhiều nhà, nhất là ở phố phường xưa kia hay thuê người gánh nước đến. Họ được mừng tuổi đôi ba hào, thế là cả chủ nhà lẫn người quẩy thuê cả năm sẽ đều may mắn.
Một điều nữa cần nói đến là trong ngày Tết mọi người đặc biệt quan tâm đến cách ứng xử với hàng xóm láng giềng, bạn bè và những người trong gia đình.
Ai cũng tỏ ra vui vẻ, hồ hởi, thân tình trong không khí ấm áp của mùa xuân. Ai cũng ngại và sợ to tiếng hoặc xô xát thì quanh năm sẽ bị dông. Giá như điều kiêng kị này cứ giữ được trong cả năm thì hay biết bao.