PGS.TS. ĐÀO DUY QUÁT
GS.TS.ĐỖ QUANG HƯNG – PGS.TS.VŨ
DUY THÔNG
(CHỦ BIÊN)
TỔNG QUAN
LỊCH SỬ
BÁO CHÍ CÁCH MẠNG
VIỆT NAM
(1925 –
2010)
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
Hà Nội - 2010
Hội đồng biên tập - xuất
bản
TS. NGUYỄN DUY HÙNG
|
Chủ tịch Hội đồng
|
PSG, TS. LÊ VĂN YÊN
|
Phó Chủ tịch Hội đồng
|
PGS, TS. ĐÀO DUY QUÁT
|
Uỷ viên
|
ThS. VŨ HỒNG THẤM
|
Thư ký
|
NGUYỄN VĂN CHUNG
|
Uỷ viên
|
Chủ biên
PGS, TS. ĐÀO DUY QUÁT
GS, TS. ĐỖ QUANG HƯNG
PGS, TS. VŨ DUY THÔNG
Các thành viên tham
gia
Nhà báo HỮU THỌ
Nhà báo PHAN QUANG
GS, TS. TẠ NGỌC TẤN
TS. ĐINH THẾ HUYNH
GS. HÀ MINH ĐỨC
Nhà nghiên cứu NGUYỄN THÀNH
Nhà báo ĐỖ KHẮC LIÊM
TS. NGÔ VĂN THẠO
TS. HỒ VĂN CHIỂU
TS. NGUYỄN THẾ KỶ
ThS. TRẦN THỊ HIỀN
Nhà báo ĐOÀN VĂN BÁU
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Lịch sử của báo
chí Việt Nam gắn liền với lịch sử cận hiện đại của dân tộc với bức tranh nhiều
màu sắc của một dân tộc yêu nước, giàu truyền thống, bị áp bức, đói nghèo,
trong đó lột tả cuộc đấu tranh giữa một nền báo chí thực dân và nô dịch với một
nền báo chí yêu nước và cách mạng.
Báo chí cách
mạng Việt Nam
ra đời với dấu mốc là tờ Thanh niên ra mắt cách nay vừa tròn 85 năm.
Người sáng lập tờ báo này là nhà báo vô sản Hồ Chí Minh.
Nhiệm vụ của
báo chí cách mạng từ khi ra đời được cắt nghĩa đơn giản mà lớn lao: tuyên
truyền để giai cấp biết mục đích (Án Nghị quyết ngay sau khi thành lập Đảng).
Từ tuyên truyền để giai cấp biết mục đích, gắn với tuyên truyền chủ nghĩa Mác -
Lênin, rồi đấu tranh không khoan nhượng bảo vệ lý tưởng cộng sản. Chặng đường
mà báo chí cách mạng đi qua gắn với những mốc son sáng chói của lịch sử cách
mạng dân tộc: từ khi vận động thành lập Đảng, tới huấn luyện cán bộ, chuẩn bị
cơ sở lý luận, chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam vào ngày 3-2-1930, cổ vũ nhân dân làm nên cao trào cách mạng
1930 - 1931, phong trào vận động dân chủ 1936 - 1939, tiến tới Tổng khởi nghĩa
giành chính quyền Tháng Tám năm 1945, tiếp đó là vũ khí đấu tranh sắc bén trên
mặt trận chính trị - tư tưởng, cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đi vào các
cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ,
thu giang sơn về một mối, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, tiếp tục thực hiện
hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh toàn diện công
cuộc đổi mới, tất cả vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
Số lượng, hình
thức báo chí trải qua gần một thế kỷ cũng thay đổi vượt bậc. Từ chỗ số lượng tờ
báo ít ỏi với hình thức in thô sơ, nghèo nàn nay số lượng báo chí đã tăng lên
rất nhiều với đủ mọi loại hình: báo viết, báo hình, báo mạng với hình
thức phong phú, sinh động, khả năng cập nhật cao. Đội ngũ nhà báo ngày càng
đông đảo, yêu nước, đam mê nghề nghiệp, dũng cảm và tài năng.
Đảng, Bác Hồ và
nhân dân luôn theo sát bước tiến của báo chí. Những lời căn dặn của Bác đối với
báo chí luôn là cẩm nang đối với mỗi tờ báo, mỗi nhà báo: ''Cán bộ báo chí cũng
là chiến sĩ cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của họ'', ''ngòi
bút của các bạn cũng là những vũ khí sắc bén trong sự nghiệp phò chính trừ
tà'', ''cho nên phải có tính chất quần chúng''. “Một tờ báo không được đại đa
số dân chúng ham chuộng, thì không xứng đáng là một tờ báo'', và “không riêng
gì viết sách viết báo, mà công tác gì muốn làm tốt đều phải coi trọng ý kiến
của nhân dân''.
Nhân kỷ niệm 85
năm Ngày báo chí cách mạng Việt Nam, để ghi nhận chặng đường lịch sử sáng ngời
của báo chí cách mạng nước nhà và như một món quà ca ngợi, biết ơn tới công lao
đóng góp to lớn của nhiều thế hệ các nhà báo Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia xuất bản cuốn sách Tổng quan lịch sử báo chí cách mạng Việt Nam
(1925 - 2010) của tập thể các nhà báo, nhà nghiên cứu do PGS,TS. Đào
Duy Quát, GS,TS. Đỗ Quang Hưng, PGS,TS. Vũ Duy Thông chủ biên.
Đây là một công
trình nghiên cứu nhiều năm, công phu và nghiêm túc. Tuy nhiên, so với tầm cỡ
của một vấn đề lớn, trải dài trong một giai đoạn có nhiều biến động lịch sử thì
công trình này mới dừng ở mức độ khái lược. Rất mong nhận được sự đón đọc và
góp ý của đông đảo độc giả.
Tháng 6 năm 2010
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
CHƯƠNG
I
BÁO CHÍ CÁCH MẠNG VIỆT NAM THỜI KỲ 1925 – 1945
I- BÁO CHÍ CÁCH MẠNG
VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1925 - 1930
l. Tình hình chính
trị - xã hội Việt Nam những năm 20 của thế kỷ XX
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, đế quốc
Pháp tuy là nước thắng trận, nhưng phải chịu những hậu quả nặng nề. Khủng hoảng
kinh tế kéo dài và ngày càng trầm trọng, đồng phrăng bị phá giá, lạm phát tăng,
bồi thường chiến tranh của Đức không bù đắp được bao nhiêu.
Trước tình hình đó, thực dân Pháp chủ
trương tiến hành bóc lột thuộc địa tàn bạo hơn để giải quyết những khó khăn của
chính quốc. Đông Dương là trọng điểm khai thác của đế quốc Pháp, vì đây là nơi
''nhìn về các phương diện là quan trọng nhất, phát triển nhất và thịnh vượng
nhất trong các thuộc địa của chúng ta''1.
Để đáp ứng được đòi hỏi của việc khai thác
tài nguyên nước ta, thực dân Pháp đã tiến hành xây dựng hệ thống đường sắt, mở
thêm đường bộ, xây dựng hải cảng và một số công trình thủy lợi. Cùng với việc
độc quyền bán hàng vào Đông Dương với giá cao, chuyển nguyên liệu từ Đông Dương
ra ngoài với giá khai thác, vận chuyển rẻ mạt, chúng còn thiết lập một hàng rào
quan thuế.
Về chính trị, đi đôi với những chính sách
kinh tế mới, chủ nghĩa đế quốc Pháp cũng đề ra những chủ trương mới. Đây là
thời kỳ tiếp tục củng cố hệ thống cai trị thông qua những tổ chức mới mang tính
chất mị dân. Chúng lập các hội đồng hàng tỉnh; đổi tên các uỷ ban tư vấn - hội
đồng tư vấn thành các viện dân biểu (Bắc Kỳ và Trung Kỳ), hội đồng thuộc địa
(Nam Kỳ, còn gọi là Hội đồng quản hạt), dưới hình thức ra đời do ''bầu cử thay
thế cho chỉ định'', mang màu sắc dân chủ giả hiệu và xem đây là một sự đổi mới,
tiến bộ.
A.Varen, nguyên là đảng viên Đảng Xã hội
Pháp vừa bị khai trừ, được cử sang Đông Dương về danh nghĩa là thay Méclanh
(viên Toàn quyền bị nhà yêu nước Phạm Hồng Thái định diệt ở Quảng Châu năm
1924), thực tế là thay Môngghiô, để thực thi chính sách mới vừa tàn bạo, vừa
thâm độc, mị dân. Chúng ra sức ngăn chặn, kiểm soát gắt gao mọi sự liên lạc
giữa những người yêu nước, giữa các tổ chức cách mạng Việt Nam với người Pháp,
Trung Quốc, Liên Xô và Quốc tế Cộng sản.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ trước
Chiến tranh thế giới thứ nhất, nay do chính sách mở rộng khai thác thuộc địa mà
tăng lên nhanh chóng về số lượng, tập trung đông ở các nhà máy, hầm mỏ, đồn
điền (chủ yếu là đồn điền trồng cây công nghiệp). Đội ngũ công nhân kỹ thuật
cũng tăng lên về số lượng, được bồi dưỡng để nâng cao tay nghề, nhằm đáp ứng yêu
cầu kinh doanh mới. Những người lao động làm thuê các nghề tự do đông hơn lên,
trong đó, có những người nghèo khổ ở thành thị, một phần khác là nông dân vào
những ngày, tháng không có thời vụ bận rộn, và những người phải cầm bán ruộng
đất, bỏ quê hương ra thành thị kiếm sống.
Đáng chú ý là sự xâm nhập của tư tưởng xã
hội chủ nghĩa khoa học vào công nhân, bắt đầu là các tổ chức cách mạng tiền
thân của Đảng Cộng sản - các hội viên Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đi ''vô
sản hóa'' và việc phổ biến các sách báo cách mạng theo quan điểm mácxít -
lêninnít vào những người công nhân tiên tiến, hướng đến những cuộc đấu tranh
mang tính chất chính trị ngày càng rõ nét hơn. Ý thức dân tộc quyện với ý thức
giai cấp trong công nhân làm cho phong trào đi vào quỹ đạo của cách mạng vô
sản, kết hợp giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp.
Báo Le Paria, tác phẩm Bản án chế
độ thực dân Pháp của Nguyễn Ái Quốc, báo L’Humanité của Đảng Cộng
sản Pháp, La Vie Ouvrière của Tổng Liên đoàn Lao động Pháp, cùng với các
sách kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin và các tác phẩm lý luận, chính trị,
văn học viết theo quan điểm mácxít từ Pháp, Trung Quốc đưa vào nước ta, như một
luồng gió mới, lành mạnh thổi vào đời sống sinh hoạt văn hóa, tinh thần của
Đông Dương thuộc địa.
Song song với trào lưu cách mạng vô sản là
khuynh hướng chính trị tư sản, tiếp thu và truyền bá tư tưởng dân chủ, tiến bộ,
nhân văn của cách mạng Pháp 1789 vào hoàn cảnh của nước Việt Nam thuộc địa đang
đòi hỏi độc lập, dân chủ, văn minh, bình đẳng với nước Pháp và các nước khác.
Lý luận cách mạng tư sản dân chủ của Tôn
Trung Sơn và hình ảnh của Trung Hoa Quốc dân Đảng đã hấp dẫn một số trí thức
Việt Nam .
Họ tuyên truyền cho chủ nghĩa Tam dân, xem đó là đường lối giải phóng dân tộc,
giành độc lập và xây dựng chế độ dân chủ tư sản phỏng theo mẫu của Trung Quốc,
tổ chức ra Việt Nam Quốc dân Đảng, phỏng theo Trung Hoa Quốc dân Đảng.
Các khuynh hướng trên được kiểm nghiệm
trong vận động thực tiễn khắc nghiệt, vừa đấu tranh với nhau, vừa đấu tranh
chống chính quyền thực dân. Mọi sự không phục tùng và chống đối chủ nghĩa thực
dân đều bị đàn áp, khủng bố.
Thực dân Pháp thấy rõ nguy cơ lớn nhất,
quyết định sự sống còn của chúng ở nước ta chính là lý luận về con đường cách
mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc; tổ chức cách mạng đáng sợ nhất là
Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên do Nguyễn Ái Quốc sáng lập ở Quảng Châu. Do
vậy, tòa án của thực dân Pháp và Nam triều được lập ra ở khắp nơi để
xử các hội viên Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên với những án nặng nhất: tử
hình vắng mặt (Nguyễn Ái Quốc, Hồ Tùng Mậu, Trần Phú), tù, đày, quản thúc hàng
loạt người yêu nước, cách mạng.
Những đặc điểm của tình hình chính trị - xã
hội Việt Nam có quan hệ đến chính sách báo chí của chính quyền thực dân thi
hành ở đây và tình hình báo chí xuất bản, phát hành trong những năm 20 của thế
kỷ XX. Đặc biệt làm nảy sinh dòng báo chí mới: báo chí cách mạng, chống
chủ nghĩa thực dân và cả hệ thống báo chí là công cụ thống trị của chúng, mở
đường giải phóng cho nhân dân ta, dân tộc ta về tư tưởng và ý thức chính trị,
tiến lên giải phóng dân tộc và xã hội.
2. Chính sách báo chí của chính quyền
thực dân thực hiện ở Việt Nam trong những năm 20 của thế kỷ XX
Đã có trên 100 văn bản của chính quyền thực
dân quy định về xuất bản, in, phát hành và lưu hành báo chí ở Đông Dương, từ
đạo luật, sắc lệnh quy định ở nước Pháp, được ban hành và có hiệu lực ở thuộc
địa, đến những nghị định của Toàn quyền Đông Dương ban hành riêng cho Đông
Dương; rồi đến những quyết định của các viên quan đầu xứ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam
Kỳ).
Dưới đây là những đạo luật, sắc lệnh và
nghị định đáng chú ý:
1- Sắc lệnh ký ngày 25-5-1881 của
Tổng thống Pháp G. Grêvilơ quy định quốc tịch của người Việt Nam ở Nam Kỳ được
hưởng mọi quyền công dân như người Pháp trên đất Pháp.
2- Luật về tự do báo chí của Quốc
hội Pháp thông qua ngày 29-9-1881, được ban hành ở Nam Kỳ theo Nghị định của
Toàn quyền Đông Dương ngày 12-9-1881.
Đây là kết quả của cuộc đấu tranh cho tự
do, dân chủ của nhân dân Pháp từ cách mạng Pháp năm 1789, trong đó có tự do báo
chí. Đứng về thời điểm lịch sử, khi luật được thông qua cũng là lúc nước Pháp
tư bản chủ nghĩa bắt đầu chuyển sang thời kỳ đế quốc chủ nghĩa, nhưng phái tả
trong Thượng nghị viện mạnh, chiếm đa số, áp đảo phái hữu, nên có những tiến bộ
nhất định, đồng thời có những hạn chế. Sau đây là một số điểm quan trọng có
quan hệ đến Nam Kỳ không phải chỉ trong những năm 20 của thế kỷ XX, mà cả những
năm sau, đến việc xuất bản báo chí công khai, hợp pháp cho báo chí cách mạng
trong thời kỳ vận động dân chủ (1936 - 1939).
''Điều 1: Việc ấn loát và mở hiệu
sách đều được tự do''.
“Điều 5: Mọi báo chí và xuất bản
phẩm định kỳ đều không cần xin phép trước và không phải nộp tiền ký quỹ, sau
khi đã khai theo những quy định trong Điều 7''.
''Điều 6: Mọi báo chí và xuất bản
phẩm định kỳ đều có một người quản lý. Người quản lý phải là người Pháp2,
thành niên, được hưởng quyền công dân và từ trước đến nay chưa hề bị tòa án xử
mất quyền công dân''.
''Điều 7: Trước khi phát hành các
báo chí hay xuất bản phẩm định kỳ, phải làm bản khai ở Cục Biện lý về những
điểm sau đây:
l) Tên của tờ báo hay xuất bản phẩm định kỳ
và phương thức phát hành;
2) Tên và địa chỉ của người quản lý;
3) Nơi in báo;
Tất cả những sự thay đổi trong các điểm
trên đây buộc phải khai báo trước 5 ngày''.
“Điều 10: Khi phát hành mỗi tờ
báo hay ấn phẩm định kỳ, phải nộp 2 bản có chữ ký của người quản lý ở Cục Biện
lý hay ở Tòa Đốc lý các thành phố, nơi không có tòa án đệ nhị cấp''.
Đáng lẽ từ sau ngày 12-9-1881, báo chí ở
Nam Kỳ bất kể xuất bản bằng ngôn ngữ nào phải được tự do hoạt động theo Luật
Báo chí trên của Quốc hội Pháp. Nhưng đế quốc Pháp đã tùy tiện không chịu thi
hành, bác bỏ hiệu lực pháp lý của nó, buộc mọi tờ báo tiếng Việt đều phải làm
đơn xin phép, chỉ khi nào được Toàn quyền chuẩn y mới được ra báo. Trong quá trình
biên tập, báo chí tiếng Việt phải chịu sự kiểm duyệt, cắt bỏ những câu, những
đoạn cho đến xóa bỏ cả một bài mà xét ra không có lợi cho sự thống trị thực
dân.
Sở dĩ có tình hình và chủ trương này là vì
tờ Phan Yên báo xuất bản tháng 12-1898 đăng hàng loạt bài có liên quan
đến tình hình chính trị ở Đông Dương. Có những bài có ý chống lại sự có mặt của
thực dân Pháp, đăng những dư luận phản ánh phần nào tinh thần yêu nước của
người Việt Nam.
Để đối phó với thực trạng đang đặt ra trước
mắt ấy và để phòng xa, Bộ Thuộc địa Pháp cho ra đời Sắc lệnh ngày
30-12-1898, và được ban hành ở Đông Dương vào ngày 30-l-1899.
Như vậy là Luật tự do báo chí ngày
29-7-1881 không được áp dụng ở các xứ thuộc địa như Bắc Kỳ, Trung Kỳ (và cả
Lào, Campuchia) mà cũng bãi bỏ luôn việc thực hiện ở cả Nam Kỳ.
Sắc lệnh này là căn cứ chủ yếu cho đế quốc
Pháp thực hiện chính sách đối với báo chí ở Đông Dương mãi về sau, mở rộng
quyền hạn cho Toàn quyền Đông Dương tùy tiện ngăn cấm và cản trở lưu hành báo
chí tiến bộ, có nội dung công kích các việc làm xấu xa, vô nhân đạo của bọn cầm
quyền. Người nào vi phạm các điều khoản ấy sẽ bị truy tố trước tòa án tiểu
hành. Đồng thời, chúng dùng các hội làm đoàn thể để tập hợp, tranh thủ các nhà
báo. Nghiệp đoàn báo chí Nam Kỳ (Syndicat de la Presse Cochinchinoise) ra đời
và họp Đại hội ngày 6-9-1917 vẫn được duy trì hoạt động.
Để hỗ trợ cho Varen, Chính phủ Pháp ban
hành Sắc lệnh báo chí ngày 4-10-1927 do Tổng thống G. Đumécgơ ký, thi
hành ở các xứ thuộc địa và bảo hộ. Toàn quyền Đông Dương ký Nghị định ban hành
ở Đông Dương ngày 10-12-1927.
Ngay sau khi công báo nước Cộng hòa Pháp
đăng Sắc lệnh này, Hội Nhân quyền Pháp gửi thư đến Bộ trưởng Thuộc địa L.Périê
phản đối, đề ngày 14-10-1927. Nhưng bọn thực dân bất chấp, vẫn tiến hành như
những điều chúng đã công bố, mặc cho báo chí và các tổ chức lên án, phê phán.
3. Bức tranh báo chí Việt Nam trong
những năm 20 của thế kỷ XX
a) Báo chí xuất bản công khai, hợp pháp
Theo thống kê của Pháp, đầu năm 1922, cả
Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ có 86 tờ báo, trong đó có 19 tờ chữ quốc ngữ
và 67 tờ chữ Pháp (phần lớn bao gồm công báo các loại, tạp chí, chuyên
san của cơ quan hành chính và kinh tế Pháp; có một vài tờ báo là của trí
thức và tư sản Pháp đứng về phía chính quyền thực dân).
Đến cuối năm 1929, cả ba xứ Bắc Kỳ, Trung
Kỳ và Nam Kỳ có 153 tờ báo, trong đó 47 tờ chữ quốc ngữ và 100 tờ chữ
Pháp. Đáng chú ý là tính chất và cơ cấu các loại đã có những thay
đổi về xu hướng chính trị. Báo chữ quốc ngữ đã xuất bản những tờ công
khai chỉ trích, phê phán chính quyền và những tên quan lại tham nhũng,
xấu xa, như Đông Pháp thời báo, Pháp Việt nhứt gia, Tân thế kỷ, Tiếng
dân, Hữu thanh, Khai hóa nhật báo, Đông Tây tuần báo v.v.. Chữ Pháp
do người Việt chủ trương, có La cloche fêlée, L. Annam, Le Nha que,
Le Jenne Annam; chữ Pháp do người Pháp tiến bộ, nhân đạo chủ trương
như L. Indochine, sau là L' Indochine enchainée của A. Manrô
và P. Mônanh (1925 - 1926) v.v..
Có những tên thực dân không biết tiếng
Việt, hay chỉ biết bập bẹ vài câu, lại là sáng lập viên, giám đốc hay chủ
nhiệm những tờ báo xuất bản bằng tiếng Việt. Vì người Pháp đứng tên xin phép ra
báo chữ Việt thì dễ hơn là người Việt xin phép, ''chỉ việc cho mượn tên mình,
người Pháp kia nhận được hằng tháng một số tiền rất hậu mà người ký giả bản xứ
phải trả cho ông lâu dài, báo còn ra là còn phải trả''3.
L. Annam (La cloche fêlée đổi tên từ
ngày 6-5-1926) đăng nhiều bài trích in lại của Le Paria, L' Humanité, một
số nghị định của Quốc tế Cộng sản về vấn đề thuộc địa, chứng tỏ rằng xu hướng
cộng sản sử dụng báo chí công khai để xâm nhập đời sống tinh thần của Việt Nam
ngày càng tăng. Tiếng nói của những người yêu nước, chống chủ nghĩa thực dân và
bọn vua, quan làm tay sai cho Pháp ngày càng có thế trên hệ thống báo chí, xuất
bản công khai, hợp pháp.
b) Báo chí cách mạng
Từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, tư tưởng
lý luận cách mạng vô sản được truyền bá vào Việt Nam qua báo Le Paria
của Hội Liên hiệp thuộc địa, L' Humanité của Đảng Cộng sản Pháp, Inprekorr
của Quốc tế Cộng sản. Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc, phái viên của Quốc tế
Cộng sản và là Uỷ viên Bộ Phương Đông của Quốc tế được cử đến Hoa Nam để trực
tiếp chỉ đạo cách mạng Việt Nam và một số nước Đông Nam Á.
Cùng với việc mở lớp, kết nạp đoàn viên
mới, Người chủ trương xuất bản báo Thanh niên, ra số 1, ngày 21-6-1925.
Đây là một phương thức hoạt động hoàn toàn mới lạ: vừa tổ chức, huấn luyện, vừa
ra báo. Những đoàn viên thanh niên cộng sản chỉ biết đến hình thức tuyên truyền
miệng, kết nạp đoàn, chưa từng nghĩ đến xuất bản, viết và in báo.
Về danh nghĩa, lúc đầu báo không công bố là
cơ quan ngôn luận của tổ chức nào, thực tế là của Thanh niên cộng sản đoàn. Về
sau, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (thường gọi là Việt Nam Thanh niên cách
mạng đồng chí hội) ra đời, báo Thanh liêm được gọi là cơ quan của Tổng
bộ Hội Thanh niên xuất bản cho đến cuối năm 1929, khi Hội kết thúc vai trò lịch
sử của mình.
Sau báo Thanh niên, Nguyễn Ái Quốc
lập ra báo Kông Nông để tuyên truyền, giáo dục lòng yêu nước cho công
nhân và nông dân theo quan điểm của chủ nghĩa xã hội khoa học (1926);
báo Lính Kách mệnh (1927) để vận động, giác ngộ binh lính người
Việt trong quân đội Pháp không chịu làm công cụ cho kẻ thù đàn áp đồng
bào, liên minh với công nông làm cách mạng.
Tháng 4-1927, Tưởng Giới Thạch cầm đầu cuộc
chính biến, làm cho tình hình chính trị Trung Quốc thay đổi xấu đi. Những người
cách mạng Việt Nam hoạt động ở Quảng Châu chuyển vào hoạt động bí mật, Nguyễn
Ái Quốc đi Thượng Hải rồi đi Liên Xô. Báo Thanh niên vẫn tiếp tục xuất
bản, nhưng báo Kông Nông và Lính Kách mệnh ngừng xuất bản.
Ngày 1-10-1929, báo Búa liềm, cơ
quan ngôn luận trung ương của Đảng Cộng sản Đông Dương ra số l, do Trịnh Đình
Cửu, Uỷ viên Trung ương lâm thời phụ trách. Báo in bằng giấy sáp, chữ viết tay,
mỗi số 50 bản. Số cuối cùng, số 9, ngày 5-2-1930.
Cùng với báo của trung ương, một hệ thống
báo chí của Đảng Cộng sản Đông Dương, từ các tỉnh đảng bộ, công hội, học sinh
hội, đến một số chi bộ ra đời trên cả nước.
Báo của Đảng viết theo Tuyên ngôn được
thông qua trong ngày thành lập, dựa theo Luận cương về vấn đề dân tộc và
thuộc địa của Đại hội lần thứ VI Quốc tế Cộng sản năm 1928.
Tháng 8-1929, Đảng Cộng sản An Nam thành
lập, có tổ chức cơ sở ở Nam Bộ và một số chi bộ ở Hoa Nam.
Chi bộ Đảng Cộng sản An Nam ở Thượng Hải ra
báo Đỏ, cũng viết tay trên giấy sáp.
Theo tài liệu chưa đầy đủ, kể từ tờ Thanh
niên mở đường đến cuối năm 1929, có trên 50 tờ báo và tạp chí của Hội Thanh
niên, Đảng Cộng sản Đông Dương và Đảng Cộng sản An Nam. Có tờ ra được khoảng
200 số (chưa có con số xác định) như Thanh niên; có tờ ra được vài chục
số, thậm chí một vài số. Đây là những di sản quý của báo chí cách mạng Việt Nam
buổi đầu, và của báo chí Việt Nam nói chung.
c) Một số tờ báo cách mạng tiêu biểu
- Thanh niên - tờ báo cách mạng đầu
tiên:
Măng sét báo Thanh niên in trên đầu
trang l, chạy ngay từ trái sang phải vẽ ngôi sao năm cánh, bên trong ngôi sao
viết số báo, rồi đến hai chữ Thanh niên - chữ Hán, và Thanh niên -
chữ Việt. Hàng dưới, về bên phải có ngày ra của số ấy. Tất cả những chữ trên
đều đặt trong khung kẻ trang trọng4.
Toàn bộ các trang báo được viết trên giấy
sáp, bằng bút thép nhọn. Các số phần nhiều là 2 trang, có số 4, 5 trang. Mỗi
trang thường chia làm 2 cột, mỗi dòng trong một cột là 8 - 9 chữ viết to, dễ
đọc. Cỡ trung bình của tờ báo là 18x24cm. Một số đầu bài được viết bằng chữ
Hán, như ''Phụ nữ thời đàm'', ''Tân Văn'', v.v..
Báo in xong phần lớn được gửi về trong nước
theo đường dây bí mật. Một số được gửi đến các tổ chức của Hội ở Thái Lan,
Trung Quốc, người Việt yêu nước ở Pháp và đến Quốc tế Cộng sản. Các bài viết
dùng từ An nam (chưa dùng từ Việt Nam). Những chữ d, c, ph, ngh... được thay
bằng z, k, f, ng...
Bản in có số lượng ít, đôi khi bị mất trên
đường chuyển về nước, nên ít cơ sở nhận được báo đều đặn, đầy đủ. Nhiều nơi đã
tổ chức chép tay thành nhiều bản để truyền nhau đọc. Thậm chí có nơi, đã là hội
viên 3 năm mà chưa được đọc một tờ báo Thanh niên nào5.
Cơ quan mật thám của Pháp để nhiều công sức
theo dõi, truy tìm các đường dây chuyển báo, đánh vào các cơ sở của Hội, ngầm
đưa tay sai vào nội bộ Hội để bí mật ăn cắp báo, tổ chức dịch ra chữ Pháp để
nghiên cứu, đối phó. Trong kho lưu trữ của Pháp hiện ở Aixăng Prôvăngxơ, có bộ
sưu tập khá đầy đủ báo Thanh niên, được dịch ra chữ Pháp toàn văn những
bài quan trọng, còn những bài khác chỉ tóm tắt nội dung chính yếu.
Những tổ chức, đảng phái khác, những người
biên tập và quản lý các tờ báo xuất bản công khai trong nước, không được nhìn
thấy báo Thanh niên xuất bản bí mật, nhiều lắm chỉ nghe tên báo qua câu
chuyện nhỏ to với nhau.
Thấy ảnh hưởng của báo Thanh niên ngày
càng lớn, đã có người tự nhận là cơ quan, chi nhánh của đảng mình. Báo Le
Paria xuất bản ở Pari, số 38, tháng 4-1926, đưa tin: ''Ở Quảng Châu, từ
tháng 7 năm vừa qua đã xuất bản bằng chữ Việt và chữ Hán, mỗi tuần 2 kỳ, báo Thanh
niên, cơ quan của chi nhánh châu Á Đảng Việt Nam độc lập''.
Trần Văn Chỉ, một sinh viên Việt Nam viết
trên báo Le Drapeau rouge, xuất bản ở Pari, ngày 18-2-1927:
''Đảng Việt Nam độc lập có 2 tờ báo, một ở Pari là L' Ame annamite và
một ở Trung Quốc là Thanh niên của Nguyễn Ái Quốc''.
Việc nhận báo Thanh niên là cơ quan
của đảng mình, nhằm mục đích gây uy tín cho đảng của họ, một đảng tập hợp nhiều
khuynh hướng chính trị phức tạp, không có ảnh hưởng trong người Việt ở Pháp bao
nhiêu và đa phần đang bế tắc, đứng bên bờ vực tan rã.
Báo Thanh niên có hai thời kỳ phát
triển: thời kỳ thứ nhất, từ số l đến số 88, do Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chỉ đạo
biên tập, in, phát hành. Tháng 4-1927, Nguyễn Ái Quốc chuyển vào hoạt động bí
mật, rời Quảng Châu, báo Thanh niên bắt đầu thời kỳ thứ hai, do Tổng bộ Hội
Thanh niên chỉ đạo. Trong thực tiễn vận động của phong trào yêu nước và phong
trào công nhân có những vấn đề mới nảy sinh, phản ánh vào nhận thức của những
người lãnh đạo các cấp bộ Hội, kể cả Tổng bộ. Đến cuối năm 1929, báo Thanh
niên ngừng xuất bản6.
Thời kỳ thứ nhất, trong 88 số đầu,
báo Thanh niên đề cập đến các vấn đề sau:
a) Mâu thuẫn giữa dân tộc ta với chủ
nghĩa đế quốc Pháp; giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc nói chung
Đúng ra thì báo phải mang tính thời sự, đưa
lại những nguồn thông tin mới nhất, nhưng trong điều kiện báo Thanh
niên xuất bản bí mật ở nước ngoài không đáp ứng được yêu cầu ấy. Tuy
vậy, những câu chuyện có tính quy luật đó vẫn mang ''tính thời sự''.
Sau đây là mấy ví dụ:
Bài ''Cấm đi ra ngoài''7
viết: Pháp cướp nước mình, cốt là rút của mình. Nó coi dân mình như là
người ta nuôi gà, nuôi lợn vậy. Người ta nuôi gà, nuôi lợn là cất để lấy
trứng và thịt. Nếu để cho gà cùng lợn chạy mất con nào, thì lỗ vốn con
ấy, nên phải nhốt cho kỹ, không cho nó chạy ra ngoài.
Một bức tranh tố cáo cũng có giá trị như
một bài báo ngắn. Bức tranh vẽ Tây nói: ''trói cho thật chặt, sưu thuế,
thuốc phiện, rượu cồn, bổ đầu nó ra mà lấy''.
Khơi sâu lòng căm thù chủ nghĩa thực dân
rồi, thì phải kiên quyết chống lại nó, nhưng nó yếu hay nó mạnh?; đấu
tranh với nó chỉ là những cuộc chiến đấu tuyệt vọng, hay là nắm chắc phần
thắng nhất định thuộc về ta.
Đây là vấn đề đặt ra cần được giải đáp rõ
ràng để xây dựng và củng cố lòng tin, từ đó mà động viên tinh thần và tổ
chức lực lượng cho cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân để giành
thắng lợi.
b) Khẳng định con đường cách mạng, chống
con đường cải lương
Cho đến giữa những năm 20 của thế kỷ XX,
chủ nghĩa cải lương còn là một hình thái ý thức và quan điểm chính trị
có ảnh hưởng chính trị nhất định trong một bộ phận nhân dân ta, chủ yếu
là tầng lớp giàu có và một số trí thức, công chức.
Toàn quyền Varen thấy đây là một cơ hội có
thể lợi dụng để đánh lạc hướng những người yêu nước, ngăn chặn chủ nghĩa
cộng sản xâm nhập vào Việt Nam.
Nhiệm vụ của báo Thanh niên nói
riêng, và những hoạt động về lý luận, tư tưởng và chính trị của Hội Việt Nam
Cách mạng Thanh niên nói chung là kiên quyết triệt để chống chủ nghĩa cải
lương, khẳng định chỉ có con đường đấu tranh cách mạng mới giải phóng
được dân tộc
Báo Thanh niên, số 2, ngày
28-6-1925, có bài viết: ''Cách mệnh là toàn bộ các hành động nhờ đó một dân tộc
bị áp bức trở thành tự do và giàu mạnh. Lịch sử các nước dạy ta rằng, chỉ có
bằng cách mệnh, người ta mới có thể có một chính phủ tốt hơn, một nền giáo dục
tốt hơn''8.
Muốn lật đổ sự thống trị của kẻ thù, phải
dùng bạo lực cách mạng. Sau khi vạch rõ nỗi khổ cực trăm bề của nhân dân ta,
báo Thanh niên, số 63, có đoạn: ''Cái sự khổ của dân Annam đã rất mực
rồi không có dân nước nào mà khổ sở như vậy''.
''Đồng bào ơi! Quyền tự do là giời cho
mình, người mà không được tự do, thà rằng chết. Tỉnh dậy, tỉnh dậy, đập
vỡ cái lồng nó nhốt người mình đi''.
“Đồng bào ơi! Cam chịu như gà, như
lợn mãi sao? Chỉ có gà, có lợn thì mới chịu người ta giam nhốt mãi, nếu
là người thì thế nào cũng kiếm cách phá lồng mà ra''.
“Phá lồng'', ''đập vỡ các lồng” chính là
nói dùng bạo lực cách mạng đập tan sự kìm kẹp của kẻ thù, thoát khỏi tủi nhục.
c) Lực lượng cách mạng là toàn dân, lấy
công nông làm nền tảng
Ngay từ số đầu, báo Thanh niên đã có
bài nhấn mạnh lực lượng cách mạng là toàn dân đoàn kết, cùng chung một ý chí.
Sau này, nhiều bài nhắc đi nhắc lại quan điểm cơ bản đó. Sở dĩ phải làm rõ vấn
đề này, vì vào giữa những năm 20 của thế kỷ XX, một suy nghĩ khá phổ biến là
chỉ có những người tài giỏi mới làm được cách mạng, đánh đuổi được Tây, lấy lại
nước cho dân, còn dân chỉ là ủng hộ, hưởng ứng theo mà thôi. Những người tài
giỏi đó lại đều là những người thông minh, học giỏi, văn võ kiêm toàn, còn công
- nông mù chữ thì không làm được việc ấy.
Báo Thanh niên, số 1, có bài viết:
''Để dẫn dắt nhân dân làm một sự nghiệp vĩ đại cần phải có một sức lãnh đạo.
Sức lãnh đạo đó không phải của một vài người thôi, mà sinh ra từ sự hiệp lực
của hàng ngàn, hàng vạn người'' và “Muốn cho hàng ngàn, hàng vạn người ấy đoàn
kết chặt chẽ với nhau, thì họ phải cùng một ý chí như nhau, họ phải theo đuổi
một mục đích như nhau, có vậy mới có đoàn kết''. Số 73, ngày 12-12-1926, có bài
viết: ''Đương khi mất nước, bước đầu cách mạng là ai đánh đuổi đế quốc chủ nghĩa
đi mà muốn cho dân tộc mình được tự do giải phóng. Lực lượng dân tộc cách mạng
là ở về toàn quốc dân, nên quốc dân giác ngộ chừng nào thì lực lượng
cách mạng to lớn chừng ấy”.
Báo Thanh niên khẳng định rằng: chỉ
có công nông là triệt để cách mạng.
Cách mạng là nhiệm vụ chung của mọi người
giác ngộ cùng làm. Mỗi người tùy tài, tùy sức, của cải riêng, mà cống hiến cho
cách mạng để cứu nước, tức là tự cứu lấy bản thân mình và gia đình mình. Quan
niệm chung là tập trung lực lượng thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc, đặt
vấn đề giải phóng dân tộc lên trên hết. Kẻ thù của cách mạng là chủ nghĩa đế
quốc Pháp, nói nôm na là ''Tây''. Đối với giai cấp phong kiến, ở đây không nhập
cục làm một khối, mà có sách lược phân hóa cao độ. Người nào thuộc giai cấp địa
chủ, là quan lại, sĩ phu, nhưng có tinh thần dân tộc chống đế quốc, đi với cách
mạng (sau này ta gọi là địa chủ yêu nước, địa chủ kháng chiến) ''đều là đồng
chí của mình'' trong cách mạng giải phóng dân tộc. Những kẻ bám lấy chủ nghĩa
đế quốc làm tay sai cho đế quốc, chống lại dân tộc, thì xếp vào “loại kẻ
địch''.
Đó là quan điểm dân tộc, thể hiện chính
sách mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, đúng đắn, kết hợp nhuần nhuyễn tính
nguyên tắc về chiến lược với nghệ thuật vận dụng khéo léo, tài tình sách lược
mềm dẻo, thêm bạn bớt thù.
d) Nhận rõ con đường cách mạng, người
cách mạng phải biết hy sinh vì sự nghiệp cách mạng và có phương pháp cách mạng
đúng
Cách mạng Việt Nam đi qua hai thời kỳ.
''Thời kỳ thứ nhất là đánh đuổi chủ nghĩa đế quốc giải phóng dân tộc''. ''Mục
tiêu của thời kỳ thứ hai là khai thác triệt để thắng lợi của cách mệnh.
Vì vậy, sau khi đánh đuổi Pháp ra khỏi bờ cõi Việt Nam, chúng ta phải
trừ diệt các phần tử phản cách mệnh, xây dựng các đường giao thông, phát
triển thương nghiệp và công nghiệp, giáo dục nhân dân và lo cho dân được
hòa bình hạnh phúc”8. Đây chính là nội dung của cách
mạng xã hội chủ nghĩa.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là con đường lâu
dài, khó khăn, một việc lớn, ''không phải một vài người làm nổi, và cũng
không phải mấy ngày, mấy tháng làm ngay được”9.
Làm cách mạng phải hy sinh vì nghĩa lớn
''Làm việc cách mệnh phải biết cách mệnh là việc chung, nên lấy lòng chí công
vô tư mà theo dõi các công việc, lại phải biết cách mệnh cốt nhất là sự hy
sinh, hy sinh gia đình, hy sinh tính mệnh, hy sinh lợi quyền, hy sinh ý kiến''10.
Trong cuộc đấu tranh, cách mạng đòi hỏi mỗi
người tham gia phải tự rèn luyện mình có đủ mọi đức tính hy sinh đó. Thái độ
khách quan, khoa học của người cách mạng là lấy lợi ích cách mạng làm trọng.
Mình chỉ hỏi người ấv có phải là người cách mệnh không, mà đừng nên hỏi người
ấy là ai, chỉ nên hỏi việc ấy có ích về đường cách mệnh không, mà đừng hỏi việc
ấy là của ai làm''11.
Xét “việc ấy có ích về đường cách mệnh
không?'' làm tiêu chuẩn, nên ý kiến cá nhân không phù hợp với đường cách mạng
là phải tự giác gạt bỏ.
Một công việc to, khó khăn, lâu dài, nên
phải có phương pháp tốt, ''trước hết phải biết chính sách của Tây, sau phải
biết bí mật mà sắp đặt những công việc mình''12. Việc gì làm
trước, việc gì làm sau, theo một kế hoạch. “Cách mệnh trước hết phải tuyên
truyền, tổ chức, huấn luyện, sau cùng mới dùng đến vũ lực, đừng chăm chăm chỉ
biết cách làm bạo động''.
đ) Cần có Đảng Cộng sản lãnh đạo cách
mạng và tổ chức quần chúng cách mạng, đặc biệt là tổ chức công nhân
Ngay từ đầu, báo Thanh niên đã giáo
dục chủ nghĩa yêu nước theo tinh thần cộng sản chủ nghĩa. Số 60, ngày 8-9-1926,
có bài viết về các chính đảng, tác giả đặt câu hỏi: ''Chúng ta phải theo đảng
nào?''. Và trả lời dứt khoát rằng: ''Hỡi đồng bào thân mến, như vậy chỉ có một
con đường chân chính là phải theo cái đảng duy nhất kiên quyết trong hành động,
đó là đảng cộng sản''.
Số 61, ngày 18-9-1926, có đoạn viết: Đảng
cách mệnh chân chính phải bao gồm những đảng viên mẫu mực. Là đảng viên mẫu mực
thì phải có đủ 12 điều kiện sau đây:
l. Ngày, đêm lo lắng đến sự nghiệp cách
mạng Việt Nam và cách mạng thế giới;
2. Dám hy sinh tiền bạc, thì giờ, cả xương
máu của mình cho lợi ích của nhân dân bị áp bức, đặt lợi ích của Tổ quốc lên
trên hết;
3. Làm việc say sưa, mỗi người tùy tài, tùy
sức mà cống hiến để đưa cách mạng tiến lên;
4. Biết rằng cách mạng là một cuộc chiến
đấu lâu dài, quyết liệt của vô sản chống những kẻ áp bức, cho nên người đảng
viên không sợ hy sinh, gian khổ;
5. Người đảng viên trong mỗi lời nói và việc
làm đều có ý thức, suy tính, cân nhắc để lãnh đạo cuộc đấu tranh của quần chúng
thu được kết quả tốt;
6. Làm việc gì cũng phải có kế hoạch và
chuẩn bị chu đáo để bảo đảm thành công, tránh thất bại bất ngờ;
7. Phải giác ngộ nhân dân, làm cho nhân dân
tin tưởng Đảng. Đảng viên cần tổ chức, đưa nhân dân vào cuộc đấu tranh cách
mệnh;
8. Tổ chức các đoàn thể quần chúng cách
mệnh lớn mạnh là điều kiện bảo đảm cho cách mệnh mau đi tới thắng lợi.
9. Không ham muốn quyền hành, địa vị, tiền
tài, vì những thứ đó làm cho đảng viên không trung thành với cách mệnh có thể
dẫn tới phản bội cách mệnh;
10. Không kiêu căng, tự mãn. Phải nhận rõ
làm cách mệnh là để phục vụ nhân dân, chứ không phải để đề cao cá nhân mình;
11. Phải khiêm tốn, hòa nhã, lo lắng cho
quần chúng; thắng không kiêu, thua không nản; không bao giờ quên nghĩ rằng cuộc
đời và sự nghiệp mà mình phấn đấu là thuộc về nhân loại, không phải vì riêng
mình;
12. Bền bỉ, kiên cường, dũng cảm trong đấu
tranh.
Cách mạng là do quần chúng tiến hành dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Vì vậy, người cộng sản phải chăm lo tổ chức quần
chúng. Báo Thanh niên có nhiều bài viết về tổ chức công nhân, nông dân,
phụ nữ..., giáo dục họ tự giác đấu tranh cho thắng lợi của cách mạng.
e) Nghiên cứu kinh nghiệm cách mạng các
nước, khẳng định cách mạng Việt Nam đi theo con đường của cách mạng Nga thì mới
giành được thắng lợi
Trên báo Thanh niên có nhiều bài
dài, đăng nhiều kỳ liên tục về lịch sử châu Âu thời kỳ cận đại, nói rõ
nguyên nhân, quá trình diễn biến của các cuộc cách mạng tư sản Anh,
Pháp; tính chất tư bản đối lập với quần chúng nhân dân, nông dân và lao
động ở các nước đó; xu thế phát triển xã hội của các nước tư bản chủ
nghĩa do các cuộc cách mạng tư sản mở đầu, và quần chúng lao động vẫn
phải làm một cuộc cách mạng nữa mới được giải phóng.
Từ khảo nghiệm các cuộc cách mạng tư sản,
tác giả báo Thanh niên đề cao cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười năm
1917. Báo dành số đặc biệt kỷ niệm Cách mạng Nga, như số 19, ngày
8-11-1925; số 68, ngày 7-11-1926 (không kể thời kỳ thứ hai).
Báo Thanh niên còn dành nhiều bài chuyên
luận về cách mạng Việt Nam đối với các thành phần phụ nữ, nông dân,
sinh viên, thiếu nhi; về đảng cộng sản và phẩm chất của người cách mạng;
về chủ nghĩa Lênin, chủ nghĩa bônsơvích; phong trào cách mạng ở các
thuộc địa, chủ nghĩa vô chính phủ...
Về lịch sử, có nhiều bài viết về
lịch sử cách mạng các nước trên thế giới; lịch sử cách mạng Nga, Trung
Quốc; lịch sử các thuộc địa của Pháp; sự lớn mạnh và suy tàn của chủ
nghĩa đế quốc. Báo đăng bài về sự tôn kính tiền nhân và việc Phan Bội
Châu (bị bắt) (số 6, ngày 26-7-1925); một bài dài về tiểu sử Găngđi in
trên 3 số liền nhau; về Luidơ Misen, Giannơ Da, Clara Xốtkin và phụ nữ các
nước; kỷ niệm ngày 1-5 và Phạm Hồng Thái hy sinh; về bà Trưng Trắc.
Báo đăng Tuyên ngôn của Hội Liên hiệp các
dân tộc bị áp bức; lời kêu gọi các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại!
Ngoài ra còn có mục Thư trả lời, tin
tức đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa tư bản Việt Nam và trên thế
giới.
Các số báo thường có tranh vẽ, thơ, ca.
Những mục trên làm cho nội dung báo phong
phú, đa dạng; tập trung, chính trị mà không khô khan; lời văn giản dị,
dễ hiểu, đi sát với tiếng nói của quần chúng và những thuật ngữ cách mạng được
cập nhật, phổ biến rộng rãi, nâng cao trình độ hiểu biết và trình độ ngôn ngữ
cho quần chúng.
Ở trang đầu mỗi số có đóng dấu đỏ ''Hội
Việt Nam Cách mạng thanh niên'', và một dấu mực xanh: báo không phải để bán.
Thời kỳ thứ hai, từ số 89 trở đi,
tôn chỉ, mục đích và phong cách, thể loại, cách trình bày báo được kế tục, duy
trì và phát triển.
Thời kỳ thứ nhất, điều kiện biên tập, in
tương đối ổn định, không gặp nhiều khó khăn về cơ sở làm việc, kể cả tài chính.
Thời kỳ thứ hai, do có bất lợi về tình hình chính trị Trung Quốc, báo phải
chuyển vào bí mật, thường di động, phân tán, tài chính và vật liệu in có nhiều
trở ngại. Những người lãnh đạo Tổng bộ tích cực khắc phục mọi khó khăn để báo
không bị gián đoạn; tuy vậy số nọ và số kia có khi xê xích nhau 5 - 3 ngày.
Việc liên lạc với hệ thống tổ chức Hội ở Thái Lan cũng như trong nước và quan
hệ quốc tế được củng cố tốt. Qua các số báo ghi lại, cho thấy báo Tiếng dân xuất
bản ở Huế, số 118, ngày 3-10-1928 được chuyển đến ban biên tập báo Thanh
niên bằng đường dây nào đó; báo Thanh niên số 158, ngày 28-10-1928,
có bài viết nhắc lại cuộc đình công của 400 công nhân đăng trên báo Tiếng
dân này, kèm theo những vấn đề đặt ra cho báo Tiếng dân về việc tổ
chức và đấu tranh của công nhân.
Báo L' Humanité của Đảng Cộng sản
Pháp cũng được gửi đến Tổng bộ Hội Thanh niên; qua báo Thanh niên số
187, ngày 5-8-1929, nói về L' Humanité, ngày 12-7-1929.
Nhìn chung, báo Thanh niên do Nguyễn
Ái Quốc sáng lập và chỉ đạo biên tập ở thời kỳ đầu và được những người cách
mạng, học trò xuất sắc của Người kế tục ở thời kỳ sau đi đúng tôn chỉ,
mục đích đã đề ra, đánh đấu một mốc lịch sử của báo chí Việt Nam, khai sáng
dòng báo chí cách mạng, đưa chủ nghĩa yêu nước vào trong nhân dân Việt Nam,
nhất là trong thanh niên, theo xu hướng của cách mạng vô sản. Báo Thanh niên
đóng vai trò lịch sử hết sức quan trọng trong việc tuyên truyền, chuẩn bị về tư
tưởng, lý luận và tổ chức cho việc ra đời các nhóm cộng sản vào cuối năm 1929
và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930.
- Báo Búa Liềm:
Báo Búa Liềm, cơ quan trung ương của
Đảng Cộng sản Đông Dương xuất bản được 9 số kể từ ngày 1-10-1929, mỗi số cách
nhau nửa tháng. Chúng ta biết được như thế qua những tài liệu của ta và của mật
thám Pháp, chứ không giữ được đủ bộ sưu tập. Kho của Bảo tàng Cách mạng Việt
Nam chỉ có 3 số bản mốc (3, 4, 5)13. Với nguồn tài liệu ít
ỏi, nhưng vô cùng quý, giúp chúng ta hiểu một phần về Đảng Cộng sản Đông
Dương qua cơ quan ngôn luận trung ương của Đảng.
Ở số 3, ngày 1-11-1929, báo đề ra “Khẩu
hiệu đấu tranh'' cho thợ thuyền áo xanh (công nhân công
nghiệp), áo nâu (công nhân nông nghiệp), khách (công nhân là người Hoa) tổ chức
nhau vào công hội theo Đảng Cộng sản đấu tranh, đòi các quyền lợi kinh tế và tổ
chức công hội, tự do bãi công và tuần hành (có 5 khẩu hiệu, 4 là thuần túy kinh
tế); đối với dân cày, tổ chức vào nông hội theo Đảng Cộng sản, đòi các
quyền lợi kinh tế đưa ra khẩu hiệu: “công, nông, binh Đông Dương đoàn kết lại!
Theo gương cách mệnh Nga, đánh đổ đế quốc chủ nghĩa''; đối với phu xe, tổ
chức vào Hội Phu xe, theo Đảng Cộng sản đòi các quyền lợi kinh tế và tự do lập
hội, tự do nói, tự do biểu tình, tự do bãi công; đối với binh lính khố
đỏ, khố xanh, tổ chức vào binh hội, đấu tranh đòi tăng lương, chống ngược đãi,
chống đi nước ngoài,... được tự do hội họp xem sách báo, liên minh với công
nông; khi cách mệnh bùng nổ, phải tổ chức ra Hồng quân bảo vệ
công nông; với học sinh, tổ chức học sinh hội đòi các quyền lợi học
tập, chống mắng chửi, tự do xuất dương du học,...; đối với người buôn bán
nhỏ, đòi xóa bỏ các thứ thuế, đối với giáo dục, thư ký sở công và
tư đòi tự do lập hội nói, viết…
- Báo Đỏ:
Trên măng sét viết những dòng đóng trong
khung bên phải tên báo chữ to: ''Báo Đỏ là cơ quan của một chi bộ cộng sản, mục
đích là cổ động những người cộng sản, những chi bộ cộng sản ở Annam mau mau hợp
nhất lại cho thành một đảng cộng sản chính thức''.
Trong khung bên phải tên báo, có những dòng
chữ: “Thành lập một đảng cộng sản chính thức, lãnh đạo quần chúng đấu tranh,
phản đối khủng bố, giết, đày, giam người cách mạng, đó là trách nhiệm khẩn cấp
của những người cộng sản ở Annam bây giờ''.
Báo Đỏ là cơ quan của một chi bộ
Đảng Cộng sản Annam hoạt động ở Trung Quốc, gồm có Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Đỗ
Ngọc Du, Nguyễn Lương Bằng... Báo viết tay trên giấy sáp. Hiện nay chưa tìm
thấy số 1, ra ngày, tháng, năm nào và tất cả ra được mấy số, chưa rõ.
Bài đăng trên báo Đỏ nhan đề “Làm
thế nào cho có một đảng cộng sản chính thức ở Annam” biểu thị một
tinh thần chân thành, xây dựng, thẳng thắn phê bình những sự chia rẽ giữa những
người cộng sản và nhóm cộng sản, kêu gọi đoàn kết lại, thành lập một đảng cộng
sản chính thức vì lợi ích của cách mạng, của quần chúng14. Ý
tưởng tốt đẹp này hoàn toàn thống nhất với chỉ thị của Quốc tế Cộng sản trong
thư đề ngày 27-10-1929 về việc thành lập ở Đông Dương một đảng cộng sản, với
chủ trương của Nguyễn Ái Quốc về hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng
cộng sản - Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930.
“Annam chưa có đảng cộng sản, chẳng những
quốc tế công nhận thế, mà đồng chí ta chắc ai cũng hiểu vậy. Một đảng chính
thức phải có đủ hệ thống tổ chức, phải có cơ bản lực lượng của đảng và lực
lượng quần chúng tổ chức. Nhưng thế cũng chưa thể gọi là một đảng chính thức
được, phải trải qua một thời gian phấn đấu để đào thải hết những phần tử đầu
cơ, hoạt đầu, thỏa hiệp, để luyện đảng viên cho có kiên nhẫn như sắt, để làm
cho đảng có kinh nghiệm đầy đủ, lý luận và chủ trương chính đáng, không xu
hướng tả mà cũng không xu hướng hữu, nói tóm lại là đảng viên phái bônsêvich
hóa thì đảng mới gọi đảng bônsêvích...''.
''Hiện thời Annam từ Nam đến Bắc, từ Lào
đến Miên, đâu đâu cũng đã có người cộng sản hoặc chi bộ cộng sản, có chỗ cũng
đã có công hội, nông hội, tổng công hội, nông dân hiệp hội. Ngọn cờ đỏ đã rải
rác phất phới trên xứ Đông Dương. Những cuộc kỷ niệm bãi công, đã thấy truyền
đơn, khẩu hiệu của những đồng chí cộng sản đi đầu ra lãnh đạo quần chúng. Các
nhà tù đã chất đầy những người chiến sĩ vô sản giai cấp. Đế quốc chủ nghĩa Pháp
đã kinh hồn thất phách, đã biểu hiện thái độ của nó ra trên các báo chương của
nó. Tụi chó săn của nó đã đi khắp từ thành thị đến thôn quê diễn thuyết, hiểu
dụ về việc phản đối “tụi cộng sản phiến động'' để lừa dối dân chúng''.
Cảnh tượng nhiệt liệt ấy đã tỏ cho ta biết
rõ bằng phong trào cách mạng Annam đã cuộn đến một làn sóng mới.
II. BÁO CHÍ VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1930 – 1936
1. Sự phát triển của tình hình chính trị
- xã hội Việt Nam từ năm 1930 đến giữa năm 1936
Cuộc khủng hoảng kinh tế lan tràn khắp thế
giới từ năm 1929 đã tác động mạnh mẽ đến nước Pháp đế quốc chủ nghĩa,
ảnh hưởng xấu tới xứ Đông Dương thuộc địa; đến năm 1933 mới tạm thời ổn định,
thời gian dịu đi chẳng được bao lâu thì cuộc khủng hoảng mới lại bắt đầu từ năm
1935. Lần này, cuộc khủng hoảng kinh tế tuy không nghiêm trọng như lần
trước, nhưng nhân dân ta vẫn thấy nghẹt thở, vì chưa lại sức bởi sự tàn phá
trước thì lại phải hứng chịu luồng gió độc mới làm cho xơ xác.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đầu
năm 1930, đánh dấu một bước ngoặt có ý nghĩa lịch sử trong sự phát triển của
cách mạng Việt Nam.
Nhờ có một đảng triệt để cách mạng, có
đường lối chính trị và tổ chức sáng suốt, có uy tín của nhà lãnh tụ cách mạng
thiên tài Nguyễn Ái Quốc, qua “Lời kêu gọi'' nhân dịp thành lập Đảng,
một cao trào cách mạng của quần chúng lần đầu tiên xuất hiện ở nước ta. Hệ
thống tổ chức các cấp của Đảng được xây dựng. Các đoàn thể quần chúng cách mạng
do Đảng lãnh đạo như công hội, nông hội, thanh niên cộng sản đoàn, cứu tế
đỏ,... đã lôi cuốn quần chúng tham gia đông đảo chưa từng có. Nhiều cuộc hội
họp, rải truyền đơn, treo cờ, dán biểu ngữ, mít tinh, biểu tình, làm đơn kiến
nghị đòi chính quyền, địa chủ, tư bản, giải quyết những yêu cầu cấp thiết của
đời sống nhân dân về các quyền lợi kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa. Quần
chúng tham gia đấu tranh, phát triển đến đỉnh cao nhất là Phong trào Xôviết ở
hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh.
Khi hội nghị bàn việc thống nhất các tổ
chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam vừa kết thúc, Việt Nam Quốc dân Đảng
bị động đẩy tới cuộc khởi nghĩa Yên Bái ngày 9-2-1930. Đế quốc Pháp dìm
Việt Nam Quốc dân Đảng trong tàn sát và khủng bố chưa xong, lại hoảng sợ trước
khí thế mãnh liệt của quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản mới ra đời.
Chúng ra sức tìm mọi cách ngăn chặn và đẩy lùi phong trào cộng sản đi tới mong
tiêu diệt nó. Chúng đàn áp hết sức điên cuồng, những vụ bắt người, ném bom, đốt
nhà, cướp nhà, cướp của, giết người không có xét xử, diễn ra tràn lan, gấp bội
so với thời kỳ đối phó với Việt Nam Quốc dân Đảng. Chúng vu cáo những người
cộng sản trên báo chí, trước dư luận, mong làm cho quần chúng hiểu sai sự thật
về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa và phẩm chất cao quý của người cộng sản.
Sau những đợt khủng bố của kẻ thù trong
những năm 1930 - 193l, hệ thống tổ chức của Đảng bị phá nghiêm trọng. Phần lớn
đảng viên bị sa lưới mật thám. Các Uỷ viên Trung ương Đảng, Xứ uỷ, tỉnh uỷ,
huyện uỷ bị bắt tù, đày. Các tổ chức quần chúng cách mạng bị tan vỡ. Thực trạng
tiêu điều về kinh tế kết hợp với khủng hoảng chính trị làm cho xã hội Việt Nam
càng biến động phức tạp. Cách mạng bước vào thời kỳ thoái trào.
Từ năm 1932 trở đi, địch ra sức chấn chỉnh
và củng cố hệ thống chính quyền và cơ sở kinh tế do tác động của cao trào cách
mạng 1930 - 1931; chúng tăng cường hệ thống an ninh, nhằm vào một số trọng điểm
có phong trào cách mạng để tạo khả năng chủ động và phản ứng kịp thời đối với
những cuộc đấu tranh mới; ra sách, báo gieo rắc mê tín, ảo tưởng hão huyền, bi
quan trong nhân dân, đặc biệt là thanh niên, v.v..
Thực dân Pháp tiến hành những vụ xử án
những người cộng sản ở các tòa án tỉnh, thành khắp nơi trong cả nước, từ tử
hình đến tù, đày làm cho không khí chính trị ngột ngạt, nhất là vụ xử 120 người
hoạt động cộng sản ở Tòa đại hình Sài Gòn tháng 5-1933 nhằm khủng bố tinh thần
nhân dân. Nhưng tinh thần dũng cảm, khí phách của những người cộng sản trước
tòa án không những đã làm cho chúng đuối lý, thất bại nhục nhã mà còn gây nên
lòng căm phẫn sôi nổi ở trong nước và cả ngoài nước, nhất là ở Pháp.
Đế quốc Pháp còn liên kết với bè lũ đế quốc
và phản động quốc tế Anh, Trung Quốc, Thái Lan... để khủng bố những người cộng
sản Việt Nam, điển hình là vụ bắt giam Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông trong những
năm 193l - 1933; bắt Nguyễn Lương Bằng, Đỗ Ngọc Du... ở Thượng Hải tháng
6-1931.
Tháng 3-1935, Đại hội lần thứ I của Đảng
họp ở Ma Cao. Qua thực tiễn phong trào từ năm 1930, Đảng đã khẳng định mục
tiêu, đường lối chiến lược cơ bản của Đảng đề ra từ khi thành lập là đúng đắn;
tình hình xây dựng Đảng, tổ chức và hoạt động của các đoàn thể quần chúng, quan
hệ quốc tế của Đảng được bổ sung và cụ thể hóa bằng những kinh nghiệm phong
phú. Tuy nhiên, những nghị quyết của Đại hội có những hạn chế, không sát với
những biến động chính trị trong nước và quốc tế, chưa đề ra được chủ trương,
biện pháp để tập hợp các lực lượng dân chủ trong phạm vi mỗi nước và trên quy
mô quốc tế nhằm chống chủ nghĩa phát xít và tay sai của chúng, bảo vệ hòa bình,
chống chiến tranh.
Đoàn đại biểu của Đảng ta sau khi dự Đại
hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản trở về, xem Nghị quyết Đại hội lần thứ I của
Đảng có những vấn đề cần bổ sung và sửa chữa cho phù hợp với bước đi chung của
phong trào cộng sản quốc tế, đề ra những nhiệm vụ mới, đáp ứng được yêu cầu của
phong trào đấu tranh cách mạng trong thời kỳ mới15.
Từ năm 1933 trở đi, phong trào đấu tranh
của công nhân và nông dân diễn ra ngày càng rộng rãi. Nhờ có kinh nghiệm đã
tích luỹ được với sự vững vàng của cơ sở Đảng, nên một số đồng chí tham gia
tranh cử vào Hội đồng thành phố Sài Gòn viết báo về những người cộng sản sống
và đấu tranh ở Côn Lôn (Côn Đảo); tuyên truyền cho triết học duy vật biện chứng
và mỹ học Mác - Lênin, tiến công vào tư tưởng triết học duy tâm và duy vật máy
móc, cùng mỹ học tư sản...
Ngày 26-7-1936, tại một địa điểm ở nước
ngoài, Trung ương Đảng họp hội nghị mở rộng, chính thức quyết định chuyển hướng
chỉ đạo chiến lược, đề ra sách lược mới, thành lập Mặt trận nhân dân phản đế
Đông Dương, sau đó gọi là Mặt trận Dân chủ thống nhất Đông Dương. Về cơ bản,
nội dung chính sách, các khẩu hiệu đấu tranh ở thời kỳ này là đòi tự do, dân
chủ, tuy chưa hoàn chỉnh.
2. Những điểm mới trong chính sách báo
chí của chính quyền thực dân
Những luật lệ, sắc lệnh, nghị định của
chính quyền thực dân thời kỳ trước năm 1930 như đã trình bày ở trên, vẫn
giữ nguyên hiệu lực của nó.
Từ năm 1930 đến giữa năm 1936, trước ngày
Chính phủ L. Blum thành lập, chính quyền thực dân đã ban hành trên 30
văn bản mới về báo chí, hoặc có liên quan đến báo chí.
Trong số những văn bản mới này, phần lớn là
quy định về tăng thêm thời hạn bị tù và tiền phạt nếu vi phạm các điều
luật, sắc lệnh và nghị định đã quy định từ trước, để kiềm chế báo chí
chặt chẽ hơn trong gọng kìm của chính sách thực dân. Đáng chú ý là
nghị định của Toàn quyền R.Rôbanh ký ngày 1-1-1935 về bãi bỏ chế độ kiểm
duyệt báo chí quy định từ năm 1898. Nghị định không được công bố trên Công
báo (J.O.I.F), các báo chí đương thời cũng không có toàn văn, chỉ
được phổ biến ý chính. Một số báo đã đưa tin, bình luận về chủ trương
này.
Thống sứ Bắc Kỳ Y. Saten đến Hội nghị
thường niên Viện Dân biểu Bắc Kỳ đọc một bài diễn văn vào ngày
3-11-1937, có đoạn: ''Hai điểm như đã tập trung dư luận công chúng và sự
cổ động làm đọng lại trong ý thức: vấn đề giải phóng tù chính trị và
vấn đề báo chí''.
“Vấn đề báo chí không ngừng được
theo dõi ở Bắc Kỳ với một lợi ích ham muốn bởi dư luận công cộng. Vấn đề
đó đôi khi làm nảy sinh việc cổ động trong ý thức, tôi tưởng cần nhận
rõ nguồn gốc của những cuộc vận động lộn xộn về tư tưởng và con
người”.
''Không có gì đáng nói về sự việc mới nhận
thấy dư luận rất phổ biến trong giới “trẻ'' về báo chí Bắc Kỳ, sau đó
nghề làm báo là một nghề đã làm. Nó tồn tại trước hết là phơi bày những
dư luận cực đoan và đã góp phần trực tiếp hoặc gián tiếp vào toàn bộ
phong trào báo chí hay hoạt động nhằm mục đích làm rối loạn trật tự''.
Việc xóa bỏ chế độ kiểm duyệt là một phương
sách còn rất mới mà nhiều người ''trẻ'' có khả năng học tập sử dụng để
tự do đưa tin mà họ ưng thích. Tuổi tác và kinh nghiệm còn thiếu để rút
ra một lợi ích hợp lý về quyền tự do hành động đặt ra bất thường cho say sưa
với ngôn từ hay ngòi bút. Hành động của họ cực đoan, đôi khi nhẹ nhàng
hơn là nó không tham dự vào một ý hướng có hại, ngẫm nghĩ và có suy
tính. Tôi tự nghĩ rằng trong một vài năm phần lớn các tờ báo đã tỏ một
thái độ và một địa vị xã hội phù hợp hơn nữa với vai trò mà báo chí cần
phải có ở xứ này''.
Chính quyền thực dân chủ trương xóa bỏ chế
độ kiểm duyệt không phải nhằm mở rộng quyền tự do hoạt động cho báo chí,
mà là để tăng cường việc ra lệnh thu hồi giấy phép đối với những tờ báo
nào mà chúng thấy không ưa, có ý công kích chính sách thực dân, phê phán
bọn quan trường sâu mọt, tàn nhẫn, thối nát, dù là dưới hình thức sỗ sàng,
bốp chát, hay kín đáo, tế nhị, bất kể là báo của ai, bằng tiếng Pháp hay
dã man hơn là cắt bỏ một vài đoạn, một bài, cho đến cả một trang báo,
nhưng tờ báo vẫn còn sống dù là sống lay lắt.
3. Tình hình xuất bản báo chí
a) Về báo chí xuất bản công khai, hợp
pháp
Dòng báo chí xuất bản công khai, hợp pháp
tiếp tục phát triển về số lượng, nhưng nhịp độ không đều, không ổn định. Năm
1931 tăng hơn năm 1930 là 35 tên báo và tạp chí; năm 1932 - 1933, mỗi năm tăng
hơn năm trước 25 - 27 tờ; năm 1934 tăng 8 tờ; năm 1935 tăng hơn năm trước 40 tờ
(cao nhất); đầu năm 1936 và cả năm 1936 lại sụt xuống.
Hằng năm, trung bình có từ 30 đến 40 tờ
đình bản. Như vậy là số lượng của năm sau tăng lên khá cao, vì phải bù lại số
đình bản và vượt qua con số của năm trước để con số trội hơn (trừ năm 1936).
Các loại báo đều tăng lên, tuy tỷ lệ cơ cấu
không đều nhau: chính trị và văn hóa, khoa học - kỹ thuật và văn học nghệ
thuật, tôn giáo, thể thao, v.v.. Loại báo in bằng ngoại ngữ và song ngữ (Hán -
Việt) cũng tăng lên. Số người Việt đứng tên xin phép ra báo càng nhiều, so với
người Pháp thì tỷ lệ tăng lên.
Bọn thực dân dùng báo chí để tuyên truyền,
cổ động cho chủ nghĩa cải lương, nhất là từ sau khi Bảo Đại về nước, mong làm
dịu nỗi bất bình vì những đau khổ do chúng gây ra.
Từ năm 1930, tư tưởng xáo động ổn định dần,
trật tự xã hội đỡ căng thẳng. Trên báo chí xuất hiện những cuộc trao đổi, tranh
luận về văn học nghệ thuật giữa các xu hướng và phương pháp sáng tác khác nhau,
đối lập nhau.
Văn học lãng mạn xuất hiện từ những năm 20 của
thế kỷ XX, đến lúc này mang những nội dung và hình thức mới khác trước, do tình
hình chính trị ảnh hưởng đến tư tưởng, quan điểm của giai cấp tư sản, tiểu tư
sản thành thị và giới trí thức. Tư sản dân tộc và tiểu tư sản trí thức Việt Nam
tìm thấy trong chủ nghĩa lãng mạn một tiếng thở dài chống chế độ thuộc địa16.
Giai cấp tư sản chống chế độ phong kiến
quan liêu qua các quan hệ gia đình, lễ giáo, đạo đức, tiêu biểu là những truyện
dài, truyện ngắn đăng trên báo Phong hóa (6-10-1936) của nhóm Tự lực văn
đoàn.
Báo Phụ nữ tân văn số 122, ngày
10-3-1932 đăng bài của Phan Khôi đem ''một lối thơ mới trình chánh giữa làng
thơ'', và giới thiệu bài ''Tình già” mở ra cuộc tranh luận về thơ mới,
kéo dài nhiều năm, lôi cuốn nhiều tờ báo ba miền Trung, Nam, Bắc tham gia
như Phong hóa, Tiếng dân, Annam tạp chí, Ngày nay, Tiểu thuyết thứ bẩy, Hà
Nội báo, Công luận, Sài Gòn, Tân thời, Văn học tạp chí...
Văn chương trên báo Phong hóa ngày
càng tranh thủ được bạn đọc trong tầng lớp tư sản, tiểu tư sản, học sinh
thành thị. Những bài thơ của Tú Mỡ được đông đảo bạn đọc đón nhận. Nó
phản ánh những cảnh ngang tai, trái mắt diễn ra hằng ngày, gần gũi
trong cuộc sống.
Các đảng viên cộng sản hết hạn tù trở về,
tìm bắt liên lạc với Đảng để tiếp tục hoạt động. Một trong những phương
tiện mà các cán bộ trí thức của Đảng ở tù ra và ở nước ngoài về sử dụng
là lấy báo chí công khai, hợp pháp làm vũ khí đấu tranh.
Tờ báo La Lutte ra số l, này
24-4-1933, phục vụ cho cuộc tranh cử vào Hội đồng thành phố Sài Gòn, có
công nhân và trí thức, tơrốtxkit và cộng sản, đăng một số bài bênh vực
quyền lợi của nhân dân lao động. Sau khi ra số 4, ngày 2-6-1933, La
Lutte ngừng 16 ngày mới lại ra tiếp. Nguyễn Văn Nguyễn, một cán bộ của
Đảng, từ nhà tù Côn Lôn trở về, viết một phóng sự dài về các chiến sĩ cộng
sản bị giam, đày ở đây, đăng trên 35 số, từ số 6, ngày 11-10-1934, đến
số 58, ngày 26-10-1935 (có một số cách quãng, không đăng liên tục). Đây
là một bản cáo trạng lớn về tội ác của chế độ thực dân đối với nhân dân
ta và nhân dân Pháp.
Từ ngày tục bản, số 5, ngày 4-10-1934, La
Lutte đăng những bài của phái tơrốtxkit đứng đầu là Tạ Thu Thâu,
đồng thời đăng những bài của những người cộng sản: Nguyễn Văn Tạo,
Nguyễn Văn Nguyễn và Nguyễn Thị Lựu. Những bài đăng trên báo L'
Humanité được những người cộng sản cho đăng lại ở đây. Như
vậy là trên mặt báo hình thành hai khuynh hướng trái ngược nhau: cộng
sản và tơrốtxkit. Phái tơrốtxkit lợi dụng sự “hợp tác'' để lừa dư luận,
như là sự cộng tác giữa những người tơrốtxkit và cộng sản ở Đông Dương.
Sau này, một vài nhà nghiên cứu lịch sử ở Pháp đã bịa đặt là “có sự gợi
ý của Đảng Cộng sản Pháp'' ra báo của tơrốtxkít - cộng sản ở Đông
Dương, xem đó như là điều kiện để chuẩn bị tiến tới phục hồi Đảng Cộng
sản ở Đông Dương (!)”, sau những cơn bão táp khủng bố của thực dân Pháp.
Phụ nữ thời đàm số 4, ngày 8-8-1933,
mở đầu cuộc tranh luận về duy tâm và duy vật, với bài của Phan Khôi: ''Văn
minh vật chất và văn minh tinh thần''. Hải Triều phê phán: ''Ông Phan
Khôi không phải là một học giả duy vật'' đăng báo Đông phương số
891, ngày 20-10-1933. Thực chất quan điểm triết học của Phan Khôi là để
dẫn tới nhận thức chính trị: không nên làm cách mạng. Hải Triều phê phán
cơ sở nhận thức triết học duy tâm của Phan Khôi, chứ chưa đả kích vào
quan điểm chính trị của Phan Khôi.
Tiếp theo đó, Phan Khôi đáp lại bằng bài “Nguyên
lý với hiện tượng'' đăng trên Phụ nữ thời đàm số 9, ngày 12-11-1933.
Hải Triều tiếp tục vạch trần: ''Ông Phan Khôi là một học giả duy tâm” đăng
trên Phụ nữ thời đàm số 1, tháng 2-1934. Sau đó xoay qua
vấn đề: ''Trên lịch sử nước ta không có chế độ phong kiến?” của Phan
Khôi đăng trên Phụ nữ tân văn số ra ngày 29-11-1934, và bài phản
đối của Hải Triều: ''Trên lịch sử nước ta vẫn có chế độ phong kiến”, đăng
báo Công luận, số 2 và 3, ngày 7-4-1935.
Hải Triều cùng với Hải Vân, Hỏa Sơn, Hồ
Xanh, Lâm Mộng Quang v.v.. viết nhiều bài trình bày quan điểm mỹ học Mác -
Lênin, chống lại quan điểm nghệ thuật tư sản đăng trên các báo Ánh sáng,
Trung Kỳ, Tiến bộ. Những chiến sĩ cộng sản trên mặt trận tư tưởng, lý luận,
chủ động đấu tranh cho thắng lợi của học thuyết Mác - Lênin, dù chưa nhận được
sự lãnh đạo của tổ chức Đảng.
Trong các cuộc tranh luận này, Hải Triều là
cây bút xuất sắc chống lại quan điểm duy tâm, thần bí và mỹ học tư sản.
b) Báo chí cách mạng Việt Nam từ năm 1930
đến giữa năm 1936
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản,
thành lập Đảng cộng sản Việt Nam đầu năm 1930, thông qua nghị quyết về báo
chí viết:
“l. Bỏ những tờ báo do Đông Dương
Đảng Cộng sản và An Nam Đảng Cộng sản xuất bản trước đây.
''2. Ban Trung ương có thể xuất bản một tạp
chí lý luận và ba tờ báo tuyên truyền''.
''3. Bỏ những tờ báo của các hội quần chúng
do Đảng chỉ đạo.
''4. Duy trì tất cả những tờ báo do quần
chúng chủ trương''16.
Về tổ chức báo chí, do Đảng thống
nhất, nên báo chí của hệ thống các tổ chức cộng sản trước đây đều ngừng
xuất bản, để theo một dòng chỉ đạo thống nhất của Đảng Cộng sản. Về tư
tưởng và chính trị của báo chí, theo đường lối, chính sách của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Nó không những có điểm khác với đường lối, chính sách
của Đảng Cộng sản Đông Dương và Đảng Cộng sản An Nam. Nó cũng không hoàn
toàn giống với nội dung chỉ thị của Quốc tế Cộng sản. Căn cứ vào Chánh
cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Lời kêu gọi
của Nguyễn Ái Quốc; những điểm khác đó xoay quanh vấn đề quan hệ
giữa dân tộc và giai cấp.
Theo tinh thần chỉ đạo của Đảng Cộng sản,
có ít nhất 25 tờ báo thuộc hệ thống tổ chức từ Xứ uỷ Trung Kỳ, Nam Kỳ,
nhiều tỉnh uỷ, huyện uỷ, đảng uỷ cho đến một số tổ chức quần chúng
(học sinh) ra đời ít ngày sau khi Đảng thành lập; trước khi trung ương
có báo và tạp chí.
Ngày 5-8-1930, Tạp chí Đỏ, cơ quan
trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam, ra số 1. Ngày 15-8-1930 báo Tranh
đấu, cơ quan trung ương của Đảng ra số 1.
Tháng 10-1930, Ban Chấp hành Trung ương họp
đã sửa đổi một số chủ trương về chỉ đạo chiến lược và sách lược của Đảng
đề ra trong hội nghị hợp nhất, đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng
Cộng sản Đông Dương. Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương xuất bản báo Cờ
vô sản, số 1, ngày 1-1-1931 và Tạp chí cộng sản số 1, ngày 11-2-1931
do Tổng Bí thư Trần Phú trực tiếp phụ trách. Báo của các cấp bộ đảng địa
phương, có tờ ngừng xuất bản, ra tờ mới lấy danh nghĩa cơ quan của đảng
bộ Đảng Cộng sản Đông Dương, có tờ vẫn giữ tên cũ, nhưng đổi danh
nghĩa cho phù hợp với tổ chức mang tên mới.
Tính chung từ năm 1930 đến giữa năm l936,
có trên l60 tờ báo và tạp chí của trung ương và các địa phương.
Hưởng ứng lời kêu gọi của trung ương, báo
chí của Đảng trong cả nước hướng về Nghệ Tĩnh, cổ vũ quần chúng đấu tranh,
vạch mặt tội ác của đế quốc và tay sai. Tờ Lao khổ của Xứ uỷ Nam
Kỳ, số 15, ngày 5-10-1930 viết: ''Từ ngày 1-9, nông dân Nghệ An và Hà
Tĩnh đã đấu tranh quyết liệt nhất. Tại các làng, tất cả quyền hành thuộc
về nông hội. Ở một số làng, phụ nữ cũng tham gia công việc làng nước.
Kiện cáo, áp bức không còn nữa. Nhân dân tự mình giải quyết mọi xích mích,
không cần đến tri huyện''.
Báo Bồi bếp ra số đặc biệt ngày
20-10-1930 ủng hộ Xôviết Nghệ An và Hà Tĩnh, chống khủng bố, viết: ''Hỡi
anh em, chị em, chúng ta hãy kéo nhau ra đường thị oai, biểu tình, phản
đối sự khủng bố, bắn giết, bắt bớ khám xét chúng ta. Chúng ta hưởng
ứng anh chị em ở Nghệ Tĩnh là làm cho đế quốc Pháp, quan lại địa chủ, tư
sản Việt Nam biết sức đoàn kết của chúng ta và chúng ta đã giác ngộ rồi,
không có cắm đầu làm mọi việc cho chúng đâu''.
Từ tháng 4-1930 đến tháng 4-1937, Đảng ta
không có báo làm cơ quan ngôn luận của trung ương. Cũng từ tháng 4-1931
đến tháng 5-1943, Đảng ta không có tạp chí của trung ương.
Tháng 6-1934, Ban chỉ huy ở ngoài nước của
Đảng Cộng sản Đông Dương, phân bộ của Quốc tế Cộng sản làm nhiệm vụ trung
ương lâm thời, cho ra Tạp chí Bônsêvích, làm cơ quan ngôn luận.
Sau Đại hội lần thứ I của Đảng, tháng 3-1935, Tạp chí Bônsêvích với danh
nghĩa là cơ quan lý luận của Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng Cộng sản Đông
Dương đổi thành ''Cơ quan lý luận của Đảng Cộng sản Đông Dương''.
Xứ uỷ Nam Kỳ cũng bị địch phá vỡ cùng thời
gian với trung ương. Đầu năm 1932, Xứ uỷ lâm thời lập lại, ra báo Cờ
đỏ. Tháng 10-1932, Xứ uỷ lâm thời bị phá, Cờ đỏ ngừng xuất
bản. Tháng 5-1933, Xứ uỷ mới lập lại lần thứ hai, ra báo Cờ lãnh đạo,
sau đổi tên là Giải phóng. Tháng 5-1935, Xứ uỷ lại bị phá, Giải
phóng lại ngừng xuất bản, cho đến tháng 11-1935 ra lại báo cùng với
Xứ uỷ được lập lại.
Ở Bắc Kỳ, sau khi bị địch phá năm 1931, báo
Tiến lên, cơ quan của Xứ uỷ ngừng xuất bản. Khi Xứ uỷ lâm thời
lập, ra báo lấy tên Cờ đỏ. Xứ uỷ mới bị địch phá, Cờ đỏ
ngừng xuất bản, cho đến thời kỳ vận động dân chủ, cuối năm 1936, mới có
báo của Xứ uỷ mới.
Tờ Công nông binh của Xứ uỷ Trung Kỳ
ngừng xuất bản từ đầu năm 1931. Ở miền Trung Trung Kỳ xuất bản tờ Cờ
đỏ của các nhóm cộng sản không bị sa lưới mật thám, bắt liên lạc với
nhau, cùng hoạt động ở khu vực Quảng Nam - Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Quy
Nhơn, Phan Thiết.
Ở miền Nam, nhiều tỉnh uỷ và liên tỉnh uỷ
ra báo. Sài Gòn có Thợ thuyền, Chợ Lớn có Nhà quê, Mỹ Tho
có Nông dân, Châu Đốc có Bạn nghèo, Sa Đéc có Dân cày, Bến
Tre có Tranh đấu, Vàm Cỏ Đông có Dân nghèo, liên tỉnh Long Xuyên
- Châu Đốc - Rạch Giá – Hà Tiên, gọi tắt là Long Châu Rạch Hà có Cùng khổ.
Liên Chấp uỷ địa phương Nam Đông Dương ra Tạp chí Cộng sản, v.v..
Ở Bắc Kỳ, Nam Định và Ninh Bình có Hưởng
ứng, sau đổi là Dân quê, Cao Bằng có Cờ đỏ, Hà Nam có tờ Đỏ...
Ở Trung Kỳ, Thanh Hóa có Hồn lao động v.v..
Báo của các huyện, nhiều nhất là vùng Nghệ
An, Hà Tĩnh, như Nghi Lộc có Chỉ trích, Đức Thọ có Cổ động, Anh
Sơn có Gương vô sản. Nhiều huyện khác vẫn duy trì được báo từ khi bùng
nổ Xôviết Nghệ - Tĩnh qua năm 1931 - 1932; ở huyện Chợ Mới, tỉnh Châu Đốc có Lao
khổ, v.v..
Trong các giới, như học sinh, có Tân học
sinh của Nam Kỳ học sinh liên hiệp hội, Thanh niên đỏ của thanh niên
cộng sản ở Nam Kỳ, Tạp chí Thanh niên, Thanh niên, v.v.. Quần chúng nhân
dân lao động, có Thổ mộ của công nhân xe thổ mộ Sài Gòn, Thợ thuyền của
công nhân thành phố Sài Gòn, Thùng dầu của chi bộ Nhà Bè, Đường ray của
chi bộ kho xe lửa Dĩ An, Xi moong của công nhân xi măng Hải Phòng, Xe
goòng của phu khuân vác sáu kho Hải Phòng, Lao động của Tổng công
hội Nam Kỳ v.v..
Một điểm đặc sắc, tuy không phải là độc
đáo, đó là một số nhà tù, chi bộ chủ trương ra báo17. Không
hẹn mà nên, là một sự ngẫu nhiên, nhưng mang tính quy luật, do yêu cầu đấu
tranh của những người cộng sản Việt Nam ở trong nhà tù đế quốc.
Ở Hỏa Lò, Hà Nội, có Con đường chính,
Lao tù tạp chí (sau đổi là Tù nhân báo), Bônsơvích, Tạp chí cộng sản. Ở
Côn Lôn, có Người tù đỏ, Ý kiến chung. Ở nhà tù Quảng Nam, có Mõ
nhà pha (sau đổi là Vắt cơm bi). Ở nhà tù Buôn Ma Thuật, có Doãn
đê tạp chí (sau đổi là Bônsơvích), v.v..
Báo chí cách mạng đã tuyên truyền lý luận
Mác - Lênin; đường lối của Quốc tế Cộng sản; các nghị quyết, chủ trương, chính
sách của Đảng ta; đấu tranh với các tư tưởng, quan điểm chính trị và chính sách
của chủ nghĩa đế quốc Pháp và bọn tay sai; chống chủ nghĩa quốc gia cải lương, những
xu hướng thỏa hiệp, đầu hàng, những sai lầm ''tả'' khuynh và hữu khuynh trong
nội bộ Đảng và trong các tổ chức quần chúng cách mạng.
Cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận trên báo
chí cách mạng, trong đó có báo chí cách mạng trong tù đã góp phần quan trọng vào
việc xây dựng và củng cố tư tưởng, vững vàng về chính trị, thống nhất về tổ
chức cho đảng viên và quần chúng, đồng thời làm phân hóa hàng ngũ Việt Nam Quốc
dân Đảng. Qua những cuộc khẩu chiến, bút chiến, tuyên truyền, thuyết phục và
thực tiễn của cách mạng làm cho một số đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng đã ly
khai đảng, từ bỏ chủ nghĩa Tam dân và đường lối của Việt Nam Quốc dân Đảng, từ
chỗ có thái độ ''trung lập'' đến ngả hẳn sang chủ nghĩa Mác và Đảng Cộng sản,
trở thành đảng viên của Đảng Cộng sản, như Trần Huy Liệu, Tưởng Dân Bảo, Trịnh
Tam Tỉnh, Tô Hiệu, Nguyễn Bình, Nguyễn Đức Chính, v.v.. Có người chưa trở thành
đảng viên cộng sản nhưng tư tưởng đã chuyển hẳn sang phía chủ nghĩa Mác và Đảng
Cộng sản trước khi trút hơi thở cuối cùng, như Phạm Tuấn Tài, đã để lại bản di
chúc có ý nghĩa lịch sử.
Tháng 6-1930, nhóm tơrốtxkit đầu tiên xuất
hiện ở Sài Gòn. Về sau bổ sung thêm Hồ Hữu Tường, Phan Văn Hùm... từ Pháp về và
lôi kéo một số trí thức trong nước đi theo. Họ công bố tuyên ngôn, viết báo,
xuất bản sách chống Đảng Cộng sản và Quốc tế Cộng sản trên tất cả các vấn đề
chiến lược và chỉ đạo chiến lược, sách lược cách mạng, đến các chủ trương hoạt
động cụ thể. L. Tơrốtxki, từ một địa điểm ở Thổ Nhĩ Kỳ gửi ''Các nhóm đối lập ở
Đông Dương'' một bức thư Chỉ thị đề ngày 18-9-1930, uốn nắn một số vấn đề về
đường lối chính trị của các nhóm tơrốtxkit cho đúng quỹ đạo của chủ nghĩa
tơrốtxkit.
Trong suốt những năm 1930 đến giữa năm
1936, các báo chí của Đảng, chỉ có Tạp chí Cộng sản của Liên chấp uỷ địa
phương Nam Đông Dương.
Những cơ sở báo chí ở các vùng dân tộc
thiểu số, nhiều nơi vẫn bảo toàn được và phát triển vững chắc. Đại hội lần thứ
I của Đảng (1935) có Nghị quyết về công tác trong các dân tộc thiểu số, có
chính sách chỉ đạo về tổ chức, hoạt động chính trị và báo chí quan tâm đúng mức
đến các dân tộc thiểu số.
Về quốc tế, báo chí làm rất nhiều
cho việc tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa quốc tế vô sản, những ngày kỷ niệm 3L
(tên của ba nhà cách mạng nổi tiếng thế giới: Lênin, Liếpnếch, Lúcxămbua) vào
tháng giêng; Ngày Quốc tế phụ nữ 8-3; Công xã Pari ngày 18-3, Công xã Quảng
Châu tháng 12; Quốc tế lao động ngày 1-5; Chống chiến tranh ngày 1-8; Cách mạng
xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga ngày 7-11, là những dịp báo chí có bài nhắc lại
ý nghĩa lịch sử, những tư tưởng lớn và giá trị thực tiễn đối với cuộc đấu tranh
cách mạng của nhân dân ta.
Báo của các địa phương có thế mạnh là đi
sát với phong trào địa phương, phản ánh và chỉ đạo kịp thời hoạt động của địa
phương. Nhưng báo địa phương thường có nhược điểm là không nắm vững sách lược
của Đảng đối với các giai cấp bóc lột. Ở những nơi đấu tranh quyết liệt, xung
đột đổ máu, dễ sinh ra “tả”, khuynh. Có khi quá nhấn mạnh đặc điểm địa phương,
nhận thức không đầy đủ cái chung và sự chỉ đạo chung, thống nhất trong toàn Đảng
trên cả nước.
Báo chí cách mạng làm đúng chức năng của
mình theo lời dạy của Lênin: là người tuyên truyền tập thể, cổ động tập thể và
tổ chức tập thể.
Báo chí cách mạng trong những năm 1930 -
1936, về nội dung và cả tên báo đều mang đậm tính giai cấp, không rõ tính nhân
dân, tính dân tộc. Tên báo thường là Vô sản, Dân cày, Lao khổ, Dân nghèo,
Công nông, Lao động, v.v..
Về in, báo vẫn sử dụng các phương tiện thủ
công, thô sơ như thời kỳ trước. Giấy có nhiều loại, khổ to nhỏ, không có điều
kiện chọn lựa nên một tờ báo có nhiều khuôn khổ các số không đều nhau. Mọi khâu
hoạt động không phải lúc nào cũng ăn khớp nhịp nhàng. Nhiều khi có đủ bài,
nhưng vật tư in thiếu, phải chậm lại, thậm chí có giấy nhưng chưa mua được mực.
Rồi phải đối phó với địch truy lùng, phải bảo vệ cơ sở hết sức bí mật và kịp
thời di chuyển, do đó hầu hết báo và tạp chí đều xuất bản không định kỳ.
Việc phát hành phải được tổ chức chặt chẽ,
khoa học, bảo đảm thông suốt trên đường dây, tránh rơi vào tay địch. Việc này,
chúng ta đã có nhiều kinh nghiệm nên ít khi bị sa sẩy.
Về nguyên tắc, báo hay tạp chí của Trung
ương Đảng hay cấp đảng bộ nào, tổ chức nào, phải đề rõ ràng, có thể dùng mật
danh. Nhưng có tạp chí đã quá dễ dãi, số này đề: ''Cơ quan của đảng bộ...'', số
khác là ''Cơ quan của Đảng Cộng sản Đông Dương'' hay ''Cơ quan lý luận của Đảng
Cộng sản Đông Dương'', làm cho đảng viên và quần chúng đương thời có khi nhầm
là cơ quan ngôn luận của Trung ương Đảng. Đối với người nghiên cứu về sau, nếu
không đọc kỹ nội dung thì cũng khó tránh khỏi nhầm lẫn.
Trong thời kỳ này, báo chí cách mạng đều
xuất bản bí mật, không hợp pháp, không kể ở trong tù hay ngoài tù, ở trong nước
hay ngoài nước.
Nhưng không phải mọi tờ báo xuất bản bí
mật, không hợp pháp hay trong tù đều là báo cách mạng. Tờ Tháng Mười,
tạp chí của nhóm Hồ Hữu Tường, Đào Hưng Long, Huệ Minh; tờ Đông Dương tả
phái cộng sản của nhóm Tạ Thu Thâu, đều xuất bản năm 1932 ở những địa điểm
bí mật của thành phố sài Gòn, tuyên truyền quan điểm tơrốtxkit, chống Đảng Cộng
sản và Quốc tế Cộng sản. Ở trong tù, Hỏa Lò cũng như Côn Lôn, bên cạnh mấy tờ
báo và tạp chí của chi bộ cộng sản chủ trương, có những tờ thuộc nhóm ly khai
Quốc dân Đảng, lúc đầu chưa tỏ khuynh hướng rõ, dần dần có cảm tình với những
người cộng sản (về sau, một số trong các nhóm này trở thành đảng viên cộng sản)
như: Hòn cau và Delfrag ở Côn Lôn; Đuốc đưa đường ở Hỏa
Lò, đồng thời lại có báo của Quốc dân Đảng như Đường cách mạng ở Hỏa Lò,
Hà Nội.
c) Một số tờ báo và tạp chí cách
mạng tiêu biểu
- Tạp chí Đỏ:
Tạp chí Đỏ là tạp chí đầu tiên của
Đảng ta, và cũng là tờ đầu tiên trong hệ thống báo chí của Đảng xuất bản
sau Hội nghị thành lập Đảng tháng 2-1930.
Theo những dòng chữ ghi vào sổ của Văn
phòng Quốc tế Cộng sản nhận được bằng chữ Pháp, thì Tạp chí Đỏ xuất
bản ở Trung Quốc (trên trang bìa số l, chữ đánh máy).
Tạp chí gửi về trong nước như thế nào, đến
nay chưa thấy tài liệu để lại, kể cả của ta và của mật thám Pháp.
Tạp chí được gửi đến Văn phòng Quốc tế Cộng
sản, một lúc vào sổ nhận 3 số, số 1, ngày 5-8-1930, số 3, ngày 28-8-1930, đến
nơi nhận ngày 21-12-1930 (chữ Nga). Số 9, không có ngày, tháng, năm 1930
vào sổ nhận của Quốc tế Cộng sản, ngày 4-12-1931 (số 1345).
Số cuối cùng, số bao nhiêu, ra ngày, tháng,
năm nào cũng chưa rõ.
Các trang chữ đều đánh máy trên giấy sáp,
in rônêô; khổ trung bình 13x19cm các từ lúc đó viết f, z, k; ngày nay ta viết
ph, d, g, gi, c.
Lời nói đầu tiên số 1, viết:
“1. Tạp chí này sau sẽ tiếp tục in mãi.
Hoặc nhiều hoặc ít, hoặc một tuần, hoặc 10 ngày, nửa tháng, không nhất định.
“2. Tài liệu trong tạp chí, hoặc là cách
làm việc, hoặc là kinh nghiệm cách mạng các nước, hoặc là tin tức thế giới,
hoặc là phê bình công việc của mình, v.v. sẵn gì in lấy.
“3. Trách nhiệm các cơ quan đối với tạp
chí.
a) Đem làm tài liệu huấn luyện và nghiên
cứu cho đảng viên.
b) Lấy tài liệu trong này mà làm báo.
c) Bài nào nên truyền bá cho đa số quần
chúng thì kiếm cách in thêm ra.
d) Xem chỗ nào có tâm đắc, chỗ nào khó
hiểu, chỗ nào nên sửa đổi, chỗ nào không hợp với hoàn cảnh riêng của địa phương
mình, v.v. thì phải phê bình, phải hỏi.
''Nói tóm lại là các đồng chí phải hết sức
truyền bá và giúp cho tạp chí được hoàn toàn và phát triển''.
12 trang còn lại là bài ''Bí mật công
tác''. Bài viết câu ngắn gọn, theo thể đặt câu hỏi và trả lời: Vì sao phải bí
mật? Vì sao các cơ quan thường bị bắt? Các khuynh hướng sai lầm đối với vấn đề
giữ bí mật; tiếp theo là 12 đều khuôn phép của công việc bí mật, nêu vắn tắt 10
cách bí mật cần lưu ý, cần tùy hoàn cảnh, tùy cơ ứng biến cho khéo.
Tạp chí Đỏ hướng dẫn nhận thức lý
luận và kinh nghiệm công tác cho đảng viên bằng cách trình bày đơn sơ, lời văn
giản dị hợp với trình độ của phần đông đảng viên lúc đó.
-
Báo Tranh đấu:
Báo Tranh đấu là cơ quan trung ương
của Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên, ra số 1, ngày 15-8-1930.
Người chỉ đạo biên tập là Trịnh Đình Cửu,
một trong bốn đồng chí là “đại biểu của đại biểu Quốc tế”18,
được ghi trong Nghị quyết của hội nghị hợp nhất.
Báo khổ cộng 315x220cm, in bằng chữ viết
bút thép trên giấy sáp, bốn trang, ở một địa điểm bí mật tại Hà Nội của Trung ương
Đảng. Cùng với bản chữ quốc ngữ, có bản chữ nôm, vì chữ nôm khi ấy còn nhiều
người đọc được. Thực dân Pháp đã thu được cả hai bản, chữ quốc ngữ và chữ nôm;
dịch toàn văn ra chữ Pháp theo bản chữ quốc ngữ19.
Ở trang 1, mở đầu bằng Mấy lời tuyên
cáo!: ''Các đoàn thể và các phần tử cộng sản lẻ tẻ trong nước bây giờ đã
thống nhất lại một đảng, gọi là Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì thế mà các cơ quan
trung ương tuyên truyền của các đoàn thể xưa kia đã hết nhiệm vụ lịch sử và đã
phải đình bản. Ngày nay, báo ''Tranh đấu” này ra đời làm cơ quan
trung ương của Đảng để thống nhất, để hướng đạo tư tưởng và hành động cho cả
toàn thể đồng chí và quần chúng lao khổ''.
Báo giải thích vì sao lấy tên ''Tranh
đấu?”. ''Cái tên này không phải ngẫu nhiên do một cái chí hướng tốt, hoặc
một cái ước vọng cao của Đảng mà chưa có căn cứ vào đâu, nhưng chính là cái
tiêu biểu của sự thiết thực trong thời kỳ lịch sử ở xứ ta ngày nay. ''Tranh
đấu'' sẽ tiến hành công cuộc thống nhất tư tưởng, hành vi toàn Đảng...''''.
Sau bài trình bày tôn chỉ, mục đích của báo
trên đây, có bài “Tình hình trong nước và trách nhiệm của Đảng''. Bài
báo phác qua tình hình đấu tranh sôi nổi kế tiếp nhau không dứt trên cả
nước, mỗi ngày mỗi lan rộng, mỗi ngày một kịch liệt, ''trước còn ôn
hòa, sau xung đột đổ máu; quần chúng lại ngày càng thêm cương quyết,
hăng hái và dũng cảm, hy sinh lạ thường''.
Nguyên nhân của tình hình trên là do khủng
hoảng kinh tế, đời sống nhân dân ngày càng cơ cực, sinh hoạt đắt
đỏ, sức mua ngày một eo hẹp hơn. Đế quốc Pháp càng ra sức bóc lột nhân
dân lao động để bù vào những thiệt hại do khủng hoảng kinh tế gây ra
''Phá sản, thất nghiệp, đói kém lại thêm dữ dội, nỗi thảm thê cay đắng
lại thêm bội phần sâu sắc''.
Ở trang 3, báo in câu phương châm: ''Đảng
giáo dục và lãnh đạo quần chúng, đồng thời học hỏi kinh nghiệm của quần
chúng''.
Về thời sự, báo đưa tin cuộc bãi
công lớn của Công ty xe điện ở Thượng Hải, tháng 6 và 7 - 1930; phong trào
Xôviết ở Trung Hoa; phong trào đấu tranh của nhân dân Ấn Độ chống đế quốc Anh;
cuộc tổng bãi công của công nhân miền Bắc nước Pháp.
Tìm trong tài liệu lưu trữ của Đảng và của
mật thám Pháp đều không ghi lại báo Tranh đấu ra được mấy số? Số cuối
cùng là số bao nhiêu, ngày, tháng nào?
- Tạp chí cộng sản:
Cộng sản là tạp chí lý luận và chính
trị của Trung ương Đảng, ''cơ quan của Đảng Cộng sản Đông Dương'' xuất
bản theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương tháng 10-1930.
Tạp chí in trên giấy sáp viết tay, khổ
25x10cm, ở một cơ sở của trung ương đặt tại thành phố Sài Gòn, do Tổng Bí thư
Trần Phú trực tiếp chỉ đạo.
Trong nước không còn lưu được một số nào.
Bản số 1 hiện nay để nghiên cứu là chụp từ bản gốc ở kho lưu trữ của Quốc tế
Cộng sản, được Liên Xô chuyển giao cho Đảng ta.
Số 1 của tạp chí đề ngày 11-2-1931, đến
Quốc tế Cộng sản vào sổ nhận ngày 28-5-1931. Đến nay chưa có tài liệu nào cho
biết tạp chí ra được mấy số, số cuối cùng là số mấy, ra ngày, tháng nào, hay
chỉ có một số?
Trong Lời nói đầu ở trang 2, có đoạn
viết: ''Mục đích của Đảng chúng ta, kịch liệt công kích những tư tưởng sai lầm,
những xu hướng hoạt đầu và biệt phái, để làm cho nền tư tưởng và cách hành động
trong Đảng được nhứt thống. Tạp chí Cộng sản sẽ thâu góp các đều
kinh nghiệm trong sự tranh đấu và lãnh đạo tranh đấu của các đảng viên và các
đảng bộ Đông Dương và những sự kinh nghiệm tranh đấu của các đảng anh em trong
toàn thế giới để làm cho đảng chúng ta mau phát triển. Tạp chí Cộng sản cũng
là cái chỗ chung cho các đảng viên tự chỉ trích những điều sai lầm, khuyết điểm
trong công tác hằng ngày của Đảng, phát biểu ra những ý kiến mới mẻ để cùng
nhau đi theo con đường chính trị đúng''.
Tạp chí đăng bài ''Vấn đề tổ chức công
hội”, định nghĩa công hội là gì? Vị trí của công hội trong cách mạng.
Bài “Lời bàn về tổ chức”, phê phán
những nhận thức sai lầm về công tác, chia ra các tổ chức trên dưới từng bậc,
xếp loại một cách máy móc;... là số 1. Hội Phản đế, số 2. Công hội, số 3. Nông
hội, số 4. Hội Cứu tế, số...; hoặc cho rằng mỗi người chỉ được vào tổ chức nhất
định, không thể từ lớp... Công hội, Nông hội, Hội Phản đế, Cứu tế đỏ đều làm
cho tổ chức quần chúng để đấu tranh cách mạng ''cái nào cũng có ích, có giá
trị, cái nào cũng có trường hoạt động của nó, cái này giúp cái kia, cái kia
giúp các nọ. Một người có thể có chân trong nhiều tổ chức''.
Bài ''Cần phải mở rộng việc tự chỉ trích
trong Đảng”, mở đầu bằng trích dẫn lời của Lênin về tự phê bình của một
đảng: “Nhận lỗi của mình, tìm nguyên nhân đều lầm lỗi ấy...” (viết trong Bệnh
ấu trĩ “tả'' khuynh của chủ nghĩa cộng sản).
Từ những kinh nghiệm lịch sử của phong trào
cách mạng thế giới và các đảng anh em, bài viết chỉ rõ phải biết tự chỉ trích
thì Đảng mới trở nên mạnh được. ''Nếu không mở sự chỉ trích trong Đảng thì biết
lấy gì mà rõ những điều kiện lầm lỗi từ xưa đến nay; nếu không có sự tự chỉ
trích thì biết kiếm phương kế gì mà chữa những điều lầm lỗi ấy. Đảng của chúng
ta là Đảng của vô sản giai cấp cách mạng, cho nên chúng ta không sợ mà không
nói những sự sai lầm của chúng ta (...) các đồng chí trong khi chỉ trích phải
cần chú ý rằng: Tự chỉ trích thiệt bônsêvích thì mới giúp Đảng hóa nên bônsêvích
được''.
Tạp chí trích dịch báo cáo của Xtalin tại
Đại hội lần thứ XVI của Đảng Cộng sản Liên Xô, ngày 27-6-1930, dưới đầu đề “Cuộc
thế giới kinh tế khủng hoảng''.
Tạp chí Cộng sản là một bước phát
triển mới, cao trong lịch sử các tạp chí của Đảng ta. Nội dung phong phú, sinh
động, từ những nguyên tắc lý luận, đường lối chính trị gắn với chỉ đạo hoạt
động thực tiễn của Đảng, phê bình uốn nắn những nhận thức và hành vi không đúng
của một số đảng viên, bảo đảm cho toàn Đảng thống nhất về tư tưởng và tổ chức.
- Tạp chí Bônsơvích:
Được sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản, tháng
4-1934, Ban lãnh đạo của Đảng ta nước ngoài được thành lập, làm nhiệm vụ của
Trung ương lâm thời. Lê Hồng Phong làm Trưởng ban, đặt cơ sở ở Ma Cao, Trung
Quốc.
Tháng 6-1934, Ban lãnh đạo của Đảng ở nước
ngoài cho xuất bản Tạp chí Bônsơvích, cơ quan của Ban chỉ huy ở ngoài
của Đảng Cộng sản Đông Dương từ số 1, đến số 10, tháng 2-1935. Đại hội lần thứ
I của Đảng họp ở Ma Cao tháng 3-1935, bầu ra Ban Chấp hành Trung ương. Không rõ
tại sao Tạp chí Bônsơvích ngừng xuất bản một năm, đến tháng 2-1936 mới
ra số 11; sau đó ra hằng tháng từ số 11 đến số 15 (tháng 6-1936); cách ba tháng
sau, mới ra số 16, ngày 9-9-1936.
Tạp chí gửi đến Quốc tế Cộng sản, phía Liên
Xô chụp lại và chuyển cho Đảng ta số 10, tháng 2 -1935, số 15 tháng
6-1936, số 15 tháng 6-1936 (Quốc tế Cộng sản nhận được ngày 14-10-1936);
số 16 (Quốc tế Cộng sản nhận được ngày 19-l-1937).
Như vậy là các số từ 1 đến 9 chưa rõ nội
dung. Các số 11, 12, 13 là tìm hiểu qua bản dịch của mật thám Pháp (ví dụ: số
11, tháng 2-1936, dịch ra chữ Pháp ngày 16-6-1936; số 12, ngày 1-3-1936, dịch
ngày 21-3-1936) tóm tắt những ý chính của mỗi bài.
Cho đến nay, Tạp chí Bônsơvích ra
được bao nhiêu số, số cuối cùng, ngày, tháng nào chưa xác định.
Dưới đây là nội dung số 10 và 15.
Số l0 có 47 trang. Mở đầu là bài ''Công
tác trong sáu tháng vừa qua”. Bài viết nhắc lại quá trình phục hồi
Đảng từ ngày trung ương bị vỡ do địch đánh phá, điểm lại tình hình tổ chức của
Đảng, báo chí của Đảng, công tác vận động thanh niên, công nhân, nông dân, phụ
nữ, binh lính, hoạt động của Hội Phản đế đồng minh, Hội Cứu tế đỏ, phong trào
đấu tranh của quần chúng trong sáu tháng vừa qua (từ tháng 9-1934).
Bài ''Trước lúc Đại hội Đảng phải nghiên
cứu bản ''Chương trình hành động của Đảng'' một cách thế nào?”, trước hết
khẳng định ý nghĩa chỉ đạo cách mạng cho toàn Đảng, có đủ giá trị làm cơ
sở cho dự thảo văn kiện Đại hội Đảng. Các đảng bộ có trách nhiệm thảo luận bản ''Chương
trình”, đồng thời hướng dẫn cách thảo luận để chuẩn bị Đại hội Đảng, và phê
bình những thái độ không đúng đối với “Chương trình''. Những phần tử
không chịu một phần hay cả bản Chương trình hành động thì nhất luật khai trừ ra
khỏi Đảng (Tác giả: H. T. C: Hồng Thế Công).
Bài ''Công tác của các đảng bộ ở miền Nam
từ 1933 tới 1934”; nói qua về tình hình các xứ uỷ bị địch phá, hệ thống tổ
chức Đảng bị tan rã. Nam Kỳ tổ chức lại xứ uỷ bốn lần, nhưng đảng viên phức
tạp, có bộ phận chống xứ uỷ Đảng viên trong tù nặng bi quan. ''Họ lo cho tiền
đồ cách mạng, kỳ thực họ miệt thị năng lực sáng tạo của giai cấp vô sản vậy''.
Đầu năm 1933 đã tổ chức lại xứ uỷ Nam Kỳ,
giữa năm 1934, liên lạc được cả Đông Dương.
Tạp chí còn có các bài: ''5 năm Yên Bái
bạo động - Những bài học của bạo động''; “Ủng hộ cách mạng Xiêm''; ''Cách mạng
tranh đấu của dân tộc Thổ” (các dân tộc thiểu số miền núi Bắc Kỳ);
''Công hội vận động 1934'', ''Vấn đề nông hội ở Cao Bằng''.
Mỗi bài trên, tạp chí đều trình bày tình
hình, đánh giá sâu sắc cụ thể, uốn nắn những lệch lạc về nhận thức, chủ
trương hoạt động và tổ chức đoàn thể để đẩy mạnh phong trào và phát triển
đấu tranh thắng lợi.
Những tài liệu ấy bổ sung và đính chính
những cuốn lịch sử về phong trào công nhân và công đoàn, công hội, về
báo Lao động của ta hiện nay.
Các số Tạp chí Bônsơvích rơi vào tay
mật thám Pháp, chúng ta biết qua bản dịch ra chữ Pháp:
Số 11, tháng 2-1936, có hai vấn đề
lớn:
- Đại hội lần thứ VII của Quốc tế
cộng sản;
- Mặt trận nhân dân chống chủ nghĩa đế quốc
ở Đông Dương.
Vấn đề thứ hai có 7 điểm:
l. Động viên quần chúng đấu tranh đòi các
quyền lợi kinh tế thiết thực hằng ngày, gắn đấu tranh kinh tế với đấu tranh
chính trị tùy ý thức giai cấp và lực lượng đấu tranh.
2. Chống khủng bố trắng, đòi ân xá chính
trị phạm.
3. Ủng hộ các cuộc đấu tranh của dân tộc
thiểu số, chống chủ nghĩa dân tộc lớn và dân tộc hẹp hòi.
4. Thương lượng với các đảng, các nhóm, các
tổ chức quốc gia cách mạng, phái đối lập cộng sản (tức là phái tơrốtxkit), quần
chúng trong các tổ chức quốc gia cải lương, trên cơ sở một chương trình chống
đế quốc nhất định, lập mặt trận nhân dân chống đế quốc. Tùy theo điều kiện địa
phương, tổ chức những hình thức hợp pháp, nửa hợp pháp, lập mặt trận nhân dân
chống đế quốc ở mỗi xí nghiệp, hầm mỏ, đồn điền, làng, thành phố, khu vực,
tỉnh, vùng cho đến toàn Đông Dương.
5. Trên cơ sở chương trình tối thiểu, thành
lập các nghiệp đoàn, ái hữu để tổ chức quần chúng lại.
6. Các cơ quan của Mặt trận phải gồm những
người tích cực nhất Đảng giúp họ về tổ chức và đấu tranh khi tình thế thay đổi.
Đảng phải giải thích cho quần chúng về nguy
cơ chiến tranh đế quốc can thiệp vào Liên Xô và Xôviết Tàu; lãnh đạo quần chúng
đấu tranh chống đế quốc, vì hòa bình, bảo vệ Liên Xô, bảo vệ Đông Dương và
Xôviết Tàu.
7. Chống nguy cơ hữu khuynh; chống chủ
nghĩa biệt phái, coi thường năng lực chống đế quốc của quần chúng và các tổ
chức chống chủ nghĩa đế quốc.
Thành lập Mặt trận nhân dân chống chủ nghĩa
đế quốc là một phần của việc tăng cường, phát triển và thống nhất Đảng.
Mở rộng Mặt trận là nhiệm vụ hằng ngày, cấp
bách của Đảng, là một điều kiện đầu tiên đi tới thắng lợi của cách mạng Đông
Dương.
Số 13, tháng 4-1936, có ''Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản Đông Dương về ngày 1-5-1936”.
(Số 16, ngày 9-9-1936, thuộc về thời kỳ vận
động dân chủ, ở phần sau).
- Tạp chí Cộng sản:
Đây là tạp chí của Liên Chấp uỷ địa phương
Nam Đông Dương, xuất bản số l, tháng 6-1933; số cuối cùng, số 19, ngày
l-1-1985 (có bài viết của tạp chí và Tạp chí Bônsơvích: ''Liên địa
phương Chấp uỷ miền Nam Đông Dương''). Trần Văn Giàu làm nhiệm vụ Tổng biên
tập, viết phần lớn các bài trên các số (có số viết toàn bộ) từ số đầu đến số
cuối, trước ngày bị địch bắt. Các bài có tên tác giả II. Nam = Hồ Nam,
một bút danh của Trần Văn Giàu trong nhiều năm, từ thời học Liên Xô.
Hiện nay Tạp chí Cộng sản phần lớn
không còn giữ được (có hai số là của mật thám dịch sang chữ Pháp một số bài,
đánh số và tháng xuất bản trùng với bản chữ Việt, nhưng bài lại khác nhau).
Sau đây là nội dung chính của mấy số.
Số 1, tháng 6-1933, bìa “Lời nói đầu”,
nói về làm cách mạng phải có lý luận cách mạng: ''Mấy năm hoạt động, bước đường
tuy ngắn, nhưng kinh nghiệm đã nhiều, mình phải tìm tòi khảo cứu, bỏ dở được
hay. Mấy năm tranh đấu, bao nhiêu khuynh hướng hoạt đầu đã nảy nở, mình phải
xung đột trên hai mặt trận để bảo tồn chủ nghĩa Mác - Lênin cho trong sạch, trừ
diệt các tư tưởng sai lầm trong hàng ngũ của mình''. ''Vì những lẽ ấy mà cần
phải có một cơ quan lý luận'', ''vì những lẽ ấy mà ''tạp chí chính sách'' ra
đời''.
Bài “Hiện tình thế giới, ở Đông Dương và
nhiệm vụ cần kíp của Đảng Cộng sản Đông Dương” dài 7 trang viết: Thế giới
ngày nay chia làm hai hệ thống xung khắc nhau ngày càng kịch liệt, một bên là
mấy xứ tư bản, một bên là Liên bang Xôviết.
Ở Liên bang Xôviết không có kinh tế khủng
hoảng. Kinh tế phát triển lành mạnh theo kế hoạch, đời sống vật chất và tinh
thần của người lao động ngày càng cao. Thực tế đó bác bỏ lý thuyết phản cách
mạng của tơrốtxkit.
Các nước tư bản đang bị khủng hoảng kinh tế
tàn phá. Giai cấp thống trị dùng phương pháp phát xít đàn áp cách mạng. Tuy
vậy, ở các nước tư bản chính chưa có tình hình trực tiếp cách mạng.
Đông Dương là bộ phận của kinh tế tư bản
thế giới nên không tránh khỏi khủng hoảng, trái lại gánh kinh tế khủng hoảng
trên vai lao động càng nặng nề 10 phần.
Phong trào cách mạng ở Đông Dương nổi lên
trong cuộc khủng hoảng, từ năm 1932 xuống thấp. Làn sóng tranh đấu trước đã
qua, làn sóng sau đã thấy và đương ào tới. Tới sớm hay muộn, mạnh hay yếu là
tùy sức tổ chức, tranh đấu của Đảng Cộng sản và quần chúng lao động.
Tình hình lúc này, nhiệm vụ căn bản là khôi
phục Đảng Cộng sản, chung quanh có đoàn thể của công nông ủng hộ, đủ tài sức
lãnh đạo hàng triệu lao động chiến đấu. Tác giả phác họa lịch sử nước ta từ khi
Pháp xâm lược, các tổ chức yêu nước chống Pháp qua các thời kỳ: ''Các đồng chí
phải gỡ mặt nạ của bọn đồ đệ tơrốtxkit dám bảo rằng Đảng Cộng sản do các phần
tử tả phái của Quốc dân Đảng lập ra''. Về Đảng Cộng sản thống nhất, bônsơvích
hóa và những nhược điểm của Đảng về lý luận, tư tưởng và tổ chức; về chỉ đạo
chính trị không gắn cách mạng phản đế với cách mạng điền địa, xem nhẹ cách mạng
điền địa; không thấy hết nguy cơ của chủ nghĩa quốc gia cải lương to lớn thế
nào v.v..
Trang l5, có bài “Lý luận cách mạng Đông
Dương'' do Hà Nội (Trần Văn Giàu) viết:
Cuối cùng là bài ''Gỡ mặt nạ chủ nghĩa
tơrốtxkít!”. Mở đầu trích dẫn câu của Xtalin: ''Chủ nghĩa tơrốtxkit không
phải là một cái cánh cửa cộng sản chủ nghĩa, trái lại nó là đội tiền quân của
tư bản phản cách mạng''.
Đây là một bài dài đăng nhiều kỳ, lần
đầu tiên phê phán chủ nghĩa tơrốtxkit và các nhóm tơrôtxkit ở Đông Dương
trên một tạp chí lý luận của Đảng ta (tạp chí địa phương) một cách có hệ thống,
và cũng là duy nhất trong suốt thời kỳ 1930- 1936.
- Con đường chính20:
Con đường chính là tờ báo luận chiến
của chi bộ cộng sản Nhà tù Hỏa Lò với phía tù nhân là Việt Nam Quốc dân Đảng,
xuất hiện năm 1932.
Nguyên nhân cơ bản của việc ra báo: trong
Nhà tù Hỏa Lò những năm 1930 - 1932 có hai loại tù chính trị, Việt Nam Quốc dân
Đảng và cộng sản, (ngoài ra có một số tù thường phạm) có sự khác biệt về hệ tư
tưởng, lý luận, quan điểm chính trị, phương pháp đấu tranh. Khi ở ngoài tù, hai
bên hành động riêng biệt, ít có quan hệ với nhau và cùng tồn tại. Đến khi vào
tù, sống chung trong trại giam, tiếp xúc hàng ngày, hằng giờ, những bất đồng
bộc phát dẫn tới trực tiếp luận chiến.
Nhân cuộc lễ kỷ niệm 3L hằng năm, ngày
21-1-1932, một đảng viên của ta lên nói về thân thế và sự nghiệp của Lênin,
Liếpnếch, Lúcxămbua, không nắm vững nội dung trình bày, chuẩn bị không kỹ, diễn
đạt lúng túng trước khán giả, bao gồm cả cộng sản và Quốc dân Đảng.
Phía Quốc dân Đảng cười nhạo báng: ''đấy là
giai cấp công nhân chính cống đấy! Họ muốn lãnh đạo cả chúng mình''. Sau đó họ
ra báo Đường cách mạng phê phán những vấn đề chính trị và lý luận của
cộng sản. Chi bộ cộng sản chủ trương ra báo Con đường chính, phân công
Đặng Xuân Khu (Trường Chinh) làm chủ bút, với dút danh ''Cây Xoan''.
Cuộc tranh luận mở rộng trên nhiều vấn đề,
từ những khái niệm lý luận, kinh nghiệm đấu tranh, nội dung chính trị, quan
điểm triết học và lịch sử triết học, kinh tế và lịch sử phát triển của kinh tế
xã hội loài người, v.v. được dẫn giải từ những vấn đề trong nước và nhiều nước
trên thế giới, lịch sử và hiện đại.
Chính cuộc đấu tranh này, một mặt củng cố
hàng ngũ cộng sản; mặt khác, thúc đẩy sự phân hóa trong hàng ngũ Quốc dân Đảng,
làm cho một số ly khai, có cảm tình với cộng sản, làm cho những phần tử phản
động bị lúng túng thất bại về lý luận và suy giảm về lực lượng, cô lập trước
đối thủ.
Cuộc luận chiến xoay quanh mấy vấn đề:
- Tổ quốc là gì? Phía Quốc dân Đảng
định nghĩa là bụi tre xanh, là ruộng lúa, là ông xã đoàn buông diều, là thằng
bé con đánh khăng trước cột đình v.v..
Con đường chính hỏi lại: Chỉ
có thế thôi ư? Những cái đó có mất đâu, vẫn còn đấy! Chúng ta mất Tổ quốc là
mất chủ quyền định đoạt vận mệnh nước ta, nhân dân ta. Mác nói: vô sản giai cấp
không có Tổ quốc nghĩa là ngay một nước độc lập (không phải thuộc địa), giai
cấp vô sản bị giai cấp tư sản chiếm đoạt mọi quyền lợi, cả cho đến con
người làm thuê tiền công rẻ, khi kinh tế khủng hoảng, thất nghiệp thì tự do
chết đói! Tổ quốc ta bị đế quốc xâm lược thì phải chiến đấu giành lại chủ quyền
cho nhân dân, xây đựng đời sống ấm no hạnh phúc, không phải để cho giai cấp tư
sản lợi dụng áp bức, bóc lột nhân dân.
Ngoài ra còn có bút chiến về khởi nghĩa Yên
Bái, về chủ nghĩa, về triết học và chủ nghĩa triết học...
Cuộc bút chiến kéo dài nhiều tháng, đến
cuối năm 1932, khi cuộc vượt ngục của Nguyễn Lương Bằng, Nguyễn Tạo, Hào Lách,
Nguyễn Trọng Đàm, Bùi Xuân Mẫn, Nguyễn Đình Tuyển, Vũ Duy Cương diễn ra, địch
khủng bố rất dữ dội, xóa bỏ mọi chế độ lục soát gay gắt... Cuộc bút chiến, viết
báo buộc phải ngừng lại. Những cuộc gặp gỡ trao đổi đều bị cấm ngặt.
Mặt khác, sự thất bại về lý luận, chính trị
của những trí thức Quốc dân Đảng làm họ tự hoài nghi về con đường đi của mình,
đội ngũ của họ bị suy yếu dần.
Trong hoàn cảnh đấu tranh với kẻ thù như
thế, báo chí cách mạng xứng đáng là vũ khí trí tuệ sắc bén của Đảng để giáo
dục, động viên, chỉ đạo, tổ chức đảng viên và quần chúng chiến đấu và chiến
thắng.
Những kinh nghiệm quý báu của việc biên
tập, xuất bản báo chí thời kỳ 1925 - 1936 có giá trị lâu dài đối với Đảng ta.
Về nội dung tư tưởng, lý luận và chính trị thì đây là thời kỳ đầu của cả quá
trình đấu tranh lâu dài, liên tục của cách mạng Việt Nam, mở ra truyền thống anh
dũng, độc đáo, sáng tạo của báo chí cách mạng Việt Nam.
III- BÁO CHÍ CÁCH MẠNG
VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ MẶT TRẬN DÂN CHỦ 1936 – 1939
l. Phong trào Mặt trận Dân chủ Đông
Dương với sự phát triển báo chí
Sang đầu năm 1936, tình hình chính trị - xã
hội nước ta vẫn cơ bản như năm trước. Chính sách cai trị của thực dân Pháp
không có gì mới. Những hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế đã được khắc phục,
nhưng điều kiện để phát triển gặp rất nhiều hạn chế. Cuộc sống của nhân dân có
phần ổn định hơn, nhưng còn bấp bênh.
Nhìn chung, những yếu tố chính trị chuyển
biến tích cực, rõ nét hơn nhưng không đều và chưa có dấu hiệu cho sự xuất hiện
của một phong trào trên quy mô cả nước với cấp độ cao.
Trong thời gian này, phong trào chống chủ
nghĩa phát triển ở nhiều nước trên thế giới đang phát triển giành được nhiều
thắng lợi, nhất là ở Pháp và Tây Ban Nha; điều đó ảnh hưởng nhiều đến Việt Nam.
Ngày 12-1-1936, Chương trình của Mặt
trận nhân dân Pháp được công bố lần đầu tiên trên báo L’Oeuvre xuất
bản ở Pari, biểu hiện sự lớn mạnh của Mặt trận nhân dân. Chương trình đề ra
những cải cách dân chủ, tiến bộ, toàn diện xã hội Pháp và các thuộc địa Pháp để
tập hợp và tăng cường lực lượng bảo vệ nền dân chủ tư sản, chống chủ nghĩa phát
xít, theo tư tưởng chỉ đạo của Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản.
Ngày 26-4-1936, cuộc tổng tuyển cử Quốc hội
Pháp, Mặt trận nhân dân giành được đa số phiếu. Ngày 3-5, vòng hai, thắng lợi
của Mặt trận được củng cố. Một Chính phủ cấp tiến do L. Blum đứng đầu, làm Thủ
tướng được thành lập, trình Quốc hội, được thông qua trên 64% phiếu.
Ở Hà Nội, Nguyễn Thế Rục, Trần Huy Liệu,
Trần Định Long, Nguyễn Đức Kính, Lê Văn Phúc, Nguyễn Mạnh Chất v.v. đã chuẩn bị
từ tháng 5, đúng ngày 6-6-1936 ra số l, báo Hồn trẻ tập mới. Đây
là sự trùng hợp với ngày Chính phủ Pháp chính thức thành lập, không phải ngẫu
nhiên, mà có sự tính toán, dự đoán tài tình, kỳ diệu của những người cộng sản.
Hồn trẻ tập mới đi tiên phong, mở
đường cho báo chí của Đảng và các tổ chức quần chúng cách mạng xuất bản công
khai, hợp pháp và nửa hợp pháp trong thời kỳ vận động dân chủ, trực tiếp đưa
tiếng nói của những người cộng sản qua phương tiện báo chí, đến với nhân dân
đông đảo.
Ngày 26-7-1936, Trung ương họp quyết định
lập Mặt trận nhân dân phản đế rộng rãi, gồm các đảng phái, các tầng lớp nhân
dân thích hợp với điều kiện thực tế ở xứ Đông Dương.
Căn cứ vào nội dung hội nghị này, các hội
nghị trung ương sau đó bổ sung hoàn chỉnh, cụ thể hóa, đề ra khẩu hiệu lập Mặt
trận Dân chủ thống nhất Đông Dương.
Khi trung ương họp hội nghị ở một địa điểm tại
nước ngoài, ở Sài Gòn những người cộng sản hoạt động công khai: Nguyễn Văn Tạo,
Nguyễn Văn Nguyễn, Dương Bạch Mai, Nguyễn Thị Lựu và những trí thức có cảm tình
với Đảng có sáng kiến đề ra cuộc vận động Đại hội Đông Dương (khi đó thường
viết là Đông Dương Đại hội). Nguyễn An Ninh thay mặt cho nhóm viết một loạt bài
bằng chữ Pháp đăng báo La Lutte: “Tiến tới một Đại hội Đông Dương'' (số
92, ngày 29-7-1936), “Hãy bắt tay vào Đại hội Đông Dương'' (số 93, ngày
5-8-1936) v.v.. Sáng kiến này được Trung ương Đảng đồng tình, ủng hộ, kêu gọi
đồng bào nhiệt liệt hưởng ứng. Đế quốc Pháp hoảng sợ trước phong trào sôi nổi
trên toàn xứ Đông Dương, Chính phủ Pháp theo dõi chặt chẽ tình hình, nhất là
thấy Đảng Cộng sản đã vào cuộc chỉ đạo phong trào, liền ra lệnh cấm đại hội,
trước hết ở Nam Kỳ từ ngày 15-9, sau đó đến Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Phong
trào phải dừng lại, nhưng cho ta những kinh nghiệm quý về đấu tranh và tổ chức
quần chúng, nhận rõ bản chất của Chính phủ Blum ở Pháp và chính quyền
thuộc địa phản động ở Đông Dương; hiểu rõ năng lực tổ chức và lãnh đạo quần
chúng của Đảng ta; các bạn đồng minh gần, xa và kẻ thù của nhân dân, tay sai
của giới phản động thuộc địa trong tình hình mới.
Thực hiện chủ trương của Đảng, ta thắng
trận đầu với việc đưa Trịnh Văn Phú ra tranh cử bổ sung vào Viện Dân biểu Bắc
Kỳ cuối năm 1936 đầu năm l937. Trịnh Văn Phú là đảng viên Đảng Cộng sản Pháp.
Vì tham gia biểu tình, bị trục xuất về nước tháng 5-1936. Anh bí mật bắt liên
lạc với các đảng viên cộng sản ở Hà Nội khi tổ chức đảng bị địch phá chưa được
gây dựng lại. Báo Le Travail do nhóm cộng sản chủ trương xuất bản, ra số
l, ngày 16-9-1936 đưa Trịnh Văn Phú làm chủ nhiệm. Trịnh Văn Phú tranh cử với
danh nghĩa đại biểu nhóm Le Travail, cả địch đều hiểu nhóm cộng sản. Do
kết quả vận động tốt, Trịnh Văn Phú trúng cử, thắng tay sai của địch, trở thành
''nghị viên''.
Cùng với Phan Tử Nghĩa, Trịnh Văn Phú soạn
thảo bài phát biểu để đọc ngày 8-11-1937 ở Đại hội Hội đồng Viện Dân biểu Bắc
Kỳ về vấn đề lao động. Đây là tiếng nói ''cộng sản'' lần đầu tiên trong lịch sử
dân biểu ở Đông Dương của thực dân Pháp.
Năm 1937, Viện Dân biểu Trung Kỳ hết nhiệm
kỳ, tổ chức dân bầu lại. Dưới sự chỉ đạo tài tình của Xứ uỷ Trung Kỳ trực tiếp
là Phan Đăng Lưu, ta kết hợp nhiều hình thức cổ động, dùng báo Sông Hương
tục bản, cử cán bộ đi vào quần chúng tuyên truyền, vận động cử tri bầu cho
những người do ta đưa ra, vạch mặt những tên buôn dân, bán nước... Kết quả 18
người của Mặt trận Dân chủ trúng cử, trong tổng số 49 người vừa bầu, vừa do
chính quyền chỉ định. Đây là một thắng lợi to lớn, làm cho kẻ thù hết sức bất
ngờ. Một tổ chức của Mặt trận Dân chủ được thành lập ngay trong Viện Dân biểu
đã làm thay đổi một phần bộ mặt và sắc thái của tổ chức này ngay từ ngày thành
lập.
Trên 4.000 tù chính trị còn bị giam dữ. Cuộc
đấu tranh đòi thả tù chính trị trước kia diễn ra liên tục, quyết liệt, nhưng ít
hiệu quả.
Chương trình của Mặt trận nhân dân Pháp trở
thành Chương trình của Chính phủ L. Blum. Phần thứ nhất ''Yêu sách chính trị'',
mục I ''Bảo vệ quyền tự do'', điểm l ''Tổng đại xá''. Ta dựa vào quy tắc pháp
lý ấy, tổ chức nhiều hình thức đấu tranh đòi tha tù chính trị; từ trong nhà tù,
gia đình các người tù cùng với báo chí, phối hợp với nhân dân Pháp và hoạt động
của Uỷ ban đòi ân xá tù chính trị ở Đông Dương của Pháp, buộc chính quyền thực
dân phải mở cửa nhà tù cho trên 2.000 tù chính trị được ra, tuy vẫn phải quản
thúc, bắt đầu đợt l kể từ ngày 4-7-1936. Đây là một thắng lợi to lớn, góp phần
quan trọng vào việc khôi phục, củng cố và phát triển thắng lợi của cách mạng Việt
Nam. Những đồng chí như Nguyễn Văn Cừ, Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng,
Nguyễn Chí Diểu, Phan Đăng Lưu và nhiều cán bộ kiên cường dũng cảm, thông minh
được rèn luyện, thử thách, ra khỏi nhà tù. Một số đồng chí đã học tập, công tác
ở nước ngoài trở về, như Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn Thị Minh Khai...
cùng nhau đẩy tới một cao trào cách mạng mới.
Bọn phản động thuộc địa rất ngoan cố, vẫn
tìm cách giữ lại 1.500 tù chính trị21, không chịu thả ra, có
người bị chuyển thành tù thường phạm mang án hình sự, như Tôn Đức Thắng, Phạm
Hùng, Lê Văn Lương, Nguyễn Lương Bằng, v.v.. Trong khi đó, chúng vẫn tiếp tục
bắt cán bộ ta vào tù vì vi phạm điều này, luật nọ. Cuộc đấu tranh gay gắt đòi
tha hết tù chính trị tiếp diễn trong suốt những năm đấu tranh cho dân chủ.
Với các cuộc đấu tranh của công nhân chống
giai cấp tư sản trong nước và nước ngoài bóc lột, buộc Tổng thống Pháp Lơbroong
và Bộ trưởng Thuộc địa Mutê ký sắc lệnh ban hành ''Luật Lao động'', cải cách
chế độ lao động ở Đông Dương ngày 30-12-1936. Các nhà tư sản tìm nhiều cách
không thi hành đầy đủ các điều quy định của sắc lệnh, còn chính quyền thì thờ ơ
không can thiệp. Mâu thuẫn về kinh tế cơ bản không được giải quyết.
Nhiều cuộc đấu tranh dưới danh nghĩa Mặt
trận Dân chủ được quần chúng đông đảo ủng hộ. Cuộc bầu cử đại biểu thay thế cho
hai vị trí của Mặt trận bị nhà cầm quyền bãi miễn vì hoạt động báo chí cách
mạng vào Viện Dân biểu Trung Kỳ. Tuy vậy, việc bầu cho Đặng Thai Mai thay chân
Phan Thanh, làm thất bại người của chính quyền đưa ra v.v..
Chiến tranh thế giới thứ hai bắt đầu, thời
kỳ vận động đấu tranh cho dân chủ kết thúc. Đảng ta chuyển vào hoạt động bí
mật, chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và thay đổi sách lược cho phù hợp với tình
hình chiến tranh và tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc. Các tổ chức dân chủ
của quần chúng cách mạng ngừng hoạt động. Các tổ chức phản đế được xây dựng bí
mật.
Đảng ta học tập được nhiều kinh nghiệm quý
thành công và không thành công trong lãnh đạo cách mạng, già dặn, vững vàng,
đầy tự tin tiến vào thời kỳ mới, vượt qua mọi gian khổ, hy sinh, đi tới
những thắng lợi vẻ vang đang đặt ra trước mắt.
2. Chính sách báo chí của chính quyền
thực dân
Trong suốt ba năm vận động dân chủ, Chính
phủ Pháp và chính quyền thực dân có trên 40 văn bản quy định bổ sung về báo chí
và quan hệ đến báo chí.
Ngày 12-8-1936, Chính phủ Pháp ra sắc lệnh
nới về báo chí do Tổng thống Lơbroong ký có tiếp chữ ký của Bộ trưởng Tư pháp
Ruyca, Bộ trưởng Thuộc địa Mutê; ngày 17-9-1936, Xinvétxtơrơ thay mặt Toàn
quyền Đông Dương Rôbanh, ký nghị định ban hành ở Đông Dương. Sắc lệnh có ba
điều. Sau đây là điều l và điều 2.
''Điều 1: Trong các lãnh thổ Trung
Kỳ, Bắc Kỳ, Cao Miên và Lào, việc công bố hay truyền bá bằng bất cứ biện pháp
nào những tin tức sai lầm, những văn bản xuyên tạc và vu cáo đối với người khác
vì cố tình mà làm giảm lòng tin, sẽ bị phạt tù từ 3 tháng đến một năm và phạt
tiền từ 100 đến 3.000 phrăng, hoặc một trong hai hình thức đó, khi ấn phẩm hoặc
việc truyền bá ấy dẫn tới làm rối loạn kỷ luật và đạo đức và các lực lượng lục
quân, hải quân và không quân''.
“Điều 2: Những vi phạm điều trên sẽ
bị đưa ra xử trước tòa án tiểu hình''.
Sắc lệnh này không thực hiện ở Nam Kỳ là
đất thuộc Pháp. Một sự thật khách quan nào đưa lên báo có thể làm cho kẻ thù sợ
hãi, ''cho đó là tin tức sai lầm'', ''văn bản xuyên tạc và vu cáo” bị chính
quyền thực dân lấy cớ làm án một cách độc đoán và đàn áp báo chí.
Rất nhiều đơn gửi lên Toàn quyền xin phép
ra báo đã bị bác. May lắm có tờ nào được ra thì cũng qua một thời gian dài điều
tra, xem xét.
Theo báo cáo của các nhà báo cách mạng ở Hà
Nội với Ônen (Honel), đại biểu Đảng Cộng sản Pháp, nghị sĩ Quốc hội Pháp trong
dịp sang Đông Dương, cuộc họp báo Hội đồng Chính phủ tháng 8-1937 xét 43 đơn
xin ra báo, chỉ duyệt có hai đơn22.
Khi tờ báo Dân chúng, cơ quan trung
ương của Đảng xuất bản công khai ở Sài Gòn không xin phép, dựa vào phong trào
dân chủ đang lên và luật tự do báo chí của Quốc hội Pháp mà Nam Kỳ được hưởng,
bị bọn thực dân cầm quyền làm sai lạc đi trong mấy chục năm, buộc chúng phải
thừa nhận tính nửa hợp pháp trong thời gian đầu.
Ngày 30-8-1938, hơn một tháng sau khi báo Dân
chúng ra số l, Tổng thống Pháp Lơbroong ký sắc lệnh, tiếp ký là Bộ trưởng
Thuộc địa Măngđen, được Toàn quyền Đông Dương Brêviê ra nghị định riêng cho Nam
Kỳ ngày 7-10-1938, gồm hai điều, trong đó:
“Điều 1: Các điều 2 và 4 trong sắc
lệnh ký ngày 30-12-1898 về chế độ báo chí ở Đông Dương từ nay bãi bỏ''23.
Như vậy là các báo chí và ấn phẩm định kỳ
xuất bản ở Nam Kỳ không cần xin phép trước. Nhưng chính quyền thực dân chỉ công
nhận giá trị điều 5 của luật ngày 29-7-1881 riêng đối với Nam Kỳ. Các thành phố
Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng đều là nhượng địa cho Pháp, có quy chế cho Nam Kỳ.
Ta đòi thực hiện sắc lệnh ngày 30-8-1938 ở cả ba thành phố này. Pháp lấy lý do
là các nơi ấy mới nhượng cho Pháp từ ngày 3-10-1888, tức là sau luật ngày
29-7-1881 hơn 7 năm, do đó không đủ điều kiện hưởng quyền tự do báo chí như ở
Nam Kỳ. Hành vi xảo trá đó chính là nhằm trốn tránh thi hành luật tự do báo
chí.
Các văn bản pháp quy về báo chí không quy
định thời hạn chung từ khi cho phép đến khi xuất bản là bao nhiêu lâu, nếu kéo
dài quá thời hạn đó thì không được xuất bản nữa. Nhưng khi ký nghị định, Toàn
quyền Đông Dương tùy tiện cho thời hạn khác nhau đối với từng tờ báo. Đời
nay, 1936, Tiểu thuyết thứ năm, 1937, thời hạn là 6 tháng. Dân,
1938, thời hạn là 3 tháng. Trước kia, từ năm 1931, tờ báo nào đã có nghị
định của Toàn quyền cho phép xuất bản rồi, bao nhiêu lâu sau đó, 3 tháng, 6
tháng hay hơn nữa mới ra số 1 là tùy người được phép24.
Theo các sắc lệnh và nghị định, một tờ báo
vi phạm một điều luật nào đó sẽ bị đưa ra xét xử trước tòa án tiểu hình. Phan
Tử Nghĩa, Giám đốc tờ báo chữ Pháp Rassemblement! (do Xứ uỷ Bắc Kỳ bí
mật chỉ đạo, danh nghĩa là tuần báo chính trị, kinh tế và xã hội ra ngày thứ
ba, cơ quan của tất cả các lực lượng dân chủ Đông Dương) bị gọi ra tòa đại hình
ngày 4-12-1937, bị truy tố về tội xuất bản nối tiếp theo Le Travail.
Đây là lần đầu tiên và cũng là một lần duy
nhất một tờ báo ở Đông Dương bị gọi ra tòa đại hình25.
Hội Ái hữu báo giới người Nam Kỳ (viết
tắt là AJAC) do nhà cầm quyền chủ trương lập ra từ ngày 22-6-1932 vẫn tồn tại,
nhưng thay đổi nhân sự hội đồng quản trị để đề phòng những người dân chủ nắm
lấy tổ chức đấu tranh với chúng.
Toàn quyền Robanh ban hành nghị định bỏ chế
độ kiểm duyệt báo chí ở Đông Dương từ ngày l-l-1935. Nay đứng trước tình
hình bóng mây Chiến tranh thế giới thứ hai đang bao phủ trời Âu, việc bùng nổ
chỉ còn tính ngày giờ, Toàn quyền Brêviê ra nghị định thu hồi nghị định bỏ kiểm
duyệt, trở lại chế độ kiểm duyệt từ ngày 29-8-1939. Nhiều tờ báo in ra lại xuất
hiện những đoạn, những cột, cho đến cả những trang bỏ trắng, ấn vào đó chữ ''kiểm
duyệt''.
Đơn xin xuất bản báo mới lúc này đều bị xếp
lại, không xét.
Sắc lệnh của Chính phủ Pháp ngày 26-9-1989,
sau điều l và điều 2 cấm các đảng cộng sản và các đoàn thể do đảng cộng sản tổ
chức và chỉ đạo hoạt động, điều 3 viết về báo chí: “Nghiêm cấm việc đăng
báo, lưu hành, bày bán, cất giữ báo chí và ấn phẩm định kỳ hay không định kỳ,
kể cả hình các hình vẽ, tuyên truyền những khẩu hiệu của phái Đệ tam quốc tế và
những cơ quan có quan hệ với phái ấy''.
Đến khi đứng trước ngưỡng cửa của chiến
tranh, bọn cầm quyền thẳng tay xóa bỏ những điều cải cách, tiến hành chính sách
phát xít đối với báo chí, đàn áp báo chí tiến bộ, khủng bố các nhà báo dân chủ
và cách mạng. Nhiều tờ báo phải đình bản. Các nhà báo cách mạng từ công khai
chuyển nào hoạt động bí mật.
3. Toàn cảnh báo chí Việt Nam
Theo thống kê của Phủ Toàn quyền, đến tháng
6-1936, cả nước có 230 tờ báo, tạp chí, tập san các loại. Đến 6 tháng cuối năm
1936 tăng lên 47 tờ, cộng cả năm 1936 là 277 tờ. Năm 1937 có 289 tờ, tăng hơn
năm 1936 là 12 tờ (4,3%). Năm 1938 là 308 tờ, tăng hơn năm 1937 là 19 tờ
(6,5%). Đến năm 1939 tiếp tục tăng lên, 6 tháng cuối năm 1939 dừng lại.
Tính bình quân hằng năm tăng gần 5%, trong
đó tốc độ tăng của báo chí Bắc Kỳ và Nam Kỳ lên đều nhau. Trung Kỳ năm 1938 lai
sụt hơn năm 1936, có 26/27 tờ.
Về thể loại, khuynh hướng chính trị tăng
nhanh hơn so với kinh tế, văn hóa, giáo dục, nghệ thuật, xã hội, tôn giáo...
Báo cách mạng lần đầu tiên xuất hiện công
khai trên mặt trận báo chí. Phần lớn báo cách mạng ra mắt công chúng dưới hình
thức nửa hợp pháp và hợp pháp, chỉ có khoảng trên 10 tờ là xuất bản bí mật.
Tờ La Lutte là diễn đàn chung của
một nhóm cộng sản như Nguyễn Văn Tạo, Nguyễn Văn Nguyễn... với nhóm tơrốtxkit
Tạ Thu Thâu... từ năm 1933. Đến tháng 5-1937, nhóm tơrốtxkit giành lấy La
Lutte, những người cộng sản tách ra làm báo L’ Avant garde của Trung
ương Đảng. Từ đây cho đến khi báo ngừng xuất bản tháng 6-1939, La Lutte là
báo của riêng nhóm tơrốtxkit Tạ Thu Thâu.
Nhóm tơrốtxkit đứng đầu là Hồ Hữu Tường có
những điều bất đồng với Tạ Thu Thâu, cho xuất bản một số tờ riêng và công kích
lẫn nhau.
Một vài tờ báo ở Sài Gòn và Hà Nội ngả theo
khuynh hướng tơrốtxkit.
Có tờ lúc đầu theo khuynh hướng tự do, có
thời gian ngả về Mặt trận Dân chủ, thân thiện với cộng sản, ít lâu sau lại ngả
theo tơrốtxkit như tờ Nghề mới xuất bản ở Hà Nội.
Tờ Phổ thông lúc đầu là tự do, được
Trung ương Đảng Cộng sản thuê lại, trở thành cơ quan trung ương của Đảng, sau
đó một nhóm tơrốtxkit thuê lại với giá cao hơn ta, trở thành tiếng nói của
tơrốtxkit.
Trong các nhà tù, còn khoảng l.500 tù chính
trị, trong đó đông nhất là Côn Đảo, trước đây đã từng ra báo, thời kỳ này cũng
không có báo; các nhà tù khác đều như thế.
Việc giao lưu giữa báo chí trong nước và
nước ngoài mở rộng từ cuối năm 1936. Nhiều tờ báo, nhất là báo cách mạng được
gửi đi Pháp, Trung Quốc, đến với Quốc tế Cộng sản. Nhiều tổ chức chính trị, xã
hội, văn hóa, nhiều nhân vật lãnh đạo của các tổ chức dân chủ, tiến bộ và cộng
sản nhận được báo xuất bản ở Việt Nam gửi tới. Mặt khác, chúng ta có điều kiện
tiếp nhận báo chí xuất bản ở nước ngoài bằng cách công khai nhập và bày bán ở
các hiệu sách, quầy báo bán lẻ và qua bưu chính phát hành; chưa kể những tạp
chí cộng sản in bằng chữ Pháp đi bằng con đường bí mật đến Trung ương Đảng và
các xứ uỷ.
Đầu năm 1939, báo từ trong nước ra, ngoài
nước vào bị hạn chế, thu hụt dần. Đến ngày sắp bước vào chiến tranh, các pháp
lệnh cấm Đảng Cộng sản hoạt động ở Pháp và các thuộc địa của Pháp được ban
hành, việc giao lưu báo chí giữa ta với nước ngoài cũng bị cấm hẳn.
4. Báo chí cách mạng
a) Những đặc điểm ra đời, tồn tại và
phát triển của báo chí cách mạng xuất bản công khai
Báo cách mạng xuất bản công khai ra đời
không giản đơn như các báo khác, mà là cả một nghệ thuật chỉ đạo tài tình, linh
hoạt của Đảng. Ra đời rồi, nhưng chiến đấu như thế nào để có thể tồn tại, phát
triển, chống lại các thế lực thù địch muốn bóp chết nó khi mới xuất hiện hay ít
nhất kiềm chế nó.
Sau đây là một số phương pháp.
- Ra báo chữ Pháp:
Theo các văn bản pháp quy đã ban hành, báo
chữ Pháp do người Pháp hay người Việt chủ trương đều phải xin phép, chỉ cần làm
một số thủ tục đơn giản. Ra báo chữ Pháp có nhược điểm là người đọc ít, số
lượng in thấp nên giá bán cao. Lợi dụng điều kiện thuận lợi mới, thông
qua lớp người đọc hiểu thông Pháp để tác động vào dư luận xã hội ta, gây tiếng
vang đến dư luận Pháp, góp thêm vào tiếng nói đấu tranh chung với những tờ báo
tiếng Việt. Mỗi tờ báo chữ Pháp in nhiều không quá 2.000 bản, 4 trang, bán bảy
xu. Chúng ta đã ra tất cả 6 tờ báo chữ Pháp: Le Travail, Rassemblement!
L’Avant garde, En avant!, Le Peuple, Notre voix. Từ ngày 16-3 đến
16-4-1937, Xứ uỷ Bắc Kỳ chỉ đạo đồng thời hai tờ: Le Travail và
Rassemblement!
Trên măng sét, có tờ không nói cơ quan ngôn
luận của ai. Có tờ đề là của lao động, của ''dân chúng'', của “các lực lượng
dân chủ''. Bài viết nhiều khi không có tên tác giả; có khi một tên bất kỳ, lúc
ký tên này, lúc ký tên khác, vẫn là một người.
- Chuyển báo đã được phép từ trước,
không cách mạng thành cách mạng, bằng cách thuê, mua lại:
Báo Hồn trẻ xuất bản từ ngày
15-4-1935 đến ngày l2-12-1935 được 10 số, rồi ngừng. Sáng suốt bắt mạch tình
hình chính trị bắt đầu chuyển động thuận lợi, Nguyễn Thế Rục và một số đảng
viên hoạt động ở Hà Nội vận động Nguyễn Mạnh Đang quản lý tờ Hồn trẻ cho
sử dụng, lấy tên Hồn trẻ tập mới để kịp thời bắt tay vào cuộc đấu tranh
cho dân chủ, hoan nghênh thắng lợi của Mặt trận nhân dân Pháp, tích cực hưởng
ứng cuộc vận động Đại hội Đông Dương. Hồn trẻ tập mới trở thành báo cách
mạng do những người cộng sản giữ vai trò chủ yếu. Đương lúc cuộc vận động Đại
hội Đông Dương lên cao, thực dân Pháp hoảng sợ liền ra lệnh thu hồi giấy phép
xuất bản, sau khi báo ra số 12, ngày 21-8-1936.
Về sau, nhiều tờ báo đã được xuất bản theo
cách như thế, hoặc giữ tên gốc, Sông Hương, thêm tục bản, thành Sông
Hương tục bản, hoặc giữ nguyên tên cũ: Tiếng trẻ, Hà thành thời báo,
Thời thế, Việt dân, Kịch bóng, Phổ thông, Đời nay.
Dùng cách này, mua hẳn tên báo thì gọn, đỡ
phiền nhiễu. Thuê thì có khi chủ nhân đòi lại cho người khác thuê với giá cao
hơn, tờ báo từ cách mạng rơi vào tay phản cách mạng như tờ Phổ thông (1938).
Về mặt pháp lý, những tên người viết đơn
xin phép vẫn còn nguyên trên măng sét nên giữ được tính hợp pháp, cứ việc xuất
bản như là một sự tiếp nối, mặc dù nội dung đã khác hẳn, không phải xin phép
lại.
Báo Tân xã hội được phép xuất bản
theo Nghị định số 2339, ngày 29-4-1936, nhưng chưa ra số nào, lại có đơn xin
thay đổi nội dung và được chuẩn y báo Khỏe, danh nghĩa là tờ báo thể
thao.
Đây là một hiện tượng đặc biệt trong lịch
sử quản lý báo chí chính quyền thực dân ở Đông Dương và cũng là bài học về tổ
chức một tờ báo cách mạng phải có phương pháp tế nhị, kín đáo, không gây ồn ào.
- Xin phép ra báo:
Trung ương và các xứ uỷ của Đảng đưa người
tốt, cảm tình Đảng làm đơn đứng tên xin phép ra báo tư nhân một cách bí mật.
Nội dung trong đơn chỉ viết chung chung không cụ thể, rõ ràng. Ta đã làm như
thế và có kết quả như: Nguyễn Văn Lữ với Nhành lúa, Hồ Cát với Kinh
tế tân văn, Đỗ Kiết Triệu với Tiến hóa tạp chí, Lương Văn Tuân với Tin
tức, Nguyễn Xuân Các với Dân.
Sau khi nộp đơn, trong thời gian chờ đợi
xét duyệt, ta đã chuẩn bị đầy đủ để khi nhận được nghị định là ra được nhanh Tin
tức, l tháng 10 ngày sau ra số 1; Nhành lúa, 2 tháng 20 ngày; Kinh
tế tân văn, 8 tháng; Dân, 3 tháng 10 ngày.
- Báo của một xứ, in và phát hành ở một
xứ khác:
Ở Trung Kỳ, chế độ vua quan Nam triều phản
động, thẳng tay đàn áp báo chí. Một tờ báo cách mạng, biên tập, in và phát hành
tất cả ở ngay trên đất Trung Kỳ nên gặp nhiều khó khăn, có khi không thực hiện
được. Để khắc phục tình hình đó ta dùng nhiều cách đối phó.
Nhành lúa được biên tập ở Huế, gửi
ra in ở nhà in Đông Tây, 193 phố Hàng Bông, Hà Nội, do một đồng chí của Xứ uỷ
Bắc Kỳ được phân công lo liệu, giúp đỡ. In xong, phát hành ngay ở Hà Nội, đi
các nơi trong nước và đi Pháp. Riêng số 5 ra ngày 12-2-1937, đặc biệt, biếu
không, chỉ có một trang nhỏ như truyền đơn là in ở Huế.
Sau khi báo Dân bị cấm, Xứ uỷ Trung
Kỳ cho ra tờ Dân tiến, biên tập ở Trung Kỳ, tòa soạn và trị sự đặt ở 16D,
đường Nguyễn Tấn Nghiệm, Sài Gòn. Xứ uỷ Nam Kỳ cử Huỳnh Văn Thanh
đứng tên quản lý. Lúc này (tháng 12-1938) luật tự do báo chí đã được
thực hiện ở Nam Kỳ. Dân tiến xuất bản được 5 số rồi đình bản. Dân
muốn ra thay Dân tiến cũng biên tập ở Trung Kỳ, Phan Văn Tạo
được Xứ uỷ Nam Kỳ cử ra làm quản lý, in và phát hành ở Sài Gòn.
- Ra báo tiếng Việt không xin phép:
Trung ương Đảng chủ trương ra báo tiếng
Việt không xin phép, dựa trên hai yếu tố:
Một là, dựa vào Luật tự do báo chí ngày
29-7-188l đã ban hành ở Nam Kỳ, nơi có tự do báo chí như ở Pháp. Tuy bị
sắc lệnh ngày 30-12-1898 xóa bỏ phi pháp, nay có điều kiện buộc chính
quyền phải thực hiện theo đúng luật. Đây là văn bản pháp lý cao nhất, và
chỉ có khả năng thực hiện ở Nam Kỳ;
Hai là, dựa vào phong trào quần chúng đang
lên cao trong cả nước, hàng loạt tờ báo cách mạng đã ra đời, được sự ủng
hộ mạnh mẽ của Mặt trận nhân dân Pháp.
Sau một thời gian ngắn chuẩn bị, ngày
22-7-1938, báo Dân chúng, cơ quan trung ương của Đảng, dưới danh nghĩa:
“cơ quan của lao động và dân chúng Đông Dương'', xuất bản công khai ở Sài Gòn,
không xin phép, chỉ làm thủ tục khai báo như quy định của Luật tự do báo chí
năm 1881, đi ngược với mọi thể lệ vẫn phải theo đối với một tờ báo mới xuất bản
từ gần 40 năm qua.
Dân chúng mở đường cho hành loạt tờ
tự do xuất bản không phải xin phép, trong đó có các tờ báo cách mạng như Lao
động, Dân tiến, Dân muốn, Đông Phương tạp chí, Tiến tới.
Có người cho rằng Dân quyền, Tiếng
chuông mới là những tờ báo ra không xin phép trước hết. Sự thật là thế nào?
Báo Dân quyền do S. Xăngđriơ, người
Pháp, chủ trương được phép xuất bản từ ngày 23-3-1935. Nhân phong trào Đại hội
Đông Dương, Dân quyền đăng bài hưởng ứng. Ngày 23-8-1936, Dân quyền nhận
được lệnh thu hồi giấy phép. Ngày 8-9-1936 Dân quyền vẫn xuất bản, lập
tức cả bộ máy đàn áp được điều động đến đối phó: báo bị tịch thu, chủ nhân bị
truy tố trước tòa án Sài Gòn. Xăngđriơ chống án về Tòa nhượng thẩm Pari. Sau
hơn một năm xem xét, Tòa nhượng thẩm Pari tuyên bố trắng án cho Xăngđriơ ngày
29-12-1937.
Tiếng chuông của Hoàng Minh Đầu xuất
bản không xin phép, ra số l ngày 13-5-1937, liền bị Cục Biện ký và Sở Mật thám
gọi lên thẩm vấn. Trước cường quyền, không có thế và lực Hoàng Minh Đầu xin
nhận tội và thôi ra báo.
Thực tế lịch sử đó cho ta đủ cơ sở để khẳng
định rằng: Dân chúng là tờ báo đi tiên phong, mở đường cho tự do báo chí
thắng lợi.
Báo chí cách mạng ra sức lợi dụng mọi điều
kiện thuận lợi, mọi phương tiện kỹ thuật có thể có để thu nhập thông tin, đến
tận nơi điều tra sự việc và đưa lên báo tương đối nhanh. Máy thu thanh, điện
thoại, điện báo được sử dụng để lấy tin và liên lạc; xe lửa, ô tô, tàu thủy, xe
đạp được sử dụng để phát hành báo. Dân chúng bị khủng bố ngày 7-3-1939,
từ Sài Gòn điện cho Notre voix ở Hà Nội, nhận được ngay trong ngày
8-3-1939, số 0990/3/8/1014 của Dương Trí Phú. Trên mặt trận báo Notre voix
số 9, ra ngày 12-3-1939, tin đưa và tố cáo nhà cầm quyền vi phạm Luật tự do báo
chí ở Nam Kỳ.
Về tin thế giới, chúng ta nhận qua máy thu
thanh và bản tin của ARIP26 do Pháp quản lý, vì vậy phải dựa
vào đó mà phân tích, bình luận cho đúng sự thật, bóc được cái vỏ che đậy và
xuyên tạc của họ.
Một số tờ báo từ khi mới xuất bản đã công
bố kỳ hạn, nhưng nhiều tờ kể cả khi xin phép và không xin phép đều không nói kỳ
hạn. Thực tiễn đấu tranh làm kỳ hạn công bố thay đổi. Trước hết là do nhiệm vụ
chính trị mà ta chủ trương ra mau hơn, ví dụ tờ Tin tức, lúc đầu ra cách
nhau 7 ngày, sau đó khoảng cách còn 3, 4 ngày, như các số 12, 13, 14, 15, v.v..
Dân chúng có khi cách nhau 7 ngày, có khi cách nhau 3, 4 ngày,
như các số 30, 31, 32; thậm chí cách nhau 1, 2 ngày như các số 58, 59, 60. Có
khi do địch khủng bố, ta phải có thời gian ổn định để tổ chức, kiểm vốn mới lại
ra được báo, như Dân chúng, số 53 sau số 52 ba tuần.
Ta cố gắng phấn đấu đưa số lượng in của mỗi
tờ báo lên cao dần để đáp ứng yêu cầu của bạn đọc, nhưng địch lại tìm cách dìm
số lượng xuống: tăng giá giấy lên làm cho ta hụt vốn; thu hẹp phạm vi độc giả
bằng cách ra lệnh cấm lưu hành trong từng xứ...
Những số có nội dung đặc biệt và số tết
thường in cao vọt lên, ví dụ Tin tức thường dao động giữa con số 5.500
và 6.000 bản, nhưng số 26, đặc biệt, ủng hộ hòa bình (từ ngày 17 đến ngày
20-8-1938) in 8.000; Dân chúng thường in trên dưới 6.000 bản, số đặc
biệt kỷ niệm ngày thành lập Đảng (3-1 và 7-l-1939) in 10.000 bản, số xuân 1939
in 15.000 bản.
Ta giác ngộ và tổ chức công nhân; nâng cao
cảnh giác; phát hiện tay sai của địch; chép lại các bài báo của các đồng chí có
cương vị quan trọng rồi mới đưa đến nhà in, không đưa nguyên bản viết tay của
tác giả; tranh thủ chủ nhà in để đối phó lại hoạt động của địch.
Trước khi phát hành, báo phải nộp lưu chiểu
theo quy định của nhà cầm quyền. Ở cuối mỗi số báo hay tạp chí, có chữ viết tay
ngày nộp lưu chiểu, số lượng in, chữ ký của giám đốc hoặc chủ nhiệm. Số lượng
báo in ra của mỗi số đã nói lên một phần thế mạnh của báo chí nước ta. Những
thế mạnh còn biểu hiện nhiều ở tổ chức đọc báo. Các tổ đọc báo, thư viện bình
dân được lập ra ở nhiều nơi do Đảng đề xuất và chỉ đạo hoạt động, thường tập
trung người đến nghe đọc, trao đổi và bình luận, làm cho số lượng bạn đọc nhiều
lên mấy chục lần so với con số phát hành.
b) Nội dung chủ yếu và những hình thức
thể hiện của báo chí cách mạng
Báo chí được dịp đăng nhiều bài công khai
tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin với tính cách là vũ khí chiến đấu của
giai cấp công nhân và nhân dân ta trên con đường giải phóng.
Sông Hương tục bản đăng liền trên 3
số: 8, 9, 10, ra ngày 26-8, ngày 2 và ngày 11-9-1937, bài ''Văn học
và chủ nghĩa duy vật” của Hải Triều. Mới đăng từ số 2 đến số 5, ra
từ ngày 15-5 đến ngày l-7-1939, bài ''Ý tưởng và học thuyết nhân quả”
của Sơn Trà. Tô Vệ dịch “Kinh tế học mácxít'' của G. Baby
đăng trên tờ Đời nay.
Những bài văn chính luận là một loại hình
văn học có tính khoa học, tính chiến đấu mạnh mẽ.
Những bài lý luận chính trị trên Notre
voix như ''Chủ nghĩa dân tộc và chúng tôi'' (số l, 2), “Lênin và
mặt trận nhân dân'' (số 4), “Lênin bàn về chiến tranh và hòa bình'' (số
12, l3); trên Dân chúng, như: ''Chiến tranh và quyền tự do dân
chủ'' (số 19), ''Cách mạng và cải lương'' (số 34, 35) v.v..
Những bài chính trị mang tính lý luận, trên
Tin tức có “Đi tới Mặt trận Bình dân Đông Dương'' (số 7, 8), “Mặt
trận Bình dân hay Mặt trận Dân chủ (số 9), “Đi tới Mặt trận Dân chủ Đông
Dương'' (số 11), ''Chính sách lập Mặt trận Dân chủ (số 25); trên Notre
voix, có “Nền hòa bình mà chúng ta muốn'' (số l), Bảo vệ hòa bình
như thế nào?” (số 2), ''Với nhân dân Pháp'' (số 6). Nhân kỷ niệm
lần thứ 150 ngày cách mạng dân chủ tư sản Pháp (1789). Võ Nguyên Giáp với
bút danh Hồng Thạch, viết một bài nghiên cứu tính chất, ý nghĩa của cuộc cách
mạng tư sản, liên hệ với tình hình đấu tranh cho tự do dân chủ, cải thiện đời
sống hiện tại, đăng trên Notre voix 5 số liền (từ số 18 đến số 22) với
nhan đề “Kỷ niệm lần thứ 150 cuộc cách mạng Pháp và chính sách của chúng ta
để phòng thủ Đông Dương một cách vững chắc”, v.v..
Lần đầu tiên văn kiện của Đảng được đăng
công khai trên báo Le Peuple số 26, ngày 23-6-1938, với nhan đề “Bức
thư công khai của Đảng Cộng sản Đông Dương gửi Đảng Cộng sản Pháp”;
sau đó lại đăng ''Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản Đông Dương đối với thời
cuộc''. Dân chúng là tờ báo thứ hai, sau Le Peuple, đăng “Bức thư
công khai của Đảng Cộng sản Đông Dương gửi Đảng Cộng sản Pháp'' (số
31) và ''Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản Đông Dương đối với thời cuộc'' (số
62), còn các tờ báo khác chỉ nói đường lối, quan điểm của Đảng dưới hình thức
trình bày tinh thần với danh nghĩa Mặt trận Dân chủ.
Nhân kỷ niệm lần thứ chín ngày thành lập
Đảng, lần đầu tiên Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương công bố một tài liệu
nghiên cứu về lịch sử, đăng trọn 4 trang số 41 và phần lớn số 42 trên báo Dân
chúng, nhan đề ''15 năm vận động cộng sản và 9 năm thành lập Đảng
Cộng sản ở Đông Dương”; “Lịch sử cộng sản vận động ở Đông Dương''. Notre
voix số 2 và 3 đăng bài “Đảng Cộng sản Đông Dương 9 tuổi''. Đây là
những bài viết có hệ thống, mang tính lý luận và có giá trị về lịch sử.
Về vấn đề quốc tế cùng với việc giới thiệu
Quốc tế Cộng sản, báo chí có bài giới thiệu về G. Đimitơrốp, Tổng Bí thư của
Quốc tế Cộng sản qua tiểu sử (Thế giới, từ số 3 đến số 9) và cuộc đấu
tranh chống phát xít trước tòa án Laipxích, nhan đề ''Vụ án lớn nhất trong
thời đại chúng ta” (Notre voix, số 9 và số 32), tạo nên lòng kính trọng sâu
sắc và biết ơn của nhân dân ta đối với người cộng sản lỗi lạc, người anh hùng
của thời đại.
Báo chí làm rõ ranh giới giữa ''Đệ tam quốc
tế” (Quốc tế III - Quốc tế Cộng sản) là cách mạng với ''Đệ tứ'' là phản cách
mạng, bảo vệ ''Đệ tam'', chống lại “Đệ tứ'' và đồ đệ của chúng là các phái
tơrốtxkit ở Đông Dương.
Liên Xô từ lâu đã là niềm tin, niềm hy vọng
của nhân dân ta. Trong thời kỳ này, báo chí cách mạng mở rộng tuyên truyền
thường xuyên về Liên Xô, như trích đăng báo cáo của Trung ương Đảng Cộng sản
Liên Xô ngày 3-3-1937 (L’Avant garde). Báo cáo chính trị tại Đại hội lần
thứ XVIII Đảng Cộng sản Liên Xô ngày 10-3-1939 (Notre voix), giải thích
đúng đắn Hiệp ước Xô - Đức ký ngày 23-8-1939; giới thiệu, nghiên cứu, dịch
thuật, sáng tác về văn học, ca ngợi Liên Xô.
Với Đảng Cộng sản Pháp và Mặt trận nhân
dân Pháp, báo chí giới thiệu những chủ trương cải cách tiến bộ ở Pháp và
các thuộc địa của Pháp, qua các bài phát biểu của M. Tôrê (M. Thorez), G.
Đuyclô (J. Duclos), H. Lôđơray (H. Lozeray) đấu tranh trong nghị trường. Những
hoạt động của Ônen (Honel), nghị sĩ cộng sản, uỷ viên Trung ương, phái viên
trong thời gian sang Đông Dương được tường thuật, gây thiện cảm cho nhân dân.
Việc Ônen đến Nhà hát lớn Sài Gòn xem diễn vỡ “Đời cô Lựu”, từ chối
không tiếp đại diện phái tơrốtxkit được dư luận hết sức hoan nghênh.
Với mặt trận chống phát xít của các nước
Tây Ban Nha, Trung Quốc, Ba Lan, Tiệp Khắc v.v., báo chí đưa tin, bình luận
với thái độ tích cực ủng hộ các phong trào chống phát xít. Đối với Trung Quốc,
báo chí không những ủng hộ bằng tinh thần mà còn vận động giúp đỡ quần áo,
thuốc men, tiền bạc, đùm bọc những người chạy sang Việt Nam để tránh chiến
tranh của phát xít Nhật.
Báo chí cổ động quần chúng tham gia những
cuộc đấu tranh, đáng chú ý là những sự kiện lớn sau đây:
1. Cuộc vận động Đại hội Đông Dương tháng
9-1936. Phong trào mở đầu và phát triển trước hết ở Nam Kỳ, sau lan ra khắp
Đông Dương. Hồn trẻ tập mới nhạy bén hưởng ứng say sưa, nhiệt tình, kịp
thời thất. Le Travail và Tân xã hội hăng hái cổ động.
2. “Đón'' Gôđa và Brêviê đưa kiến nghị.
Tháng 1-1937, Chính phủ Pháp cử Gôđa sang điều tra tình hình và Brêviê nhậm
chức Toàn quyền Đông Dương, Đảng Cộng sản Đông Dương đã tổ chức, huy động,
hướng dẫn quần chúng mang khẩu hiệu, viết nguyện vọng, đến nơi tập trung và đi
có trật tự đến gặp Gôđa.
Cũng trong dịp này, báo chí hướng dẫn quần
chúng tổ chức và làm kiến nghị đưa lên Toàn quyền và phản ánh tin tức về khí
thế sôi nổi của quần chúng trong cả nước.
3. Bầu cử và đấu tranh nghị trường. Cuộc
tranh cử đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông Dương đưa người ra là cuộc bầu bổ sung
vào Viện Dân biểu Bắc Kỳ tháng l-1937, thay cho Trần Quang Vinh chết cuối năm
1936. Trịnh Văn Phú nhân danh nhóm Le Travail, đại biểu thương mại Hà
Nội, dùng báo và truyền đơn cổ động, kết hợp với các hình thức vận động khác do
Xứ uỷ Bắc Kỳ trực tiếp chỉ đạo đã thắng cử, làm nghị viện, đánh bại Phúc Đình
tay sai của địch.
Trong cuộc bầu cử Hội đồng thành phố Hà Nội
tháng 7-1937, Khuất Duy Tiến nhân danh nhóm Tin tức được giới thiệu ra
ứng cử, là người của Mặt trận Dân chủ, đã từng viết trên tất cả các tờ báo xuất
bản ở Hà Nội mà địch gọi là ''báo cộng sản''. Đơn của Khuất Duy Tiến bị bác, vì
anh đã ''can án'' cộng sản từ Côn Lôn (Côn Đảo) về. Nhưng cử tri vẫn bỏ phiếu
cho anh cùng với Phan Thanh và những người khác được Đảng vận động.
Cuộc bầu cử Viện Dân biểu Trung Kỳ tháng
8-1937, ta sử dụng tờ Sông Hương tục bản giải thích cho quần chúng hiểu
quyền lợi của mình, chọn người xứng đáng để bầu, vạch mặt, chỉ tên những kẻ sâu
mọt, thối nát. Kết quả, Mặt trận Dân chủ thắng lớn, gây được uy tín cao, nắm
được cả chức viện trưởng, viện phó. Sau đó, Xứ uỷ Trung Kỳ sử dụng tờ Dân để
chỉ đạo cuộc đấu tranh trong nghị trường, lập một chiến công lớn là làm phá sản
dự án thuế thân thứ nhất và dự án thuế điền thổ do Khâm sứ đưa ra.
Trong cuộc bầu cử Viện Dân biểu Bắc Kỳ ngày
10-7-1938, Xứ uỷ Bắc Kỳ sử dụng tờ Tin tức, liên minh với các tờ Ngày
nay, Demain, phê phán luật bầu cử bổ sung, buộc người ứng cử phải biết
tiếng Pháp, hướng dẫn cử tri bầu cho người của Mặt trận Dân chủ, đăng danh sách
trên báo phê phán bọn phản động các loại. Kết quả, Mặt trận Dân chủ giành được
thắng lợi lớn. Trong dịp tranh cử ở Bắc Kỳ, ngoài báo xuất bản ở Hà Nội,
các tờ Dân ở Trung Kỳ, Le Peuple và Dân chúng ở Nam Kỳ đều
lên tiếng cổ vũ, cũng như cuộc đấu tranh nghị trường ở Trung Kỳ được các tờ báo
cách mạng ở Bắc Kỳ và Nam Kỳ lên tiếng ủng hộ.
Cuộc bầu cử Hội đồng thuộc địa Nam Kỳ tháng
4-1939, Dân chúng và Tạp chí Đông phương tham gia, được Đời
nay và Notre voix ở Bắc Kỳ hưởng ứng. Do những nguyên nhân khác nhau
và khuyết điểm chủ quan, ta bị thất bại.
Báo chí cách mạng thời kỳ này có nhiệm vụ
đấu tranh chống các xu hướng đối địch về tư tưởng và chính trị, bảo đảm cho
quan điểm mácxít chiến thắng các xu hướng cơ hội, cải lương; đường lối đúng đắn
của Đảng đánh bại đường lối chính trị phản động.
1. Trước hết, Đảng tuyên chiến với các
nhóm tơrốtxkit
Tờ báo đầu tiên tiến công vào bọn tơrốtxkit
ở Nam Kỳ là L’Avant garde, ở Bắc Kỳ là Hà thành thời báo.
Bài phê phán cơ bản và toàn diện nhất là “tơrốtxkít
đối với tự do, hòa bình, cơm áo'' đăng trên 3 số Dân chúng (25, 26,
27), ra các ngày 15, 19 và 22-10-1938.
Đấu tranh chống tơrốtxkit đã trở thành một
mục thường xuyên trên mặt báo cách mạng từ năm 1937 trở đi.
2. Đối với đồng minh trong mặt trận, có
nhận thức lý luận chính trị không đúng, báo chí ra phê bình thân ái
Tin tức, số 1, ra ngày 2-4-1938,
khen cuốn Cái họa Nhật Bản của Nguyễn Vy đả kích chủ nghĩa phát xít, ủng
hộ cuộc kháng chiến của nhân dân Trung Quốc, bảo vệ hòa bình cho các
dân tộc châu Á và thế giới. Nhưng cuốn sách có khuyết điểm là không phân
ranh giới nước Pháp bình dân và phản động Pháp, nhân dân Nhật và phát
xít Nhật. Trần Đình Long viết bài “Ông Hoàng Đạo hiểu lầm chủ nghĩa
cộng sản”, đăng trên Tin tức số 9, ngày 4-11-1938, chỉ ra
những sai lầm của Hoàng Đạo: Đảng Cộng sản muốn cách mạng trước rồi cải
cách sau, thiên về chiến tranh, coi đó là cơ hội tốt làm cách mạng giành
chính quyền; mong có những cuộc khủng hoảng để quần chúng khổ cực mới có điều
kiện làm cách mạng.
Trong tình hình Đảng hoạt động không hợp
pháp, vấn đề xây dựng Đảng về chính trị và tổ chức không đặt ra trên mặt báo,
nhưng các ý kiến bất đồng ấp ủ từ trước gặp thất bại trong cuộc tranh cử Hội
đồng thuộc địa Nam Kỳ bị đột nhiên đẩy ra công khai và bộc lộ những sai lầm
''tả'', hữu khuynh trong chính trị, sai lầm về nguyên tắc tổ chức, về phê bình
và tự phê bình, về uy tín của Đảng và danh dự cá nhân.
Nguyễn Văn Cừ - Tổng Bí thư Đảng Cộng sản
Đông Dương đã viết bài uốn nắn những sai lầm đó, gửi cho báo Dân chúng,
rồi sau in thành cuốn “Tự chỉ trích'' góp phần quan trọng vào việc đoàn
kết, thống nhất trong Đảng.
Trên mặt trận văn học nghệ thuật, Đảng Cộng
sản quan tâm, chỉ đạo khá toàn diện về lý luận và phê bình, sáng tác văn xuôi,
thơ, ca...
1. Về lý luận và phê bình văn học nghê
thuật, các báo đăng nhiều bài nghiên cứu về tính giai cấp của văn học, quan
hệ giữa văn học và hành động, hình ảnh người dân cày trong văn chương, quan hệ
giữa nội dung và hình thức, nhà văn trong Đảng, nhà văn và tổ chức, phê bình
trong văn học cách mạng v.v. để giải đáp những vấn đề thực tiễn của giới văn
học đề ra, đăng trên các báo Hồn trẻ tập mới, Sông Hương tục bản, Dân chúng,
Đời nay, Ngày mới, Tạp chí Đông phương.
Trong các bài nghiên cứu, lý luận, khi nào
có phê bình, đồng thời có những bài bình luận một số tác phẩm, như bài Một
chiến sĩ của Trương Tửu, Lầm than của Lê Văn Trương, vở kịch Ông
ký cóp, v.v..
2. Về văn xuôi, Phạm Cự Đệ viết:
Trong điều kiện công khai của Mặt trận Dân chủ, báo chí của ta mới chỉ giới
thiệu được một số truyện ngắn, phóng sự (Ngục Kontum cửa Lê Văn Hiến),
hồi ký (Ba năm Nga Xôviết của Trần Đình Long), nhật ký (Nhật ký tuyệt
thực chín ngày rưỡi), phóng sự tiểu thuyết (Vượt ngục của Cựu Kim
Sơn...). Văn học cách mạng đang cần những thể loại gọn nhẹ, trực chiến, phù hợp
với điều kiện và hoàn cảnh của người sáng tác (nhất là phần lớn những người
sáng tác đó lại ở trong tù)27. Thực tế, chúng ta đã có một số
truyện dài như “Ngục Kontum'' đăng trên Le Travail chỉ là trích
dịch một ít đoạn, Nhật ký tuyệt thực chín ngày rưỡi và Vượt ngục
lại không in trên báo chí. Các tác giả viết tác phẩm của mình phần lớn đều ở
ngoài nhà tù, chứ không phải ở trong tù, và có người chưa vào tù bao giờ, còn
lưỡi kéo kiểm duyệt đã tạm cất đi theo Nghị định Toàn quyền từ ngày l-1-1935
rồi.
Truyện dài, có thể kể đến như “Đến
chết'' của Huỳnh Mai (Tân xã hội), “Hai làn sóng ngược'' của Học Phi
(Tiếng trẻ, Tiểu thuyết thứ năm), “Xung đột'' của Tú Văn (Đời
nay), ''Con vú già'' của Anh Sơn (Ngày mới). Có điều đáng tiếc là
tất cả các truyện dài đều không được đăng trọn vẹn, có khi vì báo bị rút giấy
phép mà phải ngừng, có khi vì thiếu tiền ra báo mà phải chuyển báo qua tay
người thuê khác.
Truyện ngắn thì rất nhiều, đăng tải trên
phần lớn các báo, cả tiếng Việt và tiếng Pháp. Có những truyện ngắn đã đạt tới
trình độ tư tưởng và nghệ thuật cao, như ''Trước xác chết'' và “Người
đàn bà Tàu'' của Nguyên Hồng (Mới), ''Cô câm đã lên tiếng” và “Người
đàn bà điên'' của Đặng Thai Mai (Notre voix), một số truyện ngắn
được giải thưởng báo Thế giới (1939), như “Bóng tối và ánh sáng”;
“Kiếp em Oanh'' của Quỳnh Lam, ''Thưa mẹ con đây ạ'' của Lưu
Vân An, v.v..
Tiểu phẩm là một thể loại được sử dụng rộng
rãi bằng tiếng Việt và tiếng Pháp, có sức chiến đấu chống mọi kẻ thù, tuy ngắn
gọn nhưng đòi hỏi tính tư tưởng và bút pháp điêu luyện. Đáng chú ý nhất là
những bài trên Sông Hương tục bản gắn chặt với những bài văn chính trị
và thơ ca, vạch mặt bọn đầu cơ tranh cử vào Viện Dân biểu Trung Kỳ của Phan
Đăng Lưu. Các cây bút viết tiểu phẩm được bạn đọc thích thú nhất, ngoài Phan
Đăng Lưu, có Cựu Kim Sơn tức Văn Tân (Tin tức), Uy Đồng (bút danh của
Nguyễn Văn Trấn) (Dân chúng), Phan Thanh và Đặng Thai Mai (Le
Travail, Notre voix).
3. Thơ, ca phát triển khá mạnh, có
nhiều thành công. Những bài thơ trữ tình, giàu nhạc điệu, đậm đà tính dân ca,
phản ánh cuộc sống thực tại, vạch ra con đường giải phóng xã hội, thu hút sự
chú ý của bạn đọc đông đảo, được quần chúng tặng cho những tên như ''nhà thơ
bình dân”, ''nhà thơ xã hội”, “nhà thơ của tương lai'' rất quen thuộc, như
Thôn Dân, Dương Lĩnh, Hồ Xanh..., nhất là Tố Hữu (còn có bút danh là Linh Hòa,
Tô Linh Hoài).
Tranh vẽ xuất hiện, nhưng chưa hình
thành hẳn một dòng hội họa mang đặc trưng của báo chí cách mạng. Phần lớn các
tranh hướng vào tố cáo và đả kích kẻ thù, đòi tự do dân chủ, thiếu hẳn những
tranh tuyên truyền, cổ động để giáo dục quần chúng.
Ảnh lần đầu tiên xuất hiện trên báo
chí cách mạng, có chân dung Mác, Ăngghen, Lênin, Xtalin, một số nhà hoạt động
chính trị, văn hóa Liên Xô nổi tiếng. Ảnh tuyên truyền cho công cuộc xây dựng
thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô; tố cáo đời sống khổ cực của
nhân dân ta và phóng sự về những cuộc mít tinh của quần chúng nhân dân trong
các ngày kỷ niệm lớn.
Nhìn chung, trên lĩnh vực văn hóa, nghệ
thuật, báo chí đã đạt được những thành tựu đánh dấu một bước tiến lớn. Khuynh
hướng văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa qua nghiên cứu và sáng tạo của các nhà
văn cách mạng trong nước cùng với những tác phẩm văn nghệ Liên Xô và văn học
hiện thực xã hội chủ nghĩa Pháp đưa vào nước ta, công khai giới thiệu với bạn
đọc, tăng cường trận địa mỹ học mácxít – lêninnít.
Dựa trên chủ trương lập Mặt trận Dân chủ
của Đảng Cộng sản, các cán bộ, đảng viên hoạt động trên lĩnh vực báo chí đã vận
động thành lập được Mặt trận báo chí dân chủ. Mặt trận báo chí dân chủ là một
bộ phận của Mặt trận Dân chủ Đông Dương, hoạt động qua hai hình thức: 1. Hội
báo giới; 2. Cùng nhau tham gia những cuộc đấu tranh chung do báo chí cách mạng
đề xướng.
Đòi tự do báo chí và lập hội nhà báo là
nguyện vọng thiết tha từ lâu của giới báo chí. Trước kia, điều kiện khách quan
và chủ quan chưa cho phép thực hiện. Lúc này, phong trào quần chúng đang lên
cao trong đấu tranh hợp pháp và sự xuất hiện công khai của báo chí cách mạng
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, vấn đề lập hội mới có thể trở thành hiện
thực.
Xứ uỷ Trung Kỳ Đảng Cộng sản Đông Dương
nhạy bén với tình hình mới, sử dụng tờ Nhành lúa, phất lên ngọn
cờ tập hợp các nhà báo trong xứ. Ngày 15-1-1937, Nhành lúa số 3 công bố
hiệu triệu:
“Cùng anh em viết báo Trung Kỳ:
Chúng tôi lấy làm hân hạnh và tin cho các
bạn biết rằng chúng tôi đương trù bị một cuộc hội nghị của toàn thể báo giới
Trung Kỳ để thảo luận những vấn đề yêu cầu của chúng ta như:
Tự do báo giới, lập nghiệp đoàn báo giới.
Dưới ký tên 16 người, trong đó có những
người hoạt động cộng sản có tên tuổi như Hải Triều, Lâm Mộng Quang và Nguyễn
Chí Diểu (Ủy viên Trung ương Đảng).
Nhành lúa số 2, ra ngày 22-l-1937,
bài ''Đoàn Bình'' viết: “báo giới có tự do mới có thể diễn đạt
được tất cả những ý nguyện của nhân dân và phê bình những sự sai lầm của chính
phủ''.
Ngày 23-1-1937, Nguyễn Xuân Lữ nhân
danh Chủ nhiệm tờ Nhành lúa đứng ra tổ chức cuộc họp các nhà viết báo ở
Huế vào 20 giờ tại hội quán Hội Quảng Trí. Các ông Huỳnh Thúc Kháng, Phan Bội
Châu, Tiêu Diên Tử gửi thư hoan nghênh hội nghị.
Hải Triều kêu gọi: ''Tất cả những ai chăm
lo hậu vận của xứ Đông Dương nên gạt bỏ mọi chia rẽ, hãy cùng lo giải
quyết những vấn đề khẩn cấp cho sự sống còn của các dân tộc Đông Dương. Cần
phải lập Mặt trận thống nhất đấu tranh cho tự do báo chí, tự do xuất bản. Tự do
này không những cần kíp cho những người làm nghề báo chí mà cho cả quần chúng
đông đảo là những người đọc báo, để bảo vệ sự sống còn của họ. Quần chúng đang
xem xét và kiểm tra các người viết báo. Vì vậy những người viết báo phải để cho
họ tham gia hội nghị, giúp cho báo chí có thêm lực lượng''.
Hội nghị thông qua chương trình nghị sự:
lập Mặt trận thống nhất các nhà viết báo Đông Dương để đi tới tự do xuất bản
sách, báo; yêu cầu các nhà chức trách cho tự do xuất bản; vận động nhân dân đòi
tự do báo chí và kêu gọi những người tiến bộ ở Đông Dương và Pháp ủng hộ nguyện
vọng đòi tự do xuất bản; lập Hội Ái hữu báo giới Trung Kỳ.
Đại biểu các đoàn thể hứa vận động giới
mình hết sức ủng hộ các nhà báo đòi tự do báo chí.
Ngày 30-3-1987, Uỷ ban thường trực họp làm
việc chuẩn bị cho hội nghị báo giới toàn quốc, có 12 người dự.
Dưới sự chỉ đạo của Xứ uỷ Bắc Kỳ, Đảng Cộng
sản Đông Dương, những nhà báo cách mạng liên minh với các đồng nghiệp của mình
ở Hà Nội, tổ chức một cuộc họp ngày 25-1-1937, lấy danh nghĩa là đại biểu những
tờ báo bị cấm, tham dự có: Lê Tràng Kiều, Dương Tự Quán, Lưu Trọng Lư, Nguyễn
Công Việt, Trần Văn Tuyên, Nguyễn Uyểm Diễm, Nguyễn Xuân Huy, Võ Nguyên Giáp,
Trần Huy Liệu, Lê Cường, Vũ Đình Huỳnh, Nguyễn Mạnh Chất.
Hội nghị quyết định thành lập ''Uỷ ban
báo chí bị cấm'' (Comité de la presse interdite), bầu Chủ tịch uỷ ban: Trần
Huy Liệu, Thư ký uỷ ban: Nguyễn Mạnh Chất, là hai nhà báo cách mạng.
Uỷ ban thông qua bức điện gửi cho Gôđa, đại
biểu của Mặt trận nhân dân Pháp sang công cán ở Đông Dương đang có mặt ở Lào,
như sau:
“Tin tưởng ở sứ giả của Mặt trận nhân
dân''.
''Chúng tôi yêu cầu có cuộc yết kiến riêng
của đoàn đại biểu báo chí bị cấm khi ngài tới Hà Nội''.
Ký: Uỷ ban lâm thời báo chí bị cấm.
57, phố Doudart de Lagrée.
Đây là hình thức tổ chức đầu tiên của Mặt
trận báo chí dân chủ ở Bắc Kỳ, đấu tranh chống chính quyền đàn áp báo chí trong
cao trào cách mạng 1936 – l939.
Tiếp theo Trung Kỳ là hội nghị báo giới Bắc
Kỳ. Đội ngũ báo giới Bắc kỳ khá đông, số tờ báo nhiều gấp bốn lần Trung Kỳ. Khi
khai mạc, ta có 5 tờ báo cách mạng. Hội nghị báo giới Trung Kỳ đã có ảnh hưởng
tốt đối với báo giới Bắc Kỳ. Ta vận động được l3 tờ báo cùng thống nhất trên
hai yêu cầu: 1. Đòi tự do báo chí; 2. Đoàn kết các nhà báo trong một tổ chức
thống nhất, và ra bản Thông báo chung như sau:
Chúng tôi, 18 đại biểu của 18 báo quốc văn
và Pháp văn ở Hà Nội, nhân cuộc gặp gỡ hôm 12-4 vừa qua tại báo quán Tương
lai28 có công nhận ước đính một cuộc hội nghị các bạn
làng báo và làng văn ở Bắc Kỳ để hưởng ứng với công việc của anh em làng báo
Trung Kỳ vừa rồi, và để đi tới cuộc hội nghị toàn thể báo giới và văn giới Đông
Dương, mục đích yêu cầu tự do ngôn luận.
Vậy chúng tôi xin mời các bạn đồng nghiệp
đến hội họp cho đông đủ để cùng nhau bàn định về công việc ấy. Ta sẽ họp vào
ngày thử bảy, 24-4-1937, đúng 19 giờ tại hội quán CSA, số l, phố Charles
Coulier29.
Ngoài các nhà báo ra, chúng tôi xin mời cả
các nhà văn đến gom góp ý kiến và xin đến biên tên trước 18 giờ ngày 22-4 tại
tòa báo Tinh hoa30 để lấy giấy mời.
Các bạn nhà báo xin nhớ đem theo thẻ nhà
báo.
Kính mời.
Đại biểu các báo ký tên: Le Travail,
Rassemblement!, Hà Thành thời báo, Tiểu thuyết thứ năm, Bạn dân, Tương lai,
Thời thế31, Ngày nay, Trung Bắc tân văn, Tinh hoa, Cậu ấm,
Bắc Hà, Tiểu thuyết thứ bảy, Việt báo, Tin văn, Ích hữu, L’Effort indochinois,
La patrie Annamite.
18 giờ ngày 24-4-1937, trên 200 người viết
báo đến họp đều phải trình thẻ và ghi tên vào sổ cho mật thám kiểm tra. Hải
Triều, đại biểu cho báo giới Trung Kỳ đến dự theo lời mời của Ban tổ chức. Ban
trù bị trình bày bốn báo cáo về các vấn đề: những sắc lệnh hiện hành ở Đông
Dương có hại cho xuất bản, báo chí; tình đoàn thể hữu ái trong làng báo; sự cần
thiết và lợi ích của tự do ngôn luận. Hội nghị cử Phan Tử Nghĩa làm chủ tịch,
Vũ Đình Chí làm thư ký.
Hội nghị cử ban triệu tập gồm 7 người,
trong đó, ta có 3: Trần Huy Liệu, Đào Duy Kỳ, Nguyễn Đức Kính, và Uỷ ban quản
trị, ta cũng có 3: Võ Nguyên Giáp, Phan Tử Nghĩa và Nguyễn Mạnh Chất. Nhiệm vụ
của Uỷ ban quản trị là giao thiệp với báo giới Trung - Nam để chuẩn bị cho hội
nghị văn giới - báo giới toàn quốc và sẽ tự giải tán khi hội nghị được triệu
tập.
8 giờ tối ngày 9-6, hội nghị bắt đầu họp.
Hội nghị thảo luận và quyết định.
1. Nghiên cứu phương pháp đòi quyền lập
nghiệp đoàn báo giới, không lập ái hữu. Chủ trương này có xu hướng ''tả''
khuynh, không biết lợi dụng ái hữu để tập hợp lực lượng và chuẩn bị điều
kiện tiến tới nghiệp đoàn.
2. Bầu 19 uỷ viên chính thức và 5 dự khuyết
vào Uỷ ban quản trị thường trực, kể cả người có mặt và vắng mặt. Trong số này
có 3 nhà báo cách mạng: Khuất Duy Tiến, Trần Huy Liệu, Võ Nguyên Giáp, còn lại
là những người thuộc nhiều xu hướng khác nhau. Có bảo hoàng như Phạm Lê
Bổng, Lê Thăng và một số phần tử chống cộng như Nguyễn Triệt Luật, Ngô Văn Phú,
Nguyễn Đức Phong, Phan Trần Chúc.
3. Uỷ ban quản trị thường trực có toàn
quyền làm việt để đi tới hội nghị báo giới toàn quốc.
Sau hội nghị, Uỷ ban quản trị thường trực
cử ra đoàn chủ tịch gồm 3 người, trong đó có Võ Nguyên Giáp; bốn thư ký, có
Trần Huy Liệu tham gia và hai thủ quỹ, họp thành Ban trị sự.
Ở Nam Kỳ, ngày 27-8, Hội nghị báo giới khai
mạc tại Hotel des Nations, Sài Gòn. Thành phần tham dự rất phức tạp. Đào Duy
Kỳ, đại biểu cho báo giới Bắc Kỳ có mặt tại hội nghị. Trật tự trong hội nghị
rất kém, người này phát biểu, người khác ở dưới la ó, một số bỏ về. Điều
đó phản ánh tình hình chính trị đang dừng ở ngưỡng cửa chiến tranh, ta không có
quần chúng, không hình thành được mặt trận.
Nguyễn Văn Trấn, đại biểu báo Dân chúng,
đọc một bài diễn văn dài đề cập nhiều vấn đề, nhưng không gây được tiếng
vang trong làng báo tại hội nghị. Sau đó bài được đăng trên số 80, số cuối cùng
ra ngày 30-8-1939, đúng vào lúc mặt trận kết thúc vai trò lịch sử của mình,
chiến tranh bùng nổ.
c) Một số tờ báo cách mạng tiêu biểu
- L’Avant garde:
Trong lúc tạm thời lợi dụng các tờ báo đã
xuất bản từ trước như La Lutte, Mai, Dân quyền, Việt Nam, Đuốc nhà Nam... không
còn đáp ứng được yêu cầu của tình hình cách mạng phát triển nữa, Trung ương
Đảng thấy rằng cần phải có tờ báo trong tay làm vũ khí đấu tranh. Nhưng điều
kiện ra báo tiếng Việt làm cơ quan trung ương chưa cho phép, vì những ràng buộc
về chính sách báo chí phản động của nhà cầm quyền, phải tạm thời ra báo tiếng
Pháp. Báo tiếng Pháp thì chỉ cần tờ khai, không phải xin phép, tuy rằng việc
phổ biến bị hạn chế, số lượng phát hành ít, giá bán cao, người đọc không có
nhiều..., nhưng có còn hơn không. Đây cũng là bước chuẩn bị đi tới ra báo tiếng
Việt vào lúc thích hợp khi cao trào cách mạng của quần chúng xuất hiện làm tiền
đề.
Sau một thời gian ngắn chuẩn bị khẩn
trương, ngày 29-5-1937, L’Avant garde ra đời với danh nghĩa ''cơ quan
của lao động và nhân dân Đông Dương'' do Hà Huy Tập, Tổng Bí thư của Đảng thay
mặt Trung ương trực tiếp chỉ đạo. Nguyễn Văn Nguyễn làm nhiệm vụ Thư ký tòa
soạn, Trần Văn Hiển32 quản lý. Biên tập viên có Nguyễn Thị
Lựu, Nguyễn Văn Tạo, Trần Văn Kiết, Lê Văn Kiệt, Nguyễn Văn Trấn, Phạm Hữu Lầu,
Tín Văn Quảng, Nguyễn Văn Nghĩa...
Tòa soạn đặt ở số nhà 43, phố Hamelin, Sài
Gòn (nay là đường Lê Thị Hồng Gấm).
Ở số 1, bài mở đầu có nhan đề:
“Hỡi những người lao động
Những người bị áp bức ở Đông Dương!''
Bài báo viết: ''L’Avant Garde là tờ
báo của tất cả các bạn. Nó tự nhận lấy nhiệm vụ bảo vệ các bạn chống lại tất cả
các thị lực đế quốc và phong kiến bóc lột áp bức''.
“Dựa vào phương pháp mácxít - lêninnít, tờ
báo sẽ hướng dẫn chắc chắn và tận tụy các bạn trong cuộc đấu tranh cho cơm áo
hằng ngày, cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và xã hội''.
''L’Avant garde là một cơ quan chiến
đấu của những người lao động. Đối lập với bọn tư bản, nó tố cáo sự cùng khốn
của công nhân và nông dân. Nó kêu gọi tổ chức và đấu tranh, tất cả những ai đau
khổ, không phân biệt dân tộc và màu da''.
Bài trên đây trình bày lập trường, quan
điểm cơ bản của tờ báo cùng với sách lược đấu tranh trước mắt của nhân dân ta,
là phương châm chỉ đạo tư tưởng và chính trị của tờ báo.
Trong 3 số liền (3, 4, 5), ở trang 2 có bài
''Vấn đề ruộng đất'' với đề mục “Nhận định việc chia ruộng đất như
thế nào?” gồm có các chương: ''Việc chia ruộng đất Đông Dương'', ''Việc
chia ruộng đất giữa bọn thực dân Pháp!”, ''Ruộng đất của bọn địa chủ bản xứ'',
vạch trần một mâu thuẫn cơ bản của cách mạng Đông Dương là việc cướp ruộng đất
của bọn địa chủ Pháp và bản xứ làm cho nông dân ngày càng mất nguồn sống.
L’Avant garde đấu tranh đòi tự do
nghiệp đoàn, phản ánh tình cảnh sinh sống của công nhân, nông dân và các tầng
lớp lao động. Nhân dịp công nhân xe lửa Trường Thi (Vinh) bãi công, báo đưa tin
và dành 4 cột của số (số này cho có 2 trang) viết bài ''Hơn 2.000 công nhân xe
lửa đình công suốt từ Bắc đến Nam Đông Dương'', ''Công nhân các kho Trường Thi,
Mương Mán, Diêu Trì, Biên Hòa, Sài Gòn, Mỹ Tho bỏ việc''.
Về nông dân, có bài ''Sự công phẫn ở Long
Xuyên. Ruộng đất về tay nông dân'' (số 4).
Như đã phát biểu từ số l, L’Avant garde đặc
biệt coi trọng việc đấu tranh chống bọn tơrốtxkit. Ngay số 1 đã có bài của Hồng
Quý Vĩ (tức Hà Huy Tập) ''Chúng ta nói sự thật'' phê phán Tạ Thu Thâu
viết bài chống Mặt trận nhân dân trên La Lutte, bảo vệ lập trường
cửa báo L' Humanité và Đảng Cộng sản Pháp; bài “Một lập luận bịp bợm
tiêu biểu tự nhận là “bônsêvích - lênnít'' của Militant (số 3) v.v..
Sau đó, L’Avant garde lại chuẩn bị
ra số tiếp theo, biên tập xong ngày 27-7, đề ngày 31-7. Bản thảo được
đưa đến Nhà in SATI từ 27-7, nhưng chủ nhà in là Phôcơnô (Phoqueneau)
tìm mọi cách trì hoãn, đồng thời báo cho mật thám đến phá. Ngày 29-7,
mấy tên mật thám dưới quyền chỉ huy của Côngtenlôni (Contelloni) đến nhà
in tịch thu bản thảo không có lệnh công bố (Báo cáo số 4856, ngày
30-7-1937, cảnh sát Sài Gòn Sanh Ăngtoan Cămpana (Saint Antoine Campana
ký)). L’Avant garde bị địch tìm mọi cách đối phó, phải ngừng xuất
bản.
- Dân chúng:
Báo Dân chúng được Nguyễn Văn Cừ và
Hà Huy Tập thay mặt Trung ương Đảng quyết định cho xuất bản trong một
trao đổi tháng 4-1939. Nguyễn Văn Cừ với tư cách là Tổng Bí thư đã trực
tiếp chỉ đạo và viết bài cho báo về những vấn đề lý luận và chính trị.
Khi báo xuất bản thì Hà Huy Tập bị bắt tù, nên không có bài của anh viết
cho Dân chúng.
Dân chúng ra không định kỳ và trên
báo cũng chưa bao giờ công bố kỳ hạn, có khi một tuần một số, khi một
tuần hai số, đặc biệt có khi một ngày một số…
Với 80 số báo, Dân chúng đã qua bốn
người quản lý thay nhau là Dương Trí Phú, Trần Văn Kiệt, Huỳnh Văn
Thanh, Hoàng Hoa Cương và in lần lượt ở ba nhà in tư sản Pháp và Việt:
SATI, Bảo tồn, Xưa nay.
Đây là tờ báo ra được nhiều số, đứng thứ ba
trong toàn bộ lịch sử báo chí cách mạng trước tháng 8-1945; là tờ
báo được vinh dự đăng bài đầu tiên của Chủ tịch Hồ Chỉ Minh viết cho báo
chí trong nước thời kỳ vận động dân chủ; là tờ báo in với số lượng cao
nhất, có nhiều bạn đọc nhất trên đất Đông Dương trong cả quá trình lịch
sử từ khởi thủy đến Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Dân chúng là tờ báo thứ hai, sau Le
Peuple đăng nguyên văn mấy văn kiện của Đảng. Sau khi đăng Bức
thư công khai của Đảng Cộng sản Đông Dương gửi cho các đảng, phái”, số 31
ngày 19-11-1938 đăng bài phát biểu hưởng ứng bức thư trên, nhan đề
''Cảm tưởng của chúng tôi đối với Bức thư công khai của Đảng Cộng sản Đông
Dương gửi cho các đảng, phái'', như là bình luận về ý nghĩa của nội
dung bức thư. Cuối bài có đoạn: “Lần đầu được thấy trên mặt báo Quốc văn
xuất hiện cái tên yêu quý của Đảng Cộng sản Đông Dương với một bức thư
đầy đặn những lời trung thành về quyền lợi của giai cấp thợ thuyền và
quyền lợi của dân tộc”.
Nhân kỷ niệm ''15 năm vận động cộng sản
và 9 năm thành lập Đảng Cộng sản ở Đông Dương”, tờ Dân chúng dành cả
số 41 và phần lớn số 42 đăng một bài dài về “Lịch sử cộng sản vận động của
Đông Dương”. Mục đích của bài này là làm rõ một số vấn đề quan trọng như
nguyên nhân kinh tế, xã hội sinh ra phong trào cộng sản; quan niệm của người
cộng sản đối với xã hội và dân tộc; phác lại quá trình vẻ vang của phong trào
cộng sản đấu tranh chống kẻ thù giai cấp và dân tộc từ năm 1924 - 1925; trình
bày lập trường, quan điểm của Đảng với tình hình đương thời để thuyết phục, cổ
vũ và tổ chức quần chúng đấu tranh cho những khẩu hiệu dân chủ thắng lợi, đập
tan những quan điểm phản động, xuyên tạc của chủ nghĩa đế quốc và các nhóm
tơrốtxkit về chủ nghĩa cộng sản, về Đảng Cộng sản và người cộng sản Đông Dương,
về chủ trương của Mặt trận Dân chủ Đông Dương.
Dân chúng, số 10 ngày 24-8-1938 đăng
bài phê bình nhà văn Thiếu Sơn33 nói về ''Vấn đề thanh
niên và tương lai xã hội”, chỉ nói đến xinê, nhảy đầm, văn chương, thi phú,
ăn mặc diện bộ. Bài báo chỉ ra rằng thanh niên phải đặt xã hội lên trên gia
đình, lấy nghĩa vụ làm trọng thì mới có tương lai tốt đẹp cho non sông nước
nhà.
Số Xuân 1939, Dân chúng có bài dài
nhan đề ''Thanh niên muốn gì và phải làm gì?” đề cập đến: l. Tình
cảnh thanh niên Đông Dương ra sao? 2. Cuộc vận động thanh niên. 3. Hiện giờ
phải làm gì? Hô hào thanh niên đoàn kết trong Đoàn Thanh niên dân chủ, chống
tay sai của Nhật khoác áo thầy tu lôi kéo họ, tham gia các phong trào quần
chúng, đừng chỉ chú ý đến chính trị, lưu tâm đến vui chơi, giải trí.
Dân chúng mở đầu bài viết về phụ nữ,
tuyên chiến với nữ sĩ Tuyết Dung, đăng trên 3 số 16, 17, 18, ba ngày 14, 17,
21-9-1938, chỉ rõ nội dung lý luận phản động của chủ nghĩa phát xít nhồi học
thuyết của tư bản với đạo đức lễ giáo phong kiến thông qua hình thức văn chương
lạc hậu đăng trên báo Đọc, số 19.
Dân chúng số 35, ngày 7-12-1938 và
số Xuân còn có những bài ''Vấn đề phụ nữ giải phóng”; “Phụ nữ với ngày Tết''
phát triển lý luận của bài trên, uốn nắn những nhận thức lệch lạc, kết hợp
rất chặt chẽ yêu cầu đấu tranh giải phóng hoàn toàn phụ nữ với đấu tranh cho
dân chủ, dân sinh.
Về mối quan hệ giữa chiến tranh với quyền tự
do, dân chủ là một vấn đề có tính lý luận và thời sự cấp bách. Các thế lực phản
động tuyên truyền cho sự đối lập tuyệt đối giữa chiến tranh và dân chủ. Dân
chúng số 19, ngày 24-9-1938 có bài “Chiến tranh với quyền tự do dân
chủ''.
Trong thời kỳ vận động dân chủ, Đảng Cộng
sản không chủ trương trực tiếp đòi xóa bỏ chế độ thực dân mà đòi cải cách. Để
làm sáng tỏ quan điểm này, Dân chúng số 34 và 35 ngày 3 và 7-12-1938
đăng bài ''Cách mạng và cải lương”; nói rõ Đảng Cộng sản luôn luôn là
cách mạng, không ảnh hưởng một chút nào của chủ nghĩa cải lương. Không những
thế, còn kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cải lương. Bài báo kết luận:
''Muốn phân biệt cách mạng với cải lương, cần xét rõ mục đích và phương pháp
tranh đấu để đi tới mục đích ấy chứ không nên thấy đòi cải cách thì cho là cải
lương, thấy hô hào cách mạng đầu miệng thì là cách mạng''.
Dân chúng đấu tranh liên tục, mạnh
mẽ đòi các quyền tự do dân chủ cơ bản, bức thiết: tự do báo chí; tự do lập các
hội ái hữu và nghiệp đoàn, tự do hội họp và biểu tình, đòi thả hết tù chính
trị; đòi cải cách chế độ tuyển cử và các hội đồng dân biểu; chống trở lại Hiệp
ước năm 1884.
Sau khi buộc nhà cầm quyền phải ban hành
sắc lệnh ngày 30-8-1988, hàng loạt tờ báo ở Nam Kỳ ra đời không phải xin phép.
Tuy vậy, Dân chúng vẫn phải đấu tranh chống lại sự khiêu khích, khủng bố
của kẻ thù đối với bản thân mình cũng như với các tờ báo cách mạng khác; tố cáo
trên mặt báo và trước tòa án về việc chính quyền vi phạm luật tự do báo chí.
Với học sinh, Dân chúng (số 23, 25,
26, 27 ngày 8, 15, 19, 22-10-1938) nói lên tình cảnh thảm hại của nhà
trường thiếu giáo viên, học sinh thiếu trường…, yêu cầu mở thêm trường cho đủ
chỗ học; bỏ hạn chế tuổi tác cho học sinh; trợ cấp giấy, bút, mực... cho học
sinh nghèo; mở thêm lớp sư phạm cho những người không đỗ trung học có chỗ
làm...
Đấu tranh chống phát xít và chiến tranh là
nhằm vào kẻ thù nguy hiểm nhất của nhân dân ta và nhân dân thế giới, ngăn chặn
nguy cơ tàn phá ghê gớm đối với đất nước và nhân dân ta là một nhiệm vụ trọng
yếu hàng đầu. Đi đôi với chống phát xít và chiến tranh, Dân chúng vạch
mặt bọn tơrốtxkit làm tê liệt cảnh giác của nhân dân ta, tiếp tay cho bọn phát
xít sẵn sàng hành động và bọn Việt gian thân Nhật chuẩn bị đón nhận vào giày
xéo nước ta.
Trong 80 số báo, có 45 số có bài đấu tranh
với bọn tơrốtxkit trên tất cả các vấn đề trong cuộc vận động dân chủ trong nước
và trên bình diện quốc tế.
Việc tuyên truyền cho Liên Xô, bảo vệ đường
lối cách mạng của Đảng Cộng sản Liên Xô, vui mừng trước những thành tựu xây
dựng chủ nghĩa xã hội và phất cao ngọn cờ cách mạng trên toàn thế giới được báo
Dân chúng đăng trên nhiều số. Đặc biệt số 28, ngày 29-10-1938, kỷ niệm
lần thứ 21 Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười vĩ đại, có bài dài gần 4
trang, in 2 màu, có ảnh Mác, Ăngghen, Lênin và các lãnh tụ Liên Xô, biểu thị
tình cảm cao quý của Đảng Cộng sản và nhân dân ta đối với Tổ quốc của chủ nghĩa
xã hội thế giới.
Đối với Mặt trận nhân dân Pháp và Đảng Cộng
sản Pháp, với cuộc đấu tranh chống phát xít ở Trung Quốc, Tây Ban Nha, Dân
chúng luôn luôn cổ vũ sự ủng hộ nhiệt tình của nhân dân ta, không chỉ bằng
tinh thần và thái độ chính trị, mà cả bằng vật chất, như đối với cuộc chiến
tranh kháng Nhật của nhân dân Trung Quốc: góp tiền, quần áo, thuốc men, gửi qua
Tổng lãnh sự Trung Quốc; cưu mang những người Trung Quốc lánh nạn chiến tranh
sang Việt Nam; giới thiệu hoạt động của ''Việt Nam dân chúng hưởng ứng Trung
Quốc kháng địch hậu viên hội'' do chi bộ Vân Nam - Quý Châu của Đảng Cộng sản
Đông Dương tổ chức và lãnh đạo v.v..
Báo Dân chúng ghi lại một thành tựu
có ý nghĩa lịch sử, mở đường cho tự do báo chí, bẻ gãy chính sách báo chí phản
động của bọn cầm quyền thực dân ở Đông Dương. Trong hơn một năm tồn tại, Dân
chúng đã chiến đấu cho thắng lợi của tư tưởng Mác - Lênin, của chủ nghĩa
quốc tế vô sản, cho đường lối và sách lược sáng tạo của Đảng Cộng sản Đông
Dương, chống mọi kẻ thù về tư tưởng và chính trị trong thời điểm của cuộc đấu
tranh ngày càng gay go, phức tạp, đứng trước ngưỡng cửa của Chiến tranh thế
giới thứ hai.
Đó là những trang rực rỡ trong lịch sử báo
chí cách mạng Việt Nam, đồng thời là sự thất bại cay đắng trong lịch sử đàn áp,
bóp nghẹt tự do ngôn luận của đế quốc Pháp.
Khi chiến tranh bùng nổ, nhận chỉ thị của
Trung ương Đảng các cán bộ làm báo Dân chúng rút vào hoạt động bí mật, tự
đóng cửa tòa soạn, ngừng xuất bản. Tuy vậy, gần một tháng rưỡi sau, ngày
13-10-1939, P. Đensan được uỷ quyền của Toàn quyền Đông Dương vẫn ký lệnh cấm Dân
chúng cùng một số tờ báo cách mạng và cấp tiến khác.
- Sông hương tục bản:
Sau khi Nhành lúa bị cấm, Xứ uỷ
Trung Kỳ không còn báo chí trong tay, trong khi một cuộc đấu tranh quyết liệt
giữa các lực lượng dân chủ và phản động đặt ra trước mắt: tham gia tranh cử vào
Viện Dân biểu Trung Kỳ.
Tờ Sông Hương do Phan Khôi chủ
trương đang bế tắc, ế ẩm do ''tài chính quẫn bách'' (Lời Phan Khôi trong Sông
Hương tục bản số l), có nguy cơ đi tới đóng cửa và phá sản, thì Xứ
uỷ chủ trương mua lại. Vẫn tên báo cũ, thêm hai chữ ''tục bản”, vì báo
đã nghỉ mấy tháng, nay ra lại. Để tên người sáng lập Phan Khôi nhằm giữ thế hợp
pháp về hình thức, nhưng chủ nhiệm là Nguyễn Cửu Thạnh, một nhân sĩ dân chủ gần
với Đảng; ''Thư và madat xin gửi cho ông Phan Đăng Lưu”, in ngay trên trang đầu
của số l. Ngô Đức Mậu được phân công làm Thư ký tòa soạn. Tòa soạn đặt ở số 68,
phố Jules Ferry, Huế. Những bài vở chính được Phan Đăng Lưu và Tôn Quang Phiệt
lo, viết ở Huế rồi gửi ra Vinh cho Ngô Đức Mậu sắp xếp, trình bày, viết thêm
tin cho đầy trang, sửa bản in thử do nhà in Vương Đình Châu ở Vinh in và phát
hành ngay tại đó.
Sông Hương tục bản ra số 1 ngày
19-6-1937. Ngày 11-10-1937, Toàn quyền J.Brêviê ký lệnh thu hồi giấy phép vào
lúc báo vừa in xong, tranh thủ phát hành ngay số 44, kèm theo phụ trương số 14,
ra ngày 14-l0-1937, trước khi nghị định được thông đạt tới tòa soạn. Việc chính
quyền thực dân ra lệnh cấm đã được dự đoán trước. Ba phụ trương là một hình
thức tranh thủ chủ động đối phó với địch, vì biết rằng không còn khả năng ra
được số 15.
Nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của Sông
Hương tục bản là tham gia tranh cử. Sau khi Mặt trận Dân chủ thắng cử rồi
thì thông qua báo, mà nhân danh nhân dân yêu cầu các dân biểu phải làm tròn
trách nhiệm của mình, mang nguyện vọng của nhân dân vào nghị viện, đòi hỏi đi
sát nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, đồng thời công bố quan điểm, yêu
cầu, đề nghị của tờ báo để chuẩn bị cho các cuộc đấu tranh nghị trường... “Các
bạn chớ vì một chén rượu, một số tiền, một tiếng hứa suông, một lời dọa hẩm mà
làm sai mất cái phận sự của một người dân đi bầu cử trong giờ nghiêm trọng
này'' (số 3).
Đi đôi với các bài xã luận, bình luận, có
nhiều thể loại văn học xoay quanh chủ đề này, làm cho Sông Hương tục bản thể
hiện những nét sắc sảo, đậm đà, tươi vui. Những bài tiểu phẩm đả kích sâu cay,
trực diện những tên ''tai to mặt lớn'', nhiều năm làm quan nghị, ''đắc cử nhiều
khóa, ra vào quan Thượng, quan Khâm như đi chợ''. Đây là lần đầu tiên trong
lịch sử báo chí Đông Dương, đả kích đích danh bọn buôn dân bán nước trong cuộc
tranh cử. Mục ''Chiến điện'' nhìn rõ bản chất thối nát, đưa ra phơi bày
trước ánh sáng dư luận những tên như Cao Văn Chiếu, Nguyễn Quốc Tuý, Bùi Huy
Trứ, Trần Đình Tuyên..., những người lăm le nhảy vào nghị trường, đặc biệt là
Nguyễn Quốc Tuý, Trần Bá Vinh, Lê Thanh Cảnh.
Sông Hương tục bản bước vào đấu
tranh nghị trường qua các bài, như ''Chương trình dự thảo của dân biểu Trung
Kỳ'' (số 13), “Bức thư công khai kính gửi các ông dân biểu Trung Kỳ''
họp kỳ Hội đồng thứ nhất khóa dân biểu 1937 - 1940, và ''Chương trình
hành động của ông nghị Huỳnh Văn Trần, Bình Định'' nêu phương hướng, nhiệm
vụ hành động mà quần chúng nhân dân và cử tri đòi hỏi ''các nghị viên'', đồng
thời là chỗ dựa về mặt chính trị - xã hội cho các nghị viện dân chủ đấu tranh
với các thế lực phản động trong và ngoài Viện.
Sông Hương tục bản xuất bản trong
thời gian có cuộc đình công lớn của công nhân nhà máy xe Trường Thi nên đã kịp
thời phản ánh tin tức, vạch tội bọn tư bản áp bức, bóc lột và cổ vũ công nhân
đấu tranh, chống đàn áp. Số cuối cùng có bài về vụ đình công của phu mỏ Vàng
Danh đang được triển khai.
Về các vấn đề quốc tế, Sông Hương tục
bản lên tiếng ủng hộ cuộc đấu tranh chống phát xít của nhân dân Tây Ban Nha
và đưa tin về hội nghị quốc tế các nhà văn ủng hộ nhân dân Tây Ban Nha, lên án
bọn Tơrốtxkit và Ăngđơrê Giđơ (André Gide).
Sông Hương tục bản tuy chỉ tồn tại
gần bốn tháng, nhưng đã ghi lại những chiến công bất hủ trong một thời kỳ lịch
sử đấu tranh ở Trung Kỳ.
- Tin tức:
Sau khi tờ Thời thế bị cấm,
Xứ uỷ Bắc Kỳ chủ trương cho xuất bản báo Tin tức, cử Lương Văn
Tuân đứng ra xin phép với danh nghĩa sáng lập viên, Trịnh Hoài Đức là quản lý.
Ngày 2-4-1938, Toàn quyền Bơrêviê ký quyết định chuẩn y. Ngày 2-4-1938,
báo ra số l, danh nghĩa ''cơ quan mặt trận dân chủ'' (do Trường Chinh,
xứ uỷ viên, trực tiếp phụ trách).
Báo ra không định kỳ, lúc đầu ra hàng tuần
(từ số l đến số 4), sau ra hàng tuần với các ngày (4 - 11-5-1938), rồi 4 ngày
(25 – 29-6), số 18 (16 – 20-7), 8 trang như số 26, số đặc biệt ủng hộ hòa
bình (17 – 20-08).
Phụ trương của báo lúc đầu dự định mỗi
tháng có 2 kỳ, nhưng mới ra được phụ trương ''Tin tức lý luận” số
l, ngày 10-4-1938; phụ trương số 4, ngày 23 - 30-4-1938... không lâu thì
ngừng hẳn.
Những người viết báo Tin tức đều là
những cây bút quen thuộc của các tờ báo trước đó như Hà thành thời
báo, Thời thế, Thế giới… như Trần Huy Liệu (có khi ký Hải Khách, Hải Thu),
Trần Đình Long (có khi ký Lương Phong, L.P), Cựu Kim Sơn, Khuất Duy
Tiến (ký Tô Dân), Nguyễn Thường Khanh (còn ký T.K), Dương Lĩnh, Thôn
Dân, Hồ Xanh, Qua Ninh...
Số lượng in thấp nhất là 4.000 (số 15, ngày
6 – 9-7), trung bình là 5.000 - 6.000, cao nhất là 10.000 (phụ trương số
4).
Tờ Tin tức coi trọng việc tuyên
truyền lý luận Mác - Lênin, dành Phụ trương, Tin tức lý luận, số
1 để đăng các bài ''Vấn đề thống nhất giai cấp vô sản”, ''Chủ nghĩa phát xít
đã mang lại những gì cho thợ thuyền”, “Giai cấp là gì?”… Sau vì khó khăn
về biên tập, in, vốn nên không ra tiếp được loại ''Tin tức lý luận'' này.
Để giữ thế hợp pháp, không để cho địch lợi
dụng gây khó khăn, Tin tức ít khi nói về Mác - Lênin, về Quốc tế
Cộng sản, về Đảng Cộng sản như Le Peuple, Dân chúng, nhưng trong
nội dung bài vở, Tin tức đều thể hiện sự thấm nhuần đường lối,
quan điểm mácxít - lêninnít và chính sách của Đảng, viết ra với tư
cách Mặt trận Dân chủ.
Một vấn đề nổi bật được đề cập đến trong
báo Tin tức và cổ động, tổ chức và đấu tranh cho việc thành lập
và tăng cường Mặt trận Bình dân, sau gọi là Mặt trận Dân chủ. Mặt trận
Dân chủ ở Bắc Kỳ được hình thành từng bước kể từ cuộc vận động Đại
hội Đông Dương mùa thu năm 1936. Dưới sự lãnh đạo của Xứ uỷ, một sự liên
minh giữa nhóm Tin tức (hay còn gọi là nhóm cộng sản công khai)
với nhóm Ngày nay và chi nhánh Đảng Xã hội Pháp Bắc Đông Dương có
cơ quan ngôn luận là tờ Demain, được thành lập. Kết quả đáng chú ý trước
hết là cuộc tổ chức lễ kỷ niệm ngày Quốc tế lao động 1-5 ở Hà Nội có
trên 20.000 người dự, biểu dương lực lượng mạnh mẽ, có tổ chức, trong
đó những người cộng sản đóng vai trò chỉ đạo. Sau cuộc biểu tình khổng
lồ này, Tin tức số 5 ngày 4 – 11-1938 viết: “Cuộc biểu tình vừa qua
đã dạy cho ta những gì?”. Cuộc biểu tình năm nay thật là một nhát
búa đập mạnh vào đầu các hạng phản động và báo cho chúng biết rằng:
“Một là, quần chúng Đông Dương đã
tới trình độ trưởng thành về chính trị. Họ đã tỏ ra xứng đáng được hưởng
những quyền lợi cao hơn. Sự dùng dằng chậm chạp, không chịu ban
bố các quyền tự do dân chủ là vô lý''.
''Hai là, các tầng lớp cần lao đã
biết biểu tình trong vòng trật tự và hợp pháp. Họ đòi cơm ăn, áo mặc,
hòa bình và tự do; đồng thời họ biết biểu lộ sức lao động là mạnh mẽ và
đáng kính nể. Họ đã biết đặt những khẩu hiệu rất đúng đắn và hợp thời''.
''Ba là, giai cấp thợ thuyền đã đủ
lực lượng và tư cách dìu dắt các tầng lớp trung sản ra trường tranh đấu.
Quyền lãnh đạo của thợ thuyền ngày càng bền vững và rõ rệt. Dưới quyền
lãnh đạo ấy, sự thống nhất hành động của quần chúng đã thực hiện một
cách chu đáo. Phong trào vận động Mặt trận Bình dân Đông Dương đã tiến
hành một bước khá cao. Bọn cách mạng mồm tơrốtxkit xưa nay vẫn chửi Mặt
trận Bình dân và hòng đem những khẩu hiệu ''mặt trận công nông'', ''mặt
trận những người bị bóc lột'' thay vào, đã trông rõ sự thất bại của
chúng''.
Đây là bản tổng kết nội dung và ý nghĩa
cuộc biểu tình ngày 1-5, từ đó rút ra bài học cho những người cộng sản
và quần chúng tiến lên củng cố và mở rộng Mặt trận Dân chủ, đấu tranh
với các thế lực phản động và bọn tơrốtxkit.
Cuộc tranh cử vào Viện Dân biểu Bắc Kỳ là
một dịp để củng cố và mở rộng Mặt trận Dân chủ trong hành động thực tiễn.
Tin tức số 19, ngày 20 đến 23-7-1938 có bài “Những bài học của một
tuyển cử'' nói về ý nghĩa của thắng lợi, có 7 điểm:
1. Nhờ có chương trình tối thiểu hợp với
các nguồn lợi các tầng lớp nhân dân, được nhân dân sốt sắng ủng hộ;
2. Nhân dân tín nhiệm các đoàn thể trong
Mặt trận, dồn phiếu cho cử tri mà Tin tức giới thiệu;
3. Nhiều nơi, Mặt trận thu được đại đa số
phiếu bầu. Đặc biệt nhất là Khuất Duy Tiến bị bác đơn 2, 3 lần không
được ghi tên ứng cử, nhưng cử tri vẫn cứ bầu và vẫn đủ số phiếu. Đương
nhiên vẫn bị bác;
4. Bên cạnh một số ủng hộ Mặt trận, còn khá
đông lãnh đạm, bi quan không đi bầu. Một số bỏ phiếu cho bọn phản động, trước
hết bản thân chúng là những phần tử phản động, số khác thì bị bọn phản động mua
chuộc hăm dọa;
5. Những người của Mặt trận trúng cử là đại
diện cho đa số nhân dân một cách xứng đáng;
6. Bọn phản động thuộc địa muốn phá Mặt
trận đã không có kết quả;
7. Bọn tơrốtxkit đã giúp sức cho bọn phản
động phá hoại Mặt trận dân chủ, đưa Trần Duy Đạm ra tranh cử, hô khẩu hiệu
khiêu khích để cảnh sát có cớ đàn áp quần chúng.
Tin tức số 20, từ ngày 23 đến ngày
27-7-1938, vạch trần thủ đoạn của kẻ thù chống Mặt trận Dân chủ trong bầu cử:
dùng tiền mua phiếu; dùng thế lực quan trường ép bầu cho người của chúng; khủng
bố ứng cử viên của Mặt trận.
Như mọi tờ báo cách mạng khác trong thời kỳ
này, trên mặt báo số nào cũng có tin tức các cuộc đấu tranh của công nhân, nông
dân, tiểu thương, tiểu thủ công nghiệp, tố cáo kẻ thù. Đặc biệt, từ sáng kiến
của Xứ uỷ Bắc Kỳ về việc vận động thành lập Hội Truyền bá quốc ngữ, Tin tức viết
nhiều bài chuẩn bị dư luận cho việc Hội ra đời và sau đó là về những hoạt động
của Hội. Số 8, từ ngày 28-3 đến nay 5-4-1938, có bài: “Nhặt tài liệu
cho công cuộc chống thất học” của Nguyễn Thường Khanh với bút danh T. K,
qua việc điều tra về nạn thất học ở nông thôn, tỉnh Thanh Hóa của Sênô
(Chesnau), để động viên lực lượng ''gắng thực hiện dần dần các nguyện vọng nhân
đạo mà chúng ta mang trong tâm trí''. Số 9, ngày 4 đến ngày 11-6-1938,
có bài tường thuật về “Buổi diễn thuyết của Hội Truyền bá quốc ngữ''
cũng của Nguyễn Thường Khanh.
Tin tức đã vượt lên khỏi nhược điểm
của nhiều tờ báo cách mạng lúc đó bị trung ương phê bình là chính trị khô khan.
Ở đây có nhiều thể loại bài vở làm cho tờ báo sinh động, hấp dẫn. Những bài văn
chính luận đáng chú ý, nhất là của tác giả Qua Ninh (Trường Chinh) viết sáng,
gọn, chặt chẽ, thuyết phục và chân tình, ca ngợi trình độ giác ngộ của quần
chúng, đồng thời phê phán, đả kích các loại kẻ thù thật sắc bén, mạnh mẽ, bóc
trần bản chất của chúng. Nhiều bài thơ của Dương Lĩnh, Thôn Dân, Nguyễn Thường
Khanh, Trung Phương, Hồ Xanh, Trường Sơn v.v. được đăng trên Tin tức, rồi
những phóng sự điều tra của Nguyễn Thường Khanh, Trần Đình Long; truyện ngắn
của Học Phi, Trần Đình Long... Có những trang hồi ký dài Tin tức đăng
lại của Hà thành thời báo, Thời thế, từ số 1 cho đến số cuối
cùng, số 43, từ ngày 15 đến ngày 19-10-1938 vẫn chưa kết thúc. Bài “Ba năm ở
Nga Xôviết'' của Trần Đình Long, đã lôi cuốn sự chú ý theo dõi liên tục của
đông đảo bạn đọc cả nước.
Giương cao ngọn cờ đấu tranh cho dân chủ, Tin
tức đã viết về đấu tranh giải phóng dân tộc: ''Chúng tôi là những phần tử
chống chủ nghĩa đế quốc chủ trương dân tộc tự quyết'', trong bài ''Chúng tôi
với cuộc công thải Đông Dương”, số 12, ngày 25 - 29-5-1938. Đây là một ưu
điểm lớn trong nhận thức lý luận và chính trị về độc lập dân tộc, về mối liên
quan giữa đấu tranh cho dân chủ và dân tộc mà nhiều tờ báo cách mạng khác không
làm được.
Tin tức tuy tồn tại được hơn 6 tháng
(từ 2-4 đến 19-10-1938), nhưng đã để lại những ấn tượng sâu sắc cho nhân dân cả
nước, nhất là nhân dân các tỉnh miền Bắc, đặc biệt là Hà Nội. Tờ báo là vũ khí
chiến đấu có hiệu quả trong cao trào cách mạng phát triển, làm cho bọn phản
động thuộc địa, bọn bảo hoàng, tơrốtxkit, Việt gian thân Nhật và các phần tử
đầu cơ chính trị, tay sai của địch hoảng sợ. Bọn cầm quyền phải dùng đến hình
thức thô bạo, bị dư luận trong nước và nước ngoài lên án, ra lệnh thu hồi giấy
phép của báo ngày 15-10-1938.
- Tạp chí Đông Phương:
Theo chữ trình bày trên trang 1 bìa tạp chí
thì gọi là Đông phương tạp chí. Trong danh mục các ấn phẩm định kỳ 6
tháng đầu năm 1939 của Phủ Toàn quyền Đông Dương xuất bản ở trang 19 cũng viết Đông
Phương tạp chí. Tác phẩm Tự chỉ trích của Nguyễn Văn Cừ, Tổng Bí thư
Đảng Cộng sản Đông Dương viết tháng 6-1939, bút danh Trí Cường đăng trên Đông
Phương tạp chí. Gọi Đông Phương tạp chí có lẽ hợp lý hơn.
Nguyễn Văn Tây (1910 - 1996) tham gia Hội
Việt Nam Cách mạng Thanh niên năm 1927, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam năm
1930, ở tù ra năm l936, hoạt động ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ. Cuối năm 1938,
anh lên Sài Gòn gặp Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đề nghị cho một số đảng viên ra
tạp chí. Lúc này, việc xuất bản báo chí ở Nam Kỳ đã được tự do, không phải xin
phép.
Được Tổng Bí thư đồng ý, cho ý kiến chỉ đạo
biên tập, xuất bản, Nguyễn Văn Tây đứng ra tổ chức và làm chủ bút tạp chí.
Trên trang bìa số l viết: Bài vở gửi Nguyễn
Văn Tây.
Thư từ và ngân phiếu gửi Phan Văn Chiêu;
quản lý: Nguyễn Văn Phấn.
Tòa soạn đặt ở 21, Ke Galliêni (Quai
Galliéni) thị xã Mỹ Tho.
Khảo cứu, truyền tin và sưu tầm tài liệu về
văn chương, lịch sử khoa học xã hội.
Tạp chí xuất bản ''bán nguyệt'' (nửa tháng
một kỳ). Trong quá trình xuất bản đã có thay đổi. Số l, ngày 1-1-1939; số 2,
đúng nửa tháng sau. Số cuối cùng, số 10, ngày 1-9-1939, rồi tự đóng cửa, vì
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ.
Số lượng in từ 2.800 đến 3.200 bản.
Chủ trương xuất bản được thông báo trên các
báo chí và chủ bút có thư gửi trực tiếp đến các nhà báo cách mạng có tên tuổi
Bắc Kỳ, Trung Kỳ mời cộng tác.
Nội dung của tạp chí là tuyên truyền chủ
nghĩa Mác - Lênin trên các lĩnh vực lý luận triết học và mỹ học; những vấn đề
chính trị quốc tế; sáng tác, lý luận, phê bình văn học và nghệ thuật; những vấn
đề đường lối chiến lược và sách lược của Đảng ta trong đấu tranh cho dân chủ,
dân sinh và hòa bình; chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa phát xít; bảo vệ Liên
Xô, ngọn cờ của hòa bình và cách mạng thế giới; phê bình lý luận của chủ nghĩa
cơ hội, chủ nghĩa cải lương và khuynh hướng tơrốtxkit.
Nội dung chủ yếu là về khoa học xã hội,
nhưng có một số bài viết về khoa học tự nhiên, như: ''Ích lợi của hóa học và
vật lý học”, “Một điều phát minh của Nguyễn Công Tiễn'' (số l).
Tạp chí tuyên truyền cho chủ nghĩa yêu nước
và chủ nghĩa cộng sản, nói về nhà yêu nước Phan Bội Châu (số l và số Xuân), kỷ
niệm Phan Châu Trinh (số 4), ''Văn thơ của các nhà chí sĩ Việt Nam'' của
Bằng Phi (số 5)...
Một số bài dịch của các tác giả Pháp như M.
Prơnăng, A. Viôlítx, G. Rôna... và dịch truyện ngắn của M. Goócki qua bản chữ
Pháp. Tạp chí đăng lại một số bài nghị luận của báo Dân chúng, cơ quan
trung ương của Đảng, báo Đời nay của Xứ uỷ Bắc Kỳ.
Tạp chí đăng nhiều bài có giá trị, thuộc
nhiều thể loại, được bạn đọc thích thú, đánh giá cao.
IV- BÁO CHÍ CÁCH MẠNG
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1939 - 1945
l. Xã hội Việt Nam trong bối cảnh Chiến
tranh thế giới thứ hai
Ngày l-9-1939, phát xít Đức tiến công xâm
lược Ba Lan, châm ngòi lửa chiến tranh, từ đó lan rộng ra hầu khắp các nước
trên thế giới, hướng vào mục tiêu chính và mục đích chủ yếu là tiêu diệt Liên
Xô, đồng thời uy hiếp các nước khác, kể cả Anh, Mỹ. Ở châu Á, phát xít Nhật mở
rộng chiến tranh xâm lược một loạt nước.
Phát xít Đức đánh vào nước Pháp, chính phủ
tư sản đầu hàng bán đứng nước Pháp cho Đức (6-1940). Các lực lượng yêu nước và
dân chủ Pháp liên minh chống phát xít bằng mọi hình thức, kể cả vũ trang, do
Đảng Cộng sản làm nòng cốt.
Thi hành chủ trương của Chính phủ Pêtanh
(Pétain), bọn phát xít Pháp ở Đông Dương ra lệnh tổng động viên. Một nhiệm vụ
khẩn cấp đặt ra cho nhà cầm quyền là lo tổ chức, huấn luyện và trang bị đủ cho
hai sư đoàn để sớm gửi sang Pháp bổ sung lực lượng, làm bia đỡ đạn cho chủ
nghĩa đế quốc Pháp. Các lực lượng vũ trang, an ninh, mật vụ ở Đông Dương tăng
lên về người và phương tiện, sẵn sàng ứng phó với biến cố bất thường có thể xảy
ra tại chỗ.
Tháng 9-1940, Nhật vào Đông Dương, đế quốc
Pháp đầu hàng, dâng Đông Dương cho Nhật. Hai tên đế quốc phát xít cùng áp bức
nhân dân ta, đồng thời lại lừa miếng nhau, diệt trừ nhau để độc quyền thống
trị. Một số tổ chức tay sai của Nhật mới ra đời, hoạt động chống phá cách mạng
và chống Pháp, phục vụ cho chính sách xâm lược của Nhật, đưa ra khẩu hiệu độc
lập giả dối để lừa bịp nhân dân, bị Pháp khủng bố.
Những người vốn là thành viên của Mặt trận
Dân chủ thuộc lớp trên phân hóa mạnh. Một bộ phận đã có quan hệ kinh tế và
chính trị với đế quốc Pháp, trở lại phục vụ cho Pháp hoặc làm tay sai cho Nhật.
Số đông nằm im vì hoang mang trước thời cuộc, một số ít chạy sang hàng ngũ cách
mạng.
Trong giới thực dân Pháp ở Đông Dương, một
bộ phận nhỏ không chịu hàng phục Nhật, muốn bắt tay với cách mạng chống Nhật,
nhưng lại muốn lợi dụng cách mạng và ngoan cố bám lấy chính sách thuộc địa cũ
rích, ta gọi là phái Pháp Đờ Gôn.
Chiến tranh bắt đầu, kết thúc thời kỳ lịch
sử của Mặt trận Dân chủ Đông Dương. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông
Dương họp tháng 11-1939 đã nhận định tình hình, quyết định chuyển hướng đường
lối và phương pháp đấu tranh cách mạng. Hội nghị đề ra chủ trương tạm gác khẩu
hiệu cách mạng ruộng đất, tịch thu ruộng đất của đế quốc và địa chủ phản động,
chống tô cao, lãi nặng; lập chính quyền cộng hòa dân chủ; thành lập Mặt trận thống
nhất dân tộc phản đế Đông Dương, lấy liên minh công nông làm nền tảng, đoàn kết
rộng rãi với tiểu tư sản thành thị và nông thôn, với tư sản bản xứ, liên minh
tạm thời hoặc trung lập trung địa chủ và tiểu địa chủ - dưới sự lãnh đạo của
giai cấp công nhân.
Những biến chuyển mau chóng của tình hình
quốc tế và khí thế sôi sục của quần chúng cách mạng trong nước đặt ra một số
vấn đề cho Hội nghị Trung ương 7 (11-1940). Hội nghị đã nhận định kẻ thù chính
của nhân dân ta lúc này là phát xít Pháp - Nhật.
Trong lúc lịch sử đang đặt ra một khả năng
phát triển kỳ diệu nếu được sự chỉ đạo của một đường lối chính xác và một nghệ
thuật điêu luyện, thì Nguyễn Ái Quốc về nước và chủ trì Hội nghị Trung ương 8
(5-1941). Hội nghị nhận định nhiệm vụ chủ yếu, trước mắt của cách mạng là giải
phóng dân tộc tán thành quyết định của Hội nghị Trung ương 6 (11-1939) về tạm
gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, nêu thêm khẩu hiệu giảm tô, giảm tức, chia
lại ruộng công, tiến tới thực hiện người cày có ruộng. Về mặt trận dân tộc
thống nhất, Trung ương quyết định thành lập Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt
là Việt Minh), đồng thời thành lập Cao Miên độc lập đồng ninh và Ai Lao độc lập
đồng minh; chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng và toàn dân
lúc này. Vấn đề xây dựng Đảng được đặc biệt coi trọng. Hội nghị lịch sử này mở
ra một cao trào cách mạng mới, có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi
của cách mạng. Đặc biệt, Hội nghị Thường vụ Trung ương tháng 3-1945 với Chỉ thị
“Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, trực tiếp
chỉ đạo các địa phương đẩy mạnh kháng Nhật cứu nước, chuẩn bị đầy đủ điều kiện
để khi thời cơ tới là vùng lên Tổng khởi nghĩa, giành thắng lợi.
2. Chính sách báo chí của địch trong
chiến tranh
Ngay ngày Đức nổ súng xâm lược Ba Lan, mở
đầu Chiến tranh thế giới thứ hai, ngày l-9-1939, Chính phủ Pháp ban hành một
sắc lệnh, được Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định ban hành ngày 19-10-1939, có
đoạn viết: ''Kể từ khi có sắc lệnh tổng động viên, cấm ngặt công bố theo mọi
điểm đã được liệt kê trong điều 23, luật 29-7-1881 về tự do báo chí, mọi thông
tin giúp cho một cường quốc chống lại nước Pháp hay tác động có ảnh hưởng tai
hại đến tinh thần quân đội và nhân dân''. Người nào vi phạm sắc lệnh này sẽ bị
phạt tù từ 1 năm đến 10 năm, phạt tiền từ 1.000 phrăng đến 10.000 phrăng. Tiếp
theo sắc lệnh này, bọn bù nhìn Nam triều ban hành Dụ số 78 ngày 15-2-1940 truy
nã những điểm khác các sắc lệnh cũ; chỉ có sắc lệnh ngày 26-9-1939, điểm thứ ba
nói về báo chí vừa trình bày ở trên là đáng chú ý hơn cả.
Toàn quyền Đông Dương nhận được Sắc lệnh từ
Pari điện đi ngày 26-9, hai ngày sau ngày 28-9, đã ký Nghị định ban hành ở Đông
Dương, rồi lại vội vã điện báo cho các thống sứ, thống đốc và khâm sứ, các viên
công sứ và chủ tỉnh cho niêm yết cấp tốc để nhân dân biết và thi hành ngay lập
tức, mặc dầu đến ngày 30-9-1939, sắc lệnh này mới được in trên Công báo Đông
Pháp (J. O. I. F.).
Điều 1, Sắc lệnh ngày 1-2-1902 quy
định việc ban hành các luật về sắc lệnh ở Đông Dương được áp dụng ở thành phố
một ngày sau và ở các tỉnh hai ngày sau khi nhận được công báo. Nhưng lần này,
công báo chưa in, đã thấy lệnh truy nã các nhà báo cách mạng, mật thám khám
xét, lục soát không những các tòa soạn mà cả nhà riêng, nơi nghi có các cuộc
hội họp của những người hoạt động cách mạng. Nói đúng hơn, từ đầu tháng 9-1939,
những hành động khủng bố trên đã được tiến hành, từ khi có sắc lệnh thì
những việc làm đó được thực hiện ráo riết hơn mà thôi. Sách, báo, đều được
duyệt kỹ, soi từng chữ, xem xét từng tên tác giả, xóa đi bất kỳ chữ nào, câu
nào, đoạn nào có thể gây ra nhiều cách hiểu, có lợi cho cách mạng và cả lợi cho
Nhật, hại cho Pháp.
Từ năm 1940 trở đi, Chính phủ Pháp và Toàn
quyền Đông Dương không ban hành thêm một sắc lệnh hay nghị định gì quan trọng
đối với báo chí.
Để mong thích ứng với tình hình mới, thực
dân Pháp đưa ra hình thức tổ chức mới nhằm tranh thủ các nhà báo. Năm 1940, Hội
Báo chí Bắc Kỳ thành lập do Giăng Xômông (Jean Saumont), một nhà tư sản
kiêm địa chủ người Pháp, Giám đốc báo La Volonté Indochinoise, một phần
tử thực dân có tiếng tàn bạo và phản động, làm Chủ tịch hội; Bác sĩ Nguyễn Văn
Luyện, Giám đốc báo Tin mới làm Thư ký hội. Năm 1941, Hội Ái
hữu báo giới Nam Kỳ thành lập... Các hội trên đây chỉ có một ít hội viên,
có tính chất tượng trưng, không có hoạt động gì đáng kể vào thời điểm chính trị
này. Nhiều nhà báo thờ ơ với tổ chức hội trên đây.
Đến khi Nhật tranh quyền, lật đổ Pháp tháng
3-1945, bộ máy thống trị không ổn định nên căn bản phải dùng chính sách báo chí
cũ do Pháp để lại. Cách mạng Tháng Tám bùng nổ kết thúc cả số phận của chủ
nghĩa phát xít ở Đông Dương, do đó trong 5 tháng trời cả Nhật và chính quyền bù
nhìn của Nhật không có khả năng ban hành một pháp lệnh nào về báo chí cả.
3. Tình hình báo chí xuất bản công khai
Làng báo công khai phản ánh rõ nét tình
trạng mâu thuẫn, khủng hoảng, sa sút, tiêu điều của chính quyền phát xít thống
trị và xã hội Việt Nam trong những năm Chiến tranh thế giới thứ hai.
Về số lượng báo và tạp chí, cuối năm 1939
có 352 tờ, năm 1940 còn 285, tức là sụt đi 67 tờ (23,6%) và cứ thế tụt dần hàng
năm, cho đến giữa năm 1944 chỉ còn 197 tờ; tức là chỉ còn 55,9% so với năm
1939; cuối năm 1944, đầu năm 1945 lại sụt đi hơn nữa.
So với tạp chí, tập san, báo sa sút nhanh
hơn. Cuối năm 1939 có 136 tờ báo, cuối năm 1940 còn 104 tờ, tức là giảm đi 32 tờ
(30%), đến giữa năm 1944 còn 53 tờ, tức là sụt đi còn 38,9% so với năm cuối
1939. Trong số này thì báo tiếng Việt giảm nhanh hơn báo tiếng Pháp.
Cuối năm 1939 có 67 tờ tiếng Việt, năm 1940 giảm xuống còn 42 tờ, tức là giảm
đi 25 tờ (37,32%); đến giữa năm 1944 chỉ còn 21 tờ tức là giảm đi 46 tờ
(68,65%), trong khi đó báo tiếng Pháp từ 50 tờ năm 1939 đến giữa năm 1944 còn
25 tờ, giảm đi 50%.
Hàng năm vẫn có thêm một số tờ báo mới ra
đời, đồng thời vắng mặt một số tờ báo cũ với số lượng lớn hơn. Những ngày đầu
của chiến tranh, các tờ báo cách mạng xuất bản công khai từ trước vẫn còn ít
tờ, như Đời nay (số 38, ra ngày 22 đến 29-9-1939); Tạp chí Đông
phương (số 10, ra ngày 22 đến 29-9-1939); Người mới (số 5, ra ngày
5-9-1939); Mới (số 11, ra ngày 25 đến 30-9-1939) rồi đóng cửa vì ban
biên tập đã được chỉ thị của Đảng cho chuyển vào bí mật hoặc đã bị địch bắt
giam. Tuy chậm nhất là đến ngày 10-10-1939 là có lệnh thu hồi giấy phép do
Bêbe, được Toàn quyền Đông Dương uỷ quyền ký, đến đây chấm dứt thời kỳ báo chí
cách mạng xuất bản công khai.
Những tờ báo tư nhân tham giaa Mặt trận báo
chí dân chủ, đến khi bước vào chiến tranh, luật phát xít ban hành thì lần lượt
chuyển hướng sang xu thời, ít nhiều phụ họa mới bọn phát xít Pháp, hay quay lại
chống cách mạng.
Ở Hà Nội, nhóm tơrốtxkit xin phép ra tờ Văn
mới, tạp chí phổ thông, tập mới, xuất bản số l ngày 3-6-1939, cho
đến năm 1945 ra liên tục. Danh nghĩa là tạp chí, nhưng thực tế là những cuốn
sách hoặc mỗi số là một phần của ''bộ sách'' dày, như ''Lịch sử thế giới'' gồm
nhiều tập của Nguyễn Đức Quỳnh, mỗi tập khoảng 200 trang, khổ trung bình
11x17cm, núp dưới chiêu bài khoa học để xuyên tạc khoa học, chống lại chủ nghĩa
Mác và cuộc cách mạng giải phóng dân tộc chống Pháp - Nhật do Đảng Cộng sản tổ
chức và lãnh đạo.
Ở Sài Gòn, một số người theo tơrốtxkit bị
Pháp bắt tù nên không còn một tờ báo nào danh nghĩa tơrốtxkit tiếp tục xuất bản
hay mới ra mắt.
Báo chí từ Bắc chí Nam hàng ngày phải dành
trang đầu đăng khẩu hiệu ''Cần lao - Gia đình - Tổ quốc” và lời nói của Thống chế
Pêtanh như những châm ngôn chỉ đạo hành vi của mọi người trong xã hội.
Những tin tức trên báo phục vụ cho chiến
tranh phát xít bằng cách đưa những tin có thật hay giả tạo về sức mạnh của quân
đội phát xít, còn những tin Liên Xô chặn đứng và đánh lùi phát xít Đức, về
chiến tranh du kích chống phát xít ở khắp các nước từ Âu sang Á và phong trào
phản chiến ở Nhật lại bị bưng bít.
Sau cuộc đảo chính Nhật - Pháp ngày
9-3-1945, những tờ báo theo Nhật hết lòng tâng bốc sự thắng lợi của người da
vàng, tuyên truyền cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa yêu nước chống thực dân
Pháp giả hiệu bằng những bài văn, thơ mới sáng tác hoặc đăng lại một số
văn, thơ yêu nước của các nhà chí sĩ trong những năm trước; cổ vũ cho tư tưởng
sẵn sàng làm nô lệ cho Nhật, phục vụ cho chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa
phát xít Nhật: ''Người Việt Nam thành thực cộng tác với người Nhật Bản, sẽ sẵn
sàng giúp quân đội Nhật những thứ cần dùng mà trước kia Chính phủ Pháp đã hứa
giúp Nhật - có lẽ còn hơn nữa - và như thế người Việt hy sinh nhiều lắm, vì bọn
Pháp đã làm cho chúng tôi kiệt lực''34.
Hàng ngũ nhà báo bị phân hóa mạnh ngay từ
những tháng đầu của chiến tranh và ngày càng phát triển sâu sắc hơn. Địch lùng
bắt những nhà báo tiến bộ, mua chuộc những người có tài, đe dọa những người có
tinh thần yếu đuối. Một số tên cơ hội xoay sang tán tụng Nhật. Những người trí
thức có lương tâm và lòng tự trọng nhưng chưa ngả về cách mạng thì chờ đợi,
nghe ngóng tình hình, viết đôi bài có tính chất học thuật, khảo cứu, không gắn
với những diễn biến có tính chất thời sự chính trị nhưng vẫn ấp ủ một tinh thần
dân tộc và biểu hiện một quan điểm tiến bộ, thường đăng trên báo Thanh nghị và
Tri tân. Ở Hà Nội, Sài Gòn, Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát đứng ra
làm Chủ nhiệm báo Thanh niên, xuất bản hàng tuần, ra số 1, ngày
7-8-1943. Đây là tờ báo có tinh thần dân tộc, xu hướng yêu nước theo một tôn
chỉ tiến bộ. Nó đã nhanh chóng tập hợp được đông đảo nhiều người viết báo có
tên tuổi ở khắp ba miều Bắc, Trung, Nam tham gia. Báo chủ trương đoàn
kết mọi người Việt Nam; khuyến khích hoạt động để chứng tỏ sức sống của người
Việt; phụng sự nghệ thuật nước nhà trên con đường tiến bộ.
Từ tháng 4-1944, Thanh niên chuyển
từ Huỳnh Tấn Phát sang Huỳnh Tấn Tiểng làm Chủ nhiệm và Mai Văn Bộ làm chủ bút.
Từ đây báo càng đậm nét kích thích tinh thần thống nhất dân tộc, chống ngoại
xâm, cho đến ngày ngừng xuất bản, 30-9-1944. Một số nhà báo vốn đã có cảm tình
với cách mạng từ trong thời kỳ vận dộng dân chủ, nhưng chưa tham gia hoạt động
ngay khi chiến tranh bùng nổ. Qua thực tiễn cuộc sống, họ thấy cần phải chọn
lấy một con đường. “Đề cương văn hóa của Đảng Cộng sản Đông Dương'' ra
đời và Hội Văn hóa cứu quốc được thành lập, đã thu hút một số nhà văn, nhà báo
có tinh thần yêu nước tham gia dưới là cờ Việt Minh, chống đế quốc, phát xít.
Cũng phải kể đến những nhà báo bi quan, đời
sống quẫn bách giải nghệ đi buôn kiếm sống qua ngày hoặc vừa đi buôn, vừa làm
báo.
4. Báo chí cách mạng
Báo chí bí mật xuất bản trong thời kỳ 1939
- 1945 xét về một mặt - mặt bất hợp pháp thì cũng giống như những tờ báo tiền
thân, từ khởi thủy đến đầu năm 1936. Nhưng về khí thế, nó phản ánh rõ hướng đi
tới ngày toàn thắng.
Giai đoạn 1939 - 1945 số lượng báo không
nhiều bằng giai đoạn 1936 - 1939, nhưng chất lượng bài vở tốt hơn, nội dung
phong phú hơn và hình thức trình bày đẹp hơn. Nhiều tờ có “tuổi thọ'' dài hơn
thời kỳ bí mật trước, vì cơ quan đầu não chỉ đạo báo chí tuy bị thiệt hại ít
nhiều chứ không tan vỡ. Cơ sở in báo rộng lớn, nếu không may bị lộ chỗ này thì
có ngay nơi dự bị xuất bản và điều kiện bảo vệ cho việc biên tập, in, phát hành
nói chung vững vàng hơn, chỉ di chuyển khi cần thiết chứ không bị dập tắt. Có
những tở trải qua sóng gió của sự lùng sục, đàn áp, nhưng vẫn tồn tại, phát
triển cho đến ngày cách mạng thành công. Truyền thống đấu tranh anh hùng cùng
tên tuổi của tờ báo đó đã đi vào cuộc sống tình cảm của quần chúng qua nhiều
năm, từ đấu tranh giành chính quyền, bảo vệ chính quyền cách mạng (1945 - 1946)
đến kháng chiến chống thực dân Pháp... như Việt Nam độc lập, Cứu quốc, Độc
lập. Tờ Cờ giải phóng tiếp tục xuất bản cho đến khi Đảng Cộng sản
chuyển vào hoạt động bí mật, dưới danh nghĩa ''tự giải tán'' (11-1945).
Tạp chí Tiến lên, cơ quan tuyên
truyền của Đảng bộ khu C (gồm đảng bộ các tỉnh Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình, Hòa
Bình) hiện có số ra ngày 27-10-1939, đề là xuất bản mỗi tháng hai kỳ. Nhưng có
nhược điểm là tờ tạp chí số l ra trước Hội nghị Trung ương 6 (11-1939) nên báo
còn có những bài viết theo tinh thần chỉ đạo của thời kỳ trước.
Sau khi cơ sở in báo Giải phóng của
Xứ uỷ Bắc Kỳ bị lộ, số 3 bị tịch thu hết, không biết Xứ uỷ có cho in lại số 3
không, nhưng có in các số 4, 5, 6, 7. Số 8 đã in xong phải hủy, không biết vì
lý do gì (Theo báo Giải phóng tập mới, số 1, ngày 25-3-1941, cơ quan
trung ương của Đảng, trang 12, cột 3). Các số trên đây đều xuất bản trước Hội
nghị Trung ương 7 (11-1940).
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (11-1940)
viết: ''Về phương diện tuyên truyền: Đa số Trung ương bị thất bại một năm nay
(ý nói nhiều Uỷ viên Trung ương bị địch bắt) làm cho tờ báo thống nhất của toàn
Đảng chưa ra được. Nhưng mỗi xứ có một tờ báo làm cơ quan tuyên truyền
cổ động cho toàn xứ: “Tiến lên'' ở Nam Kỳ, “Bẻ xiềng sắt'' ở
Trung Kỳ, ''Giải phóng'' ở Bắc Kỳ. Ngoài ra, nhiều khu hoặc liên tỉnh cũ
có báo riêng''35.
Ngày l-5-1940, tờ Phá ngục, cơ quan
của Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương do Trung ương chỉ đạo, ra
mắt bạn đọc.
Ngày 25-3-1941, Quyền Tổng Bí thư Trường
Chinh cho ra báo Giải phóng, ''cơ quan tuyên truyền trung ương của Đảng
Cộng sản Đông Dương'' tập mới, số l. Đến nay chưa có đủ tài liệu để biết
rõ Giải phóng tập mới của Trung ương ra được mấy số, có thể dừng lại
trước Hội nghị lần thứ tám của Trung ương (tháng 5-1941).
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám của Trung
ương viết: ''… Trong lúc này không nên đưa chủ nghĩa cộng sản ra tuyên truyền,
huy hiệu cờ đỏ búa liềm không nên dùng luôn. Các sách báo tuyên truyền không
nên dùng danh nghĩa Đảng nhiều, phải lấy danh nghĩa các đoàn thể cứu quốc và
Việt Minh thay vào''36.
Sau Hội nghị, đồng chí Nguyễn Ái Quốc chủ
trương ra báo Việt Nam độc lập. Người trực tiếp chỉ đạo biên tập bài, cả
in và phát hành, ra số l, ngày 1-8-1941. Tên của báo cách mạng đầy đủ ý nghĩa
bao gồm cả mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược, khẩu hiệu hành động. Báo danh nghĩa
là của Tỉnh bộ Việt Minh Cao Bằng, sau phát triển thành Cao Bằng - Bắc Cạn, rồi
Cao - Bắc - Lạng.
Cuối tháng 9 (hay đầu tháng 10-1941), Trung
ương Đảng cho xuất bản Tạp chí Cộng sản. Đến nay chưa tìm được bản gốc
hay bản chụp từ gốc, chỉ biết qua báo cáo của mật thám dịch ra chữ Pháp, mục
lục số l như sau:
1. Cùng các bạn đọc.
2. Hội nghị lần thứ tám của Ban Chấp hành
Trung ương.
3. Để thực hiện tổ chức mới, 23-9-1941.
4. Phần phụ lục: những tài liệu của Đảng,
9-9-1941.
5. Giải thích những thuật ngữ khó.
Tổng Bí thư Trường Chinh cho xuất bản báo Cứu
quốc, số 1, ngày 25-l-1942 danh nghĩa là cơ quan của Tổng bộ Việt Minh.
Những số đầu do chính Tổng Bí thư trực tiếp chỉ đạo viết bài, trình bày trang
báo.
Ngày 10-10-1942, báo Cờ giải phóng, ''cơ
quan tuyên truyền cổ động Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương'' ra số 1. Vì
những khó khăn do địch gây ra nên báo ra không định kỳ, nhất là thời gian đầu,
có khi cách nhau giữa số trước với số sau đến 10 tháng.
Ngày 28-2-1943, Tạp chí Cộng sản, cơ
quan lý luận của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra số 1;
ngày 24-9-1943 ra số 2, số 3 đã xong bài vở, chưa kịp in để phát hành thì Tổng
khởi nghĩa.
Các cấp bộ Việt Minh ra rất nhiều báo. Ở
cấp kỳ, Trung Kỳ có Dân tộc, Nam Kỳ có Giải phóng, Nam phần Bắc
Kỳ có Độc lập. Ở cấp tỉnh, ngoài tờ Việt Nam độc lập của Tỉnh bộ
Việt Minh Cao Bằng, Cao Bằng - Bắc Cạn, Cao - Bắc - Lạng. Các tỉnh khác, như
Hưng Yên có Bãi sậy, Quảng Ngãi có Chơn độc lập, Thanh Hóa có Đuổi
giặc nước, Bắc Ninh có Hiệp lực, Ninh Bình có Hoa Lư, Phúc
Yên có Mê Linh, Bắc Giang có Quyết thắng, Chiến khu Hòa - Ninh -
Thanh (Hòa Bình - Ninh Bình - Thanh Hóa) có Khởi nghĩa, đặc biệt khu Bắc
Sơn có Bắc Sơn, v.v..
Đó là báo ''hàng ngang'' của cấp bộ, còn
báo “hàng dọc'' của các đoàn thể cứu quốc, có Chiến đấu của Việt Nam
quân nhân cứu quốc hội, sau đổi là của Việt Nam giải phóng quân, Tiền phong của
Hội Văn hóa cứu quốc, Việt Nam của Việt Nam cứu quốc hội v.v.. Đoàn thể
cứu quốc ở tỉnh, có Chiến đấu của Việt Nam công nhân cứu quốc Thanh Hóa,
Hồn nước của Thanh niên cứu quốc Hoàng Diệu (thành phố Hà Nội) v.v..
Đảng Dân chủ có báo Độc lập.
Thanh Hóa là tỉnh có cơ sở đảng bộ mạnh và
phong trào Việt Minh phát triển cao, được tỉnh uỷ rất quan tâm đến việc xuất
bản sách, báo, đặc biệt lần đầu tiên trong lịch sử vận động cách mạng Việt
Nam có tờ báo riêng vận động phụ nữ mà trước đây nhiều lần trung ương chủ
trương ra báo cho phụ nữ mà chưa thực hiện được. Tờ Gái ra trận, cơ quan
của Phụ nữ cứu quốc tỉnh Thanh Hóa, ra mắt bạn đọc.
Những cuộc khủng bố đẫm máu của địch từ
cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ tháng 11-1940 đang đè nặng lên đời sống, tuy vậy Xứ uỷ
Nam Kỳ thấy cần có báo để lãnh đạo Đảng bộ và quần chúng đấu tranh, bảo vệ cơ
sở. Ngày 21-1-1941, báo Giải phóng của Xứ uỷ xuất bản số l, do xứ
uỷ viên Nguyễn Văn Kỉnh làm Chủ bút. Báo ra đều kỳ nửa tháng. Sau khi ra số 11,
ngày 16-7-1941, đồng chí Nguyễn Văn Kỉnh bị địch bắt, báo ngừng xuất bản.
Cùng với báo của Xứ uỷ, nhiều địa phương
trong không khí bị địch càn quét ác liệt cũng ra báo. Hồ sơ và vật chứng của
địch tìm ra qua các cuộc lùng sục, đánh phá cơ sở còn để lại đến ngày nay ở cơ
quan lưu trữ, cho ta biết không được cụ thể (vì lý do bí mật) nên không thể xác
định được một số tờ báo là cơ quan ngôn luận của cấp nào, như tờ Phấn đấu
số 1, ngày 20-1-1941; Cứu quốc, số 1, ngày 30-4-1941; Tiến lên, v.v..
Đây là sự thật lịch sử của dòng báo chí cách mạng.
Trong những năm chiến tranh, cánh cửa nhà
tù lại mở rộng, các phòng giam chật ních tù chính trị. Các chi bộ đảng trong
các nhà tù cho xuất bản nhiều tờ báo viết tay, chép thành 2, 3 bản, bí mật
truyền nhau đọc như Bình minh trên sông Đà ở Nhà tù Hòa Bình, Dòng
sông Công ở Trại tập trung Bá Vân, Đường Nghĩa ở Trại tập trung
Nghĩa Lộ, Suối reo ở Nhà tù Sơn La, Thông reo ở Nhà tù Chợ Chu, Tiến
lên ở Nhà tù Quảng Trị v.v..
Lần đầu tiên trong phong trào yêu nước ở
các vùng dân tộc thiểu số có một tờ báo riêng bằng chữ dân tộc: tờ Lắc
Mương, cơ quan tuyên truyền cổ động của Hội người Thái cứu quốc.
Trong phong trào yêu nước của Việt kiều ở
tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) có tờ Đồng thanh.
Báo trong thời kỳ này tập trung chỉ đạo từ tỉnh,
thành phố trở lên, không có báo xí nghiệp, huyện như thời kỳ 1930 – 1936. Lúc
đầu có tờ in thạch, sau chuyển sang in đá và cuối cùng một vài tờ in chữ chì.
Ở Nam Bộ, một số đảng viên nhận thức sai về
chính trị, ý thức tổ chức và kỷ luật kém, tư tưởng bè phái, nên tổ chức ra
thành đoàn thể quần chúng riêng, đề ra khẩu hiệu hành động khác hẳn nhau và
trái với khẩu hiệu của Trung ương, ra báo Tiền phong và giải phóng công
kích lẫn nhau, gây thiệt hại cho phong trào trong thời kỳ tiền khởi nghĩa,
chuẩn bị giành chính quyền, không những thế còn ảnh hưởng không tốt về sau. Ban
Chấp hành Trung ương Đảng, nhất là Tổng Bí thư Trường Chinh đã trực tiếp chỉ
đạo việc uốn nắn sai lầm của một số đồng chí ở Đảng bộ Nam Kỳ, bằng cách phái
cán bộ vào truyền đạt chỉ thị và viết bài đăng lên báo Cờ giải phóng, cơ
quan trung ương của Đảng.
5. Một số tờ báo cách mạng tiêu biểu
- Việt Nam độc lập:
Cao Bằng là một tỉnh biên giới có phong
trào quần chúng cách mạng phát triển mạnh được Trung ương Đảng chọn làm nơi đón
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về mở Hội nghị lần thứ tám của Trung ương, tháng 5-1941.
Hội nghị Trung ương quyết định nhiệm vụ chủ
yếu trước mắt của cách mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc, thành lập Mặt trận
Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh.
Sau Hội nghị, Nguyễn Ái Quốc vừa chăm lo
việc chung của toàn Đảng, toàn dân, vừa trực tiếp chỉ đạo xây dựng Mặt trận
Việt Minh tỉnh Cao Bằng và sáng lập tờ báo Việt Nam độc lập, cơ quan của
Tỉnh bộ. Khi cao trào cách mạng mở rộng, hình thành thế liên hoàn của hai tỉnh
Cao Bằng - Bắc Cạn, Việt Nam độc lập trở thành tờ báo của phong trào
Việt Minh hai tỉnh, từ số 129 ngày 21-6-1942, và từ ngày 30-l-1944, số 187, trở
thành tờ báo của ba tỉnh Cao - Bắc - Lạng. Việt Nam độc lập là tên tờ
báo, chính và mục tiêu trước mắt của nhân dân Cao Bằng - Bắc Cạn - Lạng Sơn và
cũng là mục tiêu đấu tranh của dân tộc ta.
Việt Nam độc lập ra số l ngày
1-8-1941, đánh số 101 với ý nghĩa là kế tục sự nghiệp của những tờ báo bí mật
đã ra đời từ trước, đến ngày 20-8-1945 được 126 số, đánh số 226, có ba họa bản.
Đây là tờ báo cách mạng Việt Nam ra được nhiều số trong thời kỳ bí mật, đứng
thứ hai sau tờ Thanh niên cũng do Nguyễn Ái Quốc sáng lập năm 1925. Có
trên 30 số Việt Nam độc lập được bàn tay trìu mến của Người chăm sóc, từ
viết bài, sửa bài, vẽ tranh, đào tạo cán bộ viết bài và viết chữ lên bàn đá, lo
phương tiện in, chọn địa điểm in và tổ chức phát hành. Có những lần chính tay
Người viết chữ trái trên bàn đá in. Trong bốn năm, ''nhà in'' đã di chuyển qua
nhiều địa điểm để giữ bí mật và đối phó với kẻ thù lùng sục, khủng bố37.
Sau khi Bác Hồ đi công tác ở nước ngoài, từ
tháng 9-1942, đồng chí Phạm Văn Đồng được uỷ nhiệm phụ trách báo đến tháng
5-1945.
Một đặc điểm trong phong cách của báo Việt
Nam độc lập là sử dụng rộng rãi thể loại văn vần, có khi là mấy câu kết
thúc một bài văn nghị luận, có khi xen vào bài xã luận, khi lại là những
bài riêng dưới mục ''Vườn văn'' gắn với nội dung bài xã luận... Văn vần
dễ học thuộc, nhớ lâu, phù hợp với trình độ quần chúng cứu quốc các dân
tộc và truyền miệng cũng thuận tiện.
Do địch bao vây, việc in gặp nhiều khó
khăn, cơ sở ngày càng mở rộng lại càng thiếu giấy, cho nên có lúc báo ra
tờ khổ nhỏ, ra thời hạn cách xa nhau, một tháng ba kỳ rút xuống hai
kỳ (từ số 186, ngày 15-l-1944), có lúc tưởng như phải tạm ngừng vì ''kho
giấy'' dự trữ đã cạn. Số 182, ngày 1-12-1943 có tên: Xin lỗi độc giả,
báo không ra được vì không có giấy. Đã có lúc báo in mỗi số 600 đến 700
bản và còn khả năng tăng lên nếu không hạn chế vì giấy.
Báo bán lấy tiền, “muốn nấu cơm phải có
gạo. Muốn đọc báo phải trả tiền'', lúc đầu một tháng ba kỳ giá một hào, sau vì
mọi chi phí đắt nên phải bán 5 xu một tờ (từ số 158, ngày 11-4-1943), rồi lên
một năm 36 số, 7 đồng (gần hai hào một số) và không bán lẻ từng tháng, chỉ bán
từ 3 tháng - 6 tháng (số 226, ngày 20-8-1945).
Chữ Việt Nam độc lập lúc đầu viết
trên bàn đá từng số, sau khắc gỗ đóng như con dấu, thuận tiện hơn.
Sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, Việt
Nam độc lập vẫn tiếp tục xuất bản, in litô, là cơ quan ngôn luận của ba tỉnh
Cao - Bắc - Lạng một thời gian, rồi trở lại của riêng tỉnh Cao Bằng38.
- Cứu quốc:
Mùa thu năm 1941, Trung ương Đảng Cộng sản
Đông Dương chủ trương xuất bản một tờ báo làm cơ quan ngôn luận của Mặt trận
Việt Nam độc lập đồng minh, phát hành rộng rãi trong các tổ chức của mặt trận.
Hội nghị cán bộ do Xứ uỷ Bắc Kỳ triệu tập, họp trong 3 ngày: 25, 26, 27-9-1941,
quyết nghị: “Các cấp bộ phải giúp đỡ tờ báo của Việt Minh sắp xuất bản nay mai,
phải vận động quần chúng ủng hộ về tài chính, phải tổ chức công tác lấy tin,
phải viết bài và vận động quần chúng viết bài cho tờ báo và nhất là bài vở cần
sát với trình độ quần chúng và phải phản chiếu đời sống của nhân dân''.
Ngày 25-1-1942, báo Cứu quốc, số l,
''cơ quan cổ động của Việt Nam độc lập đồng minh''39 ra mắt
bạn đọc. Tên tờ báo như một lời kêu gọi thiêng liêng, một nhiệm vụ cấp bách của
cả dân tộc ta trước vận mệnh của đất nước.
Lúc đầu, báo Cứu quốc do Tổng Bí thư
Trường Chinh trực tiếp Phụ trách biên tập, có Bí thư Tỉnh uỷ Phúc Yên là Lê
Quang Đạo giúp.
Về sau Trung ương giao cho Xứ uỷ Bắc Kỳ, do
các xứ uỷ viên Nguyễn Khang và Lê Quang Đạo phụ trách. Từ giữa năm 1944 trở đi,
Xứ uỷ phân công cho Xuân Thủy trực tiếp chuyên trách.
Cứu quốc in ở nhiều địa điểm bí mật
trong các vùng Hà Đông, Bắc Ninh, Sơn Tây cho đến Cách mạng Tháng Tám năm 1945
thì chuyển về Hà Nội. Đến ngày 15-8-1945, Cứu quốc xuất bản được 30 số
in litô và 4 số phụ trương của các số 12, 15, 19 và 27, có số “Đặc san về
vấn đề hải ngoại'' in chữ chì; từ số 31, ngày 24-8-1945 bắt đầu tin typô ở
Hà Nội.
Cứu quốc ra không đều kỳ, lúc đầu số
nọ, cách số kia có khi vài tháng. Từ số 19, ra ngày l0-4-1945 trở đi, phong
trào lên cao, căn cứ cách mạng mở rộng, báo có điều kiện thuận lợi ra tương đối
mau hơn, số nọ cách số kia 10 ngày.
Những số bình thường ra 2 trang; có 6 số ra
4 trang: số 7, 11, 12, 13, 14, 15. Những số đặc biệt ra nhiều trang, như số
Xuân 1942: 16 trang, Xuân 1945: 12 trang, “Đặc san về vấn đề hải ngoại'': 24
trang. Lúc đầu in một bàn đá, mỗi số trên 100 bản, rồi nâng lên vài trăm bản.
Số Xuân 1945 có nhiều bản in, đã in tới trên l.000 bản, có kho giấy dự trữ hàng
xe bò kéo, mực in hàng thùng, đã phân công người chuyên trách biên tập, có
phóng viên đi cơ sở, có ''tòa soạn'' ở xa ''nhà in'', có người chuyên phụ trách
''nhà in'', người viết chữ trái và lăn rulô... Có một địa điểm chính thức và có
địa điểm dự bị để di chuyển đến khi địch khủng bố. Chỉ từ sau ngày đảo chính
Nhật - Pháp 9-3-1945 thì địa điểm ''tòa soạn'' và ''nhà in'' mới thật ổn định,
điều kiện làm việc mới phát triển thuận lợi.
Với tư cách là cơ quan của Mặt trận Việt
Minh, số l, Cứu quốc kêu gọi ''các giới sĩ, nông, công, thương, binh,
các đoàn thể cứu nước; toàn thể đồng bào mất nước'' ''mau hợp sức cùng
lòng đánh đuổi Pháp - Nhật, rửa nhục cho non sông, đưa Tổ quốc tới chốn
vinh quang độc lập.
Cứu quốc sẽ giãi bầy nỗi lầm than
thống khổ của muôn dân;
Cứu quốc sẽ nêu cao ý muốn thiết tha
của trăm họ;
Cứu quốc sẽ là người chỉ lối trung
thành cùng đồng bào cùng tiến trên đường giải phóng dân tộc.
Cứu quốc hô hào đồng bào ''hãy tận
tâm ủng hộ Cứu quốc về mọi phương diện, hãy cương quyết tiến lên dưới
bóng cờ sắc đỏ sao vàng.
Đánh đổ giặc cướp nước Pháp, Nhật!
Đánh đổ giặc bán nước thân Pháp, thân Nhật!
Việt Nam độc lập tự do muôn năm!''.
Cứu quốc mất chú trọng khai thác
truyền thống vẻ vang của dân tộc qua hàng nghìn năm lịch sử để bồi dưỡng ý chí
chiến đấu và quyết thắng giặc ngoại xâm. Nhân ngày kỷ niệm Hai Bà Trưng tuẫn
tiết, Cứu quốc nêu gương anh hùng của Hai Bà Trưng chống quân Đông Hán,
nhân dân ta - đặc biệt là giới phụ nữ, tự hào về tổ tiên mình, sẵn sàng hy sinh
cứu nước. Ngày hội đền Kiếp Bạc, báo ôn lại những trang sử oanh liệt đời Trần
chống quân Nguyên, đặc biệt là về bài học toàn dân nhất trí quyết tâm đánh đuổi
kẻ thù là một nhân tố cơ bản giành thắng lợi (số 15 ngày 30-11-1944); ngày 5
tháng giêng, nhớ đến chiến thắng lẫy lừng của Nguyễn Huệ ở Đống Đa với tài thao
lược và nghệ thuật quân sự tuyệt vời, độc đáo…, rồi đến các cuộc khởi nghĩa Bắc
Sơn, Nam Kỳ, Đô Lương.
Về thời sự chính trị trong nước và thế
giới, Cứu quốc bám sát mọi diễn biến của cuộc đấu tranh chống phát xít
và tay sai. Về thế giới có mục ''Tin vắn thế giới”, ''Sóng gió năm châu”,
''Sân khấu quốc tế” viết về Anh - Mỹ mở mặt trận thứ hai; về Hồng quân Liên
Xô phòng ngự rồi phản công và tiến công như vũ bão qua các nước châu Âu, tiến
tới Béclin; về các cuộc chiến tranh chống Nhật ở Trung Quốc, Phi Luật Tân
(Philippin), Inđônêxia... Số 21, ngày 25-5-1945 đưa tin ''Toàn thể quân đội Đức
đã đầu hàng Đồng Minh không điều kiện''. Số 29, ngày 15-8-1945 đón trước thời
cơ ''Nước Nhật hàng'', có tranh minh họa ''Giặc Nhật sắp chết đuối dưới Thái
Bình Dương'' và số 30 ra gấp ngay hôm sau đưa tin Nhật đầu hàng không điều
kiện.
Song song với mọi diễn biến trên quốc tế, Cứu
quốc đưa ''Tin trong nước'' về mâu thuẫn Nhật - Pháp, về cuộc đảo
chính ngày 9-3-1945, về ''Vai hề Trần Trọng Kim ra sân khấu” (số 20,
ngày 5-5-1945) v.v..
Về tổ chức, Cứu quốc có mục ''Việt
Minh muốn tiến”, “Thống nhất Việt Minh'' (số 10, ngày 18-2-1944); “Phải
bỏ tính ỷ lại” (số 11, ngày 17-4-1944); ''Thực tâm cứu nước'' (số
12, ngày 25-6-1944); “Đội tự vệ sinh hoạt thế nào?” (số 13, ngày
20-8-1944); ''Phải kịp thi hành chỉ thị sửa soạn khởi nghĩa'' (số
14, ngày 21-10-1944; “Làm cho tổ chức hoạt động'' (số 15, ngày
30-11-1944) v.v.. hướng dẫn các sinh hoạt, làm việc, uốn nắn những quan
điểm không đúng, như các hội cứu quốc trong cùng một cấp không liên lạc
mật thiết với nhau mà thông qua cán bộ phụ trách; đoàn thể mạnh thường
bao biện công việc của đoàn thể khác; khi thi hành nghị quyết của cấp
trên thì không thống nhất, thiếu cổ vũ lẫn nhau; quan niệm phải có từ
hai đoàn thể trở lên, có Ban Chấp hành đàng hoàng rồi mới thống nhất
lên Việt Minh; phê bình những người vào tổ chức, đi họp nhưng mục đích để nghe
tin tức, khi tin tức thắng phát xít dồn dập thì vui mừng, khi bị khủng
bố thì hoang mang... Họ không nhận rõ ''Đồng minh thắng, nhưng không có
tranh đấu sinh tử của dân ta thì cách mạng không thể thành công'' (số
12) và động viên họ làm đầy đủ mọi việc của một người giác ngộ
''thực dân cứu quốc'', v.v..
Đồng chí Hoàng Văn Thụ, một trong những
người sáng lập Mặt trận Việt Minh bị sa vào tay giặc Pháp và bị tử hình.
Để tỏ lòng tưởng nhớ đến người lãnh đạo của mình, khơi sâu thêm lòng
căm giận địch và sẵn sàng chiến đấu để trả thù cho anh, Cứu quốc số
14, ngày 21-10-1944, có bài ''Chúng ta đã mất anh Hoàng Văn Thụ”.
Hội Truyền bá quốc ngữ, một tổ chức văn
hóa, giáo dục được thành lập từ năm 1938 do sáng kiến của Xứ uỷ Bắc Kỳ, tồn tại
và hoạt động hợp pháp suốt từ đó đến Cách mạng Tháng Tám. Sau cuộc hội nghị
giáo khoa, Cứu quốc số 13, ngày 30-8-1944 có bài ''Cảm tưởng của tôi
với cuộc hội nghị giáo khoa toàn quốc của Hội Truyền bá quốc ngữ”.
Báo Cứu quốc đóng vai trò đặc biệt
quan trọng trong việc tổ chức và động viên nhân dân các dân tộc trong cả nước
đứng lên chiến đấu giải phóng dân tộc, chống đế quốc phát xít Pháp - Nhật và
các hạng tay sai, các tổ chức phản động do chúng lập ra để hòng cứu vãn sự sụp
đổ của chúng.
Những bài văn nghị luận, bình luận chính
trị, các tin tức, thơ ca, v.v., mang rõ nét sắc thái cổ động khí thế chiến đấu,
kêu gọi vùng lên, không chịu cam tâm làm ngựa, trâu cho bọn xâm lược. Văn
chương viết gọn, lưu loát, hấp dẫn, sắc sảo.
Do tình hình giao thông liên lạc trong thời
kỳ chiến tranh gặp nhiều khó khăn, tình hình và tin tức từ miền Trung trở vào
không được gửi đều tới Tòa soạn của báo Cứu quốc nên Cứu quốc hầu
như chỉ bàn đến phong trào Việt Minh, chỉ đạo công tác, phản ánh tin tức đấu
tranh phần lớn từ Thanh Hóa trở ra Bắc - đó là một nhược điểm lớn.
- Cờ giải phóng:
Là ''cơ quan tuyên truyền cổ động Trung
ương Đảng Cộng sản Đông Dương''. Cờ giải phóng ra số l, ngày 10-10-1942.
Báo do Tổng Bí thư Trường Chinh trực tiếp phụ trách biên tập và là cây bút
chính luận chủ yếu, tác giả của nhiều bài chính luận, phê bình, chỉ đạo đấu tranh
và xây dựng Đảng. Giúp việc biên tập, lúc đầu có Lê Quang Đạo, Bí thư Tỉnh uỷ
Phúc Yên. Từ giữa năm 1943 trở đi có Lê Liêm, Lê Toàn Thư, v.v.. Công việc biên
tập được tiến hành ở nhiều cơ sở bí mật thuộc tỉnh Phúc Yên. Báo in litô trên
giấy xanh từ số 1 đến số 15 (ngày 17-7-1945) tại nhiều địa điểm bí mật xa Hà
Nội trên dưới l0 km. Từ số 1 đến số 10, ngày 28-1-1945, báo ra 4 trang, mỗi số
cách nhau không có kỳ hạn, số 2 cách số 1 hơn bốn tháng, từ số 3 đến số 5 cách
nhau trên dưới hai tháng; số 6 cách số 5 một tháng rưỡi v.v.. Từ số 11, ngày
25-3-1945, báo ra 2 trang và rút dần khoảng cách40.
Với tư cách là cơ quan trung ương của Đảng,
Cờ giải phóng tuyên truyền, cổ động và đấu tranh cho thắng
lợi về tư tưởng, chính trị và tổ chức theo chủ trương, đường lối của Trung ương
Đảng đề ra về các vấn đề trong nước và quốc tế.
1. Hội nghị Trung ương lần thứ tám (5-1941)
đề ra nhiệm vụ của cuộc vận động cách mạng ở Đông Dương trong thời kỳ này,
trước hết là phải giải phóng dân tộc. Ở trong nước, Nhật - Pháp cùng nhau vơ
vét của cải và áp bức tàn nhẫn nhân dân ta, đồng thời chúng lại mâu thuẫn với
nhau ngày càng sâu sắc. Nhật lấn át Pháp, trở thành kẻ thù chính, còn Pháp thì
rơi xuống địa vị đày tớ của Nhật.
Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương tháng
2-1943 nhận định: nhân dân các dân tộc ở Đông Dương không phải chỉ làm cách
mạng giải phóng dân tộc, phá tan xiềng xích của phát xít Nhật - Pháp, mà còn
có nhiệm vụ quốc tế, góp sức với Mặt trận dân chủ quốc tế chống phát xít xâm
lược, ủng hộ Liên Xô kháng chiến. Tình hình là điều kiện khách quan đặt ra vấn
đề mở rộng Mặt trận dân chủ, tranh thủ bạn đồng minh chống phát xít trên đất
Đông Dương trong những người Pháp dân chủ và Hoa kiều yêu nước. Mặt trận dân
tộc thống nhất chống phát xít Nhật - Pháp là một bộ phận của Mặt trận dân chủ
chống Nhật ở Đông Dương đồng thời là Mặt trận dân chủ quốc tế chống phát xít
xâm lược.
Đó là nghệ thuật vận dụng sách lược tài
tình dựa trên sự phân tích khoa học tình hình chính trị trong nước và quốc tế
của Đảng Cộng sản Đông Dương do Tổng Bí thư Trường Chinh viết dưới hình thức ''Vấn
đáp về chính sách của Đảng”, đăng trên Cờ giải phóng số 2, ngày
26-8-1943.
Sách lược đó, lúc đầu, không ít đảng viên
chưa nhận thức rõ. Với kinh nghiện đấu tranh chính trị từng trải, lại có thực
tiễn trực tiếp tiếp xúc bí mật với đại biểu của những người Pháp dân chủ ngay
tại Hà Nội lúc đó, ngòi bút viết văn chính luận sắc sảo của Trường Chinh trình
bày quan điểm của Đảng Cộng sản Đông Dương qua một loạt bài chung quanh vấn đề
lập Mặt trận dân chủ chống phát xít Nhật với người Pháp ở Đông Dương như ''Tiến
tới Mặt trận dân chủ thống nhất chống Nhật ở Đông Dương”, ''Chủ trương liên
minh với Pháp Đờ Gôn'' (số 3, ngày 15-2-1944); ''Vẫn chính sách
liên minh với Pháp Đờ Gôn'' (số 4, ngày 13-4-1944); ''Trở lại
chính sách liên minh với Pháp Đờ Gôn'' (số 6, ngày 28-7-1944); ''Chung
quanh chính sách liên minh với Pháp Đờ Gôn''; ''Vài câu trả lời cần thiết'' (số
9, ngày 25-12-1944); “Cái lỗi lớn của Pháp Đờ Gôn ở Đông Dương'' (số 13,
ngày 16-5-1945).
2. Cờ giải phóng vạch trần thủ đoạn
thâm độc của phát xít Nhật và bọn Việt gian tay sai của Nhật. Nhật nhất
định sẽ truất quyền của Pháp, trực tiếp vơ vét tài sản và ra sức lừa phỉnh
nhân dân ta phục vụ cho chúng kéo dài và mở rộng chiến tranh, sử dụng
bọn Việt gian theo Nhật, không thích đánh Pháp để làm cớ cho Nhật can
thiệp và đưa bọn Việt gian đó lên nắm chính quyền''. Bọn Việt gian theo
Nhật là mối nguy cho thực dân Pháp, cho nên chúng đã từng bị thực dân
Pháp khủng bố, bắt vào tù; nhưng là công cụ của Nhật, chúng bị Nhật sử
dụng tùy theo yêu cầu từng lúc, do đó cũng nhiều lần nếm mùi thất
vọng cay đắng vì bị lừa đối. Đảng Cộng sản Đông Dương kêu gọi họ kịp
thời tỉnh ngộ trở về cùng nhân dân đánh kẻ thù (số 8, ngày 10-11-1944).
Cờ giải phóng số 11, ngày 25-3-1945
có bài ''Cuộc đảo chính'' của “Nhật ở Đông Dương”, nhận định tính
chất đó là “một cuộc cướp giật mà kẻ thù chủ động là bọn đế quốc quân
phiệt Nhật'' ''mục đích mưu lợi riêng cho giặc Nhật''. Về nguyên nhân,
bài báo chỉ ra 3 điều: một là, ''hai con chó đói không thể ăn chung một
miếng mồi''; hai là, Nhật diệt Pháp trước để phòng quân Đồng minh đánh
vào, Pháp sẽ quay súng bắn Nhật; ba là, đường thủy liên lạc với thuộc
địa bị cắt đứt, Nhật phải cố bám Đông Dương làm cái cầu nối liền các
thuộc địa ở khu vực này với Nhật là con đường tiếp tế duy nhất cho các
căn cứ chiến lược của Nhật ở Đông Nam Á.
Nhật đã thay Pháp độc quyền cai trị Đông
Dương, nhưng rất lúng túng trong việc lập ra một bộ máy tay sai, vừa đưa bọn
tay sai ra, vừa phải sử dụng cả bộ máy mục nát cũ của Pháp. Khi quân Đồng minh
vào Đông Dương thì Nhật không đủ sức chống chọi với nhiều lực lượng: một số
người Pháp thừa cơ nổi dậy, nhân dân Đông Dương tiếp tục chiến đấu chống Nhật,
cùng với quân Đồng minh. Lúc này điều kiện tổng khởi nghĩa chưa thật chín muồi,
nhưng thuận lợi khách quan rất lớn đòi hỏi chúng ta phải tiến lên với những cố
gắng vượt bậc, tổ chức các uỷ ban giải phóng ở cơ sở để tập cho nhân dân nắm
chính quyền; lập các đội tuyên truyền xung phong để mở rộng mau chóng cơ sở cứu
quốc; đưa quần chúng ra biểu tình để động viên họ mạnh dạn tiến tới tổng khởi
nghĩa; đặc biệt phát triển các tổ chức nửa vũ trang và vũ trang của quần chúng
có trang bị thích hợp với mục tiêu chiến đấu rõ ràng, nhằm gấp rút tiến tới
tổng khởi nghĩa.
3. Việc chuẩn bị khởi nghĩa được
Trung ương đề ra từ giữa năm 1944. Cờ giải phóng có nhiều bài chỉ đạo
tiến hành nhiệm vụ mới mẻ, có sức động viên rất lớn đối với việc đẩy mạnh cao
trào cứu quốc đó. Công việc chuẩn bị thì nhiều, phải làm những việc gì và làm
như thế nào? Cờ giải phóng có bài “Hãy nắm lấy khẩu chính'' (số
6, ngày 23-7-1944) đề ra 5 việc cốt yếu: phát triển tự vệ và bộ đội chiến đấu;
huấn luyện cán bộ quân sự để chỉ huy các tổ chức có tính chất quân sự; sắm vũ
khí để trang bị cho tự vệ và bộ đội; vận động binh lính để lấy súng địch bắn
địch; huấn luyện chiến thuật du kích và kinh nghiệm khởi nghĩa cho cán bộ, đảng
viên và quần chúng có tổ chức. Đồng thời, bài báo đề ra cách thức tiến hành để
thực hiện 5 việc ấy, chung quy lại là: phải hăng hái giác ngộ quần chúng, phát
triển các đoàn thể cứu quốc, đẩy mạnh các cuộc đấu tranh hằng ngày. Các địa
phương phải có kế hoạch khởi nghĩa sát với địa phương mình.
V. MỘT VÀI NHẬN XÉT, KẾT
LUẬN
1. Kể từ khi báo Thanh niên do
Nguyễn Ái Quốc sáng lập, khổ nhỏ, biên tập và in số lượng ít, từ nước ngoài đưa
về trong nước, đến tháng 8-1945, chúng ta đã có trên dưới 380 tên báo và tạp
chí. Tham gia tất cả các trận chiến đấu lớn nhỏ, khi bị lùng bắt vì không
hợp pháp, xuất bản công khai nửa hợp pháp và hợp pháp, cuối cùng, báo chí cách
mạng đã giành được thắng lợi rực rỡ.
Những tờ báo và tạp chí sau đây ghi lại
những dấu ấn lịch sử:
-
Tờ báo đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam là Tranh đấu (15-8-1930).
-
Tờ tạp chí đầu tiên của Đảng là Tạp chí Đỏ (5-8-1930).
-
Tờ báo trong tù đầu tiên của những người cộng sản ở Hỏa Lò, Hà Nội, lấy tên Tù
nhân báo (3-1930), sau đổi là Lao tù tạp chí.
-
Hai tờ báo ra được nhiều số nhất đều do Nguyễn Ái Quốc sáng lập: Thanh niên,
trên 200 số và Việt Nam độc lập 126 số. Riêng thời gian có sự chỉ
đạo của Người, Thanh niên ra 88 số và Việt Nam độc lập ra trên 30
số.
-
Tờ báo đi tiên phong trong phong trào đòi tự do báo chí là Dân chúng,
cơ quan trung ương của Đảng Cộng sản Đông Dương (22-7-1938).
-
Tờ báo có số lượng in lớn nhất là Dân chúng, số Xuân 1939 in tới 15.000
bản.
-
Tờ báo cách mạng ra bằng chữ dân tộc thiểu số đầu tiên là Lắc Mương, cơ
quan của Hội người Thái cứu quốc ở tỉnh Sơn La.
-
Hai tờ báo có nhiều cống hiến nhất vào việc tổ chức lãnh đạo Cách mạng Tháng
Tám năm 1945 thắng lợi là Cờ giải phóng và Cứu quốc (1942 –
1945).
2. Báo chí cách mạng tuyên truyền chủ nghĩa
Mác – Lênin - một học thuyết có sức sống trong thực tiễn đấu tranh của các dân
tộc ở Đông Dương, có khả năng kết hợp nhuần nhuyễn giữa đặc điểm hiện tại với
truyền thống lịch sử dân tộc.
Những văn bản quan trọng của Quốc tế Cộng
sản và các tổ chức trực thuộc quốc tế và cách mạng thế giới, về khu vực thuộc
địa, đặc biệt là về cách mạng Đông Dương đều được giới thiệu, trích dịch hoặc
đăng bản dịch toàn văn lên các báo chí cách mạng của ta cho toàn Đảng và quần
chúng biết, phối hợp hành động, ủng hộ cách mạng quốc tế.
Ngay từ đầu, báo chí đã tuyên truyền cho
Liên Xô, Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Nhiều nghị quyết của đại hội và hội nghị của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô được trích đăng; nhiều bài báo
tuyên truyền cho sự gắn bó giữa cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam với giai
cấp công nhân và Đảng Cộng sản Pháp là những người bạn chiến đấu ở ngay trong
lòng kẻ thù trực tiếp của nhân dân ta; gắn bó với phong trào giải phóng dân tộc
các nước, trước hết là phong trào giải phóng dân tộc ở các nước châu Á và các
thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc Pháp; gắn Mặt trận Dân chủ Đông Dương với Mặt
trận dân chủ thế giới chống phát xít.
Với sự tin cậy và yêu mến Liên Xô nhiệt
thành, nhân dân ta vui mừng trước những thành tựu vẻ vang về mọi mặt của người
anh cả vĩ đại, coi đó là nguồn động viên lớn, là niềm hy vọng mãnh liệt vào
tương lai cách mạng nước mình tiến lên theo con đường của Cách mạng Tháng Mười,
của kinh nghiệm có ý nghĩa quốc tế của Liên Xô trên con đường xây dựng chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Tất cả được thể hiện đậm nét và thường
xuyên trên báo chí.
Tuyên truyền cho mục đích cuối cùng là xây
dựng chủ nghĩa cộng sản Việt Nam, vạch rõ đó là quy luật phát triển tất yếu của
xã hội Việt Nam, đồng thời làm sáng tỏ hai giai đoạn chiến lược và mục tiêu
chiến lược của mỗi giai đoạn để đi tới mục đích cuối cùng.
Báo chí cổ động thực hiện các khẩu hiệu
hành động trong từng thời kỳ lịch sử cụ thể, đoàn kết toàn dân, bênh vực quyền
lợi hằng ngày cho nhân dân, trước hết là công nông, đồng thời chú ý đến quyền
lợi chính đáng của các tầng lớp khác trong xã hội; báo chí tuyên truyền cho các
quyền tự do dân chủ... Bằng việc giải thích chủ trương của Đảng và mặt trận về
những hoạt động cụ thể của nơi này, nơi khác giành được thắng lợi hay uốn nắn
những lệch lạc ''tả'', hữu khuynh, đã động viên quần chúng dũng cảm xông lên,
thuyết phục người lầm đường, trừng trị kẻ phản bội, đẩy lùi kẻ thù, giành thắng
lợi từng bước, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.
Báo chí phục vụ cho nhiệm vụ xây dựng Đảng
Cộng sản về tư tưởng, chính trị và tổ chức, đấu tranh cho Đảng thống nhất và
tập trung, bônsơvích hóa, chống tư tưởng địa phương, cục bộ, vô tổ chức, biệt
phái, đề cao tự phê bình và phê bình, nâng cao trình độ lý luận Mác - Lênin,
liên hệ chặt chẽ với quần chúng; xây dựng các đoàn thể quần chúng cho phù hợp
với tình hình chính trị từng thời kỳ, mang tính giai cấp và tính quần chúng
đông đảo; coi trọng Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế, tranh thủ xây dựng lực
lượng ngay cả trong tổ chức của địch, như Viện Dân biểu, v.v..
Về chữ nghĩa, nhiều tờ báo của chúng ta
thường viết không đầy đủ, như ''cơ quan tuyên truyền'' hoặc ''cơ quan tuyên
truyền cổ động'', nhưng thực tế, các tờ báo đều làm đủ chức năng của báo chí
cách mạng là tuyên truyền, cổ động và tổ chức tập thể.
3. Báo chí cách mạng tuyên truyền những
luận điểm của Nguyễn Ái Quốc về cách mạng Việt Nam thể hiện trong đường lối
chính trị của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và Đảng Cộng sản dưới hình thức
nghiên cứu lý luận, lịch sử hay bằng văn học, nghệ thuật, tin tức thời sự, công
khai trực tiếp hay kín đáo, gián tiếp. Từ khi Đảng Cộng sản ra đời, các
báo chí cách mạng đều đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, của Trung ương
hay các cấp uỷ địa phương, do một, hai Uỷ viên Trung ương hay Xứ uỷ, Tỉnh uỷ
trực tiếp chỉ đạo biên tập hoặc thông qua một số cán bộ do Đảng chỉ định để bảo
đảm cho quan điểm của Đảng được thấu suốt, không để cho một cá nhân, một nhóm
nhỏ nào có ý đồ lợi dụng báo chí phục vụ cho lợi ích riêng biệt của họ.
Tuy vậy, trong một số trường hợp, trên một
số tờ báo có lúc không quán triệt nguyên tắc trên đây, đã phạm phải sai lầm.
Trên mặt báo, có khi xuất phát từ sai lầm trên một số chủ trương cụ thể; cũng
có khi chủ trương đúng nhưng ''nhà báo'' nắm chưa chắc nên thể hiện có phần
lệch lạc. Và cũng có trường hợp do sự phát triển của tình hình đấu tranh chính
trị phức tạp, một số cán bộ thiếu sáng suốt, chưa chủ động nhận ra vấn đề, hay khi
đã có đường lối rồi nhưng vì kiêu ngạo, ý thức tổ chức và kỷ luật chưa tốt, nên
viết bài mang dấu vết cá nhân, trái với quan điểm của Đảng, gây ảnh hưởng không
tốt cho Đảng và trong quần chúng, thiệt hại cho cách mạng. Trong lịch sử đã xảy
ra ba thời điểm như giữa Thanh niên và Búa liềm, năm 1929; giữa Tạp
chí Đông Phương và Dân chúng, năm 1939; giữa Tiền phong và Giải
phóng, năm 1945.
Đảng Cộng sản Đông Dương nhận định chính
xác về những sai lầm của các phái tơrốtxkit ở Việt Nam trên các mặt tư tưởng, lý
luận, chiến lược và sách lược cách mạng Việt Nam và phong trào cộng sản quốc tế
từ năm 1930. Khi Quốc tế Cộng sản, Đảng Cộng sản Liên Xô và một số Đảng Cộng
sản nói tơrốtxkit là tay sai của chủ nghĩa phát xít, Đảng Cộng sản Đông Dương
cũng nói tơrốtxkit ở Việt Nam là tay sai của đế quốc Pháp và phát xít Nhật.
Thực tế lịch sử cho ta biết nhận định ấy không hoàn toàn đúng ở Việt Nam. Sau
cuộc đại khủng bố của chính quyền thực dân phát xít hóa năm 1939, một số
tơrốtxkit vào tù, đi đày tập trung ở trại; một số trốn chạy về các vùng nông
thôn ẩn mình. Ra tù do hết hạn hoặc được Nhật tha sau ngày 9-3-1945, tơrốtxkit
cũng không làm tay sai cho Nhật, Huỳnh Văn Phương, một phần tử tơrốtxkit có tên
tuổi, làm Phó Giám đốc Công an Nam Bộ dưới quyền điều khiển của Nhật sau ngày
9-3-1945, nhưng có liên lạc với cách mạng, đưa nhiều vũ khí của Nhật, cung cấp
tin tức mật của chúng cho ta.
Một vài tờ báo của địa phương đôi khi không
thấu suốt chủ trương của Đảng trên một số bài vở, chủ yếu là do sự hạn chế
trình độ và điều kiện địa phương giới hạn tầm nhìn quá trình diễn biến của cách
mạng trong cả nước, nên đã tuyên truyền cho những vấn đề của mình đề ra, khác
với trung ương.
Quán triệt tính Đảng, đứng vững trên lập
trường giai cấp vô sản, vì lợi ích của quần chúng, nên báo chí cách mạng đã say
sưa, nhiệt tình giáo dục, thuyết phục quần chúng tiến lên dưới ngọn cờ của Đảng
Cộng sản, phân biệt rõ con đường cách mạng của giai cấp vô sản và con đường của
Việt Nam Quốc dân Đảng, của các nhóm tư sản và tiểu tư sản nhất định sẽ phá
sản; nhận rõ con đường cách mạng chân chính của Đảng Cộng sản và những thủ đoạn
cách mạng giả dối, lừa bịp của phái tơrốtxkit; chống hành vi đầu hàng,
tiêu cực, trốn đấu tranh vì khiếp sợ vũ lực tàn bạo của kẻ thù. Báo chí vừa
phản ánh tình hình các cuộc đấu tranh diễn ra hằng ngày, vừa tổng kết những
cuộc đấu tranh lớn có tổ chức và chỉ đạo, biểu dương thành tích, hướng dẫn phát
huy khí thế, đồng thời uốn nắn những lệch lạc, chỉ dẫn cách khắc phục khuyết
điểm. Báo chí không ngừng phơi bày những mâu thuẫn, thối nát của xã hội thuộc
địa, nửa phong kiến đương thời, vạch trầu bản chất dã man, hung bạo của kẻ thù,
trình bày đúng sức mạnh của phong trào cách mạng và những nhược điểm cần khắc
phục để đưa cuộc đấu tranh vượt qua mọi trở ngại, tiến hành đánh đổ quân thù,
giành thắng lợi hoàn toàn cho cách mạng.
4. Kẻ thù của cách mạng rất sợ báo chí cách
mạng. Chúng tìm mọi thủ đoạn mong bẻ gãy nó bằng các sắc lệnh, nghị định báo
chí nghiệt ngã, phản động; huy động cả bộ máy khổng lồ mong đè bẹp nó; đồng
thời hình thành một hệ thống báo chí phản động với hàng trăm tờ; tăng cường mật
thám, quân đội, tòa kiểm duyệt, quản lý giấy, mực in, v.v.. Nhưng tất cả chỉ
gây cho chúng ta khó khăn, thiệt hại nhất thời. Người chiến thắng vẫn là báo
chí cách mạng, kẻ thất bại chính là đế quốc và tay sai.
Trong 20 năm (1925 - 1945) có l7 năm báo
chí cách mạng xuất bản trong vòng bí mật, bất hợp pháp. Có 3 năm trong thời kỳ
vận động dân chủ, căn bản là nửa hợp pháp, đôi khi mang tính hợp pháp nhưng
phải sử dụng nghệ thuật đấu tranh rất khéo léo mới tồn tại được và luôn luôn bị
địch khủng bố, khám xét, gây trở ngại, tịch thu báo và cả tài sản của báo, cuối
cùng là ra lệnh cấm.
Đến thời kỳ tiền khởi nghĩa năm 1945, báo
chí cách mạng vẫn là bất hợp pháp nhưng lại công khai trước quần chúng ở những
''tổng hoàn toàn'', ''châu hoàn toàn'', ở các khu giải phóng, những nơi giáp đô
thị nhưng chính quyền địch đã tê liệt trước cao trào quần chúng và Việt Minh đã
nắm quyền quản lý mọi việc chính trị - xã hội ở địa phương.
Ngay trong thời kỳ vận động dân chủ, những
vũ khí do tự tay chúng rèn để chống lại báo chí cách mạng đã giảm hiệu lực, và
có những đòn chúng không đỡ nổi do chúng ta sử dụng ngay vũ khí của chúng để
chống lại chúng: ra báo tiếng Pháp; lợi dụng báo chí đã được phép từ trước
chuyển thành báo chí cách mạng và xin phép một đường, ra báo một nẻo. Sở dĩ có
tình trạng đó là do có cao trào cách mạng của quần chúng làm chỗ dựa, có sự chỉ
đạo tài tình của Đảng, khéo phát hiện và lợi dụng nhược điểm của địch để đánh
địch.
Báo chí cách mạng đấu tranh gay gắt với kẻ
địch đang nắm chính quyền, do đó không thể tuân theo những nguyên tắc thông
thường, hướng dẫn theo sách vở về tính định kỳ xuất bản cũng như tính thời sự
nhanh chóng, nhạy bén với tình hình được: định kỳ nhiều khi phá vỡ, ''tin'' bị
chậm trễ vì phương tiện đưa tin và nhận tin bằng kỹ thuật hiện đại nhiều khi
không có...
Người Việt Nam sẵn có lòng yêu nước trong
dòng máu, do tổ tiên để lại. Sức hấp dẫn lớn của báo chí đôi với người đọc là
những bài vở sôi sục tinh thần yêu nước, kích thích lòng tự hào dân tộc truyền
thống. Tư tưởng yêu nước theo tinh thần cộng sản chủ nghĩa được thể hiện từ báo
Thanh niên buổi ban đầu, dần dần lôi cuốn cả dân tộc vào trận tuyến cách
mạng, tập hợp trong Mặt trận dân tộc thống nhất chống đế quốc dưới ngọn cờ của
Đảng Cộng sản. Chủ nghĩa yêu nước đó xa lạ với chủ nghĩa yêu nước bài ngoại, kỳ
thị chủng tộc của phong kiến và tư sản, vì nó kết hợp tài tình lợi ích dân tộc
với lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc ta với lợi ích của các lực lượng chống
chủ nghĩa đế quốc trên thế giới.
Báo chí cách mạng cổ vũ tinh thần yêu nước
hiện đại đó một cách say sưa, nhưng cũng có lúc vì nhận thức không rõ, sợ nói
yêu nước là không ranh giới với chủ nghĩa quốc gia tư sản, cho nên giáo dục
truyền thống yêu nước bị coi nhẹ. Các anh hùng cứu nước trong lịch sử dân tộc
không được kỷ niệm trên trang báo suốt từ năm 1930 đến năm 1939, tuy vẫn giương
cao ngọn cờ độc lập dân tộc, một mục tiêu chiến lược của cách mạng nước ta. Đó
cũng là một nhược điểm trong việc đoàn kết, tổ chức mọi nhân nhân tố chống kẻ
thù và cũng có lúc kẻ thù lợi dụng nhược điểm đó để lừa gạt quần chúng.
5. Những chiến công to lớn, thành tích vẻ
vang và trưởng thành nhanh chóng của báo chí cách mạng là nhờ có:
a) Đường lối chiến lược, phương pháp cách
mạng và cả những chủ trương đấu tranh cụ thể do Đảng Cộng sản đề ra là đúng đắn
và sáng tạo, chỉ đạo mọi công tác của Đảng, trong đó có lĩnh vực tuyên truyền,
báo chí. Báo chí đã bám sát sự lãnh đạo của Đảng, phối hợp đấu tranh trên báo
chí với các hình thức và phương pháp đấu tranh khác, phục vụ đắc lực cho sự
nghiệp cách mạng.
Đảng có những chỉ thị, nghị quyết riêng về
báo chí, đánh giá tình hình, phân tích ưu điểm và khuyết điểm, chỉ ra nhiệm vụ
cụ thể cho báo chí hoạt động trong mỗi bước đi.
b) Các đồng chí lãnh đạo chủ yếu của Đảng
rất quan tâm đến báo chí, trực tiếp quyết định ra báo, viết bài và sửa bài, tổ
chức in và phát hành. Tấm gương của Hồ Chí Minh đối với báo chí được các đồng
chí Trần Phú, Lê Hồng Phong, Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy Tập, Phan Đăng Lưu, Trường Chinh
v.v. ra sức học tập và đều là những cây bút xuất sắc của báo chí cách mạng.
Đó là một trong những nhân tố bảo đảm cho
báo chí giữ vững tính Đảng và chất lượng của các bài vở, nhất là những bài mang
tư tưởng chỉ đạo, vạch rõ phương châm, đường lối hành động, đồng thời cũng cổ
vũ, tổ chức, bồi dưỡng cho các cán bộ tham gia làm báo.
c) Báo chí cách mạng được toàn thể đảng
viên và quần chúng ủng hộ. Từ việc các cơ sở cách mạng hết sức đùm bọc, giữ bí
mật, nuôi cán bộ viết báo, đến việc tìm mua phương tiện in báo, tổ chức cất
dấu, phát hành, sẵn sàng chủ động đối phó khi địch phát hiện, không làm lộ bí
mật báo chí của ta.
Các cán bộ và quần chúng còn đóng góp vào
việc cung cấp tin tức, tình hình, vận động người đọc báo, góp tiền mua báo, ủng
hộ báo... làm mọi việc để cho tờ báo sống, gắn bó với phong trào từ nội dung
đến hình thức, đáp ứng đúng những suy nghĩ về yêu cầu của quần chúng. Quần
chúng mong đợi báo sớm về, đem lại những điều mới mẻ, bổ ích mà cuộc
sống không thể thiếu được.
d) Sự cố gắng phấn đấu và trưởng thành của
những cán bộ làm báo, dù là kiêm nhiệm, nửa chuyên nghiệp hay chuyên nghiệp. Họ
lo lắng cho tờ báo làm sao ngày càng phục vụ tốt hơn, bài viết hay hơn, trình
bày đẹp hơn, có nhiều thể loại cho sức hấp dẫn ngày càng tăng. Mặc dù không được
học hỏi về chuyên môn, ngay cả tài liệu tham khảo, học tập ở nước ngoài hầu như
không có. Nhưng qua thực tiễn công tác, tự rút kinh nghiệm để cải tiến, không
ngừng nâng cao chất lượng. Họ là những chiến sĩ cách mạng tham gia làm báo, nên
một lòng một dạ phục vụ nhân dân, chịu đựng gian khổ, sẵn sàng hy sinh vì sự
nghiệp báo chí cách mạng, do đó giàu sáng kiến, sẵn sang đảm nhiệm mọi khâu
trong quá trình hình thành tờ báo cho đến tay người đọc. Họ không có tổ chức
nhà báo, nhưng ai cũng đều có tổ chức, trong chi bộ đảng, trong đoàn thanh
niên, hội phụ nữ, hội văn hóa, v.v.. Đó là trường học chính trị để bồi dưỡng,
nâng cao trình độ và lập trường, quan điểm cho họ và thông qua họ mà nâng cao
chất lượng tờ báo.
20 năm đầu của lịch sử báo chí cách mạng
thật là phong phú. Nó để lại một di sản truyền thống chiến đấu, một nghiệp vụ
báo chí vô sản, một lực lượng cán bộ làm báo vô cùng quý báu cho thế hệ báo chí
sau khi giành được chính quyền năm 1945.
__________
1.Anbe Xarô: Việc khai thác các thuộc địa
Pháp, Ed Payot et Compagnie, Pari, 1923, tr.463 (tiếng Pháp).
2. Sắc lệnh ngày 25-5-1881 của Tổng thống
Pháp ký quy định người Việt cư trú ở Nam Kỳ được hưởng mọi quyền công dân như
người Pháp trên đất Pháp.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.1, tr. 404.
4. Đây là nói tới măng sét một số tờ báo
gốc, biết được qua bản chụp. Còn những tờ khác, măng sét có thay đổi không thì
chưa rõ, vì không có bản chụp, chỉ biết nội dung các bài qua bản dịch ra chữ
Pháp của cơ quan mật thám Pháp hoặc dịch lại từ tiếng Pháp sang tiếng Anh của
người nghiên cứu và luận án khoa học.
5. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện
Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t.1, tr.373.
6. Báo Thanh niên ra số cuối cùng là số bao
nhiêu, ngày, tháng, năm nào, đến nay chưa được xác định rõ. Huỳnh Kim Khánh
viết trong sách: Chủ nghĩa cộng sản Việt Nam: giai đoạn trước khi giành chính
quyền (1925-1945), Canađa, 1972 (tiếng Anh) cho rằng báo Thanh niên ra được tất
cả 208 số, tính đến tháng 5-1930 (tháng 5, được tác giả đánh dấu hỏi, đặt trong
ngoặc đơn, trang 70, có ý là còn ngờ vực). Ở đây có sự không hợp lý và mâu
thuẫn, ở trang 83 viết: đã giải thể tổ chức Hội Thanh niên. Tổ chức không còn
mà báo lại vẫn xuất bản?
Một tuần báo xuất bản ở Hà Nội mới đây
viết: báo Thanh niên xuất bản đến ngày 14-2-1930. Điều này chưa rõ.
Ở Aixăng Prôvăngxơ, trong kho lưu trữ của
Pháp, có bản dịch ra chữ Pháp đến số 197, ngày 25-11-1929, không có văn bản nào
nói đây là số cuối cùng hay còn tiếp tục xuất bản đến bao giờ.
7. Báo Thanh niên, số 63, ngày
3-10-1926.
8. Báo Thanh niên, số 2, ngày
28-6-1925.
9. Báo Thanh niên, số 66, ngày
24-4-1926.
10,11,12. Báo Thanh niên, số 67,
ngày 31-10-1926.
13. Cụ Nguyễn Văn Hoan, lão thành cách
mạng, tìm ra năm 1958, từ kho hồ sơ của Pháp.
14. Ở đây là bản in lại toàn văn bài báo,
toàn bộ trang nhất và tiếp ở trang sau. Để tôn trọng tính lịch sử, chúng tôi in
nguyên văn, chỉ đổi những chữ k, f, z thành c, ph, d; những chữ viết tắt thì
viết rõ (ví dụ: KS = cộng sản…); về chính tả; dam (cầm), sửa lại là giam.
15. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,
t.6, tr. 155-156.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện
Đảng toàn tập, Sđd, t.1, tr. 12-13.
17. Nhiều sách báo viết, các nhà tù chính
trị, tù cộng sản ở các nước có viết sách, làm thơ, nhưng hầu như không làm báo,
tạp chí là không đúng. Ở Việt Nam, một số nhà tù đã chủ trương làm báo chí từ
những năm 1932 – 1933. Năm 1935, theo một số tài liệu ở nước ngoài, ở Bồ Đào
Nha cũng xuất bản báo trong tù của người cộng sản.
18. Đại biểu Quốc tế là Nguyễn Ái Quốc,
“đại biểu của đại biểu Quốc tế” là bốn đại biểu dự hội nghị hợp nhất: Trịnh
Đình Cửu, Nguyễn Thiệu, Châu Văn Liêm, Nguyễn Đức Cảnh (viết theo “Báo cáo
tường thuật về hội nghị hợp nhất ở Hương Cảng năm 1930” của Trịnh Đình Cửu và
Nguyễn Thiệu gửi đồng chí Trường Chinh, ngày 17-11-1959).
19. Bảo tàng cách mạng Việt Nam lưu được
các bản gốc bằng chữ quốc ngữ và chữ nôm, cùng bản dịch chữ Pháp từ kho hồ sơ
của Pháp, do cụ Nguyễn Văn Hoan tìm ra từ năm 1958.
20. Báo Con đường chính được viết
theo bài nói chuyện của Trường Chinh nhân dịp thăm cơ quan Tạp chí Học tập
ngày 29-12-1959, và hồi ký của đồng chí Đặng Việt Châu, nguyên Phó Thủ tướng
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (chưa xuất bản).
21. Kể cả các nhà tù đày ở Đông Dương và
Inini, nhà tù trên đất Guyan thuộc Pháp (Guyane francaise) ở Nam Mỹ, Tạp chí
Đông phương, số 4, ngày 1-4-1939.
22. Báo Bạn dân, số 19, ngày
8-9-1937.
23. Điều 2: không được công bố các tờ báo
hay ấn phẩm định kỳ ở Đông Dương bằng chữ Việt Nam, Trung Quốc hay bất cứ một
thứ tiếng nước ngoài nào khác nếu không có nghị định của Toàn quyền, sau khi đã
hỏi ý kiến bộ phận thường trực của Thượng Hội đồng Đông Dương.
24. Xem Báo Tin tức, số 11, từ ngày
18 đến ngày 25-6-1938.
25. Vấn đề này sẽ được trình bày rõ trong
mục “Báo chí cách mạng” ở dưới.
26. ARIP là chữ đầu của cụm từ Agene
radiotélégraphique de l’Indochine et du pacifique (Hãng Vô tuyến truyền
thanh Đông Dương và Thái Bình Dương).
27. Xem Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại,
Nxb. Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1978, t.1, tr. 56-57.
28. Nay là số 16b, phố Đường Thành, Hà Nội.
29. Viết tắt của Cerele Sportif ânnmite =
Câu lạc bộ thể dục, hiện nay là Câu lạc bộ quân đội, đường Hoàng Diệu.
30. Hiện nay là số 48, phố Quán Sứ, Hà Nội.
31. Thời thế lúc này chưa phải là
báo cách mạng.
32. Sau Trần Văn Hiển bị mật thám Pháp bắt,
đầu hàng và khai báo.
33. Nhà văn Thiếu Sơn về sau tiến bộ, có
tham gia kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
34. Báo Ngày nay, số 5, ngày 2-6-1945.
35. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện
Đảng toàn tập, Sđd, t. 7, tr.60.
36. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện
Đảng toàn tập, Sđd, t. 7, tr.126.
37. Xin đọc đoạn Bác Hồ kể chuyện làm báo
Việt Nam độc lập, trong bài nói chuyện tại Đại hội lần thứ II của Hội Nhà báo
Việt Nam, ngày 16-4-1959.
38. Có những số in nhầm: số 118, ngày 10-2-1942,
lại có số 118 ngày 11-2-1942. Số 153 đáng lẽ ngày 21-2-1943, in nhầm là
ngày 11-2-1943, trùng với số 152; số 166 đáng lẽ là ngày 21-7-1942, in nhầm là
ngày 1-8-1943, trùng với số 170; 179 ngày 1-11-1943, đến số 180 viết ngày
10-10-1943 và số 181, ngày 20-10-1943 là nhầm. Có thể là ngày 10 và 20-11 hay
ngày 11 và 21-11-1943 thì đúng.
39. Về sau, báo thêm chữ Tuyên truyền,
thành: Cơ quan tuyên truyền cổ động của Việt Nam độc lập đồng minh.
40. Báo Cờ giải phóng trong thời kỳ
xuất bản công khai ở Hà Nội vẫn do Tổng Bí thư Trương Chinh trực tiếp chỉ đạo,
ra đến số 33, ngày 18-11-1945 với danh nghĩa “Cơ quan tuyên truyền cổ động
trung ương của Đảng Cộng sản Đông Dương”. Đến khi Trung ương quyết định Đảng
chuyển vào hoạt động bí mật, ra tuyên bố “tự giải tán”, thì Cờ giải phóng
ngừng xuất bản. Ngày 5-12-1945, Sự thật ra số 1, là “cơ quan của Hội
Nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương” thay thế.
CHƯƠNG II
BÁO CHÍ CÁCH MẠNG
VIỆT NAM THỜI KỲ 1945 - 1954
I- BỐI CẢNH LỊCH SỬ THỜI
KỲ 1945 - 1954
1. Những sự kiện lớn trên thế giới ảnh
hưởng đến sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc của Việt Nam
Lịch sử nhân loại trong những năm 1945 đến
1954 là một thời kỳ sôi động với nhiều sự kiện to lớn và những diễn biến mới
mẻ, tạo nên sự thay đổi đặc biệt về chính trị, có ảnh hưởng to lớn đến công
cuộc kháng chiến, kiến quốc của nhân dân nói chung và sự phát triển của nền báo
chí cách mạng Việt Nam nói riêng.
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc thực
sự trở thành một bài học thức tỉnh cả nhân loại về sự cần thiết ngăn chặn những
cuộc chém giết tàn bạo, đồng thời cũng trở thành một điểm mốc đánh dấu một giai
đoạn phát triển mới trong lịch sự loài người. Từ ngày 1-9-1939, khi phát xít
Đức tấn công Ba Lan đến ngày 2-9-1945, phát xít Nhật ký văn kiện đầu hàng vô
điều kiện, Chiến tranh thế giới thứ hai kéo dài vừa 6 năm. 72 quốc gia trên thế
giới đã huy động hơn 110 triệu người vào cuộc chiến tranh. Bom, đạn, xe tăng đã
tàn phá hàng nghàn thành phố làng mạc. Hơn 50 triệu người kể cả lực lượng vũ
trang và thường dân đã chết, trong đó có 20 triệu người Liên Xô. Chiến tranh
thế giới thứ hai kết thúc cũng đồng thời kết liễu chủ nghĩa phát xít - nguyên
nhân dẫn đến những hành động tàn sát dã man, đe dọa cuộc sống hòa bình của
nhiều quốc gia, dân tộc. Sự kết thúc của chiến tranh thế giới thứ hai đồng thời
tạo ra cơ hội cho các quốc gia dân tộc bị áp bức trong đó có Việt Nam, vùng lên
đấu tranh đánh đổ kẻ thù xâm lược, giành tự do, độc lập.
Ở khu vực châu Âu, một loạt nước như
Bungari, Hunggari, Tiệp Khắc, Ba Lan, Rumani, Nam Tư, sau khi giải phóng khỏi
ách chiếm đóng của phát xít Đức đã đi theo con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đặc biệt, sau khi nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời (1-10-1949), thế giới
đã hình thành một hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa. Sự ra đời hệ thống các nước
xã hội chủ nghĩa dẫn tới sự hình thành một thế giới gồm hai phe đối lập nhau.
Sự hình thành hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa cùng những thành tựu mà nó đạt
được, đặc biệt là để giải quyết các vấn đề xã hội đã tạo ra chỗ dựa về tinh
thần và lực lượng cho các dân tộc bị áp bức vùng lên giải phóng khỏi ách thống
trị, cho nhân dân lao động tại các nước đế quốc tư bản chủ nghĩa đấu tranh
giành lấy quyền lợi chân chính của mình. Ở các nước châu Á như Lào, Campuchia,
Inđônêxia, Mianma, Philíppin, Malaixia, Ấn Độ, Xiri, Li băng v.v. nhân dân đứng
lên đấu tranh chống bọn thực dân đế quốc phương Tây, đòi độc lập. Cuộc đấu
tranh giải phóng cũng bùng lên ở Angiêri, Mađagatxca và nhiều nước ở
châu Phi, Mỹ La tinh. Quy mô của các cuộc đấu tranh giải phóng ngày càng
rộng và tính chất cũng ngày càng quyết liệt ở nhiều nước, Đảng Cộng sản đã giữ
vai trò lãnh đạo, tạo ra sức mạnh mới của phong trào. Toàn bộ hệ thống thuộc
địa trên thế giới bị rung động và tan rã từng mảng. Lực lượng của các nước đế
quốc thực dân bị suy yếu, dàn mỏng.
Ở châu Âu, nền kinh tế của các nước tư bản
chủ nghĩa bị tàn phá, nhân dân bị bóc lột nặng nề, cuộc sống của các tầng lớp
lao động càng thêm khó khăn. Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân ở các nước
tư bản trong giai đoạn này tuy chưa mạnh mẽ và liên tục nhưng đã có sự phát
triển mới với sự gắn bó giữa mục tiêu kinh tế, dân sinh với tự do và các đòi
hỏi dân chủ.
Mặc dù tiêu tốn 270 tỷ USD và 350 000 người
chết trong Chiến tranh thế giới thứ hai nhưng nước Mỹ không hề bị tàn
phá và các tập đoàn tư bản Mỹ lại giàu lên do buôn bán vũ khí. Với vũ khí hạt
nhân và một nền kinh tế mạnh, Mỹ ráo riết thực hiện âm mưu bá chủ thế giới. Một
mặt, Mỹ nhảy vào chiếm đóng hoặc khống chế một số vị trí chiến lược trên bản đồ
chính trị thế giới, đưa ra kế hoạch Marshall, thực hiện chiến lược toàn cầu
nhằm ngăn chặn sự phát triển của chủ nghĩa cộng sản và phong trào giải phóng
dân tộc. Chính trong khuôn khổ chiến lược đó, từ năm 1950, Mỹ bắt đầu can thiệp
trực tiếp vào Việt Nam thông qua việc hoạch định kế hoạch chiến tranh, cung cấp
tiền và vũ khí cho quân đội thực dân Pháp.
Nước Pháp ra khỏi Chiến tranh thế giới thứ
hai với tình hình chính trị rối ren, nền kinh tế suy yếu lại phải cùng một lúc
đối phó với phong trào giải phóng dân tộc ở Đông Dương, Xi ri, Libăng, Angiêri,
Mađagatxca v.v... Tuy nhiên, bọn thực dân phản động Pháp vẫn nung nấu âm mưu và
tìm cách quay trở lại xâm lược Đông Dương một lần nữa nhằm giành lại quyền lợi
kinh tế bị mất và vơ vét của cải, tài nguyên phục vụ cho việc khôi phục kinh tế
chính quốc.
Nhìn một cách tổng thể, đặc điểm nổi bật
đầu tiên của tình hình quốc tế sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến năm 1954 là
ba dòng thác cách mạng có bước phát triển mới. Lực lượng cách mạng xã hội chủ
nghĩa đã hình thành một phe lớn mạnh. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc
bùng lên khắp các châu lục, làm rung chuyển toàn bộ hệ thống thuộc địa. Ngay
trong lòng các nước đế quốc, phong trào đấu tranh đòi quyền lợi kinh tế, dân
sinh, dân chủ cũng phát triển mạnh và thúc đẩy những cải biến xã hội quan trọng.
Đặc điểm thứ hai của tình hình quốc tế thời
kỳ này là thế giới bắt đầu bước vào cuộc chiến tranh lạnh với sự đối đầu, giằng
co giữa hai phe. Các lực lượng đế quốc phản động do Mỹ cầm đầu buộc phải co cụm
lại, dựng nên các rào chắn trọng yếu để ngăn chặn làn sóng cách mạng tiến bộ
đang dâng cao. Phe xã hội chủ nghĩa lớn mạnh, hình thành một hệ thống thế giới,
trở thành chỗ dựa về tinh thần và sức mạnh cho cuộc đấu tranh của nhân dân lao
động ở các nước đế quốc và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa.
Sự đối đầu giữa hai phe xã hội chủ nghĩa và đế quốc chủ nghĩa trở thành một đặc
điểm nổi bật, ảnh hưởng đến toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại trong phần còn
lại của thế kỷ XX.
2. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và công
cuộc bảo vệ nền độc lập những năm 1945 – 1946
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi đã
mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam, tạo ra những tiền đề
quyết định cho sự nghiệp giành độc lập, tự do cho dân tộc, thống nhất hoàn toàn
và xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Đảng Cộng sản Việt Nam do
Hồ Chí Minh sáng lập, rèn luyện từ hoạt động bí mật đã trở thành Đảng cầm
quyền, giữ vững và không ngừng phát huy vai trò lãnh đạo trong xã hội, được các
tầng lớp nhân dân tin yêu và ủng hộ. Lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc của
nhân dân đã được cổ vũ, trở thành một nguồn lực mạnh mẽ trong công cuộc giữ
vững các thành quả cách mạng, đấu tranh chống kẻ thù xâm lược.
Tuy nhiên, bối cảnh chính trị-xã hội sau
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 cũng đặt chính quyền nhân dân non trẻ trước những
thử thách vô cùng khó khăn. Cùng một lúc, ba thứ giặc giặc đói, giặc dốt, giặc
ngoại xâm đe dọa nền độc lập mà dân tộc ta vừa giành được.
Cùng với nạn đói, nạn dốt là sự bao vây,
chống phá của thù trong, giặc ngoài. Ở miền Bắc, gần 20 vạn quân ô hợp của
Tưởng Giới Thạch dưới danh nghĩa quân Đồng minh tràn vào để tước vũ khí quân
đội Nhật. Tuy nhiên, mục tiêu chính của đội quân này là: Tiêu diệt Đảng ta, phá
tan Việt Minh, giúp bọn phản động Việt Nam đánh đổ chính quyền nhân dân, để lập
một chính phủ phản động làm tay sai cho chúng1. Những tổ chức
phản động người Việt lưu vong ở Trung Quốc, tập hợp trong các tổ chức ''Việt
Nam Quốc dân Đảng'' do Võ Hồng Khanh cầm đầu và ''Việt Nam cách mạng đồng chí
hội'' do Nguyễn Tường Tam cầm đầu, theo chân đội quân của Tưởng Giới Thạch kéo
về nước. Dưới ô che của quân Tưởng, bọn chúng chiếm giữ và lập ra chính quyền ở
một vài địa phương, tuyên truyền lôi kéo nhân dân, chống phá cách mạng, cướp
bóc khủng bố gây rối trật tự xã hội. Ở phía Nam, quân Anh kéo vào với danh
nghĩa lực lượng Đồng minh giải phóng quân đội Nhật. Thực chất, bọn đế quốc thực
dân Anh và Pháp đã cấu kết với nhau để đàn áp cách mạng Đông Dương nhằm mục
đích bảo vệ quyền lợi của chúng trong hệ thống thuộc địa đang tan rã. Ngày 23-9-1945,
dưới sự trợ giúp của quân Anh và quân Nhật, quân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài
Gòn - Gia Định hòng một lần nữa thiết lập sự thống trị ở Đông Dương.
Vận mệnh cách mạng và nền độc lập dân tộc ở
trong thế ''ngàn cân treo sợi tóc''. Thù trong giặc ngoài cấu kết phá hoại cùng
với nạn đói, nạn dốt và sự suy kiệt về kinh tế đã đặt ra trước chính quyền cách
mạng những khó khăn, thử thách to lớn và khắc nghiệt. Trong tình hình ấy, Đảng
và Bác Hồ đã vững tay chèo lái, khôn khéo đưa con thuyền cách mạng Việt Nam vươn
lên.
Ngày 18-2-1946, Tưởng và Pháp ký kết Hiệp
ước Hoa - Pháp, thỏa thuận để quân đội Pháp nhảy vào miền Bắc thay thế quân
Tưởng ''giữ trật tự'' theo ''hiệp ước quốc tế''. Cách mạng đã chuyển sang một
tình thế mới, đặt chúng ta trước một sự lựa chọn: hòa hay chiến trong điều kiện
cả thế và lực đều bất lợi. Ngày 3-3-1946, Trung ương Đảng ra Chỉ thị ''Tình
hình và chủ trương”, khẳng định sách lược mới ''Hòa để tiến''. Sách
lược mới cho phép ta có thời gian để tiếp tục củng cố chính quyền
và thành quả cách mạng, tăng thêm tiềm lực toàn diện, sớm gạt bỏ quân Tưởng và
loại từ bọn tay sai phản động của chúng bằng cuộc đấu tranh kiên quyết với sách
lược khôn ngoan, chúng ta đã buộc thực dân Pháp phải thương lượng với Chính phủ
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và đã đến ký kết Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946.
Khi ký Hiệp định Sơ bộ, phía Pháp đã công
nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do, có chính phủ, nghị
viện, quân đội riêng và nằm trong khối liên hiệp Pháp. Tuy nhiên, thực dân Pháp
vẫn chủ mưu khiêu khích, lấn tới, kiếm chuyện để lật đổ chính quyền nhân dân,
dựng bọn bù nhìn lên thay. Cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền sau Hiệp định Sơ
bộ càng thở lên khó khăn, phức tạp hơn. Ngày 25-6-1946, thực dân Pháp đem quân
chiếm đóng Phủ toàn quyền cũ ở Hà Nội. Ngày 14-7-1949, nhân Quốc khánh nước
Pháp, thực dân Pháp âm mưu làm đảo chính lật đổ chính phủ ta để lập chính phủ
bù nhìn ''Nam Kỳ tự trị” v.v... Càng ngày, dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa
của thực dân Pháp càng lộ rõ. Vừa đấu tranh kiên quyết khôn khéo và nhân nhượng
có nguyên tắc, vừa bảo toàn và tăng cường xây dựng lực lượng, Đảng đã lãnh đạo
nhân dân giữ vững chính quyền cách mạng trong 16 tháng (từ tháng 9-1945 đến
tháng 12-1946). Khi không thể nhân nhượng hơn nữa, Đảng đã chủ động phát động
nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến để giành tự do, độc lập, thống nhất Tổ
quốc.
Ngày 19-12-1946, cuộc kháng chiến toàn quốc
thần thánh của dân tộc Việt Nam chống đế quốc xâm lược Pháp bùng nổ, Đảng,
Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta kiên trì mục tiêu cách mạng,
luôn đấu tranh vì hòa bình, công lý, độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ đã hết
lòng, hết sức thương lượng với quân Pháp để tránh một cuộc chiến tranh. Nhưng
mọi nẻo đường đi đến hòa bình đã bị thực dân Pháp cắt đứt vì chúng quyết cướp
nước ta một lần nữa. Nhân dân Việt Nam không có sự lựa chọn nào khác ngoài con
đường cầm vũ khí đứng lên kháng chiến. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của
Chủ tịch Hồ Chí Minh vang dội núi sông, như hồi kèn xung trận, thúc giục cả dân
tộc đứng lên bước vào cuộc chiến đấu mới:
“Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ
nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ!
Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già,
người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì
phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có
gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra
sức chống thực dân Pháp cứu nước''2.
3. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược
Ngay từ những ngày đầu, Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã dự kiến cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược sẽ diễn ra
theo ba giai đoạn: cầm cự, phòng ngự và phản công. Tại Đại hội lần thứ II của
Đảng (2-1951) quan điểm này được nhắc lại một lần nữa. Trong Báo cáo chính trị
tại Đại hội, Hồ Chủ tịch khẳng định:
“Đảng và Chính phủ ta đã nhận định cuộc
kháng chiến có ba giai đoạn:
- Giai đoạn thứ nhất, thì ta
cốt giữ vững và phát triển chủ lực. Giai đoạn này từ ngày 23-9-1945 đến hết
chiến dịch Việt Bắc, Thu - Đông 1947.
- Giai đoạn thứ hai, thì ta
tích cực cầm cự và chuẩn bị tổng phản công. Giai đoạn này từ sau chiến dịch
Việt Bắc đến nay.
- Giai đoạn thứ ba, là tổng phản
công''3.
Việc dự kiến các giai đoạn của cuộc kháng
chiến dựa trên những điều kiện cụ thể và tương quan lực lượng giữa ta và địch.
Đây cũng đồng thời là sự chủ định và quyết tâm chiến lược của Đảng và Chính phủ
ta. Những diễn biến trên thực tế của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và
can thiệp Mỹ đã chứng minh cho sự đúng đắn, chính xác của quan điểm trên.
Giai đoạn thứ nhất của cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp là giai đoạn kết hợp giữa cuộc chiến đấu chống
xâm lược ở miền Nam với công cuộc xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng trên
cả nước, tiến tới phát động kháng chiến toàn quốc, đánh thắng chiến lược đánh
nhanh, thắng nhanh của thực dân Pháp. Giai đoạn này mở đầu bằng sự kiện đêm 22,
rạng ngày 23-9-1945, 4.000 lính Pháp và Pháp kiều có vũ trang với sự tiếp tay
của quân Anh - Ấn đã nổ súng đánh chiếm Sài Gòn. Trong tình trạng chính quyền
cách mạng vừa được hình thành, cả hai đầu đất nước đều có kẻ thù xâm lược, thế
và lực cách mạng còn yếu, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương
kìm chân địch ở phía Nam, hòa hoãn để đẩy quân Tưởng về nước, tận dụng mọi thời
cơ củng cố chính quyền, xây dựng lực lượng cách mạng.
Sài Gòn - Gia Định đi trước cả nước quật
khởi đứng lên, chặn đánh từng bước tiến của quân Pháp. Cả nước chi viện cho Nam
Bộ kháng chiến. Ngay trong đêm 26-9-1945 chi đội Giải phóng quân đầu tiên lên
đường Nam tiến. Những trận đánh liên tiếp xảy ra ngay trên từng cây cầu, góc
phố của Sài Gòn, tạo thành thế bao vây quân Pháp trong thành phố. Phải một
tháng sau, ngày 23-10-1945 quân địch tăng cường viện binh với lực lượng thiết
giáp mới phá vỡ vòng vây xung quanh Sài Gòn.
Ở Nam Trung Bộ, ngày 22-10, quân Pháp đổ bộ
lên Nha Trang bị quân ta chống cự mãnh liệt và bao vây. Cuối tháng 1-1946, sau
khi chiếm được Buôn Ma Thuật, địch tập trung lực lượng từ phía nam đánh ra, Tây
Nguyên đánh xuống và từ biển đánh vào, lực lượng của ta mới rút về Phú Yên. Ở
phía Bắc, trong tình hình vô cùng khó khăn, phức tạp, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã khôn khéo lãnh đạo cách mạng, hòa hoãn để tiến tới loại bỏ quân Tưởng,
bảo vệ chính quyền nhân dân, phát triển sản xuất, mở mang văn hóa – giáo dục,
củng cố khối đoàn kết toàn dân, nâng dần thế và lực của cách mạng. Với quân đội
Pháp, chúng ta luôn có thái độ xây dựng, tìm mọi cách để duy trì hòa bình,
tránh nổ ra chiến tranh. Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946 ký tại Hà Nội mở đường cho
quân Tưởng rút về nước. Quân Pháp tạm thời vào miền Bắc thay quân Tưởng và sẽ
rút dần trong 5 năm ra khỏi Việt Nam.
Với dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa,
quân Pháp không từ một thủ đoạn nào để mở rộng phạm vi chiếm đóng, khiêu khích
và tiêu diệt lực lượng của ta. Chính dã tâm xâm lược của thực dân Pháp đã đẩy
tới sự kiện 19-12, buộc nhân dân ta phải đứng lên cầm súng chiến đấu. Sau hai
tháng chiến đấu quyết tử, bộ đội ta rút khỏi Hà Nội. Toàn bộ các cơ quan trung
ương cùng lực lượng vũ trang của ta rút dần lên Việt Bắc, xây dựng chiến khu
làm căn cứ để xây dựng lực lượng chuẩn bị thời cơ giải phóng hoàn toàn đất
nước.
Giai đoạn thứ hai của cuộc
kháng chiến chống Pháp từ đầu năm 1948 đến chiến thắng Biên giới, Thu - Đông
1950. Đây là giai đoạn ta dần dần nắm thế chủ động, đẩy mạnh cuộc kháng chiến
toàn dân, toàn diện, phát triển chiến tranh du kích kết hợp với những đòn đánh
của quân chủ lực, làm thất bại âm mưu ''dùng người Việt trị người Việt, lấy
chiến tranh nuôi chiến tranh'' của thực dân Pháp.
Sau thất bại ở Việt Bắc, Thu - Đông 1947,
thực dân Pháp gặp nhiều khó khăn vì trong nước khủng hoảng kéo dài, chiến
trường dàn mỏng do thiếu quân số, tinh thần binh lính sa sút. Để tiếp tục chiến
tranh, quân Pháp buộc phải chuyển từ ''đánh nhanh, thắng nhanh'' sang ''đánh
kéo dài” và thực hiện chính sách ''lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người
Việt đánh người Việt''. Chỉ riêng năm 1948, Pháp tuyển thêm 55.000 quân ngụy.
Chúng tập trung mở hàng loạt cuộc càn quét quy mô nhỏ, thực hiện việc bình định
ở miền Nam, miền Trung và đồng bằng Bắc Bộ.
Sau Hội nghị Ban Chấp hành Tlung ương Đảng
tháng 1-1948, ta phát triển mạnh chiến tranh du kích trong vùng địch hậu,
''biến hậu phương địch thành tiền phương ta''. Nhiều nơi trong vùng địch hậu,
nhân dân lập làng chiến đấu, xây dựng căn cứ du kích. Nhiều gương chiến đấu
dũng cảm, hy sinh oanh liệt xuất hiện như Võ Thị Sáu, Mạc Thị Bưởi, Anh hùng
Núp… Phong trào ác liệt, phá tề nổi rầm rộ ở ngay những trung tâm quan trọng
như Hà Nội, Hải Phòng. Trong những năm 1949, 1950, chiến tranh du kích
của ta càng phát triển sâu rộng với sự hỗ trợ hay phối hợp chiến đấu của bộ đội
địa phương và các phân đội quân chủ lực làm cho địch mất ăn, mất ngủ.
Tháng 1-1949, Trung ương Đảng họp Hội nghị
Cán bộ trung ương lần thứ sáu. Hội nghị phân tích những điều kiện thuận lợi của
ta, đánh giá sự thay đổi về so sánh lực lượng giữa ta và địch, trong đó chỉ võ:
''Chiến lược của địch sẽ nặng dần về mặt phòng ngự'' và nhận định khả năng đế
quốc Mỹ sẽ nhảy vào can thiệp trực tiếp. Phương châm chiến lược được Hội nghị
đưa ra là ''tích cực cầm cự, chuẩn bị tổng phản công''.
Ngày 21-5-1950, Trung ương Đông triệu tập
Hội nghị toàn quốc lần thứ ba, Hội nghị xác định: ''phải nhân đà tiến bộ của
bản thân ta, dựa vào sự giúp đỡ của các lực lượng bạn, lợi dụng sự lúng túng
của địch, trước mưu mô của đế quốc Mỹ - Anh mà gấp rút hoàn thiện nhiệm vụ
chuyển mạnh sang tổng phản công năm 1950 này4.
Ngày 16-9-1950, trận tiến công cứ điểm Đông
Khê bắt đầu mở màn cho chiến dịch Biên giới. Mục đích của chiến dịch là tiêu
diệt một phần sinh lực địch, giải phóng một phần biên giới, mở đường giao thông
với các nước xã hội chủ nghĩa, mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc. Sau 29
ngày đêm chiến đấu bộ đội ta kết thúc thắng lợi chiến dịch Biên giới, diệt và
bắt sống 8.300 tên địch, thu hơn 300 tấn vũ khí và phương tiện chiến tranh, xóa
sạch Liên khu biên giới Đông Bắc của quân Pháp.
Chiến thắng Biên giới giáng cho địch đòn
nặng nề chưa từng thấy ở Đông Dương, đẩy chúng vào thế bị động, lúng túng hơn.
Đối với ta, biên giới được khai thông, thế bao vây của Việt Bắc bị phá vỡ, tạo
ra bước chuyển biến căn bản của cuộc kháng chiến sang giai đoạn mới -
giai đoạn nắm quyền chủ động trên chiến trường, chuyển hẳn sang tiến công quân
địch.
Giai đoạn thứ ba của cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ đầu năm 1951 và kết thúc
ngày 20-7-1954 - ngày ký Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam. Đây
là giai đoạn ta nắm vững quyền chủ động chiến lược trên khắp các mặt trận, liên
tục tiến công phá vỡ mọi nỗ lực chiến tranh cao nhất của thực dân Pháp và can
thiệp Mỹ, tiến tới chiến thắng Điện Biên Phủ.
Sau chiến dịch Biên giới, quân Pháp rơi vào
thế khó khăn, mất quyền chủ động trên chiến trường. Để cứu vãn tình thế, ngày
24-12-1950, Mỹ ký với Pháp bản hiệp ước quân sự, tăng các khoản viện trợ chiến
tranh, can thiệp sâu hơn vào cuộc chiến ở Đông Dương. Với sự tiếp sức của Mỹ,
từ đầu năm 1951, Pháp bắt đầu thực hiện kế hoạch Đờ Lát, tập trung xây dựng lực
lượng cơ động mạnh, lập tuyến phòng thủ trung du và đồng bằng Bắc Bộ, bình định
vùng tạm chiếm, chuẩn bị đánh ra vùng tự do nhằm giành lại thế chủ động.
Về phía ta, Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ II của Đảng (2-1951) xác định nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng Việt Nam lúc
này là: ''tiêu diệt thực dân Pháp xâm lược và đánh bại bọn can thiệp Mỹ, giành
độc lập và thống nhất hoàn toàn, bảo vệ hòa bình thế giới''. Cũng tại Đại hội
này, Đảng đổi tên thành Đảng Lao động Việt Nam.
Quân chủ lực của ta ở Bắc Bộ được tập trung
xây dựng thành các đại đoàn và liên tiếp mở các chiến dịch đánh vào phòng tuyến
địch ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ như: chiến dịch Trần Hưng Đạo ở khu vực
Việt Trì, Bắc Giang (12-1950 – 1-1951), chiến dịch Hoàng Hoa Thám ở Phả Lại,
Uổng Bí, Mạo Khê (tháng 3 và 4-1951), chiến dịch Quang Trung tại Hà Nam, Nam
Định, Ninh Bình (tháng 5 và 6-195l). Chiến tranh du kích tiếp tục phát triển ở
các khu vực tạm chiếm, gây khó khăn cho việc bình định gấp rút của địch.
Từ ngày 14-10 đến ngày 10-12-1952, ta mở
chiến dịch Tây Bắc nhằm phá vỡ thế uy hiếp của địch đối với Việt Bắc từ phía
Tây, mở thông hành lang với Thượng Lào, tạo khả năng phối hợp với cách mạng
nước bạn. Cũng trong thời gian chiến dịch Tây Bắc, quân ta đã đánh thắng các
binh đoàn cơ động của Pháp đánh lên Phú Thọ, buộc chúng phải bỏ chạy.
Tháng 4-1953, ta phối hợp với bộ đội yêu
nước Lào mở chiến dịch Thượng Lào (Sầm Nưa). Chiến dịch đã thắng lợi với việc
giải phóng tỉnh Sầm Nưa và một phần tỉnh Xiêng Khoảng, tỉnh Phông Xa Lì.
Sau các chiến dịch Hòa Bình, Tây Bắc và
Thượng Lào, cục diện chiến tranh càng có lợi cho ta. Hòng xoay chuyển tình thế,
chuyển bại thành thắng, Pháp và Mỹ đâm lao đành theo lao, bắt tay thực hiện kế
hoạch Nava với mục tiêu bình định Đông Dương. Để thực hiện kế hoạch này, Mỹ
tăng thêm viện trợ quân sự lên đến 78% toàn bộ ngân sách chiến tranh ở Đông
Dương. Phía Pháp ráo riết tăng quân, bắt lính, liên tục mở các trận càn ở Bắc
Bộ, Bình Trị Thiên và Nam Bộ.
Cuối tháng 9-1953, Bộ Chính trị Ban Chấp
hành Trung ương Đảng họp bàn nhiệm vụ quân sự Đông - Xuân 1953 – 1954 Bộ Chính
trị nhấn mạnh phương châm ''tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt'', nhằm đánh
địch nơi sơ hở, tiêu diệt địch khi chúng đánh vào vùng tự do và đẩy mạnh chiến
tranh du kích trên khắp chiến trường để phân tán và làm suy yếu lực lượng địch.
Mở đầu Đông - Xuân 1953 - 1954 ta thực hiện
5 đòn tiến công chiến lược:
1. Đánh vào thị xã Lai Châu trung tuần
tháng 12-1953, buộc địch rút lui, co cụm về Điện Biên Phủ.
2. Hạ tuần tháng 12-1953, ta phối hợp với
Quân giải phóng Lào, tiến công vào Trung Lào, buộc địch phải rút về lập cụm cử
điểm tại Sênô.
3. Mở chiến dịch Hạ Lào và Đông Campuchia,
giải phóng khu vực rộng lớn từ Đông Campuchia nối liền Hạ Lào, Trung Lào.
4. Trên mặt trận Tây Nguyên, cuối tháng 1,
đầu tháng 2-1954, ta đánh thắng chiến dịch Átlăng của địch, buộc chúng phải co
cụm về An Khê và Plâycu.
5. Tại Thượng Lào, hạ tuần tháng 1-1954, ta
phối hợp với bạn Lào tiến đánh phòng tuyến Nậm Hu, truy kích địch đến gần Luông
Pha Băng, buộc chúng tập trung về Luông Pha Băng và Mường Sài.
Từ tháng 12-1953, ta bắt đầu chuẩn bị cho
chiến dịch Điện Biên Phủ - chiến dịch quyết chiến trong cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. Trong chỉ thị gửi Đại tướng Tổng tư lệnh Võ
Nguyên Giáp, Hồ Chủ tịch chỉ rõ: ''Chiến dịch này là một chiến dịch rất quan
trọng không những về quân sự mà về cả chính trị, không những đối với trong nước
mà đối với quốc tế. Vì vậy, toàn quân, toàn dân, toàn Đảng phải tập trung hoàn
thành cho kỳ được''5.
Ngày 13-3-1954, quân ta nổ súng tiến công
Điện Biên Phủ. Ngày 7-5-1954, sau 55 ngày đêm chiến đấu vô cùng dũng cảm, quân
ta toàn thắng ở Điện Biên Phủ, tiêu diệt và bắt sống toàn bộ quân địch ở đây
trong đó có tướng Đờ Cát. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã kết thúc oanh liệt chiến
dịch tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954.
Chiến thắng Điện Biên Phủ tạo điều kiện
thuận lợi cho cuộc đấu tranh ngoại giao của ta. Ngày 8-5-1954, hội nghị về chấm
dứt chiến tranh Đông Dương khai mạc phiên thứ nhất tại Giơnevơ (Thụy Sĩ). Trải
qua 8 phiên họp toàn thể và 23 phiên họp hẹp căng thẳng, ngày 20-7-1954, Hiệp
định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam được ký kết. Ngày 20-7-1954 trở
thành thời điểm kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến oanh liệt, vĩ đại của nhân
dân ta chống thực dân Pháp xâm lược, lập lại hòa bình trên miền Bắc.
II. BÁO CHÍ CÁCH MẠNG
TRONG NHỮNG NĂM 1945 - 1946
1. Tình hình hoạt động báo chí
Trong cơ cấu Chính phủ lâm thời Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, Bộ Thông tin - Tuyên truyền luôn được coi là một trong những
bộ quan trọng nhất. Người đứng đầu cơ quan này là Trần Huy Liệu - một nhà báo
cách mạng nổi tiếng. Vì hiểu rõ vai trò cũng như sức mạnh của báo chí đối với
môi trường chính trị nên Bộ Thông tin - Tuyên truyền đã sớm ban hành
những văn bản phù hợp nhằm tổ chức, quản lý hệ thống báo chí sao cho hiệu quả
nhất. Các chính sách của thời kỳ này, nói chung đều đảm bảo được các yêu cầu cơ
bản:
- Tôn trọng tuyệt đối quyền tự do dân chủ
của báo chí.
- Tạo điều kiện cho báo chí hoạt động tốt
nhất, kể cả những tờ báo của những đảng phái chính trị đối lập.
- Báo chí hoạt động phải xuất phát từ lợi
ích dân tộc, phải là vũ khí sắc bén bảo vệ chính quyền nhân dân.
- Khi cần thiết báo chí phải đoàn kết chống
kẻ thù chung.
- Mở rộng hệ thống báo chí địa phương để
báo chí ngày càng gần gũi với quần chúng nhân dân.
Chi phối xã hội mạnh mẽ nhất vào những năm
1945 – 1946 là các tờ báo cách mạng sau:
- Cờ giải phóng (10-10-1942 -
18-11-1945) - cơ quan của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương.
- Sự thật (5-12-1945) cơ quan của
Hội Nghiên cứu chủ nghĩa Mác.
- Cứu quốc (25-1-1942) - cơ quan của
Tổng bộ Việt Minh.
- Đài tiếng nói Việt Nam: 7-9-1945
(phủ sóng toàn quốc).
- Thông tấn xã Việt Nam: 15-9-1945
(có hai bản tin tiếng Pháp và tiếng Anh là Bulletin Quotidien; Daily Bulletin).
- Tạp chí Tiền phong (10-11-1945) -
Cơ quan của Hội Văn hóa cứu quốc Việt Nam.
- Lao động (20-7-1946) - Cơ quan của
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
- Sao vàng (30-5-1946) - Cơ quan của
Chính trị cục (trực thuộc Quân sự uỷ viên hội).
- Kèn gọi lính (1945) - Cơ
quan của Uỷ ban kháng chiến hành chính Nam Bộ.
Nếu như thời thuộc Pháp, báo chí chủ yếu
tập trung tại các đô thị lớn như Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng, thì dưới chế độ
ta, Đảng và Nhà nước ta rất chú trọng đến hệ thống báo chí cách mạng cấp tỉnh,
cấp huyện, phục vụ đối tượng chính là nông dân, quân đội. Tuy nhiên, vì thời
gian tiến hành quá ngắn ngủi, nên sự mở rộng này mới chỉ kịp thực hiện ở các
địa phương thuộc đồng bằng, trung du. Đó là các địa bàn có vị trí chiến lược về
chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa như Sơn Tây, Nam Định, Hải Dương, Bắc
Ninh, Bắc Giang, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Thừa Thiên - Huế và
vùng tự do thuộc các tỉnh gần Sài Gòn như Đồng Nai, Cần Thơ, Bến Tre, Mỹ Tho.
Đối với các khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa như Việt Bắc, Tây Bắc, Tây
Nguyên, Tây Nam Bộ, phải từ giữa năm 1947 trở đi báo chí địa phương mới được
quan tâm phát triển. Vì nhiều lý do lịch sử khác nhau, trong năm đầu độc lập,
báo chí cách mạng nước ta chủ yếu tập trung tại Bắc Bộ với khoảng 100 tờ (so
với Trung Bộ và Nam Bộ mỗi nơi có xấp xỉ 30 tờ). 1/3 trong số này là báo chí
yêu nước của tư nhân hoặc của các tổ chức xã hội không thuộc đảng phái chính
trị nào. Có thể nói, khác với trước, báo chí yêu nước thời kỳ này có trình độ
giác ngộ rất cao. Khi người Pháp chiếm được Sài Gòn, Hà Nội, một số tờ tuy vẫn
ở lại các vùng đô thị, nhưng về cơ bản vẫn giữ vững quan điểm, chính kiến của
mình trước sự hăm dọa, mua chuộc của kẻ thù. Hàng chục tờ báo yêu nước tại Sài
Gòn đã đoàn kết nhau lại trong một mặt trận, chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Xứ
uỷ Nam Kỳ, đấu tranh vì sự nghiệp thống nhất đất nước, ủng hộ chính phủ kháng
chiến. Nhiều chủ báo tại Hà Nội thời tạm chiếm đã bí mật quyên góp tiền bạc,
thuốc men gửi lên chiến khu. Họ thường xuyên dùng tờ báo của mình tố cáo âm
mưu, thủ đoạn, tội ác của kẻ thù, ca tụng đường lối kháng chiến kiến quốc của
chính quyền Việt Minh. Khi có điều kiện là họ lên rừng tham gia lực lượng cách
mạng. Chính vì lý do này, chúng ta có thể coi báo chí yêu nước giai đoạn 1945 -
1954 là bộ phận của báo chí cách mạng, là báo chí cách mạng.
Trong hai năm 1945 - 1946, tại Nam
Bộ có một số tờ báo cách mạng chính: Hy sinh (Bến Tre), Kháng chiến (Gò
Công), Chiến đấu (Vĩnh Long), Miên – Việt (Trà Vinh), Cảm tử (sau
đổi thành Vệ quốc, phát hành tại chiến khu miền Đông) v.v.. Trong số các
tờ báo cách mạng của Nam Bộ, đáng chú ý là tờ Kèn gọi lính. Đây là cơ
quan ngôn luận của Uỷ ban kháng chiến hành chính Nam Bộ, có số lượng in hơn 3
bạn bản, được người đọc hết sức yêu thích, coi như tờ báo Cứu quốc của
đất phương Nam.
Sau khi Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố
tự giải tán (1945), hệ thống báo Đảng các xứ uỷ rút vào hoạt động bí mật, thu
hẹp quy mô đến mức tối đa. Cả Nam Bộ lúc này chỉ còn tờ Thống nhất (1945
- 1950 - cơ quan của Xứ uỷ Đảng Cộng sản Đông Dương) là hoạt động mạnh mẽ nhất.
Nhiều người trước làm cho báo Đảng giờ chuyển sang báo của Mặt trận Việt Minh,
báo của Uỷ ban kháng chiến hành chính hoặc làm công tác khác. Từ thời điểm này,
báo của Mặt trận Việt Minh, của Uỷ ban kháng chiến hành chính Nam Bộ cũng có
thể được con là báo Đảng. Một số nhà báo là đảng viên lên Sài Gòn tham gia viết
cho các tờ báo của lực lượng báo chí thống nhất Nam Bộ đã dần dần biến hệ thống
báo yêu nước thành báo chí cách mạng hoặc tiến xa hơn thành báo Đarng. Từ cuối
năm 1945 trở đi, trong các nhà tù thực dân Nam Bộ, báo chí cách mạng trong tù
tiếp tục được duy trì với các tờ tiêu biểu như: Đêm khám lớn, Tiếng tù (Sài
Gòn - 1946). Viết cho các tờ báo này là các cây bút cách mạng, các đảng viên
cộng sản bị địch giam hãm như Dương Tử Giang, Triệu Công Minh v.v..
Khác với Nam Bộ, báo chí cách mạng Trung Bộ
ít tập trung tại các đô thị, các tỉnh trọng điểm mà rải đều khắp các địa
phương. Hầu như tỉnh nào cũng có một vài tờ báo riêng. Nhằm tránh chồng chéo
thông tin và cũng để hạn chế tối đa nhân lực, tài lực, một số địa phương gần
gũi nhau đề địa giới hành chính, có hoàn cảnh kinh tế, văn hóa tương đồng còn
ra chung một tờ báo. Có thể kể một số tiêu biểu như: Dân mới (Cơ quan
tuyên truyền huấn luyện của Việt Minh Thanh - Nghệ - Tĩnh – Bình 1946), Chiến
sĩ (Vệ quốc đoàn khu IV, 1945 - 1946), Quyết thắng (Việt Minh Thừa
Thiên - Huế, cuối 1945) v.v.. Sự liên kết này không chỉ làm giảm gánh nặng chi
phí mà còn tạo điều kiện cho mỗi tỉnh phát triển loại báo kinh tế, văn hóa - xã
hội, tôn giáo như: Tiến hóa, Đời sống mới (Hội Văn hóa cứu quốc
Quảng Ngãi), Kinh tế (Mặt trận kinh tế Huế), Tạp chí Dân mới (văn
hóa cứu quốc liên tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh - Bình), Giải thoát (Cơ quan
phát huy tinh thần Phật giáo và nghiên cứu áp dụng nào đời sống mới - Huế 1946)
v.v.. Cũng như Nam Bộ, tại Trung Bộ (những năm 1945 - 1946), loại báo dành cho
trẻ em, phụ nữ, lực lượng công an chưa được quan tâm đúng mức. Hơn một năm sống
trong độc lập, báo chí cách mạng Trung Bộ được tổ chức theo bốn tầng cơ bản:
báo chí cấp kỳ (xứ uỷ, kỳ bộ Việt Minh, Uỷ ban kháng chiến hành chính Trung
Bộ), báo cấp liên tỉnh này còn gọi là khu, sau này nâng lên thành liên khu),
báo cấp tỉnh và báo cấp thị xã (chưa có báo cấp huyện) trung ương với báo của
các đơn vị quân đội (cấp trung đoàn) hay các cơ quan hành chính lớn. Báo cấp
cao nhất có nhiệm vụ tổng hợp vấn đề của các tỉnh, kỳ hợp với chủ trương chung
của chính quyền trung ương rồi từ đó vạch ra kế hoạch tuyên truyền cho toàn khu
vực. Báo cấp kỳ lúc này đặt nặng chất lượng, xem nhẹ số lượng, chỉ có mấy tờ cơ
bản như: Đại chúng (Liên đoàn văn hóa cứu quốc Trung Bộ), Tổ quốc (kỳ
bộ Việt Minh Trung Bộ). Báo Đảng cấp kỳ không xuất hiện công khai mà nhường chỗ
cho báo Đảng cấp thấp hơn. Dưới danh nghĩa Mặt trận Việt minh, tỉnh uỷ nào cũng
có báo riêng, tiêu biểu như: Tranh đấu (Bình Định), Tin (Đà
Nẵng), Tin tức (Quảng Nam), Việt Nam (Khánh Hòa), Tiến lên (Nghệ
An), Tin thật (Ninh Thuận), Chiến thắng (Phú Yên), Liên minh (Quảng
Nam), Chơn độc lập (Quảng Ngãi), Tin Quảng Trị (Quảng
Trị), Quyết thắng (Thừa Thiên – Huế) v.v.. Vì điều kiện đi lại khó khăn,
phần lớn bà con dân tộc lại chưa biết chữ, cán bộ phóng viên thiếu nên
báo chí cách mạng Trung Bộ chưa vươn tới được Tây Nguyên. Việc đưa tiếng
nói của Đảng tới Gia Lai, Đắc Lắc, Kon Tum phải tới năm 1948 trở đi mới được
tiến hành. Đây là hạn chế lớn nhất của Sở Thông tin - Tuyên truyền Trung Bộ.
Ngày 2-9-1945, tại Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đây
cũng là điểm đánh dấu sự đi lên không ngừng của báo chí cách mạng Bắc Bộ, đưa dòng
báo chí này bước sang một trang mới. Như trên đã đề cập, trong năm đầu độc lập
số tên các tờ báo cách mạng ở Bắc Bộ lớn gần gấp 2 lần các khu vực khác trên cả
nước (100/60). Trên dưới 100 đầu báo cách mạng này thuộc mấy cấp độ chính:
- Báo chí trung ương: của Chính phủ (cấp
nhà nước, cấp bộ), của Quốc hội, của Đảng, của Tổng bộ Việt Minh, của các hội
đoàn thể (Hội Văn hóa cứu quốc Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Tổng
hội Sinh viên Việt Nam v.v.).
- Báo cấp tỉnh, thành.
- Báo của các cơ quan, đơn vị cơ sở.
Nhìn vào cơ cấu này có thể thấy, khác với
báo chí cách mạng Nam Bộ, Trung Bộ, tại Bắc Bộ không tổ chức hệ thống báo cách
mạng cấp kỳ (báo của xứ uỷ, của kỳ bộ Việt Minh) và báo cấp xã. Báo chí cách
mạng cấp tỉnh tuy vẫn được duy trì nhưng cũng không được mở rộng tối đa và
không phải tỉnh nào cũng có một tờ báo riêng. Chi phối đời sống báo chí lúc này
tại khu vực Bắc Bộ chủ yếu là hệ thống báo chí trung ương. Báo cấp tỉnh chỉ có
nhiệm vụ hỗ trợ, đi sâu phân tích, giải thích chủ trương, đường lối, chính sách
của Đảng, Nhà nước và các vấn đề nội bộ của địa phương. Loại báo này chủ yếu
tập trung tại các tỉnh lớn, có ý nghĩa chiến lược về mọi mặt như Nam Định (Sóng
Tuần Vương, Nam Định kháng chiến, Xung phong, Nam tiến), Thái Bình (Tranh
đấu, Tấc đất, Đại đoàn kết), Sơn Tây (Tiếng xứ đoài), Phú Thọ
(Đời sống mới), Thái Nguyên (Đội Cấn), Tuyên Quang (Giải
phóng khu), Yên Bái (Tiến lên) v.v.. Tất cả những tờ báo cấp tỉnh
trên đều hoạt động trên danh nghĩa cơ quan của Mặt trận Việt Minh, Hội Văn hóa cứu
quốc, nhưng thực chất chúng là báo của đảng bộ địa phương. Cũng như nhiều khu
vực khác trong cả nước, báo chí cách mạng Bắc Bộ lúc này chưa được quan tâm
đúng mức tại các tỉnh miền núi xa xôi, vùng hải đảo. Người dân Lạng Sơn, Cao
Bằng, Hà Giang, Lai Châu, Bắc Cạn... hầu như chỉ được tiếp xúc với vài tờ báo
chính của trung ương như Cứu quốc, Sự thật, mà cũng hết sức thất thường.
Thông tin đến với họ có khi bị chậm tới hàng tháng trời. Vì là Thủ đô của cả
nước nên trong năm đầu độc lập, có tới 80% báo chí cách mạng Bắc Bộ và 100% báo
chí trung ương tập trung tại Hà Nội. Đây là địa bàn hoạt động báo chí diễn ra
sôi động nhất. Đối tượng phục vụ của báo chí Hà Nội cũng hết sức đa dạng, phong
phú và khá đầy đủ.
Vì Bắc Bộ là trung tâm cách mạng của cả
nước nên Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm phát triển hệ thống báo chí đối
ngoại. Có thể nói, trong năm đầu độc lập, đối với chính quyền cách mạng non trẻ
vấn đề ''giặc ngoài'' nguy hiểm hơn “thù trong”. “Thù trong'' ở đây chính là
các lực lượng phản động người Việt và tàn dư do chế độ cũ để lại, là sản phẩm,
là đứa con hoang của “giặc ngoài”. Nếu chúng ta giải quyết tốt vấn đề ''giặc
ngoài'' thì ''thù trong'' tất nhiên sẽ phải biến mất. Chính vì vậy mà ngay sau
ngày giành được chính quyền ở Hà Nội, đồng chí Xuân Thủy đã thay mặt Trung ương
Đảng chỉ thị cho các đồng chí Trần Kim Xuyến, Trần Lâm, Chu Văn Tích gấp rút
xây dựng, tổ chức Đài Tiếng nói Việt Nam. Các chương trình phát
bằng tiếng nước ngoài cũng như được mở rộng phạm vi phủ sóng ra ngoài lãnh thổ
luôn là hướng phấn đấu của Đài Tiếng nói Việt Nam. Ngay trong
ngày đầu ra mắt, bên cạnh bản tin tiếng Việt, Thông tấn xã Việt Nam
đã phát hành cùng một lúc hai bản tin tiếng Anh và tiếng Pháp với các hô
hiệu VNA, AVI. Đảng chủ trương ra tờ báo Republique (LA) làm cơ quan đối
ngoại riêng (số 1 của tờ báo này ra ngày 7-10-1945, đến tháng 3-1946 đổi tên
thành Le Peuple). Ngoài ra, Đảng và Nhà nước ta cũng quan tâm giúp đỡ
các tổ chức Việt kiều ở trong nước và ngoài nước ra báo. Tiêu biểu trong số này
có tờ Nam Việt (cơ quan của ban Trung ương Việt kiều liên minh - Pari -
1946), Công binh đọc báo (cơ quan của lao động và binh lính Việt Nam ở
Pháp trong chiến dịch xóa mù chữ), Công nông đọc báo (Ban Trung ương
Việt kiều chủ trương xuất bản phục vụ lính thợ là lình chiến Việt Nam ở Pháp
trong chiến dịch xóa mù chữ), Sống chung (cơ quan vận động việt kiều ở
Campuchia - 1946)...
Hệ thống báo chí đối ngoại nói trên không
chỉ làm nhiệm vụ thông tin những vấn đề của Việt Nam ra thế giới mà chủ yếu
nhằm khẩn định vị thế của nhà nước cách mạng đầu tiên ở Đông Nam Á, tuyên tuyền
cho những người Pháp tiến bộ, yêu chuộng hòa bình hiểu rõ cuộc đấu tranh chính
nghĩa của dân tộc ta. Qua báo chí Đảng, Chính phủ ta bày tỏ thái độ ủng hộ
tuyệt đối cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do, đến chủ của các dân tộc thuộc đã
tên toàn thế giới, luôn coi các dân tộc bị áp bức là bạn, lấy việc tuyên truyền
cho Liên Xô và các nước nằm trong hệ thống xã hội chủ nghĩa là trách nhiệm,
nghĩa vụ của mình.
2. Các tờ báo cách mạng ra đời trước
tháng 8-1945 tiếp tục xuất bản
a) Báo Cứu quốc
Cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền do
Mặt trận Việt Minh lãnh đạo vào tháng 8-1945 diễn ra nhanh chóng, thuận lợi.
Lúc này, báo Cứu quốc chưa kịp chuyển về Hà Nội nên phải nhờ tờ Tin
mới (là tờ báo hàng ngày, công khai của Mặt trận do ông Nguyễn Văn Luyện
quản lý) đưa tin và đăng các văn bản của chính quyền mới. Việc ra báo Cứu
quốc công khai được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm. Sau khi nhận được
chỉ thị, đồng chí Xuân Thủy đã cùng một số anh em trước đã cùng làm báo Cứu
quốc bí mật gấp rút chuẩn bị. Để tiện cho công việc, họ quyết định đặt tòa
soạn báo tại số nhà 114 phố Hàng Trống, trụ sở chính của Mặt trận Việt Minh.
Đây là cơ quan cũ của tờ Action dưới thời Pháp thuộc, nay là phố Lê Thái
Tổ, tòa soạn báo của Hà Nội mới. Thời gian đầu, báo Cứu quốc dự
kiến in tại Taupin, một trong những nhà in lớn của Hà Nội thời bấy giờ. Đến
tháng 1-1946, nhà in riêng của báo Cứu quốc mới chính thức được thành
lập.
Ngày 24-8-1945, báo Cứu quốc ra số
31 (số công khai đầu tiên) in bằng giấy tốt, 2 trang. Trang 1 của số báo này
hình lá cờ đỏ sao vàng chiếm gần hết khổ báo do nhà thơ Thâm Tâm thể hiện.
''Lời chào cứu quốc'' được đăng trang trọng: ''Để đạt mục đích cứu quốc, hơn ba
năm nay Cứu quốc sống âm thầm trong hang núi rừng sâu và trong những túp
lều tranh u uất, hôm nay nó đã vươn mình ra trước ánh sáng. Hơn ba năm nay nó
đã vượt qua muôn trùng nguy hiểm để đến tay đồng bào và giờ đây, nó đường hoàng
đứng trước mắt độc giả''.
Với những lời lẽ tha thiết, hùng hồn, ngay
từ những số báo đầu tiên, Cứu quốc đã được đông đảo bạn đọc trong cả
nước nồng nhiệt chào đón ủng hộ. Báo in trên dưới 2 vạn bản mà vẫn không đủ để
bán. Nhu cầu của các địa phương là rất lớn. Một số người đã tìm cách đầu cơ báo
Cứu quốc mang đi các vùng xa bán với giá cao hơn gấp nhiều lần, buộc
pháp luật phải ra tay can thiệp. Trong nhiều số liền, báo Cứu quốc đăng
thông báo cho ai phát hiện, tố giác những kẻ đầu cơ báo, nhưng cũng không đạt
hiệu quả là mấy. Cứu quốc lúc này do đồng chí Xuân Thủy (tên thật là Lê
Trọng Nhân, Trưởng ban Tuyên truyền của Tổng bộ Việt Minh) làm chủ nhiệm kiêm
chủ bút. Vì những lý do tài chính, nhân sự, nên thời gian đầu Cứu quốc không
có điều kiện ra hàng ngày. Đến ngày 10-9-1945, Cứu quốc bắt đầu ra hàng
ngày. Chữ Cứu quốc trước in màu đỏ giờ chuyển sang màu đen. Dưới
tên báo là hàng chữ in đậm ''Cơ quan tuyên truyền tranh đấu của Việt Minh''.
Báo bán giá 3 hào sau tăng lên 5 hào, góc bên trái phía trên cùng bao giờ cũng
có một bài xã luận viết rất ngắn gọn, súc tích, chủ yến do đồng chí Xuân Thủy
chấp bút. Tính tới thời điểm cuối năm 1945 đầu năm 1946, Cứu quốc sử
dụng chủ yếu tin tức trong nước. Tin ngoài nước, nếu có cũng liên quan ít nhiều
đến tình hình chính trị Việt Nam, Cứu quốc công khai ra khổ lớn (580mm x
420mm), in typô, cách trình bày rất hiện đại, ấn tượng, Báo thường dùng
''tít'' lớn, kiểu chữ chân phương, nghiêm túc, gói gọn nội dung toàn bài hoặc
nhấn mạnh vào chi tiết đáng lưu ý nào đó, kích thích mạnh vào sự chú ý của độc
giả. Ví dụ như: ''Phải phân biệt chính quyền nhân dân với Việt Minh'', ''Tây
đói thì Tây ăn gì?'' v.v.. Do dung lượng thông tin nhiều trong khi báo chỉ có 2
trang, nên Cứu quốc phải dùng kiểu chữ rất nhỏ, bài vở ken dày vào nhau.
Thông thường, báo dùng giấy trắng hoặc ngả vàng nhưng cũng có khi vì không được
cung cấp đủ mà Cứu quốc phải sử dụng cả giấy màu tím, xanh thẫm. Từ số
49 ngày 22-9-1945, Cứu quốc ra thử nghiệm 4 trang, nhưng chỉ được một
số, đến số 50 lại quay về 2 trang. Từ số 51, báo bắt đầu sử dụng ảnh minh họa,
nhưng do phóng viên ảnh chưa có, máy móc thiết bị thiếu, nên báo chỉ dùng ảnh
của cộng tác viên gửi về. Từ đầu tháng 10-1945 trở về sau, vào những ngày diễn
ra nhiều sự kiện có tác động xã hội lớn, báo lại ra 4 trang. Vào ngày nổ ra
cuộc kháng chiến của đồng bào Nam Bộ, báo ra ngày 2 kỳ, một số phát hành vào
buổi sáng, số kia ra vào chiều tối.
Có thể nói, Cứu quốc là một trong
những tờ báo thời bấy giờ quy tụ được nhiều cây bút xuất sắc nhất trong làng
báo cách mạng nước ta. Ngoài Xuân Thuỷ ra, bạn đọc còn rất quen thuộc với những
tên tuổi như: Nguyễn Thành Lê, Như Phong, Văn Tân, Tô Hoài, Trần Huy Liệu,
Nguyễn Ngọc Kha, Quốc Thụy, Nguyễn Văn Hảo, họa sĩ Trần Đình Thọ v.v.. Mặc dù
đứng trên danh nghĩa cơ quan ngôn luận của Tổng bộ Việt Minh, nhưng thực chất Cứu
quốc là một tờ báo Đảng, đặc biệt kể từ sau ngày Đảng Cộng sản Việt Nam
tuyên bố tự giải tán, rút vào hoạt động bí mật vào tháng 11-1945 báo được Tổng
Bí thư Trường Chinh quan tâm chỉ đạo trực tiếp. Chính vì thế mà các nội dung
của Cứu quốc đều gắn liền với các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước, nhân dân và nhất là hành động theo báo, một sai sót nhỏ dù về quan điểm
sẽ dẫn đến những hậu quả khôn lường. Đây là vinh dự cũng như trách nhiệm nặng
nề cho anh em phóng viên, biên tập viên của báo Cứu quốc. Người làm cho
báo Cứu quốc chỉ với nhiệt tình cách mạng thôi chưa đủ, mà còn phải có
trình độ cao về mọi mặt, nhất là nhận thức, về chính trị, tư tưởng. Công tác
đào tạo luôn được lãnh đạo của báo quan tâm. Người đến trước dạy người đến sau,
người lâu năm trong nghề truyền đạt lại kinh nghiệm cho thế hệ trẻ. Đặc biệt, Cứu
quốc còn được Hồ Chủ tịch và Tổng bộ Việt Minh tin tưởng giao nhiệm vụ đứng
ra lo liệu tổ chức lớp dạy về báo chí có tên Huỳnh Thúc Kháng diễn ra từ tháng
4 đến tháng 7-1949 tại chiến khu Việt Bắc. Từ lò đào tạo này, nhiều phóng viên
đã trưởng thành để lại tên tuổi của mình trong lịch sử báo chí cách mạng của
đất nước.
Để thực hiện tốt chủ trương đoàn kết toàn
dân kháng chiến, kiến quốc của Đảng và Mặt trận, Cứu quốc mở rộng hoạt
động bằng cách ra báo Cứu quốc địa phương. Cụ thể là, ngoài tờ Cứu
quốc trung ương, năm 1947 có thêm:
- Cứu quốc khu II - ra tuần 5
số trừ thứ 5 - chủ nhật.
- Cứu quốc khu III- ra
hàng ngày.
- Cứu quốc khu IV ra
hàng ngày.
- Cứu quốc khu V.
- Cứu quốc khu X - ra hàng
ngày.
- Cứu quốc khu XII.
- Cứu quốc khu Việt Bắc.
Vào năm 1948 có sự thay đổi sau:
- Cứu quốc Liên khu III - ra
hàng ngày, là sự sáp nhập Cứu quốc khu II và Cứu quốc khu III.
- Cứu quốc liên khu V- ra hàng
ngày, là sự sáp nhập Cứu quốc khu IV và Cứu quốc khu V.
- Cứu quốc Liên Việt Nam Bộ ra
hàng ngày.
Trong những năm từ 1952 đến 1954 có một số
tờ cứu quốc cấp tỉnh ra đời, tồn tại cạnh Cứu quốc Liên khu là:
- Cứu quốc của Mặt trận Liên - Việt
Mỹ Tho; - Cứu quốc của Mặt trận Liên - Việt Cần Thơ; - Cứu quốc
của Mặt trận Liên - Việt Bến Tre; - Cứu quốc của Mặt trận Liên - Việt Bà
Rịa,..
b) Báo Sự thật
Trước sức ép của kẻ thù, tháng 11-1945 Đảng
Cộng sản Việt Nam tuyên bố giải tán, thực chất là rút vào hoạt động bí mật. Tờ
báo Cờ giải phóng (số 1 ra ngày 10-10-1942) đã hoàn thành sứ mệnh
của mình cũng đóng cửa, ra số cuối cùng vào ngày 18-11-1945. Để lãnh đạo trực
tiếp cách mạng nước ta, Đảng chủ trương thành lập “Hội Nghiên cứu chủ nghĩa Mác
ở Đông Dương'', do đồng chí Trường Chinh làm chủ nhiệm Hội. Cơ quan ngôn luận chính
của Hội (Đảng Cộng sản Việt Nam) là tờ Sự thật, số đầu tiên ra ngày
5-12-1945, là sự kế tục Cờ giải phóng và những tờ báo Đảng trước
đó.
Báo Sự thật ra vào thứ 7 hàng tuần,
tòa soạn lúc đầu ở 65 Hàng Đào, sau chuyển đến 187 Bà Triệu, rồi 24 phố Phan Chu
Trinh, Hà Nội. Công việc quản lý nhân sự được giao cho Lê Hữu Kiều và Lê Đăng
Linh. Báo Sự thật in tại nhà in riêng, ra 12 trang, không theo khuôn khổ
nhất định. Vào những dịp kỷ niệm, báo ra từ 16 đến 20 trang, bìa in màu, chữ Sự
thật màu đỏ tươi, trang 2 đảng hàng loạt khẩu hiệu cách mạng dùng riêng cho
những ngày kỷ niệm đó, trang 3 là các bức thư ngỏ của Bác Hồ, của các đồng chí
lãnh đạo Đảng, Nhà nước là bài xã luận. Mặc dù là cơ quan ngôn luận của Đảng,
nhưng Sự thật rất ít khi nhận được trợ cấp. Để tự nuôi sống mình, báo
phải sử dụng nhiều quảng cáo, rao vặt. Thông thường phần quảng cáo đặt ở trang
cuối cùng, nhưng cũng có khi theo yêu cầu của khách hàng, chúng được đưa vào
những trang trong, gây cảm giác khó chịu cho bạn đọc. Tình trạng này về sau đã
được khắc phục. Vì là một tờ báo khổ nhỏ, số lượng trang có hạn trong khi bài
vở lại nhiều nên báo Sự thật không có điều kiện mở nhiều chuyên mục,
chuyên trang. Lực lượng phóng viên, biên tập viên của báo lúc này còn mỏng,
nhiều người là cán bộ kiêm nhiệm bị điều động công tác luôn nên việc giữ mục là
rất khó. Hơn nữa, các bài viết trên Sự thật thường rất dài, chúng sẽ bị
cắt vụn nếu như vấp phải quá nhiều chuyên mục, làm cho bạn đọc khó theo dõi.
Trong những năm 1945 - 1946, về cơ bản Sự thật chỉ duy trì thường xuyên
vài chuyên mục thiết yếu như Xã luận (trang 1), Bình luận (trang 2), Kinh
nghiệm kháng chiến miền Nam... Tuỳ theo tình hình, Sự thật đưa ra chuyên
mục nào đó và chúng thường biến mất sau vài số. Tính cơ động này còn được Sự
thật duy trì trong cả thời kỳ báo chuyển lên vùng kháng chiến Việt Bắc.
Ngoài những bài của Bác Hồ, của Tổng Bí thư
Trường Chinh, Sự thật đăng rất nhiều bài của các vị lãnh đạo Đảng, Nhà
nước như Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Trần Huy Liệu, Lê Thanh Nghị, Lê Văn
Lương, Trần Duy Hưng... Bài của các tác giả này cũng mang tầm chiến lược cách
mạng rất cao, có tính định hướng tư tưởng sâu sắc. Trên trang nhất của Sự
thật thường có bài xã luận đề cập đến một vấn đề chính trị lớn nào đó
đang được cả xã hội quan tâm. Những bài này do đồng chí Trường Chinh trực tiếp
chấp bút. Trong số 1, Sự thật có lời ''Phi lộ”, trình bày tôn chỉ, mục
đích của mình:
''Nhân dân Đông Dương đang kháng chiến,
muốn thắng lợi phải chống các bè phái và mọi mưu mô chia rẽ Đảng, củng cố
Mặt trận dân tộc thống nhất chống thực dân Pháp xâm lược''.
''Sự thật ra đời cốt để góp phần vào
công cuộc ấy''.
“Sự thật sẽ kiên quyết, thẳng thắn
nói thật những điều đáng nói, mặc dù phải làm mất lòng những kẻ vì hoài nghi
hay sự ích kỷ không chịu thừa nhận rằng: khối đoàn kết giữa các tầng lớp nhân
dân, giữa các dân tộc Đông Dương là một sự thật, cuộc kháng chiến anh dũng và
có kết quả của đồng bào Nam Bộ, của liên quốc Việt - Lào là một sự thật. Sự ủng
hộ của giai cấp cần lao và các dân tộc yêu chuộng tự do, hòa bình thế giới đối
với cục diện kháng chiến của nhân dân Đông Dương và Nam Dương là một sự thật''.
Có thể nói Sự thật là một trong
những tờ báo bấy giờ có tính bao quát nhất về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội. Mặc dù là một tờ báo, nhưng các bài viết trên Sự thật thưởng
dài, nghiên cứu chuyên sâu về một vấn đề hay lĩnh vực nào đó, rất gần với tạp
chí hay dạng sách huấn luyện. Việc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng luôn được
báo đặt lên hàng đầu. Trước sự chống phá ngày càng ác liệt của Việt Quốc, Việt
Cách, Sự thật đã tự nhận trách nhiệm chống lại luận điệu vu khống, xuyên
tạc của kẻ thù, làm cho nhân dân thấy rõ bản chất xấu xa của bọn đế quốc, ngày
càng tin tưởng hơn vào cách mạng. Ngay trong số đầu tiên (5-12-1945), Sự
thật đã có bài ''Bức thư ngỏ cùng anh em Việt Nam Quốc dân Đảng trong nhóm
Việt Nam'' - Báo Việt Nam. Bài báo đã lột mặt nạ đạo đức giả của những kẻ tự
nhận là Đảng quốc dân: ''Không kể chi những chuyện xa xôi, hãy nói tới những
cuộc khởi nghĩa hay tranh đấu cách mạng từ chiến tranh đến giờ: Bắc Sơn - Nam
Kỳ - Đô Lương, kháng Nhật cứu nước 9-3, khởi nghĩa 19-8. Trong những giờ phút
thiêng liêng ấy các anh ở đâu. Biết bao lần các đoàn thể cứu quốc trong Việt
Minh gọi các anh không thấy. Vắng các anh, người ta tự đoàn kết cứu nước, cứu nòi.
Nay quốc dân do Việt Minh lãnh đạo đã giành được chính quyền. Cơ hội thuận tiện
các anh nhảy ra hô hào hợp tác, tán thành lắm. Bây giờ các anh mới đòi hợp tác,
kể cũng hơn muộn, nhưng muộn còn hơn không. Vậy xin mời các anh hãy lên đường
cùng chúng tôi Nam tiến ngăn quân giặc''. Mặc dù rất bao dung, nhún nhường,
nhưng Sự thật cũng khá cương quyết với các nguyên tắc:
“1. Đoàn kết hợp tác giữa tất cả các đoàn
thể chân chính yêu nước nhưng không đoàn kết vô nguyên tắc với bọn phản quốc.
2. Sự đoàn kết thành thực giữa các đảng
phái cách mạng chỉ có thể đặt trên nền tảng hành động chung.
3. Cấm chỉ mọi hành động có hại cho đất
nước, có lợi cho địch, nhất là việc gièm pha cuộc kháng chiến và mạt sát chính
phủ kháng chiến, thì là cơ quan ngôn luận của Đảng (trên danh nghĩa là của Hội
Nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương), Sự thật luôn đi đầu trong việc
đấu tranh, bảo vệ chủ trương, đường lối của chính quyền Việt Minh, bênh vực cho
quyền lợi hợp pháp của người dân Việt Nam. Báo đã dành dung lượng rất lớn tuyên
truyền cho cuộc bầu cử Quốc hội, coi đây là bổn phận, quyền lợi, trách nhiệm
của mỗi người dân đang sống trong môi trường tự do, dân chủ.
Ngoài những nội dung chính trị trên, Sự
thật không xem nhẹ mảng đề tài kinh tế, văn hóa - xã hội. Hàng chục năm
chịu sự cai trị hà khắc của Pháp và Nhật, nền kinh tế Việt Nam đã kiệt quệ.
Hàng triệu người chết đói từ thành thị đến thôn quê, chính quyền cách mạng non
trẻ cùng một lúc phải đương đầu với ba kẻ thù: giặc đói, giặc đốt và giặc ngoại
xâm. Trên tinh thần phong trào ''Nhịn ăn một bữa trong một tuần'' do Hồ Chủ
tịch phát động, Sự thật đã cùng các tờ báo cách mạng khác ra sức hô hào,
vận động cán bộ nhân dân hưởng ứng với những khẩu hiệu truyền thống đã ăn sâu
vào tiềm thức của người dân Việt Nam như ''Lá lành đùm lá rách'', ''Bầu ơi
thương lấy bí cùng'', ''Một miếng khi đói bằng một gói khi no''... Với tinh
thần đùm bọc trên, chỉ trong một thời gian ngắn, nạn đói đã được đẩy lùi.
Ngay sau ngày giành được chính quyền, Hồ
Chủ tịch đã nhận thức rõ kẻ thù tiềm ẩn, lâu dài nhất đối với dân tộc ta không
phải là giặc đói, giặc ngoại xâm mà là giặc dốt. Sau ngày đọc Tuyên ngôn độc
lập 1 tuần, ngày 8-9-1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh thành lập cơ quan
Bình dân học vụ, ra lời kêu gọi toàn dân tham gia xóa nạn mù chữ. Từ chỗ hơn
90% dân số không biết chữ, đến đầu tháng 3-1946 riêng ở Bắc Bộ và Trung Bộ đã
có gần 3 vạn lớp học với 81 vạn học sinh. Để đạt được điều đó, có vai trò rất
lớn của báo chí. Trong ''bước đầu tiên trong công cuộc chống nạn mù chữ'', trên
báo Sự thật, tác giả Dương Quang đã viết: ''Người chưa biết chữ hăng hái
đi học như đi giết giặc, người biết chữ rồi thì vợ dạy chồng, em dạy anh, chủ
nhà dạy đầy tớ. Lớp học ở đình chùa, ở trong nhà, ở giữa chợ, ở gốc cây, ở bờ
ruộng, ở xưởng thợ, ở bệnh viện, ở bến xe, ở xóm ả đào, ở cả nhà tù. Kết quả
sau 4 tháng các chiến sĩ xã hội đã đưa trên dưới 1 triệu người ra khỏi mù
chữ''... Sự thật đã góp phần vận động trí thức đi về nông thôn, đề ra
các phương pháp truyền đạt kiến thức sao cho có hiệu quả nhanh nhất. Việc xây
dựng nếp sống mới được Sự thật hết sức chú trọng. Báo có nhiều bài phê
phán lối sống cũ để lại, đề cao các hình thức cưới xin, ma chay lành mạnh, tiết
kiệm, góp phần làm thay đổi lối sống của người dân.
Sau ngày toàn quốc kháng chiến, báo Sự
thật chuyển lên Việt Bắc, tiếp tục là cơ quan ngôn luận chính của Đảng. Khi
Đảng ra hoạt động công khai (1951) báo Sự thật hoàn thành sứ mệnh lịch
sử, nhường vị trí vinh dự của mình cho báo Nhân dân.
c) Báo Độc lập
Báo Độc lập là cơ quan ngôn luận của
Đảng Dân chủ Việt Nam, xuất bản bí mật từ năm 1944. Có thể nói, ngay từ đầu,
những người sáng lập Đảng Dân chủ mà cơ quan ngôn luận của nó là báo Độc
lập nói riêng đã tự coi mình là thành viên của Mặt trận Việt Minh. Tuy
nhiên vì những lý do lịch sử, từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945 trở về trước, báo
Độc lập chưa bộc lộ thái độ chính trị rõ ràng, tuy đặt mình ở thế yêu
nước nhưng trung lập. Mối liên hệ trực tiếp giữa Đảng Dân chủ với Đảng Cộng sản
Việt Nam hầu như chưa được xác lập. Quan điểm này đã hoàn toàn thay đổi khi báo
chuyển về Hà Nội sau ngày Việt Minh giành được chính quyền trong cả nước. Lúc
đầu báo đặt trụ sở tại số 9 phố Ngô Quyền, sau chuyển sang số 5 phố Một Cột,
đến khi toàn quốc kháng chiến lại chuyển lên Việt Bắc.
Để đáp ứng nhu cầu người dân sống trong chế
độ mới, báo Độc lập ra bộ mới, phát hành hàng ngày, triệt để thay
đổi nội dung, hình thức. Báo do ông Nguyễn Thành Lê phụ trách với cương vị quản
lý (tương đương với Tổng biên tập hiện nay) in khổ 41x29cm, 2 trang, giá 5 hào.
Từ ngày 10-2-1946 báo ra 4 trang giá bán 8 hào thông được vài hôm lại quay về
như cũ. Khi ở Hà Nội, báo Độc lập in tại Việt Nam ấn quán số 8 - 10 - l2
phố Phan Chu Trinh, số lượng phát hành từ 3.000 - 5.000 bản/kỳ. Vì phát hành từ
5 giờ chiều hàng ngày nên tin tức báo Độc lập thường có tính thời sự
cao. Thông thường ở góc bên trái trên cùng tờ báo có bài xã luận khá dài
viết về các vấn đề xã hội lớn xảy ra trong nước hoặc một sự kiện nào đó của thế
giới có liên quan ít nhiều đến cách mạng nước ta. Góc bên phải đăng tải các tin
tức quan trọng xảy ra trên thế giới, dưới đó có một bài thời luận (dạng bình
luận) bàn về một vấn đề nổi cộm nào đó của nước ngoài. Trang 2 dành cho các mục
cố định như Đời sống mới, giải thích, phân tích văn bản, đăng
thông cáo của Chính phủ, góp ý trả lời bạn đọc, tin vắn bốn phương, quảng cáo
và các phần tiếp theo của trang. Phần dưới cùng của cả hai trang là khẩu hiệu
hô hào dân chúng làm theo chủ trương, chính sách của Mặt trận Việt Minh, của
Chính phủ. Các khẩu hiệu này thay đổi luôn tuỳ theo tình hình, nhiệm vụ chính
trị của cách mạng.
Trong thời gian đầu, vì đội ngũ phóng viên,
cộng tác viên của báo Độc lập rất hạn hẹp nên phần tin thế giới chiếm
dung lượng khá lớn, lấn lướt phần tin trong nước. Chất lượng tin trong nước lúc
này cũng không cao, chủ yếu lấy từ các cơ quan chính phủ, từ Thông tấn xã Việt
Nam. Nội dung tin nghèo nàn chỉ xoay quanh diễn biến chính trị ở Hà Nội, Sài
Gòn, ít đề cập đến nông thôn, đặc biệt là các vùng sâu, vùng xa. Từ đầu năm
1946, bộ máy hoạt động của báo Độc lập được cải thiện nhiều. Phần
tin trong nước bắt đầu được chú trọng, có bề dày và chiều sâu hơn. Vì là nhật
báo nên báo Độc lập được Nhà nước cung cấp giấy và các vật liệu
in ấn với giá rẻ. Tuy nhiên, vì hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ gặp nhiều khó
khăn nên mọi sự ưu đãi cũng có giới hạn. Giấy cung cấp chỉ đủ cho vài ngàn tờ,
báo muốn in thêm phải mua tại chợ đen với giá cắt cổ. Chất lượng giấy cũng
không ổn định, lúc đen, lúc trắng, lúc khổ to, lúc khổ nhỏ, dày mỏng khác nhau.
Để giảm những chi phí không cần thiết, trong gần một năm hoạt động (từ cuối năm
1945 đến giữa năm 1946) báo Độc lập hầu như không sử dụng tranh, ảnh
minh họa. Đến tháng 5-1946 trở về sau, tình trạng trên mới được khắc phục,
nhưng cũng chỉ có tranh mà không có ảnh, kể cả trong các số kỷ niệm. Nhằm gây
ấn tượng cho bạn đọc, các họa sĩ cố gắng trình bày trang sao cho hấp dẫn. Các
đầu đề dùng nhiều kiểu chữ khác nhau và thường bỏ dấu, buộc bạn đọc phải chú
tâm vào mới hiểu được. Tít bao giờ cũng xoáy vào vấn đề trọng tâm của bài, kích
thích tối đa trí tò mò của độc giả. Vì là một tờ báo thông tin, Độc lập chú
trọng sử dụng các thể loại tin như: tin (gồm cả tin vắn, tin ngắn và tin sâu có
bình luận), thời luận (bình luận), xã luận nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin nhanh
của một tờ nhật báo. Thỉnh thoảng báo mới dùng tường thuật, phóng sự (thường là
dài kỳ, in đậm dấu ấn cái tôi tác giả, rất gần dạng ký sự đường xa). Trong
những số đầu, đôi khi báo độc lập sử dụng tác phẩm hoặc bình luận văn
học dịch từ nước ngoài, hầu hết của Liên Xô, Trung Quốc. Từ tháng 7-1946, Đảng
Dân chủ Việt Nam cho ra thêm tờ Tạp chí Độc lập cơ quan nghiên cứu chính
trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, Tạp chí thường in 120 trang với đội ngũ biên tập
rất hùng hậu gồm Văn Cao, Cù Huy Cận, Nguyễn Đỗ Cung, Đỗ Đức Dục, Xuân Diệu, Tạ
Mỹ Duật, Hoàng Văn Đức, Dương Đức Hiền, Vũ Đình Hòe, Ưng Ngọc Ký, Nguyễn Thành
Lê, Vũ Bộ Liên, Phạm Lại, Nguyễn Văn Luyện, Đặng Thai Mai, Lưu Hữu Phước, Tôn
Quang Phiệt, Nguyễn Xuân Sanh, Hoàng Đạo Thuý, Huỳnh Văn Tiểng, Mạnh Phú Tư...
Nhiều người trong số này kiêm thêm việc lãnh đạo và biên tập cho cả báo Độc
lập.
Là một tờ báo có chân trong Mặt trận Việt
Minh, Độc lập rất chú trọng đến các chủ trương, chính sách do Mặt trận
đề ra. Tuy nhiên, do khuôn khổ có hạn nên báo không thể bao quát được hết mọi
mặt đời sống xã hội. Báo ít tuyên truyền các lĩnh vực kinh tế, văn hóa mà tập
trung vào các vấn đề chính trị lớn ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội. Các phong
trào được các báo khác phát động rầm rộ như Tuần lễ vàng, Phong trào tiết kiệm,
Phong trào tăng gia sản xuất, Diệt giặc dốt, thì báo Độc lập lại chỉ đề
cập đến ở mức vừa phải. Trong khi đó, đối với phong trào Nam tiến, ủng hộ cuộc
kháng chiến của đồng bào Nam Bộ, Độc lập luôn có bài bày tỏ chính kiến
của mình. Khi quân đội Tưởng và tay chân gây sức ép đòi Chính phủ lâm thời Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa phải giải tán một số bộ, đòi Đảng Cộng sản phải san xẻ
quyền lực, thành lập chính phủ liên hiệp, thay đổi quốc kỳ, báo Độc lập
đã có hàng loạt bài xã luận, đăng ý kiến của các tập thể, cá nhân phản đối
những đòi hỏi vô lý đó. Khi Chính phủ ta sang Pháp ký Hiệp định Sơ bộ
(6-3-1946) báo Độc lập luôn cố gắng theo sát tình hình. Để chống lại sự
xuyên tạc của kẻ thù, báo Độc lập đã sát cánh cùng Cứu quốc (Mặt
trận Việt Minh), Sự thật (Cơ quan nghiên cứu chủ nghĩa Mác) đăng hàng
loạt bài trong đó một mặt tố cáo dã tâm của Việt Quốc, Việt Cách, phân tích,
giải thích cho dân hiểu chủ trương sáng suốt của Đảng và Nhà nước, đồng thời
góp phần trấn an dư luận với các bài tiêu biểu như: ''Chúng ta phải hiểu hiệp
định Việt - Pháp thế nào'', ''Trong giai đoạn mới tích cực hoạt động thế
nào'', “Vấn đề quân đội'', ''Hiệp định Sơ bộ ký kết trên những nguyên tắc
nào''. Đối với các hoạt động ngoại giao khác như việc chuẩn bị hội nghị trù bị
Đà Lạt, việc Chính phủ ký tạm ước (14-9-1946) với Pháp, báo Độc lập bao
giờ cũng trung thành với nguyên tắc: ủng hộ tuyệt đối Đảng Cộng sản, Mặt trận
Việt Minh và Chính phủ liên hiệp (sau này là Chính phủ kháng chiến). Khi đất
nước nảy sinh những vấn đề lớn, nghiêm trọng, báo Độc lập bao giờ cũng
in khẩu hiệu chữ đậm ở dưới cùng mỗi trang báo để bày tỏ thái độ, chính kiến
của mình. Các nội dung của khẩu hiệu luôn phù hợp với chủ trương của Mặt trận
Việt Minh, của Đảng Cộng sản Việt Nam (hoạt động bí mật dưới danh nghĩa cơ quan
nghiên cứu chủ nghĩa Mác từ tháng 11-1945). Chẳng hạn, trước thực tế bọn
phản động Việt gian xuyên tạc Hiệp định Sơ bộ (6-3-1946) trong gần một tháng
trời báo Độc lập đã dùng khẩu hiệu ''Đoàn kết, bình tĩnh, chuẩn bị, kỷ
luật'' cùng hàng loạt bài giải thích cho nhân dân ý đồ của Chính phủ. Cũng có
khi trong cùng một số báo. Ở mỗi trang, Độc lập có các khẩu hiệu khác
nhau phục vụ cho nhiều nội dung xã hội.
Trước khi kháng chiến toàn quốc nổ ra, báo Độc
lập đã có nhiều bài kêu gọi dân chúng ủng hộ đường lối kháng chiến kiến
quốc của Mặt trận Việt Minh. Công tác chuẩn bị kháng chiến vườn không nhà
trống, tố cáo dã tâm xâm lược của kẻ thù là những nội dung chính báo Độc lập
đề cập đến trong những tháng cuối năm 1946. Từ quãng thời gian này trở về
sau báo không còn giữ hình thức trung lập nữa mà nghiêng hẳn về phía những
người cộng sản. Tư tưởng này đặc biệt bộc lộ rõ khi Độc lập chuyển lên
Việt Bắc.
d) Báo Lao động
Sau Cách mạng Tháng Tám, báo Lao động
chuyển từ bí mật ra công khai, tòa soạn đặt tại 51 phố Hàng Bồ, Hà Nội, do ông
Trần Quốc Diệp (tức Trần Lưu Trác) làm Chủ nhiệm. Trong những số đầu, báo hoạt
động trên danh nghĩa cơ quan tuyên truyền huấn luyện của Việt Nam Công nhân cứu
quốc miền Bắc (trong Việt Minh), sau mở rộng phạm vi hoạt động thành Cơ quan
Thông tin tuyên truyền tranh đấu của công nhân Việt Nam. Ngày 20-7-1946 Tổng
Liên đoàn Lao động Việt Nam được thành lập và từ số 24 ra ngày 3-8-1946 báo Lao
động trở thành diễn đàn của tổ chức cho đến nay.
Trong quãng thời gian từ cuối năm 1945 đến
đầu năm 1946 báo Lao động ra 2 trang khổ lớn (420x295mm) giá bán 0đ5
(sau tăng lên 0đ8). Khi chuyển lên chiến khu, báo Lao động được bổ sung
thêm một số gương mặt như: Nguyễn Huy Đàn, Lưu Huy Hòa, Đỗ Như Khánh, Phạm Văn
Nhàn, Nguyễn Minh Tần (họa sĩ)... Nhờ sự hoạt động tích cực của đội ngũ này mà
báo Lao động có một diện mạo khác hẳn với tờ báo cùng thời với
những trang mục hết sức ấn tượng. Mặc dù nhiều lần nhắc đi nhắc lại là tờ báo
không chịu sự chi phối của bất kỳ tổ chức chính trị nào, nhưng vừa ra công khai
Lao động đã mở mục Chống tơrốtxkít do Nguyễn Quang Huy phụ trách,
phê phán mạnh mẽ tính chất phản động, giả danh cộng sản để chống cộng sản của
phe nhóm này. Qua chuyên mục Chống tơrốtxkít báo đã gián tiếp thừa nhận
vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng nước ta, tạo niềm
tin cho quần chúng nhân dân đối với Đảng.
Lúc đầu, Lao động ra hàng tuần vào
thứ 7, in typô tại nhà in riêng, mỗi số phát hành từ 1.500 đến 2.000 bản, sau
tăng dần lên tới 6.000 bản/kỳ. Tại trang 1 phía góc trái trên cũng thường là
câu khẩu hiệu được đóng khung, nội dung đề cập đến một vấn đề xã hội nào đó
đang được nhân dân cả nước quan tâm. Phía dưới là bài thời luận (nếu bàn
về quốc tế) hoặc xã thuyết (bàn về vấn đề trong nước). Góc bên phải là
phần tin tức hoạt động công đoàn các nước. Giữa trang đăng văn bản mới của
chính quyền và chính kiến của báo Lao động đối với văn bản đó. Dưới cùng
trang nhất lại là khẩu hiệu khác in chữ to, đậm, chạy suốt chiều ngang trang
báo kiểu như ''Tăng gia sản xuất” “Giờ làm cứu nước''. Số chuyên mục phong phú
nhất tập trung ở trang 2. Có những mục chỉ xuất hiện một lần trong tháng như Tự
do diễn đàn, Công nhân tập viết. Trong số này đáng chú ý nhất
là các mục Rút kinh nghiệm, Trên đe dưới búa, Tự phê bình, Lao động
trả lời, Công nhân đọc sách. Các mục này tuy đề cập đến những vấn đề
khác nhau, nhưng lại có chung mục đích định hướng dư luận, xã hội. Mục Rút
kinh nghiệm viết về những yếu kém, những tồn tại của ta trong việc phát
động phong trào tăng gia sản xuất, tổ chức lớp học bình dân học vụ tại nông
thôn, những khó khăn khi làm thuỷ lợi ở miền núi... Mục Thư ngỏ cũng rất
gây ấn tượng với bạn đọc. Qua mục này, báo Lao động bày tỏ thái độ một
cách nhã nhặn, nhưng cũng không kém cương quyết đối với những oan trái như giới
chủ sa thải công nhân bừa bãi, tăng giờ làm, giảm lương trái luật, vì lợi nhuận
không chú tâm tới việc trang bị bảo hộ lao động... Bên cạnh đó báo còn có mục
nói nhỏ để uốn nắn những hành động, việc làm chưa đúng của công nhân như nghe
lời xúi giục của bọn phản động, bãi công không đúng lúc, còn manh động trong
đấu tranh đòi hỏi quyền lợi, chưa biết chia xẻ, đùm bọc nhau khi hoạn nạn...
Trong số này, có lẽ Trên đe dưới búa là mục được bạn đọc gần xa
hoan nghênh nhất. Mục này thường được ký bởi bút danh Búa Tạ, phê phán,
chỉ trích mọi kẻ thù của giai cấp cần lao, từ trò hề của Chính phủ bù nhìn
Nguyễn Văn Thinh, tội ác dã man của thực dân Pháp đối với Nam Bộ, cho đến bệnh
quan liêu cửa quyền bắt đầu xuất hiện trong một số vị ''quan cách mạng''...
Nhiều khi để chiều lòng bạn đọc, Trên đe dưới búa đã đi quá đà, công
kích kẻ thù không đúng lúc, ảnh hưởng tới uy tín của Đảng và Chính phủ, làm lộ
ý đồ chính trị của ta. Báo Lao động đã phản ứng lại bằng cách chỉ đăng
tên bài, còn phần nội dung để trắng, không thay vào đó nội dung khác ví dụ
trong số 35 ngày 24-10-1946, báo Lao động có bài ''Thôi đừng già họng
nữa'' lên án thái độ vừa ăn cướp vừa la làng của quân đội Pháp. Nội dung này
tuy đúng đắn nhưng vẫn bị kiểm duyệt toàn bộ vì dễ kích động thái độ hung hãn
của người Pháp, ảnh hưởng đến Tạm ước 14-9-1946. Mặc dù ghi là đại diện cho
giai cấp công nhân, nhưng thực chất Lao động là tờ báo của nhiều tầng
lớp nhân dân. Thỉnh thoảng báo vẫn có xã luận bàn về thuế nông nghiệp, làm thế
nào để thâm canh tăng năng suất, việc xây dựng nếp sống mới tại các làng quê,
công tác tổ chức hợp tác xã nông nghiệp... Tuy nhiên, số bài viết về người nông
dân, trí thức, bộ đội chiếm tỷ lệ không lớn, không xuất hiện đều đặn, diện tích
mặt báo hầu hết dành cho công nhân. Qua Lao động, người công nhân có
điều kiện nói lên suy nghĩ, tâm tư, nguyện vọng của mình. Mỗi tháng một lần,
trang 3 của báo lại xuất hiện hai mục Công nhân tập viết và Lao động
trả lời. Bài vở nhận được, anh em trong tòa soạn lựa chọn cẩn thận rồi
cho đăng ở vị trí quan trọng. Đối với những câu hỏi liên quan đến luật lao
động, chế độ tiền lương hay đơn thuần chỉ là những vướng mắc trong công việc
của người công nhân, báo Lao động bao giờ cũng cố gắng giải đáp hết bằng
thư hoặc trực tiếp trên báo. Những nội dung nào chưa phù hợp hoặc chưa đạt yêu
cầu, báo tập hợp lại ở mục nhắn tin, nói rõ nguyên nhân bài không được đăng,
kèm lời động viên, khuyến khích tác giả. Việc là này đã tạo niềm tin cho độc
giả, gây cho họ cảm giác tờ báo chính là sân chơi chung cho mọi người bất kể họ
thuộc giới tính, trình độ, tuổi tác nào.
Khi chuyển lên Việt Bắc, Lao động
vẫn tiếp tục sứ mệnh bảo vệ quyền lợi cho người công nhân của mình. Tuy nhiên,
mọi sự phê phán những tiêu cực mới nảy sinh trong xã hội giờ phải gắn liền với
lợi ích dân tộc. Việc làm này đã dần dần biến Lao động từ một tờ
báo của một tầng lớp xã hội thành báo Đảng, đấu tranh hết mình cho sự nghiệp
giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đúng theo nguyện vọng của những người
sáng lập ra tờ Công hội đỏ vào năm 1929.
3. Sự ra đời một số cơ quan báo chí
a) Tạp chí Tiền phong
Năm 1943, Đảng công bố bản Đề cương văn
hóa Việt Nam và thành lập Hội Văn hóa cứu quốc Việt Nam. Ngay từ ngày đó
Hội đã chủ trương ra một tờ báo làm cơ quan ngôn luận riêng. Công việc được xúc
tiến khẩn trương và số cũng đã chuẩn bị xong, nhưng do tình hình chính trị Đông
Dương lúc đó diễn ra nhiều biến cố quan trọng nên báo không ra được. Cách mạng
Tháng Tám thành công, những người lãnh đạo Hội Văn hóa cứu quốc Việt Nam còn
phải giải quyết nhiều việc quan trọng hơn nên phải tới ngày 10-11-1945 Tiền
phong mới xuất bản số 1, đặt dấu ấn quan trọng cho dòng báo chí phục vụ văn
hóa – văn nghệ của Đảng. Trong mấy số đầu, Tạp chí Tiền phong được giao
cho nhà văn Nam Cao phụ trách với chức danh Thư ký tòa soạn (tương đương với
Tổng biên tập hiện nay). Bộ biên tập của tạp chí rất hùng hậu gồm đầy đủ các
văn nghệ sĩ cách mạng có tên tuổi của Việt Nam thuộc mọi lĩnh vực: thơ, văn,
nhạc, họa, sân khấu, lý luận phê bình như: Tâm Kính, Nam Cao, Ngô Quang Châu,
Xuân Diệu, Nguyễn Hữu Đang, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Vũ Hầu, Kim Lân, Đặng Thai
Mai, Nguyễn Công Mỹ, Vương Thế Nghiêm, Học Phi, Như Phong, Nhân Tâm, Nguyễn Huy
Tưởng, Hải Thanh, Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi, Trần Huyền Trân, Hải Triều, Bùi
Công Trừng. Việc trình bày tạp chí do các họa sĩ Nguyễn Thị Kim, Trần Văn Cẩn,
Nguyễn Đỗ Cung, Phạm Văn Đôn, Trần Đình Thọ phụ trách. Tòa soạn của Tạp chí Tiền
phong được đặt tại trụ sở của Hội Văn hóa cứu quốc, số 40, phố Quang Trung,
Hà Nội. Báo được in tại nhà in Lê Văn Tân, khổ 270x195mm. Những số đầu tiên,
báo ra 42 trang khá đều dặn, nhưng từ khoảng giữa những năm 1946 thì tuỳ theo
tình hình có khi chỉ ra 30 - 32 trang. Vào những ngày kỷ niệm báo thường in từ
80 đến 100 trang.
Tạp chí Tiền phong là dạng bán
nguyệt san, ra vào các ngày 1 và 16 hàng tháng, là cơ quan vận động văn hóa mới
của Hội Văn hóa cứu quốc Việt Nam. Báo phục vụ người đọc theo nguyên tắc ''Khoa
học khi đã đi sâu vào đại chúng cũng tác động như một sức mạnh vật chất''.
Ngoài ra trang bìa in 3 màu, các trang trong in 1 màu, giá bán khá cao, lúc đầu
3,5đ/số, sau tăng lên 5,0đ rồi 6,0đ/số. Tạp chí in typô, nét chữ nhỏ, rõ ràng,
giấy cũng tương đối tốt, lúc trắng, lúc đen, có khi sử dụng cả giấy màu vàng,
giấy gió. Sau gần chục số, Nam Cao đi nhận nhiệm vụ mới, Trần Huy Liệu về thay
thế chức danh chủ bút. Mặt sau của trang bìa là tranh áp phích hoặc khẩu hiệu
như: ''ủng hộ chính phủ Hồ Chí Minh'', ''Nước mới, người mới, đời sống
mới'' .. Phía dưới của những trang trong là quảng cáo, giới thiệu các loại sách
báo triết học, chính trị, văn nghệ. Tạp chí Tiền phong hầu như không
dùng ảnh, thỉnh thoảng mới có tranh minh họa của Bùi Xuân Phái, Trần Văn Cẩn,
Trần Đình Thọ. Tạp chí không có mục cố định, trừ phần ''Điểm tin văn hóa ở mấy
trang cuối. Về thể loại, Tiền phong chủ yếu sử dụng chính luận, truyện
ngắn, kịch, ký sự, thơ (trích lại từ các tập thơ đã xuất bản của Xuân Diệu,
Thâm Tâm, Trần Huyền Trân, Tế Hanh...) Nói chung Tiền phong ít sửa bài
của cộng tác viên. Bộ biên tập tạp chí làm việc rất xông xáo, năng nổ, tích
cực. Không có ai sáng tác chỉ trong phạm vi sở trường của mình. Xuân Diệu không
chỉ làm thơ mà còn viết cả truyện ngắn, phê bình văn học. Nguyễn Huy Tưởng vừa
viết ký sự, vừa sáng tác kịch ngắn kiêm luôn cả lý luận. Nguyễn Đình Thi vừa
làm thơ, vừa viết nhạc, truyện vừa và những bài có tính định hướng cho anh em
văn nghệ sĩ ''Văn nghệ với cuộc chiến đấu hiện thời của dân tộc'' (số ngày
1-12-1945)... Những người viết thuần một thể loại hoặc chuyên về
một vài lĩnh vực nào đó có Bùi Công Trừng, Minh Tranh, Ngô Quang Châu. Những
người viết bài có tính khái quát, tổng kết hoặc có ý nghĩa định hướng là Đặng
Thai Mai, Vũ Ngọc Phan, Lưu Hữu Phước, Lưu Quý Kỳ... Sau khi ra được ba số đầu,
số 4, số 5 của tạp chí không giữ tên Tiền phong nữa mà thay vào đó là
cái tên Nguồn sống mới (dạng chuyên đề bàn về vấn đề đặc biệt nào đó).
Từ số 6 lại trở về với cái tên Tiền phong quen thuộc.
Vì là cơ quan ngôn luận của một tổ chức văn
hóa lớn, nên phần lớn nội dung của Tiền phong chỉ bàn về các khía cạnh
của đời sống văn hóa - xã hội. Những vấn đề chính trị nếu có được đề cập cũng
có mối liên hệ ít nhiều với nội dung trên.
Nói chung, Tiền phong bám rất sát
với các chủ trương của Đảng và Nhà nước về văn hóa - xã hội. Đây là một trong
những tờ báo hoạt động hiệu quả nhất trong phong trào ''Diệt giặc đốt'' do Chủ
tịch Hồ Chí Minh phát động. Tạp chí không chỉ cử người tham gia, theo dõi
chương trình “Bình dân học vụ'' mà còn xây dựng kế hoạch, góp ý với Chính phủ
tiến hành cải cách chế độ cũ. Hầu như trong số nào Tiền phong cũng có
bài về vấn đề này. Tiêu biểu trong số đó là chùm bài về ngôn ngữ tiếng Việt của
tác giả Ngô Quang Châu (Vấn đề cải cách chữ quốc ngữ - số 1, Hợp lý hóa chữ
viết - số 14); Trần Huy Liệu (Bệnh dùng chữ Nho trong tiếng Việt - số 9); Giám
mục Hồ Ngọc Cẩn (Bàn góp về cải cách vần quốc ngữ - số 19)... Việc tiến hành
xây dựng nếp sống mới trong cả nước, đặc biệt là nông thôn cũng là nội
dung trọng yếu của Tiền phong. Tạp chí luôn có bài phê phán các di chứng
của chế độ cũ, đề cao, khuyến khích các làng xã ban hành hương ước, phát động
các phong trào thi đua xây dựng nếp sống mới giữa các cụm dân cư, giữa các gia
đình, cá nhân. Tiêu biểu trong số này phải kể tới các bài ''Địa vị Hải Phòng
trong văn hóa mới ngày mai'' - Trần Cư - số 21, ''Tiến tới đời sống mới'' -
Trần Huy Liệu - số 12. ''Chương trình và kế hoạch vận động đời sống mới”
- Ngô Quang Châu - số 12... Ngoài ra, tạp chí còn cho đăng các bài viết thể
hiện quan điểm về đời sống văn hóa mới của Bác Hồ, của văn nghệ sĩ và của các
nhà nghiên cứu văn hóa. Không đừng lại ở việc lên án cái cũ, Tiền phong còn
phê phán khá gay gắt những căn bệnh mới nảy sinh trong một bộ phận cán bộ, đảng
viên và quần chúng nhân dân như thói quan liêu, hống hách, ăn chơi, hưởng lạc,
tiêu sài vung phi, thói ăn diện, sùng ngoại, thói la cà hàng quán, rượu chè,
bài bạc...
Là cơ quan ngôn luận của tầng lớp văn nghệ
sĩ, nên trong số nào Tiền phong cũng dành dung lượng khá lớn cho các tác
phẩm nghệ thuật, ưu tiên số một cho tác phẩm mới được sáng tác. Viết nhiều nhất
cho Tiền phong là Xuân Diệu, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyên Hồng, Nguyễn Đình
Thi, Văn Cao, Trần Đăng, Lưu Hữu Phước, Mạnh Phú Tư, Tế Hanh, Trần Huyền
Trân... Nhiều tác phẩm đã để lại dấu ấn không thể phai mờ trong lòng bạn đọc
như: ''Một lần tới Thủ đô'' của Trần Đăng, bài hát “Chiến sĩ không quân'' của
Văn Cao, ''Rãnh cày nổi giận'' của Mạnh Phú Tư, các vở kịch ''Bắc Sơn'', ''Vết
cũ'' của Nguyễn Huy Tưởng... Nhưng có lẽ, cái làm bạn đọc quan tâm nhất là
những bài có tính định hướng văn nghệ, phê bình vô lý luận văn học.
Giữ vai trò trung tâm là các bài viết của
tác giả Đặng Thai Mai với ''Vấn đề lập trường trong văn nghệ'', Lưu Hữu Phước
với ''Tiếng ta với sự phổ nhạc và cách hát ngày nay'' - số 20. Học Phí có
''Nhiệm vụ của văn hóa trong thời kỳ kháng chiến kiến quốc”, số 18, Nguyễn Đình
Thi có ''Văn nghệ với cuộc chiến đấu hiện thời của dân tộc'' - số 2...
Vì là tờ tạp chí có tính cách văn nghệ đầu
tiên của chế độ dân chủ nhân dân nên Tiền phong không tránh khỏi những
hạn chế, vấp váp. Mặc dù quy tụ được khá đông đảo đội ngũ họa sĩ nổi tiếng
nhưng cách trình bày tạp chí còn đơn điệu, quá chân phương, ở một vài số, có
thể do chưa có kế hoạch từ trước, tình trạng bài vở còn lôn xộn, gay cảm giác
không có sự lựa chọn bài hoặc chưa cân nhắc kỹ càng khí chọn bài. Một số tác
phẩm có giá trị nghệ thuật cao nhưng không được sử dụng đúng lúc, đúng chỗ nên
hiệu quả phản ánh, giáo dục bị giảm. Chẳng hạn, trong lúc nhân dân cả nước đang
hừng hực khí thế cách mạng, đang rất cần những tác phẩm mô tả không khí đó thì Tiền
phong lại cho đăng truyện ngắn ''Mò sâm banh” của Nam Cao. Tuy câu chuyện
được phản ánh bởi bút pháp hiện thực phê phán đã một thời được các cây bút tiểu
tư sản thành thị ưa dùng, được đông đảo bạn đọc Việt Nam trước năm 1945 yêu
thích, nhưng giờ đây, chúng đã trở nên lạc lõng so với phương pháp sáng tác
hiện thực cách mạng. Nhiều bài thơ (nhất là những tác giả trước đây có chân
trong Tự lực văn đoàn) có nội dung trong sáng, tin tưởng ở cách mạng nhưng cách
biểu hiện vẫn chưa thoát khỏi phương thức cũ. Các tôi đôi khi vẫn được đề cao.
Hình ảnh người chiến sĩ cách mạng có lúc được mô tả như người khách chính phủ,
giàu lòng nghĩa hiệp nhưng lại xa rời quần chúng, không thực tế...
Ngày 19-12-1946 cả nước đồng lòng đứng lên
làm cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ. Tiền phong cũng theo gót chân
kháng chiến lên chiến khu Việt Bắc, kết thúc 24 số xuất bản ngay trong lòng Thủ
đô Hà Nội. Nhờ tôi rèn trong khói lửa chiến tranh, văn nghệ sĩ Việt Nam ngày
càng trưởng thành hơn. Nhiều biên tập viên, phóng viên của Tiền phong như
Nam Cao, Trần Đăng đã ngã xuống trong chiến tranh, đóng góp xương máu cho cuộc
chiến đấu chống thực dân Pháp, giải phóng dân tộc, bảo vệ những thành quả của
cách mạng.
b) Qúa trình hình thành Thông tấn xã
Việt Nam
Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ở Việt
Nam nói riêng, toàn Đông Dương nói chung chưa có hãng thông tấn. Mọi tin tức,
báo chí sử dụng thời kỳ này đều lấy từ các hãng thông tấn nước ngoài chủ yếu là
của Pháp và Nhật. Sau ngày giành được độc lập, vừa đặt chân về đến Hà Nội, Bác
Hồ lúc đó giữ cương vị Chủ tịch lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã chỉ
thị cho Bộ Thông tin - Tuyên truyền phải gấp rút bằng mọi giá xây dựng hệ thống
thu phát sóng.
Để thuận lợi cho công việc và cũng do cơ sở
vật chất lúc đó còn khó khăn, thiếu thốn nên cả hai bộ phận phát sóng (Đài
Phát thanh tiếng nói Việt Nam) và thu sóng (Thông tấn xã Việt Nam) vẫn cùng ở
trong một tổ chức điều hành, trực thuộc Nha Thông tin, Bộ Thông tin - Tuyên
truyền (sau này Nha Thông tin trở thành bộ phận của Bộ Nội vụ). So với bộ phận
phát sóng, bộ phận thu sóng có nhiều thuận lợi hơn vì phòng thu tin của Pháp để
lại ở nhà số 6 phố Pierre Pasquier (nay là phố Điện Biên Phủ) đã khá hoàn chỉnh
không cần cải tiến, sửa chữa nhiều. Chính vì vậy, sau khi nhận được chỉ thị ít
ngày, bộ phận thu tin (Thông tấn xã Việt Nam) đã tổ chức thu tin từ các hãng
thông tấn nước ngoài, tin của quân đội Pháp ở Sài Gòn. Tuy nhiên ngày 23-8-1945
không được coi là ngày khai sinh ra Thông tấn xã Việt Nam bởi mọi tin
tức lúc này chưa phổ biến cho các báo mà chủ yếu nhằm giúp Chính phủ nắm được
tình hình trong và ngoài nước, từ đó có kế sách kịp thời đối phó với âm mưu,
thủ đoạn của kẻ thù. Ngày 7-9-1945, Đài Tiếng nói Việt Nam chính thức ra
mắt. Ngoài chương trình tiếng Việt, Đài Tiếng nói Việt Nam còn phát hai chương
trình tiếng Anh Pháp tổng cộng 30 phút. Đây cũng chưa phải thời khắc ra đời
Thông tấn xã Việt Nam bởi thực tế Thông tấn xã Việt Nam lúc này vẫn chưa có hô
hiệu chính thức, các bản tin cũng chưa được biên tập theo thể văn
thông tấn như ở nước ngoài. Ngày 15-9-1945, khi Đài phát sóng Bạch Mai phát đi
toàn thế giới bản Tuyên ngôn độ lập và danh sách Chính phủ lâm thời nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa bằng ba thứ tiếng Việt - Anh - Pháp với các hô hiệu VNTTX,
VNA, AVI, đánh dấu thời điểm khai sinh chính thức của Thông tấn xã Việt Nam.
Vì bộ máy nhân sự, cũng như điều kiện vật chất
lúc này của Thông tấn xã Việt Nam còn nghèo nàn nên việc tổ chức cung cấp tin
cho các báo trong cả nước chưa thể thực hiện được. Việc lập phân xã tại các địa
phương hoặc đặt cơ quan thường trú tại nước ngoài cũng chưa được đặt ra. Chính
vì vậy mà mảng tin trong nước của Thông tấn xã Việt Nam vào thời điểm những năm
1944 - 1946 thường bị chậm, không đầy đủ, toàn diện. Đối với phần tin tức thế
giới cũng vậy, Thông tấn xã Việt Nam thời kỳ này chưa có mối quan hệ với các
hãng thông tấn nước ngoài nên không được cung cấp tin tức một cách trực tiếp.
Các biên tập viên (Trần Văn Chương phụ trách phần tiếng Anh, Lê Chân, Nguyễn Tư
Huyên phụ trách phần tiếng Pháp) phải thay phiên nhau nghe đài BBC, VOA, chương
trình tiếng Anh của đài Mátxcơva, đài Paris..., ghi chép rồi chọn lọc, biên
soạn lại cho thích hợp. Ngoài ra, họ còn sử dụng cả các nguồn tin lấy từ báo,
tạp chí nước ngoài (mượn hoặc xin các cơ quan nước ngoài đóng ở Hà Nội) như
Time, Newsweek, Reader's Digest...
Để kiểm soát tốt thông tin, cuối năm 1945 Nha
Thông tin - Tuyên truyền được chuyển từ Bộ Tuyên truyền sang Bộ Nội vụ đặt trụ
sở tại nhà số 71, phố Gambeta (nay là phố Trần Hưng Đạo). Nha Thông tin do đồng
chí Nguyễn Tấn Gi Trọng làm Giám đốc, đồng chí Trần Kinh Xuyến làm Phó Giám đốc
(bao gồm cả Đài Tiếng nói Việt Nam và Thông tấn xã Việt Nam). Vì là cơ quan đầu
nguồn nên mọi tin tức do Thông tấn xã Việt Nam biên soạn bao giờ cũng mang tính
chính thống, được coi như tiếng nói chính thức của Đảng và Nhà nước ta. Vào dịp
Tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Thông tấn
xã Việt Nam đã chủ động ra một bản tin bằng tiếng Pháp để phân phát cho các
báo, thông qua Đài Tiếng nói Việt Nam công bố sự kiện này ra thế giới. Thông
qua các bản tin này, người dân Việt Nam lần đầu tiên hiểu rõ quyền công dân của
mình, từ đó xác định trách nhiệm đối với việc xây dựng, bảo vệ chế độ, nghĩa vụ
của mỗi cá nhân trước những đòi hỏi của một xã hội tự do, công bằng, dân chủ.
Để ủng hộ và nắm bắt kịp thời mọi thông tin của cuộc kháng chiến chống Pháp tại
Nam Bộ, Thông tấn xã Việt Nam đã cử phóng viên đi theo các đoàn quân Nam tiến.
Phóng viên Nguyễn Bá Khoản là một trong những người đầu tiên có mặt tại các
vùng bưng biền Nam Bộ. Các bài viết, đặc biệt là hàng trăm bức ảnh của ông là
bằng chứng quý giá về tinh thần đấu tranh bất khuất của người dân nơi đây trước
kẻ thù xâm lược.
Từ đầu tháng 8-1946, Thông tấn xã Việt Nam
phát hành thêm bản tin tiếng Anh, mở rộng đối tượng phục vụ đến từng cơ quan
báo chí. Từ thời điểm đó phần tin thế giới trên mỗi tờ báo đã phong phú, đa
dạng hơn. Trong các dịp đoàn đại biểu Chính phủ ta sang Pháp ký Hiệp định Sơ bộ
6-3-1946, Tạm ước 14-9-1946, Thông tấn xã Việt Nam đều cử phóng viên đi theo.
Ngoài nhiệm vụ thông tin, tường thuật diễn biến các cuộc họp một cách nhanh nhất,
mà thông qua các bài viết họ còn cố gắng bộc lộ chính kiến của mình đối với các
chủ trương, sách lược sáng suốt đúng đắn của Đảng và Chính phủ ta. Đây là việc
làm khó bởi theo thông lệ, chức năng chính của một hãng thông tấn là chỉ có
nhiệm vụ cung cấp thông tin một cách nhanh nhất, tránh đưa ra những đánh giá có
tính thiên kiến. Để định hướng tốt dư luận và cũng để báo chí không vượt ra
ngoài quỹ đạo chung. Thông tấn xã Việt Nam chủ trương mọi thông tin cung cấp
cho các báo phải trung thực và được chọn lựa kỹ càng. Mọi thông tin có hại cho
lợi ích dân tộc đều cương quyết bị loại bỏ. Những tin tức quá xa vời không có
mối liên hệ nào với nội tình đất nước, chỉ có ý nghĩa kích thích tò mò
hoặc thỏa mãn thị hiếu tầm thường của độc giả, dễ làm băng hoại đạo đức, thuần
phong mỹ tục của dân tộc cũng không được Thông tấn xã Việt Nam sử dụng. Đối
tượng hàng đầu của Thông tấn xã Việt Nam lúc này là các thông tin chính trị,
quân sự. Các thông tin về kinh tế, văn hóa nhiều khi bị coi là thứ yếu. Đây
chính là hạn chế của Thông tấn xã Việt Nam không chỉ xuất hiện trong năm đầu
độc lập (1945 - 1946) mà còn biểu hiện trong suốt 9 năm kháng chiến chống thực
dân Pháp.
Nói chung, với hơn một năm hoạt động, Thông
tấn xã Việt Nam đã có những đóng góp to lớn cho công tác đối ngoại của Đảng và
Nhà nước ta. Các bản tin của Thông tấn xã Việt Nam được thể hiện trên hệ thống
phát thanh đã cho thế giới biết đến một nước Việt Nam yêu chuộng tự do, độc
lập, quyết tâm đấu tranh đến giọt máu cuối cùng để bảo vệ nền tự do, độc lập
ấy. Tuy nhiên, vì thời gian quá ngắn trong khi đất nước còn gặp muôn vàn khó
khăn, thiếu thốn, Thông tấn xã Việt Nam chưa có điều kiện mở rộng quy mô hoạt
động.
c) Sự ra đời và phát triển của Đài Phát
thanh tiếng nói Việt Nam
- Sự hình thành hệ thống phát thanh cách
mạng tại Bắc Bộ
Vừa giành được chính quyền ở Hà Nội
(19-8-1945), lãnh đạo Đảng và Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
đã có chỉ thị phải gấp rút xây dựng một đài phát thanh chuẩn bị cho ngày Bác Hồ
đọc bản Tuyên ngôn độc lập và lễ ra mắt chính quyền nhân dân. Nhận được lệnh
của đồng chí Xuân Thuỷ (Nguyễn Trọng Nhâm), các ông Trần Kim Xuyến, Chu Văn
Tích, Trần Lâm bắt tay ngay vào việc tổ chức, xây dựng Đài Phát thanh. Hoàn
cảnh lúc đó hết sức khó khăn. Dưới chế độ cũ, Hà Nội chưa có đài phát thanh,
mới chỉ có Sở Vô tuyến điện viễn thông dùng để liên lạc với Sài Gòn, Paris bằng
tín hiệu morse. Cả ba cán bộ đứng ra thành lập đài phát thanh đều là những
thanh niên, sinh viên yêu nước đi theo cách mạng. Họ hầu như chưa có chút kiến
thức nào về kỹ thuật điện tử và nghiệp vụ làm các chương trình phát thanh.
Được sự đồng ý của các cấp lãnh đạo, ông
Trần Kim Xuyến đã mời một số nhân viên kỹ thuật của chế độ cũ tham gia xây dựng
Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam. Chỉ trong 10 ngày, một trung tâm phát sóng
radio đã ra đời tuy vẫn còn hết sức thô sơ, lạc hậu. Ngày 2-9-1945 lời Bác Hồ
đọc bản Tuyên ngôn đã được phát lên không trung trong buổi phát thanh đầu tiên.
Do máy phát sóng công suất quá nhỏ, lại không phải dạng máy chuyên dụng, nên
tiếng nói của Bác Hồ nghe không được rõ lắm. Vì sự hạn chế về chất lượng phát
sóng và việc xây dựng studio chưa được hoàn chỉnh nên sau buổi phát thanh đó,
Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam tạm ngừng hoạt động để tu bổ máy móc, thiết
bị. Đến ngày 7-9-1945, Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam mới
chính thức đi vào hoạt động. Đây được coi là ngày truyền thống của ngành. Hai
phát thanh viên đầu tiên của Đài là chị Dương Thị Ngân và anh Nguyễn Văn Nhất.
Bài ca Diệt phát xít của nhạc sĩ Nguyễn Đình Thi được chọn làm nhạc hiệu.
Hàng ngày, ngoài chương trình tiếng Việt kéo dài 30 phút, các chương trình thời
sự bằng tiếng nước ngoài gồm các thứ tiếng: Anh, Pháp, Trung Quốc, Lào, quốc tế
ngữ (Espe's ranto), Đài phát thêm chương trình thời sự tiếng Việt từ 6 giờ 30
và buổi đọc chậm tin tức cho các địa phương và báo chí chép lại. Cơ sở vật chất
của Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam lúc này hết sức nghèo nàn, thiếu thốn đủ
bề. Kể từ ngày thành lập cho tới cuối tháng 9-1946, Đài Phát thanh tiếng nói
Việt Nam chủ yếu áp dụng phương thức phát trực tiếp, chưa có máy ghi âm để lưu
lại những nội dung quan trọng. Trước mỗi chương trình, phát thanh viên
và dàn nhạc đều phải nhắc lại câu danh xưng, nhạc hiệu. Studio được chuẩn bị vô
cùng đơn giản, cách âm với bên ngoài chỉ là lớp chăn chiên mỏng nên các nội
dung đọc trước máy luôn bị lẫn các tạp âm. Người nghe thỉnh thoảng còn bắt gặp
cả tiếng ho khan, tiếng dịch chuyển bàn ghế. Việc kiểm soát chương trình không
thể thực hiện được, chương trình có thể bị kéo dài ra hoặc rút ngắn lại do
không có dàn dựng. Cũng vì lý do này mà Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam không
thể thực hiện được các chương trình phỏng vấn trực tiếp. Trong đợt đi cùng phái
đoàn đại biểu Chính phủ ta sang Pháp ký Tạm ước 14-9-1946, đồng chí Nguyễn Tấn
Gi Trọng có mang về theo một máy ghi âm, tình hình mới được cải thiện.
Lời Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn độc lập giờ mới được ghi lại làm tài liệu lịch
sử. Câu danh xưng và bản nhạc hiệu cũng được thu âm, không cần phát thanh viên
và ban nhạc phải chầu chực như trước.
Trong buổi ban đầu trứng nước, mặc dù điều
kiện vô cùng khó khăn, thiếu thốn, nhưng những kết quả mà Đài Phát thanh tiếng
nói Việt Nam đạt được là vô cùng to lớn. Nhờ nghe đài mà nhân dân hiểu và nắm
bắt được những diễn biến đang xảy ra hàng ngày trong toàn quốc. Nhiều nước trên
thế giới lần đầu tiên hiểu rõ về Việt Nam, về tính chính nghĩa trong sự nghiệp
đấu tranh giải phóng dân tộc của chính quyền Việt Minh. Hoạt động của Đài Phát
thanh tiếng nói Việt Nam đã làm lực lượng quân đội Tưởng Giới Thạch tại Bắc Bộ
và các đảng phái tay sai phản động tức tối. Chúng tìm cách gây khó dễ cho ta.
Tướng Lư Hán ra yêu sách đòi ta phải đóng cửa Đài Phát thanh. Khi yêu cầu ấy
không được chấp nhận, chúng đòi được kiểm duyệt trước nội dung các chương trình
phát sóng. Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, nhờ sự khôn khéo của cán bộ phụ
trách Đài, hình thức này bị huỷ bỏ.
Sau ngày giành độc lập, Trung ương Đảng và
Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản, chỉ thị kêu gọi nhân dân đoàn kết chống
lại ba kẻ thù: giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Đài Phát thanh tiếng nói
Việt Nam đã tham gia rất tích cực vào các hoạt động này, cùng với các báo
vận động nhân dân hỗ trợ nhau trong cơn hoạn nạn, người giàu giúp người nghèo,
người có ít giúp người không có. Những khẩu hiệu: ''Lá lành đùm lá rách'', “Bầu
ơi thương lấy bị cùng”, ''Một miếng khi đói bằng cả gói khi no''... xuất hiện
thường xuyên trên sóng. Chúng gần như thành câu cửa miệng của phát thanh viên.
Bên cạnh đó, Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam còn hướng dẫn nhân dân tiết
kiệm, tăng gia sản xuất, trồng các rau ngắn ngày xen với trồng lúa và các cây
lượng thực khác, coi biện pháp này như quốc kế lâu dài của nhân dân ta. Tuần lễ
vàng được toàn dân nhiệt thành hưởng ứng, nhân dân khắp nơi tình nguyện đóng
góp chăn màn, giày dép, áo ấm cho binh sĩ... Tất cả các phong trào đó đều có
công đóng góp không nhỏ của Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam.
Về mặt tuyên truyền văn hóa - xã hội, Đài
hỗ trợ cùng Nha Bình dân học vụ, đưa ra nhiều sáng kiến thúc đẩy phong trào xóa
nạn mù chữ tại các địa phương tiếng cả nước. Các khẩu hiệu người biết nhiều dạy
người biết ít, người biết chữ dạy người chưa biết luôn được đề cập tới trong
các chương trình phát thanh. Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam không chỉ dừng
lại ở việc giới thiệu những kinh nghiệm, giới thiệu những điển hình tiên tiến
trong dạy và học mà còn hướng dẫn các phương pháp truyền thụ kiến thức, phương
pháp tiếp thu bài giảng, động viên toàn dân vượt qua các khó khăn về giới tính,
tuổi tác, vật chất để đến với các lớp học. Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam
rất chú trọng đến việc động viên trí thức thành thị đi về nông thôn mở lớp dạy
học. Đài có những chương trình riêng, tuyên truyền cho nhân dân thực hiện nếp
sống mới. Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam thường xuyên lên án, kêu gọi nhân
dân xóa bỏ những tệ nạn xã hội như cờ bạc, rượu chè, hủ tục, lề thói đạo đức
phong kiến, mê tín dị đoan, luôn động viên bà con nông dân đoàn kết, sống lành
mạnh trong tình làng nghĩa xóm, phát huy cao độ đời sống văn hóa mới, hiếu hỷ
phải tiết kiệm, có tính văn hóa.
Quân đội Tàu - Tưởng và các đảng phái chính
trị ngày càng lộng hành. Chúng ép Chính phủ lâm thời phải san sẻ quyền lực. Ở
miền Nam, quân Pháp cấu kết với quân Nhật, núp sau lưng quân Anh dùng bạo lực
dành chiến một số cơ quan trọng yếu của chính quyền cách mạng. Kẻ thù bao vây
tứ phía buộc Đảng và Nhà nước ta phải tổ chức tổng tuyển cử, sớm bầu Quốc hội,
ban hành Hiến pháp, thành lập Chính phủ mới để có tiếng nói chính thức trên
trường quốc tế. Để xoa dịu quân Tưởng, tập trung vào kẻ thù trước mắt là quân
Pháp, ta phải nhường một số ghế trong nội các cho Việt Quốc, Việt Cách. Nhờ
biết tuyên truyền, gắn tổng tuyển cử với lòng yêu nước, Đài Phát thanh tiếng
nói Việt Nam đã góp phần đập tan luận điệu xuyên tạc của kẻ thù. Đối với miền
Bắc và miền Trung, Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam dùng khẩu hiệu ''Mỗi lá
phiếu là một viên gạch xây dựng Tổ quốc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa''. Ở miền Nam
ta dùng khẩu hiệu ''Mỗi là phiếu là một viên đạn bắn thẳng vào quân thù xâm
lược''. Phương thức tuyên truyền linh hoạt trên đã góp phần không nhỏ cho chiến
thắng của cuộc tổng tuyển cử. Quốc hội khóa đầu tiên được nhóm họp bầu ra Chính
phủ liên hiệp do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch nước.
Khi Chính phủ ta ký Tạm ước (14-9-1946) với
người Pháp, tình hình chính trị nước ta cũng có những diễn biến phức tạp. Quân
Pháp liên tục vi phạm các điều khoản đã được ký kết. Đài Phát thanh tiếng nói
Việt Nam được lệnh chuẩn bị sơ tán, cùng với toàn dân bước vào cuộc kháng chiến
chống Pháp lâu dài, gian khổ và đầy hy sinh.
- Đài Phát thanh tiếng nói Nam Bộ:
Như trên đã nói, trước Cách mạng Tháng Tám,
tại Nam Bộ chỉ có duy nhất một Đài Phát thanh Sài Gòn Radio. Sau khi cướp chính
quyền thành công, ta chưa kịp tiếp quản đài này thì đã nổ ra cuộc kháng chiến
của đồng bào Nam Bộ. Cuộc kháng chiến bộn bề không cho phép Uỷ ban hành chính
kháng chiến Nam Bộ có điều kiện xây dựng một đài phát thanh riêng. Phải tới
giữa năm 1946, Đài Phát thanh tiếng nói Nam Bộ mới chính thức ra đời theo Chỉ
thị của đồng chí Phạm Văn Đồng - đại diện của chính quyền Việt Minh tại miền
Trung. Lúc đầu Đài Phát thanh tiếng nói Nam Bộ là tiếng nói chung cho có hai
khu vực Nam Trung Bộ và Nam Bộ được đặt tại đình Thọ Lộc, làng Tôn Đình, huyện
Sơn Tịnh (Quảng Ngãi), do đồng chí Nguyễn Văn Huyên làm Giám đốc. Ngày 1-6-1946
Đài Phát thanh tiếng nói Nam Bộ phát chương trình đầu tiên. Sau khi chị Tuyết
Minh đọc câu danh xưng và quốc ca được cử lên, Đài phát đi lời hiệu triệu
''Toàn dân đứng lên đi theo kháng chiến, của Chủ tịch Uỷ ban hành chính kháng
chiến Nam Bộ Phạm Văn Bạch. Trong vài tháng đầu, ngoài phần tiếng Việt, Đài
Phát thanh tiếng nói Nam Bộ có chương trình tiếng Anh, Pháp, sau bổ sung thêm
phần tiếng Thái Lan, Bắc Kinh, Quảng Đông.
Trong năm đầu độc lập (1945 - 1946), Đài
Phát thanh tiếng nói Nam Bộ xác định cho mình hai nhiệm vụ chính: Phản ánh kịp
thời tình hình chiến sự, thông báo tin tức của miền Bắc đến với toàn thể đồng
bào miền Nam, làm cầu tiếp sóng Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam. Trong
hoàn cảnh kháng chiến khó khăn, thiếu thốn, bị địch đánh phá ác liệt, Đài Phát thanh
tiếng nói Nam Bộ vẫn cố gắng duy trì đều đặn, liên tục các buổi phát sóng. Các
chương trình của đài cũng khá phong phú. Ngoài những nội dung phản ánh đời sống
kháng chiến là phần tin tức, bình luận các vấn đề chính trị nổi cộm trong và
ngoài nước. Bên cạnh đó, Đài Phát thanh tiếng nói Nam Bộ rất chú trọng xây dựng
các chương thanh văn hóa, văn nghệ lành mạnh. Mọi chủ trương, đường lối của
Trung ương đều được Đài Phát thanh tiếng nói Nam Bộ thông báo kịp thời cho đồng
bào chiến sĩ, đảm bảo sự thông suốt, thống nhất trong nhận thức, quan điểm cũng
như các sách lược cách mạng.
Vì ở quá xa Trung ương cũng như các trung
tâm kháng chiến của Nam Bộ nên tin tức đến được với Đài Phát thanh tiếng nói
Nam Bộ thường xuyên bị chậm, diện phủ sóng cũng bị hạn chế. Khi cuộc kháng
chiến toàn quốc chuẩn bị nổ ra, đồng chí Phạm Văn Đồng chỉ thị cho Đài Phát
thanh tiếng nói Nam Bộ rời lên núi Sơn Tân (huyện Sơn Hà) để bảo toàn lực
lượng, mặt khác xin cấp trên trang bị máy phát có công suất mạnh hơn. Ngoài ra,
đồng chí còn chỉ thị Ban Giám đốc của Đài Phát thanh tiếng nói Nam Bộ chuẩn bị
kế hoạch, xây dựng cơ sở vật chất cho Đài Phát thanh tiếng nói Đồng Tháp Mười.
Lúc đầu tạm thời phát thử nghiệm trên đất Quảng Ngãi, chuẩn bị cơ sở, kỹ thuật
lắp ráp Đài Phát thanh tiếng nói Nam Bộ kháng chiến đặt tại xã Nhơn Hòa Lập,
huyện Mộc Hóa (Đồng Tháp Mười). Ngày 1-12-1947 Đài Phát thanh tiếng nói Nam Bộ
chính thức ra mắt khán thính giả trong và ngoài nước. Đài đặt dưới sự quản lý
trực tiếp của Sở Thông tin - Tuyên truyền Nam Bộ. Đây là thời kỳ phong trào báo
chí yêu nước Nam Bộ đang lên cao. Dòng báo chí này chủ yếu tập trung tại Sài
Gòn. Để nâng cao hiệu quả tuyên truyền, hòa nhịp với trào lưu chung Sở Thông
tin - Tuyên truyền Nam Bộ quyết định tách một bộ phận Đài Phát thanh tiếng nói
Nam Bộ thành Đài Phát thanh Sài Gòn – Chợ Lớn tự do (Đài chính thức ra mắt ngày
25-1-1951 do đồng chí Nguyễn Khắc Cẩn phụ trách). Đối tượng phục vụ của Đài
Phát thanh Sài Gòn - Chợ Lớn tự do là mọi tầng lớp nhân dân các tỉnh
miền Đông Nam Bộ, công chức, trí thức đang sống và làm việc tại Sài Gòn và các
vùng lân cận, trong kháng chiến chống Pháp, Đài Phát thanh tiếng nói nam Bộ nói
riêng, Sở Thông tin - Tuyên truyền Nam Bộ nói chung hoạt động hết sức năng
động, hiệu quả, quy tụ được nhiều văn nghệ sĩ, trí thức của một nửa đất nước,
tiêu biểu như Thiếu Sơn, Triệu Công Minh, Ái Lan, Huỳnh Văn Gấm, Nguyễn Cao
Thương, Dũng Tiến, Nguyễn Văn Hanh, Hoàng Xuân Nhị, Lưu Quý Kỳ, Chương Minh
Ngọc, Nguyễn Sơn, Đào Hoàng Thuý, Nguyễn Ngọc Bạch, Lưu Cầu, Hà Mậu Nhai, Hoàng
Phố, Hoàng Tấn, Đoàn Giỏi, Dương Tử Giang. Tất cả họ đều trực tiếp hoặc gián
tiếp làm việc hay cộng tác thường xuyên với Đài. Đài luôn xác định là công cụ
chính trị sắc bén giúp đỡ đắc lực cho Đảng và Chính phủ chỉ đạo kịp thời mọi
diễn biến của cuộc kháng chiến ở Nam Bộ. Khi còn đặt ở Quảng Ngãi, mỗi ngày Đài
phát thanh hai buổi sáng và tối trên làn sóng điện 24,26TH. Nội dung chính của
Đài lúc này là kêu gọi toàn thể đồng bào Nam Bộ đứng lên đấu tranh chống thực
dân Pháp, tố cáo tội ác của giặc, cổ vũ phong trào báo chí thống nhất, chống
chính phủ bù nhìn Nguyễn Văn Thạnh, Lê Văn Hoạch, ủng hộ phong trào đòi hòa
bình, đấu tranh vì dân chủ, dân sinh. Từ giữa năm 1947, Đài cùng một lúc phải
quản lý ba lán sóng bới ba danh xưng tiếng nói Nam Bộ, tiếng nói Đồng Tháp
Mười và Phát thanh tiếng nói Việt Nam. Để đảm bảo an toàn, chính quyền Liên khu
V quyết định chuyển vào sâu trong vùng rừng núi thuộc huyện An Lão, tỉnh Bình
Định. Nhiều khi, để tránh sự truy lùng gắt gao của địch, anh em phải đặt thiết
bị phát sóng lên xe goòng. Chương trình vừa phát xong, mọi người lập tức xúm
lại đẩy xe và máy trên đường ray xe lửa chạy sang khu vực khác. Khi Đài Phát
thanh tiếng nói Nam Bộ (đặt tại Đồng Tháp Mười) bắt đầu phát sóng thì Đài Tiếng
nói Đồng Tháp Mười tại An Lão đổi tên thành Tiếng nói miền Nam, tiếp tục hoạt
động đến năm 1953. Trong hoàn cảnh kháng chiến thiếu thốn, khó khăn mọi bề, Đài
luôn nhận được sự quan tâm, động viên của đồng chí Phạm Văn Đồng, đại diện của
Chính phủ tại khu vực miền Trung. Đồng chí đã nhiều lần chỉ thị cho các cơ quan
Đảng, chính quyền phải giúp đỡ, cung cấp thông tin cho Đài. Từ chỗ chỉ có một
máy thu phát liên hoàn MK2 công suất 15W đến cuối năm 1947, Đài được trang bị
máy phát công suất 500W, nhờ đó tình hình thu và phát tin bước đầu được cải
thiện đáng kể. Đối với tin trong nước, Đài chủ yếu lấy từ Thông tấn xã Việt
Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Nam Bộ, Uỷ ban hành chính kháng chiến
Nam Bộ, Sở Thông tin - Tuyên truyền Nam Bộ. Còn tin nước ngoài thì được chọn
lọc từ hệ thống phát thanh của các hãng Tass, Reuter, AFP và qua đài vô tuyến
điện tử của ông Trần Văn Luân, đại diện Việt Nam tại Băng Cốc. Đây là dịp để
Đảng và Nhà nước ta phổ biến ra thế giới để thế giới hiểu rõ tính chính nghĩa
của cuộc kháng chiến chống Pháp do Mặt trận Việt Minh phát động.
III. BÁO CHÍ CÁCH MẠNG
TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP 1946 - l954
1.Tình hình báo in trong vùng kháng
chiến
Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, hàng loạt cơ
quan báo chí chuyển lên vùng chiến khu. Nhiều tờ báo tiến bộ mang màu sắc yêu nước
ở các đô thị trước đã ủng hộ Mặt trận Việt Minh, giờ không có điều kiện ra đi,
đã đóng cửa chờ thời hoặc ngấm ngầm giúp đỡ cách mạng bằng cách lập quỹ từ
thiện, mua thuốc men lương thực gửi theo các đường dây bí mật lên Việt Bắc. Có
ký giả đã đưa cả gia đình đi kháng chiến. Hầu hết đều nhanh chóng hòa nhập với
đời sống khó khăn, thiếu thốn nơi rừng núi. Người thì tham gia làm báo cách
mạng, người đứng ra tập hợp anh em cùng cảnh ngộ lập tờ báo riêng. Ít có ai
chịu cảnh ăn không ngồi rồi. Nói chung, loại báo chí tư nhân này hoạt động khá
nhộn nhịp. Do hoàn cảnh chiến tranh nên hầu hết chúng đều được in bởi các
phương tiện hết sức lạc hậu, không cần nhiều nhân lực. Cá biệt có tờ vẫn sử
dụng hình thức in xu – xoa (in thạch) hoặc bằng loại máy đạp chân tự chế. Mực
in cũng là loại chất lượng kém nên nhìn bề ngoài tờ báo không được đẹp, chữ in
thường nhòe, mất nét, không ngay ngắn, chữ to, chữ nhỏ. Những người chủ trương
ra loại báo này hoàn toàn không vì lý do vật chất, nhiều khi chỉ để tránh đời
sống quá nhàn tản tại các vùng quê. Mỗi tờ báo loại này thường chỉ in chừng vài
trăm bản mỗi kỳ, dùng để tặng bạn bè, thậm chí biếu không người qua đường, ít
khi bán. Vào thời kỳ này, báo của tư nhân không sử dụng nhiều các nội dung
chính trị hoặc mang tính chất loại báo thông tin thuần tuý. Chúng thường là các
loại báo văn hóa, văn nghệ đăng các tác phẩm của chủ báo và của bè bạn. Vì
không được nuôi dưỡng tốt, ra đời có khi do ngẫu nhiên nên loại báo tư
nhân ít có tờ nào tồn tại được lâu dài, thường chỉ được vài tháng, có tờ ra
được duy nhất một số rồi tự đóng cửa không kèn không trống. Nói chung với loại
báo này, Chính phủ kháng chiến không kiểm soát được. Điều đáng mừng là trong
suốt 9 năm kháng chiến trường kỳ, không có tờ báo tư nhân nào xuất bản ở các
vùng tự do có giọng điệu chống đối chính quyền đi ngược lại với chủ trương,
chính sách của Mặt trận Việt Minh. Chúng luôn sát cánh cùng hệ thống báo chí
của Đảng và Nhà nước đấu tranh vì sự nghiệp chung: Độc lập dân tộc, thống nhất
đất nước.
Từ những năm 1948 trở đi, báo chí tại các
vùng kháng chiến được tổ chức, sắp xếp lại, dần đi vào thế ổn định. Báo của tư
nhân tờ tự đóng cửa, tờ thì sáp nhập với báo của chính quyền. Phần lớn ký giả
trước sống tự do, giờ đều vào biên chế nhà nước, có điều kiện cống hiến sức
lực, trí tuệ cho đất nước. Nhiều người, nhờ sự thay đổi môi trường làm việc này
đã trở thành đảng viên, thành những nhà báo cách mạng có tên tuổi. Đây cũng là
báo chí của các đảng phái tiến bộ, của các hội, đoàn thể, tổ chức yêu nước hòa
chung dòng chảy của hệ thống báo Đảng. Mối quan hệ này trở nên đặc biệt khăng
khít kể từ sau ngày Đảng ra công khai trở lại (1951). Nói cách khác, sau vài
năm kháng chiến, tại các vùng tự do chỉ tồn tại dòng báo duy nhất, Báo chí cách
mạng.
Mặc dù không có báo chí đối lập, báo chí
trung gian nhưng dòng báo chí cách mạng tại các vùng chiến khu lúc này không vì
thế mà cho phép mình được ỷ lại hay trở lên đơn điệu, bảo thủ. Mỗi tờ báo đều
tự xác định cho mình một nhiệm vụ cụ thể. Với số đầu báo ít ỏi (năm 1952
chỉ có 52 tờ). Báo chí cách mạng gần như vẫn bao quát được toàn bộ mọi đối
tượng trong xã hội, tất cả đều đặt công tác tuyên truyền chính trị lên hàng
đầu, coi việc phục vụ kháng chiến là quyền lợi, trách nhiệm, nghĩa vụ của mình.
Sở dĩ có được kết quả trên là do Đảng và Nhà nước ta luôn tôn trọng và đặt hết
niềm tin vào đội ngũ ký giả. Chính quyền nhân dân không tìm cách kiểm soát báo
chí mà chỉ vạch ra những định hướng tuyên truyền cơ bản cho một tờ báo của
trung ương. Mọi sự định hướng này nhất thiết phải phù hợp với đường lối kháng
chiến do Mặt trận Việt Minh đề ra, phải phục vụ lợi ích dân tộc. Trên cơ sở
này, những tờ báo nhỏ của ban, ngành, đoàn thể cứ thế mà tuyên truyền một cách
tự giác. Phương thức quản lý này để hạn chế đến mức thấp nhất việc thông tin
trái chiều nhau trong khi mỗi tờ báo vẫn có điều kiện bộc lộ bản sắc riêng,
cũng như tôn chỉ, mục đích của mình. Nói cách khác, tính tự do, dân chủ của báo
chí được tôn trọng trong khi vẫn duy trì tốt tính thống nhất vế tư tưởng và
hành động đối với hệ thống báo chí. Báo Quân du kích (báo Quân
đội nhân dân) đặt công tác tuyên truyền cho sự đồng lòng nhất trí của sĩ
quan, binh lính lên hàng đầu, coi tình quân dân cả nước như là điều kiện có
tính quyết định đến thắng lợi của cách mạng nước ta. Báo phụ nữ Việt Nam có
nhiệm vụ tập hợp phụ nữ, báo Văn nghệ tập hợp văn nghệ sĩ trí thức, báo Lao
động tập hợp công nhân... Tất cả hòa vào dòng chảy chung, cùng đấu tranh vì
sự nghiệp giải phóng dân tộc, giành độc lập cho Tổ quốc thân yêu. Ngoài nội
dung chủ yếu trên, báo chí kháng chiến còn đề cập đến nhiều lĩnh vực quan trọng
khác của đời sống xã hội có liên quan trực tiếp đến cuộc đấu tranh. Tố cáo âm
mưu, thủ đoạn, tội ác của kẻ thù xâm lược và bè lũ tay sai là đề tài thường
trực của mỗi tờ báo từ trung ương đến địa phương. Có tờ dành hẳn trang hoặc
chuyên mục riêng để phản ánh những vấn đề của các vùng tạm chiến, nói lên tâm
tư, tình cảm, những đau khổ, mất mát mà mỗi người dân sống trong ách kìm kẹp
của thực dân đế quốc đang phải gánh chịu.
Về đối ngoại, báo chí cách mạng lúc này tập
trung tuyên truyền về chủ nghĩa cộng sản, về những thanh tự của Liên bang
Xôviết cũng như các nước nằm trong hệ thống xã hội chủ nghĩa đã và đang đạt
được, tuyên truyền cho cách mạng Trung Quốc và các dân tộc thuộc địa đang đấu
tranh vì độc lập, tự do, hạnh phúc. Thông qua hệ thống phát thanh vẫn còn thô
sơ, lạc hậu, Đảng và Nhà nước ta đã chứng tỏ cho thế giới thấy và hiểu rõ về
cuộc đấu tranh chính nghĩa của chính phủ kháng chiến, thà hy sinh đến giọt máu
cuối cùng, tuyệt không trở lại kiếp nô lệ một lần nữa.
Cuộc sống kháng chiến cũng là một đề tài
được báo chí cách mạng khai thác triệt để từ các lĩnh vực chính trị, kinh tế
đến văn hóa, xã hội. Riêng khía cạnh quân sự, để giữ bí mật, báo chí ít đề cập,
nếu có cũng chỉ là những vấn đề chung chung, bề nổi như tâm tư, tình cảm của
người lính khi xa nhà, tinh thần hy sinh vì đồng đội của người chiến sĩ cách
mạng, những tấm gương giết giặc lập công điển hình, bộ đội giúp dân dựng nhà,
dạy trẻ em học, thu hoạch mùa màng,..
Việc tuyên truyền, vận động nhân dân thực
hiện nếp sống mới, lành mạnh, kêu gọi mỗi làng kháng chiến xây dựng tổ chức một
bản hương ước phù hợp với tình hình đất nước có chiến tranh được báo chí cách
mạng nói đến nhiều hơn cả. Diệt giặc đốt, bài trừ mê tín dị đoan, phê phán tệ
cờ bạc, tảo hôn, trộm cắp, ca ngợi lối sống lành mạnh, duy trì ''tình làng
nghĩa xóm'', ''tối lửa tắt đèn có nhau'' là những nội dung thường xuyên xuất
hiện trên mặt báo. Để cải thiện đời sống cho nhân dân cũng như cán bộ chiến sĩ,
báo chí kháng chiến không chỉ vạch ra chiến lược phát triển kinh tế ở tầm vĩ mô
mà còn rất chú trọng phản ánh những mô hình trang trại nhỏ làm ăn giỏi, đề cao
hình ảnh những anh hùng, chiến sĩ thi đua trong lao động sản xuất...
2. Các tờ báo chủ lực ra đời trong thời
kỳ kháng chiến chống Pháp
a) Báo Nhân dân
Kể từ tháng 9-1950 khi chiến dịch biên giới
kết thúc, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta bước sang giai đoạn thứ
hai, chuyển từ thế phòng thủ sang thế chủ động trên khắp các chiến trường. Đây
cũng là lúc Liên Xô và các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa đang ngày càng
khẳng định vai trò, vị trí của mình trên trường quốc tế. Nước Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa ra đời. Tại châu Phi, Mỹ La tinh, nhiều nước thuộc địa đã tự vùng lên
giành độc lập dân tộc. Xu thế này đòi hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam phải ra công
khai trở lại. Đại hội toàn quốc lần thứ II của Đảng đã được triệu tập
tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang diễn ra từ ngày 11 đến
ngày 19- 2-1951 thông qua Tuyên ngôn, Chính cương, Điều lệ của Đảng. Để phù hợp
với tình hình trong nước, tập hợp được đông đảo mọi tầng lớp nhân dân, Đảng lấy
tên là Đảng Lao động Việt Nam. Đồng chí Trường Chinh được bầu làm Tổng Bí thư.
Nghị quyết của Đại hội Đảng chỉ rõ, tờ báo Sự thật đã hoàn thành sứ mệnh
lịch sử, nay thay thế bởi tờ Nhân dân. ''Để tuyên truyền chủ nghĩa và
động viên đảng viên và quần chúng nhân dân thực hành chính sách của Đảng''. Nội
dung Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ II cũng nêu rõ, trước mắt, vì hoàn cảnh
thời chiến, báo Nhân dân tạm thời ra hàng tuần, khi có điều kiện, báo sẽ
ra hàng ngày. Đối tượng chính của báo là đảng viên và quần chúng nhân dân có
còn yêu nước. Ngoài sự chỉ đạo sát sao của Tổng Bí thư Trường Chinh, đội ngũ
cán bộ đầu tiên của báo Nhân dân là các đảng viên cốt cán như Tố Hữu,
Hoàng Tùng, Thép Mới. Nhiều phóng viên làm ở báo Sự thật trước đây giờ
chuyển sang Nhân dân. Một số cây bút trưởng thành từ các phong trào sáng
tác tại các đơn vị cũng được tuyển chọn về làm việc cho báo. Vượt qua mọi trở
ngại, khó khăn, ngày 11-3-1951 báo Nhân dân ra số đầu tiên, in 6 trang.
Ngay trên trang nhất của số báo này in trang trọng Tuyên ngôn của Đảng Lao động
Việt Nam, bài của Tổng Bí thư Trường Chinh với tiêu đề ''Hồ Chủ tịch người sáng
lập, rèn luyện và lãnh đạo Đảng ta'' và bài ''Bàn về cách mạng Việt Nam''. Đây
là loạt bài có tính tổng hợp, chỉ đạo, vạch rõ đường lối cách mạng khi đất nước
có chiến tranh.
Trong những số đầu, Nhân dân phát
hành mỗi kỳ gần 2 vạn bản. Ban biên tập báo gồm 8 đồng chí: Trường Chinh, Phạm
Văn Đồng, Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương, Nguyễn Chí Thanh, Trần Quang Huy, Hà
Xuân Trường, Quang Đạm, được thành lập theo Nghị quyết số 26-NQ/TW của Bộ Chính
trị. Đồng chí Trường Chinh làm chủ nhiệm, phụ trách chung, Trần Quang Huy làm
thư ký ban biên tập. Lúc này, do Đảng chưa có điều kiện ra tạp chí, nên báo Nhân
dân, ngoài chức năng thông tin, còn đảm trách thêm nội dung lý luận nhằm
tuyên truyền sâu rộng tới các cấp uỷ về công tác xây dựng Đảng, bồi dưỡng, giáo
dục lý tưởng cộng sản cho cán bộ, đảng viên, tổ chức, phát triển chi bộ cơ sở
từ thấp đến cao… Báo lấy tên Nhân dân một mặt để khắc phục tên hệ thống
báo Đảng của những giai đoạn trước thường mang tính giai cấp nặng nề như Dân
cày, Lao khổ, mặt khác là nhằm thể hiện ý chí của cách mạng là phục
vụ nhân dân.
Từ những năm năm mươi, các vùng tự do ngày
càng được mở rộng, số lượng đảng viên cũng tăng cao, giao thông giữa các chiến
khu đã dễ dàng thuận tiện hơn. Thực tế này đòi hỏi báo Nhân dân phải có
sự đầu tư thích ứng cả về cơ sở vật chất lẫn chất lượng bài vở. Để in hàng chục
vạn bản mỗi kỳ, Nhà xuất bản Sự thật giờ không đáp ứng được, Đảng và Nhà
nước quyết định cho xây dựng 2 nhà in riêng cho báo Nhân dân, một đặt ở
khu Việt Bắc, một ở Liên khu IV. Việc làm này đã giải quyết được mấy vấn đề:
- Đáp ứng được tính kịp thời của thông tin;
- Mở rộng được đối tượng bạn đọc;
- Hạn chế đến mức thấp nhất sự kiểm soát
của kẻ thù, giảm thiểu rủi ro. Nếu thực dân Pháp đổ quân lên Việt Bắc, chẳng
may đánh trúng cơ quan báo, thì báo của Đảng vẫn in được ở Liên khu IV.
Kể từ khi báo Nhân dân ra đời cho đến
khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp, Đảng ta đã ban hành nhiều văn bản,
chỉ thị, nghị quyết về việc xây dựng mạng lưới thông tin viên, yêu cầu các đồng
chí uỷ viên trung ương, lãnh đạo các ban, ngành, địa phương viết bài cho báo,
coi đây như là quyền lợi, trách nhiệm, nghĩa vụ của các đảng viên, đồng thời
các cấp uỷ đảng phải có nhiệm vụ chuyển báo đến từng chi bộ. Phong trào đọc và
làm theo báo Đảng được phát động ở hầu khắp các vùng kháng chiến. Thậm chí một
số người dân vùng tạm chiếm từ nhiều nguồn khác nhau cũng có trong tay tờ Nhân
dân, bí mật truyền cho nhau đọc. Càng về sau báo Nhân dân không
chỉ phục vụ riêng đối tượng cán bộ, đảng viên nữa mà dần trở thành món ăn tinh
thần chung của toàn dân.
Ngoài những trang mục đề cập đến tin tức
trong và ngoài nước, xã luận, bình luận quen thuộc, báo Nhân dân thời kỳ
kháng chiến chống Pháp còn có những chuyên mục rất gây ấn tượng với bạn đọc như
''Nói và nghe'', ''Mũi tên nhọn'', “Bảng vàng thi đua'', ''Ý kiến bạn đọc'',
''Trả lời bạn đọc''... Trong số này, các chuyên mục ''Nói và nghe'', ''Mũi tên
nhọn'' có tính chiến đấu cao, thường đăng bài của các đồng chí lãnh đạo
Đảng và Nhà nước hoặc của những cây bút dày dặn kinh nghiệm nghề nghiệp, có
quan điểm, lập trường vững vàng. Theo con số thống kê chính thức, tính đến ngày
14-10-1954, riêng trong mục ''Nói và nghe'' đã đăng 236 bài của Bác Hồ qua bút
danh CB. Việc làm gương mẫu này của Bác đã được nhiều nhà lãnh đạo cao cấp noi
theo. Các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Thanh Nghị, Tố Hữu cũng thường
xuyên có bài gửi cho Nhân dân, tạo nên phong trào viết cho báo Đảng
trong cán bộ, chiến sĩ và quần chúng nhân dân. Đây là nguyên nhân làm cho tờ
báo có sự phong phú về giọng điệu, phong cách, màu sắc trong khi vẫn tuân thủ
nghiêm ngặt tôn chỉ mục đích của mình. Cũng như nhiều tờ báo Đảng trước đó, Nhân
dân rất năng động, bám sát mọi diễn biến của thời cuộc. Tuỳ theo tình hình
chiến sự và nhu cầu của bạn đọc mà các chuyên mục của báo cũng thường xuyên
biến đổi cho phù hợp.
Là cơ quan ngôn luận của Trung ương Đảng,
báo Nhân dân rất chú trọng đến những nội dung có tính chỉ đạo về chủ
trương, đường lối, chính sách cũng như chiến lược cách mạng của Đảng và Nhà
nước. Ngay từ số đầu tiên báo đã dành toàn bộ nội dung cho Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ II. Ngoài Văn kiện, Tuyên ngôn, Chính cương của Đảng Lao động Việt
Nam, báo còn có bài viết của các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước kêu gọi toàn
Đảng, toàn quân, toàn dân thi đua giết giặc lập công, tăng gia sản xuất, tiết
kiệm, đưa cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc đến thắng lợi cuối cùng. Mọi
diễn biến của cuộc chiến tranh đều được báo phản ánh trên diện rộng, cổ vũ kịp
thời tinh thần đấu tranh của quân và dân trong cả nước. Những tấm gương điển
hình trong chiến đấu, lao động sản xuất thường xuyên xuất hiện trên mặt báo.
Hầu như số nào Nhân dân cũng có bài tố cáo âm mưu, tội ác của kẻ thù.
Bên cạnh chức năng thông tin, báo Nhân
dân luôn chú trọng đến việc định hướng dư luận. Trong kháng chiến chống
thực dân Pháp bao giờ báo cũng đặt công tác tuyên truyền: phân tích các chủ
trương, Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II lên hàng đầu, góp phần
tạo niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước. Báo
cũng thường xuyên có bài bàn về chiến lược cách mạng, các phương pháp đấu tranh
vũ trang của các vị tướng lĩnh tài ba như Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh.
Ngoài việc đề cập đến các vấn đề chính trị, quân sự, báo Nhân dân không
xem nhẹ đường lối phát triển kinh tế thời chiến, khái quát được những chính
sách cơ bản của nền kinh tế dân chủ nhân dân, đề ra các biện pháp kinh tế trong
thời gian trước mắt và lâu dài. Việc vận động nhân dân thực hiện nếp sống mới
của từng địa phương cũng được báo quan tâm đặc biệt. Bài trừ mê tín dị đoan,
nạn cờ bạc, rượu chè, nghiện ngập luôn là những nội dung để báo Nhân
dân tuyên truyền. Báo dành nhiều chuyên mục kêu gọi nhân dân thực hiện lối
sống lành mạnh, tích cực tham gia sản xuất, tiết kiệm, tổ chức cưới xin, ma
chay có văn hóa.
Là cơ quan ngôn luận của toàn Đảng, toàn
dân, báo Nhân dân rất chú trọng đến văn phong, cách trình bày. Các bài
viết thường ngắn gọn, dễ hiểu, ít dùng những thuật ngữ qúa trừu tượng. Các vấn
đề báo nêu đều súc tích, sắc bén, cách trình bày nghiêm túc, trang trọng, ảnh
minh họa cũng được sử dụng nhiều đã làm tăng hiệu quả tuyên truyền. Vì lý do
thời chiến, báo mới chỉ tập trung vào những vấn đề thiết thực, còn xem nhẹ mảng
văn học, giải trí. Đây là nguyên nhân làm cho báo dễ bị coi là khô khan, chưa
thu hút được hết đối tượng bạn đọc, nhất là những người ngoài Đảng.
Cùng với báo Nhân dân - cơ quan của
Trung ương Đảng, thời kỳ này còn có hai tờ báo mang tên Nhân dân của
Trung ương cục miền Nam và Liên khu uỷ khu V. Đây là những tờ báo có vai trò
rất quan trọng trong việc lãnh đạo, chỉ đạo phong trào cách mạng tại các địa
phương xa trung ương.
Báo Nhân dân miền Nam - cơ quan của
Trung ương cục miền Nam ra số đầu tiên ngày 15-4-1951. Báo do đồng chí Nguyễn
Thượng Vũ (Nguyễn Văn Kỉnh) làm chủ nhiệm, ra mỗi tháng 2 kỳ. Ngay trong số 1,
báo đăng trang trọng văn kiện của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II, Tuyên ngôn
của Đảng Lao động Việt Nam và các chính sách của Đảng và Nhà nước. Bên cạnh đó
là loạt bài của các đồng chí Phạm Hùng, Nguyễn Văn Nguyễn, Lưu Quý Kỳ bàn về
các vấn đề xung quanh việc ra công khai của Đảng, đề ra nhiệm vụ cụ thể cho
cách mạng Việt Nam. Lúc đầu, báo Nhân dân miền Nam ra khổ 24x34cm
với số lượng 12.000 tờ/kỳ. Sau để dễ phát hành báo thu hẹp khổ thành 16x24cm,
tăng từ 8 lên 32 trang.
Ngoài những nội dung gắn bó chặt chẽ với
tình hình chính trị Nam Bộ, báo Nhân dân miền Nam thường xuyên đăng lại
những bài có tính chỉ đạo của báo nhân dân trung ương, coi đây như phương châm
cách mạng cho cả nước. Để phù hợp với nhu cầu tâm lý, sở thích của đảng viên,
quần chúng Nam Bộ, báo khá linh hoạt trong việc tổ chức, xây dựng các mục.
Không kể các mục chính như ''Nhiệm vụ - công tác - kinh nghiệm'', ''Công tác
chi bộ'', ''Đồng bào nói, đồng bào viết''..., báo còn sử dụng khá hiệu quả mảng
văn chương để thể hiện những nội dung chính trị Truyện ngắn, thơ ca là những
thể loại được báo dùng nhiều nhất, chủ yếu đề cập đến đời sống của cán
bộ, chiến sĩ, nhân dân tại các vùng kháng chiến. Mục ''Búa công nhân'' được bạn
đọc rất hoan nghênh, thích thú. Với những tranh minh họa, thơ đả kích, châm
biếm, mục này đã góp phần nâng cao nhận thức chính trị cho người đọc, giúp cho
nhân dân nhận thức rõ nét bộ mặt thật của kẻ thù. Mặc dù hoàn cảnh kháng chiến
hết sức khó khăn, nhưng báo Nhân dân miền Nam luôn được các cấp
lãnh đạo từ trung ương đến địa phương tạo điều kiện thuận lợi, giúp đỡ cả về vật
chất lẫn tinh thần. Đội ngũ phóng viên, biên tập viên của báo được lựa chọn kỹ
càng từ các cơ quan đơn vị. Báo cũng luôn được đặt dưới tự quản lý của các cây
bút tên tuổi thư Lưu Quý Kỳ, Trần Bạch Đằng, Tô Hoài. Những phóng viên Triều
Dương, Việt Hùng, Phùng Lương, Lê Điện Biên luôn xông xáo trên khắp các chiến
trường để viết tin, bài. Do được quan tâm đầy đủ, Nhân dân miền Nam là
một trong những tờ báo ít ỏi lúc đó sử dụng ảnh kẽm, in màu trang bìa. Vào thời
điểm gần cuối cuộc kháng chiến, báo còn được trang bị loại máy in nhiều màu
hiện đại Rotavive.
Kháng chiến thành công, Hiệp định Giơnevơ
được ký kết, đất nước bị chia hai, báo Nhân dân miền Nam hoàn thành sứ
mệnh lịch sử của mình, ra số cuối cùng vào ngày 5-1-1955. Trong số 84 này
có đăng thư chúc Tết gửi đồng bào cả nước của Bác Hồ, thư gửi đồng bào miền Nam
của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, của Liên đoàn Thanh niên Việt Nam, có bài
xã luận của đồng chí Trần Bạch Đằng bày tỏ sự tin tưởng tuyệt đối của nhân dân
miền Nam đối với sự lãnh đạo sáng suốt của Bác, của Đảng và Nhà nước, tin vào
thắng lợi cuối cùng của cách mạng nước ta.
Báo Nhân dân Liên khu V ra
số 1, này 10-5-1951, trụ sở tòa soạn đầu tiên của báo đặt tại xã Hoài Ân, huyện
Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định. Có thời gian báo đóng trụ sở tại các huyện Đức Phổ,
Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Báo do đồng chí Trần Tống làm chủ nhiệm, Hồ Dưỡng
làm thư ký tòa soạn. Lúc đầu báo chủ trương ra mỗi tháng 2 kỳ sau là 10 ngày 1
kỳ, khổ 20x30cm, 12 trang (số đặc biệt in 16 trang).
Cũng như những tờ báo Đảng của trung ương
và địa phương khác, báo Nhân dân Liên khu V thường dành những trang quan
trọng đăng các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, của cấp uỷ đảng và
chính quyền địa phương. Những bài viết quan trọng trên báo Nhân dân
trung ương cũng thường xuyên được báo Nhân dân Liên khu V đăng tải
lại, đặc biệt là các bài của Bác Hồ dưới bút danh CB in trong mục ''Nói và
nghe”. Hệ thống phóng viên, biên tập viên của báo Nhân dân Liên khu V cũng
khá đông đảo, có trình độ nghề nghiệp cao. Nhiều người sau ngày báo tự đóng
cửa, đã chuyển sang làm cho báo Nhân dân trung ương.
Mặc dù chỉ in số lượng trung bình 5.000
bản/kỳ nhưng báo Nhân dân Liên khu V khá năng động trong khâu phát hành.
Nhờ nhiều đường dây khác nhau, báo đến được với bạn đọc khá nhanh chóng kể cả
đối với những vùng xa xôi nhất của cả dải miền Trung và Tây Nguyên, đưa được cả
vào các vùng tạm chiếm, những nơi đang có chiến sự gay go, khốc liệt. Do hoàn
cảnh riêng, báo Nhân dân Liên khu V thực hiện triệt để chủ trương
tự túc, tự cấp. Giá bán báo của báo khá cao nhưng độc giả vẫn tìm mua và
ủng hộ nhiệt tình.
Theo điều khoản của Hiệp định Giơnevơ, toàn
bộ Liên khu V sẽ được đặt dưới sự quản lý của quân đội Pháp. Miền đất này là
trạm trung chuyển của lực lượng hai bên. Báo Nhân dân Liên khu V không thể
tiếp tục tồn tại và đã ra số cuối cùng đúng vào ngày sinh nhật Bác 19-5-1955.
b) Tạp chí Cộng sản (1950)
Năm 1950, cuộc kháng chiến chống Pháp của
nhân dân ta có bước phát triển mới. Đội ngũ đảng viên ngày càng đông: cuối năm
1949, Đảng đã có hơn 70 vạn đảng viên. Hầu hết các cơ sở nông thôn, đại đội lực
lượng vũ trang và xí nghiệp Nhà nước đều có chi bộ đảng. Mặc dù Đảng chưa ra
công khai, nhưng vai trò lãnh đạo của Đảng đã được khắp nơi thừa nhận.
Hội nghị toàn quốc lần thứ ba của Đảng họp
tại Việt Bắc từ ngày 21-1-1950 đến ngày 3-1950, trên cơ sở đánh giá trình độ lý
luận và ý thức chính trị của cán bộ, đảng viên chưa tiến kịp những nhiệm vụ mỗi
ngày một nặng, đã quyết định đẩy mạnh việc học tập chủ nghĩa Mác - Lênin và đấu
tranh tư tưởng. Để góp phần tiến hành tốt nhiệm vụ đó, hội nghị đã quyết định
''ra một tạp chí lý luận thay cho tờ Sinh hoạt nội bộ''. Sau khi quyết
định đó được Trung ương Đảng thông qua Tạp chí Cộng sản ra số 1 vào
tháng 7-1950, mang tiêu đề ''Cơ quan trung ương huấn luyện lý luận và công tác
của Đảng do đồng chí Trường Chinh làm chủ nhiệm.
Tập chí Cộng sản ra hàng tháng, in
typô, khổ giấy 16x24cm. Cũng như Sinh hoạt nội bộ, trên bìa Tạp chí
Cộng sản có ghi: ''Báo này chỉ lưu hành trong Đảng”. Chủ nhiệm tạp chí là
đồng chí Trường Chinh. Trong Lời nói đầu đăng số 1, có đoạn nói
rõ mục đích của tạp chí ''là góp phần vào việc giáo dục tư tưởng Mác - Lênin,
nâng cao trình độ lý luận và công tác của cán bộ và của đảng viên toàn Đảng,
đặc biệt là cho cán bộ trung cấp. Nó có nhiệm vụ giải thích đường lối, chủ
trương của Đảng, đem chủ nghĩa Mác - Lênin soi sáng các vấn đề cách mạng Đông
Dương và các vấn đề quốc tế. Nó là nơi để các cán bộ, đảng viên trao đổi ý
kiến, tranh luận về các vấn đề lớn thuộc chính sách của Đảng và lý luận cách mạng,
dưới sự điều khiển và hướng dẫn của Trung ương. Nó dùng phương pháp phê bình và
tự phê bình đấu tranh chống những tư tưởng và lý luận sai lầm, những chủ trương
và hành động trái với đường lối Mác - Lênin của Đảng. Nó phổ biến những kinh
nghiệm vận động cách mạng lớn của Đảng ta và các Đảng anh em. Nó hướng dẫn việc
học tập trong Đảng, thông báo tin tức lớn về sinh hoạt nội bộ của Đảng v.v..
Về cơ cấu lãnh đạo, đồng chí Trường Chinh
làm chủ nhiệm tạp chí, đồng chí Trần Đăng Huy là thư ký tòa soạn. Hồi còn Tạp
chí Sinh hoạt nội bộ, đồng chí Trường Chinh là người phụ trách chính,
không những phụ viết bài mà còn phải trực tiếp viết nhiều bài. Đối với Tạp
chí Cộng sản với chức danh chủ nhiệm, đồng chí Trường Chinh chịu trách
nhiệm về đường lối chính trị, thông qua kế hoạch từng số và duyệt bài xã luận.
Mọi việc điều hành cụ thể về hoạt động biên tập của tạp chí, như tổ chức bài,
chữa bài, duyệt bài, v.v. được giao cho đồng chí Trần Đăng Huy (Hồi đó, trong
hệ thống báo chí của Đảng, chưa dùng chức danh ''Tổng biên tập'', mà dùng chức
danh ''Thư ký tòa soạn''; chức danh này có trách nhiệm và quyền hạn như Tổng
biên tập). Tuy vậy, đồng chí Trường Chinh vẫn viết nhiều bài cho tạp chí. Hàng
tháng, đồng chí còn cho ý kiến rút kinh nghiệm về số vừa qua, và chuẩn bị nội dung
số tới.
Việc in ấn Tạp chí Cộng sản vẫn theo
nếp của Sinh hoạt nội bộ, vẫn in ở nhà in Hồng Phong. Những người và
những tổ chức trước đây đã gửi tiền mua dài hạn Sinh hoạt nội bộ thì nay
được gửi Tạp chí Cộng sản thay cho Sinh hoạt nội bộ. Việc
phát hành cũng vẫn tổ chức như trước, nghĩa là Ban phát hành sách báo các Liên
khu uỷ gửi tạp chí tới các đảng bộ địa phương. Các cán bộ thuộc các cơ quan
trung ương và các chi bộ trực thuộc trung ương đều có thể đặt tiền mua thẳng
với Ban trị sự Tạp chí Cộng sản do đồng chí Lê Đăng Ninh làm quản lý.
Tạp chí Cộng sản chỉ ra được hai số
(số 1, tháng 7-1950 và số 2, tháng 8-1950). Ở số 2, trang 66, có đóng khung lời
thông báo cho bạn đọc như sau: ''Số báo này đang in thì chúng tôi tiếp được
tin: vì lý do chuyên môn, Trung ương quyết định tạm đình bản tờ Tạp chí Cộng
sản cho đến khi có quyết định mới”.
Đồng chí Trần Quang Huy đã kể lại rằng, sở
dĩ phải đình bản Tạp chí Cộng sản vì công tác chung của Đảng lúc đó đặc
biệt khẩn trương, Trung ương Đảng vừa phải lo công việc kháng chiến dồn dập (ta
đang chuẩn bị chiến dịch Biên giới vừa phải lo chuẩn bị Đại hội lần thứ II của
Đảng. Nhiều cán bộ lãnh đạo và cán bộ lý luận của Đảng bị cuốn hút vào những
nhiệm vụ lớn đó. Bản thân đồng chí Trần Quang Huy cũng được điều động tham gia
việc biên tập các văn kiện chuẩn bị cho Đại hội. Do thiếu người phụ trách,
thiếu người viết, nên tạp chí phải tạm thời đình bản.
Về mặt nội dung, tuy chỉ ra được hai số, Tạp
chí Cộng sản cũng đã đề cập đến nhiều vấn đề phong phú. Trước hết đó là
những vấn đề nóng hổi của cuộc kháng chiến lúc bấy giờ. Có thể kể các
bài: ''Hoàn thành nhiệm vụ, chuyển mạnh sang tổng phản công'' (số 1, tháng
7-1950); ''Chúng ta đã làm gì và còn phải làm gì để chuyển sang giai
đoạn mới?'' (số 2, tháng 8-1950), v.v.. Trong nội dung các bài đó đều có phần
phân tích, phê phán những nhận thức sai lệch về tổng phản công như cho rằng
tổng phản công là phản công đều một lượt trên khắp các chiến trường, hoặc là
đánh ào một trận quyết phân thắng bại chỉ trong dăm mười hôm là xong, v.v..
Đồng thời cũng phê phán các khuynh hướng không đúng về thời cuộc kháng chiến
lúc bấy giờ, như khuynh hướng lạc quan tếu, ỷ lại vào sự giúp đỡ của các nước
bạn, “tả” khuynh phiêu lưu, và khuynh hướng bi quan, cho rằng vì Pháp được Mỹ
viện trợ, ta khó lòng đánh bại được chúng v.v.. Bài “chống thực dân Pháp và bọn
can thiệp Mỹ'' (số 2) đã trình bày và phân tích rõ chính sách can thiệp của đế
quốc Mỹ ở Đông Dương, nhằm thuyết minh nhận định quan trọng trong Chỉ thị của
Thường vụ Trung ương Đảng ngày 1-7-1950: ''Không tích cực chống bọn can thiệp
Mỹ thì không thể hoàn toàn tiêu diệt thực dân Pháp xâm lược. Trái lại, không
kiên quyết chống thực dân Pháp xâm lược thì không thể phá tan chính sách can
thiệp của đế quốc Mỹ ở Đông Dương''.
Hội nghị toàn quốc lần thứ ba của Đảng đã
có phần ''Tự chỉ trích nghiêm khắc những thiếu sót về công tác xây dựng chính
quyền và Nhà nước cộng hòa dân chủ nhân dân''. Để uốn nắn những nhận thức, tư
tưởng không đúng về Nhà nước nhằm nhanh chóng khắc phục những thiếu sót
trong việc xây dựng chính quyền, đồng chí Phạm Văn Đồng đã viết bài ''Nhà nước
và Nhà nước cộng hòa dân chủ nhân dân Việt Nam'' đăng liền trên số 1 và số 2.
Tạp chí Cộng sản cũng dành nhiều bài
bàn về việc học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, về sửa chữa tư tưởng. Tạp chí đã
đăng bài nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh về ''Học tập chủ nghĩa Mác - Lênin và đấu
tranh tư tưởng để chiến thắng'' của đồng chí Trường Chinh tại Hội nghị đại biểu
toàn quốc lần thứ nhất, ngày 6-5-1950 và bài “Sửa chữa tư tưởng'' của đồng chí
Nguyễn Chí Thanh (số 1 và số 2).
Tạp chí cũng đã đăng báo cáo của đồng chí
Trường Chinh ở phiên họp mở rộng của Ban Chấp hành Trung ương (ngày 5, 6, 7
tháng 7-1950) với nhan đề “Chính sách của Đảng ở nông thôn'' (số 2).
Ngoài các bài chuyên án về các vấn đề trọng
yếu trong nước, Tạp chí Cộng sản còn có bài về các vấn đề quốc tế, chẳng
hạn ''Nguy cơ chiến tranh mới và cuộc chiến đấu cho hòa bình thế giới'' (số 1);
''Để hiểu vấn đề Triều Tiên'' (số 2) và một số bài dịch từ các báo nước ngoài
như ''Công tác tư tưởng của Đảng Mác-Lênin (số 1)''; ''Chiến lược Xtalin và chủ
nghĩa Mác – Lênin” (số 2).
Cuối mỗi số tạp chí có mục ''Tin sinh hoạt
nội bộ'', đưa tin về các hoạt động xây dựng Đảng của liên khu, của tỉnh; mục
“Tin thế giới'' và mục “tin trong nước''. Cách viết các mục này ngắn gọn, nhằm
thông tin được nhanh và nhiều các sự kiện trong tháng.
So với Sinh hoạt nội bộ thì Tạp
chí Cộng sản đi vào lý luận nhiều hơn. Nó cũng làm nhiệm vụ hướng dẫn công
tác, hướng dẫn chính sách như Sinh hoạt nội bộ, nhưng ở mức cao hơn. Nếu
Sinh hoạt nội bộ coi việc hướng dẫn công tác là chính thì Tạp chí
Cộng sản vừa coi trọng việc hướng dẫn công tác, vừa coi trọng bồi dưỡng lý
luận, qua hướng dẫn công tác mà bồi dưỡng lý luận. Các vấn đề đề cập trên Tạp
chí Cộng sản cũng có tính khái quát cao hơn. Tạp chí Cộng sản đã thể
hiện được rõ nét việc vận dụng lý luận Mác - Lênin nhằm giải quyết những vấn đề
cụ thể của cách mạng Việt Nam.
Đại hội lần thứ II của Đảng họp từ ngày 11
đến ngày 19 tháng 2-1951 đã nghe Báo cáo chính trị của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, Báo cáo Bàn về cách mạng Việt Nam của đồng chí Trường
Chinh, thông qua Tuyên ngôn, Chính cương và Điều lệ cuả Đảng. Đại
hội đã quyết định đưa Đảng ra công khai, lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam. Sau
Đại hội Đảng, cuộc kháng chiến càng phát triển mạnh mẽ. Mọi mặt hoạt động của
Đảng càng dồn dập, khẩn trương, Đảng ta tập trung sức vào việc ra tờ báo Nhân
dân, cơ quan trung ương của Đảng, nên tạm thời ngừng việc xuất bản tạp chí
lý luận,
c) Báo Quân đội nhân dân
Từ cuối năm 1949, cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp của quân và dân ta đang từng bước gặt hái được những thành công
đáng kể, đang chuyển từ thế phòng ngự sang thế chủ động trên chiến trường.
Trước tình hình này, Trung ương Đảng đã tổ chức Hội nghị toàn quốc lần thứ ba
diễn ra vào tháng 1-1950. Thực hiện Nghị quyết của Ban Thường vụ Trung ương
Đảng về chấn chỉnh, tổ chức Bộ Quốc phòng - Bộ Tổng tư lệnh và bộ máy chỉ đạo
quân sự Trung ương, Bộ Tổng tư lệnh quyết định sáp nhập hai tờ Vệ quốc quân
(số 1 ra ngày 10-3-1947) và tờ Quân du kích (số 1 ra ngày 1-4-1948)
thành tờ Quân đội nhân dân. Hai nhà in của các tờ báo trên cũng hợp lại
thành Nhà in Quân đội. Thời gian đầu, cơ quan báo được đặt tại bản Quặng, xã
Định Biên, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên. Lực lượng phóng viên đầu tiên của báo
có khoảng 20 người với những cây bút quen thuộc: Trần Cư, Lê Bách, Ngọc Bằng,
Lê Phong, Hoàng Phượng, Hoài Tín, Hoàng Vân, Trần Việt, Thanh Tâm, Vũ Tú Nam...
Báo là một phòng của Cục Tuyên truyền, Tổng cục Chính trị. Báo Quân đội nhân
dân lúc đầu do đồng chí Lê Liêm làm chủ nhiệm, Lưu Văn Lợi làm thư ký tòa
soạn.
Sau gần 3 tháng chuẩn bị, ngày 20-10-1950
báo Quân đội nhân dân ra số đầu tiên. Lời giới thiệu có đoạn ghi: ''Hôm
nay chúng tôi ra mắt Quân đội nhân dân. Chúng tôi có nhiệm vụ góp phần
vào việc đem đường lối, chủ trương của Tổng tư lệnh, Chính phủ, đoàn thể thấm
nhuần vào toàn thể quân đội và nhân dân để ai nấy đều ngùn ngụt lửa căm thù,
kiên quyết vượt mọi gian khổ, chiến thắng giặc Pháp xâm lược và bọn Mỹ can
thiệp...” Lúc đầu Quân đội nhân dân dự định ra mỗi tháng 2 kỳ, nhưng sau
đó do điều kiện chiến trường, báo tuỳ theo tình hình mà ra thưa hoặc ra mau. Có
khi hàng tháng mới báo mới ra một số. Những khi chiến sự ác liệt, Quân đội
nhân dân lại ra dồn dập. Có lúc báo ra 10 ngày một số, tuần một số, 5
ngày rồi 3 ngày một số, thậm chí là 1 ngày một số. Trong kháng chiến chống thực
dân Pháp, báo hầu như giữ nguyên khổ 25x42cm, nhưng số trang không ổn định
(thường là 8 trang, lúc 4 trang hoặc 6 trang).
Trang số 1, báo Quân đội nhân dân
sử dụng các chuyện mục như: ''Phê bình và tự phê bình'', ''Quân Đội nhân
dân trả lời”, ''Thời sự 15 ngày qua'', ''Từ hậu phương ra tiền tuyến”, “Phóng
sự''... Bên cạnh một số mục có sức sống lâu dài và những mục cơ động hơn được
sử dụng tuỳ theo tình hình. Có những mục khi quân dân ta tổ chức chiến dịch hay
các trận đánh lớn như: ''Thơ ca dân công'', ''Chuyện căm thù và yêu nước''...
Những mục này bao giờ cũng mang tính thiết thực cao, cổ vũ, động viên kịp thời
cán bộ, chiến sĩ đánh giặc.
Ngày 10-11-1950, Quân đội nhân dân đã
ra số 2, có đăng nguyên văn thư của Hồ Chủ tịch gửi bộ đội nhân chiến dịch Biên
giới kết thúc thắng lợi. Có thể nói, tại các vùng chiến khu Bắc Bộ, Quân đội
nhân dân là một trong những tờ báo được người đọc ngóng đợi nhất, đặc
biệt là đối tượng cán bộ, chiến sĩ. Họ không chỉ đọc, nhiều người còn thường
xuyên viết bài về các vấn đề của đơn vị mình gửi cho báo Quân đội nhân dân.
Không ít người trở thành cộng tác viên, thông tin viên đắc lực của báo. Chính
vì vậy, mặc dù quân số có hạn, Quân đội nhân dân không bao giờ phải chịu
cảnh thiếu bài vở, kể cả khi chiến sự diễn ra ác liệt nhất. Để thông tin một
cách kịp thời, sống động mọi hoạt động của chiến trường, báo thường
xuyên cử phóng viên ra chiến trường, tham gia các chiến dịch. Anh em trong tòa
soạn đã cố gắng vượt qua muôn ngàn khó khăn, cố gắng ra những tờ tin phát ngay
cho chiến sĩ khi khói súng chưa tan. Báo in bao nhiêu hết bấy nhiêu. Tình hình
này đã khích lệ phóng viên rất nhiều, khiến họ quên ăn, quên ngủ, tổ chức tờ
báo ngày càng tốt hơn.
Nhờ xác định rõ hướng đi cho mình, nên ngay
từ những số đầu báo Quân đội nhân dân rất chú trọng đến việc
tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, cổ vũ, động viên
kịp thời toàn dân đóng góp hết sức mình cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng đất
nước. Sau mỗi trận đánh quan trọng, một chiến dịch lớn, báo đều có nhiều bài để
tổng kết, rút kinh nghiệm, đồng thời chỉ ra những ưu điểm và hạn chế của ta,
giúp người đọc nhìn nhận một cách toàn diện tương quan lực lượng giữa quân đội
cách mạng với kẻ thù. Qua báo Quân đội nhân dân, kiến thức của cán bộ,
chiến sĩ về công tác chiến đấu, nghệ thuật chỉ huy quân sự, về nhận thức chính
trị, tư tưởng cũng đã được nâng cao lên nhiều. Năm 1951, Đảng ta công khai trở
lại, báo Quân đội nhân dân đã dành hàng tháng trời phản ánh. Đại hội
toàn quốc lần thứ II của Đảng, nói lên sự cần thiết của việc thống nhất hai tổ
chức Việt Minh và Liên Việt. Báo cũng nói rõ mối liên hệ hữu cơ giữa
quân đội với Đảng Nhà nước, giữa quân đội cách mạng với nhân dân lao động, quân
đội phải phục tùng tuyệt đối sự lãnh đạo của Đảng.
Không chỉ đề cao thắng lợi, Quân đội
nhân dân còn nghiêm khắc và thẳng thắn trước những thất bại, khuyết điểm.
Báo không ngần ngại phê phán cán bộ, chiến sĩ chưa có lối sống, tác phong tốt.
Đối với những đối tượng lợi dụng chức quyền để tham ô, hủ hóa, ngược lại với
đạo đức cộng sản, Quân đội nhân dân dân, bằng các bài viết mang nặng sức
chiến đấu, thẳng cánh gạt họ ra khỏi đội ngũ của mình.
Báo Quân đội nhân dân cũng đã
thẳng thắn và kịp thời rút kinh nghiệm, khắc phục những yếu kém trong công tác
phòng gian, bảo mật. Sau khi nhận được nhiều lời góp ý, phê bình về những bài
để lộ bí mật quân sự, bị kẻ thù lợi dụng, Quân đội nhân dân là
một trong những tờ báo đầu tiên tại vùng chiến khu thực hiện triệt để ''10 điều
kỷ luật về phòng gian, giữ bí mật'' đúng theo tinh thần Thông tư 191-TTg ban
hành ngày 23-7-1952 do Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký. Nói chung từ thời
điểm này trở về sau, báo Quân đội nhân dân nói riêng, hệ thống báo chí
của các lực lượng vũ trang nói chung ít đề cập đến các nội dung như chương
trình, phương pháp huấn luyện tại các đơn vị, địa điểm tập trung binh lính,
trang bị khí tài, đặc biệt là các kế hoạch tác chiến trước mắt…
Báo Quân đội nhân dân sử dụng nhiều
bài vở nhằm mục đích giáo dục lối sống cho bộ đội, cho đăng nhiều tác phẩm văn
học nghệ thuật, khuyến khích người lính viết lên những tâm tư tình cảm, suy
nghĩ của mình đối với cách mạng, bày tỏ thái độ đối với kẻ thù. Những tấm gương
anh hùng bất khuất trong chiến đấu được báo đặc biệt quan tâm, được phát động
thành các phong trào thi đua giết giặc lập công trong toàn quân, nhằm giáo dục
tinh thần yêu nước cho bộ đội.
Trong chiến dịch Đông Xuân (1953 - 1954),
đặc biệt là chiến dịch Điện Biên Phủ, 6 cây bút chủ lực của báo được cử ra trận
trong đợt đầu là Hoàng Xuân Tùng, Trần Cư, Phạm Phú Bằng, Nguyễn Khắc Tiếp,
Nguyễn Đình Thiết và Nguyễn Bích (họa sĩ). Mọi tin tức bài vở gửi từ mặt trận
về được khẩn trương biên tập, sắp chữ cho in ngay. Đội phát hành túc trực sẵn
sàng lập tức đưa những tờ báo còn nóng hổi, ướt mực đến tận tay các chiến sĩ.
Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc, 9 năm
kháng chiến chống Pháp thắng lợi, báo Quân đội nhân dân trở về thủ đô
với nhiệm vụ xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa và đấu tranh thống nhất đất
nước. Ngày 5-11-1964 Tổng cục Chính trị đã đề nghị Quân uỷ Trung ương và Ban Bí
thư cho phép báo Quân đội nhân dân ra hàng ngày. Đúng vào dịp sinh nhật
thứ 75 của Bác, Quân đội nhân dân chính thức trở thành nhật báo, đáp ứng
nhu cầu của bạn đọc cả nước.
d) Báo Văn nghệ
Ngày 3-10-1947 tại huyện lỵ Đại Từ (tỉnh
Thái Nguyên) diễn ra cuộc gặp mặt quan trọng của một số văn nghệ sĩ cách mạng
bàn về việc lập Hội Văn nghệ Việt Nam. Tham gia cuộc gặp mặt này có những người
nổi tiếng như Tố Hữu, tướng Nguyễn Sơn, nhà sử học Trần Huy Liệu. Hội Văn nghệ
Việt Nam được thành lập trên cơ sở Hội Văn hóa cứu quốc (1943) và đã bầu ra Ban
Chấp hành khóa I gồm: Hoài Thanh (Tổng thư ký), Nguyễn Đình Thi, Tố Hữu (ngành
văn học), Tô Ngọc Vân (ngành mỹ thuật), Lưu Hữu Phước (ngành âm nhạc). Tại Hội
nghị lần thứ hai nhóm họp ngày 6-4-1948 tại Việt Bắc, Thế Lữ được bầu thêm.
Trong cuộc họp lần đầu tiên, Ban Chấp hành Hội Văn nghệ Việt Nam tán thành việc
lập tờ báo Văn nghệ là cơ quan ngôn luận của hội.
Sau hơn 5 tháng chuẩn bị, tháng 3-1948 tờ
Văn nghệ ra số 1, in khổ nhỏ (225x150mm) trên giấy gió (sau này khi ta sản xuất
được giấy, báo in bằng giấy đen thông thường). Tờ báo ra đời nhằm thu hút đông
đảo tầng lớp văn nghệ sĩ có tâm huyết với lợi ích dân tộc. Trong mấy số đầu,
báo Văn nghệ do đồng chí Tố Hữu phụ trách với cương vị Thư ký tòa soạn (tương
đương Tổng biên tập hiện nay). Từ số 5 trở đi báo được giao cho nhà văn Nguyễn
Huy Tưởng phụ trách trực tiếp. Ban biên tập của tòa soạn đều là những cây bút
có tên tuổi như Hoài Thanh, Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Lưu Hữu Phước, Tô Ngọc
Vân, Thế Lữ. Cộng tác thường xuyên với báo là nhiều văn nghệ sĩ nổi tiếng: Ngô
Tất Tố, Xuân Diệu, Nguyễn Xuân Khoát, Huy Cận, Nam Cao, Trần Văn Cẩn, Nguyên
Hồng, Tô Hoài, Trần Huyền Trân, Như Phong, Chế Lan Viên, Kim Lân, Thép Mới, Văn
Cao, Nguyễn Tuân, Đoàn Phú Tứ, Đặng Thai Mai, Phan Khôi, Nguyễn Công Hoan, Trần
Huy Liệu, Thanh Tịnh, Nguyễn Hữu Đang... Thời gian đầu báo Văn nghệ được
in tại Nhà in Độc Lập (trong rừng Thâu Sơn thuộc địa phận Tam Đảo), dự kiến ra
mỗi tháng một kỳ vào ngày 15 hàng tháng, khổ báo tương đương với một cuốn sách
thông thường, lúc to lúc nhỏ không cố định, tuỳ theo khổ giấy nhà in có được.
Báo Văn nghệ in typô nên nét chữ nhỏ nhưng rõ ràng, dễ đọc. Cách trình
bày cũng như đặt đầu đề nghiêm túc, không hoa hòe hoa sói. Khi còn in bằng giấy
gió, Văn nghệ không được xén cẩn thận nên ngay trong cùng một tờ
báo mà có tờ nhô ra, thụt vào, mép giấy lởm chởm, đôi khi còn lẫn cả rơm khô.
Tuỳ theo tình hình mà Văn nghệ tăng hoặc giảm trang cho phù hợp,
thông thường là 60 - 70 trang. Số đặc biệt có khi lên tới gần 100 trang, có số
chỉ chừng 40 trang, trong đó có 6 - 7 trang quảng cáo, giới thiệu những tác
phẩm sắp xuất bản do Nhà xuất bản Văn nghệ ấn hành.
Nói chung, trong vài số đầu tiên, báo Văn
nghệ chưa hoàn chỉnh cả về nội dung lẫn hình thức, còn xảy ra tình trạng
mạnh ai nấy viết, miễn không chệch khỏi chủ trương kháng chiến kiến quốc của
Đảng và Nhà nước là được. Các trang mục còn nghèo nàn, chưa bao quát được hết
các lĩnh vực văn học - nghệ thuật. Mảng lý luận nói chung còn yếu, những bài
viết hô hào là chính, ngôn ngữ còn đao to búa lớn, nên công tác định hướng sáng
tác cho văn nghệ sĩ chưa đạt hiệu quả cao. Các vấn đề báo đặt ra mới chỉ ít
nhiều có tác dụng đối với tầng lớp văn nghệ sĩ đi theo kháng chiến, chưa thiết
thực, lôi kéo được đội ngũ sáng tác tiến bộ tại vùng tạm chiếm đi theo cách
mạng. Trong một số tác phẩm còn rơi rớt phong cách cũ, mang đậm dấu ấn tư
tưởng tư sản, tiểu tư sản, không thích hợp với người có trình độ thấp. Có những
tác giả tuy đề cập đến mảng đề tài nông thôn nhưng lại quá dân dã, giả tạo, tô
hồng, một chiều, xem nhẹ yếu tố nghệ thuật, nên các tác phẩm của họ ít gây được
tiếng vang... Để rút kinh nghiệm, khắc phục được những khuyết điểm trên, tại
Đại hội Văn nghệ toàn quốc diễn ra ở Việt Bắc từ ngày 23 đến ngày 25-7-1948,
Ban Chấp hành Hội đã bàn bạc nhất trí đề ra “Những vấn đề căn bản cho sự sáng
tác trong thời kỳ kháng chiến'' và đưa nội dung này vào Nghị quyết Đại hội.
Trên cơ sở này, Hội Văn nghệ Việt Nam đã công bố bản Thông đạt gửi tới văn
nghệ sĩ trong cả nước: ''Hội nghị đồng lòng nhận ra rằng văn nghệ
cần phải gần gũi đại chúng, lấy sinh lực ở nhân dân. Đồng thời phát triển những
tài năng mới và nâng cao trình độ thưởng thức nghệ thuật ở đại chúng''.
Để thông tin kịp thời, đầy đủ tình hình
hoạt động của giới văn nghệ sĩ kháng chiến, năm 1949 Hội Văn nghệ Việt Nam cho
ra thêm tờ Tin Văn nghệ. Tờ báo có nhiệm vụ giới thiệu những tác
phẩm, cây viết mới, ít đề cập đến các vấn đề lý luận. Tính tới thời điểm cuộc
kháng chiến chống Pháp kết thúc, Văn nghệ ra được tổng cộng 56 số. Đây
là một cố gắng rất lớn của giới văn nghệ sĩ Việt Nam trong suốt 6 năm đấu tranh
gian khổ. Trong quá trình hoạt động của mình, anh em phóng viên, biên tập viên
luôn phát huy tính sáng tạo, xây dựng những tổng mục mới đáp ứng nhu cầu của
bạn đọc, thiết thực với đời sống kháng chiến. Các trang mục này luôn
thay đổi tùy theo tình hình, đáng chú ý là các trang thơ, kịch, truyện ngắn,
phê bình văn học và các mục Trên những nẻo đường đất nước, Văn
nghệ thời đại, Đọc sách, Ý kiến bạn đọc... Về cơ bản, các trang mục
trên đã bao quát được hết đời sống văn hóa - nghệ thuật tại các vùng tự
do trong cả nước. Tuy nặng tính giáo dục, định hướng chính trị tư tưởng nhưng Văn
nghệ không bảo thủ luôn mở cửa cho những quan điểm sáng tác khác, thậm chí
đối lập với mình. Khi chuẩn bị diễn ra một sự kiện quan trọng nào đó, Văn
nghệ thường mở mục mới để đông đảo mọi tầng lớp nhân dân tham gia, góp ý
kiến. Để đấu tranh có hiệu quả trên mặt trận tư tưởng, văn hóa, Văn nghệ duy
trì thường xuyên mục ''Chống văn nghệ phản động vùng sau lưng địch''. Nhiều bài
viết mang tính chiến đấu cao, không khoan nhượng với những biểu hiện suy đồi
phản động trong sáng tác ở vùng tạm chiếm, đề cao lối sống văn hóa cách mạng
lành mạnh. Bên cạnh đó, báo Văn nghệ còn mở mục ''Giới thiệu
hình thức nghệ thuật dân tộc”; được đông đảo bạn đọc hoan nghênh. Với những
nghiên cứu chuyên sâu về chèo, quan họ (Bắc Bộ), tuồng, bài chòi (Nam Trung
Bộ), múa xòe (Tây Bắc) v.v., tờ báo đã góp phần giáo dục tình yêu, niềm tự hào
đối với truyền thống văn hóa dân tộc cho nhân dân, động viên, cổ vũ lòng yêu
nước trong mỗi con người.
Có thể nói, Văn nghệ là nơi quy tụ
giới văn nghệ sĩ cả nước, nơi phát hiện bồi dưỡng nhiều tài năng trẻ. Nhiều
người đã khẳng định tên tuổi qua hàng loạt cuộc thi sáng tác do Báo phát động.
Từ những năm 1950, báo đã đóng góp công sức trong việc mở Trường huấn luyện văn
nghệ nhân dân. Khóa học đầu tiên của trường đã được mở ra từ tháng 4 đến tháng
6-1950 tại Chiến khu Việt Bắc với gần 300 học viên, trong đó có nhiều người là
những cộng tác viên thường xuyên của báo được cử đi học.
Từ sau tờ Sinh hoạt Văn nghệ ra đời,
Văn nghệ chú trọng hơn tới mảng lý luận, giảm dần việc đăng tải
các tác phẩm, nhất là các tác phẩm của các tác giả trẻ. Tuy nhiên, nội dung lý
luận trên Văn nghệ đôi khi còn tỏ ra quá tả, quá nặng về những
vấn đề chính trị, mới chỉ quan tâm đến bần, cố nông, chưa có sự chú ý thích
đáng đến các tầng lớp khác trong xã hội. Trong 56 số, Văn nghệ hầu như
đều không dùng tranh, ảnh minh họa. Cách trình bày cũng đơn giản, không gây
được sự chú ý của người đọc. Mục “Học tập văn nghệ nước bạn” không
phát huy được thế mạnh vì sử dụng quá nhiều bài dịch nặng về lý luận. Do khó
khăn về thông tin liên lạc và nguồn khai thác nên tác phẩm văn học nước ngoài
nếu có đăng cũng chỉ quanh quẩn của các tác giả Liên Xô, Trung Quốc.. Lối viết
tô hồng, một chiều cũng ảnh hưởng không nhỏ tới những thành tựu chung sáng tạo
văn học thời kỳ này.
Điểm yếu nhất của Văn nghệ trong
những năm 1948 – 1954 là không bám sát tình hình chiến sự để có các tác phẩm
động viên kịp thời tinh thần chiến đấu của quân và dân ta. Chẳng hạn, trong
chiến dịch Điện Biên Phủ, trên Văn nghệ hầu như không có bài viết
nào có giá trị cao, tạo được sự chú ý của người đọc về trận chiến có ý nghĩa
quyết định này. Chỉ đến khi chiến dịch kết thúc, Văn nghệ mới có một số
bài mang ý nghĩa tổng kết tuyên truyền về ý nghĩa to lớn của thắng lợi.
đ) Tạp chí nghiên cứu
Đây là tạp chí do Trung ương Cục miền Nam
của Đảng xuất bản trong những năm cuối của cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp.
Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II
của Đảng (3-1951), Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định thành lập Trung
ương Cục miền Nam gồm các đồng chí Uỷ viên Trung ương Đảng công tác ở Nam Bộ để
thay mặt Trung ương Đảng trực tiếp chỉ đạo cuộc kháng chiến ở miền Nam trong
điều kiện giao thông liên lạc có nhiều khó khăn. Trung ương Cục miền Nam gồm
các đồng chí Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Phạm Hùng, Hà Huy Giáp, Nguyễn Văn Kỉnh, Ung
Văn Khiêm; do đồng chí Lê Duẩn làm Bí thư.
Trung ương Cục đã chủ trương xuất bản tạp
chí lý luận, lấy tên là Tạp chí nghiên cứu với tiêu đề ''Cơ quan
lý luận của Trung ương Cục miền Nam Đảng Lao động Việt Nam''. Tạp chí xuất bản
không định kỳ, khuôn khổ và độ dày các số cũng không đều nhau.
Số 1, khổ 16x23cm, dày 107 trang, in typô,
tháng 7-1951.
Số 2, khổ 11,5x17,5cm, dày 110 trang, in
typô, tháng 1-1952.
Số 3, khổ 11,5x17,5cm, dày 92 trang, in
typô, tháng 5-1952.
Số 4, khổ 10,5xcm, dày 146 trang, in typô,
tháng 7-1952.
Số 5, khổ 10,5x16cm, dày 246 trang, in
rônêô, tháng 1-1953.
Số 6, khổ 10,5x16cm, dày 126 trang, in
rônêô, tháng 4-1953.
Giá bán tạp chí thay đổi theo từng số. Số 1
giá 50 đồng, số 2 giá 100 đồng, số 3 giá 100 đồng, số 4 giá 150 đồng, số 5 giá
350 đồng, số 6 giá 250 đồng. Tạp chí do Nhà xuất bản Nhân dân miền Nam làm tổng
đại lý phát hành, qua bộ máy Sở Giao thông liên lạc Nam Bộ mà chuyển đến
các nơi nhận.
Tạp chí do đồng chí Hà Huy Giáp làm chủ
nhiệm, đồng chí Nguyễn Văn Nguyễn làm chủ bút, đồng chí Nguyễn Hồng Việt làm
quản lý trị sự.
Về mục đích, tôn chỉ của tạp chí, trong bài
''Tạp chí Nghiên cứu ra đời'', đăng số 1 (tháng 7-1951) có đọan viết:
''Cán bộ hy sinh chiến đấu gian khổ nhiều, nên kinh nghiệm thực tế khá phong
phú, nhưng không biết tổ chức tổng kết kinh nghiệm, đúc thành lý luận. Mặt
khác, chúng ta thiếu lý luận căn bản để hướng dẫn công tác, sử dụng kinh nghiệm
thực tế”.
“Bị mờ hết mắt là khó thấy rõ đường lối,
khó mà có được sự sáng suốt để làm tròn nhiệm vụ mỗi ngày một nặng trên sự
nghiệp kháng chiến kiến quốc trường kỳ, gian khổ và vinh quang của dân tộc''.
“Trung ương Cục miền Nam của Đảng Lao động
Việt Nam cho xuất bản Tạp chí Nghiên cứu này để bổ khuyết một phần nào
cho tình trạng nói trên''.
“Với những bài rút trong tạp chí, cơ quan
lý luận của Trung ương Đảng để đăng lại, với những mục thương xuyên của Tạp chí
Nghiên cứu chúng tôi sẽ cố gắng'':
'' - Phát huy lý luận căn bản của chủ nghĩa
Mác-Lênin trên thực tế cách mạng của Việt Nam nói chung và của miền Nam Việt
Nam nói riêng”.
“ - Tổng kết kinh nghiệm công tác cách mạng
kháng chiến kiến quốc ở Việt Nam nói chung, ở miền Nam nói riêng''.
…
“Tôn chỉ của Tạp chí Nghiên cứu là:
kết hợp lý luận với thực tế''.
Về nội dung, tạp chí có ba loại bài:
1. Những bài viết, bài nói của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, như “Phải thiết thực chu đáo trong công tác huấn luyện'', ''Hiệu
triệu nhân dịp phát động phong trào sản xuất và tiết kiệm'', v.v. và của đồng
chí Tổng Bí thư Trường Chinh như ''Học tập chủ nghĩa Mác - Lênin và đấu tranh
tư tưởng để chiến thắng'': ''Thi đua ái quốc chủ nghĩa anh hùng mới''; ''Phóng
tay phát động quần chúng thực hiện chính sách ruộng đất'', v.v..
2. Những bài viết của các đồng chí ủy viên
Trung ương Cục và cán bộ đảng ở miền Nam. Loại bài này chiếm tỷ lệ lớn.
3. Những bài giới thiệu kinh nghiệm công
tác của các Đảng Cộng sản Liên Xô, Trung Quốc, v.v,..
Các bài viết, bài nói quan trọng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh và của đồng chí Trường Chinh đăng trên các báo của trung ương
được Tạp chí Nghiên cứu đăng lại, mỗi số ít nhất có một hai bài.
3. Báo chí cách mạng xuất bản tại các
địa phương
a) Báo chí cách mạng Bắc Bộ
Kể từ ngày toàn quốc kháng chiến
(19-12-1946) cho đến chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi (7-5-1954),
Bắc Bộ luôn được coi là địa bàn có số lượng báo chí lớn về quy mô và đa dạng về
phương thức hoạt động. Có thể áng chừng trong gần 8 năm, tại các vùng tự do Bắc
Bộ đã xuất hiện hơn 100 tờ báo cách mạng các loại, trong số đó có gần một nửa
là báo chí của trung ương (của Trung ương Đảng, Chính phủ, của Tổng bộ Việt
Minh, Mặt trận Liên - Việt, của các đảng phái yêu nước, các hội, đoàn thể, bộ,
ngành. Loại báo này tuy phát hành rộng rãi trong cả nước nhưng tòa soạn, nhà in
và lực lượng phóng viên lại chủ yếu tập trung tại các vùng kháng chiến Bắc Bộ,
nên có thể coi chúng thuộc hệ thống báo chí cách mạng Bắc Bộ. Cũng vào thời
điểm này, tại các vùng Bắc Bộ còn tồn tại một hệ thống báo chí tư nhân rất lớn
do các trí thức, văn nghệ sĩ, nhà báo phát hành. Mặc dù những tờ báo này đều
tán thành, ủng hộ đường lối kháng chiến do Mặt trận Việt Minh phát động, không
đối lập với các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, nhưng quan điểm của
chúng thường in đậm dấu ấn cá nhân, không đại diện cho một tầng lớp dân chúng
nào cả. Đối với các loại báo này, ngay cả với những tờ có màu sắc tiến bộ nhất,
cũng chỉ nên xếp vào dòng báo chí yêu nước.
So với các khu vực khác, báo chí tư nhân
tại các vùng chiến khu Bắc Bộ chiếm số lượng lớn hơn rất nhiều. Tuy nhiên có
rất ít tờ trong số này tồn tại được lâu. Có tờ mới ra được vài số đã phải đóng
cửa vì lý do kinh phí hoặc đơn giản không có người đọc. Nhân dân thích đọc báo
của chính quyền hơn bởi thông tin luôn mang tính chính thống, nhanh nhạy, đầy
đủ, tuy đôi khi vẫn có tình trạng phản ánh một chiều phiến diện. Nhìn chung
hình thức của báo Nhà nước đẹp hơn, giá lại rẻ, có nhiều chuyên mục hấp dẫn,
hướng đến nhiều loại đối tượng. Nội dung của chúng cũng đáp ứng được một cách
đầy đủ tâm tư, tình cảm, khát vọng của quảng đại quần chúng nhân dân, tuyệt đối
phục vụ lợi ích dân tộc. Nếu xét về số lượng, trong những năm kháng chiến chống
thực dân Pháp, số báo chí cách mạng tại Bắc Bộ thấp hơn nhiều so với đầu báo
tại vùng địch tạm chiếm. Nhưng nếu đứng ở góc độ hiệu quả tuyên truyền thì hệ
thống báo chí cách mạng lại chiếm thế áp đảo, đặc biệt từ năm 1949 đến năm
1954. Nói chung, người dân vùng tạm chiếm lúc này không còn mặn mà với dòng báo
chí nô dịch. Họ đã chán ngấy chế độ thực dân, phong kiến thối nát. Chỉ với hơn
một năm được sống trong môi trường tự do dân chủ (8-1945 - 12-1946), họ
đã hiểu hết giá trị của việc thoát khỏi thân phận nô lệ, trở thành người làm
chủ xã hội, dù xã hội đó còn gặp muôn vàn khó khăn gian khổ. Tại các thành phố
lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, chỉ những tờ báo yêu nước, công khai bày
tỏ thái độ ủng hộ chính phủ kháng chiến, tuyên truyền cho những chiến thắng của
quân đội cách mạng đối với kẻ thù xâm lược là còn chiếm được thiện cảm của
người dân. Số còn lại sống lay lắt, buồn tẻ. Có tờ không ăn quá 1.000 bản mỗi
kỳ.
Đối với những tờ báo cách mạng được bí mật
chuyển vào nội thành, tình hình lại khác hẳn. Để mua được một tờ báo Cứu
quốc, người dân vùng tạm chiếm có khi phải trả gấp 20 lần giá thực. Tình
trạng đầu cơ báo chí cách mạng diễn ra khá phổ biến. Một số đầu lậu còn cho in
lại báo Sự thật, Cứu quốc, Lao động ngay tại Hà Nội để bán
kiếm lời. Người dân nội thành cũng rất có ý thức trong việc truyền bá báo chí
cách mạng. Họ giữ gìn, chuyền cho nhau đọc hoặc chép lại những bài quan trọng
rồi đưa cho người khác. Chính vì vậy mà mọi diễn biến của cuộc chiến tranh đều
được người dân vùng địch tạm chiếm nắm chắc.
Nếu như báo chí vùng tạm chiến Bắc Bộ chủ
yếu phát hành tại các đô thị, thì báo chí cách mạng có mặt khắp nơi, len lỏi từ
những vùng sâu, vùng xa cho tới cả những nơi địch kiểm soát ngặt nghèo nhất. Ở
đâu báo chí cách mạng cũng được chào đón với một tình cảm nồng nhiệt. Chính vì
vậy mà có những thời điểm báo Nhân dân, báo Quân đội nhân dân in
hàng vạn bản mà cũng vẫn không đủ cầu, phải ra thêm phụ trương mà vẫn không đáp
ứng được hết nhu cầu bạn đọc. Báo chí cách mạng còn có một lợi thế là đều tự
đặt mình dưới sự chỉ đạo chung. Mọi diễn biến của thời cuộc đều được nhìn nhận,
đánh giá khá thống nhất cho dù mỗi tờ báo trực thuộc một tổ chức, cơ quan khác
nhau. Chính vì vậy, khi đọc báo của chính quyền cách mạng, người dân hoàn toàn
đặt trọn niềm tin vào đường lối kháng chiến của Đảng và Nhà nước, tin tưởng ở
thắng lợi cuối cùng của quân và dân ta.
Bên cạnh những tờ báo cách mạng từ các vùng
tự do chuyển vào các thành phố lớn, Đảng ta còn chủ trương xây dựng một hệ
thống báo chí ngay trong lòng địch. Càng về cuối cuộc kháng chiến, dòng báo chí
bí mật cũng lớn lạnh, quy tụ xung quanh mình cả một đội ngũ báo chí yêu nước
hùng hậu. Ngoài vai trò chỉ đạo phương thức đấu tranh, xác định quan điểm lập
trường cho báo chí yêu nước, những tờ báo cách mạng bí mật còn có nhiệm vụ xây
dựng và tập hợp lực lương sẵn sàng nổi dậy khi thời cơ đến. Nhiệm vụ cơ bản của
báo chí bí mật lúc này là: Tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản, đề cao thành quả
của các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là nước Nga Xô viết và cách mạng Trung
Hoa, làm cầu nối giữa các đảng viên vùng địch hậu với vùng tự do trong số hàng
chục tờ báo bí mật hoạt động trong nội thành, đáng chú ý hơn cả là các tờ Tuyên
huấn (Ban Tuyên huấn Thành uỷ Hà Nội), Tiền phong (Thành uỷ Đảng
Cộng sản Đông Dương thành phố Hà Nội), Cảm tử (khu uỷ khu Hoàn Kiếm, Hà
Nội).
Loại báo bí mật thu hút được đông đảo bạn
đọc nhất là các tờ dành cho lớp trẻ. Các tờ báo Tiền phong (Đoàn Thanh
niên cứu quốc Hà Nội), Nhựa sống đã góp phần rất lớn trong việc giáo dục
tình cảm cách mạng, tư tưởng yêu nước cho thanh niên, hướng họ đi theo ngọn cờ
vẻ vang của Đảng, của Đoàn. Đồng thời báo chí cũng các đánh rõ vai trò của
thanh niên đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, từ đó xây dựng cho
họ lý tưởng cách mạng trong sáng, cao đẹp. Việc tổ chức, xây dựng lực lượng,
giác ngộ quần chúng đi theo cách mạng, đặc biệt là các tầng lớp công nhân, tiểu
thương, sinh viên, trí thức cũng được báo chí bí mật hết sức quan tâm. Tờ Lao
động (Liên hiệp Công đoàn thành phố Hà Nội) đã đấu tranh không khoan nhượng
với giới chủ, bảo vệ quyền lợi cho người lao động. Nhiệm vụ chính của báo Lao
động là tuyên truyền cho quần chúng nhân dân hiểu rõ lợi ích của việc tham
gia vào các hội, đoàn thể cứu quốc, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, khi cách mạng
cần sẵn sàng tham gia đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Có thể nói, so
với các địa bàn khác, báo chí cách mạng bí mật tại Bắc Bộ có phần hoạt động
mạnh mẽ, bài bản hơn, tuy nhiên hiệu quả tuyên truyền chưa cao, chưa bao quát
được mọi đối tượng, chưa thâm nhập được vào môi trường báo chí của chính quyền
thực dân kiểm soát. Cũng có tờ báo phản động sau này quay ra ủng hộ kháng
chiến, nhưng đó là hoàn toàn tự phát, theo trào lưu chung, chứ không xuất phát
từ sự giác ngộ cách mạng, khi địch đang thắng thế loại báo này hết lời ca tụng
sức mạnh của quân đội thực dân, nhưng ta giành thắng lợi trên chiến trường,
chúng lại dùng nhiều bài bày tỏ lập trường đân tộc cũng như truyền thống chống
ngoại xâm của nhân dân ta. Nếu không khống chế tốt, loại báo này rất dễ gây dao
động trong dân chúng làm bạn đọc mất lòng tin đối với báo chí yêu nước và báo
chí cách mạng.
So với Nam Bộ và Trung Bộ, số lượng báo chí
cách mạng ở Bắc Bộ lớn hơn rất nhiều, chi phối mọi mặt đời sống kháng chiến.
Tuy nhiên, không phải tờ nào cũng được phổ biên rộng rãi, nhất là các tờ từ cấp
huyện trở xuống, hoặc báo của các cơ quan, đơn vị nhỏ. Có tờ mỗi số chỉ phát
hành khoảng 100 bản, phát không cho cơ sở. Nói chung, bạn đọc thời kỳ này chỉ
thực sự chú ý đến các tờ báo của trung ương.
Đối với cán bộ, chiến sĩ, nhân dân tại các
cùng tự do nằm ngoài chiến khu Việt Bắc, Đảng, Nhà nước và Mặt trận Việt Minh
chủ trương cho phát hành rộng rãi một số tờ báo là chi nhánh của các tờ báo
trung ương kể trên. Chẳng hạn, ngoài tờ báo Cứu quốc của Tổng bộ Việt
Minh, còn có hàng loạt tờ Cứu quốc của các tỉnh, của khu hoặc liên khu.
Ví dụ tờ Cứu quốc khu II, Cứu quốc khu III (sau sáp nhập thành Cứu
quốc liên khu III), Cứu quốc khu IV, Cứu quốc khu X... Đối với các tờ Sự
thật, Nhân dân cũng vậy. Đây là biểu hiện khá độc đáo của báo chí cách mạng
thời kháng chiến và còn kéo dài sang những năm đầu của cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước. Loại báo chí địa phương đứng trên danh nghĩa chi nhánh của báo
chí trung ương nay cũng nhận được sự ủng hộ lớn lao của bạn đọc. Nội dung thông
tin chính của các báo này bao gồm: Nội dung thông tin của địa phương, nội dung
thông tin trung ương. Ở phương diện thứ nhất, tờ báo đề cập đến toàn bộ những
vấn đề xảy ra trên địa bàn từ chính trị, kinh tế đến văn hóa, quân sự. Ở những
tháng quan trọng nhất, báo cho đăng nguyên văn hoặc trích từng phần những bài
viết có tính chất chỉ đạo của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã được
đăng tải trên các báo của trung ương. Đây thường là những bài viết về những vấn
đề chính trị, vạch ra chiến lược cách mạng có quy mô lớn trong thời gian trước
mắt và những năm tiếp theo. Việc nhiều tờ báo có cùng một tên gọi còn có lợi
thế là khi địch đánh phá ác liệt chiến khu Việt Bắc, tờ báo trung ương nào buộc
phải tạm ngừng hoạt động sẽ giao cho tờ báo địa phương thay mặt trung ương để
đưa thông tin đến với bạn đọc. Tình trạng trên đã có lúc xảy ra đối với tờ Nhân
dân và Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam. Tuy nhiên, không phải bất
cứ sự trùng tên nào của báo chí cách mạng thời kỳ kháng chiến chống Pháp cũng
xuất phát từ ý đồ chính trị của Đảng và Nhà nước. Có một số báo nhận thấy tôn
chỉ mục đích của mình không khác gì một tờ báo đương thời nào đó nên đã lấy
luôn tên của báo kia đặt cho mình. Chẳng hạn, ngoài tờ Thông tin của
Thông tấn xã Việt Nam (21-3-1951), còn có các tờ Thông tin của Trung
đoàn 120 (1953), Thông tin của Đoàn Vĩnh Yên (Quân đội nhân dân Việt Nam
- 1954). Sự trùng lặp này còn diễn ra cả với những tờ không có liên quan gì với
nhau về chức năng, nhiệm vụ cũng như đối tượng phản ánh. Từ năm 1948 đến năm
1954, đồng thời tồn tại ba tờ Tiền phong: Một là nội san của Thành uỷ
Đảng Cộng sản Đông Dương Thành phố Hà Nội, một của Mặt trận Việt Minh khu Phố
Đông - thành phố Hà Nội, tờ còn lại là của Đoàn Thanh niên cứu quốc Hà Nội. Đây
có thể là biện pháp của các nhà quản lý báo chí cách mạng nhằm tung hỏa mù,
đánh lạc hướng địch. Điều dễ nhận thấy là hầu hết các tờ báo trùng tên đều chủ
yếu xuất hiện từ năm 1948 trở đi, tức là sau khi Thông tư số 147-NV/QT
được ban hành ngày 24-12-1948. Theo thông tư này, các Uỷ ban hành chính
kháng chiến liên khu có quyền cấp phép, kiểm duyệt cũng như đóng cửa tờ báo
thuộc khu vực mình quản lý, hằng tháng, có khi hằng năm mới phải làm báo cáo
gửi lên trung ương (Bộ Nội vụ). Chính vì vậy mà nhiều khi người trực tiếp quản
lý báo chí của liên khu này chưa chắc đã biết ở liên khu lân cận có những tờ
báo nào. Đây có thể là một trong những nguyên nhân dẫn tới sự trùng tên gọi của
một số tờ báo.
Trong kháng chiến kháng Pháp, dòng báo chí
cách mạng xuất bản bằng tiếng nước ngoài cũng được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt
quan tâm. Hệ thống báo chí này được giao cho Thông tấn xã Việt Nam, Bộ Quốc
phòng và cơ quan đối ngoại của Đảng đứng ra tổ chức, quản lý. Trong cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp, Bắc Bộ được coi là trung tâm cách mạng của cả nước.
Chính vì vậy, tại khu vực này có hệ thống báo chí cách mạng hết sức phong phú
về chủng loại, về đối tượng phản ánh và phục vụ, cùng tồn tại song song hai
dòng báo chí trung ương và địa phương. Gần 150 tờ báo cách mạng này có thể xếp
vào nhóm chính sau:
+ Nhóm báo Đảng: bao gồm báo, tạp chí của
Trung ương Đảng Lao động Việt Nam (Đảng Cộng sản Việt Nam), báo, tạp chí của
các liên khu uỷ, khu uỷ, tỉnh uỷ, huyện uỷ.
+ Nhóm báo chính quyền: gồm báo của Mặt
trận việt Minh, Mặt trận Liên - Việt, của các tổ chức, đảng phái yêu nước (Đảng
Dân chủ, Đảng Xã hội, của nhân sĩ, trí thức, văn nghệ sĩ...) của các bộ, ngành.
b) Báo chí cách mạng Trung Bộ - Tây
Nguyên
Đã hàng bao thế kỷ nay miền Trung - Tây
Nguyên được coi là vùng đất có ý nghĩa chiến lược quan trọng. Địa thế ở đây hẹp
kéo dài, hiểm trở, rất thích hợp cho việc thiết lập căn cứ địa cách mạng. Sau
lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch, miền Trung - Tây Nguyên đã
nhanh chóng trở thành một trong những trung tâm cách mạng chính của cả nước. Kế
thừa truyền thống báo chí cách mạng Xôviết Nghệ Tĩnh, báo chí kháng chiến chống
Pháp ngày càng khẳng định vai trò to lớn của mình. Trong suốt cuộc kháng chiến
thần thánh của dân tộc, miền Trung - Tây Nguyên luôn chứng tỏ là hậu phương
vững chắc, không tiếc sức người, sức của cho tiền tuyến. Hàng vạn chiến sĩ,
đảng viên của miền Trung - Tây Nguyên đã ngã xuống trên chiến trường, trong đó
có những nhà báo.
Theo thống kê chưa đầy đủ, trong suốt cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp, tại miền Trung - Tây Nguyên có khoảng hơn 50
tờ báo cách mạng. Con số trên không bao gồm những tờ báo bí mật trong các nhà
lao của kẻ thù ở Buôn Ma Thuật, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Trị... và các tờ
tin ở cấp huyện, cấp xã. Báo chí cách mạng miền Trung - Tây Nguyên thời kỳ
kháng chiến chống Pháp mang nhiều sắc thái, đa dạng về chủng loại, phục vụ mọi
loại đối tượng. Ngoài những tờ báo của các tỉnh uỷ, liên tỉnh, khu uỷ, liên khu
uỷ của Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Liên - Việt, và những tờ báo dành riêng cho
phụ nữ (báo Gái ra trận của Tỉnh hội phụ nữ cứu quốc Thanh Hóa), cho
thanh niên (Báo Quyết tiến của Đoàn Thanh niên cứu quốc Bình
Thuận). Về văn nghệ có báo Đại chúng của Liên đoàn Văn hóa cứu quốc
Trung Bộ, Thép mới, Sáng tạo của Chi hội Văn nghệ Liên khu IV, Đời
sống mới của Chi hội văn hóa cứu quốc Quảng Ngãi... Báo của lực lượng vũ
trang cũng rất phát triển với các tờ Chiến đấu, Vệ quốc quân, Cực Nam (Bình
Thuận), Tiền tuyến, Vệ quốc quân (Thanh Hóa), Giữ làng (Nghệ
An)... Ngoài ra, còn có những tờ báo về các lĩnh vực cụ thể khác như Kinh tế
của Mặt trận Việt Minh Thuận Hóa - Huế, Nông thôn của Hội Sáng tác -
nông thôn Phú Yên, Nội san dân tộc (Ty Giáo dục Nghệ An)... Vì điều kiện
chiến tranh, nhiều đối tượng, ngành nghề, một số cơ quan, tổ chức, hội, đoàn
thể chưa có báo riêng. Tuy nhiên, báo chí cách mạng thời kỳ này chưa mang tính
chuyên môn hóa cao. Một tờ báo của quân đội vẫn có những trang mục riêng dành
cho các đối tượng khác. Tờ báo kinh tế vẫn có thể đề cập tới các lĩnh vực thuộc
văn hóa, xã hội, chính trị, vẫn thường xuyên cho đăng thơ, truyện ngắn phục vụ
nhu cầu thưởng thức văn học - nghệ thuật của độc giả.
Nếu như tại vùng chiến khu Việt Bắc, Đảng
và Nhà nước ta rất chú trọng phát triển hệ thống báo chí bằng tiếng các dân tộc
thiểu số, thì tại Trung Bộ - Tây Nguyên loại báo trên chưa được quan tâm đúng
mức. Cả một địa bàn rộng lớn quy tụ nhiều dân tộc thuộc nhiều ngữ hệ như vậy mà
chỉ có tờ Buôn hổ của Mặt trận Việt Minh Tây Trung Bộ in bằng tiếng Êđê
bắt đầu - xuất bản vào tháng 7-1948. Tờ báo này chủ yếu lưu hành trong địa bàn
tỉnh Gia Lai. Tình hình trên ảnh hưởng rất nhiều đến việc tập hợp các lực lượng
cách mạng, kẻ thù dễ len lỏi tìm cách chia rẽ, gây mất đoàn kết giữa các dân
tộc. Có thể nói, báo chí cách mạng Trung Bộ - Tây Nguyên thời kỳ này chưa tận
dụng triệt để công tác tuyên truyền chống giặc giữ buôn làng của Ama Trang
Lơng, của anh hùng Núp với các chiến công làm khiếp vía quân thù trong chiến
dịch Atlăng, với chiến thắng Kon Tum, đèo Măng Giang, Đông Xuân 1953 – 1954.
Nội dung chính của báo chí kháng chiến
Trung Bộ - Tây Nguyên là phản ánh đường lối xây dựng, bảo vệ nền độc lập dân
tộc, bảo vệ thành quả Cách mạng Tháng Tám đúng theo tinh thần kháng chiến kiến
quốc do Trung ương Đảng đề ra. Dù xuất hiện được dạng nào, báo chí đều tập
trung vào các hoạt động phục vụ kháng chiến, tham gia tích cực vào cuộc kháng
chiến chống giặc đói, giặc dốt, kêu gọi nhân dân tiết kiệm, tích cực gia tăng
sản xuất, đẩy mạnh các hoạt động xã hội, góp phần xây dựng các hợp tác xã, tổ
đốc công. Báo chí lúc này không xem nhẹ, việc tuyên truyền xây dựng đời sống
văn hóa mới, coi những nhân tố điển hình, tiên tiến trong chiến đấu, lao động
sản xuất là đối tượng phản ánh chính. Ngoài những nội dung đề cập đến, gương
chiến đấu chống kẻ thù ngoại xâm trong các lĩnh vực, kinh tế, báo chí còn dành
dung lượng khá lớn giới thiệu kinh nghiệm của các tầng lớp nhân dân trong phong
trào xóa nạn mù chữ. Cùng với những tờ báo mang tính lý luận, chỉ đạo của trung
ương, của các đảng bộ địa phương, báo chí kháng chiến Trung Bộ - Tây Nguyên nói
chung cũng tự xác định cho mình nhiệm vụ tuyên truyền sâu rộng trong dân chúng
chủ nghĩa Mác - Lênin, đấu tranh với các khuynh hướng xét lại, cơ hội. Những tờ
báo này còn rất quan tâm đến vai trò, ảnh hưởng của văn học - nghệ thuật. Nhiều
tác phẩm vãn học có giá trị xuất hiện trên mặt báo mô tả trung thực đời sống,
thực tiễn kháng chiến. Việc làm này đã góp phần rất lớn nhằm đi nâng cao nhận
thức thẩm mỹ cách mạng cho người dân, làm cho họ thấy được cái đẹp của thứ lý
tưởng họ đang theo đuổi.
Từ năm 1948 trở đi, báo chí kháng chiến
chống Pháp tại Trung Bộ - Tây Nguyên có sự chuyển biến rất lớn về hình thức.
Lúc này không còn tình trạng mạnh tờ nào tờ này sống như trước. Sự chỉ đạo có
tình hệ thống cao từ trên xuống dưới đã hạn chế cho bản sự chồng chéo thông tin
cũng như xác định rõ vai trò, nhiệm vụ cho mỗi tờ báo. Kế hoạch thông tin,
tuyên truyền được xây dựng một cách khoa học nên đã khai thác được khá sâu mọi
vấn đề đặt ra. Cơ cấu tòa soạn cũng từng bước đi vào nền nếp, có sự phân công
rõ ràng chức năng, trách nhiệm cho từng bộ phận. Đường biên giới với các nước
cũng đã được khai thông, tạo điều kiện cho việc mở mang quan hệ, tăng cường
trang bị kỹ thuật. Công nghệ in đã được từng bước hiện đại hóa, tạo ra sự đồng
đều về hình thức và chất lượng kỹ thuật in ấn giữa các tờ báo.
c) Báo chí cách mạng tại Nam Bộ
Nếu như báo chí cách mạng Bắc Bộ chủ yếu
tập trung tại Việt Bắc, báo chí cách mạng Trung Bộ rải dọc các tỉnh duyên hải,
thì báo chí cách mạng Nam Bộ được phân bố khá đồng đều từ thành thị tới các
vùng cực của Tổ quốc. Mối liên hệ giữa các dòng báo chí cách mạng và báo chí
yêu nước ở Nam Bộ là khá khăng khít, chặt chẽ, nhiều khi rất khó phân biệt. Có
những thời kỳ, nhiều tờ báo yêu nước không chịu sự chỉ đạo, trực tiếp của các
tổ chức đảng cũng như của báo chí cách mạng, nhưng vẫn không bị lệch ra khỏi
quỹ đạo chung là đấu tranh vì sự nghiệp thống nhất đất nước, độc lập dân tộc và
toàn vẹn lãnh thổ.
Sở dĩ báo chí ở Nam Bộ đã duy trì được lâu
dài tính chất này là do, ngay từ khi cuộc kháng chiến chống Pháp của đồng bào
Nam Bộ vừa nổ ra, Xứ uỷ Nam Kỳ đã có chủ trương để lại một bộ phận không nhỏ
cán bộ, đảng viên tại vùng địch hậu (chủ yếu là Sài Gòn). Trong số này có nhiều
nhà báo cách mạng, nhiều đảng viên cộng sản cốt cán nhận nhiệm vụ trước Đảng ở
lại xây dựng, chỉ đạo hệ thống báo chí cách mạng trong lòng địch như Trần Bạch
Đằng, Nguyễn Hữu Thọ, Phạm Ngọc Thạch... Để che mắt địch, ta sử dụng hiệu quả
đội ngũ ký giả nổi tiếng đã được cách mạng giác ngộ như Triệu Công Minh, Ái
Lan, Dương Tử Giang, để họ đứng ra xin phép chính quyền thực dân ra báo. Các
khẩu hiệu đấu tranh cũng không nhất thành bất biến, có thể thay đổi tuỳ theo
tình hình miễn là không trực tiếp tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản. Các nội dung
đấu tranh với những âm mưu, thủ đoạn của nhà cầm quyền bao giờ cũng thể hiện sự
khôn khéo, mềm dẻo. Nếu như tình hình không quá căng thẳng, báo chí cách mạng
bí mật, báo chí yêu nước có thể đề cập đến các vấn đề xã hội một cách toàn diện
cả về chính trị, đối ngoại lẫn kinh tế, văn hóa. Khi kẻ thù đàn áp quá dữ dội,
báo chí lại thu mình lại, chủ yếu chỉ đấu tranh trên phương diện văn
hóa. Có thể nói, trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, hầu hết các tờ
báo yêu nước tại vùng tạm chiếm đều có người của Đảng Cộng sản Đông Dương cài
vào. Nhờ vậy mà mọi phát ngôn của báo chí về cơ bản vẫn phục tùng, chịu
sự chỉ đạo trực tiếp của Đảng và Nhà nước. Chính vì thế ta hoàn toàn có thể đặt
dòng báo chí yêu nước tại vùng bị tạm chiếm Nam Bộ vào hệ thống báo chí cách
mạng. Đây là điểm khác chủ yếu với báo chí Bắc Bộ - Trung Bộ và Tây Nguyên. Báo
chí cách mạng Nam Bộ thời kỳ này tập trung ở hai khu vực chính là báo chí tại
các đô thị miền Nam và báo chí tại các địa phương khác.
Báo chí cách mạng tại các đô thị miền
Nam: Sau khi tiếp quản Sài Gòn từ tay quân Anh, người Pháp tiếp tục mở rộng
chiến tranh nhằm chiếm lại các tỉnh miền Đông và Tây Nam Bộ. Họ cho khôi phục
lại chế độ quản lý báo chí cũ. Chính quyền tay sai của Pháp theo lệnh chủ động
nới rộng một số quyền tự do dân chủ nhằm xoa dịu dư luận, lấy lòng báo chí. Họ
muốn dùng báo chí tuyên truyền cho chính phủ bù nhìn Nguyễn Văn Thinh (một
chính phủ chỉ tồn tại được mấy tháng, sau đó người đứng đầu của nó đã treo cổ
tự tử). Nhờ sự thay đổi chính sách này, báo chí tư nhân lục tục trở ra. Chính
phủ Lê Văn Hoạch lên thay đã đàn áp báo chí dữ dội, gây bất bình trong dân
chúng. Đây chính là lúc báo chí cần có sự đoàn kết, nhất trí, đấu tranh cho sự
tồn tại của chính mình. Dưới sự chỉ đạo gián tiếp của Đảng, lực lượng báo chí
thống nhất ra đời, có lúc quy tụ được tới 17 tờ báo, là lực lượng đối lập với
hệ thống báo chí của chính quyền.
Để thống nhất trong hành động tư tưởng,
những người lãnh đạo lực lượng báo chí thống nhất xác định phải lập một Bộ biên
tập chung đặt tại xóm Thơm (Gò Vấp - thành phố Hồ Chí Minh). Bộ biên tập gồm
đại diện của mỗi tờ báo như Lý Vĩnh Khuôn, Nguyễn Văn Hiếu, vợ chồng Triệu Công
Minh - Ái Lan, Lê Thọ Xuân, Lê Văn Ngòn, Trần Thọ Phước, Trần Văn Nguyên. Bộ
biên tập có nhiệm vụ vạch kế hoạch đấu tranh chung cho cả nhóm báo tuỳ theo
từng tình hình cụ thể. Nhóm còn xác định nội dung cho từng tờ căn cứ ở chức
năng riêng. Khi đất nước có những diễn biến chính trị phức tạp Bộ biên tập sẽ
cử người viết hoặc đặt bài các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Đối với những bài
có tầm cỡ chiến lược lớn như vậy, Bộ biên tập cho đăng trước hết trên 4 tờ nhật
báo có uy tín nhất của lượng báo chí thống nhất là Tin điển, Kiến thiết, Nam
Kỳ Việt. Trong cả một khoảng thời gian dài sau đó, các báo sẽ có bài
bổ trợ hoặc khai thác, phân tích có chiều sâu. Nhiều ký giả của lực lượng báo
chí thống nhất cho đến nay vẫn được mọi người đọc nhắc đến với thái độ trân
trọng như Vũ Tùng, Bách Việt, Thiếu Sơn, Dương Tử Giang, Nguyễn Văn Hiếu, Bùi
Danh, Nam Quốc Cang, Quốc Ấn, Trần Văn Nguyên, Vĩnh Sanh, Trần Tấn Quốc, Nguyên
Kỳ Nam, Thiện Giang, Tam Ích, Thê Húc, Nguyễn Bảo Hóa, Hoàng Tấn, Hoàng Tố
Nguyên, Trúc Khanh, Vũ Anh Khang, Lý Văn Sâm, Lê Thọ Xuân, Thuần Phong, Phi
Bằng, Trần Minh Ký...
Có thể nói, nhiệm vụ đầu của lực lượng báo
chí thống nhất là đấu tranh với báo chí của nhà cầm quyền, đập lại chủ trương
phân ly, xuyên tạc đường lối kháng chiến của Đảng và Nhà nước của các tờ
Phục hưng, Tiếng gọi, Tương lai. Nội dung chính của báo chí cách mạng trong
những năm 1945 - 1946 là đấu tranh chống chia rẽ dân tộc, giữ gìn truyền thống
yêu nước, bản sắc văn hóa, ủng hộ triệt để công cuộc kháng chiến do Mặt trận
Việt Minh lãnh đạo, lên án tội ác dã man của kẻ thù, vạch trần tính chất giả
nhân giả nghĩa của nhà cầm quyền thực dân. Các tờ báo trong nhóm còn trực tiếp
hoặc gián tiếp ca tụng đời sống kháng chiến, ca ngợi Hồ Chủ tịch. Có tờ còn cho
đăng lại thơ Tố Hữu, Chế Lan Viên và nhiều tác giả sáng tác ở Việt Bắc. Nhà cầm
quyền tính mọi cách đàn áp lực lượng báo chí thống nhất, đập phá tòa soạn, bắt
bớ, giết hại ký giả. Sự đàn áp dã man của kẻ thù không làm nhụt đi ý chí đấu
tranh cũng như lòng yêu nước của những người luôn tâm huyết với lợi ích dân
tộc, với Tổ quốc.
Khi cuộc kháng chiến toàn quốc nổ ra, người
Pháp nhận thấy khó có thể kiểm soát được tình hình nếu hệ thống báo chí thống
nhất vẫn tồn tại giữa Sài Gòn. Dựa vào việc các báo đồng loạt đưa tin đoàn
thanh tra của chính quyền thực dân bị phục kích ở Trung Lương, Lê Văn Hoạch đã
rút giấy phép của cả 17 tờ thuộc lực lượng báo chí thống nhất. Điều này không
ngăn cản các nhà báo cách mạng chạy sang làm việc cho các tờ báo yêu nước khác
đầy rẫy ở Sài Gòn như: Nay mai, Ngày nay, Quốc hồn, Lẽ sống, Sự thật, Tân
dân, Ánh sáng, Thái bình... Các báo này đều có mục ''Tin tức Bưng Biền'',
được độc giả ưa thích. Để bán được báo và cũng để hạn chế sự coi thường của
người dân, một số tờ báo của chính quyền cũng bắt chước ra mục các ''Tin tức
Bưng Biền'', ở đây đã bị lọc lựa kỹ càng hoặc bị bóp méo ít nhiều.
4. Hoạt động của Thông tấn xã và Đài
Tiếng nói Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp
a) Một số hoạt động của Thông tấn xã
Việt Nam sau ngày toàn quốc kháng chiến
Cũng như nhiều cơ quan báo chí khác, ngay
trong đêm 19-12-1946, Thông tấn xã Việt Nam đã sơ tán ra khỏi Hà Nội, về vùng
núi Trầm (Hà Tây) để tiện liên lạc với Đài Tiếng nói Việt Nam. Đây là thời kỳ
Thông tấn xã Việt Nam hoạt động khó khăn nhất, trong khi vẫn phải bảo đảm vai
trò trung gian giữa các cơ quan của Chính phủ với Đài Tiếng nói Việt Nam. Theo
nguyên tắc an toàn, Đài Tiếng nói Việt Nam không được ở quá gần các khu vực
trọng yếu nên việc qua lại giữa hai cơ quan rất khó khăn, có khi anh em phóng
viên phải vượt qua hàng chục cây số đường rừng. Phương tiện giao thông không
có, tất cả đều trông vào đôi chân. Ngoài việc chạy ăn, chạy giặc, Thông tấn xã Việt
Nam còn phải đảm bảo cung cấp đầy đủ thông tin cho Đài Tiếng nói Việt Nam, cung
cấp kịp thời tin tức để Đảng và Chính phủ nhanh chóng có kế sách chỉ đạo công
cuộc kháng chiến. Trong cả quãng thời gian hơn 3.000 ngày kháng chiến gian khổ
và ác liệt, Thông tấn xã Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình, bảo
đảm cho mặt trận thông tin luôn thông suốt, góp phần rất lớn cho chiến thắng
cuối cùng.
Có thể nói năm 1947 hoạt động nghiệp vụ của
Thông tấn xã Việt Nam không đạt hiệu quả cao. Người Pháp lúc này đang ở thế
mạnh, đang tìm cách truy đuổi các lực lượng kháng chiến. Các địa phương bị chia
cắt, bao vây, nhiều vùng tự do bị rơi vào thế
cô
lập. Có những nơi mải lo chống giặc, không có điều kiện liên lạc thường xuyên
với trung ương. Tin tức đến với Thông tấn xã Việt Nam hàng ngày không đều,
trong khi không phải thông tin nào cũng được phổ biến rộng rãi. Tình trạng báo
chí ''đói'' tin có khi kéo dài hàng tháng thời. Đây cũng là thời điểm Nha Thông
tin (bao gồm Đài Tiếng nói Việt Nam và Thông tấn xã Việt Nam) bị đánh phá ác
liệt nhất. Thông tấn xã Việt Nam liên tục phải di chuyển khắp các tỉnh thuộc
miền núi phía Bắc. Đầu năm 1948, trước sự truy đuổi gắt gao của kẻ thù, để bảo
toàn lực lượng, Thông tấn xã Việt Nam quyết định chia làm hai bộ phận: một vùng
chợ Chu phục vụ Trung ương Đảng và Chính phủ, một đi theo Đài Tiếng nói Việt
Nam. Phương tiện liên lạc giữa hai nhóm chủ yếu dựa vào hệ thống ngày thu phát
công suất nhỏ có tầm hoạt động trong phạm vi hẹp. Do hoàn cảnh chiến tranh, lúc
này Thông tấn xã Việt Nam ít nhận được sự trợ giúp từ trung ương phải đưa vào
sức mình là chính. Các nguyên vật liệu như xăng dầu, giấy, mực in được cung cấp
rất hạn chế, các cán bộ, công nhân viên của Thông tấn xã Việt Nam phải đôn đáo
ngược xuôi lo cho đủ, nhiều khi phải mua giá chợ đen hoặc vận động bà con quanh
vùng đóng góp ủng hộ.
Từ cuối năm 1948, người Pháp nhận thấy các
kế hoạch tấn công lên chiến khu Việt Bắc không đạt kết quả như mong muốn, họ
quay ra chuẩn bị cho giải pháp Bảo Đại, dùng người Việt trị người Việt. Đây là
quãng thời gian khá yên ổn, Thông tấn xã Việt Nam chuyển về Tuyên Quang, đặt cơ
quan ở ATK (an toàn khu) với mật danh T6. Được sự giúp đỡ của Đảng và Nhà nước,
Thông tấn xã Việt Nam có điều kiện chỉnh đốn lại đội ngũ, trang bị cho mình các
phương tiện, máy móc hiện đại nhằm mở rộng hoạt động. Lúc này, tình hình tại
các vùng tự do trong cả nước cũng bắt đầu đi vào thế ổn định. Sợi dây liên lạc
giữa các địa phương với trung ương đã được nối lại. Tin tức dồn dập đổ
về Thông tấn xã Việt Nam. Chưa bao giờ Thông tấn xã Việt Nam phải xử lý một
khối lượng thông tin đồ sộ, phong phú đến như vậy. Công việc nhận và chuyển tin
diễn ra hết sức bận rộn, khẩn trương. Những khi có tin quan trọng, bất kể ngày
đêm, Thông tấn xã Việt Nam đều tìm cách chuyển ngay đến các cơ quan chức năng
để Đảng và Chính phủ nắm chắc tình hình trong và ngoài nước, từ đó vạch ra sách
lược đấu tranh hợp lý. Năm 1949, nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời đã làm
thay đổi cục diện ở châu Á và thế giới, hết sức có lợi cho ta. Cách mạng Lào -
Campuchia cũng đang lớn mạnh từng ngày, tạo điều kiện cho Thông tấn xã Việt Nam
mở rộng tầm hoạt động ra các nước. Mối quan hệ giữa Thông tấn xã Việt Nam với
một số hãng thông tấn lớn trên thế giới bước đầu được thiết lập. Quá trình trao
đổi thông tin diễn ra ngày càng tốt đẹp giữa các bên. Thông tấn xã Việt Nam đã
tổ chức tốt công tác thu, phát tin ra nước ngoài thông qua một số âm trung gian
đặt tại Trung Quốc, Miến Điện, Thái Lan. Từ các nguồn tin phong phú này, cuối
năm 1949, Thông tấn xã Việt Nam quyết định phát hành ngay tờ Tin tức khổ
nhỏ, 4 trang, đề cập tới các vấn đề quan trọng nhất, mới nhất xảy ra trong nước
và quốc tế. Số lượng phát hành của tờ Tin tức là khá lớn, đáp ứng khá
đầy đủ nhu cầu của các cơ quan, đơn vị đầu não ở trung ương, các vùng chiến khu
IV, V, thậm chí tới cả các bưng biền nằm ở cực nam của Tổ quốc. Vào thời điểm
đó, để tổ chức tốt một mạng lưới phát hành hiệu quả như vậy là nỗ lực vô cùng
lớn của Thông tấn xã Việt Nam.
Để theo sát mọi diễn biến của cuộc kháng
chiến, Thông tấn xã Việt Nam rất chú trọng đến việc cử phóng viên tới các vùng
trọng điểm, nơi chiến sự đang diễn ra ác liệt. Các phóng viên, kỹ thuật viên
phải làm việc ngày đêm, bám theo bộ đội, vừa viết tin, bài vừa tham gia chiến
đấu. Nhiều người đã ngã xuống như những người lính thực thụ. Từ đầu những năm
1950, hoạt động của Thông tấn xã Việt Nam bắt đầu mang tính chuyên nghiệp hơn.
Các phòng tin tức trong nước, tin tức quốc tế được thiết lập với các ban chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội... Phân xã tại các địa phương cũng hoạt động rất
tích cực. Các phóng viên, cộng tác viên thường xuyên được tham dự các lớp tập
huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ do Thông tấn xã Việt Nam đứng ra tổ chức. Giảng viên
là các nhà báo cách mạng có tên tuổi. Giáo trình giảng dạy do các hãng thông
tấn như Tass, Tân Hoa xã cung cấp. Nhờ những lớp học kiểu này mà trình độ
nghiệp vụ cũng như nhận thức tư tưởng của anh em được nâng lên rất nhiều. Việc
viết tin, bài nhờ đó cũng mang tính quy phạm hơn. Truyền thống này còn được duy
trì cho đến nay. Đây cũng là mối quan hệ giữa Chính phủ kháng chiến với các
nước nằm trong hệ thống xã hội chủ nghĩa nói chung, với Trung Quốc nói riêng
được thắt chặt hơn bao giờ hết. Việc trao đổi thông tin nghiệp vụ giữa Thông
tấn xã Việt Nam với Tân Hoa xã cũng diễn ra tốt đẹp. Được sự đồng ý của
Đảng và Chính phủ, Thông tấn xã Việt Nam đã bắt đầu thành lập các phân xã ở
nước ngoài để nắm tình hình quốc tế một cách nhanh nhất. Phân xã nước ngoài đầu
tiên của Thông tấn xã Việt Nam được đặt ở Bắc Kinh (1952) do đồng chí Ngô Điền
phụ trách, là tiền đề cho hàng loạt phân xã nước ngoài khác sau này.
Trong suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp,
hoạt động của Thông tấn xã Việt Nam diễn ra rầm rộ, năng động, nhất là vào thời
điểm mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ. Trước quy mô lớn của chiến dịch hơn ai
hết, các phóng viên tin tưởng rằng đây sẽ là trận đánh lớn cuối cùng, có ý
nghĩa quyết định đến số phận của quân đội Pháp ở Đông Dương. Ai cũng muốn mình
sẽ được ra chiến trường ngay trong đợt đầu. Nhận thức rõ tầm quan trọng của
chiến dịch Điện Biên Phủ, Thông tấn xã Việt Nam đã cân nhắc lựa chọn những
phóng viên có năng lực nhất do đồng chí Hoàng Tuấn (Giám đốc) làm trưởng nhóm
đi theo bộ đội ra mặt trận, ở đâu có bom rơi, đạn nổ là ở đó có loạt các phóng
viên của Thông tấn xã Việt Nam. Mọi tin tức đều được khẩn trương truyền về bằng
tín hiệu morse cho các cơ quan trung ương và hệ thống báo chí. Bộ phận ở nhà
cũng cố gắng cho ra tờ tin một cách nhanh nhất để khỏi phụ công của các đồng
đội đang ngày đêm xông pha nơi chiến địa. Tính cập nhật tin tức của Thông tấn
xã Việt Nam đã cổ vũ rất nhiều tinh thần chiến đấu của quân và dân ta. Ngày
9-5-1954, ngay trên nóc hầm chỉ huy của địch, phóng viên Thông tấn xã Việt Nam
đã có bài tường thuật phát đi toàn thế giới, gây chấn động dư luận trong và
ngoài nước.
b) Hệ thống đài phát thanh trong
kháng chiến chống Pháp
Vừa nhận được lệnh sơ tán, ngay trong đêm
19-12-1946, cán bộ, phóng viên, biên tập viên, kỹ thuật viên của Đài Tiếng nói
Việt Nam đã tổ chức di chuyển toàn bộ trang thiết bị máy móc lên núi Trầm (Hà
Tây). Do đã nhận được chỉ thị từ mấy tháng trước nên mọi việc diễn ra
nhanh chóng, thuận lợi. Vừa đặt chân lên địa điểm mới được vài giờ, Đài đã phát
sóng chương hình như thường lệ, tạo được bầu không khí tin tưởng, phấn khởi nơi
khán thính giả. Cũng trong buổi phát sóng đó, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến
của Hồ Chủ tịch vang vọng khắp núi sông, thắp lên ngọn lửa yêu nước hừng hực
trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân.
Để bảo toàn lực lượng, đề phòng địch tấn
công bất ngờ, lãnh đạo Đài Tiếng nói Việt Nam chủ trương sử dụng cùng lúc vài
địa điểm dự phòng. Mỗi địa điểm này đều có các trang thiết bị có thể sử dụng
được ngay khi cần đến, đảm bảo cho tiếng nói của Đảng và Nhà nước luôn thông
suốt, liên tục, tuyệt đối tránh đứt đoạn ảnh hưởng không tốt đến tâm lý, tình
cảm của nhân dân. Đời sống kháng chiến khó khăn về mọi mặt, không chỉ lo
ăn, lo ở, cán bộ, chiến sĩ của Đài phải chạy đôn, chạy đáo khắp nơi để khai
thác thông tin, đáp ứng sao cho đủ 3 buổi phát sóng hàng ngày. Tin tức trong
nước lúc này rất thiếu. Mạng lưới thông tin viên trước đây giờ tản mát khắp
nơi. Mối liên hệ giữa họ với đài không còn được đều đặn, thường xuyên. Kẻ thù
lại luôn tìm cách bao vây, cắt đứt mọi tuyến giao thông giữa các địa
phương, giữa vùng tạm chiếm với vùng tự do. Các cơ quan có nhiệm vụ cấp tin cho
Đài trước đây như Nha Thông tin, Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam
giờ cũng đang gặp khó khăn, chưa có điều kiện nối lại mối quan hệ. Tình hình này
buộc Đài Tiếng nói Việt Nam phải chủ động sử dụng nguồn tin của đài địch hoặc
của các hãng thông tấn có uy tín trên thế giới, rồi chế biến lại cho phù hợp
với yêu cầu chính trị đặt ra, đáp ứng nhu cầu thông tin của bạn nghe đài. Bên
cạnh đó, để lấp chỗ trống và cũng để tuyên truyền sâu rộng hơn quan điểm kháng
chiến lâu dài của ta, Đài Tiếng nói Việt Nam trong thời gian này sử dụng nhiều
thể loại bình luận về các vấn đề trong và ngoài nước. Tất nhiên, các hình thức
thông tin này không thể kéo dài được lâu. Thính giả ngày nào cũng phải nghe vài
bài bình hận về các vấn đề quá chung chung, không thiết thực với sinh hoạt hàng
ngày của mình, dần cũng chán. Trong khi đó Đài Con Nhạn của thực dân Pháp đặt
tại Hà Nội ngày nào cũng tố cáo Đài Tiếng nói Việt Nam đưa tin không chính xác,
''xào'' lại thông tin của họ. Uy tín của Đài Tiếng nói Việt Nam ít nhiều bị sụt
giảm. Trước thực tế này, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã có
chỉ thị: ''không nên bịa đặt những tin quá to làm cho dư luận ngoài sinh hoài
nghi Đài phát thanh của ta”6. Đồng thời, Đảng cũng giao nhiệm
vụ cho các địa phương phải có mối liên hệ chặt chẽ với Nha Thông tin,
với Đài Tiếng nói Việt Nam, cung cấp đều đặn thông tin cho các cơ quan này bằng
mọi giá: ''Các địa phương như Hải Phòng, Lạng Sơn, Sơn La, Lai Châu, Bắc Ninh,
Bắc Giang, Hải Dương và các tỉnh miền Nam phải gửi về cho Nha Thông tin những
tài liệu xác thực thuộc về nơi mình''. ''Các đồng chí trong Nha Thông
tin Tuyên truyền trung ương và địa phương có nhiệm vụ cộng tác với các ban
tuyên truyền các cấp của đoàn thể...”7. Nhờ khắc phục được
ngay những yếu kém nói trên, Đài Tiếng nói Việt Nam đã mau chóng khẳng định lại
được vị thế của mình, góp phần tạo niềm tin cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân
vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước, tin vào chiến thắng cuối cùng
của lực lượng kháng chiến.
Cuộc chiến dai dẳng giữa ta và địch tại các
vùng giáp ranh đã gây cho kẻ thù nhiều tổn thất nặng nề. Hơn ai hết, thực dân
Pháp hiểu rõ một trong những nguyên nhân khiến chúng gặp nhiều thất bại liên
quan trực tiếp đến Đài Tiếng nói Việt Nam. Việc tiêu diệt hệ thống phát thanh
của ta được người Pháp coi như nhiệm vụ hàng đầu. Ngày 3-3-1947, Pháp đã đổ một
lượng lớn quân hòng đánh úp hang núi Trầm. Do đã biết trước kế hoạch của địch,
Đài Tiếng nói Việt Nam đã sơ tán kịp thời, không bị tổn hại đáng kể nào về vật
chất. Trong đợt chạy giặc này, đồng chí Trần Kim Xuyến, một trong những người
sáng lập Đài, đã hy sinh anh dũng.
Trong thời gian ở Trầm, Đài vẫn sử dụng câu
danh xưng “Đây là Đài Tiếng nói Việt Nam, phát đi gần Hà Nội, Thủ đô nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa''. Câu danh xưng này có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nó tạo
cảm giác gần gũi giữa thính giả với chính phủ kháng chiến. Người dân vùng tạm
chiếm cũng cảm thấy Đảng, Bác Hồ luôn hiện diện bên mình. Đêm giao thừa của Tết
kháng chiến đầu tiên (Đinh Hợi 1947), dù bận trăm công nghìn việc, Bác Hồ đã
tới hang núi Trầm đọc thơ chúc Tết gửi tới đồng bào cả nước. Hành động này đã
gây xúc động lớn trong toàn Đảng, toàn dân, thúc đẩy thêm quyết tâm chiến đấu
bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc. Trong suốt 9 năm kháng chiến chống thực
dân Pháp, Đài Tiếng nói Việt Nam đã phải thay đổi chỗ ở tới 14 lần, qua khắp
các tỉnh miền núi, trung du từ Sơn Tây đến Phú Thọ, Tuyên Quang, Bắc Cạn...
Địch lùng sục ráo riết nên Đài chẳng ở đâu được lâu. Vừa đặt chân đến địa điểm
mới Đài đã phải lập phương án cho địa điểm tiếp sau. Do vậy, cuộc sống của anh
em hết sức khó khăn, thiếu thốn. Có thời gian dài, họ phải thay phiên nhau đi
đào củ, săn bắn, hái rau dại trong rừng. Có người trong lúc đi xa kiếm lương
thực cho cơ quan đã làm mồi cho thú dữ. Các căn bệnh của ''rừng thiêng nước
độc'' như ngã nước, sốt rét đã không từ một ai trong khi thuốc men hầu như
không có. Mọi gian khổ hy sinh không làm nản lòng các chiến sĩ ngày đêm đánh
địch trên làn sóng điện, làm cho họ thêm vững vàng trong cuộc đấu tranh chống
kẻ thù chung.
Từ khoảng giữa năm 1949 trở đi, mọi hoạt
động của Đài Tiếng nói Việt Nam diễn ra có chiều thuận lợi hơn. Do làm tốt công
tác tăng gia sản xuất, nên đời sống vật chất của anh em cũng được bổ
sung, mở rộng. Dù rất bận rộn, ai cũng cố gắng tham gia các lớp bồi dưỡng ngắn
hạn khi có điều kiện. Tinh thần đoàn kết nội bộ luôn được thắt chặt đã tạo
không khí phấn khởi tràn ngập cơ quan. Tinh thần này đã cổ vũ cho anh em phóng
viên xông xáo đi về những nơi xa xôi, hẻo lánh hoặc nơi chiến địa để đưa tin,
viết bài. Thông tin ào ạt về với những đề tài phong phú, đa dạng làm cho các
chương trình phát sóng của Đài Tiếng nói Việt Nam ngày càng hấp dẫn, lôi cuốn thính
giả. Chiến dịch Biên giới Thu - Đông 1950 kết thúc thắng lợi đã làm thay đổi
cục diện chiến trường. Ta từ thế cầm cự chuyển sang phản công, đẩy địch vào thế
lúng túng, bị động. Trên đà này, Đảng và Nhà nước đã lãnh đạo quân và dân ta mở
hết chiến dịch này đến chiến dịch khác. Chiến thắng vang dội làm nức lòng cán
bộ, phóng viên, biên tập viên, kỹ thuật viên của Đài. Mọi người thay phiên nhau
trực máy, thi đua không bỏ sót tin tức nào, dù là nhỏ nhất. Để có được thông
tin chính xác, kịp thời, Đài Tiếng nói Việt Nam luôn có kế hoạch cử phóng viên
theo chân bộ đội đến những mặt trận khốc liệt nhất. Tin tức bằng mọi giá
phải được chuyển về một cách nhanh nhất. Nhiều bản tin do Đài phát sóng đã kết
thúc trong khi khói lửa trên chiến trường còn chưa tắt. Chất lượng thông tin
của Đài Tiếng nói Việt Nam đã nhiều lần được Đảng, Nhà nước và bạn bè quốc tế
gần xa đánh giá cao. Do hậu quả của các chế độ trước để lại, đời sống văn hóa
của bà con nông dân nước ta còn hết sức lạc hậu. Các hủ tục như mê tín dị đoan,
trọng nam khinh nữ, chế độ đa thê, tảo hôn tràn lan khắp nơi. Nạn nghiện hút,
cờ bạc, trộm cắp hoành hành trong từng thôn xóm. Đây là những vấn nạn rất dễ
ảnh hưởng lan rộng trong đạo đức, lối sống của cán bộ, chiến sĩ. Việc xây dựng
đời sống văn hóa kháng chiến lành mạnh là mục tiêu hàng đầu của Đảng và Nhà
nước ta. Trước nhiệm vụ được giao, Đài Tiếng nói Việt Nam đã dành thời lượng
khá lớn cho các chương trình văn hóa, giáo dục. Việc xây dựng hương ước, thực
hiện nếp sống mới từ gia đình đến thôn xóm, cưới xin, tang ma giản dị,
tiết kiệm, kêu gọi nhân dân tham gia các lớp bình dân học vụ... là những nội
dung luôn được Đài tuyên truyền rộng rãi, được toàn dân hưởng ứng, làm theo.
Đài cũng không ngần ngại vạch mặt, chỉ tên những phần tử chậm tiến, đề cao
những tấm gương biết ăn năn hối cải trở về với lẽ phải. Đài Tiếng nói Việt Nam
còn là một trong những cơ quan báo chí đầu tiên phát động phong trào thi đua
xây dựng nếp sống mới giữa địa phương này với địa phương khác.
Thực hiện chỉ thị của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng là phải ''chú trọng tuyên truyền quốc tế”, ngay từ những ngày đầu
thành lập, Đài Tiếng nói Việt Nam đã rất quan tâm đến việc xây dựng các chương
trình phát bằng tiếng nước ngoài. Ngày l5-9-1945, Đài đã phát sóng chương trình
thời sự bằng hai thứ tiếng Anh, Pháp với các hô ngữ còn được sử dụng đến nay là
VNA (Vietnam News Agency) và AIV (Agence d'information du Vietnam). Mỗi chương
trình này kéo dài khoảng 15 phút. Được bổ sung nhân lực, mấy hôm sau Đài thêm
các chương trình tiếng Quảng Đông, tiếng Lào và quốc tế ngữ (Esperanto). Nhận
thức rõ tầm quan trọng của các chương trình thời sự phát bằng tiếng nước ngoài,
Đài Tiếng nói Việt Nam liên tục cải tiến để tăng buổi, tăng thời lượng. Tuy
nhiên, do hoàn cảnh khó khăn thời chiến, trong ba năm đầu tồn tại, phát triển,
Đài chủ yếu hoạt động nhờ các trang thiết bị của Pháp để lại, đã quá cũ kỹ lạc
hậu. Máy phát chỉ có công suất từ 200 - 500W lại không được duy tu thường
xuyên, không có linh kiện thay thế nên hoạt động của Đài rất khó giữ được thế
ổn định, lâu dài. Sóng của Đài chỉ với tới được một số nước lân cận như Lào,
một phần lãnh thổ Campuchia và Thái Lan nên hiệu quả tuyên truyền quốc tế chưa
cao.
Mặc dù năm 1947, Trung ương Đảng đã có Chỉ
thị ''Chú ý bổ sung và cải thiện kỹ thuật phát thanh và liên lạc để lợi cho
việc thông tin tuyên truyền trong nước và ngoài nước'', nhưng phải đến cuối năm
1949 đầu năm 1950, khi nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được thành lập, biên
giới giữa hai nước được mở rộng, ta mới có điều kiện nhập máy móc hiện đại. Với
hệ thống máy phát chuyên dụng, sóng của Đài Tiếng nói Việt Nam đã đến được với
hầu hết các nước trong khu vực, góp phần đắc lực tuyên truyền cho cuộc kháng
chiến chính nghĩa của dân tộc ta trên thế giới, tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè
năm châu, thực hiện tốt chủ trương của Đảng và Nhà nước ''kêu gọi nhân dân
Pháp, các đoàn thể và các phần tử dân chủ Pháp, các dân tộc bị áp bức và lực
lượng hòa bình dân chủ trên thế giới đồng tình với ta chống phản động Pháp'',
''tiếp tục vạch rõ mưu gian và chỗ bội nghĩa của Pháp và tính chất tự vệ chính
đáng của cuộc kháng chiến của ta''...
IV. MỘT VÀI NHẬN XÉT,
KẾT LUẬN
Giai đoạn 1945 - 1954 đã tạo nên một dấu ấn
đặc biệt trong lịch sử Việt Nam. Trong khoảng chưa tròn hai mươi năm ấy, dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân đã
nhất tề đứng dậy làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám long trời, lở đất, giành lại
chính quyền từ tay phát xít Nhật và thực dân Pháp, kết thúc đêm trường nô lệ 80
năm. Nhưng ngay sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, dân tộc
ta đã bước vào một cuộc chiến đấu mới vô cùng gian khổ, ác liệt để làm nên
Chiến thắng Điện Biên Phủ đánh bại toàn bộ quân xâm lược Pháp dưới sự bảo trợ
của bọn can thiệp Mỹ. Đây cũng là thời kỳ báo chí cách mạng Việt Nam có bước
phát triển mới, đóng góp xứng đáng vào chiến thắng chung của dân tộc.
Từ nhận thức đúng đắn về vai trò to lớn của
báo chí trong tuyên truyền chính sách, giác ngộ, nâng cao trình độ nhận thức
của nhân dân, động viên, cổ vũ toàn dân tộc tham gia kháng chiến, kiến quốc, Trung
ương Đảng và Hồ Chủ tịch đã đặc biệt quan tâm chỉ đạo xây dựng hệ thống báo chí
cách mạng công khai. Ngay sau ngày lễ Tuyên ngôn độc lập, dưới sự chỉ đạo của
Hồ Chủ tịch, Thông tấn xã Việt Nam và Đài Tiếng nói Việt Nam đã ra đời. Đây là
hai loại hình phương tiện báo chí đã tạo điều kiện đưa thông tin về cuộc đấu
tranh chính nghĩa của dân tộc ta, vượt ra ngoài biên giới quốc gia, góp phần
tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng hòa bình, tiến bộ trên thế giới.
Trong suốt toàn cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược, báo, tạp chí, đài phát thanh đã bám sát thực tiễn cuộc sống,
cùng chia sẻ gian khổ, hiểm nguy với nhân dân, bộ đội, phục vụ kịp thời các
nhiệm vụ chính trị của cuộc kháng chiến. Trong chiến tranh ác liệt, mỗi dòng
tin báo chí, mỗi tiếng nói trên Đài Tiếng nói Việt Nam trở thành vô cùng
quý báu, có sức mạnh to lớn trong việc củng cố niềm tin, động viên, cổ vũ đồng
bào, chiến sĩ - đặc biệt là nhân dân vùng địch hậu. Trong bài nói tại Đại hội
lần thứ II Hội Nhà báo Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định vai trò của
báo chí trong giai đoạn 1945 - 1954, đó là ''đã đóng góp vào cuộc kháng chiến
thắng lợi”.
Kể từ sau ngày 19-12-1946, hệ thống báo chí
của Đảng, Nhà nước, của Mặt trận Việt Minh, của các tổ chức, đảng phái yêu
nước, của các cơ quan thuộc bộ máy quản lý chính quyền về cơ bản đã di chuyển
lên các vùng chiến khu. Trong thời gian này, những người làm báo phải sống và
làm việc trong môi trường rất nhiều khó khăn, thiếu thốn. Do phải sơ tán liên
tục, hầu như mọi tờ báo đều sụt giảm số lượng bạn đọc. Vai trò của lực lượng
cộng tác viên cũng bị suy giảm trầm trọng. Nhà báo lúc này không chỉ làm nhiệm
vụ thông tin đơn thuần mà nhiều khi họ là những chiến sĩ thực thụ trực tiếp cầm
súng ra trận, không ít người đã hy sinh anh dũng trên chiến trường. Trước sức o
ép ngày càng khốc liệt của kẻ thù, các cơ quan báo chí phải tự tổ chức lại. Có
những tờ nhận thấy vai trò của mình không còn phù hợp với thực tiễn cách mạng
đã tự đóng cửa hoặc sáp nhập với tờ khác. Các tòa soạn đều sắp xếp lại nhân sự
cho gọn nhẹ, cơ động, phù hợp với tình hình thời chiến.
Trong điều kiện chiến tranh, giao thông
liên lạc không thuận lợi, tình hình chiến sự mỗi nơi mỗi khác, Đảng và Nhà nước
ta chủ trương khuyến khích phát triển loại báo địa phương. Để hạn chế tính quan
liêu cửa quyền của một số cơ quan quản lý, từ năm 1948, Chính phủ đã ban hành
một số văn bản, giao quyền cho cấp Uỷ ban hành chính kháng chiến tỉnh, liên khu
cấp phép, kiểm duyệt, hàng tháng chỉ phải làm báo cáo gửi lên Bộ Nội vụ. Cách
điều phối này đã tạo điều kiện cho dòng báo chí địa phương phát triển mạnh mẽ.
Tình hình này cũng, làm nảy sinh một số vấn đề. Do báo ra ngày càng nhiều, địa
phương lại không có khả năng bao cấp, nên để có thể tự nuôi sống mình, một số
báo đã có những biểu hiện cạnh tranh không lành mạnh, việc xử lý đánh giá thông
tin không thống nhất, thậm chí có khi mâu thuẫn nhau. Có địa phương quá đề cao
mình, coi hệ thống báo chí của mình là trên hết. Tờ nào cũng cố kéo các nhà
lãnh đạo trung ương viết bài cho mình, nhiều khi chỉ để lấy tiếng chứ không
hoàn toàn vì lợi ích địa phương. Vì hình thức, những tờ báo này cũng cố bắt
chước ở các báo chí trung ương từ kiểu chữ, tên báo đến cách viết, đặt đề
mục... Cách làm này lúc đầu cũng được bạn đọc chú ý, nhưng dần dần họ thấy nhàm
chán vì tính đơn điệu của chúng.
Nhìn chung, từ đầu năm 1947, báo chí cách
mạng thu hẹp dần số lượng. Tới năm 1952, cả nước chỉ còn hơn 50 tờ báo các
loại. Số đầu báo tuy giảm nhưng đối tượng phục vụ lại được mở rộng. Chẳng hạn,
báo Sự thật từ đầu năm 1948 trở đi không chỉ phục vụ cán bộ, đảng viên
mà còn là tờ báo chung cho mọi tầng lớp nhân dân. Ngoài những bài có
tính lý luận, tài liệu huấn luyện cán bộ, báo Sự thật còn rất coi trọng
việc thông tin những vấn đề thời sự. Từ ngày lên chiến khu, nguồn cung cấp thông
tin báo chí không còn được thuận lợi như trước. Các địa phương bị vây hãm, chia
cắt làm cho thông tin, nếu có đến được với tờ báo nào đó thì cũng thường bị
chậm, không ổn định, lúc có lúc không, Tin dành cho báo chí thời này chủ yếu
lấy từ các nguồn như: Chính phủ, các ban ngành đoàn thể, đơn vị, các đài phát
thanh trong và ngoài nước. Một số báo đã linh hoạt khai thác thông tin của báo,
đài phương Tây đưa tin về những thất bại, tổn thất của họ trong một số chiến
dịch, trận đánh. Ở một mức độ nhất định, cách làm này đã giúp báo chí đưa tin
kịp thời và tăng giá trị chiến thắng của ta vì địch thừa nhận các thất bại của
họ. Cách làm này góp phần kịp thời cổ vũ, động viên tinh thần kháng chiến của
quân dân ta và làm cho người dân vùng tạm chiếm ngày càng tin tưởng nào thắng
lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến. Trong những năm 1946 - 1954 do hoàn cảnh
kháng chiến và nhiều nguyên nhân khác, báo chí cách mạng tại vùng chiến khu
thường không bảo đảm đúng định kỳ và số trang ổn định. Một tờ tuần báo tuỳ theo
tình hình, có thể tăng lên vài số một tuần, hoặc cũng có khi hàng tháng mới ra
một số. Thông thường, một tờ báo thời kỳ này chỉ ra 4 trang, nhưng nếu cần
thiết, để phục vụ mục tiêu tuyên truyền quan trọng, báo sẵn sàng ra hàng chục
trang. Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, báo chí tư nhân cũng khá
phát triển tại các vùng chiến khu. Mặc dù chúng thuộc về cá nhân (của các nhân
sĩ, trí thức, tiểu tư sản thành thị) nhưng hầu hết các tờ báo này đều mang màu
sắc yêu nước, ít nhất là có thiện cảm với các chủ trương, đường lối, chính sách
của Mặt trận Việt Minh, đối lập với báo chí vùng tạm chiếm. Nói cách khác, ở
các vùng tự do, thời gian này không có báo đối lập với chính quyền nhân dân.
Đây là điều kiện hết sức thuận lợi cho công tác quản lý báo chí của Đảng và Nhà
nước. Dù là báo tư nhân hay của chính quyền thì giữa chúng vẫn có một số điểm
chung, thống nhất là ủng hộ triệt để nhiệm vụ kháng chiến, kiến quốc; chống kẻ
thù ngoại xâm và chế độ phong kiến đến cùng; hướng tới một chế độ tự do, công
bằng, văn minh.
Những nội dung trên đã đáp ứng được tâm tư,
nguyện vọng của toàn dân, được nhân dân ủng hộ. Sức tác động của báo chí cách
mạng giờ đây không chỉ bó hẹp trong các vùng tự do mà còn được mở rộng ra các
vùng tạm chiếm lân cận, tới các thành phố lớn trong cả nước. Nhiều tờ báo tiến
bộ trong vùng địch kiểm soát cũng tạm cách bày tỏ thiện chí đối với cuộc kháng
chiến chống Pháp do Mặt trận Việt Minh phát động, phần nào bày tỏ được quan
điểm yêu tự do của cả dân tộc. Nếu như vào những năm đầu của cuộc kháng chiến,
báo chí cách mạng còn có những hạn chế về số lượng, chất lượng, chủ yếu tập
trung tại các căn cứ Việt Bắc, Liên khu IV, Liên khu V, vùng Đồng Tháp Mười,
thì từ những năm năm mươi, dòng báo chí này được mở rộng ra khắp cả nước, lấn
át dần các đồng báo chí khác, lôi cuốn chúng đi theo mình, nếu không muốn hứng
chịu sự thờ ơ, ghẻ lạnh của bạn đọc.
_________________
1.Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4,
tr.548.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4,
tr.480.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6,
tr.164.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng
toàn tập, Sđd, t.11, tr.199.
5. Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực
thuộc Bộ Chính trị: Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp – thắng
lợi và bài học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.202.
6,7. Đảng Cộng sản VIệt Nam: Văn kiện
Đảng toàn tập, Sđd, t.8, tr.202.