KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA : QUAN NIỆM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
GS.TS. NGUYỄN PHÚ TRỌNG – Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Hội đồng Lý luận
Trung ương
I – Vì sao Việt Nam lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ?
1- Như
mọi người đã biết, kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế phản ảnh
trình độ phát triển nhất định của văn minh nhân loại. Từ trước đến nay nó tồn
tại và phát triển chủ yếu dưới chủ nghĩa tư bản, là nhân tố quyết định sự tồn
tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản đã biết lợi dụng tối
đa ưu thế của kinh tế thị trường để phục vụ cho mục tiêu phát triển tiềm năng
kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận, và một cách khách quan nó thúc đẩy lực lượng
sản xuất của xã hội phát triển mạnh mẽ. Ngày nay, kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa đã đạt tới giai đoạn phát triển khá cao và phồn thịnh trong các nước tư
bản phát triển.
Tuy
nhiên, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa không phải là vạn năng. Bên cạnh mặt
tích cực nó còn có mặt trái, có khuyết tật từ trong bản chất của nó do chế độ
sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa chi phối. Cùng với sự phát triển của lực lượng
sản xuất, càng ngày mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản càng bộc lộ sâu sắc, không
giải quyết được các vấn đề xã hội, làm tăng thêm tính bất công và bất ổn của xã
hội, đào sâu thêm hố ngăn cách giữa người giàu và người nghèo. Hơn thế nữa,
trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay, nó còn ràng buộc các nước kém phát triển
trong quỹ đạo bị lệ thuộc và bị bóc lột theo quan hệ “trung tâm – ngoại vi”. Có
thể nói, nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa toàn cầu ngày nay là sự thống
trị của một số ít nước lớn hay một số tập đoàn xuyên quốc gia đối với đa số các
nước nghèo, làm tăng thêm mâu thuẫn giữa các nước giàu và các nước nghèo.
Chính vì
thế mà, như C. Mác đã phân tích và dự báo, chủ nghĩa tư bản tất yếu phải nhường
chỗ cho một phương thức sản xuất và chế độ mới văn minh hơn, nhân đạo hơn. Chủ
nghĩa tư bản mặc dù đã và đang tìm mọi cách để tự điều chỉnh, tự thích nghi
bằng cách phát triển “nền kinh tế thị trường hiện đại”, “nền kinh tế thị trường
xã hội”, tạo ra “chủ nghĩa tư bản xã hội”, “chủ nghĩa tư bản nhân dân”, “nhà
nước phúc lợi chung”…, tức là phải có sự can thiệp trực tiếp của nhà nước và
cũng phải chăm lo vấn đề xã hội nhiều hơn, nhưng do mâu thuẫn từ trong bản chất
của nó, chủ nghĩa tư bản không thể tự giải quyết được, có chăng nó chỉ tạm thời
xoa dịu được chừng nào mâu thuẫn mà thôi. Nền kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa hiện đại đang ngày càng thể hiện xu hướng tự phủ định và tự tiến hóa để
chuẩn bị chuyển sang giai đoạn hậu công nghiệp, theo xu hướng xã hội hóa. Đây
là tất yếu khách quan, là quy luật phát triển của xã hội. Nhân loại muốn tiến
lên, xã hội muốn phát triển thì dứt khoát không thể dừng lại ở kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa.
2 – Mô
hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xô-viết là một kiểu tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế
muốn sớm khắc phục những khuyết tật của chủ nghĩa tư bản, muốn nhanh chóng xây
dựng một chế độ xã hội tốt đẹp hơn, một phương thức sản xuất văn minh, hiện đại
hơn chủ nghĩa tư bản. Đó là một ý tưởng tốt đẹp, và trên thực tế suốt hơn 70
năm tồn tại, chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô đã đạt được nhiều thành tựu
vĩ đại, làm thay đổi hẳn bộ mặt của đất nước và đời sống của nhân dân Liên Xô.
Nhưng có lẽ do nôn nóng, làm trái quy luật (muốn xóa bỏ ngay kinh tế hàng hóa,
áp dụng ngay cơ chế kinh tế phi thị trường), không năng động, kịp thời điều
chỉnh khi cần thiết cho nên rút cuộc đã không thành công.
Thực ra,
khi mới vận dụng học thuyết Mác vào xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga sau
Cách mạng Tháng Mười, V.I.Lê-nin cũng đã từng chủ trương không áp dụng mô hình
kinh tế thị trường mà thực hiện “chính sách cộng sản thời chiến”. Nhưng chỉ sau
một thời gian ngắn, Người đã phát hiện ra sai lầm, khắc phục sự nóng vội bằng
cách đưa ra thực hiện “chính sách kinh tế mới” (NEP) mà nội dung cơ bản của nó
là khuyến khích phát triển kinh tế hàng hóa, chấp nhận ở mức độ nhất định cơ
chế thị trường. Theo V.I.Lê-nin, để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước còn
tương đối lạc hậu về kinh tế như nước Nga, cần phải sử dụng quan hệ hàng hóa –
tiền tệ và phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, đặc biệt là sử dụng
chủ nghĩa tư bản nhà nước để phát triển lực lượng sản xuất. Tuy chỉ mới thực
hiện trong thời gian ngắn nhưng NEP đã đem lại những kết quả tích cực cho nước
Nga: hồi phục và phát triển nền kinh tế bị chiến tranh tàn phá, nhiều ngành
kinh tế bắt đầu hoạt động năng động, nhộn nhịp hơn. Tiếc rằng, tư tưởng của
V.I.Lê-nin về xây dựng chủ nghĩa xã hội với chính sách NEP đã không được tiếp
tục thực hiện sau khi Người qua đời. Sự thành công và sự phát triển mạnh mẽ
suốt một thời gian khá dài của Liên Xô trong công cuộc công nghiệp hóa đất nước
bằng mô hình kinh tế dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, kế hoạch hóa
tập trung cao độ; phân phối thu nhập mang tính bình quân; kinh tế hàng hóa,
kinh tế thị trường bị loại bỏ đã có sức hấp dẫn lớn đối với nhân loại và làm
cho giới lý luận kinh tế các nước xã hội chủ nghĩa và các nước đang phát triển
tuyệt đối hóa, biến thành công thức để áp dụng cho tất cả các nước đi theo con
đường xã hội chủ nghĩa.
Cũng cần
nói thêm rằng, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, giới lý luận ở một số
nước cũng cảm thấy có cái gì “chưa ổn”, cũng đã đưa ra những kiến nghị, những
đề xuất, đại loại như quan điểm “chủ nghĩa xã hội thị trường”,… nhưng không
được chấp nhận.
Vào cuối
những năm 70 của thế kỷ XX, những hạn chế, khuyết tật của mô hình kinh tế
Xô-viết bộc lộ ra rất rõ cộng với sự yếu kém trong công tác lãnh đạo, quản lý
lúc bấy giờ đã làm cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các
nước Đông Âu rơi vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng. Một số người lãnh đạo chủ
chốt của Đảng và Nhà nước Liên Xô lúc đó muốn thay đổi tình hình bằng công cuộc
cải cách, cải tổ, nhưng với một “tư duy chính trị mới”, họ đã phạm sai lầm
nghiêm trọng cực đoan, phiến diện (ở đây chưa nói tới sự phản bội lý tưởng xã
hội chủ nghĩa của họ và sự phá hoại thâm hiểm của các thế lực thù địch), dẫn
tới sự tan rã của Liên Xô và sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới.
Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác ở Đông Âu vào cuối
những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX đã làm lộ rõ những khuyết tật của
mô hình kinh tế cứng nhắc phi thị trường, mặc dù những khuyết tật đó không phải
là nguyên nhân tất yếu dẫn đến sự sụp đổ.
3 – Việt
Nam là một nước nghèo, kinh tế – kỹ thuật lạc hậu, trình độ xã hội còn thấp,
lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Đi lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu lý
tưởng của những người cộng sản và nhân dân Việt Nam, là khát vọng ngàn đời
thiêng liêng của cả dân tộc Việt Nam. Nhưng đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cách
nào ? Đó là câu hỏi lớn và cực kỳ hệ trọng, muốn trả lời thật không đơn giản.
Suốt một thời gian dài, Việt Nam, cũng như nhiều nước khác, đã áp dụng mô hình
chủ nghĩa xã hội kiểu Xô-viết, mô hình kinh tế kế hoạch tập trung mang tính bao
cấp. Mô hình này đã thu được những kết quả quan trọng, nhất là đáp ứng được yêu
cầu của thời kỳ đất nước có chiến tranh. Nhưng về sau mô hình này bộc lộ những
khuyết điểm; và trong công tác chỉ đạo cũng phạm phải một số sai lầm mà nguyên
nhân sâu xa của những sai lầm đó là bệnh giáo điều, chủ quan, duy ý chí, lối
suy nghĩ và hành động đơn giản, nóng vội, không tôn trọng quy luật khách quan,
nhận thức về chủ nghĩa xã hội không đúng với thực tế Việt Nam.
Trên cơ
sở nhận thức đúng đắn hơn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng
12-1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm thực hiện có hiệu
quả hơn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội đưa ra những quan niệm mới
về con đường, phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là quan niệm về
công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ, về cơ cấu kinh tế, thừa
nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hóa và thị trường, phê phán triệt
để cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, và khẳng định chuyển hẳn sang hạch toán
kinh doanh. Đại hội chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với
những hình thức kinh doanh phù hợp; coi trọng việc kết hợp lợi ích cá nhân, tập
thể và xã hội; chăm lo toàn diện và phát huy nhân tố con người, có nhận thức
mới về chính sách xã hội. Đại hội VI là một cột mốc đánh dấu bước chuyển quan
trọng trong nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó là kết quả của cả một quá trình
tìm tòi, thử nghiệm, suy tư, đấu tranh tư tưởng rất gian khổ, kết tinh trí tuệ
và công sức của toàn Đảng, toàn dân trong nhiều năm.
Hội nghị
Trung ương 6 (tháng 3-1989), khóa VI, phát triển thêm một bước, đưa ra quan
điểm phát triển nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên
chủ nghĩa xã hội, coi “chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến
lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội”.
Đến Đại
hội VII (tháng 6-1991), Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục nói rõ hơn chủ trương này
và khẳng định đây là chủ trương chiến lược, là con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội của Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên
chủ nghĩa xã hội của Đảng khẳng định: “Phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước”. Đại hội VIII của Đảng (tháng 6-1996) đưa ra
một kết luận mới rất quan trọng: “Sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa
xã hội mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách
quan cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã
hội đã được xây dựng”. Nhưng lúc đó cũng mới nói nền kinh tế hàng hóa, cơ chế
thị trường, chưa dùng khái niệm “kinh tế thị trường”. Phải đến Đại hội IX của
Đảng (tháng 4-2001) mới chính thức đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đại hội khẳng định: Phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán, là mô
hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Đây là kết quả sau nhiều năm nghiên cứu, tìm tòi, tổng kết thực tiễn; và
là bước phát triển mới về tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam.
II – Bản chất, đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam
Lựa chọn
mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là sự gán
ghép chủ quan giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội, mà
là sự nắm bắt và vận dụng xu thế vận động khách quan của kinh tế thị trường
trong thời đại ngày nay. Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở nhận thức tính quy
luật phát triển của thời đại và sự khái quát, đúc rút từ kinh nghiệm phát triển
kinh tế thị trường thế giới, đặc biệt là từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam và ở Trung Quốc, để đưa ra chủ trương phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm sử dụng kinh tế thị trường để thực
hiện mục tiêu từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế trong thời kỳ quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội. Đây là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch
sử phát triển của kinh tế thị trường. Cũng có thể nói kinh tế thị trường là “cái
phổ biến”, còn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là “cái
đặc thù” của Việt Nam, phù hợp với điều kiện và đặc điểm cụ thể của Việt
Nam.
Nói kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa đây không phải là kinh tế
thị trường tự do theo kiểu tư bản chủ nghĩa, cũng không phải là kinh tế bao
cấp, quản lý theo kiểu tập trung quan liêu; và cũng chưa hoàn toàn là kinh tế
thị trường xã hội chủ nghĩa, bởi vì như trên đã nói, Việt Nam đang ở trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vừa có vừa chưa có đầy đủ các yếu tố của chủ
nghĩa xã hội.
Chủ
trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự tiếp
thu có chọn lọc thành tựu của văn minh nhân loại, phát huy vai trò tích
cực của kinh tế thị trường trong việc thúc đẩy phát triển sức sản xuất, xã hội
hóa lao động, cải tiến kỹ thuật – công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo
ra nhiều của cải, góp phần làm giàu cho xã hội và cải thiện đời sống nhân dân;
đồng thời phải có những biện pháp hữu hiệu nhằm hạn chế mặt tiêu cực của kinh
tế thị trường, như chạy theo lợi nhuận đơn thuần, cạnh tranh khốc liệt, bóc lột
và phân hóa giàu nghèo quá đáng, ít quan tâm giải quyết các vấn đề xã hội. Đây
cũng là sự lựa chọn tự giác con đường và mô hình phát triển trên cơ sở quán
triệt lý luận Mác – Lê-nin, nắm bắt đúng quy luật khách quan và vận dụng sáng
tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Đại hội
IX của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của
kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên
tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức
quản lý, và phân phối. Nói cách khác, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa chính là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
Mục đích
của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản
xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn
liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới, tiên tiến.
Kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước
cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc.
Kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước xã
hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính
sách, pháp luật, và bằng cả sức mạnh vật chất của lực lượng kinh tế nhà nước;
đồng thời sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương
pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản
xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị
trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân.
Kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả
lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các
nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội. Tăng
trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng
bước phát triển. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa và giáo dục,
xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nâng cao dân
trí, giáo dục và đào tạo con người, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của
đất nước.
Cũng có
thể nói, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một kiểu tổ chức
kinh tế của một xã hội đang trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế còn ở
trình độ thấp sang nền kinh tế ở trình độ cao hơn hướng tới chế độ xã hội mới –
xã hội xã hội chủ nghĩa. Đây là nền kinh tế thị trường có tổ chức, có sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản và sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, được định
hướng cao về mặt xã hội, hạn chế tối đa những khuyết tật của tính tự phát thị
trường, nhằm phục vụ tốt nhất lợi ích của đại đa số nhân dân và sự phát triển
bền vững của đất nước.
Chủ trương
xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thể
hiện tư duy, quan niệm của Đảng Cộng sản Việt Nam về sự phù hợp giữa quan hệ
sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Có ý
kiến cho rằng, không thể có kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
rằng chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị trường không thể dung hợp với nhau, nếu
đem “ghép” định hướng xã hội chủ nghĩa vào kinh tế thị trường thì
chẳng khác nào trộn dầu vào nước, tạo ra một cơ thể “đầu Ngô mình Sở”. Theo
chúng tôi, ý kiến này không đúng. Không đúng là vì, hoặc ý kiến này muốn trì
kéo Việt Nam trong quỹ đạo phát triển của chủ nghĩa tư bản, phủ nhận định hướng
xã hội chủ nghĩa, không muốn Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là điều trái
với quy luật khách quan, không thể chấp nhận. Hoặc ý kiến này không thoát ra
được khỏi tư duy cũ, đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản, cho
kinh tế thị trường là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản, từ đó “dị ứng” với
kinh tế thị trường, không thấy hết những yếu tố mới, xu hướng mới của kinh tế
thị trường trong điều kiện mới của thời đại, lặp lại sai lầm của một thời trước
đây.
Cũng có
ý kiến nhấn mạnh một chiều những đặc trưng chung, những cái phổ biến của kinh
tế thị trường, chưa thấy hết hoặc còn phân vân, nghi ngờ về những đặc điểm
riêng, những cái đặc thù của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ
đó chưa tin là kinh tế thị trường có thể phát triển trên cơ sở chế độ công hữu là
nền tảng, kinh tế quốc doanh là chủ đạo; rằng trong kinh tế thị trường không
thể có kế hoạch, không thể thực hiện được công bằng xã hội, không thể khắc phục
được những tiêu cực, mặt trái của cơ chế thị trường, v.v.. Lại có ý kiến băn
khoăn cho rằng, việc lựa chọn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
thực chất là trở về với chủ nghĩa tư bản, có thêm định ngữ “định hướng xã
hội chủ nghĩa” thì cũng chỉ là để cho yên lòng, cho có vẻ “giữ vững lập
trường” mà thôi, trước sau gì thì cũng trượt sang con đường tư bản chủ nghĩa.
Chúng
tôi cho rằng, những băn khoăn này là dễ hiểu, bởi vì đây là những điều còn rất
mới mẻ, chưa có tiền lệ, nếu không xác định rõ nội dung định hướng xã hội chủ
nghĩa và kiên trì vai trò quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa đối với nền
kinh tế thị trường thì những điều đó rất dễ xảy ra. Chúng tôi còn phải vừa làm
vừa tổng kết, rút kinh nghiệm. Nhưng có điều cần khẳng định là: trong điều kiện
mới của thời đại ngày nay, nhất định không thể duy trì mãi mô hình kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa, không thể đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa
tư bản. Chính C.Mác đã phê phán sự lầm lẫn giữa kinh tế hàng hóa với kinh tế tư
bản chủ nghĩa của phái kinh tế học tầm thường. C.Mác khẳng định rằng : “…
sản xuất hàng hóa và lưu thông hàng hóa là những hiện tượng thuộc về nhiều
phương thức sản xuất hết sức khác nhau, tuy rằng quy mô và tầm quan trọng của
chúng không giống nhau… Chúng ta hoàn toàn chưa biết một tí gì về những đặc
điểm riêng của những phương thức sản xuất ấy và chúng ta chưa thể nói gì về
những phương thức ấy, nếu như chúng ta chỉ biết có những phạm trù trừu tượng
của lưu thông hàng hóa, những phạm trù chung cho tất cả các phương thức ấy”(1).
Phải chăng việc nhận thức cho đúng và nói cho được những đặc điểm riêng của
những phương thức sản xuất đặc thù ấy là trách nhiệm mà C.Mác giao cho và gửi
gắm các thế hệ ngày nay?
Lựa chọn
mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải đơn giản là
sự trở về với phương thức chuyển nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công
nghiệp, mà điều quan trọng có ý nghĩa quyết định là phải chuyển sang nền kinh
tế hiện đại, văn minh nhằm mục tiêu từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là
sự lựa chọn phù hợp với các quy luật phát triển và các điều kiện lịch sử cụ thể
của thời đại và của những nước đi sau, cho phép các nước này giảm thiểu được
những đau khổ và rút ngắn được con đường đi của mình tới chủ nghĩa xã hội trên
cơ sở sử dụng được ưu thế cũng như hạn chế được những khuyết điểm của hai cơ
chế: kế hoạch và thị trường. Nói cách khác, kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là kiểu tổ chức kinh tế đặc biệt, vừa tuân
theo những nguyên tắc và quy luật của hệ thống kinh tế thị trường, vừa bảo đảm
tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính tính chất, đặc trưng cơ bản này chi phối
và quyết định phương tiện, công cụ, động lực của nền kinh tế và con đường đạt
tới mục tiêu, là sử dụng kinh tế thị trường, nâng cao hiệu lực và hiệu quả điều
tiết của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, phát triển khoa học và công nghệ, phát
triển nguồn nhân lực, mở cửa và hội nhập nhằm thúc đẩy quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và phát triển rút ngắn để trong khoảng thời gian không dài có
thể khắc phục tình trạng lạc hậu, đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại.
III – Làm thế nào để phát triển được kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam ?
Đây là
một câu hỏi lớn mà muốn trả lời được đầy đủ và chính xác phải qua từng bước thử
nghiệm, tổ chức thực hiện trong thực tế rồi đúc rút, bổ sung, hoàn chỉnh dần.
Hơn 10
năm qua, kể từ khi Việt Nam bước vào thực hiện mô hình kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả và thành
tựu đáng mừng, làm thay đổi khá rõ tình hình đất nước. Kinh tế ra khỏi tình
trạng khủng hoảng, hoạt động ngày càng năng động và có hiệu quả. Của cải xã hội
ngày càng nhiều, hàng hóa ngày càng phong phú. Đời sống nhân dân từng bước được
cải thiện. Đất nước chẳng những giữ vững được ổn định chính trị trước những
chấn động lớn trên thế giới mà còn có bước phát triển đi lên. Tổng sản phẩm
trong nước (GDP) tăng bình quân 7% /năm. Nông nghiệp phát triển liên tục, đặc
biệt là về sản xuất lương thực, nuôi trồng và khai thác thủy sản. Giá trị sản
xuất công nghiệp tăng 13,5%/năm. Hệ thống kết cấu hạ tầng được tăng cường. Các
ngành dịch vụ, xuất khẩu và nhập khẩu phát triển. Quan hệ đối ngoại và hội nhập
kinh tế quốc tế không ngừng được mở rộng,… Tuy nhiên, cũng có nhiều vấn đề mới
đặt ra cần được tiếp tục nghiên cứu và giải quyết.
Từ thực
tiễn phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời gian
qua và căn cứ vào yêu cầu phát triển trong thời gian tới, có thể xác định những
phương hướng, nhiệm vụ cơ bản phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam như sau:
1 –
Phải tiếp tục thực hiện một cách nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều
thành phần, coi các
thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan
trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển
lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Không nên có thái độ định kiến và kỳ
thị đối với bất cứ thành phần kinh tế nào.
Kinh
tế nhà nước phải phát
huy được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là nhân tố mở đường cho sự
phát triển kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước
định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước giữ những vị
trí then chốt; đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ; nêu gương về năng
suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế – xã hội và chấp hành pháp luật.
Đẩy mạnh
việc củng cố, sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu của các doanh nghiệp nhà nước; đồng
thời tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách để tạo động lực phát triển và nâng cao
hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước theo hướng xóa bao cấp; doanh
nghiệp thực sự cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, tự chịu trách nhiệm về sản
xuất, kinh doanh; nộp đủ thuế và có lãi; thực hiện tốt quy chế dân chủ trong
doanh nghiệp.
Kinh
tế tập thể gồm các hình
thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Các hợp tác xã dựa trên
sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những người lao
động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, không giới hạn
quy mô, lĩnh vực và địa bàn; liên kết công nghiệp và nông nghiệp, doanh nghiệp
nhà nước và kinh tế hộ nông thôn. Nhà nước giúp hợp tác xã đào tạo cán bộ, ứng
dụng khoa học và công nghệ, thông tin, mở rộng thị trường, xây dựng các quỹ hỗ
trợ phát triển hợp tác xã.
Kinh
tế cá thể, tiểu chủ cả ở
nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài. Nhà nước tạo điều kiện và
giúp đỡ phát triển, bao gồm cả các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện, làm vệ
tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn.
Kinh
tế tư bản tư nhân được
khuyến khích phát triển rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà
pháp luật không cấm. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý
để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những định hướng ưu tiên của Nhà
nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài; chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ
phần cho người lao động; liên doanh, liên kết với nhau, với kinh tế tập thể và
kinh tế nhà nước. Xây dựng quan hệ tốt giữa chủ doanh nghiệp và người lao động.
Tạo điều
kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi, hướng
vào các sản phẩm xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội gắn với
thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm. Cải thiện môi trường kinh
tế và pháp lý để thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài.
Phát
triển đa dạng kinh tế tư bản nhà nước dưới dạng các hình thức liên doanh,
liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước và ngoài
nước, mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh tế. Chú trọng các
hình thức tổ chức kinh doanh đan xen, hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu, giữa các
thành phần kinh tế với nhau, giữa trong nước và ngoài nước. Phát triển mạnh
hình thức tổ chức kinh tế cổ phần nhằm huy động và sử dụng rộng rãi vốn đầu tư
xã hội.
2 –
Tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường; đổi mới và nâng cao hiệu lực
quản lý kinh tế của Nhà nước. Nhìn chung, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam mới
được bắt đầu, trình độ còn thấp, chất lượng, hiệu quả, khả năng cạnh tranh chưa
cao. Nhiều thị trường còn sơ khai, chưa đồng bộ. Vì vậy, phải đổi mới mạnh mẽ
tư duy hơn nữa, đẩy mạnh việc hình thành các loại thị trường. Đặc biệt quan tâm
các thị trường quan trọng nhưng hiện chưa có hoặc còn sơ khai như: thị trường
lao động, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường khoa học
và công nghệ, đáp ứng nhu cầu đa dạng và nâng cao sức mua của thị trường trong
nước, cả ở thành thị và nông thôn, chú ý thị trường các vùng có nhiều khó khăn.
Chủ động hội nhập thị trường quốc tế. Hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh
doanh.
Mặt
khác, phải đổi mới sâu rộng cơ chế quản lý kinh tế, phát huy những yếu tố tích
cực của cơ chế thị trường, triệt để xóa bỏ bao cấp trong kinh doanh, tăng cường
vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước, đấu tranh có hiệu quả chống
các hành vi tham nhũng, lãng phí, gây phiền hà. Nhà nước tạo môi trường pháp lý
thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát triển;
bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách, kết hợp với sử dụng lực
lượng vật chất của Nhà nước để định hướng phát triển kinh tế – xã hội, khai
thác hợp lý các nguồn lực của đất nước, bảo đảm cân đối vĩ mô nền kinh tế, điều
tiết thu nhập; kiểm tra, thanh tra mọi hoạt động kinh doanh theo quy định của
pháp luật, chống buôn lậu, làm hàng giả, gian lận thương mại.
Tiếp tục
đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế, trong đó
đặc biệt coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống các cơ chế chính sách,
luật pháp, đổi mới công tác kế hoạch hóa, nâng cao chất lượng công tác xây dựng
các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội; tăng cường
công tác thông tin kinh tế – xã hội trong nước và quốc tế, công tác kế toán,
thống kê; ứng dụng rộng rãi các thành tựu khoa học và công nghệ trong công tác
dự báo, kiểm tra tình hình thực hiện ở cả cấp vĩ mô và doanh nghiệp.
3 –
Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, hướng vào phát triển và lành mạnh hóa xã hội, thực hiện công bằng xã hội,
coi đây là một nội dung rất quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm
tính ưu việt của chế độ xã hội mới. Điều đó chẳng những tạo động lực mạnh mẽ
nhằm phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động mà còn thực hiện bình đẳng
trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu chính đáng và hợp
pháp, điều tiết các quan hệ xã hội.
Trong
tình hình cụ thể hiện nay ở Việt Nam, phải bằng nhiều giải pháp tạo ra nhiều
việc làm mới. Chăm lo cải thiện điều kiện làm việc, bảo đảm an toàn vệ sinh lao
động, phòng chống tai nạn và bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Từng bước mở
rộng hệ thống bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội. Sớm xây dựng và thực hiện
chính sách bảo hiểm cho người lao động thất nghiệp. Cải cách cơ bản chế độ tiền
lương đối với cán bộ, công chức, khuyến khích người có tài, người làm việc
giỏi, khắc phục tình trạng lương và trợ cấp bất hợp lý; tôn trọng thu nhập hợp
pháp của người kinh doanh.
Tiếp tục
thực hiện chương trình xóa đói, giảm nghèo, chăm sóc những người có công với
nước, thương binh, bệnh binh, cha mẹ, vợ con liệt sĩ, gia đình chính sách – một
yêu cầu rất lớn đối với một đất nước phải chịu nhiều hậu quả sau 30 năm chiến
tranh. Đồng thời đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, giữ gìn trật tự
và kỷ cương xã hội, ngăn chặn và bài trừ các tệ nạn xã hội, nhất là tệ nạn ma
tuý, mại dâm, lối sống không lành mạnh, những hành vi trái pháp luật và đạo lý.
Kiên quyết đấu tranh với tệ tham nhũng, hối lộ, làm giàu bất chính, kinh doanh
không hợp pháp, gian lận thương mại… cùng với những tiêu cực khác do mặt trái
của cơ chế thị trường gây ra. Kết quả cụ thể của cuộc đấu tranh này là thước đo
bản lĩnh, trình độ và năng lực quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân và vì dân.
4 –
Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc và là nhân tố
quyết định nhất bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của kinh tế thị trường,
cũng như toàn bộ sự nghiệp phát triển của đất nước. Đây cũng là một trong những
bài học lớn nhất được rút ra trong những năm đổi mới.
Càng đi
vào kinh tế thị trường, thực hiện dân chủ hóa xã hội, mở rộng hợp tác quốc tế
càng phải tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Thực tế ở một số
nước cho thấy, chỉ cần một chút mơ hồ, buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng là lập
tức tạo điều kiện cho các thế lực thù địch dấn tới phá rã sự lãnh đạo của Đảng,
cướp chính quyền, đưa đất nước đi con đường khác.
Hiện
nay, có ý kiến cho rằng, đã chuyển sang kinh tế thị trường – tức là nền kinh tế
vận động theo quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh… thì
không cần phải có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Sự lãnh đạo của Đảng nhiều khi
cản trở, làm “vướng chân” sự vận hành của kinh tế (?). Ý kiến này không đúng và
thậm chí rất sai lầm. Bởi vì như trên đã nói, Việt Nam chủ trương phát triển
kinh tế thị trường nhưng không phải để cho nó vận động một cách tự phát, mù
quáng mà phải có lãnh đạo, hướng dẫn, điều tiết, phát huy mặt tích cực, hạn chế
mặt tiêu cực, vì lợi ích của đại đa số nhân dân, vì một xã hội công bằng và văn
minh. Người có khả năng và điều kiện làm được việc đó không thể ai khác ngoài
Đảng Cộng sản – là đảng phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng
sản chủ nghĩa, thật sự đại diện và bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động.
Đảng
lãnh đạo có nghĩa là Đảng đề ra đường lối, chiến lược phát triển của đất nước
nói chung, của lĩnh vực kinh tế nói riêng, bảo đảm tính chính trị, tính định
hướng đúng đắn trong sự phát triển kinh tế, làm cho kinh tế chẳng những có tốc
độ tăng trưởng và năng suất lao động cao, có lực lượng sản xuất không ngừng lớn
mạnh mà còn đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, tức là hạn chế được bất công,
bóc lột, chăm lo và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân lao động. Trên cơ sở
đường lối, chiến lược đó, Đảng lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị và guồng máy
xã hội, trước hết là Nhà nước, tổ chức thực hiện bằng được phương hướng và
nhiệm vụ đã đề ra.
Đương
nhiên, để có đủ trình độ, năng lực lãnh đạo, Đảng phải thực sự trong sạch, vững
mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, được
nhân dân tin cậy và ủng hộ. Đặc biệt, trong tình hình hiện nay, đội ngũ cán bộ,
đảng viên của Đảng phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý
tưởng, có trí tuệ, có kiến thức, giữ gìn đạo đức cách mạng và lối sống lành
mạnh, đấu tranh khắc phục có hiệu quả tệ tham nhũng và các hiện tượng thoái
hóa, hư hỏng trong Đảng và trong bộ máy của Nhà nước.
Tóm
lại, sự hình thành
tư duy kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ đơn thuần là sự
tìm tòi và phát kiến về mặt lý luận của chủ nghĩa xã hội, mà còn là sự lựa chọn
và khẳng định con đường và mô hình phát triển trong thực tiễn mang tính cách
mạng và sáng tạo của Việt Nam. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là một quá trình tất yếu phù hợp với quy luật phát triển của thời đại
và đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước.
Tuy
nhiên, đây là sự nghiệp vô cùng khó khăn, phức tạp, lâu dài, bởi lẽ nó rất mới
mẻ, chưa có tiền lệ, phải vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Riêng về mặt lý luận
cũng còn không ít vấn đề phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu, tổng kết, làm sáng
tỏ. Chẳng hạn như: các vấn đề về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế; về lao
động và bóc lột; về quản lý doanh nghiệp nhà nước ra sao để nó đóng được vai
trò chủ đạo; làm thế nào để thực hiện được công bằng xã hội trong điều kiện
kinh tế còn thấp kém; vấn đề bản chất giai cấp công nhân của Đảng trong điều
kiện phát triển kinh tế nhiều thành phần; các giải pháp tăng cường sức mạnh và
hiệu lực của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, chống quan liêu, tham nhũng, v.v..
Với
phương châm “Hãy bắt tay vào hành động, thực tiễn sẽ cho câu trả lời”,
hy vọng rằng từng bước, từng bước, thực tiễn sẽ làm sáng tỏ được các vấn đề nêu
trên, góp phần làm phong phú thêm lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện Việt Nam trong thời đại ngày nay