Tư liệu về Đại thắng mùa xuân 1975
+ Chiến dịch Hồ Chí Minh
1. Toàn cảnh Đại thắng mùa xuân 1975
Từ chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch Huế - Đà Nẵng, chiến dịch Xuân Lộc, chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định đến chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử là lớp lớp những chiến công oai hùng làm nên Đại thắng mùa xuân 1975 để Tổ quốc ta thống nhất, Nam Bắc một nhà. Sự kiện này được giới sử học trong và ngoài nước đánh giá là một trong những sự kiện quân sự nổi bật nhất của Việt Nam trong thế kỷ XX. Nhân dịp 37 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, xin giới thiệu cùng bạn đọc.
Kỳ 1: Quyết định lịch sử
Ngày 9-1-1975, Thường trực Quân ủy Trung ương họp đánh giá tương quan lực lượng giữa ta và địch trên chiến trường; đồng thời, đề ra nhiệm vụ quân sự mùa xuân 1975, thực hiện một bước kế hoạch tác chiến chiến lược. Quân ủy Trung ương xác định trong mùa khô 1974-1975, hướng tiến công chủ yếu của ta là Tây Nguyên và bổ sung nhiệm vụ cụ thể của chiến dịch Tây Nguyên là: Phải tiêu diệt 4 đến 5 trung đoàn bộ binh, 1 đến 2 trung đoàn thiết giáp; nhiều tiểu đoàn bảo an, trung đội dân vệ, cố gắng đánh quỵ hoặc tiêu diệt 1 sư đoàn, đánh thiệt hại Quân đoàn 2 của ngụy Sài Gòn. Giải phóng một phần tỉnh Đắc Lắc, Phú Bổn, Quảng Đức gồm 3 thị xã Cheo Reo, Gia Nghĩa, Buôn Ma Thuột. Trọng điểm là tỉnh Đắc Lắc, mục tiêu then chốt là Buôn Ma Thuột, mục tiêu quan trọng là 3 quận lỵ: Đức Lập, Thuần Mẫn, Kiến Đức. Hướng Cheo Reo, Gia Nghĩa là hướng phát triển chủ yếu.
Ngày 5-2, Bộ Chính trị cử đồng chí Đại tướng Văn Tiến Dũng, Ủy viên Bộ Chính trị, Tổng tham mưu trưởng vào chiến trường Tây Nguyên làm đại diện của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh bên cạnh Bộ Chỉ huy chiến dịch Tây Nguyên để trực tiếp chỉ đạo chiến dịch. Đồng thời đọc Quyết định thành lập Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên. Trung tướng Hoàng Minh Thảo được bổ nhiệm Tư lệnh mặt trận; Đại tá Đặng Vũ Hiệp: Chính ủy; Thiếu tướng Vũ Lăng, Đại tá Phan Hàm, Đại tá Nguyễn Năng, Đại tá Nguyễn Lang: Phó Tư lệnh; Đại tá Phí Triệu Hàm: Phó Chính ủy. Thường vụ Khu ủy Khu 5 cử đồng chí Bùi San, Ủy viên Thường vụ Khu ủy cùng một số cán bộ đại diện các ngành bên cạnh Đảng ủy và Bộ Tư lệnh chiến dịch để trực tiếp chỉ đạo 3 tỉnh: Gia Lai, Kon Tum, Đắc Lắc huy động mọi khả năng hiện có của địa phương phục vụ mặt trận. Cùng trong tháng 2, Quân ủy Trung ương Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Đoàn 232 (tương đương Quân đoàn) tại Nam Bộ. Trong Đoàn 232 gồm có 2 Sư đoàn bộ binh số 3 và số 5, Lữ đoàn pháo binh 232, Trung đoàn công binh 32 và một số đơn vị trực thuộc khác. (Khi tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh ngày 26-30/4, Đoàn 232 được tăng cường Sư 9 của Quân đoàn 4, tấn công hướng Tây và Tây Nam Sài Gòn). Đồng chí Nguyễn Minh Châu được bổ nhiệm Tư lệnh; đồng chí Trần Văn Phác được bổ nhiệm Chính ủy.
Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975. |
Chiến dịch Tây Nguyên nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch (khoảng 4 đến 5 trung đoàn bộ binh, 1 đến 2 thiết đoàn thiết giáp) giải phóng các tỉnh Nam Tây Nguyên, tạo thế chia cắt chiến lược thực hiện chiến lược giải phóng miền Nam (1975-1976). Khu vực Nam Tây Nguyên gồm các tỉnh Phú Bổn, Đắc Lắc, Quảng Đức, địch có Sư đoàn bộ binh 23, Lữ đoàn dù 3, Trung đoàn bộ binh 40, 8 liên đoàn biệt động quân, Lữ đoàn tăng thiết giáp số 2, 30 tiểu đoàn bảo an và các đơn vị binh chủng chuyên môn kỹ thuật, bố trí thành thế phòng ngự hoàn chỉnh.
Về phía lực lượng ta tham gia chiến dịch gồm 5 Sư đoàn (10, 320A, 316, 968, 3) và 4 Trung đoàn bộ binh (25, 271, 95A, 95B), Trung đoàn đặc công 198, Trung đoàn xe tăng - thiết giáp 273 và một số đơn vị binh chủng chuyên môn kỹ thuật. Bộ Tư lệnh chiến dịch gồm: Tư lệnh, Trung tướng Hoàng Minh Thảo; Chính ủy Đặng Vũ Hiệp.
Sau một số trận đánh tạo thế và nghi binh thu hút địch lên hướng Pleiku, từ ngày 4-3, ta bước vào tạo thế cắt đường 19, 21 (chia cắt chiến lược Tây Nguyên với đồng bằng); cắt đường 14 (chia cắt chiến dịch Bắc với Nam Tây Nguyên), tập kích bằng đặc công và hỏa lực pháo binh vào Kon Tum. Ngày 8-3, ta đánh quân lỵ Thuần Mẫu; ngày 10-3 diệt vị trí Đức Lập, cô lập triệt để Buôn Ma Thuột (mục tiêu then chốt chủ yếu). Địch phải đổ bộ đường không xuống Phước An để phản kích; bị Sư đoàn 10, Trung đoàn 25 đánh từ ngày 4 đến 18-3, Sư đoàn 23 (thiếu) và Liên đoàn biệt động quân 21 của địch bị tiêu diệt.
Để bảo toàn lực lượng còn lại của Quân đoàn 2, địch phải bỏ Bắc Tây Nguyên rút chạy về đồng bằng theo đường số 7 liên tỉnh. Sư đoàn 320 truy kích địch từ ngày 17 đến 23-3, đánh thiệt hại nặng 1 trung đoàn bộ binh, 6 liên đoàn biệt động, 4 thiết đoàn..., giải phóng Cheo Reo, Cung Sơn. Đồng thời từ ngày 18 đến 24-3, Sư đoàn 968, Trung đoàn 95A và Trung đoàn 271 giải phóng thị xã Kon Tum, Pleiku, Gia Nghĩa. Từ ngày 2-3 đến 3-4-1975, các đơn vị của ta tiếp tục phát triển xuống duyên hải miền Trung Bộ diệt Lữ đoàn dù số 3, Trung đoàn bộ binh 40, Liên đoàn biệt động quân 24 của địch; cùng với lực lượng tại chỗ giải phóng Bình Khê, Phú Yên, Nha Trang, Cam Ranh.
Kết thúc chiến dịch, ta tiêu diệt và làm tan rã Quân đoàn 2 - Quân khu 2 và một số bộ phận lực lượng cơ động chiến lược của địch, giải phóng Tây Nguyên và các tỉnh miền Nam Trung Bộ. Chiến dịch Tây Nguyên thể hiện nghệ thuật cao về chọn hướng (mục tiêu), nghi binh, tạo thế (cắt, vây), tập trung lực lượng giành và giữ quyền chủ động, phát triển tiến công; mở ra một bước ngoặt đưa cuộc chiến tranh từ tiến công có ý nghĩa chiến lược đến Tổng tiến công chiến lược trên toàn chiến trường miền Nam.
Ngày 15-3, Bộ Tổng tham mưu ngụy Sài Gòn quyết định đưa Liên đoàn 14 biệt động quân từ Quảng Ngãi ra Quảng Trị thay thế Lữ đoàn 369 và đưa Lữ đoàn 258 lính thủy đánh bộ vào bảo vệ Quảng Nam - Đà Nẵng để rút Sư đoàn dù về bảo vệ Sài Gòn. Cuộc điều quân bố trí lại lực lượng này càng làm cho địch lâm vào thế bị đập tan vỡ.
Ngày 18-3, Bộ Chính trị họp nhận định: Thắng lợi to lớn có ý nghĩa chiến lược của ta đánh dấu một bước rất mới trong cục diện chung, một bước suy sụp của Mỹ - ngụy. Địch đang thực hiện co cụm chiến lược, có thể co cụm ở Đà Nẵng và Cam Ranh… Bộ Chính trị hạ quyết tâm hoàn thành giải phóng miền Nam trong năm 1975; nhiệm vụ trước mắt là nhanh chóng tiêu diệt Quân đoàn I của địch, không cho chúng rút về Sài Gòn, giải phóng Huế, Đà Nẵng và các tỉnh Trung Bộ.
Ngày 21-3, chiến dịch Huế - Đà Nẵng được mở ra, nhằm tiêu diệt tập đoàn quân phòng ngự mạnh của quân ngụy ở Trị - Thiên, Huế, Đà Nẵng, giải phóng các tỉnh miền Trung; Bộ Quốc phòng mở chiến dịch tiến công các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi. Lực lượng địch trên địa bàn chiến dịch có Quân đoàn I - Quân khu 1; có 6 sư đoàn (2 sư đoàn thuộc lực lượng tổng dự bị, 4 sư đoàn biệt động quân); 24 tiểu đoàn và l0 đại đội bảo an, 21 tiểu đoàn pháo binh (418 khẩu), 4 thiết đoàn và 10 chi đoàn tăng - thiết giáp (trên 400 xe), 165 tàu hải quân, 1 sư đoàn không quân (96 máy bay chiến đấu) được bố trí thành 2 khu vực phòng ngự vững chắc: Bắc đèo Hải Vân (Trị - Thiên) và Nam đèo Hải Vân (Đà Nẵng - Quảng Ngãi).
Chiến dịch này do Bộ Tổng tư lệnh trực tiếp chỉ huy. Đồng chí Trung tướng Lê Trọng Tấn làm Tư lệnh; Thượng tướng Chu Huy Mân làm Chính ủy. Chiến dịch thực hiện làm 2 đợt. Đợt 1, tác chiến từ ngày 21 đến 25-3 tiến công bao vây, chia cắt chiến lược, giải phóng Huế và toàn tỉnh Thừa Thiên, Quảng Ngãi. Đợt 2, tác chiến từ ngày 26 đến 29-3, ta tiến hành tổng công kích vào Đà Nẵng.
Kết thúc chiến dịch, ta loại khỏi vòng chiến đấu 120.000 tên địch, làm tan rã 130.000 phòng vệ dân sự, tiêu diệt và làm tan rã 3 sư đoàn bộ binh (Quân đoàn 1), sư đoàn thủy quân lục chiến (tổng dự bị), 4 liên đoàn biệt động quân, 4 thiết đoàn, 1 sư đoàn không quân; giải phóng 5 tỉnh (Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Đà, Quảng Ngãi). Thắng lợi của chiến dịch này có ý nghĩa chiến lược quan trọng làm thay đổi hẳn so sánh lực lượng về mặt chiến lược hoàn toàn có lợi cho ta, trực tiếp đập tan ý đồ co cụm chiến lược của địch, tạo điều kiện cho quân ta đẩy mạnh tốc độ tiến công giải phóng Sài Gòn và toàn miền Nam.
Ngày 25-3, Bộ Chính trị đã họp nhận định: "Thời cơ chiến lược lớn đã tới. Trong suốt 20 năm chống Mỹ, cứu nước chưa bao giờ thuận lợi như lúc này"; do đó, cần "Nắm vững thời cơ chiến lược mới, tranh thủ thời gian cao độ, nhanh chóng tập trung lực lượng vào hướng chủ yếu, hành động táo bạo bất ngờ, làm cho địch không dự kiến kịp và không kịp trở tay". Bộ Chính trị quyết định "Quyết tâm hoàn thành giải phóng Sài Gòn và miền Nam trước mùa mưa" (tháng 5 -1975). Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 241/NQ-TW thành lập Hội đồng chi viện miền Nam ở Trung ương do đồng chí Phạm Văn Đồng, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ làm Chủ tịch. Các đồng chí Lê Thanh Nghị, ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng; Phan Trọng Tuệ, Bộ trưởng Bộ Giao thông, Vận tải làm Phó Chủ tịch. Bộ Tổng Tham mưu cũng quyết định điều động một bộ phận lớn Quân đoàn I vào tham gia chiến dịch giải phóng Sài Gòn. Sư đoàn 308 làm nhiệm vụ dự bị chiến lược của Bộ và bảo vệ miền Bắc.
Ngày 26-3, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 54/QĐ-QP thành lập Quân đoàn 3 (Binh đoàn Tây Nguyên) tại căn cứ Tây Nguyên. Trong Quân đoàn gồm có: 3 Sư đoàn bộ binh số 10, 316, 320A; 2 Trung đoàn pháo binh 40 và 675; 3 Trung đoàn phòng không số 232, 234, 593; Trung đoàn đặc công 198; Trung đoàn xe tăng 273; 2 Trung đoàn bộ binh số 7 và 575; Trung đoàn thông tin 29 và các cơ quan, đơn vị đảm bảo, phục vụ. Tư lệnh Quân đoàn: Thiếu tướng Vũ Lăng; Chính ủy Quân đoàn: Đại tá Đặng Vũ Hiệp.
Cũng trong ngày này, hơn 2.000 binh sĩ ngụy thuộc trung tâm huấn luyện Hòa Cầm làm binh biến, nhiều đơn vị địch rời bỏ trận địa tiền tiêu rút về phía sau. Tiếp đó, cả 3 lữ đoàn của sư đoàn thủy quân lục chiến ngụy đều bỏ vị trí chiến đấu (Lữ đoàn 148 rút về Phú Lộc, Lữ đoàn 258 bỏ về sân bay Nước Mặn, Lữ đoàn 369 chạy về Hiếu Đức), Trung đoàn 57 (Sư đoàn 3) chạy về Hòa Cầm. Trung tướng ngụy Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân khu I vội vàng chạy ra bán đảo Sơn Trà lên tàu chiến Mỹ trốn vào Sài Gòn.
Ngày 31-3, Bộ Chính trị họp nhận định: Cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam không những đã bước vào giai đoạn phát triển nhảy vọt, mà thời cơ chiến lược để tiến hành Tổng tiến công vào sào huyệt của địch đã chín muồi. Trận quyết chiến chiến lược cuối cùng của quân và dân ta đã bắt đầu, nhằm hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam và thực hiện hòa bình thống nhất Tổ quốc. Bộ Chính trị quyết định mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng Sài Gòn trong thời gian sớm nhất, tốt nhất là trong tháng 4, không thể để chậm. Phải gấp rút tăng cường lực lượng vào hướng Tây Sài Gòn, thực hiện chia cắt và bao vây chiến lược, triệt hẳn đường số 4, áp sát Sài Gòn; đồng thời, nhanh chóng tập trung lực lượng ở hướng Đông và Đông Nam, đánh chiếm những mục tiêu quan trọng, thực hiện bao vây, cô lập Sài Gòn từ phía Long Khánh, Bà Rịa, Vũng Tàu. Tổ chức sẵn sàng những đơn vị binh chủng hợp thành mạnh để khi thời cơ xuất hiện, thì tức khắc hành quân chiếm các mục tiêu quan trọng nhất ở trung tâm thành phố.
Tư tưởng chỉ đạo: Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng.
(Kỳ 2: Trận đánh quyết định)
2. Đại thắng mùa Xuân 1975 - đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam
21/4/2010
TCCS - Cách đây 35 năm, với cuộc Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân 1975, đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, quân và dân ta đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Thắng lợi oanh liệt đó đã tạo ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc, đưa cả nước bước vào kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đại hội IV của Đảng (1976) đã khẳng định: "Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thành quả tổng hợp của một loạt nhân tố tạo nên sức mạnh vô địch của cách mạng Việt Nam. Nguồn gốc của mọi nhân tố ấy chính là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng ta"(1); mà "trước hết là thắng lợi của đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn và sáng tạo của Đảng"(2). Đó là đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng ở hai miền: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, nhằm mục tiêu chung là hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Với đường lối đó, Đảng ta đã huy động được sức mạnh lớn nhất của cả nước, sức mạnh của tiền tuyến lớn miền Nam và sức mạnh của hậu phương lớn miền Bắc; kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh ngoài nước, có được từ sự đoàn kết, ủng hộ, giúp đỡ chí tình của nhân dân và bạn bè quốc tế, trước hết là của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, đặc biệt là sự đoàn kết, sát cánh chiến đấu chống kẻ thù chung của nhân dân ba nước: Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia... tạo nên sức mạnh tổng hợp để đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược cùng bè lũ tay sai của chúng.
Thắng lợi vĩ đại đó đã làm thất bại cuộc chiến tranh xâm lược quy mô nhất, dài ngày nhất và ác liệt nhất kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai; làm đảo lộn chiến lược toàn cầu phản cách mạng của đế quốc Mỹ và làm suy yếu hệ thống đế quốc chủ nghĩa; đồng thời, góp phần tăng cường hệ thống xã hội chủ nghĩa, tăng thêm sức mạnh và thế tiến công của ba dòng thác cách mạng trên thế giới đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.
Đã 35 năm trôi qua, kể từ ngày Đại thắng 30-4-1975, nhưng ký ức hào hùng và niềm tự hào về chiến thắng oanh liệt đó vẫn vẹn nguyên trong mỗi chúng ta. Nó đang và sẽ mãi là động lực tinh thần to lớn để chúng ta kiên định, vững bước trên con đường mà Đảng, Bác Hồ kính yêu và nhân dân ta đã chọn: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; tiếp tục công cuộc đổi mới, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; ra sức phấn đấu vì mục tiêu: "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" mà Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã xác định.
Đại thắng mùa Xuân 1975 là chiến công chói lọi trong nửa cuối thế kỷ XX của quân và dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng; là tài sản vô giá của dân tộc, để lại cho chúng ta những bài học quý báu trên nhiều phương diện. Bài học quyết định, mang tính bao trùm, đó là đường lối lãnh đạo đúng đắn và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối đó của Đảng ta; trong đó, trực tiếp là đường lối quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo của Đảng. Đường lối quân sự của Đảng ta được hình thành trên cơ sở nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh về chiến tranh cách mạng, tổ chức và xây dựng quân đội cách mạng... kết hợp với truyền thống quân sự của dân tộc, được vận dụng sáng tạo, phù hợp với điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Đường lối đó có sự kế thừa kinh nghiệm từ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, được bổ sung, phát triển và từng bước hoàn thiện trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Một trong những biểu hiện tập trung nhất về mặt nội dung của đường lối quân sự của Đảng, đó là: khoa học, nghệ thuật quân sự. Từ thực tiễn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, chúng ta có thể khẳng định rằng: nền khoa học và nghệ thuật quân sự Việt Nam, hay nói cụ thể hơn là nền khoa học, nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân Việt Nam đã không ngừng phát triển, hết sức độc đáo, sáng tạo, đạt đến đỉnh cao trong cuộc Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân 1975. Điều đó thể hiện tập trung ở những nội dung chủ yếu sau.
1 - Đánh giá đúng tình hình, nắm vững thời cơ chiến lược và triệt để tận dụng thời cơ để mở cuộc Tổng tiến công chiến lược, kết thúc chiến tranh trong thời gian ngắn, có lợi nhất
Đây là thành công nổi bật của Đảng ta về nghệ thuật chỉ đạo chiến lược trong chiến tranh giải phóng và cũng là nét đặc sắc về nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân Việt Nam. Trải qua mấy chục năm chiến đấu chống giặc Mỹ xâm lược, ta càng đánh càng mạnh, liên tiếp đánh bại các chiến lược chiến tranh, những cố gắng quân sự cao nhất của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pa-ri, rút quân Mỹ và quân các nước đồng minh ra khỏi miền Nam Việt Nam. Với kết quả đó, chúng ta đã thực hiện quyết tâm chiến lược theo tư tưởng của Bác Hồ kính yêu: "đánh cho Mỹ cút", để rồi tiến tới "đánh cho ngụy nhào". Sự chuyển biến về chiến lược đó đã tạo ra bước ngoặt căn bản về tương quan so sánh giữa lực lượng cách mạng và phản cách mạng, tạo ra những thuận lợi mới đối với cách mạng Việt Nam. Đến cuối năm 1974, trên cơ sở bám sát, đánh giá đúng tình hình thế giới, trong nước, nhất là so sánh lực lượng ta - địch, điểm mạnh và điểm yếu chí mạng của chế độ ngụy quyền Sài Gòn sau khi đế quốc Mỹ rút quân khỏi miền Nam Việt Nam và khả năng của ta..., Đảng ta nhận định: địch không thể đương đầu nổi với lực lượng cách mạng đã mạnh hẳn lên cả về chính trị và quân sự; từ đó, đi đến kết luận: nhân dân ta, dân tộc ta đang đứng trước thời cơ lịch sử để giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Để thực hiện mục tiêu chiến lược, Đảng ta cùng quân, dân cả nước đã hạ quyết tâm chiến lược, mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy quy mô lớn trên toàn chiến trường miền Nam, nhằm tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ ngụy quân với số lượng trên một triệu tên, đập tan bộ máy ngụy quyền, giành chính quyền về tay nhân dân. Để bảo đảm chắc thắng cho cuộc Tổng tiến công chiến lược, nhất là trận quyết chiến chiến lược (chiến dịch Hồ Chí Minh) - đòn đánh quyết định cuối cùng tại sào huyệt của địch, Đảng ta đã tính toán, cân nhắc và chuẩn bị hết sức chu đáo; trong đó có việc hệ trọng là tính tới khả năng Mỹ quay lại can thiệp với mức độ và hình thức khác nhau để có sự chủ động đối phó, với quyết tâm cao nhất cả về tinh thần và lực lượng bảo đảm đủ điều kiện giành thắng lợi, kết thúc toàn thắng cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Nhìn lại toàn bộ cuộc Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân 1975 (diễn ra theo đúng chủ trương, kế hoạch dự kiến của Bộ Chính trị), chúng ta thấy rõ: nghệ thuật lãnh đạo chiến tranh cách mạng và chỉ đạo chiến lược hết sức tài tình, sắc bén, táo bạo và đầy sức sáng tạo của Đảng ta, cùng với nền khoa học, nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân Việt Nam đặc sắc, phong phú, phát triển đến đỉnh cao. Trong đó, thành công trước hết và nổi bật của Đảng ta là đánh giá đúng tình hình, so sánh lực lượng giữa địch và ta, nắm vững thời cơ lịch sử, hạ quyết tâm chiến lược chính xác.
2 - Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp, kết hợp chặt chẽ các mặt đấu tranh; kết hợp tiến công và nổi dậy, nổi dậy và tiến công để giành thắng lợi quyết định
Đại thắng mùa Xuân 1975 là kết cục tất yếu của cả quá trình chiến đấu anh dũng, bền bỉ của đồng bào và chiến sĩ cả nước, trực tiếp là đồng bào và chiến sĩ miền Nam suốt một phần năm thế kỷ, từ sau thắng lợi vĩ đại của cách mạng Tháng Tám và kháng chiến chống thực dân Pháp. Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, với đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, Đảng ta đã động viên và phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân; đó là: sức mạnh của hậu phương lớn miền Bắc vừa chiến đấu, xây dựng, vừa chi viện đắc lực sức người, sức của cho miền Nam, kết hợp với sức mạnh của đồng bào và chiến sĩ miền Nam trực tiếp trên tuyến đầu đánh Mỹ và thắng Mỹ. Để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, Đảng ta đã kiên định và vận dụng sáng tạo quan điểm về con đường cách mạng miền Nam phải là con đường cách mạng bạo lực, với hai lực lượng cơ bản: lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang; kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao; kết hợp khởi nghĩa với chiến tranh cách mạng; đánh địch bằng ba mũi giáp công: quân sự, chính trị, binh vận; trên cả ba vùng chiến lược: rừng núi, nông thôn đồng bằng và thành thị; kết hợp chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy, thực hiện đánh địch trên mọi quy mô: đánh lớn, đánh vừa, đánh nhỏ của lực lượng vũ trang ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích); thực hiện làm chủ để tiêu diệt địch, tiêu diệt địch để giành quyền làm chủ. Quán triệt và nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công và phương châm chiến lược đánh lâu dài, nhưng đồng thời biết tạo thời cơ, tranh thủ thời cơ mở những cuộc tiến công chiến lược (1968, 1972) làm thay đổi cục diện chiến tranh có lợi cho ta, để cuối cùng thực hiện cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đánh bại hoàn toàn quân địch, giành thắng lợi triệt để và trọn vẹn.
Cuộc Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân 1975 là đỉnh cao của sự kết hợp giữa tiến công và nổi dậy, nổi dậy và tiến công để đánh bại và làm tan rã toàn bộ lực lượng địch, kết thúc chiến tranh trong thời gian ngắn, có lợi nhất. Nó thể hiện nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh và tài thao lược quân sự sắc bén, sáng tạo, táo bạo mà đúng đắn của Đảng ta. Sự kết hợp giữa tiến công quân sự của bộ đội chủ lực và nổi dậy của quần chúng được thực hiện hết sức chặt chẽ, hiệu quả, trong suốt cuộc Tổng tiến công chiến lược. Những đòn tiến công quân sự của bộ đội chủ lực, bằng một loạt trận đánh hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, đánh thẳng vào các thành thị, trung tâm đầu não, căn cứ quân sự lớn của địch, tiêu diệt, làm tan rã lực lượng lớn và gây cho chúng hoang mang tột độ đã tạo điều kiện hỗ trợ, thúc đẩy lực lượng chính trị của quần chúng nổi dậy, đập tan bộ máy kìm kẹp của địch ở địa phương, cơ sở để giành quyền làm chủ. Tương tự như vậy, sự nổi dậy mạnh mẽ của lực lượng quần chúng đông đảo trên nhiều địa bàn từ nông thôn đến thành thị, với nhiều hình thức phong phú, linh hoạt đã tạo thuận lợi cho bộ đội chủ lực cả về thế, lực và điều kiện để nhanh chóng đập tan sự kháng cự của địch; đồng thời, để tập trung lực lượng vào những mục tiêu chủ yếu của cuộc Tổng tiến công.
Như vậy, có thể thấy trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói chung, trong cuộc Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân 1975 nói riêng, Đảng ta đã vận dụng rất sáng tạo cả quy luật chiến tranh cách mạng và quy luật khởi nghĩa vũ trang, để tạo nên sức mạnh tổng hợp lớn nhất, vào thời điểm quyết định, kết thúc toàn thắng cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
3 - Kế thừa truyền thống quân sự của dân tộc; nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công, vận dụng sáng tạo nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân để giành thắng lợi từng bước, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn và triệt để, kết thúc toàn thắng cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại
Dân tộc ta có quyền tự hào bởi truyền thống đánh giặc, giữ nước hào hùng, với tư tưởng và nghệ thuật quân sự đặc sắc. Nhờ đó, trong suốt mấy ngàn năm lịch sử, cha ông ta đã nhiều lần đánh bại các kẻ thù xâm lược có tiềm lực kinh tế - quân sự hơn hẳn để giành và bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc.
Truyền thống quân sự dân tộc với nét đặc sắc cấu thành bởi những nhân tố cơ bản: "mưu sâu, kế hiểm, thế vững, lực mạnh" được Đảng ta kế thừa, vận dụng sáng tạo trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và phát triển từng bước trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đặc biệt đạt đến đỉnh cao trong cuộc Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân 1975. Đó là nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân Việt Nam hết sức độc đáo, sáng tạo. Nó được vận dụng trong cuộc Tổng tiến công chiến lược với những nội dung chủ yếu là: nghệ thuật lựa chọn hướng, mục tiêu tiến công đúng đắn, thời cơ tiến công thích hợp; nghệ thuật tổ chức xây dựng lực lượng và cơ động, tập trung lực lượng kịp thời; nghệ thuật xác định phương pháp tác chiến (cách đánh), hình thức tác chiến phù hợp; nghệ thuật lợi dụng, khai thác triệt để sai lầm của địch, hạn chế điểm mạnh, khoét sâu điểm yếu của chúng; thực hành tiến công mãnh liệt, thần tốc, táo bạo, bất ngờ để tiêu diệt từng bộ phận lớn quân địch, tiến tới tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân địch...
Trước hết, nói về nghệ thuật chọn hướng, mục tiêu và thời cơ tiến công. Đây là những vấn đề hết sức quan trọng của nghệ thuật quân sự, nhất là trong tác chiến chiến lược. Nếu lựa chọn hướng, mục tiêu, thời cơ tiến công chính xác sẽ góp phần giành thắng lợi và ngược lại, nếu chọn không đúng sẽ dẫn tới thất bại, vì thế không được phạm sai lầm, đặc biệt là trong Tổng tiến công chiến lược. Sau khi hạ quyết tâm chiến lược, chúng ta tiếp tục nghiên cứu rất kỹ về địch và thấy rằng: tuy lực lượng của chúng còn lớn, nhưng chúng phải rải khắp trên toàn miền Nam để tổ chức phòng thủ chiến lược, với đặc điểm bố trí lực lượng chỉ mạnh ở hai đầu. Từ đó, ta đã chọn Tây Nguyên, là địa bàn chiến lược quan trọng để mở đầu cuộc tiến công chiến lược. Thực tế cho thấy, sự lựa chọn đó hoàn toàn chính xác và rất sáng tạo. Với việc ta giải phóng Tây Nguyên và tiếp đó lần lượt giải phóng các tỉnh thuộc Quân khu II thì toàn bộ hệ thống phòng thủ chiến lược của địch ở miền Nam bị chia cắt, tạo nên phản ứng dây chuyền, làm rung chuyển toàn bộ bộ máy chiến tranh của địch. Ngay khi chiến dịch Tây Nguyên chưa kết thúc, ta đã kịp thời mở các mũi tiến công về Quân khu I lúc đó đã bị cô lập, nhằm vào mục tiêu quan trọng là Huế và Đà Nẵng. Sau khi lực lượng địch ở Quân khuI, Quân khu II bị xóa sổ, cùng với những hoạt động của quân và dân ta ở Quân khu III, Quân khu IV của địch được đẩy mạnh, đã xuất hiện những nhân tố mới của cuộc chiến tranh: địch bị tiêu diệt và tan rã hàng chục vạn quân; ta thì trên đà thắng lợi, lực lượng dồi dào, thế trận vững... Tình hình đó đã chín muồi để ta mở trận quyết chiến chiến lược (chiến dịch Hồ Chí Minh) tại Sài Gòn - Gia Định - sào huyệt cuối cùng của địch.
Như vậy, có thể thấy, với việc xác định hướng, mục tiêu tiến công đúng đắn, lựa chọn thời cơ tiến công thích hợp, chúng ta đã quán triệt tư tưởng chiến lược tiến công, phương châm đánh địch trên cả ba vùng chiến lược phù hợp với hoàn cảnh mới. Trong cuộc Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân 1975, ta tiếp tục đánh địch ở cả rừng núi, đồng bằng và thành thị, trong đó, chọn hướng rừng núi để mở đầu, sau đó phát triển xuống đồng bằng, nhưng hướng và mục tiêu của các cuộc tiến công đều là thành thị và cuối cùng đánh chiếm thủ đô của địch cũng là thành thị. Nét đặc sắc của việc chọn hướng, mục tiêu và thời cơ tiến công được thể hiện ở cả phạm vi chiến lược, chiến dịch và chiến thuật; trong đó, tựu trung, chúng ta đều nhằm vào những nơi hiểm yếu của địch để đánh bại chúng. Đó thường là nơi địch yếu hoặc tương đối yếu và cũng có thể là nơi địch tương đối mạnh hoặc mạnh, nhưng có sơ hở hoặc tương đối sơ hở và ở đó ta có điều kiện triển khai lực lượng, hình thành thế trận, phát huy được sức mạnh áp đảo, gây được bất ngờ, bằng cách đánh hay để đánh gục chúng.
Về nghệ thuật tổ chức lực lượng và cơ động, tập trung lực lượng. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, để bảo đảm chắc thắng, hoàn thành quyết tâm chiến lược đã xác định, chúng ta đã huy động lực lượng, cơ sở vật chất, kỹ thuật rất lớn. Tất nhiên, để thực hiện được điều này thì trước đó, Đảng ta đã chú trọng và dày công tổ chức xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân, đặc biệt là các binh đoàn chiến lược với các thành phần binh chủng kỹ thuật hiện đại (xe tăng, thiết giáp, pháo binh, phòng không...) có đủ khả năng tiến hành các chiến dịch tiến công hiệp đồng binh chủng quy mô lớn. Đó là một thành công nổi bật của Đảng ta về tổ chức xây dựng lực lượng chiến lược, trong bối cảnh vừa chiến đấu vừa tổ chức xây dựng; nhờ đó, chúng ta không những duy trì được sức mạnh chiến đấu trong suốt quá trình chiến tranh, mà còn chuẩn bị được lực lượng đủ mạnh để đánh đòn quyết định, kết thúc chiến tranh thắng lợi. Trong cuộc Tổng tiến công, ta có những binh đoàn chiến lược tại chỗ, bố trí sẵn trên các hướng, các địa bàn chiến lược; đồng thời, lại có những binh đoàn cơ động chiến lược, lực lượng dự bị chiến lược lớn luôn sẵn sàng tham chiến và đối phó với các tình huống đột xuất, bất trắc ngoài dự kiến. Việc tổ chức những binh đoàn chiến lược lớn gồm nhiều binh chủng hợp thành, được bố trí tại chỗ và cơ động một cách hợp lý đã bảo đảm cho ta luôn giành quyền chủ động về chiến lược và đủ khả năng tiến hành các chiến dịch tiến công quy mô lớn đồng thời và kế tiếp, giáng đòn quyết định, giành thắng lợi trong thời gian ngắn, có lợi nhất. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, chúng ta đã tập trung lực lượng mạnh, có ưu thế hơn hẳn địch về các chỉ số so sánh: tổng quân số, xe tăng, pháo binh,... với sức cơ động cao; nhờ đó, ta đã duy trì được sức mạnh chiến đấu, tốc độ tiến công, hiệu suất chiến đấu cao, thực hiện tốt phương châm: "thần tốc, táo bạo, bất ngờ" mà Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã chỉ thị để đánh thắng hoàn toàn quân địch trong thời gian ngắn. Những đòn tiến công mãnh liệt của bộ đội chủ lực, kết hợp chặt chẽ với sự tiến công và nổi dậy mạnh mẽ của lực lượng vũ trang địa phương và quần chúng trên các địa bàn, đã tạo nên sức mạnh vô cùng lớn để đánh bại ngụy quân, đập tan ngụy quyền là nét độc đáo, đầy sức sáng tạo của chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.
Về phương pháp tác chiến, hình thức tác chiến. Trong cuộc Tổng tiến công chiến lược, cũng như trong từng chiến dịch, ta đã quán triệt tư tưởng chiến lược tiến công, vận dụng phương pháp tác chiến, hình thức tác chiến hết sức linh hoạt, táo bạo, sáng tạo, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, nên đã đạt hiệu suất, hiệu quả chiến đấu rất cao. Chúng ta đã phát triển lên một bước mới cách đánh truyền thống của chiến tranh nhân dân: kết hợp tiến công và nổi dậy; kết hợp, phối hợp tác chiến của lực lượng vũ trang ba thứ quân; kết hợp cả đánh lớn, đánh vừa và đánh nhỏ... Ta đã mở những chiến dịch tiến công hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, quan hệ chặt chẽ với nhau, theo ý định chiến lược thống nhất: thực hiện chia cắt, bao vây, phá vỡ hệ thống phòng thủ chiến lược của địch, tiêu diệt và làm tan rã bộ phận lớn quân địch, kết hợp với tiến công rộng khắp ở quy mô vừa và nhỏ của lực lượng vũ trang địa phương và nổi dậy mạnh mẽ giành quyền làm chủ của quần chúng. Cách đánh đó đã làm cho địch rơi vào tình thế hoảng loạn, sụp đổ hoàn toàn. Trong các chiến dịch tiến công, chúng ta đã vận dụng linh hoạt phương pháp tác chiến và các hình thức, thủ đoạn tác chiến: tiến công trận địa, bao vây, chia cắt, đột phá thọc sâu... làm cho địch không thể đối phó, liên tiếp bị bất ngờ về nhiều mặt. Khi thì chúng bị bất ngờ về phương hướng, mục tiêu tiến công của ta như ở Tây Nguyên; khi thì bị bất ngờ về cách đánh như ở Huế, hoặc thời gian tiến công như ở Đà Nẵng; khi thì bị bất ngờ cả về thời gian, tốc độ tiến công và quy mô tập trung lực lượng của ta như ở Sài Gòn - Gia Định. Nhưng trên hết, bất ngờ lớn nhất đối với địch là thời gian của cuộc Tổng tiến công chiến lược; chúng đã tính toán sai khi cho rằng: vào thời điểm đó, ta chưa đủ khả năng mở cuộc Tổng tiến công chiến lược. Đó là điểm mấu chốt khiến chúng hoàn toàn bị động về chiến lược, mà đã bị động về chiến lược thì thất bại là tất yếu.
Trên đây là một số nội dung chính về nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân đã được vận dụng trong cuộc Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân 1975. Cùng với đó, còn rất nhiều nội dung khác như nghệ thuật vận dụng thời gian, không gian; nghệ thuật đánh trận mở đầu, trận kết thúc; nghệ thuật tổ chức và xây dựng thế trận; nghệ thuật nghi binh, lừa địch... Và, tất nhiên, cùng với nghệ thuật quân sự cần phải nhấn mạnh một nhân tố rất cơ bản tạo nên sức mạnh áp đảo địch để giành thắng lợi là nhân tố chính trị - tinh thần; đây là chỗ mạnh tuyệt đối, mang tính truyền thống của dân tộc Việt Nam ta.
Đại thắng mùa Xuân 1975 kết thúc toàn thắng cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi là niềm tự hào của nhân dân ta. ý nghĩa và những bài học kinh nghiệm quý báu được rút ra từ chiến thắng vĩ đại đó còn nguyên giá trị đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Trách nhiệm và cũng là hành động thiết thực nhất của chúng ta là tiếp tục nghiên cứu những kinh nghiệm đó để phát triển nền khoa học, nghệ thuật quân sự Việt Nam đáp ứng yêu cầu của công cuộc củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới./. _____________________________________________________________________________________________
(1), (2) Văn kiện Đảng: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t 37, tr 472, 484