Chủ Nhật, 29 tháng 4, 2012

tư liệu về Đại thắng mùa xuân 1975 (phần 1)

Tư liệu về Đại thắng mùa xuân 1975 (phần 1)
+ Chiến dịch Tây Nguyên (3/1975)

1. Chiến dịch Tây Nguyên và những ngày tháng ba mở màn giành thắng lợi giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà.

          Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, một vấn đề có ý nghĩa then chốt đối với thành công của toàn bộ cuốc chiến tranh chống Mỹ cứu nước là chọn hướng tiến công có tác động lớn với trận mở màn có hiệu quả để bảo đảm thắng lợi chắc chắn, nhanh gọn, giành được yếu tố bất ngờ, tạo được thế chiến lược làm thay đổi toàn bộ cục diện chiến trường. Đó là chọn đúng vị trí xung yếu ở Tây Nguyên để đánh thắng ngay bước đầu.
          Trong khi đó, địch luôn cho rằng Buôn Ma Thuột là điểm an toàn và không thể xâm phạm, nhất là không hề nhận được thông tin có dấu hiệu bị tấn công.
          Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị thể hiện trong kế hoạch chiến lược hai năm 1975-1976 và đặc biệt trong năm 1975 tranh thủ thời cơ bất ngờ tiến công địch trên quy mô lớn, Quân ủy Trung ương quyết định từ ngay 1 đến ngày 9 tháng 3/1975, cho bộ đội Tây Nguyên bí mật triển khai chiến dịch tạo thế bao vây, cô lập, sẵn sàng đánh đòn phủ đầu Buôn Ma Thuột và đánh chiếm toàn bộ thị xã này để giải phóng tỉnh Đắc Lắc tiến tới giải phóng toàn bộ Tây Nguyên và phát triển xuống Phú Yên, Khánh Hòa thực hiện chia cắt và tiêu diệt địch.
          Ngày 10/3/1975, quân ta từ bốn cánh tiến vào bằng cơ giới theo các trục đường đã chọn sẵn, bỏ qua các đồn bót giặc ở ngoại vi, đánh thẳng vào thị xã Buôn Ma Thuột. Tới trưa, ta giải phóng hoàn toàn thị xã này, làm ngòi nổ mở màn cho chiến thắng trong chiến dịch Tây Nguyên và tiến tới giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Bị bất ngờ, địch hoảng loạn và từ đó sai lầm về chiến lược. Tức tốc, Nguyễn Văn Thiệu đến Cam Ranh lệnh cho quân đòan II ngụy rút khỏi Phây Cu – Công Tum và toàn bộ Tây Nguyên về giữ vùng duyên hải Nam Trung Bộ trước sức tiến công như vũ bão của quân ta. Như vậy tới ngày 17/3/1975, thị xã Công Tum và thành phố Plây Cu được giải phóng.
          Ngày 19/3/1975, với thắng lợi chiến dịch Tây Nguyên của ta, phòng tuyến phiá Bắc của quân đội Sài Gòn bị lung lây. Quân địch vội vã rút khỏi Quảng Trị để tăng cường phòng thủ tuyến Thừa Thiên – Huế và Đà Nẵng. Toàn tỉnh và thị xã Quảng Trị nhanh chóng được giải phóng gồm cả Hướng Hóa, Đa Krông, Cam Lộ vùng núi, Gio Linh, Vĩnh Linh, Hải Lăng vùng biển.
          Ngày 24/3/1975, thị xã Tam Kỳ được giải phóng. Thị xã này vốn là một căn cứ quân sự lớn của Mỹ, có hệ thống phòng thủ kiên cố, trước sức tiến công của ta, quân địch lại tăng thêm lực lượng phòng thủ. Từ ngày 23/3, Trung đoàn Ba Gia của ta được tăng cường thêm hai tiểu đoàn và 10 xe tăng, xe bọc thép đánh hướng chủ yếu và đột phá tuyến ngăn chặn của địch từ Suối Đá đến bờ Bắc sông Tam Kỳ. Sau khi giải phóng Tam Kỳ ta lại chiếm luôn Quảng Tín và Gia Nghĩa.
          Ngày 25/3/1975, tỉnh Quảng Ngãi được giải phóng. Sáng ngày 24/3 Trung đoàn 576 pháo binh của ta bắn ào ạt vào các mục tiêu của địch. Hai tiểu đoàn của quân khu 5, tiểu đoàn 7 bộ đội địa phương với chi viện thêm xe tăng, xe bọc thép đồng loạt tiến công tiếp theo vào các mục tiêu của địch ở vùng ven và tiến vào thị xã Quảng Ngãi. Đường đi Sơn Tịnh và Chu lai đều bị quân ta chiếm giữ. Hơn 4.000 quân địch còn lại hốt hoảng tháo chạy khỏi thị xã Quảng Ngãi với đoàn xe gồm 200 chiếc đi trên QL 1 đều bị quân ta bắt giữ. Sáng ngày 25/3 quân ta vào chiếm đóng thị xã Quảng Ngải, các quận lỵ đồng thời giải phóng toàn tỉnh.
          Ngày 26/3/1975, tới phiên Huế cùng chịu chung số phận với chiến trường Quảng Trị - Thừa Thiên trước cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975. Dân địa phương nổi dậy phối hợp chặt chẽ với các lực lượng vũ trang của ta tiến công địch ở khắp nơi và nhanh chóng đập tan bộ máy kìm kẹp, giành quyền làm chủ ở các quận. Nhiều đơn vị lính ngụy đã mang súng trở về với nhân dân.
          Ngày 29/3/1975, chiến dịch Huế - Đà Nẵng đã kết thúc thắng lợi bằng chiến thắng Đà Nẵng. Quân ta giải phóng Đà Nẵng – thành phố lớn thứ hai ở miền Nam. Chiến dịch này mở đầu ngày 21/3/1975. Quân đòan 2 và lực lượng vũ trang quân khu Trị - Thiên, quận khu 5 dưới sự chỉ huy trực tiếp của Bộ Tổng tư lệnh đã chuyển hóa mau lẹ, phát triển thành một chiến dịch tổng hợp đồng binh chủng có quy mô lớn nên đã tiêu diệt và làm tan rã hoàn toàn quân đoàn I và quân khu I của địch, đập tan hệ thống phòng thủ kiên cố của chúng, giải phóng 5 tỉnh liền nhau là Quảng Trị, Thừa Thiên, Đà Nẵng,Quảng Nam, Quảng Ngãi, trong đó có hai thành phố Huế và Đà Nẵng.
          Ngày 31/3/1975, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp tại Hà Nội nghe Quân ủy Trung ương báo cáo chiến thắng của ta trong chiến dịch Tây Nguyên và chiên dịch Huế - Đà Nẵng đã nhận định: Cuộc tổng tiến công chiến lược của ta thực tế đã bắt đầu và chỉ trong ba tuần lễ đã giành được thắng lợi cực ký to lớn, diệt và làm tan rã trên 35% sinh lực địch, loại khỏi vòng chiến hai quân đoàn và chiếm đóng hai quân khu của giặc, hơn 40% binh khí kỹ thuật hiện đại của chúng bị mất và hơn 40% cơ sở vật chất và hậu cần của quân Sài Gòn, giải phóng liên tiếp 12 tỉnh thành với gần 8 triệu dân.
Do đó, Bộ Chính trị quyết định mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng Sài Gòn trong thời gian sớm nhất và tốt nhất là tháng 4 năm 1975, không thể chậm hơn.  Tư tưởng chỉ đạo lúc đó là :”Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”. Bộ Chính trị thành lập Hội đồng chi viện chiến trường và giao cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Ủy viên Bộ Chính trị làm Chủ tịch.
          Như vậy, kể từ đầu tháng 4/1975, thành phố Nha Trang, quân cảng Cam Ranh và tỉnh Bình Long đã được giải phóng. Tới đây, chỉ còn lại một vài tỉnh thuộc miền Nam Trung Bộ, miền Đông và miền Tây Nam Bộ kể cả thành phố Sài Gòn (thủ đô của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa), các hải đảo mà chiến dịch giải phóng miền Nam mang tên Bác Hồ kính yêu trong tháng 4/1975 đã tiến hành thắng lợi vẻ vang.
          Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử nhằm giải phóng hoàn toàn miền Nam, chỉ với tháng 3/1975 (trong khi hội nghị Trung ương cuối năm 1974 dự kiến hai năm 1975-1976 giải phóng miền Nam), quân và dân ta đã làm chủ cả Tây Nguyên và một loạt các tỉnh miền Trung duyên hải từ Quảng Trị xuống tới Khánh Hòa. Phần đất còn lại là dành cho tháng 4 lịch sử kết thúc chính quyền Sài Gòn, cái gọi là nước Việt Nam Cộng Hòa được đế quốc Mỹ dựng lên từ sau hiệp định Paris 1954 tới năm 1975 đã bị xóa sổ.
          Tháng 3/1975 quả là tháng được mùa của cuộc tổng tiến công và nổi dậy do Đảng và Nhà nước ta lãnh đạo đã kết thúc thắng lợi gần một nửa sinh lực của địch với sự chi viện to lớn của Mỹ và các nước đồng minh của Mỹ làm đà cho cuộc chiến chống Mỹ cứu nước kết thúc nhanh chóng trong tháng 4/1975. Tháng 3/1975 mở màn và tháng 4/1975 lịch sử đã đem lại chiến thắng vô địch có giá trị bằng 24 tháng theo dự kiến.
Vương Liêm


2. Chiến trường Tây Nguyên mùa Xuân Ất Mão -1975
Cập nhật ngày: 25/01/2011 10:48:11(báo Đắc Nông online)
Theo quyết định của Bộ Chính trị, ngày 5-2-1975, nhằm ngày 25 tháng Chạp năm Giáp Dần, Đại tướng Văn Tiến Dũng, Ủy viên Bộ Chính trị, Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam được cử vào mặt trận Tây Nguyên để trực tiếp theo dõi và chỉ đạo chiến dịch. Sau khi chỉ đạo Bộ Tư lệnh mặt trận Tây Nguyên tổ chức cho bộ đội ăn tết, đón xuân Ất Mão tại sở chỉ huy của Đại diện quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh ở phía tây nam thị xã Buôn Ma Thuột, đồng chí Văn Tiến Dũng thay mặt Quân ủy Trung ương công bố quyết định thành lập Bộ Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên, do Trung tướng Hoàng Minh Thảo làm Tư lệnh; Đại tá Đặng Vũ Hiệp: Chính ủy. Sau khi có quyết định thành lập, cơ quan Bộ chỉ huy chiến dịch xây dựng kế hoạch tác chiến cụ thể. Các bộ phận trinh sát mục tiêu Buôn Ma Thuột và các mục tiêu khác khẩn trương triển khai nhiệm vụ.

Để phục vụ cho chiến dịch, từ đầu mùa xuân năm 1975, nhân dân các dân tộc trong vùng giải phóng ở Tây Nguyên nô nức tham gia sửa chữa đường, tải gạo, tải đạn…, chuẩn bị đón quân giải phóng Plây Ku, Kon Tum. Song song với việc hoàn thiện mạng đường chiến lược, chiến dịch, Bộ Chỉ huy chiến dịch chỉ đạo, tổ chức hoạt động nghi binh rộng lớn, thu hút địch về hướng Plây Ku, Kon Tum; giữ được yếu tố bí mật, bất ngờ cho đến ngày mở màn chiến dịch.

Hoạt động nghi binh chiến dịch của ta, đặc biệt là hoạt động tác chiến của Sư đoàn 968 đã thực sự có hiệu quả. Lực lượng của địch ở Đắk Lắk và khu vực Buôn Ma Thuột cho đến đầu tháng 3-1975 vẫn không có gì thay đổi. Trong khi đó, Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320 của ta đã bí mật từ Bắc Tây Nguyên đã vào đây. Từ đó, ta có điều kiện và thời cơ tấn công địch theo phương án 1: tiến công thị xã Buôn Ma Thuột khi địch không có phòng ngự dự phòng. Cùng với đó, hoạt động đánh cắt giao thông của ta đã cắt đứt ba tuyến giao thông huyết mạch (đường 14, 19, 21) và nghi binh căng kéo địch có hiệu quả, tạo được thế chiến lược, chiến dịch rất có lợi: chia cắt Tây Nguyên với đồng bằng Trung bộ, chia cắt Bắc và Nam Tây Nguyên; bao vây cô lập thị xã Buôn Ma Thuột; tạo điều kiện cho các đơn vị tham gia chiến dịch hoàn thành tốt công tác chuẩn bị, sẵn sàng nổ súng đúng kế hoạch.

Sau khi thực hiện thắng lợi việc chia cắt chiến dịch và chiến lược, Bộ Chỉ huy chiến dịch lệnh cho Sư đoàn 320 tiến công chi khu quân sự Thuần Mẫn – mục tiêu quan trọng đầu tiên của chiến dịch. Ngày 7-3, Tiểu đoàn 48 Sư đoàn 320 tiến công tiêu diệt cứ điểm Chư Sê – một cứ điểm do lính bảo an chiếm giữ án ngữ trên đường 14. Cứ điểm này bị tiêu diệt sau 40 phút chiến đấu, buộc địch phải đưa một trung đoàn từ Buôn Ma Thuột lên đối phó. Ngày 8 -3, Trung đoàn 48 Sư đoàn 320 đánh chiếm Cẩm Ga (quận lỵ Thuần Mẫn). Sau hơn 1 giờ giao chiến, ta làm chủ hoàn toàn Thuần Mẫn. Đường 14 từ Plây Ku đi Buôn Ma Thuột bị cắt hẳn. Lúc này địch chỉ có thể tăng viện cho Buôn Ma Thuột bằng đường không.
 Ngày 9-3, nhằm ngày 27 tháng Giêng năm Ất Mão, Sư đoàn 10 kết hợp với Trung đoàn pháo binh 40 tiến công Đức Lập. Đây là tuyến phòng thủ liên hoàn gồm 5 cứ điểm của địch trên đường 14, phía tây nam Buôn Ma Thuột. Với đòn tiến công mạnh mẽ của pháo binh và bộ binh ta, các căn cứ 23, Núi Lửa của địch lần lượt bị tiêu diệt. Địch dồn lực lượng chống cự. Do nắm tình hình địch không chắc nên Sư đoàn 10 phải tổ chức tiến công hai đợt mới dứt điểm được mục tiêu. Toàn bộ quân địch ở Đức Lập gồm 3 tiểu đoàn bị tiêu diệt.
Xe tăng Quân Giải phóng tiến vào thị xã Buôn Ma Thuột. Ảnh: Tư liệu
Trước tình hình Tây Nguyên hết sức nguy kịch, 11 giờ ngày 9-3, tướng Phạm Văn Phú – tư lệnh quân đoàn 2, quân khu 2 đã bay lên Buôn Ma Thuột triệu tập cuộc họp bất thường với tư lệnh phó sư đoàn 23 và tỉnh trưởng Đắk Lắk. Tướng Phạm Văn Phú nhận định: Tình hình Đức Lập đã quá xấu, không còn khả năng cứu vãn, nên không tăng viện nữa. Quân giải phóng đánh Quảng Đức, uy hiếp Buôn Ma Thuột chỉ để nghi binh tạo điều kiện cho vài ngày tới sẽ tập trung lực lượng đánh vào Kon Tum, Plây Ku. Do vậy việc chính hiện nay là tăng cường mọi khả năng, đối phó tốt nhất cho trọng điểm là Kon Tum và Plây Ku.

Nhận định trên bộc lộ hoàn toàn sự bất ngờ bị động của địch trước đòn tiến công chiến lược của ta ở Tây Nguyên. Phần thắng trong “cuộc đấu trí tháng ba”, giữa ta và địch trên chiến trường Tây Nguyên đã thuộc về Bộ Thống soái Việt Nam – trực tiếp là Bộ Chỉ huy chiến dịch Tây Nguyên.

Đêm mồng 9 rạng ngày 10-3-1975, ta đã hoàn thành việc đưa một lực lượng lớn từ xa và từ nhiều hướng bí mật vào chiếm lĩnh trận địa. Với sự nỗ lực lớn của cán bộ, chiến sỹ, các đơn vị đã chiếm lĩnh vị trí xuất phát tiến công đúng yêu cầu của kế hoạch. Khi quân đoàn 2 ngụy đang tập trung đối phó với chủ lực của ta ở Kon Tum, Plây Ku, đường 21, 14, 19, thì vào 2 giờ sáng ngày 10 – 3, Trung đoàn đặc công 198 được tăng cường các phân đội hỏa lực B.72, ĐKZ nổ súng đánh sân bay thị xã, sân bay Hòa Bình, khu kho Mai Hắc Đế, mở màn cuộc tiến công Buôn Ma Thuột. Cùng lúc đó, pháo binh của ta ở các trận địa xung quanh Buôn Ma Thuột bắt đầu bắn phá mãnh liệt hậu cứ sư đoàn 23, sở chỉ huy tiểu khu Đắk Lắk, trại pháo binh, thiết giáp… của quân ngụy. Cuộc pháo kích kéo dài tới 6 giờ đồng hồ ngày 10-3, làm nổi loạn và tê liệt cơ quan chỉ huy, tiêu hao một bộ phận lực lượng địch trong thị xã.

Đến chiều ngày 10-3, quân địch biết rõ ý định của ta đánh chiếm Buôn Ma Thuột. Tổng thống ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu và tư lệnh quân đoàn Phạm Văn Phú lệnh cho binh lính còn lại trong thị xã “tử thủ Buôn Ma Thuột bằng mọi giá” để chờ quân ứng cứu, nhưng đã quá muộn. Các tuyến đường 14, 19, 21 đã bị cắt đứt; bầu trời thị xã đã bị pháo phòng không của ta khống chế. Lực lượng của địch ở Bắc Tây Nguyên và các tỉnh Trung bộ còn đông, nhưng không còn đường lên cứu đồng bọn ở Buôn Ma Thuột.

11 giờ ngày 11-3-1975, sở chỉ huy sư đoàn 23 ngụy – mục tiêu cuối cùng ở Buôn Ma Thuột bị tiêu diệt. Đại tá Vũ Thế Quang – sư đoàn phó sư đoàn 23 và đại tá Nguyễn Trọng Luật, tiểu khu trưởng khu Đắk Lắk bị bắt.  Sau 32 giờ chiến đấu vô cùng anh dũng, bộ đội ta đã tiêu diệt và bắt toàn bộ quân địch ở Buôn Ma Thuột, giải phóng hoàn toàn thị xã có vị trí đặc biệt này.

Chiều ngày 12-3, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương gửi điện khen ngợi quân và dân Tây Nguyên. Chấp hành chỉ thị của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, ta tập trung lực lượng nhanh chóng tiêu diệt tàn quân địch ở Buôn Ma Thuột, phát triển ra xung quanh thị xã và sẵn sàng đánh quân địch tiếp viện. Cùng với đòn tiến công “điểm huyệt” Buôn Ma Thuột, ở Bắc Tây Nguyên và chiến trường Trị - Thiên, Khu 5, bộ đội ta đẩy mạnh tác chiến phối hợp, tạo thế chia cắt, kìm giữ, buộc quân đoàn 2 ngụy phải phân tán lực lượng đối phó. Trong một chuỗi tác chiến phối hợp, có Trung đoàn 271 bộ binh và tiểu đoàn 14 đặc công đánh chiếm một số vùng ven, áp sát sân bay Nhơn Cơ (Quảng Đức). Đến ngày 20-3, Trung đoàn 271 đánh chiếm Kiến Đức, tiếp tục giải phóng Gia Nghĩa. Trung đoàn 13 Sư đoàn 3 và một tiểu đoàn của Trung đoàn 95 A giải phóng quận lỵ An Khê... Trước đó, ngày 14-3-1975, ngụy quyền Sài Gòn quyết định bỏ Tây Nguyên, rút quân thật nhanh theo đường số 7, về giữ miền duyên hải Trung bộ, hy vọng bảo toàn lực lượng. Ngày 23-3-1975, nhằm ngày 11 tháng Hai năm Ất Mão, thị xã Gia Nghĩa được hoàn toàn giải phóng…

Như vậy, với chiến dịch Tây Nguyên và bước phát triển của nó, quân và dân ta đã thực hiện xuất sắc nhiệm vụ tiêu diệt và làm tan rã hoàn toàn lực lượng quân sự của địch ở chiến trường Tây Nguyên, giải phóng một địa bàn chiến lược quan trọng, phá vỡ một trong những khu vực phòng thủ chiến lược của địch. Cùng với những thắng lợi khác trên khắp cùng miền Nam, thắng lợi vang dội ở Tây Nguyên đã tạo ra sự sụp đổ đột biến toàn diện của địch, đẩy quân ngụy Sài Gòn vào thế bị tiêu diệt và tan rã không thể cứu vãn nổi.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 đã mở đầu bằng một đòn quyết chiến chiến lược, một thắng lợi có ý nghĩa chiến lược: “Nó đánh dấu một bước suy sụp mới của Mỹ - ngụy, một bước ngoặt trong quá trình phát triển của cục diện quân sự và chính trị ở miền Nam. Với chiến thắng Tây Nguyên, cuộc chiến tranh cách mạng đã bước sang một giai đoạn mới, từ tiến công có ý nghĩa chiến lược phát triển thành tổng tiến công chiến lược trên toàn chiến trường miền Nam

Hồ Văn(Theo Đại thắng mùa Xuân 1975: Chiến thắng của sức mạnh Việt Nam)

4. Tạo sức mạnh ưu thế đánh trận then chốt chiến dịch tiến công

(3/9/2011, Báo Quân đội nhân dân)

QĐND - Mở chiến dịch tiến công nhằm nhiều mục đích, trong đó tiêu diệt địch giữ vị trí quan trọng nhất để làm chuyển biến cục diện chiến trường hoặc tạo đột biến về chiến lược. Nhân lõi của nghệ thuật chiến dịch là tổ chức, điều hành đánh thắng các trận then chốt, then chốt quyết định. Thắng lợi của trận then chốt là một “cú hích” quan trọng, quyết định đến hoàn thành nhiệm vụ, mục đích chiến dịch. Chính vì vậy, khi tổ chức và thực hành tác chiến, người chỉ huy luôn coi trọng vận dụng mưu kế để bày binh, bố trận; nghi binh, đánh lừa nhằm buộc địch phải điều động lực lượng và bị động đối phó theo cách đánh của ta.
Lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ vận chuyển quân, vũ khí đạn dược cho chiến dịch, tạo ưu thế về lực lượng chiến dịch trong Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975. Ảnh tư liệu.

Tập trung lực lượng, phương tiện, tạo sức mạnh ưu thế, đánh chắc thắng từng trận then chốt đã trở thành nguyên tắc hàng đầu của tổ chức, sử dụng lực lượng chiến dịch và luôn được bộ tư lệnh các chiến dịch quán triệt, quyết tâm thực hiện. Bộ tư lệnh các chiến dịch đã vận dụng kết hợp, linh hoạt, sáng tạo các biện pháp như: Tổ chức lực lượng tiến hành nghi binh, thu hút sự chú ý và tập trung lực lượng của địch sang hướng, khu vực khác, tạo sơ hở trên khu vực, mục tiêu tác chiến chủ yếu; lực lượng chốt chặn, chia cắt để hạn chế, tiến tới loại trừ khả năng địch cơ động bằng đường bộ, không cho chúng kịp thời tăng cường lực lượng cho mục tiêu đang bị ta tiến công; lực lượng chiến đấu tạo thế, đánh chiếm các mục tiêu nhỏ xung quanh để cô lập mục tiêu chủ yếu. Lực lượng vũ trang địa phương được sử dụng kết hợp với lực lượng đặc công, biệt động, lực lượng luồn sâu, lót sẵn, thực hành đánh sâu, đánh hiểm, đánh rộng khắp, buộc địch phải phân tán lực lượng và bị động đối phó; tổ chức hỏa lực chặt chẽ kịp thời chế áp, khống chế các trận địa pháo binh, súng cối, hạn chế hoạt động bắn phá của không quân địch và tổ chức bảo đảm các mặt chu đáo để cơ động lực lượng nhanh, đánh đúng thời cơ.
Trong các trận then chốt tiến công địch phòng ngự trận địa, tỷ lệ tập trung lực lượng thường lớn hơn so với các trận đánh địch cơ động, tăng viện phản kích, ứng cứu giải tỏa (địch ngoài công sự). Chiến dịch Biên Giới năm 1950, về bộ binh ta hơn địch không nhiều, nhưng trận tiến công cụm cứ điểm Đông Khê, ta đã tập trung lực lượng ưu thế tuyệt đối hơn địch, với tỷ lệ bộ binh: 9/1; pháo binh: 6,5/1. Chiến dịch Tây Nguyên năm 1975, xét trên toàn chiến dịch ưu thế lực lượng ta không hơn địch, nhưng trận then chốt mở đầu chiến dịch tiến công thị xã Buôn Ma Thuột, ta đã tập trung lực lượng ưu thế tuyệt đối, với tỷ lệ bộ binh: 4,5/1; xe tăng: 5,5/1; pháo binh: 5/1. Bộ tư lệnh chiến dịch đã thực hiện thành công kế hoạch nghi binh tạo thế công phu, đánh mạnh như thật khiến cho địch ngày càng tin chắc hướng chủ yếu của ta là Bắc Tây Nguyên; tận dụng triệt để sai lầm và từng bước dẫn dắt tình huống để thu hút và giam chân lực lượng chủ lực cơ động của địch trên hướng Kon Tum, Plei-cu, làm cho Buôn Ma Thuột đã mỏng yếu lại càng thêm sơ hở. Đồng thời, ta tổ chức, sử dụng các cụm lực lượng, lập thế trận chia cắt địch thành nhiều cụm cô lập, tách biệt nhau; sử dụng pháo binh bắn phá sân bay Cù Hanh và sân bay Hòa Bình, bao vây, cô lập và “khóa chặt” thị xã Buôn Ma Thuột về đường bộ, làm cho địch muốn ứng cứu, chỉ còn cách duy nhất là đổ bộ đường không bằng máy bay trực thăng.
Cùng với tập trung lực lượng ưu thế, các chiến dịch đã sử dụng những đơn vị có kinh nghiệm, sở trường đánh công kiên để thực hiện trận then chốt mở đầu tiến công địch phòng ngự trong công sự; sử dụng các đơn vị có kinh nghiệm đánh vận động để đánh địch tăng viện, phản kích, ứng cứu giải tỏa. Khi địch đang phòng ngự ổn định, có tổ chức thì ta tập trung lực lượng hơn hẳn địch ở trọng điểm, đánh có chuẩn bị, phát huy sức mạnh tác chiến hiệp đồng binh chủng, đánh chắc thắng như các trận then chốt ở đợt 1 Chiến dịch Trị-Thiên năm 1972. Khi địch đang hoang mang, dao động, có biểu hiện tan rã hoặc rút chạy, ta đã chớp thời cơ, sử dụng lực lượng đánh thật nhanh, thật mạnh làm cho địch trở tay không kịp như Chiến dịch Huế - Đà Nẵng và Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975.
Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc tương lai, đối tượng tác chiến của chiến dịch tiến công là quân địch có ưu thế về hỏa lực, khả năng cơ động, sử dụng vũ khí công nghệ cao và tác chiến điện tử rộng rãi. Chiến dịch tiến công dù diễn ra ở quy mô nào cũng vẫn phải tổ chức lực lượng đánh địch rộng khắp, kết hợp đánh nhỏ đánh vừa, đánh lớn; sử dụng lực lượng tập trung vào không gian, thời điểm quyết định đánh thắng trận then chốt. Vì vậy, ta cần phải tiếp tục nghiên cứu, vận dụng sáng tạo những giá trị lịch sử của nghệ thuật tạo sức mạnh ưu thế đánh trận then chốt của chiến dịch tiến công trong hai cuộc kháng chiến cho phù hợp với điều kiện tác chiến mới.
Đại tá, Thạc sĩ Hoàng Văn Quý

5. Từ chiến thắng Buôn Ma Thuột nghĩ về địa chiến lược Tây Nguyên


6. Buôn Ma Thuột - Trận đánh 33 giờ làm sụp đổ hệ thống

Buôn Ma Thuột là trận đánh xuất sắc mở màn Đại thắng Mùa Xuân 1975. Sau đây là trích đoạn hồi ký của Đại tướng Chu Huy Mân.

(…) Sau hai năm chiến đấu, quân và dân miền nam đã giáng cho địch những đòn thất bại nặng ở Trị -Thiên, Tây Nguyên, đồng bằng miền trung, miền Đông Nam Bộ. Đến cuối năm 1974, tuy địch vẫn còn trên 1 triệu quân trong đó có 13 sư đoàn quân cộng hòa và 18 liên đoàn quân biệt động, hơn 2.000 xe tăng, xe bọc thép, 1.500 khẩu pháo lớn, 6 sư đoàn không quân, nhưng chúng vẫn buộc phải lui về phòng ngự để giữ những phần đất do chúng kiểm soát, nhất là các đô thị và các vùng đông dân, nhiều của. Quốc hội Mỹ cắt bỏ viện trợ bổ sung tháng 6 năm 1974, Nguyễn Văn Thiệu phải đề ra chủ trương “đánh giặc theo kiểu con nhà nghèo”, điều không thể nào làm được với một quân đội tay sai.

Giữa thàng 12 năm 1974, ta mở chiến dịch Phước Long. Trong hơn 20 ngày (12/12/1974 đến 6/1/1975) ta đã diệt và bắt trên 3.000 tên địch, thu trên 3.000 súng các loại, giải phóng đường 14, thị xã và toàn tỉnh Phước Long - tỉnh đầu tiên ở miền nam được hoàn toàn giải phóng. Rõ ràng so sánh lực lượng giữa ta và địch đã chuyển sang một thời kì mới - thời kì ta tiến công áp đảo quân địch để giành thắng lợi hoàn toàn.

Chiến trường Khu 5, thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa ba vùng chiến lược và có mối liên quan chặt chẽ với nhau trong từng khu vực.

Ở phía bắc, sau thắng lợi Hè - Thu 1974, ba tỉnh miền trung: Quảng Đà, Quảng Nam, Quảng Ngãi đã nối liền với bắc Kon Tum, tạo thành một căn cứ rộng lớn kéo dài từ rừng núi đến đồng bằng. Từ vùng giáp ranh xuống đồng bằng ven biển , thế trận của ta vững chắc và uy hiếp thế trận của địch.

Do nhận định sai lầm về chiến lược và lệ thuộc vào thế bố trí “nhẹ ở giữa nặng hai đầu”, lực lượng địch ở Khu 5 cũng bố trí theo thế “nặng ở phía bắc nhẹ ở phía nam”.

Cuối năm 1974, căn cứ vào mệnh lệnh sơ bộ của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, Tổng Tư lệnh,Thường vụ Khu ủy, Đảng ủy - Bộ tư lệnh Quân khu 5 và Đảng ủy - Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên sơ bộ hình thành kế hoạch chiến dịch.

Ở Tây Nguyên, tiến công và nổi dậy tiêu diệt từ 3 đến 4 trung đoàn bộ binh, thiết giáp, đánh thiệt hại nặng từ 1 đến 2 sư đoàn chủ lực ngụy, diệt nhiều hơn đơn vị bảo an, dân vệ, làm tụt nhanh quân số của địch; mở rộng đường hành lang chiến lược từ đường 14 qua Gia Nghĩa xuống đường 20 nối ba tỉnh đồng bằng phía nam Khu 5; diệt từ 3 đến 4 chi khu, từ 1 đến 2 tỉnh lỵ (Gia Nghĩa,Cheo Reo).

Giải phóng phần lớn vùng đất bằng phía nam Plây Cu và Cheo Reo, xung quanh Buôn Ma thuột, đánh bại kế hoạch “bình định” lấn chiếm của địch, giữ vững và phát huy quyền làm chủ chiến trường, thực hiện chia cắt chiến lược, tích cực phối hợp với mặt trận đánh phá “bình định” của địch ở đồng bằng.

Đánh phá giao thông và hậu cứ, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh , làm cho tiềm lực kinh tế của địch giảm sút nghiêm trọng. Khi có thời cơ, thực hiện chia cắt hẳn các đường 14, 19, 21, trọng điểm là đường 21.

Phát triển đấu tranh chính trị trong các thị xã, ra sức xây dựng cơ sở tự vệ mật, các tổ chức biệt động , diệt ác ôn đầu sỏ, tạo thế làm chủ ở cơ sở.

Xây dựng ba thứ quân, xây dựng vùng giải phóng, xây dựng đường chiến dịch, chiến lược, hoàn thành mọi công tác chuẩn bị cho nhiệm vụ tiếp theo.

Trên chiến trường đồng bằng ven biển: Đẩy mạnh tiến công quân sự, chính trị kết hợp ba mũi giáp công, ba quả đấm trên ba vùng chiến lược, tiêu diệt, bắt sống một bộ phận lực lượng quân sự của địch (sinh lực và phương tiện chiến trang), phá vỡ bộ phận quan trọng hệ thống kìm kẹp, phá vỡ từng khu vực, từng đoạn hệ thống phòng ngự cơ bản của địch, đẩy mạnh du kích chiến tranh nhất là ở vùng sâu, đánh bại về cơ bản kế hoạch “bình định” của địch, giành đại bộ phận nông thôn, tạo nên một chuyển biến cơ bản trong so sánh lực lượng có lợi cho ta là điều kiện cơ bản nhất để tiến lên tổng tiến công và nổi dậy mạnh hơn giành thắng lợi hoàn toàn. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, phải theo dõi chặt chẽ mọi diễn biến cụ thể của thế trận chung toàn miền Nam, kịp thời tận dụng thời cơ khách quan đẩy nhanh tiến độ tiến công để giành thắng lợi cao hơn.

Trung tuần tháng 12 năm 1974, anh Võ Chí Công và tôi ra Hà Nội dự cuộc họp Bộ Chính trị Trung ương Đảng mở rộng. Cuộc họp bắt đầu ngày 18 tháng 12 năm 1974 đến ngày 8 tháng 1 năm 1975. Chủ trì cuộc họp là Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lê Duẩn. Bộ Chính trị gồm có các đồng chí: Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Võ Nguyên Giáp, Phạm Hùng, Lê Thanh Nghị, Văn Tiến Dũng, Nguyễn Duy Trinh, Trần Quốc Hoàn. Thành phần mở rộng gồm: Trần Văn Trà (chiến trường Nam Bộ); Võ Chí Công, Chu Huy Mân (Khu 5). Cơ quan Bộ gồm: anh Song Hào, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị; Đinh Đức Thiện, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần; và mấy đồng chí thư kí. Trong 20 ngày hội nghị, đi sâu vào mấy vấn đề lớn: đánh giá tình hình địch, ta trên chiến trường miền nam từ sau ngày Hiệp định Pari có hiệu lực, nhất là hai năm 1973-1974; quyết tâm mở cuộc tổng tiến công chiến lược và nổi dậy đều khắp, giải phóng miền Nam nrong xuân - hè 1975, tốt nhất là hoàn thành trước mùa mưa. Sở dĩ thời gian hội nghị kéo dài 20 ngày vì anh Ba muốn để tập thể cân nhắc chín chắn, dự kiến các tình huống, chiến lược thật kín, bảo đảm thắng nhanh, gọn, tạo thời cơ phát triển nhanh và nhanh chóng làm chủ sào huyệt cuối cùng của Mỹ - ngụy. Đột phá, mở màn vào đâu? Hội nghị cân nhắc mấy phương án, cuối cùng chọn Buôn Ma Thuột, giải phóng cao nguyên Trung phần trước. Từ nóc nhà Trung Đông Dương này tạo thời cơ lớn tỏa đi các hướng chủ yếu, cuối cùng là tiêu diệt và làm tan rã quân địch; dứt điểm giải phóng Sài Gòn. Sau Buôn Ma Thuột, Huế, Đà Nẵng, phải giải phóng nhanh mở đường vận chuyển chiến lược (đường 1A). Mọi vấn đề lớn nêu ra được hội nghị thảo luận, hoàn tất nhất trí cao.

Trên đường trở lại chiến trường, ngồi trên chiếc xe com-măng-ca đường rừng lắc lư để thực hiện quyết tâm lịch sử, tôi xúc động nhớ công ơn trời biển của Bác Hồ. Gần một nửa thế kỉ bôn ba quên mọi gian khổ, dám nhận hi sinh, Bác đã làm rạng rỡ non sông đất nước. Bác ra đi để lại một tập thể kế cận trung kiên tuyệt đối, có tầm nhìn xa, sáng tạo, đảm đương sứ mạng lịch sử của Tổ quốc và nhân dân, thực hiện lời căn dặn của Bác: Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào, giành lại trọn vẹn cả non song gấm vóc. Qua cuộc họp lịch sử, tôi thấy những bộ não lớn, những tinh hoa sáng ngời tiêu biểu của dân tộc Việt Nam quy tụ lại trở thành sức mạnh to lớn. Tôi nghĩ chiến trường Tây Nguyên sẽ trở thành chiến trường lịch sử. Trên 10 năm, quân và dân Tây Nguyên đã bất chấp hy sinh gian khổ, bám trụ đánh địch, giành dân, sáng tạo chiến trường để có ngày hôm nay và sắp tới. Từ cao nguyên này, nóc nhà Trung Đông Dương, đột phá mở màn cuộc tấn công chiến lược: giải phóng miền nam, thống nhất Tổ quốc.

Về đến Khu 5, chúng tôi khẩn trương triệu tập hội nghị Thường vụ Khu ủy và Quân khu ủy để quán triệt quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị; thông qua phương án của quân, dân Khu 5 đã được chuẩn bị. Cuộc họp này cũng bàn thảo, lựa chọn một trong hai phương án để đi vào tổ chức thực hiện nắm quyền chủ động.

Phương án 1, mở đầu tiến công tiêu diệt quận lỵ chi khu Tiên Phước và căn cứ Phước Lâm. Làm công sự chốt chặt các điểm cao phía đông, kéo mấy trung đoàn cơ động ngụy vào ứng cứu, tiêu diệt chúng ở vùng giáp ranh. Khi quân địch không còn sức chiến đấu phải rút lui thì ta cho lực lượng dự bị có xe tăng phối hợp bất ngờ tiến công vào thị xã Tam Kỳ. Sau khi giải phóng Tam Kỳ, Sư đoàn bộ binh 2 của ta theo đường 1 tiến thẳng vào Đà Nẵng. Theo phương án này, căn cứ Chu Lai, thị xã Quảng Ngãi bị chia cắt. Ta chỉ dùng 1 trung đoàn bộ binh, 1 đại đội pháo và 1 đại đội xe tăng cùng lực lượng vũ trang địa phương và quần chúng nổi dậy để giải phóng.

Phương án 2, Sư đoàn bộ binh 2 của ta mở đầu tiêu diệt địch giải phóng quận lỵ chi khu Sơn Hà, sau đó nhanh chóng tiến công giải phóng thị xã Quảng Ngãi rồi, vào phía nam giải phóng nam Quảng Ngãi, nối liền với bắc Bình Định. Ý định then chốt trong phương án này là trong mùa xuân năm 1975, đồng bằng Khu 5 ăn chắc từ thị xã Quảng Ngãi, Bình Định, sang hè sẽ chuyển ra bắc, giải phóng Đà Nẵng.

Hai phương án nói trên đều có lý lẽ và đã tranh luận mấy tháng. Vì vậy, trước Tết Nguyên đán, tôi xin phép Thường vụ Khu ủy và Thường vụ Quân ủy kết luận: Theo phương án 1, để tập trung mọi lực lượng, tinh thần, vật chất chuẩn bị có chất lượng bảo đảm chắc chắn. Theo phương án này thì lực lượng ta quá thấp phải cố gắng nhiều. Nhưng phương án 1, đứng về chiến lược cao hơn, chủ động hơn. Có thể nói, thực hiện phương án 1, tự mình nỗ lực chủ quan, tạo thời cơ trực tiếp, lợi dụng thời cơ chung, kín đáo và sắc bén hơn về tư tưởng chiến lược và tâm lý.

Sư đoàn 3 trước có ý định điều ra Quảng Nam, Đà Nẵng, để thực hiện phương án này, song nửa chừng, Bộ giao nhiệm vụ cho Sư đoàn đánh địch cắt đứt đường 19. Phương án 1 thiếu Sư đoàn 3, nhưng quyết tâm của quân khu thì nhiệm vụ, mục tiêu không giảm.

Trong lúc các đơn vị đang khẩn trương chuẩn bị thì ngày 21 tháng 1 năm 1975, Đảng ủy và Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên nhận được chỉ thị bổ sung của Thường vụ Quân ủy Trung ương. Theo chỉ thị bổ sung, nhiệm vụ của hướng tiến công chiến lược ở Tây Nguyên phải tiêu diệt từ 4 đến 5 trung đoàn bộ binh, 1 đến 2 trung đoàn thiết giáp, cố gắng tiêu diệt hoặc đánh quỵ 1 sư đoàn, đánh thiệt hại nặng quân đoàn 2 ngụy, giải phóng phần lớn hoặc hoàn toàn ba tỉnh Đắc Lắc, Quảng Đức, Phú Bổn bao gồm các thị xã Cheo Reo, Gia Nghĩa, Buôn Ma Thuột, Trọng điểm là tỉnh Đắc Lắc, mục tiêu quyết định là thị xã Buôn Ma Thuột, hướng phát triển là Cheo Reo và Gia Nghĩa. Cheo Reo là hướng phát triển chủ yếu.

Nhằm phối hợp với Tây Nguyên đánh thiệt hại nặng quân đoàn 2 ngụy, Tổng Tư lệnh giao nhiệm vụ cho Khu 5 sử dụng Sư đoàn 3 (thiếu) và Tiểu đoàn công binh 19 mở chiến dịch tiến công địch trên đường 19 trong phạm vi hai huyện Bình Khê và An Khê, tiêu diệt từ 1 đến 2 chiến đoàn bộ binh và 1 đến 2 chi đoàn cơ giới, cắt đứt đường 19, thực hiện chia cắt chiến lược quân địch giữa đồng bằng và Tây Nguyên.

Để tăng cường lực lượng cho hướng tiến công chiến lực chủ yếu, Bộ lần lượt đưa vào Tây Nguyên Sư đoàn 968, Sư đoàn 316, Trung đoàn 95b của Sư đoàn 325, Trung đoàn cao xạ 232, trung đoàn công binh 575, một tiểu đoàn đặc công, 1 tiểu đoàn cầu phà, 1 tiểu đoàn thông tin, 1 tiểu đoàn vận tải, 1 đại đội trinh sát, 1 trung đội khí tượng, 3 trạm sửa chữa xe pháo, 1 đội điều trị và 8 nghìn quân bổ sung.

Ở các tỉnh đồng bằng Quảng Đà, Quảng Ngãi, Bình Định lần lượt thành lập các trung đoàn địa phương 96, 94, 93. Các tỉnh Quảng Nam, Phú Yên, Khánh Hòa chưa tổ chức trung đoàn nhưng cũng hình thành khối chủ lực tập trung mấy tiểu đoàn.

Do ý nghĩa quan trọng của chiến dịch Tây Nguyên, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương cử anh Văn Tiến Dũng – Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, Tổng tham mưu trưởng làm đại diện Quân ủy Trung ương và Bộ Tư lệnh vào tổ chức Sở Chỉ huy tiền phương của Bộ để trực tiếp chỉ đạo chiến dịch.

Bộ Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên hình thành trên cơ sở lấy Bộ Tư lệnh và cơ quan Mặt trận Tây Nguyên làm nòng cốt do anh Hoàng Minh Thảo làm Tư lệnh, anh Đặng Vũ Hiệp làm Chính ủy. Ngoài ra còn có các đồng chí cán bộ cao cấp và trung cấp do Bộ phái đến tăng cường để tăng sức mạnh và khả năng giải quyết tốt các vấn đề tác chiến cũng như các vấn đề hậu cần, vận tải.

Bên cạnh Bộ Tư lệnh chiến dịch, Thường vụ Khu ủy Khu 5 cử anh Bùi San- Ủy viên Thường vụ Khu ủy cùng một bộ phận cơ quan giúp việc. Đi sát với các hướng chiến dịch có các đại diện của các tỉnh ủy Đắc Lắc, Gia Lai, Kon Tum.

Đêm 3 rạng ngày 4 tháng 3, Trung đoàn 95a được lệnh cắt đứt đường 19, nhanh chóng tiêu diệt một số chốt giao thông và làm chủ hoàn toàn đoạn đường dài 20km từ ngã ba Plây Pôn đến ấp Phù Yên. Cùng đêm, một bộ phận của Sư đoàn 320 cắt đường 14 ở đoạn bắc Cẩm Ga. Ngày 4 tháng 3, Sư đoàn 3 Quân khu 5 tuy gặp nhiều khó khăn về quân số và hậu cần cũng đã tích cực phối hợp đánh cắt đường 19 từ đèo Thượng An đến cầu số 13 chiếm 9 chốt giao thông, diệt 2 đại đội và tiểu đoàn bộ tiểu đoàn 1 trung đoàn 47, làm chủ hoàn toàn đoạn đường trên. Tiếp đó, đêm 4 rạng ngày 5 tháng 3, Trung đoàn 25 hoạt động trên đường 21 đoạn Chư Cúc đã đánh chiếm một đoạn đường về phía đông Chư Cúc.

Thế là quân ta cơ bản đã cài xong thế trận chia cắt chiến dịch. Quân địch ở thị xã Buôn Ma Thuột về đường bộ đã bị hoàn toàn cô lập với Quy Nhơn, Plây Cu, Nha Trang; đồng thời thế chia cắt đó cũng đã cô lập Tây Nguyên với các tỉnh đồng bằng ven biển miền Trung.

6 giờ ngày 8 tháng 3, Trung đoàn 48 Sư đoàn 320 và một bộ phận pháo cơ giới đã nổ súng tiến công Cẩm Ga (quận lỵ Thuần Mẫn) về phía thị xã Buôn Ma Thuột. Đến 7 giờ 20 phút ta làm chủ trận địa, tiêu diệt toàn bộ quân địch. Ngày 9 tháng 3, Trung đoàn 64 Sư đoàn 320 đã tiêu diệt hoàn toàn quân địch trong quận lỵ Buôn Hồ.

Trận Cẩm Ga và trận Buôn Hồ đã làm cho đường 14 hoàn toàn bị cắt đứt, thị xã Buôn Ma Thuột càng cô lập và bị uy hiếp dữ dội. Để cứu vãn tình hình, ngày 8 tháng 3, địch vội vã điều liên đoàn biệt động quân số 21 (thiếu) xuống sân bay Hòa Bình và đưa lên Buôn Hồ, hòng phản kích chiếm lại đường 14.

Trên hướng Đức Lập, căn cứ này nằm về tay nam thị xã Buôn Ma Thuột khoảng 60km trên đường 14 đi Gia Nghĩa. Trận đánh do Sư đoàn 10 (thiếu) và một bộ phận pháo cơ giới của Trung đoàn 40 và tiểu đoàn đặc công thực hiện. 5 giờ 35 phút ngày 9 tháng 3, pháo binh bắt đầu bắn vào Đức Lập. 8 giờ 20 phút, Trung đoàn 66 Sư đoàn 10 đánh chiếm căn cứ 23, Trung đoàn 28 đánh chiếm căn cứ Núi Lửa, hình thành hai mũi phát triển tiến công vào thị trấn. Riêng quận lỵ Đức Lập vì ta nắm tình hình không chặt và tổ chức tiến công không tốt nên đánh đợt 1 không thành. Sáng ngày 10 tháng 3, ta tổ chức tiến công đợt 2 mới giải quyết xong. Chiều ngày 10 tháng 3 ta diệt luôn vị trí Đắc Xắc, Đức Minh và giải phóng hoàn toàn Đức Lập.

Tại Buôn Ma Thuột, quân địch lúc này ở trong thị xã có sở chỉ huy tiền phương sư đoàn 23, trung đoàn 53 (thiếu), 1 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn xe tăng, 2 tiểu đoàn bảo an. Quân số khoảng 8.000 tên.

2 giờ sáng ngày 10 tháng 3 năm 1975, Trung đoàn đặc công 198 tiến công 3 vị trí: sân bay Hòa Bình, sân bay thị xã, cụm kho Mai Hắc Đế.

Cùng giờ, hỏa tiễn H12 và ĐKB của ta đánh vào sư đoàn bộ sư đoàn 23, chỉ huy sở tiểu khu và khu pháo binh, thiết giáp. Địch vẫn đinh ninh rằng cũng như năm 1968, ta chỉ dùng đặc công và pháo binh đánh rồi sáng sẽ rút.

Cùng lúc, khi pháo bắt đầu bắn, lợi dụng tiếng nổ, các mũi tiến công của ta tập kết cách thị xã 10-15km, xe tăng 20-25km, có bộ phận 40km, bắt đầu vượt sống Sê Rê Pốc tiến vào tuyến xuất phát tiến công. Một cuộc tiến công gồm 12 trung đoàn bộ binh của Sư đoàn 316, các trung đoàn 24, 95b và các trung đoàn binh chủng trên 5 mũi khác nhau đã được điều khiển nhịp nhàng, chặt chẽ. Một cuộc tiến công quân binh chủng hợp thành tuyệt đẹp. 5 giờ ngày 10 tháng 3 năm 1975, toàn bộ đội hình đã chiếm lĩnh vị trí xuất phát tiến công, hình thành thế bao vây sát thị xã.

5 giờ 30 phút pháo binh bắn thử. 7 giờ 15 phút pháo binh bắt đầu trút bão lửa xuống các mục tiêu quy định. Pháo cao xạ đã tiến sát đội hình bộ binh. 9 giờ ngày 10 tháng 3 các mũi bộ binh và cơ giới bắt đầu tiến công.

Trải qua một ngày chiến đấu quyết liệt, đến chiều ngày 10 tháng 3, quân ta đã đánh chiếm sở chỉ huy tiểu khu, khu liên hợp pháo binh - thiết giáp, một phần khu sư đoàn bộ sư đoàn 23. Trên tất cả các hướng quân địch đều chống trả quyết liệt.

Đêm 10 tháng 3, liên đoàn biệt động quân 21 được lệnh từ Buôn Hồ tiến về thị xã để cứu nguy cho sở chỉ huy sư đoàn 23, nhưng đến khu vực suối Ia Tam vấp phải quân ta. Bọn này đã chuồn ra phía đông thị xã ẩn nấp. Trong đêm 10 tháng 3 ta nắm lại tình hình, tổ chức hiệp đồng lại với các mũi. 6 giờ sáng ngày 11 tháng 3, quân ta lại mở đợt tiến công mới. Với sức mạnh áp đảo, các loại hỏa lực và xe tăng của ta đã nhanh chóng đè bẹp địch, chi viện cho bộ binh xung phong. 9 giờ sáng 11 tháng 3 quân ta đánh chiếm sở chỉ huy sư đoàn 23. Mục tiêu chủ yếu của trận đánh đã hoàn thành, cơ quan đầu não của địch ở Buôn Ma Thuột đã bị đập tan.

Đến 11 giờ trưa ngày 11 tháng 3 năm 1975, ngọn cờ chiến thắng của bộ đội Tây Nguyên đã phất cao trên nóc hầm chỉ huy sư đoàn 23 ngụy. Sau đó, quân ta đã nhanh chóng phát triển thắng lợi tiêu diệt địch ở các vùng phụ cận như hậu cứ 45, trường huấn luyện, căn cứ 53, ấp Châu Sơn.

Trận đánh thị xã Buôn Ma Thuột là một trận tiến công xuất sắc. Chỉ trong vòng 33 giờ, bằng nghệ thuật chiến đấu tài giỏi, bằng sức mạnh hiệp đồng binh chủng quy mô lớn và bằng tinh thần chiến đấu của cán bộ, bộ đội ta đã lập nên chiến công Tây Nguyên đại thắng vang dội, làm đòn mở đầu cho cuộc Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân 1975. (…)

7. Chiến thắng Buôn Ma Thuột nhìn từ phía bên kia giới tuyến 

(Trích: Sở khoa học công nghệ tỉnh Đắc Lắc)
 Nguyễn Ngọc Tý
                                                                  
 
            Mặc dù đã trải qua 31 năm, nhưng trận đánh lịch sử Buôn Ma Thuột (10/3/1975) như một mốc son chói lọi trong lịch sử quân sự Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước; trận đánh Buôn Ma Thuột (BMT) là trận đánh then chốt, mở đầu của chiến dịch tấn công Tây Nguyên năm 1975; là trận đánh điểm trúng huyệt, tạo đột biến cho cuộc Tổng tấn công đại thắng mùa Xuân năm 1975, trở thành một “thảm hoạ của một cuộc chiến tranh chia rẽ nhất, chua cay nhất trong lịch sử Mỹ kể từ ngày nội chiến”.
            Bỏ qua những lệch lạc trong quan điểm, đánh giá, nhận xét của các học giả, các nhà báo, các nhà nghiên cứu lịch sử Mỹ, các chính trị gia và tướng tĩnh của ngụy quyền Sài Gòn ...Những lý giải của họ về trận đánh BMT chỉ là những giải trình của đối phương, những người từ bên kia giới tuyến của cuộc chiến, nhưng cũng minh chứng nhiều điều về trận đánh lịch sử này.
            Việc lấy BMT là mục tiêu chủ yếu của chiến dịch Tây Nguyên được Bộ Chính trị trực tiếp lựa chọn. Sự lựa chọn đó phản ánh sự đánh giá nhạy bén tình hình và nhãn quan chiến lược; nghệ thuật lãnh đạo quân sự tuyệt vời của cơ quan lãnh đạo cao cấp nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng ta biết ở thời điểm này, quân đội của ngụy quyền Sài Gòn với sự viện trợ của Mỹ vẫn còn rất mạnh về quân số, vũ khí và trang bị. Nhà báo, nhà sử học nguời Mỹ Ga-bri-en Côn-cô, tác giả cuốn sách “Giải phẫu một cuộc chiến tranh” do nhà xuất bản Pantheon Books New York, ấn hành năm 1985 có viết: “Về mặt vật chất, quân đội Việt Nam Cộng hoà (VNCH), đầu năm 1975 có một ưu thế to lớn về số lượng trong tất cả các lĩnh vực so với Cách mạng... Những con số cho thấy rằng quân đội VNCH là một quân đội đáng sợ, chỉ cần nó dám chiến đấu thôi. Nó có 1.400 cỗ súng lớn so với 400 của Cách mạng, 1.200 xe tăng và xe bọc thép chở quân so với 600 của Quân đội nhân dân Việt Nam... không quân có 1.400 máy bay, có khoảng 185.000 quân chiến tranh, 107.000 quân yểm trợ... Nghĩa là VNCH có ưu thế hai trên một về quân chiến đấu và một ưu thế chung ba trên một về toàn bộ lực lượng”(1).
            Về đạn dược của quân đội VNCH, nhà sử học người Mỹ so sánh: “Quân đội VNCH bắn đạn súng lớn gấp 9 lần phía Cộng sản và kho đạn của họ từ tháng 9 năm 1974 đến tháng 3 năm 1975 đã tăng lên hai phần ba dự trữ khổng lồ đã có khi ký Hiệp định Pari. Người đứng đầu cơ quan hậu cần của VNCH về sau thừa nhận: các đơn vị chiến đấu chưa bao giờ thiếu đạn khi lâm trận với kẻ thù và không có cuộc hành quân nào phải hoãn lại vì thiếu đạn(2).
            Riêng trên địa bàn Tây Nguyên, trong năm 1973, quân địch đã “tăng thêm 20.000 quân, đưa tổng số quân lên 81.000 tên, trong đó quân chủ lực chiếm 46.000 tên, 12 tiểu đoàn pháo binh, 5 thiết đoàn thiết giáp, sư đoàn 6 không quân với 190 máy bay. Chúng đã huy động lực lực lượng tiến hành 18 cuộc hành quân đánh phá, xúc tát hàng vạn dân đưa về vùng tạm chiếm. Đóng thêm 43 đồn (riêng Dak Lak 15 đồn)”(3)
           
Với một đội quân đông đảo, trang bị các loại vũ khí, đạn dược đến tận răng. Tại sao Mỹ - Ngụy lại thất thủ tại BMT? Đây là một câu hỏi lớn đối với chế độ ngụy quyền Sài Gòn và các chiến lược gia quân sự Hoa Kỳ. Nhưng qua các tài liệu, sách, báo, lời thú nhận của các kẻ bại trận đã lý giải được phần nào nguyên nhân chiến thắng của quân và dân ta: “Cuối năm 1974, khi diệt các tiểu đoàn biệt động trên điểm cao Kôn Rôk ở Đông bắc Kon Tum, ta đã bắt được một tên thiếu tá ngụy. Khi hỏi cung, y khai:Vùng hai chiến thuật (ngụy) phán đoán: năm 1975, Việt cộng ở Tây Nguyên có khả năng sẽ đánh lớn. Nhưng hiện nay các ông đang đứng trước 3 sự lựa chọn mục tiêu tiến công: BMT; Pleicu hay Kon Tum? Nếu đánh BMT, thì hiện nay các ông chưa có khả năng đưa vật chất, hậu cần và xe tăng để tấn công... Khả năng duy nhất còn lại của các ông là sẽ tiến công vào Kon Tum...(4).
            Thực tế của chiến trường Tây Nguyên lúc này, nếu tiến công vào Kon Tum ta có khá nhiều thuận lợi, nhưng ta không chọn Kon Tum làm mục tiêu tiến công, mà chỉ lấy Kon Tum làm nơi nghi binh, đánh lừa thu hút địch, mục tiêu tiến công là BMT. Lý giải vấn đề này, Ga-bri en Côn-cô phân tích:
           “Quyết định của Đảng, tiến công cao nguyên Trung bộ đã xảy ra vào lúc vị trí của VNCH trong khu vực đặc biệt suy yếu. Những bộ tộc miền núi trong các đơn vị vũ trang địa phương của VNCH, đặc biệt là quanh BMT, công khai chống lại Thiệu, nhất là vì sự cướp bóc của quân đội Việt Nam Cộng hòa. Họ không muốn báo cáo việc di chuyển rất nhiều Quân đội nhân dân Việt Nam vào khu vực trong tháng 2. Tinh thần quân đội Việt Nam Cộng hòa ở cao nguyên cũng như ở khắp các nơi khác, tỷ lệ nghiện ma tuý được báo cáo 30% ở vùng Plei cu và ma tuý là do sỹ quan bán cho. Tuy vậy, tình báo của quân đội Việt Nam Cộng hòa biết trước rằng vào giữa tháng 2 rằng: một cuộc tấn công lớn sắp xảy ra ở cao nguyên và BMT là mục tiêu chính”(5).Mặc dù được trưởng phòng tình báo vùng chiến thuật II ngụy cảnh báo, nhưng với nghệ thuật nghi binh tài tình của quân ta, làm cho quân địch như vào đám mây mù dày đặc không thấy đường ra. Ngày 1/3/1975, Phạm Văn Phú, Tư lệnhvùng chiến thuật II điện cho chuẩn tướng Phạm Duy Tấn, phụ tá của Phú , kiêm Tư lệnh biệt động quân: “sẵn sàng đối phó với Việt cộng tấn công vào Plei cu”(6)
           Chính vì vậy, “Cuộc tấn công BMT sáng sớm ngày 10/3. Các đơn vị Quân đội nhân dân Việt Nam chiến đấu rất tốt, gây được bất ngờ và chặn được mọi tiếp viện đến thành phố”(7).
            Kết quả của một trận đánh phụ thuộc vào nhiều yếu tố, theo cách nhìn của Côn-Cô, việc quân đội Việt Nam Cộng hòabại trận ở BMT không phải là vấn đề vật chất mà là vấn đề tinh thần và lãnh đạo, là vấn đề thế trận lòng dân. Nhân dân các dân tộc Dak Lak có tinh thần cảnh giác, bảo vệ bí mật cho cách mạng. Trong lúc bộ đội cưa cây, ủi đường, cho xe tăng, pháo vào thị xã, căng dây điện trong rừng để liên lạc... nhân dân đi lại làm ăn, đã gặp, đã thấy nhưng vẫn giữ im lặng, bí mật tuyệt đối cho các hoạt động của quân ta; về vấn đề này, một nhà báo phương Tây đã viết: “Mỹ giúp ngụy quyền miền Nam mấy chục năm nhưng không có kết quả gì cả. Đối phương đã đưa lực lượng lớn, cả pháo binh, xe tăng vào BMT mà người Thượng không báo gì cho nhà cầm quyền, điều đó chứng tỏ ít nhất là họ đồng tình với phía cách mạng”(8). Nói về quân đội VNCH, Côn-Cô nêu rõ: “Tinh thần quá sa sút, cho nên không sao cứu chữa được, một nỗi bi quan
 
tuyệt vọng và một cảm giác tận số đang lơ lửng trên đầu, binh lính bỏ đơn vị và vũ khí để tìm gia đình, tạo ra một sự hỗn loạn cực độ, nổi loạn, cướp bóc, hiếp dâm xảy ra khắp nơi trên đường rút chạy...”(9).
             Một điều thú vị, quý giá hơn là người Mỹ qua trận thảm bại ở BMT, từ thực tế chứng kiến qua cuộc chiến tranh, họ đã rõ sức mạnh kỳ diệu của dân tộc Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam: “Đạo đức cách mạng khẳng định ý thức tác động đến quá trình lịch sử bằng chính bản thân nó. Cách mạng không tính đến so sánh vật chất nếu cách mạng không muốn trở thành thành thần bí hoặc chủ nghĩa lãng mạn, nhưng Cách mạng khẳng định vai trò thiết yếu của trách nhiệm và hành động cá nhân. Một quan niệm về vai trò của quần chúng trong các sự kiện lớn và trong lịch sử đưa lại lòng tin và trở thành một phần sức mạnh. Đảng không bao giờ trở thành một Đảng của những ông Thánh cách mạng, nhưng Đảng đã tìm được cách tập hợp một số rất lớn đàn ông và đàn bà mà đạo đức và lòng tận tụy với sự nghiệp là rất cao. Họ có những hy sinh to lớn và chịu muôn vàn thiếu thốn và một mình họ đã làm cho Đảng đóng được vai trò của mình trong lịch sử. Chính qui mô thắng lợi của Đảng mới đáng chú ý, như thể sức ép liên tục của cuộc đấu tranh dai dẳng đã thêm sức mạnh cho đảng viên và họ sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp. Bên trong sự cam kết của họ là một sự tổng hợp của lòng tin và sự chắc chắn ở tương lai...”(10).
            Những người bên kia giới tuyến của cuộc chiến không thể hiểu được rằng: cội nguồn của chiến thắng BMT là sức mạnh to lớn của dân tộc Việt Nam được hun đúc hơn 4.000 năm lịch sử, sự lãnh đạo tài tình của Đảng, của Hồ Chủ tịch, là mưu trí, sáng tạo, quyết đoán của Bộ chỉ huy chiến dịch, là đức tính chiến đấu kiên cường, là hy sinh cao cả của bộ đội chủ lực, quân và dân các dân tộc Dak Lak - với chiến thắng BMT, một lần nữa khẳng định tính chất phi nghĩa cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ, tính chất hèn nhát, thảm hại của ngụy quyền Sài Gòn ...
            Năm tháng dù có qua đi, nhưng chiến thắng BMT vẫn mãi là mốc son không thể phai mờ trên chặng đường đấu tranh, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa - Đương nhiên người Mỹ và chế độ ngụy quyền Sài Gòn, chủ nhân của bại trận làm sao nhìn rõ được bức tranh toàn cảnh của chiến thắng nhiều màu sắc ở BMT. Chỉ có những Con Người làm nên lịch sử mới có đủ thông minh để nhận chân thắng lợi. Mong rằng, người Mỹ và các thế lực thù địch, lau đi vết bụi của thời gian để nhận rõ mình hơn qua trận thảm bại ở BMT, hai dân tộc Việt - Mỹ cùng nhau khép lại quá khứ, hướng tới tương lai, tăng cường mối quan hệ vì lợi ích chung của hai dân tộc.
                                                 
Chú thích:
(1)Ga-Brien Côn-cô, Giải phẫu cuộc chiến tranh - Pantheon Books New York - 1985(Bản dịch của nhà xuất bản Quân đội nhân dân) trang 210 - 211.
(2)&( 3) Huỳnh Nghĩ - BMT, trận đánh lịch sử - NXB Trẻ - 2000 - trang 32 -50.
(4) Ga-Bren Côn-cô, Giải phẫu cuộc chiến tranh - Pantheon Books New York – 1985 (Bản dịch của nhà xuất bản Quân đội nhân dân) trang 210 - 211.
(5) Côn-cô - sách đã dẫn - trang 215 -218.
(6) Huỳnh Nghĩ - sách đã dẫn - trang 50.
(7) Côn cô - sách đã dẫn - trang 215 -218.
(8) Lịch sử Đảng bộ tỉnh Dak Lak 1945 - 1975 trang 190 -NXB chính trị quốc gia Hà Nội 2003.
(9) Côn-cô - sách đã dẫn - trang 215 -218.
(10)Côn-cô - sách đã dẫn - trang 255.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét