MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỔI MỚI KINH TẾ VÀ ĐỔI
MỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
PGS, TS NGUYỄN VIẾT THẢO
Quan hệ giữa đổi
mới kinh tế và đổi mới hệ thống chính trị là biểu hiện của mối quan hệ giữa hai
lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội, đó là lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực chính
trị; liên quan mật thiết đến mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng; giữa cái khách quan và cái chủ quan; giữa cái tất yếu và cái có thể... Về
mặt lịch sử - thực tiễn, do xử lý không đúng mối quan hệ này, nên cải tổ, cải
cách đã đẩy Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu từ khủng hoảng tới
rối loạn và thất bại vào cuối thế kỷ XX. Do vậy, nhất thiết phải nắm vững biện
chứng giữa kinh tế và chính trị, nâng cao trình độ tư duy lý luận; đồng thời,
phải sâu sát thực tiễn, biết phân tích cụ thể từng tình hình cụ thể mà công
cuộc đổi mới, phát triển đất nước tạo ra.(*)
Phép biện chứng duy vật do C. Mác, Ph.
Ăngghen và V.I. Lênin xây dựng đã vạch rõ rằng, kinh tế là yếu tố quyết định
cuối cùng đối với chính trị và chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, là
kinh tế cô đọng lại. Trong mỗi thời đại lịch sử, sự vận động của các chế độ
chính trị - xã hội, suy cho cùng, đều phụ thuộc vào sự vận động của chế độ kinh
tế - xã hội, trong đó phương thức sản xuất có vai trò, vị trí hàng đầu. Mặt
khác, các nhà kinh điển cũng sớm cảnh báo, điều đó hoàn toàn không có nghĩa
rằng kinh tế là nhân tố duy nhất chủ động, còn mọi thứ khác chỉ có tác dụng thụ
động. Chính trị, cũng như các nhân tố khác của thượng tầng kiến trúc và của ý
thức xã hội, có sự độc lập tương đối và tác động trở lại đối với kinh tế. Dưới
sự tác động của chính trị, kinh tế có thể được thúc đẩy, hoặc bị kìm hãm, hoặc
vừa được thúc đẩy, vừa bị kìm hãm.
Vai trò quyết định
của kinh tế là điều không thể bác bỏ, nhưng điều quan trọng hơn cần nhận thức
nhất quán lại là sự quyết định ấy không bao giờ diễn ra một cách trực tiếp, đơn
tuyến từ kinh tế đến chính trị; mà phải thông qua nhiều tầng nấc, nhiều khâu
trung gian (xã hội, văn hoá, tư tưởng...), phải thông qua hoạt động thực tiễn của
con người và bị khúc xạ nhiều lần. Như thực tế đã chứng minh, không phải ở đâu
có đa nguyên kinh tế là tất yếu có đa nguyên chính trị; không phải ở đâu có tự
do kinh tế là tự nhiên sẽ có nền chính trị dân chủ... Trên cơ sở tổng kết lịch
sử chính trị thế giới, Lênin đã kết luận một cách xác đáng rằng chính trị không
thể không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế; rằng chính trị bao giờ cũng
được ưu tiên hơn so với kinh tế.
Nội dung cơ bản của đổi mới kinh tế ở
nước ta là chuyển từ mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp
sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Quá trình chuyển dịch
này bao gồm hàng loạt thay đổi sâu rộng về cơ cấu thành phần kinh tế, chế độ và
hình thức sở hữu các tư liệu sản xuất, hình thức tổ chức và cơ chế quản lý kinh
tế. Mặc dù mang định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng nền kinh tế thị trường của
nước ta vẫn phải thể hiện đầy đủ bản chất và những đặc trưng chung của kinh tế
thị trường. Về bản chất, kinh tế thị trường là hệ quả tất yếu của trình độ xã hội
hoá các lực lượng sản xuất; là hệ thống các quan hệ kinh tế do nền sản xuất
hàng hoá tạo ra; là kiểu tổ chức nền sản xuất có “đầu vào” và “đầu ra” đều là
hàng hoá; là chuỗi sản xuất - kinh doanh trong đó các chủ thể kinh tế vừa độc
lập, vừa lệ thuộc lẫn nhau, cạnh tranh và hợp tác với nhau nhằm mục tiêu đạt
giá trị gia tăng ngày càng nhiều hơn. Có thể khái quát 5 đặc trưng chung của
kinh tế thị trường. Một là, các hoạt
động kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường, dưới sự chi phối của các quy
luật thị trường, trước hết là quy luật giá trị và quy luật cung cầu. Hai là, quan hệ giữa các chủ thể kinh tế
là quan hệ tiền tệ. Ba là, thị trường
trở thành căn cứ chủ yếu đề phân bố các nguồn lực kinh tế. Bốn là, giá trị gia tăng và lợi nhuận tối đa trở thành động lực bên
trong, trực tiếp chi phối hoạt động của các doanh nghiệp. Năm là, kinh tế thị trường là tự do hoá kinh tế, mở cửa và hội
nhập.
Nội dung cơ bản
của đổi mới chính trị ở nước ta là đổi mới tư duy lý luận và hoạt động thực
tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, trong đó trọng
tâm là đổi mới hệ thống chính trị. Nói đến hệ thống chính trị là nói đến quyền
lực chính trị, quyền lực nhà nước, đến bộ máy chính quyền và các thiết chế quản
lý xã hội. Đây là những vấn đề cơ bản, mang ý nghĩa sống còn đối với mọi cuộc
cách mạng, mọi chế độ xã hội. Vì vậy, đổi mới hệ thống chính trị vừa đòi hỏi sự
nhạy bén, theo kịp xu thế thời đại; vừa yêu cầu sự tỉnh táo, khôn khéo và, đặc
biệt, sự tuân thủ nghiêm ngặt các vấn đề có tính nguyên tắc. Với mục tiêu thực
hiện tốt hơn nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của
nhân dân, quá trình đổi mới hệ thống chính trị đã và đang được triển khai trên
các hướng chủ yếu. Một là, đổi mới
nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với xã hội nói chung và các thành
tố trong hệ thống chính trị nói riêng. Hai
là, đổi mới hoạt động lập pháp và giám sát tối cao của Quốc hội. Ba là, đổi mới tổ chức, bộ máy và phương
thức điều hành của Chính phủ, gắn với cải cách mạnh mẽ nền hành chính quốc gia.
Bốn là, đổi mới tổ chức và hoạt động
của các cơ quan tư pháp. Năm là, đổi
mới phương thức hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Đảng ta đã khởi đầu công cuộc đổi mới
bằng đổi mới toàn diện và sớm chú trọng giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa
đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Đại hội VII (1991) sớm xác định: “Về quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị, phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi
hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác, xây
dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, coi đó là điều kiện quan
trọng để tiến hành thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Đồng thời với
đổi mới kinh tế, phải từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ
thống chính trị, phát huy ngày càng tốt quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của
nhân dân trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Vì chính trị
đụng chạm đến các mối quan hệ đặc biệt phức tạp và nhạy cảm trong xã hội, nên
việc đổi mới trong hệ thống chính trị nhất thiết phải trên cơ sở nghiên cứu và
chuẩn bị rất nghiêm túc, không cho phép gây mất ổn định chính trị, dẫn đến sự
rối loạn. Nhưng không vì vậy mà tiến hành chậm trễ đổi mới hệ thống chính trị,
nhất là về tổ chức bộ máy và cán bộ, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các
đoàn thể nhân dân, bởi đó là điều kiện để thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội
và thực hiện dân chủ”(1).
Đại hội X (2006) có nhiệm vụ tổng kết
20 năm đổi mới. Với sự từng trải của đội tiền phong dẫn dắt đất nước, dân tộc
vượt qua khủng hoảng và nhiều thách thức lịch sử, Đảng ta khẳng định: “Đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có
bước đi, hình thức và cách làm phù hợp... Đổi mới tất cả các mặt của đời
sống xã hội nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm, có những bước đi thích hợp;
bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ và đồng bộ giữa ba nhiệm vụ: phát triển kinh tế là
trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt và phát triển văn hoá - nền tảng tinh
thần của xã hội”.(2)
Trong hơn 20 năm
đổi mới vừa qua, Đảng, Nhà nước đã xử lý thành công mối quan hệ giữa đổi mới
kinh tế và đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta trên ba vấn đề then chốt. Một
là, đã xây dựng, vận hành nền kinh tế thị trường phù hợp với điều kiện cụ
thể của đất nước và dân tộc. Hai là, đã xây dựng, vận hành nền kinh tế
thị trường phù hợp với chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa. Ba là, đã xác
lập hệ thống chính trị với mô hình, cơ cấu và cơ chế hoạt động phù hợp với nền
kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền và dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Xây
dựng, vận hành nền kinh tế thị trường phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước
và dân tộc là một đòi hỏi khách quan, có cơ sở lý luận và thực tiễn không thể
bác bỏ. Chỉ tính riêng kinh tế
thị trường tư bản chủ nghĩa, cũng đã có kinh tế thị trường tự do của Mỹ - Anh, kinh tế thị trường xã hội
của một số nước Tây Âu, kinh tế thị trường có kế hoạch của Nhật Bản, kinh tế
thị trường có sự kết hợp giữa quản lý tập trung cao của nhà nước với phát huy
vai trò điều tiết của thị trường do các NIC ở Đông Á áp dụng... Sở dĩ đã xuất
hiện nhiều mô hình kinh tế thị trường khác nhau là vì, cùng với những đặc trưng
chung, còn nhiều tính chất riêng, quyết định nội dung và phương thức vận động
của mỗi nền kinh tế thị trường. Các tính chất riêng gắn liền với các điều kiện
lịch sử, kinh tế, văn hoá, xã hội... của mỗi nước và đặc điểm, xu thế của thế
giới trong từng giai đoạn cụ thể. Cần nhấn mạnh một số điều kiện cụ thể sau:
Chế
độ sở hữu và cơ cấu các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất.
Đến nay, kinh tế thị trường đã được xây dựng và phát triển qua nhiều chế độ
kinh tế - xã hội khác nhau, cho nên đã thích ứng với sự đa dạng về chế độ sở
hữu và cơ cấu các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất. Trong cơ cấu đa dạng đó,
chế độ sở hữu nào có vị trí chủ thể và hình thức sở hữu nào có vai trò chủ đạo
sẽ quyết định mục đích, mô hình và con đường cho từng nền kinh tế thị trường.
Trên thực tế, sở hữu tư bản tư nhân, sở hữu tư bản tập thể, sở hữu tư bản nhà
nước... đã từng tạo ra các biến thể là kinh tế thị trường tự do và kinh tế thị
trường xã hội ngay trong lòng chủ nghĩa tư bản. Do vậy, với sự tồn tại sẵn của
chế độ công hữu gồm nhiều hình thức sở hữu do nhà nước và tập thể làm đại diện,
các quốc gia xã hội chủ nghĩa hoàn toàn có cơ sở khách quan để xây dựng một
kiểu kinh tế thị trường phù hợp với đặc điểm riêng.
Quy mô kinh tế - xã
hội và đặc điểm lịch sử của từng quốc gia. Mỗi nền kinh tế thị trường cụ thể bao
giờ cũng được gieo trồng trên một mảnh đất hiện thực của quốc gia- dân tộc. Quá
trình hình thành dân tộc Mỹ khác xa so với các quốc gia dân tộc châu Âu; lịch
sử hàng trăm năm yên bình của các nước Bắc Âu rất khác so với lịch sử Nhật Bản;
quy mô kinh tế - xã hội của các “con rồng” Đông Á không thể so sánh với các
cường quốc tư bản Âu - Mỹ, v.v... Các sự khác biệt này chi phối mạnh mẽ đến
tính chất của mỗi nền kinh tế thị trường, như thực tế đã thể hiện một cách sáng
tỏ.
Bản sắc văn hoá dân
tộc.
Dưới tác động của nhiều nhân tố, trong đó có đạo Tin lành, dân tộc Mỹ coi tự
do, tự chủ của con người cá nhân, hành động, hiệu quả và thịnh vượng là những
giá trị cao nhất. Các dân tộc châu Âu thì lại rất coi trọng công bằng, phúc lợi
xã hội và dân chủ. Ở Nhật Bản có truyền thống đề cao sự đồng thuận trên mọi cấp
độ gia đình, tập thể và xã hội. Những bản sắc văn hoá đó làm cho nền kinh tế
thị trường này không bị lẫn lộn với nền kinh tế thị trường khác.
Đặc điểm và xu thế của
thế giới.
Nền kinh tế thị trường nào cũng là một nền kinh tế mở cửa và hội nhập quốc tế.
Bởi vậy, nó chịu sự tác động trực tiếp và phổ biến của đặc điểm và xu thế thế
giới trong từng thời kỳ lịch sử. Ngày nay,
thế giới đang trở thành một chỉnh thể dưới tác động của xu thế toàn cầu
hoá; đang phải thực hiện mục tiêu phát triển bền vững như một mệnh lệnh của
thời đại; đang lấy hoà bình, hợp tác và phát triển làm chủ đề chung... Trong
bối cảnh thế giới đương đại, các quốc gia đi sau không cần trải qua tuần tự các
bước hình thành và phát triển của kinh tế thị trường hàng trăm năm qua; không
thể rập khuôn các mô hình kinh tế thị trường có sẵn, mà phải sáng tạo ra các mô
hình mới, đáp ứng đòi hỏi của hiện thực khách quan.
Xây
dựng, vận hành nền kinh tế thị trường phù hợp với chế độ chính trị xã hội chủ
nghĩa cũng là một đòi hỏi khách quan, phù hợp với chế độ chính trị và nguyện
vọng của đông đảo nhân dân Việt Nam. Toàn bộ lịch sử kinh tế thị trường trong
suốt hàng trăm năm qua chứng minh rằng bản
thân nền kinh tế này rất cần sự quản lý và điều tiết của nhà nước. Bàn tay vô
hình của cơ chế thị trường hoàn toàn không đủ để vận hành nền kinh tế thị
trường, mà phải có cả bàn tay hữu hình của bộ máy nhà nước do từng chế độ chính
trị, chế độ xã hội xây dựng nên. Mỗi nhà nước quản lý, điều tiết, vận hành nền
kinh tế thị trường theo mục tiêu, lợi ích của mình trên cơ sở tôn trọng những
quy luật kinh tế chung. Nhà nước tư sản, dưới mọi biểu hiện khác nhau của nó,
đều sử dụng kinh tế thị trường như một con đường, phương tiện và công cụ nhằm
củng cố chế độ xã hội tư bản chủ nghĩa, làm gia tăng giá trị thặng dư, tức là
phục vụ mục tiêu, lợi ích giai cấp của giai cấp tư sản. Dĩ nhiên, trong quá
trình này, chúng không thể không quan tâm đáp ứng một phần lợi ích của người
lao động nói riêng và của toàn xã hội nói chung.
Rõ ràng là, kinh
tế thị trường tư bản chủ nghĩa chỉ là một phương án (phương án đầu tiên xét về
mặt lịch sử) của kinh tế thị trường. Lịch sử loài người không dừng lại ở chủ
nghĩa tư bản. Cho nên, việc xuất hiện những mô thức mới của kinh tế thị trường,
trong đó có nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc, nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam... cũng là những phương án
hợp lôgích.
Do nhận thức kịp thời những vấn đề lý
luận và thực tiễn rất quan trọng nêu trên, Đảng, Nhà nước ta đã chủ động và
tích cực xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa vừa phù hợp với các quy luật khách quan, vừa phù hợp với các đặc điểm,
điều kiện cụ thể của đất nước và chế độ xã hội ở Việt Nam. Sự phù hợp của thể
chế kinh tế thị trường với chế độ xã hội, trong đó quan trọng nhất là thể chế
chính trị và hệ thống chính trị, là biểu hiện nổi bật, là thực chất của mối
quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta. Thông qua sự phù
hợp này, những tất yếu kinh tế và những đòi hỏi chính trị khách quan đã đồng
thời được đảm bảo, gắn kết với nhau và tạo tiền đề cho nhau trong cả thể chế
kinh tế thị trường và hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Trong xây dựng, hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự gắn kết nêu
trên được thể hiện ngay trong mục đích của nền kinh tế, chế độ sở hữu, phương
thức vận hành, chế độ phân phối và trong phương châm kết hợp tăng trưởng kinh
tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Mục đích phát triển kinh tế thị
trường ở nước ta không phải thuần túy là làm gia tăng giá trị, lợi nhuận kinh
tế; mà là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đó là một nền
kinh tế đa hình thức sở hữu, đa thành phần kinh tế, trong đó chế độ công hữu về
các tư liệu sản xuất được duy trì và kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo,
kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể là nền tảng của nền kinh tế cả nước. Phương
thức vận hành nền kinh tế là vừa theo cơ chế thị trường, vừa phát huy cao độ
vai trò điều tiết và chức năng quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Chế độ phân phối kết hợp phân phối theo
quy mô đóng góp và hiệu quả sử dụng các nguồn lực với các chính sách tái phân
phối thu nhập, đảm bảo phúc lợi xã hội và an sinh xã hội do nhà nước chủ trì
triển khai.
Trong
xây dựng, đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị ở nước ta, sự gắn kết nêu trên
được thể hiện trước hết qua bước chuyển từ hệ thống chuyên chính vô sản sang hệ
thống chính trị xã hội chủ nghĩa, trong đó nổi bật là bước chuyển từ nhà nước
chuyên chính vô sản sang nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân. Tiếp đó, nó được thể hiện qua việc xác định cơ cấu thành
phần gồm 8 thành tố hiện nay của hệ thống chính trị; cả 8 thành tố đó đều là
công cụ nhằm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh:
mọi quyền hành và lực lượng đều tập trung ở nơi dân. Theo tinh thần này, Đảng và
Nhà nước (hai thành tố quan trọng nhất trong hệ thống chính trị) đã nỗ lực phấn
đấu để các đường lối, chủ trương, chính sách ban hành phải phù hợp với quy luật
khách quan, phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước và phải hợp lòng dân. Mặt
trận Tổ quốc được giao phó thêm một chức năng quan trọng là tổ chức phản biện
xã hội đối với một số chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của
Đảng, Nhà nước. Nhờ vậy, hệ thống chính trị của nước ta đã thích ứng với bối
cảnh mới của kinh tế thị trường, toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế.
Trong những năm tới, sự phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước có nhiều vận động bước ngoặt, tạo ra đòi hỏi cấp thiết
về tiếp tục đổi mới toàn diện cả thể chế kinh tế và hệ thống chính trị. Bước ngoặt lớn nhất sẽ
là nền kinh tế chuyển từ giai đoạn tăng trưởng để thoát nghèo kéo dài suốt
15-20 năm qua sang giai đoạn tăng trưởng để cất cánh. Giai đoạn tăng trưởng mới
không cho phép tiếp tục duy trì kiểu tăng trưởng về lượng chủ yếu là nhờ tăng
đầu tư, mà đòi hỏi tăng trưởng với chất lượng cao chủ yếu dựa vào sự gia tăng
năng suất lao động, nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh, đảm bảo sự bền
vững về kinh tế, xã hội, môi trường sinh thái. Trước yêu cầu mới, cần tiếp tục
đẩy mạnh đổi mới kinh tế, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, đi đôi với tích cực đổi mới hệ thống chính trị.
Để
đảm bảo mối quan hệ thuận chiều giữa hai quá trình đổi mới kinh tế và đổi mới hệ
thống chính trị, cần dân chủ hoá và minh bạch hoá hơn nữa quá trình ra các chủ
trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Đảng lãnh đạo, nhưng không đưa
ra trước các quyết định, mà trước hết là phải tạo điều kiện, cơ chế cho giới
chuyên môn, cho nhân dân thảo luận, nêu các phương án khác nhau. Vai trò lãnh
đạo của Đảng được thể hiện trong việc đưa ra quyết định cuối cùng, lựa chọn một
phương án cụ thể. Kiên quyết phòng chống nguy cơ một số nhóm lợi ích chi phối
quá trình hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách. Đổi mới thể chế kinh tế
là để giải phóng sức sản xuất, phát triển sức sản xuất; đổi mới hệ thống chính
trị là để tập hợp toàn dân, tổ chức toàn dân thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ
chung. Chỉ như vậy, quá trình đổi mới mới tiếp tục được đẩy mạnh đồng bộ, hài
hoà cả về kinh tế và hệ thống chính trị, đưa Việt Nam tới đích dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
KHOA HỌC KẾ CẬN ĐÁP ỨNG YÊU CẦU NHIỆM VỤ
CỦA HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
TRONG THỜI KỲ MỚI
(Báo cáo đề dẫn Hội thảo)
Trong hơn 55 năm xây
dựng và phát triển, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh đã có những đóng
góp quan trọng cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Học viện đã đào
tạo cho Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị hàng vạn cán bộ lãnh đạo, quản lý
trung, cao cấp, cán bộ lý luận chính trị; cung cấp nhiều luận cứ khoa học có
giá trị cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước. Trong mọi giai đoạn cách mạng, Học viện luôn thực hiện tốt chức năng là
công cụ tổ chức và tư tưởng của Đảng. Với những thành tích đó, Học viện đã được
Đảng và Nhà nước tặng thưởng nhiều phần thưởng cao quý như Huân chương Hồ Chí
Minh, Huân chương Sao Vàng, và gần đây nhất là danh hiệu Anh hùng lao động
trong thời kỳ đổi mới. Nguyên nhân của những thành công trên đã được đánh giá
qua các lần tổng kết trước đây, và các đánh giá đều thống nhất nhận định: sự nỗ
lực, cố gắng không mệt mỏi của các thế hệ cán bộ, đặc biệt là cán bộ khoa học của Học viện là nhân tố quyết định mọi thành công
của Học viện.
Như chúng ta đều biết,
đội ngũ cán bộ khoa học là lực lượng nòng cốt, là “đội quân chủ lực” trong quá
trình thực hiện nhiệm vụ chính trị của Học viện. Chất lượng của đội ngũ cán bộ
khoa học quyết định chất lượng công tác của Học viện, diện mạo, “bản sắc” của
đội ngũ cán bộ khoa học quyết định diện mạo, bản sắc của Học viện, uy tín của
đội ngũ cán bộ khoa học quyết định đến vị thế, uy tín của Học viện trong đời
sống xã hội. Nhận thức rõ vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ khoa học trong quá
trình phát triển của Học viện, Ban Cán sự đảng, Ban Giám đốc, Đảng uỷ Học viện
luôn quan tâm chăm lo đến công tác xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ khoa học
để đội ngũ cán bộ này đủ sức đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Nhờ vậy, Học viện
đã có được một đội ngũ cán bộ khoa học khá đông đảo về số lượng với chất lượng
không ngừng được nâng cao.
Tính đến tháng 8 năm
2005 tổng số cán bộ khoa học có học hàm GS, PGS và học vị từ thạc sỹ trở lên là 404 người, chiếm 48,33%
tổng số cán bộ, công chức, viên chức của Học viện, trong đó có 13 nhà giáo Ưu
tú chiếm 1,55%; có 11 giáo sư, chiếm 1,32%; có 52 phó giáo sư, chiếm 6,22%; có
197 tiến sỹ, chiếm 23,56%; có 144 thạc sỹ, chiếm 17,22%; tổng số cán bộ, công
chức, viên chức của Học viện. Số cán bộ khoa học có trình độ cử nhân chỉ có 90
người, chiếm 10,76%.
Đứng trên quan điểm lịch
sử, cụ thể và toàn diện để đánh giá thì đội ngũ cán bộ khoa học của Học viện có
những mặt mạnh rất cơ bản như: bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với sự
nghiệp cách mạng và mục tiêu xã hội chủ nghĩa; có lối sống lành mạnh, giản dị;
tâm huyết với nghề nghiệp, say mê với công tác nghiên cứu, giảng dạy; tuyệt đại
đa số được đào tạo cơ bản, đã được thử thách trong hoạt động thực tiễn cách
mạng và có khả năng, năng lực tốt và có kinh nghiệm trong giảng dạy, nghiên cứu
khoa học. Trên nhiều lĩnh vực chuyên ngành đã có những cán bộ có uy tín trong
và ngoài Học viện, đang phát huy có hiệu quả năng lực nghiên cứu, tổng kết thực
tiễn và giảng dạy lý luận chính trị. Một số cán bộ khoa học vừa là nhà giáo
dục, nhà sư phạm, người thầy gương mẫu, vừa là nhà khoa học có nhiều công trình
được đánh giá cao, có thể trở thành những nhà khoa học đầu ngành có uy tín. Một
số đồng chí có khả năng sư phạm tốt, biết kết hợp một cách sáng tạo các phương
pháp khác nhau, các phương tiện hiện đại cho từng môn học và từng đối tượng học
viên mang lại hiệu quả cao, phát huy được tính chủ động, tích cực và sáng tạo
của người học. Nhiều đồng chí luôn theo sát những vấn đề bức xúc nảy sinh từ
thực tiễn để thu thập và xử lý thông tin, vì vậy các bài giảng luôn sống động,
mang tính thời sự cao nhờ những tri thức thực tiễn và cách thức luận giải vấn
đề khoa học từ thực tiễn đang đòi hỏi. Một số cán bộ khoa học được đào tạo ở
nước ngoài có trình độ ngoại ngữ khá thành thạo trong nghiên cứu khoa học và
trong giao tiếp. Trong những năm qua đội ngũ cán bộ khoa học của Học viện đã có
những đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc; đã có
bước trưởng thành vượt bậc cả về số lượng và chất lượng.
Tuy nhiên, bên cạnh
những ưu điểm và sự trưởng thành rất cơ bản đó, chuyển sang thời kỳ mới, trước
những yêu cầu mới, nhiệm vụ mới, đội ngũ cán bộ khoa học còn bộc lộ một số điểm
hạn chế, bất cập như Nghị quyết 52 của Bộ Chính trị đã chỉ rõ. Đó là: “Chất
lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy, nghiên cứu còn một số mặt hạn chế, nhất là về
khả năng cập nhật kiến thức khoa học hiện đại, hiểu biết thực tiễn đất nước và
thế giới, về khả năng ngoại ngữ, tin học và sử dụng những phương pháp giảng dạy
hiện đại”. Đặc biệt, do công tác xây dựng lực lượng kế cận còn chậm nên đội ngũ
cán bộ khoa học của Học viện đã bộc lộ rõ sự hẫng hụt giữa thế hệ cán bộ khoa
học hiện đang giữ vị trí chủ chốt trong hoạt động khoa học của Học viện với thế
hệ cán bộ khoa học kế cận.
Một đội ngũ cán bộ
khoa học mạnh là một đội ngũ có đủ về số lượng để có thể đảm đương được nhiệm
vụ, có chất lượng cao để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, đồng thời phải đảm bảo
cơ cấu hợp lý về mặt chuyên môn, giới tính, độ tuổi,….
Cơ cấu độ tuổi nói lên
khả năng phát triển liên tục, bền vững của đội ngũ cán bộ khoa học. Cơ cấu về
độ tuổi của đội ngũ cán bộ khoa học Học viện hiện nay như sau: dưới 30 có 63
người; 31 - 40 tuổi có 115 người; 41 - 50 tuổi có 127 người; 51 tuổi trở lên có
154 người. Cơ cấu này bất hợp lý vì cán bộ có độ tuổi cao chiếm tỷ lệ lớn, tỷ
lệ cán bộ có độ tuổi dưới 30 quá thấp, chỉ chiếm 15,59%, không bảo đảm sự phát
triển bền vững của toàn đội ngũ trong tương lai. Trên thực tế, nếu không tính
đến yếu tố kéo dài thời gian công tác thì từ nay đến năm 2010 sẽ có 100 cán bộ
khoa học về hưu, trong đó có: 23 GS,PGS ; 48 tiến sĩ và30 thạc sĩ. Như vậy,
chưa tính đến nhân tố gia tăng về yêu cầu nhiệm vụ thì trong 5 năm tới Học viện
vẫn phải đào tạo để thay thế cho số cán bộ khoa học nghỉ hưu. Trong thực tế, do
sự phát triển của yêu cầu nhiệm vụ nên đội ngũ cán bộ khoa học cũng phải có sự
phát triển tương ứng về số lượng và chất lượng thì mới có thể không bị hẫng
hụt. Chính vì vậy, vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học kế cận cho tương
lai, trước hết là cho giai đoạn 2010 - 2015 là nhiệm vụ trọng yếu vừa có tính
cấp bách, vừa có tính chiến lược lâu dài của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh.
Bước sang thời kỳ mới,
thời kỳ đất nước tiến hành đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH nhằm đưa nước ta trở
thành một nước công nghiệp; trong bối cảnh khu vực và thế giới có những diễn
biến hết sức phức tạp, đặt nước ta trước những thời cơ và thách thức to lớn,
đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân phải đoàn kết, sáng suốt và nỗ lực cao để đạt tới
mục tiêu đã đề ra. Trong bối cảnh đó, ngày 30 tháng 7 năm 2005 Bộ Chính trị đã
ra Nghị quyết số 52- NQ/TW về đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ và nghiên cứu khoa học của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Nghị
quyết yêu cầu Học viện phải đổi mới mạnh mẽ, toàn diện công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn để
ngang tầm với đòi hỏi của công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghị quyết đã đề ra những quan điểm, định
hướng lớn và chỉ ra những giải pháp cụ thể cần thực hiện trong quá trình thực
hiện yêu cầu nhiệm vụ nêu trên. Về công tác xây dựng đội ngũ cán bộ khoa
học, Nghị quyết của Bộ Chính trị đã chỉ
rõ: “Coi trọng việc xây dựng và thực hiện quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng phát
triển đội ngũ cán bộ giảng dạy, nghiên cứu, đặc biệt là cán bộ khoa học đầu
ngành; có biện pháp mạnh và cấp thiết để sau một số năm đáp ứng đủ số
lượng, bảo đảm chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy và nghiên cứu cho Học viện”.
Để triển khai thực
hiện tốt Nghị quyết của Bộ Chính trị về Học viện trên lĩnh vực công tác cán bộ
khoa học, đòi hỏi sự sự thống nhất trong nhận thức và hành động của cả hệ thống
chính trị ở Học viện, đặc biệt là sự đóng góp nhiệt tình của các đồng chí cán
bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ khoa học chủ chốt, các chuyên gia đầu ngành trong
Học viện. Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, được sự đồng ý của Ban Giám đốc
Học viện, sự giúp đỡ của Vụ Quản lý khoa học, Vụ Tổ chức - Cán bộ tổ chức hội
thảo khoa học này với mong muốn chúng ta cùng nhau trao đổi và thống nhất được
phương hướng, mục tiêu và những giải pháp mạnh nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ
khoa học kế cận đủ sức đảm đương được yêu cầu nhiệm vụ của Học viện trong giai
đoạn 2010 - 2015.
Để có thể đề ra được
phương hướng, mục tiêu và giải pháp đúng đắn, phù hợp trong công tác xây dựng
đội ngũ cán bộ khoa học kế cận cho giai đoạn 2010 - 2015, trước hết chúng ta
cần đánh giá được thực trạng của đội ngũ cán bộ khoa học trẻ hiện có.
Như
chúng ta đã biết, từ năm 1990 trở đi, Học viện đã chú trọng việc tuyển dụng những
sinh viên mới tốt nghiệp loại khá giỏi các ngành khoa học xã hội và nhân văn để
đào tạo cán bộ kế cận. Trong 15 năm qua chúng ta đã tuyển dụng được trên dưới
200 cán bộ trẻ theo nguồn này, trong đó có 139 cán bộ trẻ được xếp vào ngạch
nghiên cứu viên và giảng viên với định hướng là sẽ đào tạo họ thành cán bộ khoa
học cho các đơn vị trong Học viện. Học viện cũng đã tiến hành một số biện pháp
để đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ
khoa học trẻ như: tổ chức các lớp đào tạo chuyên môn, ngoại ngữ, tin học; lựa
chọn, cử những cán bộ tỏ ra có triển vọng đi đào tạo cao học, nghiên cứu sinh
trong và ngoài nước; xây dựng tiêu chuẩn để cán bộ khoa học trẻ phấn đấu,
trưởng thành; giao cho các cán bộ khoa học có kinh nghiệm nhiệm vụ kèm cặp cán
bộ khoa học trẻ vv…Đồng thời với các biện pháp tổ chức đó, Đảng uỷ, các tổ chức
đoàn thể trong Học viện cũng thường xuyên quan tâm giáo dục, bồi dưỡng lý
tưởng, đạo đức, tác phong cho đội ngũ cán bộ này. Nhờ đó, đội ngũ cán bộ khoa
học trẻ của Học viện đã có bước trưởng thành nhất định về trình độ lý luận
chính trị, trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, tin học và đã bước đầu nhập cuộc vào
việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của Học viện. Cụ thể là: Về trình độ học vấn,
đội ngũ cán bộ khoa học trẻ có 3 tiến sĩ, 54 thạc sĩ và có 40 em đang theo học
cao học, nghiên cứu sinh trong nước và ở nước ngoài. Hầu hết cán bộ khoa học
trẻ (trừ những em mới tuyển dụng) đều đã được đào tạo theo chương trình Cao cấp
lý luận chính trị hoặc cử nhân chính trị. Cán bộ khoa học trẻ của Học viện có
trình độ ngoại ngữ, tin học khá thành thạo trong giao tiếp, một số người có thể
sử dụng được ngoại ngữ trong nghiên cứu khoa học. Nhìn chung, đội ngũ cán bộ
khoa học trẻ đã có sự nỗ lực cao trong học tập nâng cao trình độ và rèn luyên
lập trường, tư tưởng, đạo đức cách mạng, một số cán bộ trẻ đã thể hiện được
năng lực trong công tác nghiên cứu khoa học, tỏ ra có triển vọng trở thành
người cán bộ khoa học thực thụ.
Tuy nhiên, so với yêu
cầu thì đội ngũ cán bộ khoa học trẻ của Học viện phát triển còn chậm. Sau một thời
gian khá dài (10 - 15 năm), đến nay, số cán bộ khoa học trẻ có trình độ sau đại
học chỉ chiếm 41%, còn 82 cán bộ khoa học trẻ vẫn chỉ có trình độ cử nhân. Quan
trọng hơn, cho đến nay, số lượng cán bộ khoa học trẻ có thể đảm nhiệm được công
tác giảng dạy rất ít ỏi. Một số cán bộ trẻ được bố trí báo cáo chuyên đề chủ
yếu là do đơn vị tạo kiện để họ được hưởng phụ cấp đứng bục. Đặc biệt đáng lo lắng là trong số cán bộ trẻ
đã xuất hiện tình trạng thờ ơ, bàng quan với các hoạt động của Học viện hoặc
nhụt chí, giảm sút tinh thần tiến thủ. Trong khi đó, yêu cầu đặt ra là
phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ khoa học đủ về số lượng, có năng lực trí
tuệ, trình độ cao về chuyên môn, nghiệp vụ; bản lĩnh chính trị vững vàng và
phẩm chất đạo đức tốt, đủ sức đảm đương được nhiệm vụ chính trị của Học viện
trong giai đoạn mới. Bởi vậy, chúng ta phải có những giải pháp mạnh và đồng bộ
trong tất cả các khâu từ quy hoạch, tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng đến bố trí,
sử dụng và thực hiện chính sách đối với cán bộ khoa học trẻ. Sau đây, chúng tôi
xin nêu lên một số vấn đề có tính chất phác
thảo để chúng ta cùng trao đổi, thảo luận đi đến thống nhất chung.
1. Về vấn đề tạo nguồn cán bộ khoa học
bổ sung.
Để đảm bảo mục tiêu đề
ra về lực lượng cán bộ khoa học kế cận, không thể không tiến hành tuyển chọn bổ
sung. Nhưng trước thực trạng đội ngũ cán bộ khoa học trẻ của Học viện phát
triển chậm, đã có ý kiến cho rằng, không nên tuyển dụng sinh viên để đào tạo
trở thành cán bộ khoa học vì thời gian đào tạo quá lâu, lại không bảo đảm chắc
chắn có thể đào tạo được những cán bộ khoa học thực thụ. Theo họ, cách tốt nhất
là tuyển chọn những cán bộ đã có học hàm, học vị hoặc những cán bộ lãnh đạo
quản lý về công tác tại Học viện. Theo chúng tôi, nếu làm như vậy sẽ đáp ứng
được ngay nhu cầu cán bộ của Học viện, nhưng việc tuyển chọn cũng không phải dễ
dàng. Hơn nữa, không thể vì công tác đào tạo cán bộ khoa học kế cận khó khăn mà
chúng ta không chuẩn bị cho tương lai phát triển của Học viện. Vì vậy, phải
chăng, kết hợp tuyển chọn cán bộ khoa học làm việc được ngay với tuyển chọn để
đào tạo lâu dài là giải pháp tối ưu? Về nguồn tuyển chọn nên chăng cũng cần đa
dạng, trong đó tập trung vào những nguồn chủ yếu sau:
- Giảng viên của các
trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, của các trường đại học, cao đẳng có thành tích trong giảng dạy và nghiên
cứu khoa học.
- Các đồng chí có trình độ thạc sỹ và tiến sỹ đã
bảo vệ luận văn, luận án ở các trường đại học trong và ngoài nước có chuyên
ngành phù hợp.
- Các đồng chí cán bộ
lãnh đạo, quản lý ở các Bộ, Ban, Ngành, Đoàn thể ở Trung ương và địa phương về
học tập tại Học viện, sau khi tốt nghiệp cử nhân chính trị hay cao cấp lý luận
chính trị với kết quả học tập tốt, có khả năng nghiên cứu và giảng dạy.
- Cử nhân mới ra trường có chuyên ngành phù hợp
và hội đủ các điều kiện cần thiết (học lực loại khá, giỏi, có đạo đức tốt, là
đảng viên hoặc có thể trở thành đảng viên).
Đối với nguồn tuyển
chọn để đào tạo lâu dài, hiện cũng có những ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho
rằng, tuyển rải rác với số lượng ít, chỉ cần đủ để thay thế biên chế của cán bộ
nghỉ hưu. Cũng có ý kiến cho rằng, chỉ tuyển theo từng đợt với số lượng lớn để
có điều kiện tập trung đào tạo. Đúng là để có điều kiện tập trung đào tạo theo
quy trình thì tuyển chọn theo từng đợt là thích hợp. Cùng vì vậy mà hiện nay
Học viện đang chuẩn bị cho việc tuyển dụng và đào tạo lớp cán bộ trẻ mới (với
số lượng 60 em) để xây dựng lực lượng kế cận. Nhưng nên chăng, bên cạnh việc
tuyển theo đợt tập trung chúng ta cũng cần luôn luôn mở rộng cửa với những tài
năng trẻ thực sự muốn về công tác tại Học viện? Bên cạnh đó, quy trình tuyển
chọn cũng là vấn đề cần phải có sự nghiên cứu, trao đổi để đảm bảo chọn lựa
được những người thật sự có năng lực và triển vọng trở thành người cán bộ khoa
học lý luận chính trị.
2. Vấn đề xây dựng
quy hoạch đội ngũ cán bộ khoa học kế cận của Học viện.
Đây là một nội dung
rất quan trọng, nhằm xây dựng, phát triển nguồn nhân lực khoa học chất lượng
cao của Học viện. Hiện nay, vẫn có người cho rằng, việc xây dựng quy hoạch cán
bộ khoa học là công việc của Vụ Tổ chức - Cán bộ còn các đơn vị chỉ thực hiện
theo. Rõ ràng là, việc làm rõ trách nhiệm cụ thể của cơ quan tham mưu về công
tác cán bộ, của các cấp uỷ Đảng cũng như của thủ trưởng và tập thể lãnh đạo đơn
vị về công tác này là hết sức cần thiết. Nhưng đồng thời cũng cần khẳng định
rằng, quy hoạch phải tiến hành từ cơ sở, từ đơn vị mới đảm bảo tính khoa học và
sát hợp.
3. Vấn đề đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
khoa học kế cận:
Qua các lần hội nghị,
hội thảo và các đề tài khoa học đã tiến hành, chúng ta đã thống nhất được một
số vấn đề liên quan đến công tác đào tạo và bồi dưỡng, cán bộ khoa học và cán
bộ khoa học kế cận. Chẳng hạn, về nội dung đào tạo, bồi dưỡng nhiều ý kiến đều
thống nhất: cần rèn luyện cán bộ khoa học trẻ về lập trường cộng sản, đạo đức
cách mạng, tác phong của người cán bộ lý luận, người giảng viên Trường
Đảng……Đồng thời, cần tập trung trang bị cho cán bộ khoa học về lý luận chủ
nghĩa Mác - lê nin, tư tưởng Hồ chí Minh, trong đó đặc biệt chú ý trang bị kiến
thức về kinh điển mác xít; về kiến thức chuyên sâu của các chuyên ngành; về tri
thức thực tiễn; về phương pháp nghiên cứu khoa học và phương pháp giảng dạy; về
ngoại ngữ và tin học….Về quy trình đào tạo, có thể bao gồm các khâu cơ bản sau:
tuyển dụng và tập trung đào tạo cử nhân chính trị hoặc Cao cấp lý luận chính
trị theo chương trình đặc biệt; tập sự ở các đơn vị khoa học; đào tạo cao học,
nghiên cứu sinh; đi thực tế. Tuy nhiên, việc tiến hành khâu nào trước lại là
vấn đề cần phải tính toán, cân nhắc, nhằm đảm bảo công tác đào tạo cán bộ khoa
học kế cận vừa tiết kiệm được thời gian, công sức vừa đạt chất lượng cao.
Về phương thức đào
tạo, bồi dưỡng, phải căn cứ vào từng nội dung và thời gian trong quy trình đào
tạo, nhưng nên chăng cũng cần phải hết sức đa dạng, linh hoạt, đảm bảo phát huy
tối đa những điều kiện và nguồn lực hiện có của Học viện, đồng thời, phát huy
được tính chủ động, sáng tạo của bản thân cán bộ trẻ trong qúa trình đào tạo,
tạo điều kiện để họ biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo, để họ tự
hoàn thiện nhân cách của người cán bộ khoa học. Vì vậy, ngoài việc đào tạo theo
các chương trình đào cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ còn phải thông qua nhiều phương
thức khác nhau giúp họ làm quen và được thử thách trong môi trường khoa học và
môi trường thực tiễn, như:
- Tổ chức các lớp bồi
dưỡng kinh điển Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các lý thuyết đương đại
chuyên sâu cho cán bộ nghiên cứu, giảng dạy có trình độ thạc sĩ, tiến sỹ ở Học
viện.
- Đưa cán bộ khoa học
trẻ đi xâm nhập thực tế và nghiên cứu, tổng kết thực tiễn. Phương thức đào tạo
thông qua đi thực tế không những giúp họ tiếp cận với những vấn đề đang đặt ra
từ thực tiễn, rèn luyện phương pháp tổng kết thực tiễn mà còn rèn luyện bản
lĩnh chính trị, lập trường tư tưởng, đạo đức tác phong của người cán bộ khoa
học trường Đảng.
- Đào tạo cán bộ khoa
học trẻ thông qua các đề tài, chương trình, dự án khoa học trọng điểm, kể cả
các chương trình hợp tác quốc tế. Chọn nhân lực cho các đề tài dự án đó, dưới
sự lãnh đạo khoa học trực tiếp của các giáo sư có kinh nghiệm. Thí điểm các đề
tài loại đó, mà mỗi đề tài có 1 GS làm chủ nhiệm, từ 5 đến 10 tiến sĩ, với đầu
tư kinh phí thỏa đáng, ra được các công trình có giá trị khoa học cao. Mặt
khác, khuyến khích các cán bộ khoa học trẻ tham gia luận chứng, làm chủ nhiệm
các đề tài khoa học bằng cách giao một số đề tài, trước hết là đề tài cấp cơ sở
để cán bộ trẻ đấu thầu với nhau. Sau khi trúng thầu, sẽ cử những chuyên gia
giỏi phù hợp chuyên ngành làm cố vấn. Lực lượng cộng tác viên của những đề tài
này bắt buộc phải là những cán bộ trẻ.
- Đầu tư các nguồn lực
và điều kiện, chọn ra từ 10 đến 20 nhà khoa học có uy tín nhất, giao cho họ bồi
dưỡng từ 20 đến 40 tiến sĩ trẻ (mỗi GS, nhà khoa học có uy tín lớn nhận đỡ đầu
3,4 người) thì trong khoảng 5 đến 10 năm tới, Học viện sẽ có một lực lượng khoa học nòng cốt làm cơ sở phát triển tiềm lực khoa
học lâu dài.
Chỉ có mạnh dạn và
quyết tâm đầu tư theo chiều sâu như vậy mới có thể đào tạo được những cán bộ
khoa học giỏi và các chuyên gia.
4. Vấn đề quản lý cán bộ khoa học trẻ
Đã có những ý kiến
cảnh báo rằng, nếu tiếp tục buông lỏng quản lý đối với cán bộ trẻ, thì không
những không xây dựng được một đội ngũ cán bộ khoa học cho tương lai mà còn tạo
nên những “kiêu binh”, những kẻ học đòi theo thói “trí thức rởm”. Ý kiến đó
không phải không có cơ sở khi trong đội ngũ cán bộ trẻ đã xuất hiện những người
có biểu hiện chạy theo lối sống thực dụng, chỉ biết kêu ca, phàn nàn hoặc giảm
sút tinh thần tiến thủ, không chịu khắc phục khó khăn, nỗ lực vươn lên. Vì vậy,
việc tăng cường công tác quản lý đối với những cán bộ trẻ là một yêu cầu cấp
bách hiện nay.
Tăng cường công tác quản lý tốt đối với cán bộ
khoa học trẻ là nhằm giúp họ có định hướng đúng trên bước đường học tập, rèn
luyên trở thành người cán bộ khoa học lý luận thực thụ. Để quản lý tốt đối với
cán bộ trẻ thì trước hết phải giao nhiệm vụ cho họ một cách rõ ràng, định thời
gian hoàn thành. Ví dụ: khi được tuyển dụng, cán bộ trẻ phải cam kết hoàn thành
chương trình học tập Cử nhân chính trị theo chương trình đặc biệt. Sau đó, lại
giao nhiệm vụ cho họ trong vòng từ 2 - 3 năm phải thi đỗ và hoàn thành chương
trình thạc sĩ v.v... Đồng thời, cần thường xuyên kiểm tra thái độ và kết quả
học tập, rèn luyện, phấn đấu. Những cán bộ khoa học trẻ có tinh thần hăng say
học tập, tích cực rèn luyện phấn đấu, đạt thành tích cao trong học tập, nghiên
cứu khoa học cần phải được biểu dương, khen thưởng kịp thời. Mặt khăc, cần hoàn
thiện Quy chế làm việc của cán bộ nói chung, Quy chế giảng viên, nghiên cứu
viên nói riêng để quản lý đội ngũ, đảm bảo vừa bảo vệ được cán bộ, vừa phát huy
tối đa năng lực của từng người. Thường xuyên kiểm tra việc thực hiện Quy chế,
kịp thời phát hiện những sai lệch để có biện pháp điều chỉnh, xử lý nghiêm
những cán bộ vi phạm Quy chế. Việc qnản lý chủ yếu căn cứ vào kết quả và chất
lượng công việc.
5. Vấn đề thực hiện chính sách đối với
cán bộ khoa học kế cận:
Đổi mới và hoàn thiện hơn nữa chế độ đãi ngộ
đối với cán bộ nói chung, cán bộ khoa học nói riêng là nhân tố rất quan trọng.
Họ phải được nhìn nhận, đánh giá đúng với vai trò, vị thế của họ, trên cơ sở đó
mà có chế độ đãi ngộ thoả đáng, tạo động lực cho cán bộ yên tâm công tác. Tuy
nhiên, cần kiến quyết chống lại tư tưởng ỷ lại, trông chờ theo cơ chế bao cấp
cũ. Vì vây, việc thực hiện chính sách cần gắn liền với kết quả học tập, phấn
đấu của cán bộ khoa học trẻ, tuyệt đối tránh tình trạng dàn đều. Những người có
quá trình phấn đấu tốt sẽ được đãi ngộ xứng đáng, được tạo điều kiện để phát
triển, như: cử đi đào tạo ở nước ngoài; tăng lương sớm, vv… Còn những người
không có tinh thần vươn lên, kết quả học tập kém, vi phạm kỷ luật thì phải có
biện pháp xử lý như: kéo dài thời gian tập sự, kéo dài thời gian nâng lương, ….
Bên cạnh tiền lương,
Học viện cũng cần có cơ chế thưởng cho
những cán bộ có thành tích xuất sắc trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học.
Cũng cần nhấn mạnh thêm đối với người trí thức thì bên cạnh những giá trị về
vật chất, họ rất cần được tôn vinh về mặt tinh thần, danh dự, uy tín khoa học.
Vì vậy, chúng ta cần chú ý đến yếu tố này để tạo ra cơ chế như động lực thúc
đẩy hoạt động giản dạy và nghiên cứu.
Trong khả năng có thể của Học viện, cần tạo
điều kiện tốt nhất về nhà ở ổn định cho cán bộ giảng dạy và nghiên cứu khoa
học, mục đích là tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ cán bộ nói chung, cán bộ
khoa học nói riêng yên tâm công tác. Đồng thời, tạo điều kiện vật chất thuận
lợi cho việc tuyển chọn được những cán bộ giỏi về Học viện công tác.
Hình
thành cơ chế và vận dụng chính sách có sự ưu đãi đối với cán bộ khoa học đi
thực tế dài hạn tại các địa phương địa phương
Trang bị thêm những
phương tiện kỹ thuật hiện đại phục vụ cho nghiên cứu và giảng dạy như phòng làm
việc, máy vi tính, kết nối mạng Internet... .
Hình thành Quỹ hỗ trợ
tài năng nghiên cứu khoa học dành cho những người trẻ tuổi (dưới 35), phát hiện
và bồi dưỡng những người thực sự có năng lực.
Như vậy, việc xây dựng
đội ngũ cán bộ khoa học kế cận cho Học viện đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ
nhiều biện pháp khác nhau. Việc tổ chức thực hiện cũng không hề đơn giản, vì
đây là vấn đề con người, liên quan đến lợi ích, nhân phẩm, danh dự của từng cán
bộ, nên không thể tuỳ tiện thí nghiệm, thử nghiệm. Vì vậy, rất mong các nhà
khoa học cùng thảo luận, trao đổi thẳng thắn để chúng ta có được các biện pháp
mạnh và cấp thiết theo yêu cầu của Bộ Chính trị về công tác xây dựng đội ngũ
cán bộ khoa học của Học viện trong giai
đoạn mới.
Xin
trân trọng cảm ơn tất cả các đồng chí!