Thứ Tư, 20 tháng 6, 2012

LỊCH SỬ BÁO CHÍ CÁCH MẠNG VIỆT NAM, phần 2


CHƯƠNG III
BÁO CHÍ CÁCH MẠNG VIỆT NAM THỜI KỲ 1954 - 1975
I- BÁO CHÍ TRONG THỜI KỲ ĐẦU XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ ĐẤU TRANH THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC 1954 - 1964
l. Báo chí cách mạng hoạt động trong điều kiện mới
Hòa bình lập lại, trong mấy năm đầu, hoạt động báo chí đã khởi sắc, phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng, đặc biệt là ở đô thị và các thành phố lớn. Tính đến năm 1957 toàn miền Bắc đã có 134 tờ báo, trong đó có 5 tờ xuất bản hàng ngày, 15 tờ tuần báo, 20 tờ bán nguyệt san và nguyệt san. Khác với thời kỳ kháng chiến chống Pháp, báo chí tập trung chủ yếu vào các hoạt động tuyên truyền của Đảng và các đoàn thể, như báo Nhân dân, Quân đội nhân dân, Cứu quốc, Văn nghệ. Các tờ báo trên còn có nhánh ở các liên khu. Hòa bình lập lại báo chí phát triển đồng bộ. Ngoài những tờ báo lớn như Nhân dân, Quân đội nhân dân, Tạp chí Cộng sản, Cứu quốc, còn có báo chí của các đoàn thể như báo Phụ nữ, Tiền phong, Lao động, báo của các đảng, hội như Tổ quốc, Đảng Dân chủ có tờ Độc lập, Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam. Một vài tờ báo tư nhân tuy có ít ảnh hưởng nhưng vẫn tồn tại. Một số tờ báo và tạp chí trong thời kỳ này lợi dụng những sai lầm của Đảng trong cải cách ruộng đất, khó khăn trong phát triển kinh tế để tìm cách chống đối như các tờ Nhân văn - Giai phẩm Đất mới. Tình hình thời kỳ mới của cách mạng Việt Nam cần có một hành lang pháp lý cho báo chí hoạt động. Ngày 20-5-1957, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban bố Luật số 100 SL/L002 - đó là luật báo chí đầu tiên ở nước ta. Chương I của luật khẳng định trách nhiệm của báo chí và nhà báo cách mạng: ''Báo chí dưới chế độ ta, bất kỳ là của một cơ quan chính quyền, đảng phái chính trị, đoàn thể nhân dân hoặc của tư nhân cũng đều là công cụ đấu tranh của nhân dân, phải phục vụ quyền lợi của Tổ quốc, của nhân dân, bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân, ủng hộ chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa''.
Như vậy, trong luật lúc này bao gồm cả báo chí tư nhân và trên thực tế báo chí tư nhân chỉ hoạt động trong một thời gian ngắn là chấm dứt. Khi nói về tự do báo chí, nhiều phóng viên của báo chí phương Tây thường xem báo chí tư nhân là đặc điểm của tự do báo chí. Thực ra không có sự ngăn cấm loại bỏ những tờ báo tư nhân trong giai đoạn này. Theo nhà báo Hiền Nhân thì khi Hà Nội mới được giải phóng, có các tờ Thời mới, Giang sơn của Hoàng Cơ Bình, sau đổi thành Sông Hồng, Liên hiệp của Văn Tuyển, tờ Dân chủ của Vũ Đức Toa và tờ Nói thật -  tuần báo do Văn Nhân chủ trương. Các tờ báo tư nhân này không tồn tại được lâu phần vì không có được sự tín nhiệm của công chúng, số bản in giảm sút dần, phần vì không rõ ràng về mục tiêu chính trị, xã hội và không tạo được sức sống cho tờ báo. Như tờ báo Nói thật, thực ra tuy mang danh là một tờ báo nhưng thực chất nội dung nghèo nàn, công việc do một số người trong gia đình đảm nhiệm, số lượng phát hành rất hạn chế. Cũng trong thời gian này, có một số tờ báo tư nhân được ấn hành như Nhân văn và các ấn phẩm của Giai phẩm, Đất nước. Nội dung các báo và tạp chí trên đi ngược lại đường lối của Đảng và Nhà nước và bị cấm sau một thời gian ngắn hoạt động. Những tờ báo lớn của Đảng và Nhà nước đã phát huy vai trò tích cực của báo chí trong các nhiệm vụ tuyên truyền cho đường lối chính sách của Đảng trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa. Báo chí cách mạng phê phán khuynh hướng chính trị tư sản đã khoét sâu vào một số sai lầm trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, xuyên tạc các chính sách của Đảng và Nhà nước trong các hoạt động xã hội, tư tưởng - văn hóa, đòi chia quyền lãnh đạo cho các đảng phái khác. Báo chí cách mạng phê phán các tư tưởng thù địch của Mỹ - Diệm nhằm xóa bỏ tổng tuyển cử và chia cắt lâu dài đất nước.
Trong trách nhiệm xây dựng và phát triển nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, báo chí cách mạng đề cao tinh thần lao động quên mình xây dựng cuộc sống, vượt qua những thách thức nhiều mặt. Phương hướng xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi sự xóa bỏ các thành phần kinh tế chiếm hữu tư nhân về ruộng đất, nhà máy, xí nghiệp, kinh doanh thương nghiệp. Nền kinh tế tập thể từng bước được củng cố vững chắc hơn. Hoạt động báo chí ngày một phát triển đòi hỏi phải theo Luật Báo chí nhằm đảm bảo quyền dân chủ cho các hoạt động báo chí, ngăn cấm những luận điệu thù địch chống phá cách mạng trên báo chí. Luật Báo chí ra đời đánh dấu một bước phát triển mới của báo chí cách mạng. Cho đến nay, sau nửa thế kỷ được ban hành, về cơ bản Luật Báo chí vẫn có giá trị tương đối ổn định. Nguyên tắc cơ bản là báo chí không được tuyên truyền chống lại Đảng và Nhà nước, không được tuyên truyền cho chủ nghĩa đế quốc và chiến tranh, không được tiết lộ bí mật quốc gia và tuyên truyền cho dâm ô, trụy lạc, đồi bại. Những nguyên tắc cấm kỵ ấy là hợp lý không chỉ với Việt Nam mà với bất kỳ quốc gia nào. Nó nói lên trách nhiệm của nhà báo là một công dân và nhà báo phải có trách nhiệm công dân đối với việc bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ giá trị và nhân phẩm của con người.
Luật Báo chí đã tạo điều kiện cho báo chí hoạt động và phát triển. Hội Nhà báo cũng có nhiều hoạt động nghề nghiệp thích hợp với tình hình chính trị - xã hội trong giai đoạn này và bước vào chuẩn bị cho Đại hội lần thứ II những người viết báo Việt Nam. Đại hội được tổ chức trong hai ngày 16 và 17-4-1959 tại Câu lạc bộ Đoàn kết, Hà Nội với sự tham dự của 220 đại biểu ở miền Bắc. Đại hội vinh dự được Chủ tịch Hồ Chí Minh đến dự và nói chuyện với các nhà báo. Đồng chí Trường Chinh cũng đến tham dự và phát biểu ý kiến.
Nhà báo Xuân Thuỷ, Chủ tịch Hội đọc diễn văn khai mạc hội nghị và nhà báo Hoàng Tùng trình bày báo cáo của Ban Chấp hành Hội Nhà báo Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói chuyện với hội nghị. Người căn dặn: ''Báo chí của ta thì cần phải phục vụ nhân dân lao động, phục vụ chủ nghĩa xã hội, phục vụ cho đấu tranh thống nhất nước nhà, cho hòa bình thế giới. Chính vì thế cho nên tất cả những người làng báo (người viết, người in, người sửa bài, người phát hành, v.v.) phải có lập trường chính trị vững chắc. Chính trị phải làm chủ. Đường lối chính trị đúng thì những việc khác mới đúng được. Cho nên các báo chí của ta đều phải có đường lối chính trị đúng''1. Người cũng yêu cầu báo chí “phải có tính chất quần chúng và tinh thần chiến đấu”2. Đại hội đổi tên là Hội Nhà báo Việt Nam và bầu ra Ban Chấp hành gồm 29 người do nhà báo Xuân Thuỷ được tái cử làm Chủ tịch.
Ở miền Bắc, thời gian này diễn ra nhiều sự kiện chính trị có ý nghĩa to lớn. Đại hội lần thứ III của Đảng (9-1960) đã họp trong không khí cả nước hồ hởi xây dựng chủ nghĩa xã hội. Báo chí cũng đóng góp xứng đáng trách nhiện của mình trên mặt trận văn hóa, tư tưởng, trong cuộc đấu tranh chống những tư tưởng tư sản, phê phán âm mưu chia cắt đất nước lâu dài của bọn Mỹ- Diệm và tập trung tuyên truyền theo nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và con người xã hội chủ nghĩa.
Ba năm sau theo kỳ hạn, Đại hội Nhà báo lần thứ III được tổ chức vào ngày 7-9-1962 gồm 160 đại biểu chính thức thay mặt cho 757 hội viên. Lúc này tổng số nhà báo có khoảng gần 1.500 người. Nhà báo Xuân Thuỷ, Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam đọc lời khai mạc. Nhà báo Hoàng Tùng, Phó Chủ tịch trình bày báo cáo của Ban Chấp hành Hội.
Báo chí miền Nam trong những năm đầu đất nước tạm thời bị chia cắt cũng diễn ra những tình thế và hoạt động phức tạp. Một là, hoạt động báo chí trong lòng thành thị miền Nam. Phải làm sao để có những tờ báo tiến bộ nói lên được nguyện vọng của nhân dân với tinh thần đấu tranh cho độc lập dân tộc và thống nhất đất nước, bảo vệ quyền dân chủ, chống lại những hành động phát xít của chính quyền Mỹ - Diệm. Trách nhiệm này của báo chí tiến bộ thật nặng nề và có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển của đời sống tinh thần của xã hội miền Nam. Hai là, hoạt động báo chí của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam từ khi Mặt trận được thành lập và báo chí là một bộ phận quan trọng.
Ngay từ sau Hiệp nghị Giơnevơ, báo chí hợp pháp dưới chế độ Mỹ - Diệm đã có tiếng nói đấu tranh chống địch trả thù và khủng bố những người kháng chiến cũ, đòi thi hành Hiệp nghị Giơnevơ như các tờ báo Buổi sáng của Mai Lan Quế, Nhân loại của Tân Đức, Tiếng chuông của Nguyễn Văn Hiếu, Bình dân (1954 - 1963) của Phú Đức và Nguyễn Đức Nhuận, Dân đen (1955 - 1965) của Nguyễn Duy Hinh, Đoàn kết (1954 -1964) của Huỳnh Thiên Môn, Thời đại (1954 – 1965) của Phạm Xuân Thái và Nguyễn Thành Danh, Dân Việt (1961 - 1968) của Phan Văn Hiển và Bùi Công Út, Dân mới (sau là Dân chủ mới, 1962 - 1972) của Hà Thành Thọ, Dân luận (1963 - 1964) của Huỳnh Văn Chiêu, Ban mai (1963 - 1964) của Dương Văn Sum. Nhà báo Trần Bạch Đằng thay mặt Thành uỷ Sài Gòn - Chợ Lớn phụ trách công tác tư tưởng và báo chí đã chỉ đạo và tham gia viết cho nhiều tờ báo như Nhân loại, Phòng thương mại, Dân trí, Thần chung. Khi Diệm dẹp xong các phe phái, bắt đầu tính sổ các tờ báo mà chúng vu cho là ''Việt cộng nằm vùng'', nhiều nhà báo bị bắt, một số phải đổi nghề.
Báo chí thành thị miền Nam ngày càng tiến bộ và có tác động xã hội rộng rãi hơn sau khi Diệm đổ và nhất là khi quân Mỹ tràn vào miền Nam, bộc lộ rõ bản chất xâm lược của chúng thì tinh thần đấu tranh của báo chí càng mạnh mẽ hơn. Nhiều tờ báo của chính quyền Sài Gòn như Người Việt tự do, Cách mạng quốc gia, Ngôn luận không phát huy được tác dụng với người đọc vì tính chất chính trị phản động của chúng về cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam.
Hoạt động báo chí ở vùng giải phóng mang những đặc điểm riêng. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, công tác tư tưởng - văn hóa hoạt động tuyên truyền của báo chí được đặc biệt coi trọng. Cũng vì thế nên khi Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập, đã thu hút vào hàng ngũ báo chí các nhà báo đã tham gia kháng chiến chống Pháp và được phân công ở lại hoạt động tại các thành thị miền Nam. Ngày 12-10-1960, Thông tấn xã giải phóng được thành lập còn gọi là Giải phóng xã. Ngày 1-2-1962, Đài Phát thanh giải phóng bắt đầu hoạt động. Ngày l-10-1964, báo Nhân dân, cơ quan của Đảng nhân dân cách mạng miền Nam Việt Nam do Thép Mới phụ trách ra mắt bạn đọc. Ngày 20-10-1964 báo Giải phóng, cơ quan của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam do Huỳnh Tấn Phát làm Chủ nhiệm cũng được ấn hành. Hoạt động báo chí ở vùng giải phóng miền Nam có nhiều thuận lợi về phía công chúng. Không có sự ngăn cách nào về tư tưởng, tình cảm của người tiếp nhận với báo chí cách mạng. Món ăn tinh thần này từ lâu đã quen thuộc và trở thành nhu cầu cần thiết. Tuy nhiên, do phải hoạt động ở vùng rừng sâu, kẻ địch lại luôn tìm mọi cách phá hoại nên công việc thâm nhập thực tế, tổ chức ấn loát, phát hành có nhiều khó khăn. Các nhà báo cách mạng miền Nam lại tiếp tục hoạt động như những chiến sĩ trong thời kỳ chiến tranh. Họ đến với nhiều vùng, miền của đất nước, cảm phục sâu sắc những tấm gương của đồng bào, đồng chí gắn bó một lòng, một dạ với cách mạng, mặc cho sự de dọa, tra tấn của kẻ thù. Cả một thời gian dài Mỹ - Diệm gieo rắc tội ác. Tập hồi ký Những ngày gian khổ ghi lại được phần nào thực trạng xã hội đen tối của thời kỳ này. Đa số các tác giả trong Những ngày gian khổ là nhà báo, cán bộ phong trào. Báo chí đã có mặt khi phong trào cách mạng cần đến. Ít năm sau, các nhà văn có tên tuổi và kinh nghiệm lần lượt trở về miền Nam để thâm nhập thực tế của tiền tuyến lớn và sáng tác như Anh Đức, Nguyễn Thi, Trần Hiếu Minh, Nguyễn Quang Sáng, Phan Tứ, Nguyễn Trung Thành. Qua một số năm gắn bó và đi sâu vào thực tế cách mạng, những gặt hái bước đầu về văn chương và giải thưởng Nguyễn Đình Chiểu đã góp phần nói lên sự phong phú cho sáng tạo văn học và báo chí của tiền tuyến lớn anh hùng.
2. Báo chí với nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà
Sau những năm hàn gắn vết thương chiến tranh, miền Bắc bước vào thời kỳ khôi phục và phát triển kinh tế. Không khí lao động sôi nổi diễn ra trên nhiều hoạt động, trong nhà máy, ngoài hầm mỏ, nơi ruộng đồng. Lúc này, lao động cơ bản vẫn dựa vào sức người, vào lao động tập thể và đã làm nên nhiều kỳ tích. Chống lụt, chống hạn, đào kênh, khơi ngòi vẫn là nhiệm vụ cấp bách và thách thức thường xuyên của mặt trận lao động nông nghiệp. Ngay trong ngày lễ mừng tết độc lập năm 1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu những trách nhiệm lớn với toàn dân là hoàn thành tốt cải cách ruộng đất, khôi phục kinh tế, chú trọng nông nghiệp, củng cố quốc phòng, củng cố an ninh trật tự, nâng cao đời sống cho dân và giảm nhẹ sự đóng góp của dân. Với báo chí, đây là thời điểm đội ngũ phóng viên phải đi sâu vào thực tiễn khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội đến với công trường, nhà máy, hợp tác xã nông nghiệp. Nhiều tờ báo viết về khôi phục tuyến đường sắt từ Hà Nội đến Lạng Sơn, viết về công trường Bắc Hưng Hải, về khôi phục kinh tế ở chiến trường Điện Biên Phủ. Các báo đều cần đến các cây bút phóng sự. Báo Nhân dân và báo Cứu quốc có một đội ngũ phóng viên viết phóng sự rất sắc sảo. Nhà báo Hồng Hà đi viết về việc khôi phục đường sắt, về vùng mỏ Cẩm Phả và cắm sâu ở vùng đất mỏ trong hàng năm trời. Kết quả là tập ký Lên công trường ra đời và được giải thưởng về bút ký của Hội Nhà văn năm 1955 -1956. Trong thời điểm này, các điển hình xã hội về cuộc sống mới được xây dựng trong cao trào thi đua lao động xã hội chủ nghĩa như điển hình trong hợp tác xã nông nghiệp có Nhà máy Đóng tàu Duyên Hải (Sóng Duyên Hải) và trong quân đội có Cờ Ba Nhất, Đại Phong.
Bước vào đầu năm 1958, nạn hạn hán diễn ra nghiêm trọng ở nhiều tỉnh miền Bắc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có Lời kêu gọi nông dân và cán bộ quyết tâm chống hạn, đẩy mạnh sản xuất vụ Đông Xuân. Người nói chuyện với đồng bào tỉnh Hưng Yên, với nông dân xã Mễ Trì, huyện Từ Liêm (Hà Nội) kêu gọi chống hạn. Với bút danh Trần Lực giới thiệu chuyện Nông dân Trung Quốc chống hạn, báo Nhân dân trong các số ngày 7-l-1958 và 8-l-1958 đã liên tục đăng các bài của Người về chống hạn. Người viết:
''Chống hạn phải khẩn trương như đánh giặc. Chúng ta sống ở trên mạch nước. Cứ đào thì nhất định có nước, chỉ có đào nông hay đào sâu mà thôi. Dưới đất có nước sông, nước mạch thấm vào đào thì phải thấy. Đào 5 nơi không có, đào mãi thì phải có''.
Câu thành ngữ: ''Vắt đất ra nước thay trời làm mưa'' không chỉ là câu nói suông mà phải trở thành sự thật. Nông thôn thời kỳ này đang ở thời kỳ củng cố và phát triển hợp tác hóa nông nghiệp. Các báo Nhân dân Cứu quốc với đội ngũ phóng viên viết về nông thôn có kinh nghiệm như Hữu Thọ, Phan Quang, Hà Đăng, Thái Duy, Hải Như về các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ khảo sát và rút kinh nghiệm về phong trào hợp tác hóa nông nghiệp qua các bài như Hợp tác hóa ở Thái Bình, Vài nét về phong trào, Mấy kinh nghiệm tốt trong phong trào hợp tác hóa nông nghiệp ở Hải Dương (Nhân dân, ngày 10-4-1959) của Hà Đăng, Phát động tư tưởng tốt, lập hợp tác xã tốt của Hữu Thọ (Nhân dân, ngày 15-5-1959), Mấy ý kiến về phong trào hợp tác hóa nông nghiệp ở Sơn Tây, điều tra của Phan Quang, Thanh Sơn và Hồng Thái (Nhân dân, ngày 21-5-1959). Không chỉ là khảo sát và nghiên cứu phong trào ở địa phương, báo Nhân dân còn đề xuất những vấn đề về đường lối, cơ sở lý luận qua phong trào hợp tác hóa nông nghiệp. Nhà báo Hoàng Tùng đã có một loạt bài như Hợp tác hóa nông nghiệp - con đường duy nhất đưa nông dân đến no ấm, hạnh phúc và tự do (Nhân dân, ngày 26-5 và 27-5-1959), rồi Vận động hợp tác hóa nông nghiệp là một cuộc đấu tranh cách mạng to lớn và khó khăn (Nhân dân, ngày 29 và 30-5-1959), Đường lối giai cấp của Đảng ở nông thôn (Nhân dân, ngày 6-6-1959). Phát triển và tổng kết những thắng lợi của phong trào hợp tác hóa nông nghiệp, trong định hướng sớm hoàn thành tốt đẹp nhiệm vụ cách mạng này ở nông thôn. Tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa I, đồng chí Trường Chinh có báo cáo quan trọng: Kiên quyết đưa nông thôn miền Bắc nước ta qua con đường hợp tác hóa nông nghiệp tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đường lối hợp tác hóa nông nghiệp của Đảng được tiến hành tập trung trong vài năm và đến năm 1960 thì xem như đã xóa bỏ việc chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất ở nông thôn. Các nhà báo đã khảo sát qua các chặng đường phát triển của nông thôn từ bước đi ban đầu đến khi phong trào được củng cố, từ khó khăn đến thuận lợi. Kết quả được biểu hiện là những vụ mùa thắng lợi được các nhà báo giải thích không chỉ ở nguyên nhân đất đai mà còn nhiều nhân tố khác do con người tạo ra. Hữu Thọ viết bài Vì sao lúa chiêm năm nay ở Vĩnh Linh tốt chưa từng có (Nhân dân, ngày 8-6-1959) và Phong trào hợp tác hóa ở Sơn Tây đang được củng cố. Phan Quang viết Vượt bậc (Nhân dân, ngày 14-6-1959). Quan hệ sản xuất đã góp phần quan trọng để nâng cao năng suất, nhưng không thể không thấy kỹ thuật sẽ là một động lực phát triển. Năng suất lúa tăng tiến luôn tạo những bất ngờ. Những yếu tố truyền thống góp phần nâng cao năng suất như dân gian vẫn đúc kết là ''Nước, phân, cần, giống'' bao giờ cũng có ý nghĩa tích cực và tạo hiệu quả với cây trồng. Phải tìm kiếm thêm những phương thức mới. Hoàng Tùng viết bài Hợp tác hóa và cải tiến kỹ thuật (Nhân dân, ngày 22-6-1959). Báo Nhân dân tổ chức cuộc trao đổi về cấy dày, cấy thửa. Các nhà khoa học như Bùi Huy Đáp cũng tham gia trao đổi. Báo Nhân dân đã thực sự vào cuộc với vấn đề hợp tác hóa và tăng năng suất nông nghiệp với nhiều bài báo có giá trị của Hoàng Tùng, Hữu Thọ, Phan Quang... Nông nghiệp lúc này đang là vấn đề hàng đầu quyết định sự phát triển của nền kinh tế và sự giàu mạnh của đất nước. Xóa bỏ hình thức chiếm hữu tư nhân về ruộng đất phải chăng đã là chiếc chìa khóa vạn năng mở cánh cửa đi vào cánh đồng bội thu cho nông nghiệp? Còn nhiều việc phải làm và chúng ta đã có những nỗ lực bước đầu. Bên cạnh chủ trương hợp tác hóa nông nghiệp ở nông thôn là nhiệm vụ công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Chúng ta bắt đầu đi lên từ những con số nhỏ bé của nền công nghiệp lạc hậu của một nước thuộc địa bị chiến tranh tàn phá. Chúng ta nhanh chóng làm lại từ đầu. Một số nhà máy như xi măng, điện, nước đã được khôi phục lại và nâng cao năng suất. Một vùng than của đất nước được tổ chức lại sản xuất, tăng năng suất. Các bài viết trên các báo Nhân dân, Cứu quốc như Chung quanh việc thực hiện kế hoạch bóc đất đá của mỏ Cẩm Phả (Nhân dân ngày 3-6-1959), Vượt mọi khó khăn (Cứu quốc, ngày 18-5-1955), Những cánh tay miền Nam trên khu gang thép (Cứu quốc, ngày 25-6-1961). Chắc chắn báo chí cũng gặp những khó khăn về chủ nghĩa trong giai đoạn này. Trong sáng tác văn học, những nhà văn viết về công nghiệp ở thời điểm này dễ lúng túng, va vấp. Võ Huy Tâm có lúc sa lầy trên vùng than qua tác phẩm Những người thợ mỏ. Nguyên Ngọc gặp nhiều khó khăn không dễ vượt qua với tác phẩm Mạch nước ngầm. Và đặc biệt là Hà Minh Tuân với Vào đời có phần đuối sức khi giải quyết nhiều mâu thuẫn trong khuôn khổ một nhà máy. Các tác phẩm trên đều bị phê phán. Ngày nay, nhìn lại sự phê phán là nặng nề. Có những tác phẩm được in lại, song số lượng còn hạn chế. Báo chí thời gian này chưa khai thác chiều sâu những số phận nhân vật và những tình huống phức tạp, nhất là ở những nhà máy công trường vừa tiếp quản của chế độ cũ. Một mạch sống mới thu hút nhiều đến báo chí là công trường khổng lồ Bắc Hưng Hải, nơi bộc lộ sức mạnh của cộng đồng, là khu công nghiệp Hải Phòng, vùng than Quảng Ninh, những nông trường rộng lớn được khai phá và sản xuất theo phương thức tập trung có cơ giới hiện đại hóa. Chỉ riêng trong khu vực Hà Nội, đã có Nhà máy Cơ khí Trung quy mô, Nhà máy xe lửa Gia Lâm, Khu công nghiệp Thượng Đình (gồm các nhà máy cao su, xà phòng, thuốc lá, bóng đèn, phích nước). Ở nhiều tỉnh cũng có những khu công nghiệp tập trung như khu gang thép Thái Nguyên, khu công nghiệp Việt Trì... Tất cả đã góp phần đặt nền móng vững chắc cho nền công nghiệp xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Trong Báo cáo tại Hội nghị chính trị đặc biệt ngày 27-3-1964, khi nói về công nghiệp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên thực tế đáng phấn khởi:
“Chúng ta đã xây dựng thêm nhiều xí nghiệp mới. Từ 41 nhà máy (trong đó chỉ có 20 nhà máy lớn) năm 1954, đến nay chúng ta đã có l.000 nhà máy (trong đó có 217 nhà máy lớn). Những cơ sở quan trọng của các ngành công nghiệp nặng: chế tạo máy móc, sức điện, luyện kim, hóa chất, khai mỏ, v.v. dần dần được xây dựng. Công nghiệp nhẹ và thủ công nghiệp đã sản xuất được phần lớn hàng tiêu dùng trong nước. Nền kinh tế nước ta hiện nay về căn bản đã trở thành một nền kinh tế dân chủ đang vững bước tiến lên''3.
Bước vào thời kỳ đầu xây dựng hòa bình, cuộc đấu tranh tư tưởng diễn biến phức tạp hơn. Có tiếng nói thù địch ở bên kia trận tuyến đối địch, có tiếng nói chia rẽ trong hàng ngũ của chúng ta. Trước một số sai lầm trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, trước những khó khăn của đời sống, có tiếng nói đòi chia quyền lãnh đạo của Đảng. Về kinh tế, họ phê phán kinh tế quốc doanh, đòi phát triển kinh tế cá nhân. Nhóm Nhân văn – Giai phẩm dấy lên tiếng nói chống đối lạc lõng, họ đòi ''tự do tuyệt đối'' trong sáng tác văn nghệ, tránh mọi kìm hãm về tư tưởng và tổ chức. Trương Tửu xuyên tạc bài viết Tổ chức Đảng và văn học của Đảng của Lênin, xem nhẹ vai trò của ''chiếc đinh ốc và bánh xe nhỏ'' trong bộ máy của Đảng, nhấn mạnh một chiều tính đặc thù, không ràng buộc của văn nghệ với chính trị. Về sáng tác, họ cố tình miêu tả hình ảnh người cộng sản như ''những người khổng lồ không tim'', không biết đến tình cảm, chỉ cần những ''thi sĩ máy” lặp lại một cách máy móc khẩu hiệu đã có sẵn. Các cây bút trong Nhân văn-Giai phẩm nhìn cuộc sống một cách ảm đạm: ''Tôi đi không thấy phố thấy nhà, chỉ thấy mưa sa lên màu cờ đỏ''. Lê Đạt lại càng định kiến và nặng nề hơn khi nhận xét sai lệch chế độ mới: ''Đem bục công an đặt giữa trái tim người''. Đành rằng, trong những năm đầu của thời hậu chiến, mọi việc chưa phải đã tốt đẹp, cuộc sống còn quá nhiều khó khăn, nhưng người cầm bút phải có cách nhìn cuộc sống tin cậy và có ý nghĩa khích lệ. Từ hiện tượng cá biệt được nêu lên thành bản chất, từ phạm vi kinh tế liên hệ sang chính trị, nhóm Nhân văn, Giai phẩm đã dần tự gạt bỏ mình ra khỏi hoạt động báo chí cách mạng và tiến công lại những nguyên tắc cơ bản của phong trào cách mạng. Hội nghị các đảng viên làm công tác văn nghệ họp vào tháng 12-1956 đã phê phán những sai lầm của nhóm Nhân văn. Báo Nhân văn đã bị dư luận báo chí phê phán kịch liệt. Bộ Chính trị ra Nghị quyết 60 NQ/TW về công tác báo chí. Ngày l5-12-1956, chính quyền Hà Nội ra lệnh cấm lưu hành báo Nhân văn. Trong Nghị quyết của Trung ương Đảng về việc chấn chỉnh các hoạt động trong văn hóa - văn nghệ trong thời kỳ này, có yêu cầu phải xác định rõ lập trường, quan điểm cách mạng và phê phán những tư tưởng thù địch. Văn nghệ sĩ phải học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, các vấn đề chính sách và thời sự của Nhà nước và đi vào đời sống thực tế. Nhiều văn nghệ sĩ hăng hái lên đường như Nguyên Hồng về với Nhà máy xi măng Hải Phòng, Huy Cận về vùng mỏ, Nguyễn Huy Tưởng trở lại Điện Biên, Nguyễn Tuân lên Tây Bắc, Tô Hoài cũng về với miền Tây, Đào Vũ đến với vùng nông thôn đang xây dựng hợp tác xã ở Hải Dương. Trong hoạt động báo chí cũng có những hiện tượng tương tự. Các nhà báo Hữu Thọ, Phan Quang, Hồng Hà, Thái Duy, Hải Như, Xuân Thu, Chính Yên đã đến với nhiều miền đất và cho ra đời nhiều phóng sự có giá trị. Một trong những vấn đề đặt ra trong công tác tư tưởng của giai đoạn này là cán bộ, đảng viên phải có những đổi thay về nhận thức tư tưởng trong giai đoạn mới của cách mạng. Trong bài Nhận rõ yêu cầu của chỉnh huấn về mặt xác định lập trường quan điểm cách mạng, đồng chí Đào Duy Tùng yêu cầu phải quán triệt nhận rõ hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa và xác định rõ chỗ đứng của mỗi người trong ngành của mình, phê phán quan điểm tư sản. Vấn đề ai thắng ai đã được phân định bước đầu trong hoạt động chính trị, xã hội và kinh tế. Cuộc đấu tranh giữa hai con đường đã xác định rõ: con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với quy luật của thời đại cách mạng và bước phát triển tất yếu của dân tộc. Mọi xu hướng cản trở đều bị phê phán, gạt bỏ.
Nhận thức rõ vai trò của báo chí trong cuộc đấu tranh thống nhất đất nước nên các tờ báo lớn như Nhân dân, Quân đội nhân dân, Cứu quốc thường xuyên có chuyên mục về miền Nam. Nhiệm vụ quan trọng lúc này là phải tố cáo tội ác của bọn Mỹ - Diệm đang đàn áp đồng bào miền Nam, nhất là với những người kháng chiến cũ mà chúng rêu rao là Việt cộng nằm vùng. Báo Nhân dân cũng dành một phần quan trọng cho những bài viết về miền Nam như Tố cộng công dã tràng của HQ (Nhân dân, ngày 15-4-1959), rồi các bài của Trường Lưu như Nạn đói ở miền Nam - con đẻ của chế độ Mỹ - Diệm (Nhân dân, ngày 23-4-1959), Phong trào công nhân miền Nam đứng đầu trong cuộc đấu tranh (Nhân dân, ngày l-5-1959), Ngăn chặn bọn Ngô Đình Diệm gây tội ác đối với nhân dân miền Nam (Nhân dân, ngày 20-5-1959). Báo Nhân dân cũng nhận được các bài từ miền Nam gửi ra như Phong trào chống khủng bố ở miền Nam đang lên mạnh ở Dương Châu (Nhân dân, ngày 17-5-1959).
Trong nhiệm vụ đấu tranh thống nhất đất nước phải kể đến sự đóng góp của báo Thống nhất do Tôn Thất Vỹ làm chủ nhiệm và Lưu Quý Kỳ làm chủ bút. Thống nhất thuộc loại tuần báo; lúc đầu ra một tuần một số, sau một tuần ra hai số. Đối tượng của báo là trí thức, sinh viên đô thị miền Nam và cả giới tư sản. Ở miền Bắc, báo Thống nhất được cán bộ tập kết hoan nghênh. Đi sát với những vấn đề thời sự ở miền Nam, góp một tiếng nói đấu tranh, báo Thống nhất đã tạo được sự tin cậy trong dư luận. Những nhà báo như Lưu Quý Kỳ, Nguyễn Chánh Sắc, Phan Thao đều là những cây bút có tay nghề vững chắc. Các nhà thơ Xích Điểu, Bảo Định Giang, Tế Hanh là những cộng tác viên đắc lực của tờ báo. Trong gần mười năm hoạt động từ năm 1955 đến năm 1974, báo Thống nhất đã để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp với bạn đọc về một tờ báo chuyên sâu về miền Nam với những bài viết sắc sảo và giàu tình cảm về sự nghiệp thống nhất đất nước.
Nhân dịp kỷ niệm 5 năm ngày hòa bình lập lại ở nước ta, nhà báo Tôn Thất Vỹ có bài Thất bại của cái gọi là quốc sách chống cộng của Mỹ -Diệm ở miền Nam (Nhân dân, ngày 15-7-1959). Mỹ - Diệm đã lợi dụng chống cộng để bóp nghẹt mọi tự do dân chủ. Chúng đưa khẩu hiệu ''Đả thực, bài phong, chống cộng'' nhưng thực ra thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đang tiếp tay cho chúng. Diệm chủ trương gia đình trị kiểu phong kiến và kế hoạch chống cộng của chúng thực chất là chống lại đồng bào yêu nước, gắn bó với kháng chiến. Ngày 19-7-1959, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cực lực tố cáo và lên án trước đồng bào cả nước và dư luận thế giới chính sách khủng bố và tàn sát nhân dân và âm mưu chuẩn bị chiến tranh của đế quốc Mỹ và tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm. Ngày 20-7-1959, Xuân Thủy nói chuyện tại cuộc míttinh của 15 vạn nhân dân Hà Nội: ''Muốn cho nước ta được hòa bình, thống nhất, nhân dân ta phải chống đế quốc Mỹ xâm lược, phải chống tập đoàn Ngô Đình Diệm tay sai của đế quốc Mỹ''. Sáng kiến Ngày Việt Nam được nhiệt liệt ủng hộ ở trong nước và trên thế giới. Đại tá Hà Văn Lâu giao cho Uỷ ban quốc tế bản phụ lục Tội ác tày trời của Mỹ-Diệm ở miền Tây Nam Bộ (ngày 18-8-1959), Chấm dứt ngay cuộc chém giết dã man của Mỹ-Diệm ở miền Tây Nam Bộ (ngày 22-8-1959). Năm 1959 có ý nghĩa đặc biệt với nhiệm vụ đấu tranh thống nhất đất nước. Hiệp nghị Giơnevơ được ký kết đã 5 năm. Bọn Mỹ- Diệm đã chống lại tổng tuyển cử thống nhất đất nước và âm mưu chia cắt lâu dài hai miền Nam Bắc. Chúng đề ra Luật 10/59 nhằm chém giết, trả thù những người kháng chiến cũ; dồn dân vào các ấp chiến lược, tiến hành tố cộng khắp nơi. Các vụ thảm sát ở Chợ Được, Vĩnh Trinh, Phú Lợi gây căm thù, phẫn nộ trong nhân dân hai miền và là nguyên nhân dẫn đến phong trào đồng khởi giành chính quyền lan rộng trên khắp miền Nam. Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời ngày 20-12-1960 đánh dấu một thời kỳ mới của cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam.
3. Một số tờ báo tiêu biểu
a) Báo Nhân dân trong những năm 1954 - 1958
Hòa bình lập lại, báo Nhân dân vẫn giữ trách nhiệm quan trọng trong làng báo Việt Nam, là tiếng nói chính thống của Đảng, Nhà nước và tạo được sự tin cậy ở bạn đọc. Tờ Nhân dân đã tập trung được nhiều cây bút xuất sắc vào bậc nhất trong làng báo. Phần lớn các nhà báo được rèn luyện từ thời kỳ Sự thật vẫn luôn tỏ ra sắc sảo qua những trang viết của giai đoạn mới.
Nhà báo Hoàng Tùng là chủ bút báo Sự thật (1950) và làm Tổng biên tập báo Nhân dân từ năm 1954 đến năm 1982. Ông là nhà báo sắc sảo, chuyên gia thể luận của tờ báo, đảm nhiệm phần quan trọng xã luận của báo Nhân dân trong suốt hàng chục năm. Không phải chỉ là tay nghề mà còn là trí tuệ, nhạy cảm chính trị, lý luận chặt chẽ, ông nói: ''Trong hoạt động báo chí tôi chuyên viết thể luận. Người viết luận phải rèn luyện sắc bén tư duy, có vốn hiểu biết cần thiết. Phải hằng ngày ''nhồi'' thêm cái mới, không học và không đọc không có đầu vào thì không thể bình luận. Cũng phải hiểu cuộc sống, trình độ và tâm trạng người đọc. Điều cần tránh là giải thích một chiều đơn giản. Cũng có lúc cần giải thích nhưng phải có chất lượng tốt. Viết xã luận phải sáng tạo không lặp lại. Phải truyền sức sống vào những điều mà mình cho là nguyên lý''. Nhà báo Hoàng Tùng viết cho Sự thật thì ký tên còn ở báo Nhân dân thường ký tên báo. Ông là người thợ cả của tờ báo. Báo Nhân dân được xem là cái lò hun đúc rèn luyện nên nhiều nhà báo có tài năng. Nhà báo Hoàng Tùng nhận xét về một thế hệ nhà báo của báo Nhân dân: ''Đội ngũ những nhà báo tập hợp chung quanh các tờ Sự thật, Nhân dân đều là những cây bút tiêu biểu. Mọi người có một mặt mạnh và mặt yếu của mình. Anh Thép Mới có năng khiếu làm báo và học có hệ thống bậc đại học, anh Quang Đạm học vấn rộng, Hà Xuân Trường, Lê Điền, Phan Quang viết vững chắc. Hữu Thọ, Hà Đăng hiểu sâu văn học'' và ở một chỗ khác ông lại chân tình khích lệ những nhà báo đã phát triển tài năng trong những năm chống Mỹ. ''Lúc này các nhà báo Việt Nam cũng viết nhiều và khởi sắc hơn. Thép Mới, Nguyễn Thành Lê, Xuân Trường, Hồng Hà, Hữu Thọ, Hà Đăng đều viết nhiều. Viết sắc sảo là Thép Mới, Lê Điền, Lê Dân, Hồng Hà, Phan Quang, Hà Đăng4. Có thể từng thời điểm, ông lại biểu dương, ca ngợi đội ngũ những nhà báo tài năng của báo Nhân dân. Vẫn còn thiếu nhiều tên tuổi đáng nể trọng như Lê Bá Thuyên, Nguyễn Thành Lê, Trần Kiên, Lê Bình... Có thể xem những năm tháng của những năm 1954 - 1958 là thời kỳ hưng thịnh nhất của đội ngũ những nhà báo có tên tuổi của báo Nhân dân. Có thể kể một vài những nhà báo kỳ cựu và có đóng góp nhiều như Thép Mới, Quang Đạm, Hữu Thọ, Phan Quang. Thép Mới đã đến với báo chí cách mạng ngay vừa kết thúc tuổi trẻ học đường. Thép Mới đã viết và có mặt trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và những năm đầu của thời kỳ đổi mới. Ông là cây bút chủ lực trong những năm 1947 - 1950, hăng hái đi các chiến trường, có mặt hầu hết ở các chiến trường, nhất là đường số 4 và chiến dịch Điện Biên Phủ. Nhà báo Hoàng Tùng đánh giá: ''Từ sau năm 1954 đến năm 1960, Thép Mới là phóng viên chủ lực về các sự kiện chính trị''. Từ năm 1960 lại có mặt ở chiến trường miền Nam, có mặt ở các chiến trường cho đến chiến dịch Hồ Chí Minh... ''Là nhà báo có tầm cỡ, Thép Mới là một nhân chứng lịch sử trong các quá trình cách mạng nước ta từ năm 1945 đến đầu năm 1990''. Hoàng Tùng gọi ''Thép Mới là một cây bút thép''. Nhà báo Phan Quang nhận xét: ''Thép Mới là một người làm báo mới tâm hồn nghệ sĩ''. Thép Mới là con người suốt đời đi tìm cái mới.
Nhà báo lão thành Quang Đạm cũng là cây bút chủ lực trong giai đoạn này. Nhà báo Quang Đạm có trí thức uyên bác, viết nhiều bài lý luận sắc sảo, lý lẽ vững chắc. Hai kỷ niệm báo chí mà ông ghi nhớ là các bài đấu tranh tư tưởng và luận chiến. Trước hết là những bài phê phán nhóm Nhân văn- Giai phẩm như Quan hệ giữa chính trị và văn nghệ đăng báo Nhân dân ngày l-10-1956 nhằm phê phán luận điểm ''sự lợi dụng lẫn nhau giữa văn nghệ và chính trị'', rồi bài Giữ vững những nguyên tắc dân chủ của chúng ta đăng ngày 11-12-1956. Nhạy cảm với quan điểm chính trị, quan điểm giai cấp, Quang Đạm viết tiếp bài Quan điểm báo chí vô sản và quan điểm báo chí tư sản đăng báo Nhân dân vào cuối năm 1957. Hữu Thọ, Phan Quang về báo Nhân dân chậm hơn một thời gian nhưng cũng nhanh chóng bắt kịp vào không khí và hoạt động chung và sớm trở thành những cây bút chủ lực. Hữu Thọ sắc sảo, trong các bài điều tra với khả năng phát hiện nhanh chóng các vấn đề xã hội. Hữu Thọ đi sâu về đề tài nông thôn và đã góp phần vào việc khoán sản phẩm ở nông thôn. Sau này, trong trách nhiệm lãnh đạo công tác tư tưởng - văn hóa, Hữu Thọ không có điều kiện viết bút ký, phóng sự về những vùng đất xa và ông chuyển sang viết và cho xuất bản nhiều tập tiểu phẩm văn học. Quan tâm đến cuộc sống đời thường, phát hiện những hiện tượng và vấn đề tiêu biểu, đề xuất nhiều ý kiến với ý nghĩ sắc sảo. Tiểu phẩm báo chí của Hữu Thọ tạo ấn tượng tốt về tư tưởng và thể loại. Nhà báo Phan Quang vốn có bút danh là Hoàng Tùng khi làm báo ở địa phương và được gọi là Hoàng Tùng khu IV. Khi về báo Nhân dân ông lấy tên là Phan Quang. ''Về báo Nhân dân chúng tôi được đào luyện theo phong cách của báo Nhân dân''. Phong cách của báo Nhân dân là gì, tuy không nói ra trực tiếp, nhưng có lẽ sự rèn luyện của một tập thể giàu trí tuệ để phát huy năng lực sáng tạo của mỗi cá nhân. Đó là môi trường để nhà báo phát huy và hoàn thiện mình, có thể biến sự bắt buộc thành say mê như cách nói của Phan Quang: ''Tôi say mê đi vào nông nghiệp là do sự bắt buộc'', Vào những năm 60 của thế kỷ XX, Phan Quang phụ trách ban Nông nghiệp, báo Nhân dân. Ông là nhà báo có vốn văn hóa và kết hợp được giữa tư duy báo chí và cảm hứng văn chương.
Có thể kể đến nhiều nhà báo tên tuổi khác của báo Nhân dân. Trong thời kỳ này, báo Nhân dân là một trung tâm báo chí với những hoạt động năng động và hiệu quả và môi trường rèn luyện tài năng báo chí. Nhiều cán bộ của báo Nhân dân ở những chặng đường sau đã đảm nhận các trách triệm cao ở các cơ quan của Đảng và Nhà nước. Nhà báo Hoàng Tùng vẫn là cây bút sắc sảo suốt trong thời kỳ chống Mỹ và đổi mới. Ông còn chịu trách nhiệm lãnh dạo ở Ban Tuyên giáo Trung ương. Nhà báo Hữu Thọ là Trưởng Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương. Nhà báo Phan Quang đảm nhiệm chức vụ Tổng Giám đốc Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam.
b) Báo Cứu quốc thời kỳ đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, báo Cứu quốc chuyển về Việt Bắc. Khoảng năm 1950, nhà báo Nguyễn Thành Lê được cử về làm chủ bút giúp nhà báo Xuân Thuỷ điều hành công việc. Đội ngũ các biên tập viên khá hùng hậu gồm khoảng 20 người với nhiều nhà báo tiêu biểu như Tô Ninh (Thư ký tòa soạn), Xuân Sanh, Hồng Hà, Chính Yên, Thái Duy, Thái Cương. Từ tháng 6-1950 lại có thêm Nguyễn Ngọc Kha và Như Phong từ Cứu quốc khu III về và các anh đều tham gia ban phụ trách tòa soạn. Báo Cứu quốc là cơ quan của Mặt trận Liên Việt. Số báo ra mắt bạn đọc Thủ đô ngày 23-10-1954 do Xuân Thuỷ làm chủ nhiệm và Nguyễn Ngọc Kha làm chủ bút. Do mục tiêu chính trị và xã hội của tờ báo, báo Cứu quốc hướng tới độc giả toàn quốc với tư cách là tiếng nói của Mặt trận với miền Bắc, miền Nam, các dân tộc miền núi, thành thị, nông thôn, Ngoài các chuyên mục chính trị, xã hội, văn nghệ còn có chuyên mục Cứu quốc trả lời nhằm giải đáp những câu hỏi do bạn đọc đề xuất. Báo Cứu quốc có một đội ngũ phóng viên khá thành thạo, vững vàng trong nghề nên đã ứng phó kịp thời với yêu cầu của thời cuộc. Các nhà báo như Thái Duy, Xuân Thu, Lưu Động, Chính Yên, Hải Như, Thái Bá Cơ đều thành thục trong các thể điều tra, phóng sự, bình luận. Khi miền Bắc được giải phóng, các phóng viên báo Cứu quốc được tung về nhiều miền của đất nước. Biết bao vấn đề cần được phản ánh, ghi nhận qua trang báo. Nhiều phóng sự chân thực và sâu sắc về thời điểm ta tiếp quản Hà Nội và chờ ngày quân Pháp rút khỏi toàn miền Bắc. Bút ký nhiều kỳ của Thái Duy về Hải Phòng như Hải Phòng hiện nay (28-3, 4-4, 18-4), Hải Phòng chờ đợi ngày giải phóng. Hải Phòng còn là thành phố thuộc vùng tạm bị Pháp chiếm đóng, kẻ thù gây nhiều hành động tàn ác, đau lòng. Cũng một tình cảnh tương tự và còn có phần nhức nhối hơn là cuộc sống ở vùng Bùi Chu, Phát Diệm, Thái Bá Cơ với các phóng sự Tội ác của bọn phản động đội lốt tôn giáo, Sự thật về trại tập trung Phát Diệm (22-11-1954). Qua xứ Bùi Chu, đã miêu tả bộ mặt thật của bọn người tàn ác ở xứ Đạo. Bên cạnh những bài viết tố cáo kẻ địch là những phóng sự ca ngợi cuộc sống mới. Trước hết là sự trân trọng với truyền thống anh hùng của đất nước qua những chiến công của thời kỳ kháng chiến chống Pháp như nhà báo Thái Duy với một loạt bài: Chiến sĩ Điện Biên Phủ (30-10-1954), Sẻ núi bạt rừng (30-10-1954), Trọng pháo Điện Biên Phủ (30-12-1954). Chính Yên với 55 ngày bão táp. Xuân Thu, Hải Như đến với nhà máy và ruộng đồng ca ngợi sức sống của nhiều vùng đất: Vùng cơm hẩm gạo vàng ngày xưa (19-3-1961), Một chuyến lên Tây Bắc (9-4-1961), Vượt mọi khó khăn (18-5-1955), Những cánh tay miền Nam trên khu gang thép (25-6-1961).
Báo Cứu quốc cũng tổ chức những cuộc trao đổi về nhiều vấn đề thời sự chính trị vừa có tính chất lý luận và giàu ý nghĩa thực tiễn. Cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh lúc này đang diễn ra trên nhiều thành phố lớn. Cuộc trao đổi về mặt tích cực và tiêu cực của giai cấp tư sản được nhiều người tham gia thảo luận kéo dài trên hai năm từ cuối năm 1959 đến cuối năm 1961. Thiên hướng chung của cuộc trao đổi là dân chủ không áp đặt, không kinh viện sách vở, tôn trọng ý kiến của mọi người. Điều quan trọng là sự vận dụng lý luận vào thực tiễn và các chương trình hành động.
Báo Cứu quốc trong giai đoạn này ngoài phần viết do các phóng viên đảm nhiệm còn có sự đóng góp bài vở của nhiều cây bút tiêu biểu như Trần Văn Giàu, Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Huyên, Phạm Huy Thông. Giáo sư Trần Văn Giàu viết về giai cấp công nhân Việt Nam, lực lượng nòng cốt của mặt trận trên hai bình diện lịch sử và lý luận với mục đích khẳng định những phẩm chất của giai cấp công nhân Việt Nam, giai cấp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Báo Cứu quốc cũng theo sát công cuộc đấu tranh thống nhất đất nước qua từng thời kỳ. Huỳnh Văn Tiểng, Phó Giám đốc Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam chuyên theo dõi vấn đề miền Nam cũng đã viết một số bài vạch trần tội ác của Mỹ - Diệm như Bọn Mỹ - Diệm chạy trời không khỏi nắng (21-5-1961) và Mỹ - Diệm càng hành động điên cuồng hốt hoảng càng thất bại thảm hại... Phạm Huy Thông viết Diệm sẽ bị lật đổ (7-1961) như một lời dự báo những đổi thay của số phận Ngô Đình Diệm.
c) Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam
Hiệp định Giơnevơ năm 1954 được ký kết, hòa bình lập lại. Cũng như mọi lực lượng và tổ chức quân sự, chính trị kháng chiến, Đài Phát thanh kháng chiến Nam Bộ và miền Nam Trung Bộ đều tập kết và nhập vào Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam. Hoạt động của bộ phận phát thanh miền Nam lúc này rất quan trọng. Phải theo sát diễn biến và tình hình của miền Nam để có đối sách thích hợp. Đài đã phản ánh sát sao cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam tạm thời dưới ách xâm lược của Mỹ - Diệm. Tội ác của Mỹ - Diệm trong vụ đầu độc tại nhà giam Phú Lợi và tinh thần sôi sục căm thù trong cả nước được Đài phản ánh kịp thời. Đài có nhiều chuyên mục chính trị, xã hội, văn nghệ. Chuyên mục Nối liền Nam Bắc là cầu nối tinh thần gắn bó hai miền. Đài có những chương trình dành riêng cho các tầng lớp nhân dân thành thị miền Nam, cho quân dân cộng hòa. Những bài hát, bài thơ về đề tài đấu tranh thống nhất đất nước đã đem lại thêm sức hấp dẫn. Nhà báo Huỳnh Văn Tiểng là Phó Giám đốc của Đài phụ trách phát thanh miền Nam.
Từ năm 1960 khi tình hình miền Nam đã bước sang một giai đoạn mới, phong trào Đồng khởi nổi dậy ở khắp nơi. Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời và ngày l-2-1962, Đài Phát thanh giải phóng, tiếng nói của những người yêu nước miền Nam Việt Nam bắt đầu phát sóng. Các cơ quan thông tấn, báo chí miền Nam cũng đồng loạt hoạt động như Thông tấn xã giải phóng thành lập ngày 12-10-1960, báo Nhân dân, cơ quan của Đảng Nhân dân Cách mạng ra số đầu ngày 1-10-1964, báo Giải phóng, cơ quan của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam phát hành vào ngày 20-12-1964. Ở miền Bắc, Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam có nhiệm vụ chi viện cho Đài Phát thanh giải phóng. Bài hát Giải phóng miền Nam của Huỳnh Minh Siêng (tức Lưu Hữu Phước) sáng tác được giới thiệu trên Đài và có sức cổ vũ, vang sâu, vang xa khắp vùng giải phóng miền Nam và gây xúc động tự hào với đồng bào miền Bắc về sức mạnh chiến đấu của nhân dân miền Nam Việt Nam. Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam gửi biên tập viên và máy móc trang thiết bị cần thiết vào công tác ở Đài Phát thanh giải phóng. Đài giải phóng có hai bộ phận, đài A ở miền Bắc và đài B ở miền Nam chi viện cho nhau. Đài A do anh Vũ Thành làm Giám đốc và đài B do anh Vũ Đường làm Giám đốc.
Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam trong thời kỳ này được trang bị với nhiều máy móc hiện đại hơn. Theo ông Trần Lâm thì năm 1955 Đài Phát sóng có công suất 7,5kw sóng ngắn và 1kw sóng trung do Trung Quốc giúp. Năm 1958 đã có máy phát sóng lớn công suất 150kw, hai máy phát sóng ngắn 15kw đủ khả năng mở rộng và phủ sóng trên khắp đất nước. Nhà báo Trần Lâm nhận xét: ''Đài Tiếng nói Việt Nam trở thành một tờ báo nói tổng hợp, đồng thời là một sân khấu truyền thanh có hiệu quả lớn đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc làm hậu phương vững chắc cho miền Nam''.
Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam hoạt động trong điều kiện từ sau ngày hòa bình lập lại đã có bước phát triển mới về số lượng giờ phát, kênh phát ở trong và ngoài nước. Năm 1957, Đài Trung ương đã phát từ 13 đến 15 giờ mỗi ngày trên năm hệ thống phục vụ người nghe trong và ngoài nước (11 ngôn ngữ trên thế giới). Mạng phát thanh còn có 400 đài cấp huyện và các trạm ở xã. Đài đã xây dựng nhiều chương trình như Chương trình thời sự, Chương trình phát thanh Quân đội nhân dân, Chương trình dành cho nông nghiệp, Chương trình dành cho công nhân, Chương trình văn hóa xã hội, Chương trình phát thanh cho thanh niên. Về văn nghệ có các Chương trình đọc truyện đêm khuya, Chương trình tiếng thơ, Chương trình sân khấu truyền thanh, Chương tình ca nhạc (riêng Ban Ca nhạc của Đài có lúc biên chế đến 120 người).
Hệ thống chương trình phát thanh dành cho miền Nam gồm Chương trình dành cho thành thị miền Nam, Chương tình phát thanh dành cho nông thôn miền Nam, Chương trình nối liền Nam Bắc, các chương trình dành cho các dân tộc thiểu số Tây Nguyên.
Hệ thống chương trình phát thanh đối ngoại ngày càng được phủ sóng rộng ra nhiều khu vực trên thế giới (gồm các thứ tiếng như Trung Quốc, Thái Lan, Campuchia, Inđônêxia, Nhật, Lào, Nga, Tây Ban Nha, Anh, Pháp).
Về lực lượng cán bộ, Đài được đặc biệt tăng cường nhiều đồng chí giàu năng lực và kinh nghiệm công tác như Nguyễn Kim Cương, Huỳnh Văn Tiểng, Bảo Định Giang, Mai Thúc Long, Phạm Hữu Tùng, Mai Văn Tạo, Phạm Trường Hạnh; các nghệ sĩ Quốc Hương, Nguyễn Văn Ty, Tân Nhân, Hồng Lê, Châu Loan, Khánh Vân, Tuyết Mai, Nguyễn Thơ. Có thể nói, Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam trong thời kỳ 1954 - 1965 đã quy tụ được nhiều tài năng và có bước phát triển đặc biệt.
d) Các tờ báo văn học, nghệ thuật trong giai đoạn 1954 – 1965
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, khi Hội Văn nghệ Việt Nam được thành lập vào năm 1948, thì tờ Tạp chí Văn nghệ cũng chính thức hoạt động. Thư ký tòa soạn đầu tiên của tờ báo do nhà thơ Tố Hữu đảm nhiệm. Tòa soạn gồm các nhà văn Đặng Thai Mai, Tố Hữu, Thế Lữ, Văn Cao, Nguyên Hồng. Đội ngũ cộng tác viên khá đông đảo như Tô Ngọc Vân, Ngô Tất Tố, Nguyễn Đình Thi, Nam Cao, Kim Lân, Hoài Thanh, Huy Cận, Xuân Diệu, Tô Hoài, Thép Mới, Xuân Thuỷ, Nguyễn Huy Tưởng. Tạp chí Văn nghệ sớm có uy tín trong giới văn nghệ và bạn đọc. Tờ tạp chí đã đăng nhiều tác phẩm văn nghệ có giá trị của các nhà văn có tên tuổi như Ngô Tất Tố, Tú Mỡ, Tố Hữu, Nam Cao, Tô Hoài, Nguyễn Đình Thi, Xuân Diệu, Huy Cận,… Các cuộc thảo luận về văn nghệ như tranh luận văn nghệ Việt Bắc, trao đổi về tuyên truyền và văn nghệ cũng được phản ánh chân thực, sinh động. Hòa bình lập lại, tờ Văn nghệ vẫn tiếp tục hoạt động trong tình hình mới. Năm 1957, Hội Nhà văn tổ chức đại hội và bầu nhà văn Nguyễn Công Hoan là Chủ tịch Hội và nhà văn Nguyễn Đình Thi làm Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam. Tờ Tuần báo Văn do nhà văn Nguyên Hồng phụ trách được ấn hành. Đây là thời điểm còn ảnh hưởng của nhóm Nhân văn - Giai phẩm và thường được gọi là thời hậu Nhân văn - Giai phẩm. Tờ báo sau một thời gian hoạt động có một số biểu hiện hữu khuynh. Một số cán bộ của báo bị khiển trách. Tờ Tuần báo Văn tạm đình chỉ hoạt động trong một năm, từ năm 1957 đến năm 1958 và chuyển sang một tờ báo mới là Tuần báo Văn học. Tuần báo Văn học với tôn chỉ vì Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội đã hoạt động trong thời gian từ năm 1958 đến năm 1963. Trong khoảng thời gian trên, Tạp chí Văn nghệ vẫn ra đều kỳ hàng tháng. Tờ Tuần báo Văn học chuyên chế vào văn học do nhà văn Nguyễn Đình Thi làm chủ nhiệm. Các nhà văn Nguyễn Văn Bổng, Tô Hoài, Hà Minh Tuân, Tế Hanh, Vũ Tú Nam tham gia thường trực biên tập. Tờ báo có nhiều chuyên mục. Nhà thơ Tú Mỡ phụ trách chuyên mục Đòn bút, nhà văn Bùi Hiển tổ trưởng tổ văn xuôi, nhà thơ Tế Hanh Tổ trưởng tổ thơ, nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh Tổ trưởng văn học nước ngoài và nhà văn Mạnh Phú Tư là Tổ trưởng tổ thời sự chính trị. Từ tháng 9-1959 Vũ Tú Nam làm Thư ký tòa soạn. Nhà văn Hà Minh Tuân được cử sang phụ trách Nhà xuất bản Văn học của Hội Nhà văn. Vũ Tú Nam thêm chuyên mục Người mới cuộc sống mới, tiếp nhận nhiều bài viết về người thật, việc thật nổi lên từ phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa. Sau năm năm hoạt động, Tuần báo Văn học và Tạp chí Văn nghệ sáp nhập thành Tuần báo Văn nghệ. Tuần báo Văn học được tặng thưởng Huân chương Lao động. Trong khoảng thời gian mười năm sau khi hòa bình lập lại, các báo Văn họcVăn nghệ có nhiều thay đổi về tổ chức nhằm chọn lựa những phương thức hoạt động tốt nhất. Trong thực tế, các tờ Văn học, Văn nghệ trong thời kỳ này cũng phải tiến hành những cuộc đấu tranh. Từ đấu tranh tư tưởng dẫn đến sắp xếp tổ chức cho phù hợp. Qua cuộc đấu tranh chống nhóm Nhân văn - Giai phẩm rồi những chuyến đi vào đời sống thực tế đã góp phần cho văn nghệ thu hoạch được nhiều kinh nghiệm bổ ích cho lao động và sáng tác nghệ thuật.
Đất nước bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, không khí lao động sôi nổi trên các công trường, nhà máy, nông thôn đã tạo cảm hứng để các nhà văn sáng tác và có nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật. Tố Hữu với Gió lộng, Chế Lan Viên có Ánh sáng và phù sa, Xuân Diệu với Một khối hồng. Riêng Huy Cận từ năm 1958 đến năm 1962 đã có các tác phẩm Trời mỗi ngày lại sáng, Đất nở hoa, Bài thơ cuộc đời. Theo tác giả, đây là thời điểm chín cộng với thực tế mới, những giọt nước cuối cùng làm tràn bình nước. Trong văn xuôi, Nguyễn Tuân có Sông Đà, Tô Hoài có Miền Tây, Nguyễn Huy Tưởng với Bốn năm sau... Các tác phẩm vừa mang không khí thời sự, vừa có giá trị lâu dài.
đ) Báo Quân đội nhân dân trong thời kỳ quân đội xây dựng chính quy, hiện đại (1954 - 1965)
Năm 1950, Báo Quân đội nhân dân ra đời trên cơ sở sáp nhập hai tờ báo Vệ quốc quân Quân du kích (hai tờ báo tiền thân có nhiều thành tích của Quân đội nhân dân Việt Nam). Báo Quân đội nhân dân là tờ báo của toàn quân nhằm tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng và Chính phủ đến toàn quân. Tờ báo cũng phổ biến chiến lược quân sự của Đảng qua các giai đoạn cách mạng, về chiến tranh nhân dân, tôn vinh chủ nghĩa anh hùng cách mạng, những kỳ tích trong chiến đấu, những tấm gương anh hùng của quân và dân ta trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong nhiều năm hoạt động, tờ báo đã hoàn thành trách nhiệm của một tờ báo quân đội trong chiến tranh. Đội ngũ phóng viên là những nhà báo quen thuộc đã trải qua thử thách ở chiến trường như Lê Kim, Ngọc Bằng, Phác Văn, Lục Văn Thao, Nguyễn Trần Thiết, nay lại nhận nhiệm vụ trong thời kỳ mới. Tuy hoạt động nội bộ, nhưng tờ báo vẫn quan tâm phản ánh những vấn đề xã hội rộng rãi cho bạn đọc của toàn quân. Vào thời điểm tháng 7-1955, tòa soạn có 89 biên chế chính thức với các phòng: Phòng Thư ký tòa soạn, Phòng Quân sự hậu bị, Phòng Chính trị - văn hóa, Phòng Thời sự chính sách, Phòng Bạn đọc, Ban Hành chính, Ban Tư liệu và Tổ ảnh. Tháng 9-1954, Trần Cư làm Thư ký tòa soạn, sau đó là đồng chí Vũ Chính. Tổng biên tập do đồng chí Hoàng Xuân Tuỳ phụ trách và từ tháng 2-1956, Phó Tổng biên tập Văn Doãn phụ trách. Tháng 11-1956, theo Sắc luật 003 của Phó Chủ tịch nước và Nghị định 275 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Quốc phòng và Tổng cục Chính trị quyết định để báo Quân đội nhân dân, Tạp chí Văn nghệ quân đội phát hành ra công khai trong tình hình mới. Ngày 23-l-1957 báo Quân đội nhân dân ra công khai. Báo đã theo sát với những nhiệm vụ chính trị. Trong nhiệm vụ xây dựng quân đội với các đợt chỉnh huấn, chỉnh quân, báo mở trang Mặt trận tư tưởng và tổ chức các cuộc thảo luận về chủ đề Thế nào là chủ nghĩa xã hội, Phẩm chất anh bộ đội Cụ Hồ. Tiếp theo là tổ chức thảo luận về Tiền đồ của người quân nhân cách mạng (từ số 361 ngày 16-7-1957).
Trong hướng xây dựng quân đội chính quy, báo có các mục Trên đường tiến lên chính quy, hiện đại, Theo dõi chấp hành điều lệnh. Báo Quân đội nhân dân bám sát các mục tiêu chính trị - xã hội, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Báo có các chuyên mục ổn định, có những mục phát triển phù hợp với thời cuộc. Ngay với những chuyên mục ổn định cho một giai đoạn như Thời kỳ quân đội xây dựng chính quy, hiện đại cũng bao gồm nhiều vấn đề từ rèn luyện về tư tưởng đến thi đua trên thao trường. Một trong những nhiệm vụ chính trị lớn là đấu tranh thống nhất đất nước, báo Quân đội nhân dân đã nhiệt liệt hưởng ứng qua các chuyên mục: Miền Nam là của Việt Nam, Miền Nam ruột thịt, Chuyện miền Nam, Hướng về miền Nam, Tin miền Nam. Mỗi tiểu mục đảm nhiệm chức năng riêng. Báo Quân đội cũng cung cấp nhiều tin tức thế giới và bình luận những vấn đề phức tạp. Các cụm Tin hoạt động quốc tế, Thời sự thế giới, Thế giới đó đây, Thế giới Mỹ, Tư liệu quốc tế, Quân đội anh em, Bình an quốc tế có nhiều ưu điểm.
Ngoài ra, tờ báo cũng có nhiều chuyên mục đời thường gồm nhiều câu chuyện kể, chuyện vui. Đời sống bộ đội vừa nghiêm trang chặt chẽ như quân lệnh lại vừa lạc quan tươi tắn qua các mục Những mẩu chuyện hay, Nụ cười chiến đấu, Vui dăm phút, Ông cha ta đánh giặc, Mẹo du kích, Từ biên giới đến hải đảo, Hoạt động câu lạc bộ, Thư về đơn vị. Có thể nói, báo Quân đội nhân dân là tờ báo có nhiều chuyên mục nhất, bao gồm cả những chuyên mục ổn định và những chuyên mục chuyển đổi. Điều này nói lên sự nhạy cảm của tờ báo với thời cuộc và lực lượng riêng phong phú. Mối liên hệ giữa tờ báo với quân đội hết sức chặt chẽ. Đã thành truyền thống, tờ báo đến với chiến sĩ theo một kênh tiếp nhận đặc biệt. Đọc báo Quân đội nhân dân không phải chỉ là chuyện tuỳ thích của các chiến sĩ là trước hết là để thu hoạch những tri thức bổ ích và cần thiết để bồi đắp nhận thức. Báo Quân đội nhân dân cũng đem đến niềm lạc quan cho các chiến sĩ, niềm vui đồng đội, niềm vui gắn bó với nhân dân, niềm vui của đất nước đang vượt lên phía trước. Thời kỳ 1954 - 1965 có ý nghĩa đặc biệt đối với báo Quân đội nhân dân. Đây là giai đoạn tờ báo chuyển từ báo nội bộ ra công chúng rộng rãi. Đây cũng là thể hiện bước phát triển từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân sang cách mạng xã hội chủ nghĩa mà tờ báo phải thực hiện đầy đủ trách nhiệm nhanh chóng về nhiều mặt. Đội ngũ phóng viên trẻ, sung sức lại có lực lượng đông đảo ở người đọc ủng hộ, nên tờ báo có nội lực để chuyển đổi, phát thển nhanh chóng. Gắn với thực tế đời sống mà cụ thể là đời sống chiến trường, các phóng viên luôn đi sát và có mặt ở những điểm nóng để kịp thời phản ánh tình hình. Báo Quân đội nhân dân là một trong số ít tờ báo có phóng viên thường trú, phóng viên lưu động ở các quân khu, các binh chủng như Nguyễn Đức Toại ở binh chủng pháo binh, Lục Văn Thao, Lưu Thanh tại Tây Bắc, Hàn Thụy Vũ ở Quân khu III, Khắc Tiếp ở Quân khu tả ngạn. Trước tình hình chính trị phức tạp, đế quốc Mỹ có những hành động khiêu khích miền Bắc, báo Quân đội nhân dân lại chuẩn bị củng cố tổ chức để đối phó với tình hình mới: Từ ngày 29-9-1964, Lê Quang Hà, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị kiêm Tổng biên tập, Nguyễn Đình Ứớc là Phó Tổng biên tập thứ nhất và Bùi Đình Kế là Phó Tổng biên tập và một đội ngũ phóng viên sắc sảo giàu kinh nghiệm. Báo Quân đội nhân dân là một trong số ít tờ báo hàng ngày vững vàng và tạo được uy tín với bạn đọc.
II. BÁO CHÍ CÁCH MẠNG VIỆT NAM GIAI ĐOẠN CẢ NƯỚC CÓ CHIẾN TRANH 1965 - 1975
l. Sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước về công tác báo chí giai đoạn 1965 – 1975
Ngay trong những ngày đầu tháng 7-1965 khi đế quốc Mỹ bị thất bại trong cuộc Chiến tranh đặc biệt, chúng tăng cường và mở rộng chiến tranh xâm lược miền Nam, tìm mọi cách mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc. Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Thông tư số 163-TT/TW ngày l-7-1965 ''Về kế hoạch tuyên truyền động viên đấu tranh trong đợt 20 tháng 7'' (ngày quốc tế ủng hộ nhân dân Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai). Thông tư đã chỉ rõ nội dung và kế hoạch tuyên truyền như sau:
l. Lên án mạnh mẽ đế quốc Mỹ phá hoại Hiệp định Giơnevơ xâm lược miền Nam Việt Nam trong 11 năm qua và hiện đang tăng cường và mở rộng chiến tranh tội ác đó ở Việt Nam, đe dọa nghiêm trọng hòa bình ở Đông Dương, Đông Nam Á và thế giới.
2. Nêu cao quyết tâm của nhân dân ta chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược, giành thắng lợi hoàn toàn.
3. Khẳng định lập trường trước sau như một của ta là kiên quyết chống sự xâm lược của đế quốc Mỹ, nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định Giơnevơ...
4. Tranh thủ các nước xã hội chủ nghĩa, các nước dân tộc chủ nghĩa, các tổ chức quốc tế, nhân dân tiến bộ Mỹ, Anh, Pháp và dư luận rộng rãi trên thế giới mở chiến dịch đòi đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh xâm lược việt Nam...
5. Trong nước, động viên một phong trào biến căm thù đế quốc Mỹ thành sức mạnh chống Mỹ, cứu nước, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, sẵn sàng đối phó với mọi tình thế, đẩy mạnh phong trào thi đua sản xuất, chiến đấu chống Mỹ xâm lược.
Nhiệm vụ cụ thể của các cơ quan thông tin báo chí, phát thanh cùng với văn học nghệ thuật là lập kế hoạch tuyên truyền rầm rộ và liên tục suốt trong tháng 7-1965 ở nước ngoài, tổ chức họp báo, tổ chức nói chuyện trên đài phát thanh, vô tuyến truyền hình, tuyên truyền cho nhân dân thế giới biết cuộc chiến tranh phi nghĩa mà đế quốc Mỹ đã gây ra trên đất nước ta, đồng thời cũng tuyên truyền lập trường quan điểm của Đảng ta về tình hình trong nước để tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới.
Ban Bí thư cũng ban hành Chỉ thị số 113-CT/TW ngày 15-11-1965 Về nhiệm vụ của báo Nhân dân trước tình hình và nhiệm mới của cách mạng và Chỉ thị số 116-CT/TW ngày 6-12-1965 Về nâng cao chất lượng của Tạp chí Học tập để phục vụ sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước và tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
Chỉ thị yêu cầu báo Nhân dân phải tăng cường nâng cao hơn nữa vai trò, vị trí của tờ báo, thực sự là cơ quan ngôn luận của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Nội dung tuyên truyền phải đáp ứng một số yêu cầu cơ bản sau:
l. Xây dựng con người mới, có tư tưởng, tình cảm cách mạng, có tinh thần yêu nước và trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa ngày càng được nâng cao. Xây dựng và phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong đấu tranh chống đế quốc Mỹ thống nhất nước nhà và trong sự nghiệp xây dựng đất nước, đặc biệt là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, trở thành hậu phương vững chắc cho cách mạng miền Nam.
2. Làm cho toàn Đảng, toàn dân thông suốt, nắm vững và tuyệt đối tin tưởng ở đường lối, chính sách và quan điểm cách mạng của Đảng. Thứ nhất, đường lối chống Mỹ, cứu nước đang tiến hành gắn chặt với đường lối chống đế quốc từ trước cho đến nay và từ nay về sau. Thứ hai, đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, chú trọng tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất; cách mạng khoa học kỹ thuật và cách mạng văn hóa tư tưởng. Làm tốt ba cuộc cách mạng này cũng là thực hiện nhiệm vụ vừa cải tạo xã hội chủ nghĩa, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thứ ba, lập trường quan điểm của Đảng về đường lối cách mạng thế giới, tăng cường sự đoàn kết và ủng hộ của các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa và phong trào cộng sản quốc tế.
3. Trên cơ sở thấu suốt hai yêu cầu nói trên, đẩy mạnh mọi hành động cách mạng, tập trung vào cuộc chiến đấu đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, vào các phong trào thi đua sản xuất và xây dựng nhằm hoàn thành các nhiệm vụ của kế hoạch nhà nước.
Về chuyên môn nghiệp vụ, Ban Bí thư yêu cầu báo Nhân dân không ngừng nâng cao chất lượng thông tin tuyên truyền cả về nội dung và hình thức. Cần vận dụng một cách linh hoạt trong các thể tài nghị luận, thể tài tin tức, thể tài phản ánh để chuyển tải thông tin một cách phong phú và có hiệu quả. Kế hợp chặt chẽ giữa thông tin lý luận để tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước với thông tin sự kiện để nhân dân thấy rõ bức tranh đời sống xã hội đất nước ta trong thời kỳ cả nước có chiến tranh. Kịp thời phản ánh những nhân tố điển hình về người mới, việc mới, phổ biến những kinh nghiệm làm ăn tốt, đánh Mỹ giỏi. Đồng thời cũng tìm tòi, phát hiện những yếu tố điển hình đang nhú mầm để khích lệ, bồi dưỡng và tạo điều kiện phát triển tốt. Chỉ thị cũng khẳng định: ''Thể tài phản ánh có một ý nghĩa rất quan trọng trong việc làm cho báo Nhân dân thật sự là tờ báo của quần chúng, thể tài ấy chủ yếu dành cho quần chúng nói rõ ý nghĩa, tình cảm và việc làm của mình, ghi lại tiếng nói của quần chúng, của đông đảo những người có lao động sáng tạo, có công tác thực tiễn''.
Đối với Tạp chí Học tập, với tư cách là tạp chí lý luận của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chỉ thị số 116-CT/TW của Ban Bí thư cũng đã biểu dương sự nỗ lực vượt bậc trong việc thực hiện nhiệm vụ như tuyên truyền cho các chủ trương, chính sách lớn của Đảng, về đường lối cách mạng hai miền Nam - Bắc, về đường lối đối ngoại, về đường lối xây dựng Đảng... Tuy nhiên, so với yêu cầu trong tình hình mới, Tạp chí Học tập còn có nhiều hạn chế.
Để Tạp chí Học tập đóng vai trò quan trọng trong công tác tư tưởng của Đảng, phát huy những việc đã làm tốt, khắc phục những nhược điểm, Ban Bí thư chỉ thị một số vấn đề cụ thể sau đây:
1. Vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin đã soi sáng đường lối chống Mỹ, cứu nước, làm cho mọi người nhận rõ tình hình và yêu cầu mới của cách mạng... Biên tập những bài có chất lượng cao về chiến tranh nhân dân và quốc phòng toàn dân. Do đó làm cho mọi người tin tưởng tuyệt đối vào đường lối chống Mỹ, cứu nước của Đảng, vào nhiệm vụ vừa kháng chiến, vừa kiến quốc...
2. Vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin để soi sáng hơn nữa đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa và chủ trương tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trong điều kiện có chiến tranh... Chú ý vận dụng lý luận để soi sáng các vấn đề quan hệ giữa cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa - xã hội...
3. Tuyên truyền cho quan điểm của Đảng về các vấn đề quốc tế quan trọng, tích cực góp phần vào việc bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, khôi phục và tăng cường đoàn kết trong phe xã hội chủ nghĩa và phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, ủng hộ các phong trào đấu tranh cho độc lập và hòa bình ở các nước trên thế giới, chống chủ nghĩa đế quốc  hiếu chiến...
4. Khôi phục việc xây dựng Đảng về tư tưởng và tổ chức, tuyên truyền cho đường lối xây dựng Đảng, biểu dương những điển hình tốt, đồng thời phê phán những biểu hiện tiêu cực trong sinh hoạt Đảng…
5. Cùng các cơ quan có trách nhiệm góp phần tổng kết những kinh nghiệm lịch sử của Đảng ta, cụ thể là công tác xây dựng Đảng, công tác mặt trận thống nhất, về đấu tranh vũ trang và xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân, về xây dựng chính quyền nhà nước, về Cách mạng Tháng Tám, về cải cách ruộng đất…, tổng kết tốt những kinh nghiệm lịch sử của Đảng sẽ góp phần tích cực vào việc chuẩn bị Đại hội lần thứ IV của Đảng.
Chỉ thị của Ban Bí thư nhắc nhở cần làm rõ hơn nữa nhiệm vụ của Tạp chí Học tập và các tạp chí Tuyên huấn Xây dựng Đảng để có kế hoạch tuyên truyền phù hợp. Làm sao mỗi tạp chí thực hiện đúng chức năng của mình và có sự kết hợp tốt trong các đợt tuyên truyền từng giai đoạn, thời điểm nhất định.
Một điều cần chú ý nữa là trong những năm 1966, 1967 báo Nhân dân được Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên đọc. Những nhân tố điển hình, đặc biệt cá nhân điển hình trong lao động sản xuất, trong chiến đấu đánh Mỹ được tòa soạn kịp thờ phản ánh, đã được Người đọc kỹ, dùng bút mực màu đỏ khoanh tròn để tặng thưởng ''Huy hiệu Bác Hồ''.
Đối với Thông tấn xã Việt Nam, cơ quan thông tin chính thức của cả nước, tất cả mọi văn kiện thông tin và hình ảnh chính thức của Đảng và Nhà nước đều do Thông tấn xã Việt Nam phát. Thông tấn xã Việt Nam được Hội đồng Chính phủ luôn luôn quan tâm chỉ đạo và ưu tiên xây dựng đi lên chính quy, tiến tới hiện đại. Liên tiếp trong những năm 1968, 1971, 1972, Thường vụ Hội đồng Chính phủ luôn chỉ đạo sát sao Thông tấn xã Việt Nam khắc phục mọi khó khăn, trong mọi điều kiện phải thu phát tin, ảnh trong nước tới các chiến trường, tới mọi miền đất nước và các nước anh em. Đồng thời, cũng ưu tiên đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật đảm bảo các hoạt động thông tin kịp thời, nhất là cho Thông tấn xã giải phóng.
Các cơ quan báo chí quan trọng khác như Đài Tiếng nói Việt Nam, báo Quân đội nhân dân cũng luôn nhận được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và Bộ Quốc phòng.
Điều đặc biệt cần chú ý trong sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đối với báo chí là sự nhất quán trong tư tưởng, thấu suốt đường lối cách mạng. Mỗi cơ quan báo chí thực sự là người tuyên truyền, cổ động, tạo sức mạnh đoàn kết dân tộc, thống nhất ý chí tư tưởng từ trung ương đến địa phương, từ lãnh đạo đến mỗi người dân, hướng tới mục tiêu đấu tranh chống quân xâm lược Mỹ và từng bước xây dựng đất nước.
2. Tình hình xuất bản báo chí
Bước vào năm 1960, các cơ quan báo chí trung ương như Đài Tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam, báo Nhân dân đã có những bước phát triển mới. Các phân xã (thuộc Thông tấn xã Việt Nam) ở các địa phương, nhất là ở miền Nam, Đài Phát  thanh giải phóng đã được thành lập, phục vụ thông tin, tuyên truyền, phản ánh cuộc chiến đấu chống Mỹ, cứu nước của quân và dân miền Nam.
Theo Niên giám báo chí xuất bản năm 2000, từ năm 1960 đến năm 1975 có 80 tờ báo, tạp chí, báo tiếng nước ngoài được xuất bản, trong đó có 40 tờ báo, 4 tờ tạp chí và 6 tờ báo tiếng nước ngoài.
Trong 40 tờ báo, có 33 tờ báo của các địa phương xuất bản, 7 tờ của các cơ quan đoàn thể. Các tỉnh miền Nam xuất bản báo chí là Tỉnh uỷ An Giang, Tiền Giang, Cà Mau, Quảng Bình, Trà Vinh, Vinh Long. Còn lại phần lớn của các tỉnh miền Bắc và Bắc Trung Bộ như Bắc Giang, Bắc Ninh, Lào Cai, Lai Châu, Lạng Sơn, Hòa Bình, Ninh Bình, Phú Thọ, Nghệ An, Thanh Hóa...
Báo của các cơ quan đoàn thể được xuất bản trong giai đoạn này chỉ có Giao thông vận tải của Bộ Giao thông- Vận tải (1962), báo Sức khỏe và đời sống của Bộ Y tế.
Về tạp chí, đây là giai đoạn phát triển của tạp chí, bao gồm tạp chí lý luận chính trị, các tạp chí của các bộ và cơ quan ngang bộ, của các cơ quan đoàn thể, của Trung tâm Khoa học tự nhiên và công nghệ quốc gia và Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn.
Các tạp chí lý luận chính trị có Tạp chí Xây dựng Đảng, xuất bản năm 1966. Các tạp chí của các bộ, ngành tương đương như:
Tạp chí Bưu chính - viễn thông xuất bản năm 1962;
Tạp chí Dược học của Bộ Y tế xuất bản năm 1960;
Tạp chí Đại học và giáo dục chuyên nghiệp của Bộ Giáo dục và Đào tạo xuất bản năm 1968;
Tạp chí Kinh tế và dự báo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư xuất bản năm 1967;
Tạp chí kiểm sát của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao xuất bản năm 1961;
Tạp chí Nghiên cứu giáo dục của Bộ Giáo dục và Đào tạo xuất bản năm 1969;
Tạp chí Tài chính của Bộ Tài chính xuất bản năm 1963;
Tạp chí Văn hóa nghệ thuật của Bộ Văn hóa - Thông tin xuất bản năm 1973;
Tạp chí Xây dựng của Bộ Xây dựng xuất bản năm 1961.
Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn có các tạp chí: Tạp chí Dân tộc học (1974), Tạp chí Ngôn ngữ (1969), Tạp chí Nghiên cứu kinh tế (1961), Tạp chí Nhà nước và pháp luật (1972), Tạp chí Triết học (1966), Tạp chí Văn học (1960), Tạp chí Khảo cổ học (1969). Trung tâm Khoa học tự nhiên và công nghệ quốc gia có các tạp chí được xuất bản: Tạp chí Khoa học và công nghệ (1963), Tạp chí Hóa học (1963).
Ngoài ra, còn có một số tờ tạp chí của các Hội được xuất bản như Tổng hội Y dược học Việt Nam với Tạp chí Nội khoa, Ngoại khoa, Hội Y học dự phòng Việt Nam xuất bản Tạp chí Y học dự phòng và các Tạp chí Bán đảo Cà Mau, Cửa biển của Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Cà Mau và Hải Phòng.
Báo tiếng nước ngoài có 6 tờ được xuất bản, trong đó có ba tờ dược xuất bản năm 1960: Le courrier du Vietnam (tiếng Pháp), Vietnamese Trade Unions (tiếng Anh), Revue medicale (tiếng Pháp), một tờ xuất bản năm 1963: Vietnamese Studies; một tờ xuất bản năm 1971: Commulation in Physics (tiếng Anh và Việt Nam), Journal of Mathematics (tiếng Anh) xuất bản năm 1973.
* Một vài nhận xét:
-         Về số lượng: Giai đoạn này các tờ báo và tạp chí xuất bản không nhiều. Nếu tính từ năm 1960 đến năm 1975 chỉ có 80 tờ. Tuy nhiên, trong năm năm tiến hành xây dựng xã hội chủ nghĩa lần thứ nhất (1960 - 1965) đã có 52 tờ được xuất bản. Có 11 tờ xuất bản sau ngày 30-4-1975. Như vậy, chỉ có 17 tờ ra đời trong 10 năm (1965 - 1975), giai đoạn cả nước có chiến tranh.
-         Về loại hình: Các tờ báo xuất bản giai đoạn này chủ yếu là báo của các địa phương, chiếm trên 30%. Loại hình tạp chí chiếm gần 50% (kể cả tạp chí bằng tiếng nước ngoài). Phần lớn là tạp chí của các bộ, ban, ngành, cơ quan đoàn thể và của Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia. Điều này chứng tỏ, trong khi chiến tranh diễn ra ác liệt trong cả nước nhưng các tạp chí chuyên ngành, nghiên cứu sâu các lĩnh vực khoa học và xã hội vẫn được quan tâm, chú ý.
Đặc biệt, sự hợp nhất giữa tờ Thủ đô Hà NộiThời mới (25-l-1968) thành tờ Hà Nội mới, cơ quan ngôn luận của Đảng bộ thành phố Hà Nội là một bước phát triển mới, thể hiện sự thống nhất trong việc thông tin, tuyên truyền trong hệ thống.
Sự ra đời của Truyền hình Việt Nam (phát thử ngày 7-9-1970 và chương trình truyền hình đầu tiên phục vụ khán giả Thủ đô Hà Nội ngày 27-l-1971) là một sự kiện đặc biệt. Hệ thống báo chí Việt Nam có thêm loại hình mới. Mặc dù truyền hình ở nước ta ra đời muộn, nhưng những bước đi đầu tiên trong những năm chiến tranh ác liệt là cơ sở, nền tảng cho sự phát triển hệ thống truyền hình sau này trên cả nước.
3. Sự ra đời của báo Hà Nội mớiĐài Truyền hình Việt Nam
a) Báo Hà Nội mới
Các cơ quan báo chí của Đảng và Nhà nước như báo Nhân dân, Thông tấn xã Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam và một số tờ báo của các ban ngành đoàn thể như Lao động, Quân đội nhân dân, Tiền phong, Phụ nữ... đã có các cơ quan đại diện của mình ở miền Nam. Trong thời kỳ này, các báo tiếp tục củng cố xây dựng và tăng cường lực lượng. Phần lớn các phóng viên, biên tập viên có trình độ nghiệp vụ, tuổi đời còn trẻ được tung vào chiến trường, đến những nơi ác liệt nhất như chiến trường miền Đông Nam Bộ, Tây Ninh, chiến trường đường 9 - Nam Lào để lấy tin, viết bài, kịp thời phản ánh tình hình chiến sự.
Ở miền Bắc, nhiều tờ báo địa phương được thành lập. Sự ra đời của các tờ báo Bắc Giang, Bắc Ninh, Lào Cai, Lạng Sơn, Phú Thọ, Nghệ An, Thanh Hóa... đã làm cho mạng lưới báo chí ở các tỉnh, thành phố dần dần hoàn thiện. Trong điều kiện cả nước có chiến tranh, giao thông khó khăn, báo Đảng chưa kịp đến tay bạn đọc thì các báo địa phương làm nhiệm vụ tuyên truyền tại chỗ và phản ánh kịp thời, cụ thể những hoạt động của địa phương mình một cách nhanh chóng.
Cùng mới sự ra đời của báo đảng bộ các tỉnh, báo Hà Nội mới - cơ quan ngôn luận của Đảng bộ Hà Nội, Thủ đô của cả nước ra đời trên cơ sở sáp nhập hai tờ Thủ đô Hà Nội và tờ Thời mới.
Trong hồi ký của mình, nhà báo Hiền Nhân đánh giá: ''Sự sáp nhập này là một chủ trương vừa có mục đích chính trị vừa có mục đích tự thân của hoạt động báo chí. Trong tình hình chính trị xã hội bấy giờ sự phân tán báo chí, đặc biệt là thiếu vai trò lãnh đạo định hướng trong bản thân báo Thời mới là không có lợi trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt''5.
Số 1 báo Hà Nội mới ra ngày 25-1-1968, trong lời phi lộ với bạn đọc, ban biên tập hứa:
''Hà Nội mới quyết sẽ là vũ khí sắc bén của Đảng bộ Đảng Lao động Việt Nam và chính quyền thành phố Hà Nội, một người bạn chân thành của nhân dân Thủ đô trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Thủ đô xã hội chủ nghĩa anh hùng''.
Tòa soạn và trị sự báo Hà Nội mới đặt tại trụ sở báo Thủ đô Hà Nội, số 44, Lê Thái Tổ. Ban biên tập gồm: Tổng biên tập, đồng chí Dương Ngà; Phó tổng biên tập, đồng chí Lê Hưng và Lê Tam Kính. Đội ngũ phóng viên, biên tập viên là những người trước đây làm cho báo Thủ đô Hà Nội và báo Thời mới. Theo yêu cầu nhiệm vụ, một số chuyển sang công tác khác.
Báo Hà Nội mới phát huy thế mạnh của hai tờ báo trước đây để thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình, là cơ quan ngôn luận, tiếng nói của đảng bộ của một thành phố trung tâm chính trị, nơi các cơ quan đầu não của trung ương và chính phủ làm việc. Đồng thời, nhân dân Thủ đô Hà Nội là lớp độc giả có trình độ văn hóa cao, đòi hỏi việc thông tin phải nhanh nhạy, mới mẻ và phong phú. Phải làm sao tờ báo thực sự là người hướng dẫn, định hướng dư luận trong tình hình cách mạng mới, vừa là bức tranh điển hình về đời sống nhân dân Thủ đô trên nhiều lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… Thông tin phong phú nhưng phải hấp dẫn, thu hút bạn đọc. Để giúp báo Hà Nội mới làm tốt nhiệm vụ, Thường vụ Thành uỷ đã ra Nghị quyết về “Nâng cao chất lượng và tăng cường chỉ đạo báo Hà Nội mới”. Bản nghị quyết nêu rõ:
''Phải tuyên truyền, phổ biến chủ trương, quyết định của Đảng bộ và chính quyền thành phố, cổ vũ khí thế cách mạng của phong trào quần chúng, động viên mạnh mẽ các tầng lớp nhân dân chấp hành mọi chính sách chủ trương của Đảng, xây dựng con người mới, đẩy mạnh nhiệm vụ xây dựng bảo vệ Thủ đô bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, tiến tới thống nhất nước nhà”.
Trước mắt, tuyên truyền những nội dung chủ yếu sau:
- Tuyên truyền cổ động khí thế quyết chiến, quyết thắng, động viên mạnh mẽ quân dân thành phố tích cực chuẩn bị chiến đấu tốt, phòng tránh tốt, sẵn sàng chiến đấu tiêu diệt địch, đồng thời làm hết sức mình, thực hiện khẩu hiệu ''Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược''.
- Tuyên truyền cổ động nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội đẩy mạnh việc xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật, tiếp tục phát triển mạnh sản xuất, trọng tâm là sản xuất nông nghiệp và thực phẩm, tăng cường công tác giao thông vận tải và các ngành kinh tế khác.
- Tuyên truyền cổ động cách mạng kỹ thuật, cách mạng quan hệ sản xuất…
- Tuyên truyền cổ động việc tổ chức đời sống nhân dân, thực hiện bồi dưỡng sức dân để đảm bảo sức khỏe, đảng bảo sức sản xuất và chiến đấu lâu dài6...
Như vậy, báo Hà Nội mới trở thành tiếng nói, diễn đàn của Đảng bộ, nhân dân thành phố Hà Nội, là tờ báo địa phương đặc biệt, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của cả nước. Trong giai đoạn chống chiến tranh phá hoại của Mỹ lần thứ hai, nhất là 12 ngày đêm ''Điện Biên Phủ trên không'', báo Hà Nội mới cùng Đài Phát thanh Hà Nội thực sự là bạn đồng hành của mọi người cùng bám trụ, chiến đấu và chiến thắng.
b) Quá trình ra đời Đài Truyền hình Việt Nam
Trước nguy cơ thất bại hoàn toàn của chiến lược ''Chiến tranh đặc biệt'', đế quốc Mỹ chuẩn bị tiến hành chiến lược “Chiến tranh cục bộ'' từ giữa năm 1965. Bên cạnh việc Mỹ đưa quân ồ ạt vào miền Nam và tăng cường xây dựng lực lượng, ngụy quyền Sài Gòn, chúng tăng cường bộ máy tuyên truyền nhằm mục đích huy động tổng lực để giành lại chiến trường đã mất trong ''Chiến tranh đặc biệt'' trước đó. Bước vào năm 1966, chúng xây dựng hai đài truyền hình ở Sài Gòn, một đài do Mỹ trực tiếp quản lý, một đài cho chính quyền tay sai Sài Gòn làm công cụ tuyên truyền. Ngoài ra, để mở rộng phạm vi tuyên truyền bằng loại hình báo chí điện tử lợi hại này, chúng còn xây dựng các đài chuyển tiếp chương trình của đài Sài Gòn ở Cần Thơ, Nha Trang, Quy Nhơn, Huế. Như vậy, ở miền Nam, năm 1966 có thêm một loại hình báo chí hoạt động, đó là truyền hình.
Ở miền Bắc, báo chí cách mạng đã có những bước phát triển đáng kể, tuy nhiên do điều kiện kinh tế khó khăn, cơ sở vật chất nghèo nàn, lại phải chịu nhiều cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ tiến hành cho nên đến những năm cuối của thập kỷ 60 của thế kỷ XX, miền Bắc nước vẫn chưa có Đài truyền hình. Sự cần thiết phải có một Đài truyền hình là một mong muốn của Đảng, Chính phủ và của những người làm công tác thông tin tuyên truyền, của những người quản lý báo chí hồi đó. Họ đã âm thầm chuẩn bị để khi có điều kiện, thời cơ có thể bắt tay vào việc xây dựng một đài truyền hình. Người đặt nền móng và chuẩn bị cho sự ra đời báo truyền hình là đồng chí Trần Lâm, Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam.
Trong hồi ký của mình, ông Trần Lâm bộc bạch suy nghĩ về những bước chuẩn bị đầu tiên như sau:
''Lúc ấy, tôi đã rất muốn làm thử truyền hình ở miền Bắc nhưng hoàn cảnh khách quan không cho phép vì ngày ngày miền Bắc và cả Thủ đô Hà Nội luôn dưới tầm bom đạn Mỹ. Dù vậy chúng tôi vẫn xúc tiến việc tìm hiểu kinh nghiệm các nước bạn để chuẩn bị sẵn sàng làm truyền hình trong tương lai. Bản thân tôi tìm hiểu và biết rằng trong khối cộng đồng xã hội chủ nghĩa chỉ có Cuba là phát hình theo hệ kỹ thuật của Mỹ, phù hợp với hệ kỹ thuật ở Sài Gòn. Vì vậy, ngay từ năm 1967 nhân chuyến đi thăm Cuba, tôi đã ký với Viện Phát thanh truyền hình Cuba một hiệp định hợp tác và nước bạn sẵn sàng giúp Đài Tiếng nói Việt Nam đào tạo cán bộ làm truyền hình cả về kỹ thuật phát sóng, và về công tác biên tập, đạo diễn làm chương trình truyền hình''7.
Sau khi ký được hiệp định với Cuba, Bộ biên tập Đài Tiếng nói Việt Nam chọn 18 cán bộ, vừa là kỹ thuật, vừa là biên tập viên của đài sang Cuba học 18 tháng. Cán bộ của chúng ta đã được chuyên gia bạn tận tình giúp đỡ cả lý thuyết và thực hành trong tất cả các khâu làm truyền hình, từ kỹ thuật ghi hình, dựng hình, thu trong, phát hình đến khâu biên tập nội dung theo từng chương trình thời sự, ca nhạc, sân khấu truyền hình, các chương trình mang tính chuyên đề, đạo diễn truyền hình, âm thanh ánh sáng... Trong khi đó, những người ở nhà cũng cố gắng sưu tầm tài liệu, cố gắng nghiên cứu để làm quen và từng bước tiếp cận với những kiến thức cơ bản về truyền hình.
Sự chuẩn bị của Đài Tiếng nói Việt Nam đã không thừa. Cục diện chiến trường miền Nam và cuộc đấu trí trên bàn ngoại giao ở Pari về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam đã dự báo những bước đi mới. Mỹ thất bại liên tiếp trong cuộc ''Chiến tranh cục bộ'' đến ''Việt Nam hóa chiến tranh'' ở miền Nam, thất bại nặng nề trong cuộc leo thang phá hoại miền Bắc lần thứ hai, đặc biệt trong cuộc đọ sức ''Điện Biên Phủ trên không'' 12 ngày đêm đánh phá Thủ đô Hà Nội và một số thành phố khác, buộc Mỹ phải đến Pari nối lại đàm phán và Hiệp định Pari được ký kết, buộc Mỹ phải rút quân về nước.
Trước tình hình đó, việc chuẩn bị cho sự ra đời của đài truyền hình trở nên cấp bách hơn. Trong điều kiện khó khăn, thiếu thốn, ban biên tập Đài Tiếng nói Việt Nam tiếp tục xây dựng kế hoạch xây dựng và phát thử với phương châm: Tự lực, khắc phục mọi khó khăn, quyết tâm làm bằng được.
Ngày 2-l-1970, Bộ biên tập Đài Tiếng nói Việt Nam triệu tập đoàn cán bộ mới được đào tạo ở Cu Ba về, cùng với những cán bộ khác có tâm huyết để bàn cách làm thử truyền hình và giao nhiệm vụ cho các bộ phận chuẩn bị. Bằng kiến thức đã được học tập cộng với sự vận dụng sáng tạo, các cán bộ được giao nhiệm vụ đã làm được những việc phi thường, đó là chuyển một số máy phát thanh sóng ngắn sang máy phát hình; lắp ráp hoàn chỉnh một cách cơ bản trung tâm kỹ thuật bằng các vật tư kỹ thuật của đài phát thanh, tự chế tạo camera điện tử...
Nhà báo Trần Lâm nhớ lại: ''Sau nhiều ngày phát thử thấy các khâu đều đảm bảo tốt, ngày 7-9-1970 chúng tôi tổ chức buổi ra mắt. Khách mời là một số cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước để chứng kiến sự ra đời của Đài Truyền hình Việt Nam. Trong số khách mời có đồng chí Hoàng Tùng, Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương; đồng chí Phan Anh, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao; đại diện Văn phòng Chính phủ; Uỷ ban Kế hoạch nhà nước; Bộ Tài chính... tất cả là những người có thể giúp đỡ cho Đài Truyền hình ra đời.
Buổi phát rất đáng ghi nhớ. Tất cả khách mời, diễn viên, phát thanh viên, cán bộ kỹ thuật, người ghi hình đến ngồi chung trong một phòng rộng. Người xem có thể vừa nhìn phát thanh viên, diễn viên biểu diễn trực tiếp, vừa xem cán bộ kỹ thuật ghi hình và xem hình ảnh trên mônitơ kiểm tra và trên máy thu hình bắt từ máy phát sóng. Chương trình gồm có 15 phút tin tức do hai phát thanh viên quen thuộc của Đài Tiếng nói Việt Nam đọc thẳng, tiếp sau đó là nửa giờ ca nhạc do các diễn viên quen thuộc Thanh Huyền, Bích Liên, Thuý Hà, Kiều Hưng biểu diễn bằng phương pháp lay back (tức là chỉ thu hình còn tiếng thì thu trước để bảo đảm tiêu chuẩn).
Thành công quả là bất ngờ. Hình ảnh trung thực, âm thanh tốt. Sau khi nghe giới thiệu về tính năng từng bộ phận và quá trình lắp ráp, ai cũng xúc động khi biết lý lịch của hai camera “ngựa trời''. Hai đồng chí Hoàng Tùng và Phan Anh đã hứa sẽ giúp cho Đài Tiếng nói Việt Nam, xin Chính phủ cho phép được chính thức làm truyền hình. Gần một tuần sau, chúng tôi nhận được một lúc hai quyết định của Chính phủ do Phó Thủ tướng Lê Thanh Nghị ký: một là giao cho Đài Tiếng nói Việt Nam chuẩn bị làm truyền hình; hai là, cấp cho Đài 400.000 rúp để mua những thiết bị ban đầu cần thiết''.
Được sự quan tâm của Chính phủ, những tháng cuối năm 1970, Bộ Biên tập Đài Tiếng nói Việt Nam gấp rút xây dựng Đài Truyền hình như mua máy phát hình, xe ghi hình, lắp ráp ăng ten, xây dựng Studio ghi hình... để chuẩn bị phát chương trình đầu tiên cho khán giả xem truyền hình Thủ đô Hà Nội.
Tối ngày 27-1-1971, Đài phát chương trình đầu tiên với câu mở đầu ''Chương trình truyền hình thử nghiệm'' phục vụ khán giả Thủ đô Hà Nội. Thời gian đầu Đài Truyền hình Việt Nam phát mỗi tuần ba tối, mỗi tối 2 giờ đồng hồ.
Năm 1976, xây dựng Trung tâm truyền hình ở Giảng Võ. Cuối năm 1977, Chính phủ ra quyết định thành lập Uỷ ban Phát thanh và truyền hình gồm cả Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình trung ương và quản lý sự nghiệp toàn ngành phát thanh và truyền hình trong cả nước. Đồng chí Trần Lâm được bổ nhiệm làm Chủ nhiệm Uỷ ban.
Như vậy là, ngày 7-9-1970 được coi là ngày khai sinh ra Đài Truyền hình Việt Nam. Từ đây, nền báo chí Việt Nam có thêm một loại hình báo chí mới: Báo truyền hình. Nhân dân ta tiếp nhận thông tin qua một kênh báo chí bằng hình ảnh với những ưu thế đặc biệt mà các loại hình khác không có được.
4. Hoạt động báo chí của một số tờ báo tiêu biểu
a) Báo Nhân dân
Trong 10 năm (1965 - 1975), báo Nhân dân luôn ở vị trí hàng đầu tuyên truyền đường lối cách mạng của Đảng, phản ánh kịp thời tình hình chiến tranh và tinh thần chiến đấu chống đế quốc Mỹ của quân và dân cả nước. Đồng thời, báo cũng chú trọng phản ánh phong trào thi đua lao động sản xuất, xây dựng đất nước của nhân dân miền Bắc, những hoạt động ngoại giao, những thành tựu về văn hóa, giáo dục và khoa học...
Báo Nhân dân tiếp tục ra hàng ngày, 4 trang, khổ 75x42cm. Trên trang nhất, ở vị trí quan trọng báo đưa tin chiến thắng trên các chiến trường miền Nam, tin chiến đấu chống chiến tranh phá hoại ở miền Bắc và tin lao động sản xuất của nhân dân miền Bắc. Đầu đề tin được in cỡ chữ to, đậm. Phần tin thời sự này thường chiếm 213 diện tích trang báo. Phần còn lại là xã luận và tin ngoại giao.
Trang 2 thường dành toàn bộ cho các bài viết về lao động sản xuất, các chuyên mục xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc như ''Xây dựng chi bộ bốn tốt'', “Sử dụng hợp lý sức lao động và chống lãng phí sức lao động'', ''Tăng năng suất trồng trọt và chăn nuôi, tăng năng suất lao động trong nông nghiệp''... bao gồm các bài phản ánh sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, phổ biến khoa học kỹ thuật, cung cách quản lý, xây dựng chế độ quản lý xã hội chủ nghĩa, những thành tựu về văn hóa, giáo dục, y tế...
Trang 3 dành để phản ánh hiện thực cuộc sống chiến đấu của quân và dân cả nước với nhiệm vụ đánh Mỹ và ngụy quân Sài Gòn; phong trào cách mạng quốc tế ủng hộ cuộc đấu tranh chống Mỹ của nhân dân ta. ''Nhân dân anh hùng, thời đại anh hùng''; ''Bài từ miền Nam gửi ra'' là những chuyên mục chuyển tải những điển hình trong chiến đấu.
Trang 4 là trang tin quốc tế.
- Phản ánh phong trào thi đua lao động sản xuất, xây dựng chủ nghĩa xã hội miền Bắc:
Lao động sản xuất để từng bước xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là một trong hai nhiệm vụ chiến lược của Đảng và Nhà nước ta. Trong hoàn cảnh cả nước có chiến tranh, nhân dân miền Bắc vừa phải chiến đấu đánh trả các cuộc ném bom phá hoại của không quân Mỹ, vừa phải tăng cường lao động sản xuất làm hậu cứ vững chắc, chi viện cho miền Nam đánh Mỹ, giữ nước. Bên cạnh các bài viết phản ánh những thành tích tăng năng suất lao động như Cánh đồng năm tấn; Ngọn cờ Bắc Lý, Mỗi người thi đua làm việc bằng hai..., báo Nhân dân còn mở nhiều mục để trao đổi, thảo luận về các vấn đề đặt ra trong quá trình đi lên xây dựng nền kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa.
Năm 1966, báo Nhân dân mở mục trao đổi ý kiến về vấn đề: “Sử dụng hợp lý sức lao động và chống lãng phí sức lao động''. Trong bài mở đầu số ra ngày 9-4-1966, đồng chí Hoàng Tùng, Tổng biên tập báo Nhân dân nêu rõ:
''Trong thời bình vấn đề tiết kiệm sức lao động đã rất quan trọng, trong hoàn cảnh vừa sản xuất vừa chiến đấu hiện nay, vấn đề này lại trở nên bức thiết. Trên các công trường, cán bộ, công nhân, thanh niên xung phong đã có nhiều cố gắng nhằm hoàn thành đúng thời hạn các công trình. Nhưng tình hình lãng phí sức lao động còn khá phổ biến và nghiêm trọng. Chúng ta phải làm sao gây được một dư luận xã hội thật rộng rãi, đấu tranh chống những hiện tượng lãng phí sức lao động và làm cho đông đảo cán bộ, công nhân, thanh niên xung phong và những người lao động khác trên các công trường có ý thức quý trọng và tiết kiệm sức lao động, tích cực góp phần tổ chức, phân phối sử dụng lao động tốt hơn, đạt năng suất cao và tiết kiệm sức lao động để đáp ứng yêu cầu ngày càng lớn của sự nghiệp cách mạng cứu nước''.
Bài viết chỉ ra những nguyên nhân lãng phí sức lao động như: chưa thấu suốt nhiệm vụ, lấy lý do phục vụ chiến đấu, công việc để gấp rút lấy người, tuyển người ồ ạt mà không nghĩ đến cải tiến kỹ thuật, lao động sáng tạo. Trình độ quản lý, trình độ khoa học kỹ thuật của người cán bộ quản lý còn thấp. Có người trước đây là cán bộ chính trị nay chuyển sang quản lý công trường mấy nghìn người, làm việc theo lối gióng trống mở cờ, động viên cật lực mà không tổ chức lao động hợp lý, cải tiến công cụ lao động. Sự chỉ đạo của nhiều cơ quan cấp trên còn quan liêu, không sát thực tế, chỉ nhấn mạnh yếu tố tinh thần, tư tưởng, không tính toán cân nhắc kỹ các mặt tổ chức và kỹ thuật...
Báo đã có loạt bài đăng liên tục như: “Sử dụng hợp lý thời gian lao động trên các công trường xây dựng cơ bản'' của Tân Sắc (ngày 10-4-1966), ''Coi trọng việc tổ chức lao động trên các công trường thủy lợi'' của Phi Bằng (ngày 10-4-1966), “Năng suất lao động bình quân trong ngành xây dựng cơ bản 1965 còn thấp'' của Thần Thu (ngày 12-4-1966), “Kinh nghiệm quản lý công tác xây dựng cơ bản trong thời chiến của tỉnh Quảng Bình'' của Võ Văn Kinh (ngày 13-4-1966), ''Tăng cường công tác quản lý lao động trên các công trường'' của Nguyễn Đức Thụy (ngày 16-4-1966).
Mục ''Tăng năng suất trồng trọt và chăn nuôi, tăng năng suất lao động trong nông nghiệp'' kéo dài trong sáu tháng cuối năm 1966 với 42 bài trao đổi ý kiến và kinh nghiệm. Báo đã tổ chức sơ kết, sau đó mục này còn kéo dài cả năm 1967. Các bài viết chú trọng việc tăng sản lượng cây trồng; tăng năng suất trên đơn vị diện tích canh tác, kết hợp giữa chăn nuôi và trồng trọt, cải tạo sử dụng hợp lý ruộng đất, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, coi trọng công tác thủy lợi...
Những điển hình tăng năng suất lao động cao như hợp tác xã Nam Tiến (Phú Thọ); xây dựng đồng ruộng ở Hưng Yên; phát triển chăn nuôi trồng trọt ở Thổ Tang (Vĩnh Phúc); Gia Viễn (Ninh Bình); Tăng năng suất ngô màu ở Anh Sơn...
Bước sang năm 1967, mục này được duy trì với một cuộc trao đổi kinh nghiệm bổ ích giữa các huyện năm tấn “Huyện uỷ cải tiến sự chỉ đạo trong nông nghiệp như thế nào để đạt năm tấn thóc một hécta”. Bao gồm các bài viết về cuộc trao đổi giữa báo Nhân dân với lãnh đạo một số huyện thuộc các tỉnh Thái Bình, Phú Thọ, Hưng Yên, Hà Tây, Nghệ An... để tìm câu trả lời làm thế nào để đạt năm tấn thóc một hécta.
Sau cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ lần thứ hai, nhân dân miền Bắc tập trung khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội, ra sức chi viện cho miền Nam, nên nội dung thông tin trên báo Nhân dân cũng có những thay đổi nhất định.
Báo ưu tiên thông tin về phong trào lao động sản xuất trong cả nước, nhất là nhân dân các địa phương miền Bắc. Ngoài ra, báo có nhiều bài viết phản ánh lao động sản xuất trong nông nghiệp, công nghiệp, phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học. Tiêu biểu là các bài: ''Thêm một mùa gặt khảo cổ học”, số ra ngày 8-7-1973 của Phạm Huy Thông ''Tổ chức và hướng dẫn học sinh đại học nghiên cứa khoa học”, số ra ngày 14-8-1973 của Vũ Dương Ninh; “Gọi tên các dân tộc như thế nào cho đúng”, số ra ngày 25-7-1974 của Đặng Nghiêm Vạn; “Khám phá những mật của khí tượng nhiệt đới”, số ra ngày 28-7-1974 của Nguyễn Ngọc Thụy, v.v.. Đặc biệt, báo có loạt bài viết đăng nhiều kỳ của nhà báo Phan Quang trong dịp đi công tác tại các nước xã hội chủ nghĩa như bài “Sức hấp dẫn mới của đất nước Đimitơrốp”, ''Việc áp dụng phương pháp công nghiệp vào sản xuất”, với loạt bài kèm theo như “Đi vào chiều sâu”; “Hóa học với nghề nông”, “Kỹ thuật quản lý và con người”.
- Phản ánh cuộc chiến đấu chống Mỹ của quân và dân ta trong cả nước:
Đây là mảng đề tài chính, được báo Nhân dân nói riêng và các phương tiện thông tin đại chúng nói chung dành vị trí trang trọng với diện tích trang báo đáng kể để chuyển tải. Ở trang nhất báo Nhân dân, bất kỳ số nào được xuất bản trong 10 năm giai đoạn 1965 - 1975 được kéo hàng tít chữ to đậm nổi bật về thời sự thắng lợi của quân dân hai miền Nam Bắc. Đặc biệt, năm 1967, 1968 quân và dân miền Nam anh hùng đã đập tan chiến lược ''Chiến tranh cục bộ'', ''Việt Nam hóa chiến tranh''. Tin chiến thắng bắn rơi hàng trăm máy bay Mỹ trong các cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại (1965 - 1966); (1969 - 1973). Hàng ngàn, hàng vạn lính Mỹ - ngụy phải đền tội, hàng trăm hàng ngàn máy bay Mỹ bị bắn rơi trên khắp chiến trường miền Bắc đã chứng tỏ chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân ta đã phát huy, thăng hoa cao độ. Thắng lợi đó là kết quả của ý chí kiên cường, không sợ hy sinh gian khổ, không chịu khuất phục trước bất cứ kẻ thù nào. Sức mạnh đó thể hiện ý chí, tinh thần đoàn kết của mọi tầng lớp nhân dân, thể hiện sự lãnh đạo sáng suốt, đường lối nhất quán trong việc chỉ đạo toàn dân, toàn quân ta vì sự sống còn của dân tộc, với tinh thần ''Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”, “Không có gì quý hơn độc lập, tự do'' mà Bác Hồ đã ra lời kêu gọi.
Ngoài trang nhất là tin chiến sự nóng hổi hàng ngày, báo Nhân dân còn dành phần lớn trang 3 để đăng những bài viết của phóng viên, cộng tác viên phản ánh cuộc sống chiến đấu đầy hy sinh, vất vả nhưng cũng đầy vinh quang của nhân dân ta trên khắp mọi miền. Thông qua các bài phản ánh, bài phóng sự, ghi nhanh, bức tranh thành đồng Tổ quốc hiện lên sinh động trong máu lửa. Cuộc sống của nhân dân Củ Chi trong địa đạo sâu dưới lòng đất, của nhân dân Quảng Trị, đường 9, Khe Sanh bám trụ trên cát trắng những ngày hè đổ lửa, của nhân dân Nam Bộ thoắt ẩn, thoắt hiện giữa các miệt vườn, cánh đồng hoang, kênh rạch nhằng nhịt để bảo vệ mình, tìm địch mà đánh.
Đặc biệt, đầu năm 1967, báo Nhân dân đã dành 3 số (từ ngày 6-l-1967 đến ngày 8-1-1967) để tường thuật, tuyên truyền Đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua chống Mỹ, cứu nước được tổ chức tại Hà Nội. ''Một đại hội chiến đấu lớn nhất của miền Bắc trong một khung cảnh chiến đấu hùng tráng và một khí thế chiến đấu sục sôi của Thủ đô và của cả nước... Một cuộc gặp mặt to nhất và hào hứng nhất giữa những người và đơn vị mà sự tích anh hùng đã và đang cổ vũ tất cả chúng ta suốt hơn hai mươi năm chiến đấu chống Mỹ vừa qua''.
Đại hội đón chào hơn 500 anh hùng, chiến sĩ thi đua cả nước về dự.
Nhân dịp này, báo Nhân dân mở mục “Nhân dân anh hùng, thời đại anh hùng'' để giới thiệu những thành tích, những chiến công của các tập thể, cá nhân anh hùng, chiến sĩ thi đua, như chủ nhiệm hợp tác xã Mạnh Trữ (Vĩnh Phúc), Nguyễn Văn Tắc; Lớn lên với nhà máy xã hội chủ nghĩa (về anh hùng Đào Thị Hào); Những con đường trắng (về anh hùng đồng muối Hồ Thị Lượm); Nhằm thẳng quân thù mà bắn (về liệt sĩ Nguyễn Viết Xuân); Suốt đời quên mình vì Đảng vì dân (về anh hùng Trần Văn Thọ); anh hùng dân quân Lê Đăng Tối; Tiểu đoàn 14  anh hùng Nguyễn Viết Xuân…
b) Tạp chí Học tập (1955 - 1976)
Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cách mạng nước ta chuyển sang giai đoạn mới. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, từ căn bản hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chuyển sang cách mạng xã hội chủ nghĩa. Miền Nam còn ở dưới ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, phải tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Nhiệm vụ chung của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn này là thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
Hội nghị lần thứ bảy của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II họp tháng 3-1955 đã nhận định: qua 8 - 9 năm kháng chiến, Đảng ta đã được rèn luyện và lớn lên nhiều. Sự lãnh đạo của Đảng về các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức đều có tiến bộ rõ rệt. Tuy vậy, trước tình hình đang thay đổi mạnh mẽ, từ chiến tranh chuyển sang hòa bình, từ nông thôn chuyển vào thành thị, từ phân tán chuyển đến tập trung, trong Đảng bộc lộ những biểu hiện hữu khuynh và ''tả'' khuynh. Công tác tư tưởng và lý luận chưa đáp ứng đúng mức yêu cầu của nhiệm vụ chính trị. Để ''giúp vào việc nghiên cứu chính sách và giáo dục, tư tưởng, bước đầu xây dựng công tác lý luận của Đảng'', Hội nghị lần thứ bảy của Trung ương Đảng đã ra nghị quyết xuất bản Tạp chí Học tập.
Đề án xuất bản được Bộ Chính trị thông qua, đã nêu rõ tính chất nhiệm vụ, đối tượng và phương châm biên tập của tạp chí.
Tạp chí Học tập là ''cơ quan lý luận và chính trị của Đảng'', do Trung ương Đảng trực tiếp lãnh đạo. Nhiệm vụ của tạp chí là ''lấy học thuyết Mác - Lênin làm cơ sở, kết hợp chặt chẽ lý luận Mác - Lênin với thực tiễn cách mạng nước ta để tuyên truyền, giáo dục đường lối, phương châm, chính sách của Đảng một cách sâu sắc''; tạp chí còn có nhiệm vụ ''hướng dẫn cán bộ học tập theo chương trình do Đảng quy định''. Đối tượng phục vụ của tạp chí là: ''Cán bộ Đảng từ trung cấp trở lên, những cán bộ ngoài Đảng và những người trí thức thích nghiên cứu chính trị và có trình độ đọc hiểu được''. Phương châm biên tập của tạp chí là ''căn cứ vào nhiệm vụ trung tâm và những công tác lớn của Đảng trong từng thời kỳ mà định trọng tâm biên tập làm cho nội dung tạp chí gắn chặt với chính sách và sinh hoạt chính trị, sinh hoạt tư tưởng của Đảng''. Tạp chí ''dựa trên cơ sở học thuyết Mác - Lênin để giải thích đường lối, phương châm, chính sách của Đảng, kết hợp với thực tế nước ta mà giáo dục lý luận. Cụ thể là căn cứ vào những chính sách và công tác lớn của Đảng, trình bày những vấn đề lý luận chung quanh chính sách và công tác ấy, nhằm vạch rõ cơ sở lý luận của nó, rồi lại căn cứ vào tình hình cụ thể của Việt Nam mà phân tích thêm, kết hợp lý luận Mác - Lênin với thực tế nước ta, làm cho cán bộ nắm vững nội dung, thực chất của các chính sách của Đảng, đồng thời đấu tranh chống những tư tưởng lạc hậu, sai lầm, trở ngại cho việc thực hiện các chính sách''; tạp chí cần tập trung vào những vấn đề chính trong nước, đồng thời dành một phần cần thiết cho những vấn đề quốc tế quan trọng.
Trong bài ''Việc xuất bản Tạp chí học tập và công tác xây dựng Đảng'' đăng trong số đầu tiên của tạp chí, đồng chí Trường Chinh viết: ''Tạp chí Học tập phải đóng một vai trò xứng đáng trong công tác tư tưởng và công tác tổ chức của Đảng, trong công tác xây dựng, phát triển và củng cố Đảng... Nó phải đem lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin mà soi sáng những chính sách lớn của Đảng, nâng cao nhận thức của cán bộ trong Đảng và ngoài Đảng về tư tưởng, chính sách giúp cho họ tránh được những khuyết điểm, sai lầm trong khi thi hành những chính sách ấy. Ngược lại, nó phải góp phần làm cho cán bộ qua công tác cụ thể, chấp hành chính sách mà củng cố được lập trường, nâng cao được trình độ tư tưởng và lý luận... Mong rằng với Tạp chí Học tập ra đời, Đảng ta sẽ đẩy mạnh phê bình, tự phê bình, đẩy mạnh đấu tranh chống mọi khuynh hướng sai lầm trong khi chấp hành đường lối, chính sách của Đảng và của Chính phủ, chống mọi sự xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin và những lệch lạc về tư tưởng đã khá nhiều ở nước ta hiện nay. Đồng thời, Đảng sẽ làm cho tư tưởng, lý luận của mình tiến trước và chỉ đường cho công tác thực hành, khắc phục được chủ nghĩa sự vụ, hẹp hòi hiện đang phổ biến trong cán bộ, đảng viên và cán bộ ngoài Đảng''.
Bộ Chính trị đã cử ra một Ban biên tập tạp chí do đồng chí Trường Chinh làm Tổng biên tập, đồng chí Trần Quang Huy làm Thư ký tòa soạn.
Sau một thời gian ngắn khẩn trương chuẩn bị, Tạp chí Học tập ra số 1 vào tháng 12-1955 và kéo dài suốt từ năm 1955 đến năm 1976.
Trong những năm đầu, tạp chí tập trung phục vụ các nhiệm vụ công tác lớn của Đảng: đấu tranh đòi thi hành Hiệp nghị Giơnevơ nhằm thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà; hoàn thành cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, khôi phục kinh tế, tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Từ ngày 5 đến ngày 10-9-1960, Đảng ta họp Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III tại Hà Nội. Đại hội chỉ rõ, trong giai đoạn hiện tại cách mạng nước ta có hai nhiệm vụ chiến lược: một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc; hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước. Hai nhiệm vụ ấy có quan hệ mật thiết với nhau và có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau. Trong đó, tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà. Đại hội chỉ rõ nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ ở miền Bắc nước ta là công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, mà mấu chốt là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. Đại hội đã thông qua phương hướng và nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965) nhằm mục tiêu phấn đấu xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện một bước công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, tiếp tục đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.
Trước tình hình mới và nhiệm vụ mới hết sức nặng nề, để tạp chí lý luận của Đảng làm tốt được vai trò của mình, Trung ương Đảng, đặc biệt là Bộ Chính trị và Ban Bí thư, hết sức quan tâm đến việc tăng cường lực lượng, nâng cao trình độ, cải tiến công tác của tạp chí.
Trong khoảng thời gian chưa đầy 5 tháng, từ ngày 20-10-1961 đến ngày 3-3-1962, Bộ Chính trị đã có hai cuộc họp và Ban Bí thư có một cuộc họp bàn về Tạp chí Học tập.
Cuộc họp Bộ Chính trị ngày 3-3-1962 có Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng, Lê Thanh Nghị, Nguyễn Chí Thanh, Trần Quốc Hoàn (Bộ Chính trị); tham dự có các đồng chí: Trần Quỳnh, Phạm Chung (Văn phòng Trung ương), Hồng Chương (Tạp chí Học tập).
Hội nghị đã vạch rõ nhiệm vụ của Tạp chí Học tập. Nhiệm vụ đó đã được ghi trong Chỉ thị số 41-CT/TW, ngày 7-4-1962 của Bộ Chính trị về ''Cải tiến tạp chí lý luận của Đảng'' trong đó nêu rõ, Nhiệm vụ của Tạp chí Học tập là đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm cơ sở, kết hợp chặt chẽ lý luận Mác - Lênin với thực tiễn cách mạng Việt Nam để tuyên truyền đường lối, phương châm, chính sách của Đảng một cách sâu sắc; đem lý luận Mác - Lênin soi sáng những chủ trương, chính sách của Đảng, nâng cao nhận thức của cán bộ trong Đảng và ngoài Đảng về tư tưởng chính sách, giúp họ tránh những khuyết điểm, sai lầm trong khi thi hành chính sách của Đảng và Nhà nước. Tạp chí phải căn cứ vào chức năng của mình mà tuyên truyền cho Nghị quyết của Đại hội lần thứ III của Đảng và nghị quyết của các cuộc hội nghị Trung ương Đảng. Tạp chí phải góp phần đắc lực vào việc thực hiện hai nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam hiện nay là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (mà trung tâm là công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa) và giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước. Tạp chí phải góp phần vào việc tổng kết kinh nghiệm công tác của Đảng, đi đến những kết luận có tính chất lý luận để lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Nội dung của tạp chí cần phải tập trung vào những vấn đề chính trong nước, đồng thời cần dành một phần cần thiết cho những vấn đề quốc tế quan trọng.
Tạp chí Học tập cần tích cực góp phần vào việc tổng kết kinh nghiệm lịch sử của Đảng, viết về những vấn đề lớn trong lịch sử cách mạng Việt Nam và kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng ta. Sau Chỉ thị 41-CT/TW, ngày 7-4-1962, Bộ Chính trị bổ nhiệm đồng chí Đào Duy Tùng làm Tổng biên tập Tạp chí Học tập.
Từ đầu năm 1966, Tạp chí Học tập bước vào thời kỳ mới của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước với hành trang mới: Chỉ thị số 116-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về ''Nâng cao chất lượng của Tạp chí Học tập để phục vụ sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước và tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội'' ra ngày 14-12-1965.
Sau khi chỉ ra những ưu điểm và khuyết điểm của tạp chí trong thời gian qua, Chỉ thị vạch rõ:
Hiện nay, cách mạng nước ta đang ở trong một bước chuyển biến mới. Cả nước ta đang có chiến tranh với mức độ khác nhau ở mỗi miền. Nhân dân ta đang có nhiệm vụ cấp bách là chống Mỹ, cứu nước. Tạp chí Học tập phải đóng một vai trò quan trọng trong công tác tư tưởng của Đảng, nhằm góp phần bảo đảm cho thắng lợi của sự nghiệp đánh thắng giặc Mỹ trong cả nước và sự nghiệp tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện có chiến tranh.
Về phương hướng biên tập của tạp chí, Chỉ thị chỉ rõ:
1. Vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin để soi sang đường lối chống Mỹ, cứu nước, làm cho mọi người nhận rõ tình hình và yêu cầu mới của cách mạng, đánh giá đúng đắn âm mưu thâm độc của đế quốc Mỹ và tay sai đối với nước ta, phân tích lực lượng, đối sách giữa ta và địch, vạch rõ thế tất thắng của ta và thế thất bại của địch; hiểu rõ phương hướng, chủ trương mới về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, các chính sách đối nội và đối ngoại do Đảng đề ra trong tình hình mới; biên tập những bài có chất lượng cao về chiến tranh nhân dân và quốc phòng toàn dân. Do đó làm cho mọi người tin tưởng tuyệt đối vào đường lối chống Mỹ, cứu nước của Đảng, vào nhiệm vụ vừa kháng chiến vừa kiến quốc, phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, nâng cao trình độ về mọi mặt, cống hiến nhiều nhất cho cách mạng, đưa sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước đến toàn thắng.
2. Vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin để soi sang hơn nữa đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa và chủ trương tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trong điều kiện có chiến tranh. Phục vụ tốt việc xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội theo phương châm mới thích hợp với tình hình mới. Cần làm rõ mối quan hệ giữa sản xuất và chiến đấu, giữa nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước. Cần phục vụ tốt ba cuộc cách mạng đang được tiến hành ở miền Bắc.
Cần chú ý vận dụng lý luận để soi sáng các vấn đề về quan hệ giữa cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa tích luỹ và tiêu dùng, giữa cơ sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng, giữa xây dựng kinh tế và tăng cường quốc phòng. Trong tình hình mới, cần làm rõ vị trí của công nghiệp trung ương và công nghiệp địa phương; của kinh tế đồng bằng và kinh tế trung du, kinh tế miền núi, của sản xuất và phân phối, của công tác văn hóa và xã hội.
Kết hợp với việc giáo dục về tình hình và nhiệm vụ mới mà tuyên truyền cho các cuộc vận động lớn trong nền kinh tế và các phong trào thi đua, nhằm đẩy mạnh sản xuất, tăng năng suất lao động và hiệu suất công tác, tăng cường công tác chuẩn bị chiến đấu và chiến đấu tốt.
Phải góp phần vào việc củng cố và tăng cường Nhà nước chuyên chính dân chủ nhân dân, thực chất là chuyên chính vô sản, nhằm xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, giải phóng miền Nam, tiến tới thực hiện thống nhất nước nhà.
3. Tuyên truyền cho quan điểm của Đảng về các vấn đề quốc tế quan trọng, tích cực góp phần vào việc bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, đấu tranh có lý, có lẽ, có mức, chống chủ nghĩa xét lại hiện đại là nguy cơ chủ yếu của phong trào cộng sản quốc tế, đồng thời chống chủ nghĩa giáo điều; khôi phục và tăng cường sự đoàn kết trong phe xã hội chủ nghĩa và trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế; ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh, ủng hộ phong trào đấu tranh vì dân chủ và chủ nghĩa xã hội của giai cấp công nhân và nhân dân lao động các nước tư bản chủ nghĩa; đấu tranh chống bọn đế quốc hiếu chiến do đế quốc Mỹ cầm đầu, góp phần bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới.
4. Phục vụ việc xây dựng Đảng về tư tưởng và tổ chức; tuyên truyền cho đường lối xây dựng Đảng; biểu dương những điển hình tốt; đồng thời phê phán những biểu hiện tiêu cực trong sinh hoạt Đảng; đấu tranh chống tư tưởng hữu khuynh và ảnh hưởng của chủ nghĩa xét lại hiện đại là chủ yếu, đồng thời ngăn chặn và khắc phục tư tưởng “tả'' khuynh và bệnh giáo điều, rập khuôn, máy móc.
5. Cùng các cơ quan có trách nhiệm góp phần tổng kết những kinh nghiệm lịch sử của Đảng ta. Qua tổng kết kinh nghiệm lịch sử của cách mạng Việt Nam mà làm cho mọi người thêm tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và ra sức phát huy tinh thần tích cực, chủ động và sáng tạo trong công tác của mình.
Nhìn lại những năm 1955 - 1976, Tạp chí Học tập đã tích cực góp phần đưa đường lối, chủ trương chính sách của Đảng vào cuộc sống. Đáng chú ý nhất là:
Tạp chí đã tuyên truyền tập trung cho đường lối chống Mỹ, cứu nước và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà. Gắn với nhiệm vụ này, việc xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng được tạp chí rất coi trọng.
Tạp chí đã góp phần đắc lực vào việc thực hiện các nhiệm vụ: sửa sai và hoàn thành cải cách ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức; cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, khôi phục và phát triển kinh tế, phát triển văn hóa, tiến hành ba cuộc cách mạng, thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa... làm cho miền Bắc trở thành cơ sở vững chắc cho công cuộc chống Mỹ, cứu nước của toàn dân ta. Những nhiệm vụ đó không tách rời việc củng cố nhà nước dân chủ nhân dân.
Cùng với việc phục vụ công tác xây dựng Đảng về tổ chức, tạp chí đã tích cực đấu tranh chống những tư tưởng sai lầm trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, góp phần nâng cao phẩm chất cách mạng cho mọi người, củng cố đoàn kết nhất trí trong Đảng. Tạp chí đã đi đầu trong cuộc đấu tranh chống nhóm “Nhân văn - Giai phẩm'', bảo vệ sự lãnh đạo của Đảng.
Tạp chí đã tích cực tuyên truyền đường lối đối ngoại và quan điểm quốc tế của Đảng; phê phán chủ nghĩa xét lại hiện đại, chủ nghĩa cơ hội..., bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, bảo vệ sự đoàn kết quốc tế, kiên quyết chống chủ nghĩa đế quốc, ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Trong 21 năm qua (1955 - 1976) Tạp chí Học tập đã cố gắng đóng góp vào công tác lý luận và tư tưởng của Đảng và góp phần tích cực vào việc thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng việt Nam.
c) Báo Quân đội nhân dân
Với tiêu đề “Vì nhân dân phục vụ'', báo Quân đội nhân dân trở thành nguời bạn thân thiết, gần gũi và không thể thiếu được đối với lực lượng vũ trang cũng như nhân dân cả nước trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Báo xuất bản hàng ngày 4 trang, khổ rộng. Giai đoạn 1965 - 1975, nội dung của các trang báo được thể hiện như sau:
Trang l dành phần lớn đưa tin chiến sự đánh Mỹ của nhân dân hai miền Nam, Bắc. Tít của tin chiến sự được in cỡ chữ to, đậm.
Ví dụ: Trang l số ra ngày 20-10-1967:
Miền Nam: Tân An - Chợ Lớn: Tiến công dữ dội sở chỉ huy sư đoàn 25 ngụy và 6 vị trí khác. Diệt gần 300 địch.
Miền Bắc: Tin thêm ngày 17, 18-10, Hà Bắc, Hải Phòng Bắn rơi hai máy bay Mỹ.
Ngoài ra, còn có các tin hoạt động chính trị, ngoại giao của Đảng, Nhà nước ta và tin hoạt động của các lực lượng vũ trang trong cả nước. Mỗi số báo có một bài xã luận được in vào trang l. Báo Quân đội nhân dân còn dành một ô cửa sổ khoảng 80cmx40cm ở giữa trang l để in con số máy bay Mỹ bị bắn rơi tính đến ngày ra báo. Ví dụ, số ra ngày 29-10-1967, ô cửa sổ đăng tin từ ngày 5-8-1964 đến ngày 18-10-1967: 2.467 máy bay Mỹ đã bị bắn rơi trên miền Bắc.
Trang 2 và trang 3, báo dành đăng các bài viết phản ánh tình hình chiến đấu của quân và dân trên các chiến trường. Một nội dung quan trọng báo đề cập là xây dựng lực lượng vũ trang, thế trận quốc phòng vững chắc. Một số bài về quốc tế, giới thiệu về đất nước, con người các nước xã hội chủ nghĩa anh em.
Bước sang năm 1968, phong trào đấu tranh cách mạng phát triển mạnh, quân và dân ta dồn dập tiến công, liên tục chiến thắng. Hầu hết các thành phố, thị xã, thị trấn miền Nam đều nổi lên, đánh chiếm các trung tâm quốc tế, chính trị của bọn Mỹ ngụy, giành quyền làm chủ nhiều địa bàn. Cuộc tiến công thần tốc, phát triển rộng lớn và toàn diện đó được báo Quân đội nhân dân phản ánh. Trên trang 1, phần lớn in hai màu (đỏ và đen) với những hàng chữ cỡ lớn, có khi chiếm nửa trang báo. Ngoài ra, tình hình chiến sự còn được minh họa bằng bản đồ chiến sự miền Nam thể hiện diễn biến tiến công nổi dậy từng ngày ở các địa điểm khác nhau. Đặc biệt, số ra ngày 23-3-1968 thì toàn bộ trang l là tít tin, chỉ còn một phần nhỏ dành cho xã luận.
Tin chiến sự hàng ngày là mối quan tâm chú ý hàng đầu của những người đọc báo, nghe đài trong giai đoạn này. Những bản tin được in với cỡ chữ to đậm chạy kín bề ngang và chiếm một phần đáng kể của trang báo đã làm nên sức mạnh của thông tin. Tin Thắng lớn ở Lộc Ninh (Số ra ngày 6-11-1967) chạy tít: Sáu ngày đêm liên tục tiến công địch tiêu diệt 4 tiểu đoàn Mỹ, 8 đại đội Mỹ, ngụy, gồm hơn 2.800 địch (có một chiến đoàn bị diệt); Các đơn vị chiến thắng ở Lộc Ninh được tặng thưởng huân chương, được chạy tít ngang giữa trang 1 đã tạo nên một điểm nhấn cho người đọc chú ý.
Tuyên truyền điển hình, nhân điển hình trong phong trào giết giặc lập công, là chủ đề xuyên suốt nội dung phản ánh cuộc chiến đấu của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Có thể nói, không một số báo nào không có những bài viết về những gương sáng quên mình vì dân phục vụ. Họ là những chiến sĩ giáp mặt với kẻ thù trong một trận đánh, là những dân quân, người dân bình thường tham gia chiến dịch... Đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua chống Mỹ, cứu nước được tổ chức đầu năm 1967 là một dịp để báo Quân đội nhân dân biểu dương những cá nhân, tập thể điển hình với những hành động anh hùng, lẽ sống anh hùng. Xã luận số ra ngày 6-l-1967 với tiêu đề “Đất nước anh hùng, đại hội anh hùng'' đã khẳng định: ''Chủ nghĩa anh hùng cách mạng ở Việt Nam đã từ lý tưởng biến thành cuộc sống hiện thực, đã từ một số ít chiến sĩ cộng sản kiên trung nhập vào hàng triệu quần chúng đông đảo. Ở miền Nam có câu ''ra ngõ gặp anh hùng, phụ nữ, trẻ em, cụ già đều có thể là dũng sĩ diệt Mỹ. Trên miền Bắc, súng trường của dân quân bắn rơi máy bay phản lực Mỹ, nhiều cô gái từng phá bom nổ chậm, bắt sống giặc Mỹ lái máy bay. Thế hệ thanh niên ngày nay bám sát gót lớp người cách mạng vì kháng chiến cũ, khí thế chiến đấu cách mạng phơi phới đang phát huy cao độ truyền thống quật cường của dân tộc''.
Tháng 10-1967, Đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua, dũng sĩ các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng miền Nam lần thứ II khai mạc. Báo Quân đội nhân dân ra tít màu đỏ: Đại hội của những người chiến thắng, của những bông hoa tiêu biểu cho thời đại chống Mỹ mà dân tộc ta đang được vinh dự đứng ở tuyến đầu. Báo mở mục ''Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng miền Nam'' để viết tiếp những chiến công chói lọi, những gương hy sinh quên mình của 47 anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng được tuyên dương anh hùng và khen thưởng...
Không thể kể hết được hàng loạt chuyên mục, với hàng trăm, hàng nghìn bài báo viết về người tốt việc tốt, về các tập thể điển hình đã lập nên nhiều chiến công điển hình trên báo Quân đội nhân dân trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Phóng viên, cộng tác viên báo Quân đội nhân dân đã bằng khả năng, trí tuệ, bút lực của mình, kịp thời đến từng trận chiến, nằm dưới công sự để viết nên những bản hùng ca đầy bi tráng của dân tộc. Ở đó, mỗi một con người hiện diện là những chiến công với những mất mát hy sinh không có gì bù đắp nổi cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, cho sự tồn vong của nước nhà.
d) Đài Tiếng nói Việt Nam
Giai đoạn 1965 - 1975, Đài Tiếng nói Việt Nam tiếp tục hoàn thiện các chương trình phát sóng để phục vụ yêu cầu chỉ đạo cách mạng Việt Nam của Đảng và Chính phủ, đồng thời đáp ứng thông tin về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân hai miền Nam Bắc.
Về chương trình phát thanh, ngoài các chương trình thời sự còn có các chương trình dành riêng cho nông thôn, chương trình dành cho công nhân, chương trình văn hóa - xã hội, chương trình phát thanh cho thanh niên, chương trình phát thanh quân đội nhân dân, chương trình vì an ninh Tổ quốc, chương trình văn nghệ...
Đài tiếp tục xây dựng hệ chương trình phát thanh dành cho miền Nam như chương trình giới thiệu miền Bắc vào miền Nam, chương trình phát thanh dành cho nông thôn miền Nam, chương trình nối liền Nam Bắc, chương trình dành cho các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Về hệ chương trình tuyên truyền đối ngoại đã từng bước tăng thêm 11 thứ tiếng: Anh, Pháp, Nhật Bản, Bắc Kinh, Quảng Đông, Lào, Campuchia, Thái Lan, Inđônêxia, Nga, Tây Ban Nha và tiếng Việt cho những người xa Tổ quốc.
Về hệ thống phát sóng, năm 1970 lập Đài Phát thanh Campuchia đặt tại miền Bắc Việt Nam để Chính phủ Campuchia chỉ đạo cuộc chiến tranh chống Mỹ và Lonnon ở trong nước. Đối với mạng làn sóng trong nước, ra sức tăng cường bảo vệ và củng cố nhanh nếu bị máy bay Mỹ oanh tạc bắn phá các đài trọng điểm như Bạch Mai, Mễ Trì, Bà Triệu. Mặt khác, tăng cường các đài dự bị để trong trường hợp cấp bách nhất, sóng phát thanh vẫn liên tục phát sóng truyền tin. Các đài này được phân lẻ các bộ phận để vừa cơ động, vừa tránh sự chú ý của giặc như một bộ phận của đài sơ tán về Quốc Oai, đoàn ca nhạc sơ tán về nông trường Cửu Long… Các đài dự phòng được rải ra ở nhiều địa điểm như Xuân Mai, Chi Nê, Lạng Sơn, Cao Bằng, đã có hiệu quả rất lớn, nhất là năm 1972 khi Mỹ bắn phá miền Bắc ác liệt, đánh sập, phá hủy hoàn toàn đài Bạch Mai, Mễ Trì thì lập tức có các đài dự phòng thay thế.
Được sự giúp đỡ của Chính phủ và nhân dân Trung Quốc, Đài Tiếng nói Việt Nam mượn sóng của Đài Tiếng nói Côn Minh để tiếp sóng. Để đảm bảo chất lượng tín hiệu, đài đã cử cán bộ biên tập, phát thanh vên sang Côn Minh để biên soạn chương trình và phát tại chỗ. Nhờ chuẩn bị tốt mọi mặt từ xây dựng các đài dự phòng và nhờ phát sóng đài Côn Minh cho nên trong mọi hoàn cảnh, tiếng nói của Đảng và Nhà nước vẫn được phát đi. Dưới làn bom đạn Mỹ, tiếng nói đó vẫn đến được với nhân dân cả nước.
Đồng thời với việc giữ làn sóng được phát đi liên tục, trong điều kiện khó khăn về kinh tế, Đảng và Nhà nước vẫn ưu tiên đầu tư trang bị cơ sở vật chất để khôi phục những cơ sở bị phá huỷ. Bộ biên tập còn chủ động gửi cán bộ sang Cu Ba học truyền hình, tự lực xây dựng phòng truyền hình, nắm vững kỹ thuật và cách thức làm truyền hình. Kết quả là đài đã làm được truyền hình phục vụ nhân dân. Sau ngày 30-4-1975, lực lượng cán bộ, kỹ thuật của đài vào tiếp quản Đài Truyền hình Sài Gòn một cách chủ động và sử dụng tốt.
_________
1,2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.414.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.223.
4. Quang Đạm: Một cuộc đời làm báo, in trong sách Thời gian và nhân chứng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t.1, tr. 43.
5. GS. Hà Minh Đức (chủ biên): Thời gian và nhân chứng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, t.2, tr. 346.
6. Xem Hội Nhà báo thành phố Hà Nội: Báo chí Hà Nội - Một chặng đường lịch sử 1954 – 1993, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 115 – 116.
7. GS. Hà Minh Đức (chủ biên): Thời gian và nhân chứng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, t.1, tr. 183 - 184.
CHƯƠNG IV
BÁO CHÍ CÁCH MẠNG VIỆT NAM THỜI KỲ 1976 - 1986
I- BÁO CHÍ HOẠT ĐỘNG TRONG ĐIỀU KIỆN MỚI CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Thống nhất hệ thống báo chí cách mạng trên toàn quốc
Cuộc tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 đã xóa bỏ chế độ thuộc địa kiểu mới mà đế quốc Mỹ dựng lên ở miền Nam nước ta, đồng thời quét sạch nền báo chí thực dân mới, công cụ chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ ở Việt Nam. Báo chí giải phóng từ bưng biền đã theo bước chân chiến thắng của bộ đội Cụ Hồ tiến vào thành phố và phát hành công khai giữa các thành phố vừa được giải phóng. Lần đầu tiên, báo chí phản cách mạng đã tàn lụi hoàn toàn, thay vào đó dòng báo chí cách mạng công khai hoạt động. Tuy vậy, cho đến thời điểm thống nhất đất nước, báo chí Việt Nam vẫn còn tồn tại những đặc điểm và hình thức hoạt động riêng của báo chí hai miền trước đây, đòi hỏi phải có sự hợp nhất báo chí trong cả nước.
Trước giải phóng, báo chí miền Bắc vẫn được xuất bản đều đặn dù gặp rất nhiều khó khăn do hậu quả của những cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ. Báo chí được phát triển mở rộng cả về số lượng và chất lượng với các loại hình như báo chí hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng của các cơ quan trung ương và các tỉnh. Đồng thời, báo chí cũng mở rộng vào các lĩnh vực hoạt động khác như báo chính trị - xã hội, báo văn hóa - nghệ thuật, báo khoa học kỹ thuật, báo đối ngoại, báo ngành...
Ở miền Nam, thời kỳ trước giải phóng có một bộ phận báo chí phục vụ âm mưu xâm lược của quân Pháp và quân Mỹ do Việt gian xuất bản và tuyên truyền nhằm chống phá chủ nghĩa cộng sản, nói xấu miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Chúng dùng các khẩu hiệu độc lập dân tộc, dân chủ lừa bịp người đọc. Đó là các tờ Ngôn luận, Trắng đen, Tự do, Cách mạng quốc gia. Về lĩnh vực báo điện tử, ngay từ giữa năm 1966, Mỹ đã cho lập một đài truyền hình phục vụ cho quân đội Mỹ và một đài truyền hình cho chính quyền ngụy. Vấn đề này đặt ra cho báo chí Việt Nam nhiệm vụ là phải chuẩn bị sẵn sàng để khi giải phóng miền Nam có thể điều hành được các đài truyền hình đã có ở phía Nam.
Một dòng báo chí cách mạng phát triển trong thời kỳ này ở miền Nam chính là những tờ báo tuyên truyền tinh thần dân tộc và chống địch được một số nhà báo yêu nước xuất bản. Ở những vùng giải phóng, các khu căn cứ du kích cũng như các vùng địch tạm chiếm, báo chí cách mạng phục vụ cho sự nghiệp giải phóng, thống nhất đất nước cũng xuất hiện và phát triển. Trong những năm 1954 - 1960, Xứ uỷ Nam Bộ bí mật xuất bản tờ báo Hòa bình thống nhất, Cờ giải phóng; ở Sài Gòn thành lập Thông tấn xã giải phóng, đóng căn cứ ở Tây Ninh. Vào năm 1962, Trung ương cục miền Nam Việt Nam thành lập Đài Phát thanh giải phóng, sau đó xuất bản các tờ báo Nhân dân miền Nam, Việt Nam đấu tranh, Tạp chí Tiên phong. Bên cạnh đó còn có hàng loạt các tờ báo của đảng bộ các tỉnh và các tổ chức phục vụ cho việc tuyên truyền, cổ động đường lối cách mạng. Tại căn cứ Tây Bắc ở tỉnh Tây Ninh, các nhà báo yêu nước ở các tỉnh miền Nam và Sài Gòn đã họp Đại hội Báo chí lần thứ nhất và thành lập Hội Nhà báo yêu nước và dân chủ miền Nam. Có thể nói rằng, báo chí ở miền Nam trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước tuy hoạt động trong điều kiện vô cùng khó khăn, gian khổ nhưng đã có những đóng góp tích cực vào công cuộc giải phóng, thống nhất đất nước sau này.
Về tổ chức Hội, ở miền Nam thời kỳ trước giải phóng có Hội Nhà báo dân chủ miền Nam Việt Nam, còn ở miền Bắc có Hội Nhà báo Việt Nam. Đây là hai tổ chức hoạt động ở hai phạm vi khác nhau nhưng thực ra ngay từ đầu những năm ba  mươi, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, báo chí Việt Nam luôn là một nền báo chí thống nhất. Do nhu cầu sách lược nên hình thức, tên gọi và phương thức hoạt động tuỳ lúc, tuỳ nơi có sự khác nhau, song tất cả đều hướng về mục tiêu chung là thực hiện cương lĩnh và đường lối của Đảng. Cả hai hội nhà báo này thực chất đều xuất phát từ một cột nguồn, cùng làm một nhiệm vụ chính trị, cùng hưởng chung một sự chỉ đạo. Vì vậy, việc kịp thời hợp nhất hai hội nhà báo thành một tổ chức thống nhất đã đánh dấu một bước phát triển mới của lịch sử báo chí Việt Nam. Đây là một việc làm cấp thiết, hợp với tự nhiên, lý trí và tình cảm của dân tộc.
Ngày 7-7-1976, tại Hà Nội, đoàn đại biểu Hội Nhà báo Việt Nam do đồng chí Hoàng Tùng, Chủ tịch Hội làm trưởng đoàn và đoàn đại biểu Hội Nhà báo yêu nước và dân chủ miền Nam do đồng chí Tân Đức, Chủ tịch Hội dẫn đầu, đã họp hội nghị bàn việc thống nhất hai tổ chức hội. Trên cơ sở nhất trí hoàn toàn về ý nghĩa trọng đại của việc thống nhất Hội Nhà báo Việt Nam, Hội nghị quyết định: Từ ngày 7-7-1976, Hội Nhà báo Việt Nam và Hội Nhà báo yêu nước và dân chủ miền Nam Việt Nam hợp nhất thành một hội, hoạt động trên phạm vi cả nước, tên gọi thống nhất là Hội Nhà báo Việt Nam. Về nguyên tắc, cơ quan lãnh đạo của Hội từ nay đến đại hội sẽ gồm tất cả những uỷ viên của Ban Chấp hành cũ của hai hội... Hội nghị thống nhất cử đồng chí Hoàng Tùng làm Chủ tịch Hội, các đồng chí Tân Đức, Huỳnh Văn Tiểng làm Phó Chủ tịch. Trong thời gian trước mắt, Ban Thường vụ Hội phải nghiên cứu và đưa ra một hướng dẫn áp dụng điều lệ cho phù hợp với báo chí vùng mới giải phóng.
Kể từ đây mạng lưới thông tin trong cả nước trở thành một hệ thống duy nhất. Bên cạnh việc hợp nhất về mặt tổ chức, một số tờ báo của hai miền cũng được thống nhất như báo Cứu quốc ở miền Bắc và báo Giải phóng ở miền Nam hợp lại thành báo Đại đoàn kết. Tháng 1-1977, Hội Văn nghệ giải phóng miền Nam hợp nhất với Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam, theo đó báo Văn nghệ giải phóng hợp nhất cùng báo Văn nghệ trở thành tuần báo Văn nghệ chung trên cả nước. Tờ Phụ nữ giải phóng trong Nam kết hợp với tờ Phụ nữ Việt Nam ngoài Bắc lấy tên là tờ Phụ nữ Việt Nam. Báo Lao động giúp cho Liên hiệp Công đoàn Việt Nam xây dựng tờ báo của riêng mình.
Ngày 8-4-1975, số ra mắt tờ Lao động được coi như ấn phẩm đặc biệt ở Sài Gòn. Đến khi thống nhất công đoàn cả nước, báo Lao động mới sáp nhập vào báo Lao động thành tờ Lao động, cơ quan ngôn luận của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
Mạng lưới báo chí từ đó được phân bổ lại hợp lý hơn cho phù hợp với việc tổ chức lại hệ thống hành chính trong cả nước. Báo chí được phát hành đồng bộ và rộng rãi khắp cả nước. Các tờ Nhân dân, Quân đội nhân dân, Tạp chí Lý luận của Đảng cũng như tạp chí Lý luận của quân đội được phát hành đến các tỉnh phía nam. Kể từ tháng 1-1976, tạp chí Học tập được in tại thành phố Hồ Chí Minh với một số lượng nhất định và đến tay bạn đọc chỉ sau một đến hai ngày khi số tạp chí ấy được phát hành ở miền Bắc.
Từ ngày 20-4-1976, báo Nhân dân bắt đầu được in và phát hành rộng rãi ở thành phố Hồ Chí Minh. Ngay từ cuối tháng 8-1975, báo Nhân dân đã lập một bộ phận thường trực ở miền Nam. Đầu tháng 12-1975, Ban Bí thư chỉ thị báo Nhân dân phải xuất bản ở Sài Gòn cùng ngày với Hà Nội trước ngày Tổng tuyển cử bầu cử Quốc hội thống nhất cả nước. Báo Nhân dân đã kết hợp với Thông tấn xã Việt Nam và Tổng cục Bưu điện, sử dụng những thiết bị máy móc sẵn có trong nước lập được cơ sở truyền báo Nhân dân bằng fax ở Hà Nội và Sài Gòn. Báo còn xây dựng được nhà in của báo Nhân dân tại Sài Gòn. Ngày 20-4-1976, báo Nhân dân in và phát hành tại thành phố Hồ Chí Minh cùng lúc và cùng ngày với Hà Nội. ''Trong những ngày này, hàng nghìn sinh viên, học sinh do Thành đoàn thanh niên thành phố Hồ Chí Minh tổ chức, xuống đường phát hành tờ báo của Trung ương Đảng. Hàng vạn tờ áp phích quảng cáo báo Nhân dân dán khắp thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Nam Bộ. Tin, bài, ảnh của phóng viên thường trú báo Nhân dân tại miền Nam hằng ngày gửi ra Hà Nội bằng fax. Báo Nhân dân trở thành tờ báo đi đầu trong làng báo Việt Nam về kỹ thuật - truyền báo... thắng lợi bước đầu của việc in và phát hành báo Nhân dân tại Sài Gòn cùng ngày với Hà Nội, góp phần tăng cường sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Trung ương Đảng''1. Việc in và phát hành báo chí rộng rãi ở miền Nam tạo điều kiện cho việc tuyên truyền đường lối và chủ trương của Đảng, đồng thời cũng tạo thuận lợi hơn cho nhu cầu đọc báo của người dân.
Từ tháng 1-1977, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IV quyết định đổi tên Tạp chí Học tập thành Tạp chí Cộng sản. Việc lấy tên này phù hợp hơn với tình hình và nhiệm vụ của cách mạng trong thời kỳ mới. Đặc biệt là phù hợp  với việc đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản Việt Nam trong Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ IV. Nhiệm vụ của Tạp chí Cộng sản được Chỉ thị số 32-CT/TW của Bộ Chính trị nêu rõ: Tạp chí Cộng sản phải đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm cơ sở, kết hợp chặt chẽ lý luận Mác - Lênin với thực tiễn cách mạng Việt Nam để tuyên truyền đường lối, chính sách và các quan điểm của Đảng một cách xuất sắc. Tạp chí Cộng sản phải vận dụng lý luận Mác - Lênin, phân tích những chủ trương, chính sách của Đảng, nâng cao nhận thức của cán bộ và đảng viên về tư tưởng, chính sách và quan điểm của Đảng, phê phán những khuyết điểm, sai lầm trong khi thi hành các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
2. Chính sách báo chí và sự phát triển của báo chí
a) Nhiệm vụ của báo chí hoạt động thống nhất trong cả nước
Giai đoạn 1976 - 1986 là thời kỳ đầu tiên báo chí hoạt động thống nhất trên cả nước, vì thế nhiệm vụ đặt ra cho mỗi tờ báo sau khi hợp nhất là sau khi thống nhất hai tờ báo, nhiệm vụ lớn là phải làm sao cho các vấn đề của hai miền được đề cập đến một cách đầy đủ và hợp lý.
Văn kiện Đại hội lần thứ IV Hội Nhà báo Việt Nam đã chỉ rõ: Nếu như trong những năm tháng chống Mỹ, cứu nước chủ đề đặt ra cho báo chí Việt Nam là ''Không có gì quý hơn độc lập, tự do'' thì trong thời điểm này, chủ đề trung tâm được phản ánh là ''Tất cả vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân''. Nhiệm vụ mới được đặt ra cho những người làm báo là phải hăng hái tìm hiểu, học tập tự thu xếp cho mình những hành trang cần thiết để phản ánh những vấn đề của cuộc sống mới.
Tuy nhiên, hai cuộc chiến tranh biên giới xảy ra ngay sau những ngày đầu đất nước thống nhất khiến các lớp thanh niên đầy triển vọng đang xây dựng đất nước lại tiếp tục ra trận, chiến đấu. Trước tình hình đó, các nhà báo lại một lần nữa “khoác ba lô lên vai, đi vào đề tài chiến đấu, cùng với đề tài lao động sản xuất, xây dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa''2.
Trong thời kỳ mới, yêu cầu mới đòi hỏi toàn bộ lĩnh vực thông tin đại chúng phải nâng cao hơn nữa về tính tư tưởng, về chất lượng và hiệu quả. Độc giả của báo chí thời kỳ này đã biến chuyển về chất, trình độ văn hóa đã có nhiều thay đổi, ngày càng có nhiều công chúng có trình độ văn hóa cao hơn, khát khao đi vào các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, kỹ thuật trong đó có các ngành liên quan tới báo chí, sự giao lưu giữa Việt Nam với các nước ngày càng được mở rộng. Điều này đặt ra cho đất nước những thuận lợi và nguy cơ mới. Vì thế, nhiệm vụ đặt ra cho báo chí phải cung cấp cho công chúng lượng thông tin ngày càng lớn, đề cập đến nhiều mặt của cuộc sống, có tính tư tưởng cao, mục đích rõ rệt và hình thức thể hiện hấp dẫn.
Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (1982), Đảng Cộng sản Việt Nam nêu rõ: Nhiệm vụ cụ thể được đặt ra cho báo chí giai đoạn này là, bằng các phương tiện và ngôn ngữ đặc thù của mỗi loại hình, phối hợp với các binh chủng khác trong mặt trận tư tưởng phải trang bị cho nhân dân những dữ kiện cần thiết để có một cái nhìn toàn diện về cục diện của đất nước, khẳng định mạnh mẽ những thắng lợi làm cho mọi người phấn khởi, tự hào đồng thời cũng chỉ rõ những khó khăn, yếu kém, phê phán những quan điểm sai lầm trong sản xuất và đời sống. Báo chí phải tham gia vào cuộc đấu tranh đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, quản lý xã hội, tích cực khắc phục những hành động và định hướng lệch lạc trong khi thực hiện đường lối, chính sách của Đảng. Đồng thời báo chí phải làm cho mọi người thấy rõ kẻ thù cơ bản của nhân dân trong thời kỳ hiện tại là các thế lực phản động quốc tế. Trong đó, nhiệm vụ trực tiếp của báo chí trong thời kỳ là giáo dục, bồi dưỡng phẩm chất cách mạng, xây dựng nền văn hóa mới và con người mới bằng cách xây dựng những nhân tố điển hình tiên tiến trên báo chí trong đó người lao động giỏi là nhân vật trung tâm.
Nhiệm vụ đặt ra với báo chí, không thể dừng lạc ở việc giải thích, phổ cập đường lối, chính sách, mà phải bằng những luận cứ khoa học và sinh động, làm cho mọi người hiểu sâu đường lối, chính sách và góp phần nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn, trước hết là của cán bộ, để thực hiện chương trình kinh tế - xã hội và những mục tiêu do Đại hội lần thứ V của Đảng nêu ra.
Những nhiệm vụ được đặt ra ở trên cho thấy vai trò của báo chí trong thời kỳ này có ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp mới của đất nước. Báo chí từ đó trở thành vũ khí sắc bén của Đảng, Nhà nước để làm công tác tổ chức và công tác tư tưởng, đồng thời báo chí là công cụ để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân nước Việt Nam thống nhất. Cùng với sự chỉ đạo, quản lý, hướng dẫn của Nhà nước, báo chí ngày càng thể hiện rõ hơn ý nghĩa và vai trò đặc biệt của mình trong đời sống xã hội.
b) Chính sách quản lý báo chí
Nhìn chung, báo chí trong thời kỳ này đã làm tốt công tác tư tưởng, công tác quản lý báo chí đã đi vào nền nếp thể hiện rõ sự phát triển của báo chí. Đến thời điểm năm 1984, cả nước có hơn 200 tờ báo, tạp chí xuất bản định kỳ và có hơn 200 tờ thông tin khoa học, kỹ thuật. Thông tấn xã Việt Nam có đủ các phân xã ở các tỉnh, thành phố trong nước và một số cơ sở thường trú ở nước ngoài. Báo chí có nội dung phong phú hơn rất nhiều cả về lượng và chất: xuất bản nhiều loại báo chí về đối nội và đối ngoại; báo chí địa phương và báo chí lực lượng vũ trang có một bước phát triển đáng kể. Lượng thông tin của báo chí được mở rộng, chất lượng từng bước có cải tiến. Báo chí cố gắng bám sát và phục vụ nhiệm vụ chính trị, góp phần tích cực vào công tác tư tưởng, tổ chức của Đảng.
Tuy nhiên, hạn chế của hoạt động báo chí trong thời kỳ này là chưa đáp ứng đầy đủ nhiệm vụ cách mạng và yêu cầu của quần chúng, bộ máy báo chí chưa được kiện toàn. Điều này đã tạo nên những việc làm không đúng của một số tờ báo như một số địa phương hoặc ngành xuất bản báo không theo đúng luật lệ, một số báo ra phụ trương, phụ bản trái với quy định hiện hành, các báo chưa làm đầy đủ việc nộp lưu chiểu và số lượng in... Những biểu hiện đó làm cho công tác quản lý báo chí lỏng lẻo và báo chí chưa đảm nhiệm tốt được nhiệm vụ và trách nhiệm của mình, gây khó khăn cho việc chỉ đạo và thống nhất nội dung chính trị, tư tưởng.
Trước tình hình đó, ngày 10-1-1984, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị sề 32-CT/TW Về tăng cường công tác quản lý báo chí. Ngày 20-6-1984, Ban Chấp hành Trung ương cũng ra Thông tri hướng dẫn việc thi hành Chỉ thị của Ban Bí thư về tăng cường công tác quản lý báo chí. Theo đó, một số hoạt động báo chí được quy định cụ thể để đưa hoạt động báo chí đi vào nền nếp.
Để đảm bảo cho mỗi tờ báo khi xuất bản đều có những chức năng, nhiệm vụ riêng, không dẫm đạp lên địa phận của nhau, bản Chỉ thị quy định những nguyên tắc trong thể thức xuất bản, đình bản và những việc có liên quan đến việc cho ra báo và tạp chí: ''Trong điều kiện về giấy in, cơ sở vật chất, cán bộ cũng như tổ chức phát hành hiện nay chưa thể cho ra thêm nhiều tờ báo mới. Phương hướng chính là nâng cao chất lượng nội dung, cải tiến hình thức các tờ báo, tạp chí, tập san hiện có tuỳ điều kiện mà tăng số lượng in và cải tiến việc phát hành cho đúng đối tượng và kịp thời, không để mất mát, không gây phiền hà cho người đọc, đồng thời tổ chức tốt việc sử dụng báo để nâng cao hiệu quả tuyên truyền''3.
Việc cho ra báo mới được quy định cụ thể, phải được xem xét, cân nhắc và quyết định từng trường hợp thật cần thiết và phù hợp với những quy định đã có. Soát lại những tờ báo, tạp chí đang lưu hành, tờ nào xét thấy cần thiết mà chưa làm đúng thủ tục thì các cơ quan chức năng phải hướng dẫn làm đầy đủ các thủ tục như luật lệ hiện hành, tờ nào xét chưa cần thiết hoặc chức năng, nhiệm vụ trùng hợp với một số tờ báo đã có thì đình bản. Báo chí của lực lượng vũ trang và an ninh, trừ những tờ báo, tập san, bản in lưu hành nội bộ thì không được phát hành ra ngoài cơ quan tổ chức của ngành mình, không được trao đổi với các báo chí lưu hành rộng rãi. Các báo muốn ra thên phụ san, phụ bản phải có kế hoạch và xin phép trước và nội dung của các phụ san phải phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của mình.
Một đặc điểm nổi bật của chính sách quản lý báo chí trong thời kỳ này là việc phân phối giấy in báo cho các tờ báo trên cả nước. Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của báo chí trong thời kỳ này. Quý III hàng năm, Cục Xuất bản và Báo chí tập hợp yêu cầu về giấy của các cơ quan báo chí và đề xuất ý kiến lên Bộ Văn hóa - Thông tin. Căn cứ vào chỉ tiêu giấy do Uỷ ban Kế hoạch nhà nước cấp, Ban Tuyên huấn Trung ương sẽ căn cứ nhiệm vụ chính trị chung và nhiệm vụ của từng địa phương, của các ngành trong từng giai đoạn, từ đó phân phối in cho từng tờ báo cụ thể. Riêng báo Nhân dân do Ban Bí thư quyết định, nhưng cũng tổng hợp xong chỉ tiêu về giấy cho báo chí nói chung. Ngoài chỉ tiêu giấy do Nhà nước phân phối, các báo có thể sử dụng thêm các nguồn giấy từ uỷ ban kế hoạch tỉnh hoặc thành phố cấp trên cơ sở cân đối kế hoạch của địa phương. Giấy từ các ngành và các địa phương nhập khẩu thêm: giấy từ nguồn viện trợ quốc tế mà địa phương được sử dụng. Một quy định được đặt ra là, các báo không được mua đi, bán lại giấy trên thị trường tự do hoặc mua thẳng từ nhà máy giấy với giá cao.
Chỉ thị của Ban Bí thư cũng chỉ rõ, báo chí là vũ khí để làm công tác tư tưởng. Không thể vì thị hiếu của người đọc, lợi ích kinh doanh hay vì một lý do nào khác mà coi nhẹ nhiệm vụ chính trị đó, hoặc làm trái với chức năng, nhiệm vụ đã quy định. Tuyệt đối không được chạy theo khuynh hướng thương mại. Trong hoàn cảnh Nhà nước chưa cung cấp đầy đủ giấy in, các địa phương, các ngành có thể khai thác khả năng về giấy của địa phương hoặc ngành mình để tăng số lượng in...
Sự bao cấp và phân phối báo chí này đã góp phần tạo nên những yếu kém của báo chí trong thời kỳ này. Nhà báo Lan Anh, nguyên Phó Tổng biên tập phụ trách báo Khoa học và đời sống kể lại: ''Trước năm 1983, các báo hầu như được bao cấp, có loại được bao cấp hoàn toàn như Nhân dân, Quân đội nhân dân, Hà Nội mới... Có loại được bao cấp một phần thông qua việc cấp chỉ tiêu giấy in báo hàng năm, đó là báo ngành, đoàn thể như Tiền phong, Phụ nữ, Khoa học và đời sống... nên không có giấy in báo bán tự do. Hàng năm, Bộ Văn hóa - Thông tin phân phối chỉ tiêu giấy in báo cho từng báo với giá cung cấp nên rất rẻ, vì vậy báo giá cũng rẻ. Thật nực cười là xem báo xong đem cân cho đồng nát theo giá giấy cân mà vẫn hòa so với tiền đặt mua báo. Vì vậy, ai chẳng muốn mua báo! Do đó, báo cũng phải phân phối, chỉ những ai đúng đối tượng mới được mua, ai có hóa đơn năm trước mới được mua báo năm sau. Báo in tới mười mấy vạn mà vẫn không đủ bán''4.
Do giấy khan hiếm nên số lượng báo phát hành bị hạn chế. Việc đặt mua báo dài hạn tăng lên và phải được cơ quan phát hành báo chí duyệt, cắt bớt, số bán lẻ chẳng còn bao nhiêu. Sáng sáng, người xếp hàng mua báo ở các quầy bưu điện kéo dài. Hiện tượng mua đi, bán lại tăng giá báo đã xảy ra5.
Trường hợp của Sài Gòn giải phóng cũng là một thí dụ tiêu biểu cho tình trạng bao cấp giấy in. Từ ngày 1-7-1981 để đáp ứng yêu cầu mới về thông tin tuyên truyền, thành uỷ đã quyết định báo Sài Gòn giải phóng chuyển sang xuất bản và phát hành buổi sáng. Đồng thời báo cũng tăng từ 4 trang lên 6 trang. Nhưng những năm sau đó, do kinh tế đất nước gặp khó khăn, nguồn giấy in báo cung cấp không đủ, báo phải trở lại 4 trang. Sau này, để chủ động cho nguồn giấy, báo Sài Gòn giải phóng chủ trương xây dựng một nhà máy giấy cuộn in báo.
Hoạt động phát hành báo chí thời kỳ này bắt đầu được chuyển giao, việc phát hành cho cơ quan bưu điện với điều kiện cơ quan phát hành đảm bảo tờ báo đến đúng đối tượng và không để sụt số lượng so với trước. Chỉ thị 32 nêu rõ: những tờ báo và tạp chí hiện đang do tòa báo tự tổ chức việc phát hành thì cần có kế hoạch từng bước chuyển giao việc phát hành cho bưu điện. Cơ quan bưu điện phải đảm bảo đưa tờ báo đến đúng đối tượng và không để sụt số lượng so với trước. Trường hợp bưu điện chưa đảm nhiệm được thì có thể tạm thời hai bên cùng tổ chức việc phát hành hoặc tòa báo tự phát hành thêm một thời gian nữa. Riêng báo địa phương, ở địa phương nào chỉ phát hành ở địa phương đó, việc bán sang địa phương khác cần được cơ quan cho phép ra báo xem xét với một tỷ lệ nhất định so với tổng số lượng in của tờ báo đó. Vấn đề trao đổi và phát hành báo chí ra nước ngoài thời kỳ này được xác định, chỉ có các báo chí xuất bản ở trung ương mới được phép trao đổi với các cơ quan xuất bản ở nước ngoài và việc phát hành này do Tổng Công ty xuất nhập khẩu sách báo đảm nhiệm. Sự chặt chẽ này, có thể nói, đã phần nào làm hạn chế sự phát triển của báo chí trong thời kỳ này.
Thời điểm này, hầu như chỉ có báo Sài Gòn giải phóng là tự phát hành, các báo khác đều phải giao cho bưu điện. ''Tuy nhiên, báo bị kiện giữ lắm, phải giải quyết mất mấy lần''. Nhà báo Nguyễn Thị Vân Anh, nguyên Phó Tổng biên tập báo Sài Gòn giải phóng đã giải thích: Sở dĩ báo Sài Gòn giải phóng làm như vậy vì lý do: Một là, nếu chúng tôi không quản khâu phát hành mà giao cho bưu điện, hàng ngày báo đến tay bạn đọc chậm, chúng tôi đành bó tay. Mà báo ngày nay là phải có tính chiến đấu, phải nhanh, nhạy, chậm là không tốt cho tờ báo của Đảng. Hơn nữa, báo mất, bạn đọc kêu, chúng tôi không giải quyết được. Như vậy, vừa mất tính thời sự của báo, vừa mất lòng tin của quần chúng và bạn đọc.
Về giá bán báo, Nghị định số 33 ngày 27-2-1984 của Hội đồng Bộ trưởng ban hành điều lệ quản lý giá định rõ, ngoài giá báo Nhân dân Quân đội nhân dân, giá các báo chí khác do Bộ Văn hóa - Thông tin quy định. Thủ tục định giá báo vẫn theo quy định giá từng tờ báo sau khi tham khảo ý kiến của Ban Tuyên huấn Trung ương, Uỷ ban Vật giá nhà nước và ban biên tập của tờ báo. Việc định lại giá, nếu cần thiết cũng chỉ làm nhiều nhất là hai lần trong một năm. Việc định giá bán mỗi tờ báo phải xuất phát từ yêu cầu chính trị đối với tờ báo đó, kết hợp với tính toán giá thành và khả năng tiêu thụ, nhằm tiến tới thực hiện báo lấy thu bù chi. Nói chung, giá báo không nên định thấp hơn giá mua báo cũ, để tránh tình trạng xảy ra những hiện tượng tiêu cực trong việc phát hành. Đối với những tờ báo có nhiều khả năng tiêu thụ (như báo Văn nghệ, báo đặc biệt số Xuân, một số phụ bản biên tập theo chuyên đề thì có thể định giá cao hơn mức giá đối với các báo thông thường một ít.
Công tác quảng cáo của báo chí được quy định: Nội dung chủ yếu của quảng cáo là thông tin kinh tế, mục đích quảng cáo là phục vụ sản xuất và tiêu dùng, khuyến khích, nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến lưu thông, tuyên truyền cho lối sống lành mạnh, phục vụ nhu cầu đời sống vật chất và văn hóa của xã hội. Cần phải ngăn ngừa những lệch lạc có thể xảy ra, như quảng cáo cho hàng xấu, hàng giả, khuyến khích lối sống xa hoa, góp phần làm sống lại những phong tục, tập quán đã lỗi thời.
Những quy định về hoạt động của báo chí có ảnh hưởng đến hoạt động của báo chí, vì thế vấn đề được đặt ra là công tác quản lý báo chí cần phải đi vào nền nếp và phù hợp với những chuyển biến tích cực đang xảy ra trong đời sống kinh tế, xã hội.
Tuy nhiên, việc bao cấp các hoạt động báo chí trong thời kỳ này đã phần nào kìm hãm sự phát triển của báo chí. Hoạt động xuất bản báo chí chủ yếu theo sự phân phối từ trên xuống (thậm chí là phát không) theo cơ chế bao cấp, vì thế kém phát triển và thiếu hiệu quả cả về chất lượng và số lượng.
c) Tình hình phát triển của hệ thống báo chí
Thời kỳ 1976 - 1986, nền báo chí thực dân mới đã thực sự bị xóa bỏ, hệ thống báo chí xã hội chủ nghĩa thống nhất trên cả nước. Ở thành phố Hồ Chí Minh, ngay sau khi đất nước thống nhất đã có 14 tờ báo mới ra đời như Sài Gòn giải phóng, Tuổi trẻ, Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, Khoa học phổ thông...
Đặc biệt do điều kiện cụ thể của đất nước, thời kỳ này còn có một vài tờ báo không thuộc cơ quan đoàn thể nào. Đây là một ngoại lệ cần thiết lúc đó nên những tờ báo này phải tự đặt mình trong quỹ đạo chung của chủ nghĩa xã hội và dưới sự lãnh đạo của Đảng như đồng chí Lưu Quý Kỳ đã chỉ rõ: ''Trên lĩnh vực báo chí, công cụ của nền chuyên chính vô sản, không thể có công tư hợp doanh về quan điểm và tư tưởng''.
10 năm sau ngày thống nhất đất nước, báo chí Việt Nam đã phát triển lớn mạnh không chỉ về số lượng mà còn mở rộng thành một hệ thống đa dạng, phong phú. Với số lượng 186 tờ báo năm 1980, báo chí Việt Nam đã phát triển rộng, gồm các loại: Báo Đảng ở trung ương: 7 tờ, báo Đảng ở địa phương: 40 tờ, báo của các đoàn thể, đảng phái: 16 tờ, báo đối ngoại: 6 tờ, báo của các lực lượng vũ trang: 29 tờ, báo văn hóa nghệ thuật: 10 tờ, báo của các ngành: 77 tờ, báo tư nhân: có 1 tờ là Tia sáng.  Trong số đó, đã có 7 tờ báo xuất bản hàng ngày là: Nhân dân, Quân đội nhân dân, Sài Gòn giải phóng, Hoa văn giải phóng, Hà Nội mới, Tia sáng, Bản tin của Thông tấn xã. Báo xuất bản hàng tuần có 19 tờ, bán nguyệt san có 31 tờ, nguyệt san có 30 tờ, báo phát hành 2 tháng/kỳ có 30 tờ, 3 tháng/kỳ có 22 tờ…
Hệ thống báo điện tử cũng phát triển nhanh chóng trong thời kỳ: Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam phát trên 5 hệ thống với 13 giờ/ngày bằng tiếng Việt, 35 giờ/ngày với 11 ngôn ngữ nước ngoài. Ngoài ra, còn có 40 đài phát thanh của các tỉnh thành, đặc khu phát cả tiếng phổ thông, tiếng dân tộc thiểu số địa phương, 500 đài truyền thanh cấp huyện và 4.000 trạm truyền thanh cơ sở. Truyền hình thời kỳ này tuy đang ở những bước đầu nhưng đã có hệ thống đài vô tuyến truyền hình trung ương, trung tâm nghe nhìn ở trung ương và 8 đài vô tuyến truyền hình ở địa phương.
Để hiểu rõ hơn về tình hình hoạt động của báo chí trong thời kỳ, hãy so sánh những số liệu trong bảng dưới đây:
Bảng thống kê hoạt động của báo chí giai đoạn 1976 - 1986:
Năm
Số lượng
Trung ương
Địa phương
Phát hành
Giấy in
Số báo/người
1975
>130





1976
168
118
50
300 triệu bản
11.000 tấn
6,1 bản
1977
169
118
51
270 triệu bản
9.300 tấn

1978
198
148
50
262 triệu bản
9.000 tấn

1979
200
150
50
214 triệu bản
6.800 tấn

1980
186
136
50
161 triệu bản
5.400 tấn

1983
>200




3,8 bản
1985
>200



6.600 tấn

1986
241


243 triệu bản
6.900 tấn

1996
562


525 triệu bản

6,9 bản

Từ bảng trên, có thể thấy sự phát triển về số lượng của báo chí Việt Nam mà đặc biệt là sự tăng mạnh của báo chí trung ương trong thời kỳ 1976 - 1986. Với số lượng từ hơn 130 tờ báo năm 1975 đã lên tới 241 tờ năm 1986, thể hiện sự tăng trưởng trung bình của báo chí trong một năm là hơn 6 tờ báo. Năm 1980, lượng báo chí giảm đi do có sự thay đổi, sắp xếp lại báo của các lực lượng vũ trang nên một số tạp chí bị đình bản.
Như đã trình bày lượng giấy in báo của các cơ quan báo chí là do Cục Báo chí phân phối cho từng đơn vị. Ba năm đầu của giai đoạn 1976 - 1978, báo chí được bao cấp nên các tờ báo đều có lượng phát hành lớn phục vụ cho nhu cầu của nhân dân. Năm 1976 trung bình một người được hưởng 6,l bản/người gần bằng mức bình quân năm 1996 là 6,9 bản/người. Đặc biệt trong thời kỳ đó, báo Nhân dân đã xuất bản được 30 đến 35 vạn số. Những con số đó đã nói lên phần nào sự tăng trưởng của hoạt động báo chí trong thời kỳ này.
Tuy nhiên, từ cuối năm 1979 đến đầu năm 1980 trở đi, lượng phát hành của các tờ báo bắt đầu giảm đi: Từ 300 triệu bản in năm 1976 xuống còn 214 triệu bản năm 1978 và 161 triệu bản năm 1980. Lý do dẫn đến tình trạng này là lượng giấy cung cấp cho các báo giảm từ 9.300 tấn giấy năm 1976 xuống dần đến 6.800 năm 1979 và 5.400 năm 1980. Như vậy, lượng giấy Nhà nước phân phối giảm đi gần một nửa so với thời kỳ trước, vì thế báo chí thời kỳ này chỉ đáp ứng được khoảng từ 30% đến 50% yêu cầu của độc giả. Đến năm 1983, các báo bắt đầu thấy chóng mặt vì sóng gió của thị trường: do số lượng báo chí xuất bản ngày càng nhiều, trong khi đó, lượng ngân sách có hạn nên mức độ bao cấp giấy giảm đi kéo theo giá giấy ngày càng tăng.
Điều đó đã dẫn đến sự khủng hoảng của các tờ báo, ''do báo đặt mua qua bưu điện theo quý nên giá báo chỉ được phép thay đổi vào đầu quý. Trong khi đó, giá giấy và công in lại tăng liên tục. Vì vậy, có lúc giá thành của báo lại cao hơn giá bán! Thế là các tòa soạn bị lỗ, càng in nhiều càng lỗ nhiều. Tình trạng đó dẫn đến một bệnh dịch của làng báo là gộp số mà không tăng trang. Nghĩa là trên tờ báo ghi là gộp 2 - 3 số nhưng số trang vẫn chỉ là của một số báo''. Những ảnh hưởng trực tiếp kéo theo hoạt động của báo chí đến giai đoạn sau. Cuối năm 1988, giá báo Khoa học và đời sống là 80 đồng/tờ, sang quý I năm 1989 tăng lên 130 đồng/tờ; đến quý II là 200 đồng/tờ. Chỉ trong vòng 3 năm, từ năm 1987 đến năm 1989 giá báo đã tăng từ 2 đồng lên 200 đồng/tờ, như vậy là tăng 100 lần.
Trong cái khó, ló cái khôn. Sự khó khăn đã khiến cho một số báo tìm ra cách làm mới phù hợp với thời cuộc, đồng thời thoát khỏi việc phải đóng cửa tờ báo. Đây cũng là bước phát triển bước đầu của loại hình báo chí chuyên biệt. Các báo bắt đầu ra phụ san với những chuyên đề khác nhau, bán với số lượng cao để bù lỗ cho báo. Một trong những tờ báo mở đầu là báo “Phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh'' và báo “Khoa học và đời sống”. Báo Khoa học và đời sống xuất bản phụ san theo khuôn khổ tạp chí, nhỏ bằng nửa tờ báo. Phụ san in từ 6 đến l0 vạn bản mà không đủ phân phối cho các Đại lý. Với phụ san “Hỏi đáp khoa học'' thấy nhu cầu lớn, tòa soạn đã tái bản lần thứ hai 10 vạn bản nữa. Tất nhiên, phụ san bán với giá cao nên thu lãi nhiều. Những thành công trong việc ra phụ san của những tờ báo mở đầu đã có nhiều báo học tập để cải thiện đời sống của mình.
Cùng với công tác cải tiến nâng cao chất lượng nội dung thông tin và hình thức của tờ báo, từ cuối năm 1977, Sài Gòn giải phóng còn tăng thêm ấn phẩm để đáp ứng yêu cầu mở rộng thông tin của bạn đọc. Ấn phẩm “Hóa đơn giải phóng'' của Sài Gòn giải phóng được xuất bản đều đặn hàng ngày đã thu hút số lượng người đọc báo ngày càng đông. Một bước đột phá góp phần vào sự thành công trong hoạt động của báo Sài Gòn giải phóng là việc đăng quảng cáo thông tin kinh tế trên báo (thời kỳ bao cấp, chuyện đăng quảng cáo chưa phổ biến). Từ năm 1980, báo đã mở mục thông tin kinh tế với nội dung gồm giới thiệu sản phẩm mới, mặt hàng mới, những mặt hàng cần trao đổi..., tiếp đến là các mục quảng cáo, rao vặt. Ban đầu, diện tích của những mục này chỉ có l/3 trang và từ khi diện tích quảng cáo tăng lên hơn 2/3 trang thì quảng cáo trên báo Sài Gòn giải phóng trở thành một ''kênh'' riêng như Phụ trương của Sài Gòn giải phóng.
Tuy nhiên, khi những sai lầm, khuyết điểm trong đường lối kinh tế, quản lý xã hội bắt đầu lộ rõ những yếu kém của cơ chế quan liêu, bao cấp (khoảng từ đầu năm 1980) thì cũng là lúc báo chí lâm vào căn bệnh sáo mòn, khô khan. Chất lượng giảm, giá bán báo tăng, nên báo chí trong những năm này không đáp ứng được yêu cầu của nhân dân, đồng thời làm giảm uy tín của các tờ báo. Trong cuốn sách 70 năm báo Lao động đã chỉ rõ: ''Đầu tiên là sự phai nhạt tình cảm của bạn đọc miền Nam sau những vồ vập ban đầu. Bạn đọc chê báo khô khan, nhất là thiếu thông tin, tin không mới, một chiều, thiếu khách quan. Các phóng sự viết theo yêu cầu minh họa cho chủ đề có sẵn, ít có  những nhận xét sắc sảo, ít tư liệu bổ sung kiến thức cho người đọc… Hậu quả của tình hình trên là lượng phát hành giảm sút nghiêm trọng, ngay cả trên các tỉnh miền Bắc. Tổng số phát hành trong cả nước từ khoảng 60.000 đến 70.000 bản mỗi số xuống còn 20.000 đến 30.000 bản''6.
Trước tình hình mới, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã có Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 24-2-1981 về cải tiến công tác thông tin, báo chí - xuất bản, trong đó đề cập tới báo cần chú ý đăng những kinh nghiệm công tác thực tiễn, nhất là về mặt kinh tế và cải tạo xã hội để phổ biến kịp thời cho các nơi. Biểu dương người tốt việc tốt, nêu cao ưu điểm, thuận lợi, đồng thời phê phán những hiện tượng không lành mạnh, nói rõ khó khăn, thiếu sót và biện pháp khắc phục, không nói một chiều... Để tránh căn bệnh sáo mòn của báo chí, ngày 20-5-1981, Ban Chấp hành Trung ương ra Thông tri hướng dẫn việc giảm bớt tin tức có tính lễ tân. Theo đó, các cơ quan thông tin báo chí đều phải thực hiện việc giảm bớt, rút ngắn thông tin về các cuộc mít tinh, chiêu đãi, đón tiếp, viếng thăm xã giao,... để tăng thêm số lượng thông tin về sản xuất, quản lý kinh tế, quản lý xã hội và giải quyết những vấn đề đời sống của nhân dân.
Qua những số liệu được phân tích trên, có thể nhận xét hoạt động của báo chí Việt Nam trong thời kỳ này đã có sự phát triển hơn về số lượng, đồng thời cũng phong phú đa dạng về loại hình. Tuy nhiên, hoạt động của hệ thống báo chí trong thời kỳ này còn hạn chế. Hệ thống báo chí trong thời kỳ này còn mỏng, chưa có nhiều thay đổi so với thời kỳ trước, ít các loại báo chuyên biệt và chủ yếu là các loại báo đảng bộ phục vụ cho công tác tuyên truyền của Đảng. Sự bao cấp báo chí đã làm hạn chế sự phát triển của báo chí. Báo chí chủ yếu phát hành dựa vào các tổ chức. Vì thiếu sự quan tâm, đầu tư đến hiệu quả kinh tế nên hình thức, nội dung của mỗi tờ báo còn nhiều hạn chế. Những vấn đề đó làm cho báo chí trong thời kỳ này hoạt động không hiệu quả, vì thế đòi hỏi báo chí phải có một sự đổi mới thật sự từ phong cách đến nội dung của mỗi tờ báo.
d) Hoạt động của báo chí địa phương
Nằm trong hoạt động chung của báo chí, báo chí địa phương trong thời kỳ này cũng phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng. Đến năm 1986 đã có hơn 50 tờ báo của các địa phương quản lý, bao gồm báo ngành và báo đoàn thể. Trong đó, thành phố Hồ Chí Minh có 14 tờ báo, gồm: Công nhân giải phóng, Tuổi trẻ thành phố Hồ Chí Minh, Khăn quàng đỏ, Giác ngộ... Báo chí Hà Nội thời kỳ này, ngoài Hà Nội mới, Đài Phát thanh và truyền hình Hà Nội, Màn ảnh Hà Nội và các bản tin của ngành Văn hóa - Thông tin còn có thêm các tờ An ninh Thủ đô, Chiến sĩ Thủ đô, Tuổi trẻ Thủ đô, Người Hà Nội...
Hệ thống các đài truyền thanh, truyền hình địa phương cũng bắt đầu tăng mạnh trên cả nước. Đến năm 1985, ngoài Đài Truyền hình Trung ương, cả nước đã có thêm 8 đài truyền hình ở các địa phương: Nghệ Tĩnh, Bình Trị Thiên, Quảng Nam - Đà Nẵng, Nghĩa Bình, Phú Khánh, thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Vũng Tàu - Côn Đảo.
Trước yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ cách mạng và đòi hỏi của đông đảo công chúng, công tác báo chí ở địa phương cần phải kịp thời cải tiến, nâng cao chất lượng nội dung tuyên truyền, nghiệp vụ để đáp ứng được những yêu cầu trong hoàn cảnh mới. Nhằm thống nhất và ổn định tổ chức của các báo đài địa phương trong thời kỳ này, ngày 15-10-1985, Ban Tuyên huấn Trung ương ra Chỉ thị về ''Quy chế tổ chức báo chí địa phương”. Theo đó, nhiệm vụ của các báo, đài của tỉnh, thành phố được đề cập cụ thể như sau: ''Tất cả các báo, đài của tỉnh, thành phố có nhiệm vụ chủ yếu tuyên truyền các vấn đề của địa phương và phát hành trong phạm vi địa phương, không đề cập đến các vấn đề và các đối tượng các tỉnh, thành phố khác. Báo đài địa phương dành một phần nhất định để tuyên truyền giáo dục về các sự kiện chính trị quan trọng trong nước và thời sự quốc tế (theo sự chỉ đạo của Ban Tuyên huấn Trung ương và thông tin phổ biến của Thông tấn xã Việt Nam) nhưng không có nhiệm vụ bình luận các vấn đề quốc tế có quan hệ đến chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước''.
Công tác quản lý báo chí địa phương từ đó cũng được quy định: ''Mỗi tỉnh thành phố (trực thuộc trung ương) có một tờ báo của đảng bộ, một đài phát thanh trực thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố và thuộc sự chỉ đạo ngành dọc của Uỷ ban Phát thanh truyền hình trung ương. Ngoài các tờ báo Đảng, các cơ quan, đoàn thể cấp tỉnh, thành phố không được ra tờ báo riêng. Báo Đảng sẽ đảm nhiệm việc tuyên truyền cho các ngành, các giới của địa phương''7.
Có thể nói, báo chí địa phương trong thời kỳ này đã chung sức cùng với các loại hình báo chí Việt Nam trải qua những khó khăn do sự khủng hoảng kinh tế của đất nước, cố gắng vươn lên, đóng vai trò xung kích trong mặt trận tư tưởng, phục vụ chủ trương đổi mới đất nước, xóa bỏ cơ chế quan liêu, bao cấp, nâng cao mức sống của người dân. Nằm trong hoạt động của hệ thống báo chí Việt Nam, trong thời kỳ này, báo chí của các địa phương nói chung cũng không thoát khỏi những khó khăn và hạn chế chung. Vì thế, cùng với yêu cầu phải đổi mới hoạt động báo chí, báo chí địa phương cũng phải chuẩn bị cho sự đổi mới riêng của mình.
3. Vai trò của báo chí trong công cuộc xây dựng đất nước
Giai đoạn lịch sử mới đã mở ra cho báo chí Việt Nam những điều kiện và nhiệm vụ mới. Từ đó, nội dung phản ánh trên báo chí thời kỳ này cũng có những thay đổi. Nếu như trong giai đoạn trước, chủ đề trung tâm của báo chí Việt Nam là ''Tất cả vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân” thì nay là:
a) Củng cố tình cảm thống nhất đất nước
Phản ánh thắng lợi của đại thắng mùa Xuân năm 1975, báo chí Việt Nam đã tận đụng triệt để ưu thế của mình để tuyên truyền và cổ vũ khí thế hào hùng của dân tộc. Trên các trang báo sau ngày thống nhất đất nước đã xuất hiện thường xuyên các mục tuyên truyền và giải thích ý nghĩa của cuộc thắng lợi chống Mỹ, cứu nước. ''Trong bốn nghìn năm lịch sử, không có xuân nào vui bằng xuân 1976 này. Dân tộc ta vừa đánh thắng một tên đế quốc mạnh nhất thế giới, đất nước ta vừa làm nên một bản anh hùng ca của thời đại. Nhân dân ta vừa giành lại được hòa bình, độc lập và thống nhất trọn vẹn, Bắc Nam sum họp một nhà, mở ra giai đoạn cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội''8.
Các trang báo, các chương trình phát thanh truyền hình trong thời kỳ này có dịp kể lại những trận đánh hào hùng, những giai đoạn phát triển của cuộc đại chiến mùa Xuân đầy ý nghĩa. Từ ngày l-4-1976 đến ngày 23-5-1976, trên báo Nhân dân có đăng loạt bài nhiều kỳ của Đại tướng Văn Tiến Dũng, người trực tiếp tham gia chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh, kể chuyện về những ngày chiến đấu cuối cùng giải phóng miền Nam. Loạt bài này cung cấp lượng thông tin hấp dẫn cho bạn đọc trong cả nước, đồng thời cũng mở ra cho người đọc cái nhìn chiến lược về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vừa qua. Báo Sài Gòn giải phóng từ số 212 (ngày 8-1-1976) cũng đưa tin về những chiến công oanh liệt của binh chủng không quân vận tải vào những giờ phút lịch sử của Chiến dịch Hồ Chí Minh: ''30 năm qua, quân đội và nhân dân ta đã tiến những bước dài. Từ những chiến sĩ quân giải phóng đi chân đất băng rừng vượt suối tiếp tế cho đơn vị tiến công đồn bốt phát xít Nhật, những đoàn xe đạp thồ tải đạn lên mặt trận Điện Biên Phủ đến những phi đoàn máy bay vận tải cất cánh từ Hà Nội tham gia cuộc tổng tiến công giải phóng Sài Gòn... cách mạng lớn lên và chiến thắng để lại cho lịch sử những chuyện thần kỳ''.
Một loạt bài viết của báo chí trong thời kỳ này đã đề cập tới những đơn vị anh hùng, những chiến sĩ anh hùng trong cuộc chiến tranh như: “Một thắng ba trăm'' viết về trận đánh cuối cùng của Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, liệt sĩ Trần Kiệt; ''Từ đường dây chiến thắng đến đường dây thống nhất'' viết về trung đoàn 132 thông tin9. Báo chí cũng trở thành cầu nối thông tin cho bạn đọc về nghệ thuật sử dụng lực lượng, chỉ đạo chiến lược tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như những tư liệu quý về các phương pháp chiến đấu của các binh chủng quân đội, của quân dân du kích mà trước đây chưa có điều kiện công bố. Dưới những thể loại hồi ký, điều tra, hay là những câu chuyện lịch sử, báo chí đã tạo dựng lại được một bức tranh toàn cảnh về sự chiến đấu, hy sinh anh dũng của nhân dân Việt Nam để giành lại cho được độc lập, tự do. Hàng loạt bài báo của báo chí nước ngoài nói về ý nghĩa cuộc đại thắng của dân tộc Việt Nam cũng được báo chí Việt Nam đăng tải. Điều này góp phần khẳng định ý nghĩa to lớn của công cuộc giải phóng thống nhất đất nước và vị trí của Việt Nam trên trường thế giới. Các báo, đài trong thời kỳ này bên cạnh ý nghĩa của chiến thắng vĩ đại của dân tộc đã không ngừng ca ngợi và khẳng định ý nghĩa, vai trò to lớn của sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.
Có thể nói, một mảng màu tươi sáng trong bức tranh báo chí Việt Nam giai đoạn 1976 - 1986 là những trang viết, những chương trình phát thanh truyền hình ôn lại thắng lợi của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, về ý nghĩa to lớn và về lòng tin đối với đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Những mảng màu đó đã phần nào tái hiện được không khí hào hùng, niềm vui chiến thắng, và cả những niềm tin về một tương lai tươi sáng và tốt đẹp của người dân Việt Nam.
b) Vận động xây dựng chủ nghĩa xã hội
Nhiệm vụ đặt ra cho báo chí trong thời kỳ này ngoài việc tuyên truyền cho thắng lợi của cuộc chiến tranh giải phóng đất nước còn phải cổ vũ cho công cuộc thống nhất đất nước. Cuộc bầu cử Quốc hội chung trong cả nước đã trở thành ''ngày hội hoàn thành trọn vẹn sự nghiệp thống nhất nước nhà''. Vì thế, báo chí đã tưng bừng tuyên truyền cho ý nghĩa to lớn của ngày hội toàn dân này: ''Đây là ngày hội của lịch sử của non sông đất nước ta, ngày hội thống nhất sơn hà, ngày hội chói sáng tinh thần, nghị lực và ý chí cách mạng của dân tộc ta... Cuộc tổng tuyển cử này cũng khẳng định chân lý: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn song chân lý ấy không bao giờ thay đổi''. Nhân dân ta đã đập tan mọi âm mưu chia cắt, hoàn thành trọn vẹn sự nghiệp thống nhất thiêng liêng của nước Việt Nam ta10. Báo chí đã gợi lên được không khí háo hức, vui mừng của người dân trên cả nước, đặc biệt những người dân Sài Gòn trong ngày hội bầu cử: ''Những nơi niêm yết danh sách cử tri đều được trang trí cờ, biểu ngữ, và khẩu hiệu nền đỏ, chữ vàng trang trọng, khiến mỗi cử tri đến dò tìm tên mình trên danh sách đều cảm thấy tự hào là công dân của Tổ quốc thống nhất và chế độ mới”11. Khắp mọi miền của đất nước đều được tái hiện lại bức tranh tươi mới của ngày vui thống nhất đất nước của người dân Việt Nam: ''Những cuộc thông xe cuối cùng đã kết thúc. Dù nắng hay mưa, đoạn đường nào những ngày ấy đều có cờ đỏ và lòng ai cũng lồng lộng những suy nghĩ tốt lành; tiếng cười vui gần muốn biến thành nức nở; người già và con trẻ trên mọi miền đất nước đã tranh nhau nâng niu từng đầu máy, toa xe... với tuyến đường Thống Nhất, toàn dân ta đều có chung một động thái thống nhất, suốt từ khi mới nghĩ về nó cho tới khi nó đã hoàn thành''12.
Trong khi tiếp quản và xây dựng các vùng đất mới, vấn đề đặt ra cho các tờ báo phải vừa đồng thời đấu tranh những lại những luận điệu phản động còn sót lại. Báo chí Việt Nam đặc biệt 1à báo chí Sài Gòn trong thời kỳ này đã góp sức mình vào nhiệm vụ xóa bỏ những tàn dư cũ bằng cách phản ánh một cách chân thực những tệ nạn xã hội còn sót lại của bọn phản động. Đồng thời, báo chí phân tích những hành động đó để cho nhân dân thấy rõ bản chất của chúng: ''Bọn phản động cách mạng ở nhà thờ Vinh Sơn là những bọn nào? Đó là những tên sĩ quan ngụy không chịu ra nộp súng và đăng ký trình diện, vẫn ngoan cố chống lại chính quyền cách mạng. Đó là những tên đội lốt Thiên chúa giáo, lợi dụng nhà thờ để hoạt động chống phá cách mạng, chống phá nhân dân. Chúng tung ra những tin đồn nhảm, đặc biệt đã in giấy bạc giả, tung ra thị trường phá hoại nền kinh tế tài chính của đất nước, phối hợp với bọn đầu cơ làm cho vật giá tăng vọt, trực tiếp ăn cướp của nhân dân ta, nuôi dưỡng những tên phản loạn, mua chuộc cám dỗ một số người đi vào con đường tội lỗi''13.
Xã luận trên báo chí một lần nữa tập trung vào đề tài tuyên truyền cho khối đại đoàn kết Bắc Nam, cho những cảnh đoàn tụ gia đình của nhân dân sau ngày giải phóng. Những bài báo đó đã góp phần phục vụ tốt công tác tuyên truyền của báo chí theo định hướng của Đảng. Báo chí trong các tỉnh miền Nam cũng không ngừng phổ biến cho đường lối của Đảng, Nhà nước và chủ động lựa chọn con đường đi cho bản thân mình dưới sự định hướng chung. Báo Sài Gòn giải phóng đã đi đầu trong công tác này với loại bài như: ''Cục diện mới ở thành phố chúng ta'', “Chung sức đắp xây Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Việt Nam đời đời cường thịnh''…
Song song với việc bài trừ các tệ nạn báo chí Việt Nam tuyên truyền cho những hình thức sinh hoạt văn hóa lành mạnh và bổ ích, đáp ứng được nhu cầu giải trí, văn hóa văn nghệ cho nhân dân: “Gần như đã thành thường lệ, vào giờ nghỉ công nhân được nghe đài truyền thanh nhà máy kết hợp giới thiệu nội dung tóm tắt các quyển sách cần đọc. Những sự kiện lịch sử như các ngày lễ lớn, Đại hội toàn quốc của Đảng, Đại hội Đảng bộ thành phố, tên các quyển sách nói về Đảng còn được viết lên bảng để công nhân tìm đọc''14. Các chuyên mục của báo chí cũng xuất hiện các chuyên mục, vụ việc tuyên truyền về những giá trị văn hóa – xã hội gắn liền với sự phát triển của đời sống.
c) Xây dựng kinh tế trong thời kỳ mới
Cùng vời các chủ đề đã được phản ánh trong thời kỳ này, báo chí đã tập trung sức cổ vũ chiến đấu của mình vào phong trào khôi phục kinh tế. Đại hội lần thứ IV của Đảng (1976) đề ra đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa của nước ta. Đây là những vấn đề có tính nguyên tắc lớn như vai trò làm chủ tập thể của nhân dân, sự kết hợp chặt chẽ ba cuộc cách mạng... đã đưa ra thảo luận và trở thành chủ đề chính của báo chí thời kỳ này.
Báo chí đã phản ánh không khí lao động sôi nổi của nhân dân trong việc khôi phục lại các tuyến đường sắt, đường bộ, đường biển, các khu công nghiệp, chỉnh trang lại các thành phố, thị xã mới giải phóng, đồng thời cũng duy trì và phát triển các cơ sở sản xuất, kinh doanh, truyền bá những chủ trương, chính sách kinh tế. Những bài báo vừa gợi lên không khí xây dựng mới, vừa đưa ra những phương hướng, chủ trương nhiệm vụ mới của phong trào xây dựng kinh tế. ''Dấy lên một cao trào lao động trong cả nước nhằm thực hiện tốt kế hoạch nhà nước, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội và đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và công nghiệp là nhiệm vụ trung tâm của cách mạng trong cả nước… Xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp chung của mấy chục triệu nhân dân ta. Phong trào lao động sản xuất sẽ có một khí thế mới, một sức mạnh mới khi nào hàng chục triệu người lao động chân tay và trí óc thật sự tham gia vào công cuộc đẩy mạnh sản xuất, xây dựng chủ nghĩa xã hội''15.
Trong điều kiện xây dựng kinh tế đất nước thời kỳ này, khẩu hiệu ''Tất cả cho sản xuất, tất cả cho chủ nghĩa xã hội'' đã trở thành dòng tít lớn của nhiều tờ báo. Báo chí không ngừng cổ vũ cho những người công nhân, nông dân, những tầng lớp trí thức và cả những con người tình nguyện đi xây dựng các vùng kinh tế mới: ''Giờ đây, trước mắt giai cấp công nhân và nhân dân là cuộc chiến đấu mới không kém gian khổ để quyết định ''ai thắng ai'' giữa ''hai con đường''. Nền sản xuất nhỏ nghèo nàn, lạc hậu là một thách thức lớn đối với chúng ta. Hậu quả của chủ nghĩa thực dân mới thật là nghiêm trọng đòi hỏi sự nỗ lực phi thường của chúng ta để thanh toán. Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội yêu cầu chúng ta phát huy trí tuệ và sức mạnh để gánh vác''16.
Năm 1980, có nhiều chuyển biến tích cực trong việc điều hành nền kinh tế. Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị đã đề ra phương pháp mới, phương châm mới và chính sách mới soi sáng việc giải quyết hàng loạt vấn đề đang bế tắc ở hầu khắp mọi nơi. Nhiều hợp tác nông nghiệp, thủ công nghiệp, nhiều cơ sở công nghiệp và cơ sở kinh tế nói chung đạt được kết quả tốt về tăng năng suất lao động, hạ giá thành, làm thêm sản phẩm, vừa đảm bảo lợi ích của người lao động, vừa làm lợi một cách thiết thực cho Nhà nước và cho tập thể. Báo chí tập trung tuyên truyền những đơn vị đó, đồng thời bắt đầu đi sâu vào cuộc sống, phát hiện những điển hình và những nhân tố mới có tính đột phá để mở rộng thành phong trào của quần chúng. Thời gian này, đã có nhiều địa phương, nhiều xí nghiệp tự tìm tòi, thử nghiệm, có nơi đã tự phát ''phá rào'' để tháo gỡ khó khăn trong sản xuất và đời sống. Trên Tạp chí Cộng sản có một số bài báo kinh tế đã đoạt giải của Hội Nhà báo Việt Nam như xã luận “Phát triển nông nghiệp, nhiệm vụ hàng đầu hiện nay”, “Bài học Quỳnh Lưu”, “Khoán mầu ở Vĩnh Phú”…
Để góp phần giải quyết hàng loạt những vấn đề mâu thuẫn và vướng mắc trong điều hành kinh tế đất nước, báo chí không ngừng tìm tòi, nghiên cứu những cơ chế quản lý mới, đồng thời nêu lên những hạn chế của hình thức kinh tế hiện tại. Những năm 1979 - 1980, tình trạng thiếu lương thực, thực phẩm kéo dài đã dẫn đến nạn đói xảy ra vào năm 1979. Một vấn đề được mở ra trên báo chí trong thời kỳ này là “Làm gì để giải quyết vấn đề ăn của xã hội?”. Hàng loạt bài báo đi vào phân tích những vấn đề liên quan đến bữa ăn của người dân. Một hoạt động rất thiết thực của báo Nhân dân trong thời kỳ này là đã tổ chức cuộc hội thảo ở Côn Sơn về vấn đề ăn của xã hội, với những bài tham luận như: Vấn đề số dân và lương thực, thực phẩm ở nước ta; Đề nghị một số chủ trương, chính sách; Cá nước ngọt ở Hà Nội...
Những bài tham gia hội thảo đã trở thành một diễn đàn trên báo. Sau khi cuộc hội thảo kết thúc, báo Nhân dân đi tới kết luận: Phải đưa nông thôn lên sản xuất lớn, đưa các hợp tác xã lên quy mô lớn, đưa máy móc cơ khí to về hợp tác xã là chưa thích hợp, nên cho làm thử khoán sản phẩm cây lúa tới đơn vị, cá nhân và gia đình. Từ những yêu cầu đặt ra trên báo chí, từ tháng 10-1981, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị 100 với chủ trương khoán sản phẩm đến nhóm người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp và sau đó là ''Khoán tới các hộ xã viên”. Từ những phương hướng này, trên khắp các loại hình báo chí trong cả nước đã mở rộng việc tuyên truyền khoán sản phẩm, hoàn chỉnh khoán, đấu tranh với những quan điểm muốn xóa bỏ hình thức khoán sản phẩm trong nông nghiệp.
d) Bước đầu đề cập tới cụm từ “Đổi mới''
Bắt đầu từ những năm 1980, nền kinh tế Việt Nam xuất hiện những biểu hiện của cuộc khủng hoảng kinh tế. Chế độ quản lý tập trung quan liêu bao cấp đã bộc lộ những hạn chế rất lớn của mình, xã hội bắt đầu xuất hiện những hiện tượng tiêu cực ảnh hưởng lớn đến đời sống của người dân. Trên báo chí dần có những bài điều tra kinh tế nêu lên những hiện tượng tiêu cực trong đời sống xã hội. ''Những bài chống tiêu cực đầu tiên đăng trên báo Lao động xuất hiện vào tháng 6-1986, một thời điểm có ý nghĩa trước khi tiến hành Đại hội VI của Đảng... Chính trong bối cảnh đó, các bài điều tra đã xuất hiện đều tập trung vạch rõ những bất hợp lý của chế độ ''Đặc quyền, đặc lợi'' mà một số cán bộ có chức đã mắc phải''17.
Mở đầu là những bài như “Nhà khách Bộ Giao thông biến đi đâu” (ngày 21-8-1986), ''Tòa nhà cao tầng đó xây cho ai”, “Mắc tội tham ô, trù dập người ngay vẫn được bầu vào Đảng uỷ''18, báo Lao động đã cùng các tờ báo khác sử dụng thành công thể loại bài điều tra trong việc xây dựng lên những tác phẩm có tính chiến đấu cao và trở thành lực lượng tiên phong trong công cuộc chống tập trung quan liêu bao cấp của đất nước. Hàng loạt bài điều tra được đăng tải trên các báo thời kỳ đó hầu hết đều được đi thẳng từ những phát hiện của quần chúng: ''Theo bạn đọc thì ông đã móc một số nguyên vật liệu ở kho H và hơn một ngàn tấn tôn loại có bề dày 1,2 - 1,5 mm, bạn đọc còn cho biết rõ một xe ô tô đã chở số tôn này về cho ông''19.
Lần đầu tiên báo chí đề cập mạnh dạn đến cụm từ đổi mới kinh tế đất nước. Như đã nói ở trên, những hạn tiêu cực của cơ chế quản lý quan liêu bao cấp đã ngày càng bộc lộ rõ rệt. Vì thế, báo chí mở ra hàng loạt trang bài với những dòng tít lớn: “Xóa bỏ cơ chế quan liêu bao cấp, chuyển hẳn sang hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa”. Tiêu chí được đặt ra là ''Chống tập trung quan liêu bao cấp là cuộc đấu tranh vô cùng gian khổ giữa cái mới và cái cũ, giữa tính năng động của yêu cầu đổi mới và tư tưởng bảo thủ, sức ì của những thói quen, giữa yêu cầu cấp thiết lập quyền làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa thật sự của đoàn thể nhân dân lao động với chủ nghĩa cá nhân trong một số người nhân danh bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa để cố bám giữ đặc quyền, đặc lợi''20.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khóa V, báo chí Việt Nam đặc biệt là báo Nhân dân đã tăng liên tục loạt bài về đổi mới tư duy kinh tế, nhân tố quan trọng đầu tiên để đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Đây cũng là lần đầu tiên mà khái niệm ''Đổi mới tư duy kinh tế'' được đưa lên mặt báo. Những bài báo đó đã uốn nắn một số nhận thức không đúng trong Đảng, trong dân về chủ nghĩa xã hội, về vai trò của kinh tế thị trường, thương nghiệp, tài chính, ngân hàng, về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế, mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và ổn định xã hội và chức năng quản lý của nhà nước.
Từ những kinh nghiệm quản lý kinh tế ở một số cơ sở, địa phương..., trên các báo chí đã có nhiều bài điều tra, phóng sự, tranh luận về những vấn đề của đất nước như: trả lương bằng tiền, bù giá vào lương, xóa bỏ tem phiếu, bán lẻ theo một giá làm cho người tiêu dùng có sự lựa chọn tự do mặt hàng và nơi mua hàng: “Trong việc cải tiến quản lý kinh tế, quản lý xí nghiệp, hàng trăm cơ sở sản xuất quốc doanh ở các ngành khác nhau đã áp dụng có hiệu quả những hình thức cụ thể trả lương khoán: khoán tập thể theo sản phẩm cuối cùng, khoán sản phẩm theo đơn giá luỹ tiến, khoán gọn công trình xây dựng, v.v.. Nhờ làm tốt hình thức trả lương này, nhiều xí nghiệp đã giành được thế chủ động tiếp tục đẩy mạnh sản xuất đưa công tác quản lý ở cơ sở đi vào nền nếp, từng bước tăng thêm thu nhập về tiền lương, tiền thưởng cho người lao động. Đó là một bước trong việc kết hợp kế hoạch hóa với hạch toán kinh tế và sử dụng đòn bẩy kinh tế trực tiếp ở cơ sở''21.
Tiến tới Đại hội lần thứ VI của Đảng, báo chí đã chuẩn bị tài liệu và đăng tải các bài viết về yêu cầu bức bách phải đổi mới trong nền kinh tế quốc dân. Cụm từ đổi mới xuất hiện mạnh dạn trên báo chí lúc này thực sự đã có sức mạnh và trở thành chủ đề lớn của báo chí cuối giai đoạn 1976 - 1986. ''Có đổi mới tư duy kinh tế mới dám thừa nhận và thay đổi những quyết định sai lầm trước đây trong việc bố trí cơ cấu đầu tư, dũng cảm xử lý những việc nảy sinh trong cuộc chuyển hướng, điều chỉnh lớn phương án bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư năm tới. Có đổi mới tư duy kinh tế mới đổi được cơ chế quản lý theo phương hướng có ý nghĩa cách mạng sâu sắc là kiên quyết xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang hạch toán kinh tế, kinh doanh xã hội chủ nghĩa''22.
đ) Cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc
Sau khi đất nước thống nhất, báo chí Việt Nam tuyên truyền cho chủ trương hòa bình, hữu nghị, mong muốn làm bạn với tất cả các nước đặc biệt là mối quan hệ khăng khít với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. ''Sự đoàn kết hợp tác Việt Nam - Liên Xô là một biểu tượng của sự đoàn kết cách mạng và hợp tác đồng chí giữa các Nhà nước kiểu mới trong thời đại chúng ta. Lịch sử đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau giữa hai Đảng và hai dân tộc đã có lịch sử lâu dài trên một nửa thế kỷ và trở thành một truyền thống quý báu. Đoàn kết, hợp tác với Liên Xô là vấn đề nguyên tắc và là một điều kiện quyết định đối với thắng lợi của cách mạng nước ta”23.
Sự kiện chiến tranh biên giới, gây khó hiểu đối với dư luận trên thế giới, bởi vì, cả Campuchia và Trung Quốc đều là những người bạn láng giềng của nhân dân Việt Nam, cùng sát cánh và hỗ trợ Việt Nam trong cuộc chiến tranh giành độc lập tự do, đồng thời góp phần vào phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới. Trong khi đó, khi Việt Nam vừa giành giải phóng chưa được bao lâu thì lại có cuộc xung đột giữa những người anh em này. Vấn đề này đặt ra cho báo chí thời kỳ này là phải thực sự tỉnh táo, phân tích chủ nghĩa bá quyền, nhưng phải tuyên truyền giữ tình cảm dân tộc giữa nhân dân hai nước, đồng thời phải giải thích, tuyên truyền với dư luận thế giới về vấn đề này. Phần lớn báo chí thời kỳ này đi vào phân tích tình hình và nguyên nhân xảy ra chiến tranh, đồng thời động viên tinh thần yêu nước và tinh thần quốc tế. Bằng cách phân tích bản chất phản động, bất tín của bọn Khơme đỏ, báo chí đã gợi lên cho nhân dân Việt Nam nói riêng và nhân dân thế giới hiểu rõ cuộc chiến tranh giữa hai nước anh em: ''những người cầm quyền Campuchia vừa tiến công lãnh thổ nước ta vừa không ngớt lời rêu rao rằng các lực lượng vũ trang Việt Nam xâm phạm biên giới, xâm phạm lãnh thổ nước họ. Đây là những điều hoàn toàn bịa đặt. Tuy vậy, để tránh mọi sự hiểu lầm, để ngăn chặn mọi khả năng va chạm giữa hai bên, chúng ta đề nghị ''lực lượng vũ trang của mỗi bên đóng sâu trong lãnh thổ của mình, cách đường biên giới năm kilômét''. “Tại sao những người cầm quyền Campuchia không chấp nhận? Phải chăng họ sợ làm như vậy thì họ sẽ không còn có điều kiện để vừa xâm phạm lãnh thổ nước ta, tiến công nhân dân ta vừa vu cáo chúng ta xâm phạm biên giới nước họ?''24.
Vấn đề quan hệ giữa Việt Nam và Campuchia thời kỳ này rất phức tạp, vì thế sau khi đánh đuổi bọn diệt chủng khỏi bờ cõi đất nước, báo chí Việt Nam đi vào ca ngợi những anh hùng, chiến sĩ trên chiến trường và tình quân dân thắm thiết. Bên cạnh đó, báo chí còn đề cao tấm gương cao đẹp của quân và dân ta không tiếc xương máu để cứu nhân dân Campuchia khỏi họa diệt chủng.
Về cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc, báo chí Việt Nam đã nhạy bén, thông tin kịp thời những bằng chứng bác bỏ những luận diệu vu khống của Trung Quốc về cái gọi vụ ''Nạn Kiều''. Một chuyên mục mới đã được báo chí đặt ra trong thời kỳ này với những tiêu đề khác nhau: “Không được đụng đến Việt Nam, đe dọa Việt Nam là đe dọa toàn thế giới”, “Dư luận thế giới ủng hộ lập trường của Chính phủ Việt Nam về vấn đề biên giới Việt Nam – Campuchia”, “Những kẻ chống lại Việt Nam nhất định thất bại”... Nội dung chính của các chuyên mục này chủ yếu đăng tải những bài viết tổng hợp từ báo chí tiến bộ các nước phê phán hành động bành trướng của các thế lực thù địch. Đồng thời báo chí Việt Nam thể hiện rõ sự ủng hộ mạnh mẽ của cộng đồng quốc tế. ''Các nhà báo Mỹ Latinh chúng tôi đứng về phía Chính phủ và nhân dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và hoan nghênh ý muốn của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam không để cho xung đột phát triển nữa và chấm dứt cuộc xung đột đó thông qua đàm phán và thương lượng giữa hai nước anh em”25.
Báo chí Việt Nam cũng trở thành nguồn động viên tinh thần chiến đấu của nhân dân. Có thể nói, thể loại mang tính xung kích trong thời kỳ này là xã luận và bình luận đã phát huy tối đa tác dụng của mình. Hàng loạt những bài viết ca ngợi sức chiến đấu anh dũng của nhân dân cùng với những bài viết thể hiện khát vọng hòa bình và tinh thần đoàn kết, xả thân bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ và nền độc lập của Tổ quốc.
Những nội dung được phản ánh trên báo chí Việt Nam giai đoạn 1976 - 1986 không chỉ dừng lại ở những vấn đề ở trên, mà thực sự, báo chí đã bao quát cả những mảng đề tài khác đa dạng và phong phú hơn. Tất cả những nội dung đó đã khẳng định báo chí trong thời kỳ này là một loại hình phản ánh muôn mặt của đời sống xã hội Việt Nam thống nhất, đồng thời có những đóng góp to lớn trong các hoạt động của đất nước.
Về nội dung, có thể khẳng định, báo chí đã bám sát theo từng sự kiện của cuộc sống, phản ánh kịp thời, khách quan tới công chúng. Mặc dù vậy, báo chí thời kỳ này thực sự chưa hấp dẫn. Điều đó được biểu hiện ở hình thức trang báo chưa đẹp mắt, nội dung thông tin hiệu quả chưa cao. Bên cạnh đó, còn có một đặc điểm nữa là nghệ thuật trình bày, phong cách viết các tờ báo giống nhau, thiếu sự sáng tạo của mỗi tờ báo... Dù không hoàn toàn do lỗi của báo chí trong thời kỳ này, nhưng hạn chế về mặt nội dung này do bản thân báo chí là chính. Vì thế, trong thời kỳ đổi mới đất nước sau này báo chí cũng phải tự điều chỉnh mình để có thể kịp thời nắm bắt được những yêu cầu mới về kinh tế - xã hội.
4. Diện mạo của một số cơ quan báo chí
a) Báo Nhân dân
Cuối tháng 8-1975, báo Nhân dân lập bộ phận thường trực ở miền Nam. Với tinh thần làm việc khắc phục khó khăn, đồng thời phối hợp với Thông tấn xã Việt Nam và Tổng cục Bưu điện, ngày 20-4-1976, báo Nhân dân đã thực hiện in và phát hành báo ở Sài Gòn cùng lúc với phát hành ở Hà Nội. Trong thời gian này, Nhà in báo Nhân dân được cải tạo, bỏ hẳn xếp chữ bằng tay để chuyển sang công nghệ in ốp sét với những máy móc hiện đại, công suất in lớn, đáp ứng yêu cầu số lượng báo in. Đồng thời, báo cũng xây dựng thêm một nhà máy in và một cơ sở truyền báo ở Đà Nẵng đảm bảo in và phát hành báo Nhân dân ở miền Trung cùng ngày với thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Những hoạt động này đã góp phần tăng cường sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Trung ương Đảng trên toàn quốc.
Thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của mình trong thời kỳ này, đặc biệt đối mặt với những phức tạp ở biên giới, báo Nhân dân tập trung vào phân tích nguyên nhân, tình hình của sự kiện, động viên tinh thần yêu nước, tinh thần quốc tế, đồng thời hàng ngày phải đấu tranh, luận chiến trước báo chí nước ngoài và một số giới cầm quyền bao che cho bọn phản động. Trước những khó khăn của đất nước vào cuối giai đoạn này, báo Nhân dân mạnh dạn nêu lên hàng loạt những giải pháp như chế độ khoán sản phẩm, đổi mới tư duy kinh tế... đồng thời, báo đi vào biểu dương những điển hình kinh tế mới góp phần đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng.
Đây là thời kỳ báo Nhân dân có những tiến bộ về đưa tin nhanh, viết xã luận, bình luận, điều tra, phóng sự sắc nét. Bên cạnh đó, báo cũng bắt đầu đăng thông tin phản hồi bằng cách đưa nhiều ý kiến của nhân dân về tình hình, kinh tế - xã hội của đất nước. Không chỉ viết về những vấn đề mang tầm lý luận, tư tưởng, báo Nhân dân còn dành chỗ cho các mục bóng đá quốc tế, thơ, giải trí, tranh vẽ châm biếm, hướng dẫn du lịch, nấu ăn... Báo tăng xuất bản hàng ngày từ 4 trang lên 6 trang với số lượng 25 vạn bản/ngày. Năm 1985, báo Nhân dân ra đặc san hàng tháng và nội san “Người làm báo Nhân dân”, trở thành tờ báo đầu tiên xuất bản đặc san hàng tháng.
b) Tạp chí Cộng sản
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã giành thắng lợi trọn vẹn, nước nhà được thống nhất. Đại hội IV của Đảng họp vào tháng 12-1976 đã vạch ra đường lối của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong phạm vi cả nước. Đại hội cũng quyết định đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Trên cơ sở tình hình và nhiệm vụ trong giai đoạn mới, ngày 5-1-1977 Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IV) ra Nghị quyết Số 01-NQ/TW đổi tên Tạp chí Học tập thành Tạp chí Cộng sản bắt đầu từ tháng l-1977 và giữ tên tạp chí là Tạp chí Cộng sản từ đó đến nay.
Trong lịch sử tạp chí Đảng, đây là lần thứ 5 tạp chí Đảng lấy tên là Tạp chí Cộng sản. Việc lấy tên đó là để phù hợp với tình hình và nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới và phù hợp với việc đổi tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tại Đại hội IV, đồng chí Đào Duy Tùng, Tổng biên tập tạp chí, được bầu là Uỷ viên dự khuyết Trung ương Đảng.
Ngày 7-1-1978, Bộ Chính trị ra Chỉ thị số 32-TT/TW về nhiệm vụ của Tạp chí Cộng sản. Chỉ thị nêu rõ: ''Nhiệm vụ của Tạp chí Cộng sản là đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm cơ sở, kết hợp chặt chẽ lý luận Mác - Lênin với thực tiễn cách mạng Việt Nam để tuyên truyền đường lối, chính sách và các quan điểm của Đảng một cách sâu sắc. Tạp chí Cộng sản phải vận dụng lý luận Mác - Lênin, phân tích những chủ trương, chính sách của Đảng nâng cao nhận thức của cán bộ và đảng viên về tư tưởng, chính sách và quan điểm của Đảng phê phán những khuyết điểm, sai lầm trong khi thi hành các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Tạp chí phải giáo dục tư tưởng xã hội chủ nghĩa, chống tư tưởng tư sản và tàn dư phong kiến, phê phán tư tưởng tiểu tư sản, quét sạch ảnh hưởng của tư tưởng thực dân mới. Tạp chí phải đi hàng đầu trong việc bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, bảo vệ đường lối cách mạng và các quan điểm của Đảng, đồng thời làm nổi bật việc Đảng ta vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam để lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác …''.
Sau khi nêu rõ “Trước mắt, Tạp chí Cộng sản phải căn cứ vào chức năng của mình và tuyên truyền sâu sắc Nghị quyết Đại hội lần thứ IV của Đảng và các nghị quyết quan trọng của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, của Quốc hội và Hội đồng Chính phủ'', chỉ thị đã đề ra sáu phương hướng cụ thể cho việc tiến hành công tác biên tập của tạp chí:
1. Kết hợp lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin với thực tiễn cách mạng Việt Nam để giải thích đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới ở nước ta.
2. Căn cứ vào chủ nghĩa Mác - Lênin và Nghị quyết Đại hội lần thứ IV của Đảng mà trình bày có hệ thống và hướng dẫn những công tác lớn của Đảng như: xây dựng Đảng, quản lý nhà nước, vận động quần chúng, kinh tế tài chính, văn hóa giáo dục, khoa học - kỹ thuật, văn học nghệ thuật, tăng cường củng cố quốc phòng, bảo vệ trật tự, an ninh, v.v..
3. Nêu bật một cách sâu sắc và có tính tổng kết những kinh nghiệm tốt, những sáng kiến mới, phê phán những khuynh hướng và biểu hiện tư tưởng sai lầm trong phong trào quần chúng nhân dân đang phấn đấu để thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, kế hoạch và pháp luật của Nhà nước.
4. Góp phần tổng kết những kinh nghiệm của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa và của hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ ở Việt Nam, đi đến những kết luận có tính chất lý luận.
5. Tuyên truyền các chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước, quan điểm của Đảng về các vấn đề quốc tế quan trọng. Giới thiệu có chọn lọc những kinh nghiệm chủ yếu của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, và của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Thông qua bình luận thời sự mà phê phán chiến lược toàn cầu của đế quốc Mỹ, bóc trần những âm mưu đen tối của bọn đế quốc và tay sai.
6. Dùng những hình thức trình bày trực diện vấn đề mà bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Chỉ thị cũng ghi rõ: ''Ban Biên tập Tạp chí Cộng sản là một ban của Trung ương Đảng đặt dưới sự chỉ đạo của Bộ Chính trị''.
Mặc dù còn có những hạn chế trong tư duy lý luận, nhưng nhìn chung nội dung của tạp chí đã về cơ bản đáp ứng đúng những yêu cầu của công tác lý luận trong thời kỳ cách mạng, đồng thời đã phản ánh sự tìm tòi nhằm vận dụng ngày càng sát hợp lý luận Mác - Lênin vào thực tiễn nước ta, thúc đẩy cách mạng Việt Nam tiến tới. Những bài viết của tạp chí phục vụ Nghị quyết 6 (khóa IV) và Nghị quyết 8 (khóa V) của Trung ương Đảng vừa thể hiện đúng những quan điểm của Đảng, vừa có những tìm tòi, phù hợp với tình hình thực tế. Cũng do biết kết hợp lý luận với thực tế, tạp chí đã có những bài viết kịp thời, có tác dụng tốt trong chỉ đạo thực tiễn về các vấn đề: khoán trong nông nghiệp; kế hoạch ba phần, v.v.. Chính sự tìm tòi đó là những cơ sở để góp phần cùng toàn Đảng tìm ra định hướng đúng và những quan điểm đúng của công cuộc đổi mới trong giai đoạn tiếp theo của cách mạng Việt Nam.
Tạp chí cũng đã đứng ở tuyến đầu của cuộc đấu tranh tư tưởng của Đảng. Tạp chí đi đầu trong cuộc đấu tranh chống các quan điểm sai trái của nhóm Nhân văn - Giai phẩm; chống thuyết nhân vị - duy linh của tập đoàn Ngô Đình Diệm; chống chủ nghĩa xét lại hiện đại và chủ nghĩa giáo điều; chống tư tưởng phản động của chủ nghĩa thực dân mới chống hệ tư tưởng tư sản cùng các trào lưu tư tưởng phi vô sản khác. Tạp chí đã góp phần tích cực bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, bảo vệ đường lối và quan điểm cách mạng của Đảng ta.
Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 30 ngày xuất bản số đầu tiên của Tạp chí Học tập - Tạp chí Cộng sản (1955 - 1985), Tạp chí Cộng sản đã được Hội đồng Nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh, vì ''Trong 30 năm qua đã có nhiều cống hiến vào việc giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin và tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng cho cán bộ và nhân dân''. Cũng nhân dịp này, đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn đã đến thăm và nói chuyện với Bộ biên tập của tạp chí.
Ngày 3-12-1985, tại Trung tâm báo chí Hà Nội, Lễ kỷ niệm 30 năm xuất bản Tạp chí Cộng sản và trao tặng Huân chương cao quý của Đảng và Nhà nước - Huân chương Hồ Chí Minh cho tạp chí, đã được tổ chức trọng thể. Đồng chí Trường Chinh, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước đã có thư gửi Bộ biên tập Tạp chí Cộng sản nhân buổi lễ này. Thư có đoạn viết: Ba mươi năm qua, dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của Trung ương Đảng, Tạp chí Cộng sản đã cố gắng kết hợp lý luận Mác - Lênin với thực tiễn cách mạng Việt Nam để tuyên truyền đường lối, phương châm chính sách của Đảng và Nhà nước ta một cách sâu sắc. Tạp chí đã góp phần nâng cao trình độ lý luận và chính trị của cán bộ, đảng viên, động viên phong trào hành động cách mạng của quần chúng. Đông đảo cán bộ trong Đảng và ngoài Đảng coi tạp chí là tài liệu tin cậy để hoạt động, nghiên cứu đường lối chính sách và quan điểm của Đảng và Nhà nước ta. Tạp chí Cộng sản xứng đáng là ngọn cờ lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam.
c) Thông tấn xã Việt Nam
Tính đến năm 1975, Thông tấn xã Việt Nam đã đảm bảo 300% năng lực thu phát quốc tế với vô tuyến điện báo thế hệ 2 tự động, công suất phát 150 triệu từ/năm, kịp thời khai thác thông tin phục vụ các nhiệm vụ chính trị của đất nước. Ngày 24-5-1976, Việt Nam Thông tấn xã và Thông tấn xã giải phóng thống nhất thành Thông tấn xã Việt Nam, đánh dấu bước phát triển mới của ngành Thông tấn xã Việt Nam. Ngày 18-6-1977, Hội đồng Chính phủ ra Nghị quyết số 165/CP đổi tên Việt Nam Thông tấn xã thành Thông tấn xã Việt Nam thuộc Hội đồng Chính phủ. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Thông tấn xã Việt Nam được quy định: ''là cơ quan thông tin chính thức đối nội, đối ngoại của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có trách nhiệm bằng tin, ảnh, tài liệu thời sự và các loại hình thông tấn khác, thực hiện việc thông tin từ trung ương đến cơ sở cho nhân dân cả nước và nhân dân thế giới''. Nhiệm vụ của Thông tấn xã Việt Nam là cung cấp tin, ảnh tư liệu, tài liệu chính thức về các lĩnh vực cho các phương tiện thông tin đại chúng trong nước và nước ngoài...
Thông tấn xã Việt Nam đã không ngừng nâng cao trang thiết bị kỹ thuật phục vụ tốt cho nhiệm vụ của mình: việc thu phát tin dần dần được trang bị máy móc điện tử, bán dẫn, sử dụng ăngten lôga có chất lượng cao, truyền tin qua hệ thống viba, hệ thống truyền ảnh được trang bị những bộ thu phát tự động. Từ năm 1980, Thông tấn xã Việt Nam bắt đầu nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật vi tính vào việc điện tử hóa công tác thông tin (hệ thống thu phát tin và in). Sau 4 năm, Thông tấn xã việt Nam trở thành cơ quan đầu tiên cài đủ 5 dấu tiếng Việt thành công trong máy vi tính. Điều đó đã giúp Thông tấn xã Việt Nam đưa hệ thống truyền tin điện tử tốc độ cao giữa Hà Nội và Mátxcơva, Hà Nội - thành phố Hồ Chí Minh thay cho máy truyền chữ.
Thời kỳ này, Thông tấn xã Việt Nam bắt đầu tăng cường công tác đổi mới thông tin, đa dạng nội dung và loại hình thông tấn, đồng thời vẫn đảm bảo cung cấp đều đặn, đầy đủ thông tin cho các phương tiện truyền thông khác... Từ năm 1980 trở đi, Thông tấn xã Việt Nam từng bước đi vào hạch toán kinh tế từng phần rồi đến toàn phần. Có thể nói việc Thông tấn xã Việt Nam tự trang trải kinh phí, chủ động thử nghiệm in và bán có lãi Bản tin nhanh nhân dịp giải bóng đá thế giới năm 1982 là một bước tập dượt thành công, mở đầu cho việc ra mắt hàng loạt các tờ báo, bản tin trong những năm tiếp theo. Đặc biệt sự ra đời của hai bản tin đối ngoại ''Vietnam Heb'' ''Vietnam Weekly'' năm 1985 là bước khởi đầu cho sự xuất hiện báo đối ngoại. Thông tấn xã Việt Nam đã mạnh dạn đổi mới thông tin bằng cách đa dạng hóa thông tin, thực hiện thông tin không bù lỗ. Từ một bản tin trong nước và thế giới chung cho các đối tượng, từ một bản tin phát sóng giống nhau dịch ra nhiều ngôn ngữ, Thông tấn xã Việt Nam đã nhanh chóng chuyển đổi thành những bản tin riêng theo yêu cầu của các đối tượng khác nhau, xuất bản nhiều tờ tin hàng ngày, hàng tuần...
d) Đài Tiếng nói Việt Nam
Sau khi thống nhất đất nước, việc thống nhất hệ thống phát thanh không gặp nhiều khó khăn vì có chung hệ thống cả nước nên hoạt động được ngay. Đến cuối năm 1976, hệ thống các đài miền Nam được phục hồi hoàn toàn, tuy nhiên trang thiết bị của Đài Phát thanh ở Sài Gòn bị hỏng nặng. Bên cạnh đó, việc mở rộng diện phát sóng của các đài phát thanh đã tạo nên một hệ thống các trạm phát lại ở các tỉnh phía Nam như: Vĩnh Long, Cần Thơ, Côn Đảo…
Năm 1977, Chính phủ ra nghị định thành lập Uỷ ban Phát thanh và truyền hình, Đài Tiếng nói Việt Nam trở thành một bộ phận trọng yếu của tổ chức này. Đến năm 1984, theo thông báo của Ban Tuyên huấn Trung ương, Đài Tiếng nói Việt Nam và Đài Truyền hình Trung ương tách ra khỏi cơ cấu của Uỷ ban Phát thanh truyền hình, trực thuộc Ban Bí thư Trung ương Đảng.
Thời kỳ này, Đài phát 13 giờ/ngày bằng tiếng Việt (riêng chủ nhật 15 giờ/ngày), và 35 giờ/ngày với 11 ngôn ngữ trên 5 hệ thống với nhiều làn sóng khác nhau phục vụ cho nhân dân trong nước và một số đối tượng nước ngoài26. Đài Tiếng nói Việt Nam đã xây dựng hàng loạt các hệ chương trình cho các đối tượng khác nhau, bao gồm: chương trình thời sự, là chương trình chủ lực, quan trọng nhất giúp cho mọi người theo dõi được tình hình trong nước và thế giới, theo dõi các chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước; chương trình dành cho nông nghiệp; chương trình dành cho công nhân chuyên đi sâu vào vấn đề sản xuất công nghiệp; chương trình văn hóa - xã hội; chương trình phát thanh cho thanh niên; chương trình phát thanh cho quân đội nhân dân.
Hệ chương trình phát thanh đối ngoại trong thời kỳ này vẫn được xem là mũi xung kích hàng đầu trong mặt trận thông tin đối ngoại của đất nước. Nhiệm vụ đặt ra lúc này là: “Làm cho thế giới hiểu rõ và tin yêu dân tộc Việt Nam hơn, giới thiệu cho nước ngoài thấy rõ thành quả của cách mạng ta, đồng tình với đường lối của chính sách của Đảng và Nhà nước ta, qua đó mà tăng thêm tình hữu nghị và sự ủng hộ đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta trong giai đoạn mới. Cũng qua những thông tin này, cần phải từng bước xóa dần những đám mây mù vẩn đục của hàng chục đài phát thanh nước ngoài đang ngày đêm phun nọc độc vào Việt Nam với âm mưu ''diễn biến hòa bình''''27.
Cùng với sự phát triển của Đài Tiếng nói Việt Nam, hệ thống các đài truyền thanh địa phương thời kỳ này hoạt động nở rộ. Các đài truyền thanh ở các tỉnh, huyện ngoài các chương trình tiếp âm của Đài Tiếng nói Việt Nam còn có các chương trình của địa phương nhằm giải quyết những vấn đề bức xúc của địa phương... Vào thời điểm tháng 7-1977, tỉnh Bình Trị Thiên đã xây dựng 70 hệ thống truyền thanh, trong đó có 25 hệ thống cấp nhà nước, 45 hệ thống nhân dân tự làm để tiếp sóng của Đài Tiếng nói Việt Nam và cung cấp những tin tức của địa phương. Trong sự phát triển đó, hầu hết các địa phương đều xây dựng riêng cho mình hệ thống truyền thanh rộng khắp đến tận các xã, thôn.
đ) Đài Truyền hình Việt Nam
Chương trình thử nghiệm đầu tiên của Truyền hình Việt Nam được phát vào ngày 7-9-1970 do Đài Tiếng nói Việt Nam thực hiện. Sau một thời gian làm thử trong nội bộ, Bộ Biên tập Đài quyết định phát chương trình đầu tiên cho nhân dân thủ đô xem truyền hình vào tối 30 Tết Tân Hợi (27-1-1971). Trong khi những chương trình truyền hình của Đài Tiếng nói Việt Nam được dự kiến phát thử nghiệm đến giữa năm 1976 thì ở Sài Gòn, nhân dân đã có thói quen xem truyền hình từ những năm cuối thập kỷ 60 của thế kỷ XX. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để tiếp quản và điều hành được ngay các đài truyền hình đã có ở phía nam ngay khi giải phóng miền Nam. Ngay trong thời kỳ chiến tranh, Đài Tiếng nói Việt Nam đã đề ra một kế hoạch chủ động, gửi cán bộ đi học tập ở nước ngoài nhằm đào tạo một đội ngũ đồng bộ bao gồm tất cả các khâu cần thiết của một đài truyền hình.
Với sự chuẩn bị kỹ càng đó, chỉ một ngày sau khi giải phóng miền Nam, nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã được xem chương trình truyền hình với nội dung hoàn toàn mới lạ. Bắt đầu từ tối ngày 1-5-1975 đó, Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh được phát đều đặn hàng ngày trong lúc ở miền Bắc vẫn tiếp tục phát chương trình thử nghiệm mỗi tuần 4 lần.
Từ giữa năm 1976, Đài Truyền hình Việt Nam bắt đầu phát chính thức hàng ngày. Giai đoạn 1976 - 1986 trở thành giai đoạn mà Truyền hình Việt Nam kết thúc thời kỳ thử nghiệm chuyển sang phát chính thức, cũng là mở đầu quá trình từ truyền hình đen trắng chuyển sang truyền hình màu. Tuy nhiên, hệ thống truyền hình ở hai miền chưa được đồng nhất, ở miền Bắc sử đụng hệ OST, trong khi ở miền Nam theo hệ SCC của Mỹ. Tần số hình ảnh, làn sóng cũng khác cho nên hoạt động truyền hình thời kỳ này khó khăn hơn của Đài Tiếng nói Việt Nam rất nhiều. Mặt khác, chúng ta không thể duy trì cùng một lúc hai hệ truyền hình khác nhau. Vì vậy, trong thời kỳ đầu (1975 - 1978) sẽ thay đổi dần dần cho tần số, hình ảnh và tiếng của hệ thống hai đài truyền hình gần nhau. Sau đó bước kế tiếp là thay hệ SCC cho miền Bắc đồng bộ với miền Nam28.
Truyền hình Việt Nam cũng không ngừng tăng cường cơ sở vật chất để Đài có thể phát sóng được cao hơn, xa hơn. Ngày 28-10-1976, Đài phát sóng truyền hình Tam Đảo ở độ cao hơn 2.000m được khởi công. Đây là địa điểm lý tưởng cho việc phủ sóng truyền hình các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, trung du và một phần miền núi. Năm 1978, Việt Nam và Liên Xô đã ký 6 văn kiện chính thức trong đó có đề cập đến việc xây dựng trạm thông tin vũ trụ mặt đất. Trạm thông tin vũ trụ Intesput đã giúp đỡ cho Việt Nam có điều kiện tiếp nhận những nguồn thông tin trên thế giới nhanh chóng và thuận lợi.
Bên cạnh truyền hình trung ương, hệ thống truyền hình địa phương cũng phát triển rộng khắp. Khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đã có các đài truyền hình ở Thành phố Hồ Chí Minh, các đài phát lại chương trình truyền hình ở Cần Thơ, Nha Trang, Quy Nhơn, Huế. Sau đó, nhiều địa phương ở các tỉnh phía Bắc cũng lần lượt dùng ngân sách địa phương mua máy phát để tiếp sóng các chương trình của truyền hình Việt Nam. Mặc dù thời kỳ đầu, hầu hết những đài truyền hình ở các địa phương mới dừng lại ở mức phát lại các chương trình truyền hình của Đài Truyền hình Trung ương nhưng điều đó đã chứng tỏ mạng lưới truyền hình của Việt Nam đã có bước phát triển rộng khắp.
Có thể nói, hoạt động của báo chí Việt Nam trong giai đoạn 1976 - 1986 là sự phát triển của hệ thống báo in. Đến thời điểm này đã phát triển được 120 năm, dù là tương đối trẻ so với báo chí trên thế giới, nhưng đã thu được không ít thành tựu và đạt được một trình độ nhất định.
e) Báo Quân đội nhân dân
Trong những ngày đầu sau khi đất nước thống nhất, do điều kiện còn khó khăn nên số lượng phát hành của báo Quân đội nhân dân ở các tỉnh phía Nam còn ít, đồng thời phải phụ thuộc vào vận chuyển hàng không, nên việc phát hành báo không ổn định. Sau một thời gian thử nghiệm việc truyền báo và in báo, ngày 20-7-1976 tờ báo Quân đội nhân dân đầu tiên được in tại Thành phố Hồ Chí Minh. Mặc dù được phát hành kịp thời nhưng những tờ báo này chất lượng in còn kém, ảnh xấu thậm chí có những số báo ở phía Nam hình thức không giống báo in ở phía Bắc. Để khắc phục những hạn chế này, công tác in và phát hành báo Quân đội nhân dân tiếp tục được cải tiến trong những năm tám mươi, dần dần chất lượng truyền báo được nâng lên cao và có những bước tiến bộ đáng kể.
Ngày 17-4-1997, với việc phát hành thêm số chủ nhật để phục vụ nâng cao đời sống bộ đội, báo Quân đội nhân dân trở thành tờ báo đầu tiên trong cả nước ra số chủ nhật. Với cách viết mới, sinh động, đậm chất văn hóa, nội dung nhẹ nhàng và hình thức hấp dẫn, tờ báo đã được bạn đọc đánh giá cao. Tuy không tách khỏi hệ thống báo hàng ngày nhưng đây là tiền đề cho việc xuất bản tờ báo cuối tuần thành một ấn phẩm riêng.
Giai đoạn 1976 - 1986, báo Quân đội nhân dân đã làm tròn nhiệm vụ chính trị của mình, không những trên các mặt trận an ninh quốc phòng, kinh tế - xã hội mà còn ở lĩnh vực đối ngoại của đất nước. Việc giúp đỡ hai nước bạn Lào và Campuchia xây dựng kế hoạch hình thành cơ quan báo chí, chuẩn bị ra báo của quân đội nhân dân Lào và quân đội nhân dân Campuchia đã tạo đà cho hai tờ báo này phát triển và trưởng thành. Mối quan hệ đó đã góp phần tích cực nhằm tăng cường sự đoàn kết, hiểu biết giữa quân đội các nước anh em.
f) Báo Sài Gòn giải phóng
Chỉ 5 ngày sau khi thành phố Sài Gòn và miền Nam được hoàn toàn giải phóng, (5-5-1975), báo Sài Gòn giải phóng ra đời dựa trên cơ sở kế thừa truyền thống của các tờ báo của Khu uỷ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định cũ từ các thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ, như: Cảm tử, Chống xâm lăng, Ngọn cờ Gia Định, Cờ khởi nghĩa, Cờ giải phóng. Từ đó, bằng sự nỗ lực của mình, chỉ một thời gian ngắn ra mắt bạn đọc, báo Sài Gòn giải phóng đã trở thành món ăn tinh thần của nhân dân thành phố và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Từ ngày l-7-1981, để đáp ứng yêu cầu mới về thông tin, tuyên truyền, Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định xuất bản và phát hành báo vào buổi sáng.
Cuối năm 1977, Sài Gòn giải phóng tăng thêm ấn phẩm Hoa văn giải phóng. Từ năm 1980, báo đã mở mục thông tin kinh tế với nội dung gồm giới thiệu sản phẩm mới, mặt hàng mới, những mặt hàng cần trao đổi..., tiếp đến là các mục quảng cáo rao vặt. Ban đầu, diện tích của những mục này chỉ có l/3 trang và từ khi diện tích quảng cáo tăng lên hơn 2/3 trang thì quảng cáo trên báo Sài Gòn giải phóng trở thành một ''kênh” riêng như phụ trương của Sài Gòn giải phóng.
Trong hệ thống báo chí địa phương, Sài Gòn giải phóng một tờ báo non trẻ mà giai đoạn này lại chính là những bước khởi đầu, chập chững của tờ báo. Tuy nhiên, báo đã rất năng động, nhạy bén với thời cuộc và hòa mình vào sự phát triển chung của dòng báo chí dân tộc. Những thành quả và nỗ lực mà Sài Gòn giải phóng đạt được đã khẳng định những bước đi mạnh dạn và vững chắc trong thời kỳ đầu của tờ báo, tạo tiền đề cho sự phát triển sau này.
II- HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC HỘI NHÀ BÁO VIỆT NAM
l. Đại hội Báo chí lần thứ IV và vấn đề củng cố, phát triển báo chí
Đại hội lần thứ IV, Hội Nhà báo Việt Nam diễn ra ngày 8-12-1983 đã đánh giá được phần nào hoạt động của hệ thống báo chí giai đoạn 1976 - 1986. Trong Đại hội IV lần này, vấn đề vai trò, nhiệm vụ mới của báo chí trong tình hình kinh tế - xã hội mới đã được Đại hội đề ra:
“Trong nhiều nhân tố khách quan đang tác động trực tiếp các hoạt động truyền thông đại chúng, chúng ta cần cân nhắc đầy đủ mấy nhân tố sau đây khi xác định phương hướng, nhiệm vụ và yêu cầu đối với báo chí trong giai đoạn cách mạng mới.
Trước hết, công chúng mới, những đối tượng phục vụ của chúng ta đã khác trước về chất. Chỉ tính hai mươi năm gần đây, từ Đại hội trước tới Đại hội này của hội ta, trình độ nhân dân đã có nhiều thay đổi... Công chúng đòi hỏi các phương tiện truyền thông đại chúng cung cấp nhiều loại món ăn văn hóa, tinh thần chất lượng cao; hai là, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, kỹ thuật trong đó có các ngành liên quan tới báo chí; ba là, sự giao lưu giữa nước ta và các nước khác ngày càng mở rộng... Quần chúng và sự nghiệp cách mạng đang đòi hỏi toàn bộ lĩnh vực thông tin đại chúng phải nâng cao hơn nữa về tính tư tưởng, về chất lượngvà hiệu quả…''.
Từ bối cảnh hoạt động mới này, nhiệm vụ của báo chí được đặt ra, bằng những phương tiện và ngôn ngữ đặc thù của mỗi loại hình, phối hợp với các binh chủng khác trong mặt trận tư tưởng, góp phần làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức sâu sắc đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng kinh tế trong thời kỳ quá độ, và phấn đấu thực hiện đường lối ấy một cách tự giác. Báo chí không chỉ dừng lại ở việc giải thích, phổ cập đường lối, chính sách mà phải bằng những luận cứ khoa học và thực tế sinh động, làm cho mọi người hiểu sâu đường lối, chính sách và góp phần nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn, trước hết là của cán bộ, để thực hiện chương trình kinh tế - xã hội và những mục tiêu do Đại hội lần thứ V của Đảng nêu ra. Báo chí phải làm cho mọi người thấy rõ kẻ thù cơ bản của nhân dân ta...; Báo chí là một trong những phương tiện quan trọng và rất hiệu quả để nâng cao kiến thức kinh tế và kiến thức khoa học, kỹ thuật cho cán bộ, nhân dân; Báo chí có trách nhiệm tham gia trực tiếp vào cuộc đấu tranh để giữ gìn phẩm chất, đạo đức cách mạng trong sáng, thể hiện tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhân viên nhà nước, thông qua đó mà củng cố và tăng cường lòng tin của quần chúng đối với Đảng và Nhà nước... Bằng cách thông tin nhanh chóng, có lựa chọn và bình luận sắc sảo, kịp thời, báo chí giáo dục chủ nghĩa quốc tế vô sản, đồng thời qua đó tham gia thực hiện đường lối quốc tế của Đảng. Báo chí có nhiệm vụ làm cho tiếng nói của nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa vang xa trên trường quốc tế…
Bên cạnh đó, Đại hội lần thứ IV Hội Nhà báo Việt Nam cũng đã đề ra nhiệm vụ cấp bách của hoạt động báo chí trong thời kỳ mới, đó là: cần có kế hoạch bồi dưỡng về chính trị, tư tưởng và nghiệp vụ cho những người đang làm việc tại các báo, đài thông tấn xã...29.
2. Thống nhất đội ngũ người làm báo trong cả nước
Từ khi đất nước thống nhất, hoạt động báo chí phát triển đã sinh ra đội ngũ những người làm báo có những tiến bộ vượt bậc về nghiệp vụ. Tính đến thời điểm Đại hội lần thứ IV của Hội Nhà báo (1983), báo chí Việt Nam có hơn 6.000 nhà báo, trong đó có khoảng 65% số nhà báo tuổi đời dưới 40, 42% có trình độ đại học, 51% học hết cấp III, 41% có mười năm tuổi nghề trở lên. Với hơn 3.000 nhà báo là thành viên của Hội Nhà báo Việt Nam, nếu so với 800 hội viên của Đại hội lần thứ III, con số này đã đánh dấu một bước phát triển không chỉ về số lượng mà cả về chất lượng của người làm báo.
Nhiệm vụ của những người làm báo thời kỳ này phải vừa là người tuyên truyền cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa phải đồng thời là người chiến sĩ trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Đội ngũ làm báo thời kỳ này có ''bốn thế hệ cùng sánh vai công tác'', gồm: Thế hệ những người làm báo tiên phong. Đây là những người bạn chiến đấu, đồng thời là những học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là những người đã xây dựng và phát triển nền báo chí cách mạng Việt Nam. Đến thời kỳ hoạt động này, tuy đã cao tuổi và đảm nhiệm nhiều trọng trách của Đảng và Nhà nước, song họ vẫn trực tiếp hoạt động báo chí rất sắc sảo. Lớp nhà báo thứ hai là những người làm báo chuyên nghiệp vào nghề từ sau Cách mạng Tháng Tám. Giai đoạn hoạt động này họ trở thành lực lượng chỉ đạo và biên tập nòng cốt của các loại hình báo chí trong cả nước. Hai thế hệ những người làm báo từ sau kháng chiến chống Pháp và sau ngày giải phóng miền Nam là những người làm báo trẻ, phát huy lòng nhiệt tình và sự năng động, sáng tạo của mình. Mặc dù còn nhiều hạn chế do thiếu kinh nghiệm hoạt động và chưa có hiểu biết thực tiễn một cách sâu sắc nhưng họ sẽ là lớp nhà báo kế tục sự nghiệp báo chí cách mạng và trở thành lớp người tiên phong cho sự  nghiệp ''đổi mới'' báo chí sau này.
Bên cạnh những người làm báo chuyên nghiệp, làm việc thường xuyên ở các cơ quan báo chí, còn có đội ngũ cộng tác viên đông đảo góp sức mình vào hoạt động của báo chí trong thời kỳ này. Đó là những cán bộ lãnh đạo, những nhà hoạt động xã hội, văn hóa nghệ thuật, những nhà nghiên cứu và thực hành khoa học, kỹ thuật, những cán bộ quản lý, ác liệt có cả những người là công nhân, nông dân, chiến sĩ đang trực tiếp sản xuất, chiến đấu. Họ tiêu biểu cho những người làm báo không chuyên đại diện của các lớp người trong xã hội.
Sự thống nhất đội ngũ những người làm báo ở khắp mọi miền đất nước vào một tổ chức nghiệp vụ thống nhất là Hội Nhà báo Việt Nam đã làm tăng thêm sức mạnh của đội ngũ làm báo giai đoạn này. Tính tới năm 1983, hội có hơn 3.000 hội viên và 130 chi hội cơ sở ở khắp các tỉnh. Đến ngày 30-6-1986, Hội có 205 chi hội với 4.864 hội viên30. Ở các tòa soạn báo lớn, các báo hàng ngày, hàng tuần ở trung ương và một số tạp chí đều thành lập chi hội nhà báo. Điều đó khẳng định phần nào vai trò và nhiệm vụ của tổ chức Hội Nhà báo Việt Nam trong sự phát triển của báo chí, tuy nhiên hoạt động của hội trong thời kỳ này “còn nghèo nàn và trì trệ''. Một yêu cầu đặt ra cho tổ chức này là cần xem xét điều lệ các tổ chức hội, đồng thời cần có tổ chức hội ở cả ba cấp: trung ương, tỉnh, thành phố, cơ sở và định rõ phương thức hoạt động cũng như các mối quan hệ của các cấp hội nhà báo tỉnh, thành phố...
Nhìn chung, đội ngũ cán bộ báo chí trong thời kỳ này khá đông đảo và có nhiều kinh nghiệm hoạt động, trong đó, có nhiều cây bút sắc sảo, có uy tín và đã được tổ chức quốc tế các nhà báo thế giới tặng giải thưởng và Huy chương Phuxich như: nhà báo Hoàng Tùng, Trần Lâm, Lưu Quý Kỳ, Hồng Chương, Thép Mới. Tuy nhiên, số lượng người làm báo nói chung vẫn còn thiếu nhiều, trong đó đặc biệt là ở báo chí khu vực phía Nam, như báo Tuổi trẻ đến cuối năm 1980, sau 5 năm hoạt động, mới chỉ có 15 phóng viên, trong đó chỉ có 2 phóng viên đã tốt nghiệp đại học báo chí. Vì vậy, vấn đề đào tạo người làm báo chuyên môn cung cấp cho các cơ quan báo chí, đặc biệt là các cơ quan phía nam trở thành vấn đề cấp thiết của hoạt động báo chí.
Để giải quyết những vấn đề đó, bên cạnh các lớp đào tạo báo chí của Trường Tuyên huấn trung ương, Hội Nhà báo, Hội Nghệ sĩ nhiếp ảnh, Thông tấn xã Việt Nam cũng tổ chức các lớp nâng cao nghiệp vụ chơ phóng viên. Từ năm 1955 đến năm 1985, Thông tấn xã Việt Nam đã mở lớp đào tạo cho l.000 phóng viên, biên tập viên, đặc biệt là các phóng viên ảnh cho các địa phương và phân xã nước ngoài. Đồng thời, các hội nhà báo ở từng chi hội cũng tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề, hội thảo nghiệp vụ, các cuộc thi báo chí và các lớp bồi dưỡng ngắn hạn ở trong và ngoài nước..., và đã thu được những kết quả tốt, đáp ứng được phần nào yêu cầu đặt ra.
III- ĐÁNH GiÁ CHUNG
l. Những thành tựu
Việc thống nhất và hoàn chỉnh hệ thống báo chí có thể nói là một thắng lợi lớn nhất của báo chí Việt Nam giai đoạn 1976 -1986. Từ đó, hoạt động báo chí phát triển thuần nhất một loại hình phục vụ cho chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước. Báo chí được hợp nhất thành một tổ chức đã nâng tư thế của báo chí Việt Nam trong giai đoạn này lên một tầm mới.
Có thể khẳng định chắc chắn một điều rằng, báo chí Việt Nam ngay từ sau năm 1975 đã có sự phát triển nở rộ cả về số lượng đến loại hình báo chí. Hệ thống báo chí phát triển phong phú, bao gồm cả các loại báo chuyên ngành, báo cho các đối tượng. Đặc biệt, ở Thành phố Hồ Chí Minh và ở các tỉnh miền Nam, ngay sau ngày giải phóng đã có hàng loạt tờ báo mới xuất hiện. Sự phát triển của mạng lưới các trạm truyền hình địa phương tiếp sóng của Đài Truyền hình Trung ương, hoạt động của các loại báo in, của Thông tấn xã Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam có những bước phát triển đáng kể.
Về mặt nghiệp vụ, báo chí đã không ngừng mở rộng diện phản ánh và đa dạng hóa, nâng cao chất lượng tin tức. Báo chí đã phần nào đi đúng hơi thở của cuộc sống, kịp thời thông tin những sự kiện trong nước và quốc tế bằng các kênh thông tin của mình, đồng thời báo chí cũng nhanh nhạy bình luận những vấn đề thời sự một cách sắc sảo và chính xác để định hướng cho dư luận. Báo chí trở thành một vũ khí xung kích trên mặt trận chống tiêu cực và cũng là nơi xây dựng những điển hình kinh tế mới. Tiếng nói của báo chí giai đoạn này có ý nghĩa to lớn trong yêu cầu đổi mới của đất nước.
2. Những hạn chế
Về hình thức trình bày, báo chí trong thời kỳ này thực sự chưa hấp dẫn được người đọc. Bỏ qua những hạn chế về mặt kỹ thuật, việc trình bày báo còn thiếu sự sáng tạo: chủ yếu là những bài dài nói về một vấn đề. Ngoài ra, phong cách của các tờ báo hầu như giống nhau theo xu hướng cào bằng, chủ yếu tuyên truyền cho đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Cũng có một số tờ có phong cách hoạt động, bút pháp và ngôn ngữ riêng như các loại báo văn nghệ... Tuy nhiên, những loại báo chuyên biệt như thế này chiếm số lượng ít.
Vấn đề phát hành báo chí trong thời kỳ này chưa thực sự được coi trọng, mới chủ yếu dựa vào các tổ chức - các cơ quan chủ quản. Báo chí được bao cấp nên giá bán báo rẻ, ai cũng muốn mua báo. Vì thế phải phân phối báo ''chỉ có ai đúng đối tượng mới được mua, ai có hóa đơn mua báo năm trước mới được mua báo năm sau. Có tờ báo in tới mười mấy vạn bản nhưng vẫn không đủ bán. Chính yếu tố này đã tạo nên sự hạn chế của báo chí vì chưa phải hoạt động hạch toán kinh doanh nên chưa thực sự coi trọng công tác in ấn, phát hành... của báo''. Cho đến đầu những năm 1980, một số tờ báo phải chịu hậu quả của tình trạng thiếu giấy in, giảm lượng phân phối giấy in, báo chí bắt đầu lao đao với sóng gió của thị trường gây nên tình trạng khủng hoảng của một số tờ báo.
Hạn chế rất lớn của báo chí trong thời kỳ này là thông tin tuyên truyền còn nhiều biểu hiện một chiều. Báo chí của Việt Nam giai đoạn này vẫn làm theo luận đề “Báo chí không chỉ là người tuyên truyền tập thể, cổ vũ tập thể mà còn là người tổ chức tập thể''. Vì thế, hoạt động báo chí chủ yếu phục vụ cho công tác tuyên truyền, cổ động cho đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước, mà còn rất hạn chế trong việc thể hiện diễn đàn của nhân dân. Vấn đề này thể hiện trên các mặt: Báo chí thông tin chung chung, chưa đi sâu vào nắm bắt vấn đề và thiếu tính thuyết phục. Độ tỉnh táo của báo chí chưa cao, chủ yếu chạy theo những sự kiện trước mắt, không đi tìm hiểu từ lịch sử vấn đề để có định hướng chính xác trong tương lai. Phân tích nguyên nhân và những biểu hiện này của báo Nhân dân, nhà báo Hữu Thọ có chia ra làm hai vấn đề: Thứ nhất, chúng ta cho rằng, sau chiến tranh, Việt Nam có khả năng tiến nhanh, tiến mạnh. Bởi vì trong chiến tranh, hàng triệu người hy sinh mà chúng ta còn vượt qua được huống hồ là việc xây dựng kinh tế. Thứ hai, là sau khi đánh thắng đế quốc Mỹ, chúng ta cho rằng vĩnh viễn không có ai dám xâm phạm nước ta31. Thực tế đã xảy ra không đúng như vậy, vì chỉ sau khi giành được độc lập không lâu, Việt Nam đã phải tiến vào cuộc chiến để bảo toàn lãnh thổ. Về phần xây dựng và phát triển kinh tế, thì đây lại là thời kỳ mở đầu của cuộc khủng hoảng trầm trọng, chứ không phải là thời kỳ phát triển mạnh về kinh tế.
Một thời gian dài, báo chí nặng về phổ biến đường lối, chính sách, chủ yếu là tin tức hội nghị, văn phòng. Lên các trang báo trong thời kỳ này, ta nhận thấy tin đối ngoại lên báo chí chủ yếu là thông tin về các cuộc viếng thăm ngoại giao mang tính chất lễ nghi. Khắc phục vấn đề này, ngày 20-5-1981, Ban Tuyên huấn Trung ương đã ra Thông thì Hướng dẫn về việc giảm bớt, rút ngắn tin tức có tính lễ tân. Bản Thông tri khẳng định rõ: Các cơ quan thông tin báo chí đều phải thực hiện việc giảm bớt, rút ngắn thông tin về các cuộc mít tinh, chiêu đãi, đón tiếp, viếng thăm xã giao và các hoạt động có tính lễ nghi khác, để có thể tăng thêm số lượng thông tin về sản xuất, quản lý kinh tế, quản lý xã hội và giải quyết những vấn đề của đời sống nhân dân.
Báo chí trong thời kỳ này chưa đi sâu phân tích tình hình xã hội để phản hồi thông tin chính xác mà chủ yếu thông tin cứng nhắc theo chủ trương được đề ra. Về vấn đề này, báo chí đã góp phần thúc đẩy khuynh hướng nóng vội chủ quan của hoạt động xây dựng kinh tế của Đảng và Nhà nước. Đó là việc cổ vũ mạnh mẽ cho chủ trương đến năm 1980 phải tiến hành cải tạo xong ở miền Nam, kể cả cải tạo nông nghiệp với cách làm ép buộc. Bên cạnh đó, cổ vũ miền Bắc lên quy mô to, tổ chức lại sản xuất theo kiểu hợp tác xã, tăng nhanh tốc độ xã hội như Định Công... Nhà báo Hữu Thọ dã nói rõ quan điểm của mình về vấn đề này như sau: ''Tôi nằm ở Tân Hội - Ấp Bắc cả tuần nhưng không viết gì về Cai Lậy vì thấy ép quần chúng ghê quá. Nhưng rồi cũng phải viết về Quỳnh Lôi cổ vũ cho sự tiến nhanh, tiến mạnh. Nhưng chúng ta cũng cần nghiêm khắc mà nhận rằng chưa thấy được mặt cực đoan của điển hình này. Trong khi đó, anh em cũng có những bàn khoăn ghê gớm''32.
Báo chí chưa dự báo được tình trạng suy thoái về mặt đạo đức trong thời kỳ mới. Mặc dù, ngay từ đầu giai đoạn, báo chí đã đề cập đến những tệ nạn xã hội còn sót lại của thời kỳ chiến tranh và định hướng quần chúng phải bài trừ các tệ nạn và xây dựng cuộc sống mới tiết kiệm và trong sạch. Tuy nhiên, báo chí chưa đi vào việc phát hiện ra những suy thoái rất phức tạp của tệ nạn tham ô, tham nhũng và tệ quan liêu. Cho đến gần cuối thời kỳ, các loạt bài điều tra về kinh tế, xã hội cũng xuất hiện, nhưng vai trò phản ánh và phát hiện chưa cao. Báo chí đã nhanh chóng phát hiện và xây dựng những điển hình trong hoạt động sản xuất và đã thu được hiệu quả tốt nhưng vai trò cổ vũ còn có phần dè dặt, chưa đầy đủ.
- Những hạn chế trên do những nguyên nhân sau:
Trước hết, do hoàn cảnh và nhiệm vụ chính trị của thời kỳ này báo chí Việt Nam thực hiện chức năng, nhiệm vụ dựa theo luận điểm ''Báo chí là người tuyên truyền tập thể, cổ động tập thể, đồng thời là người tổ chức tập thể''. Chưa trở thành diễn đàn của quần chúng nhân dân. Mặt khác, trong điều kiện hoạt động mới này yêu cầu phải thay đổi nhưng chưa đáp ứng được. Nguyên nhân này trực tiếp tạo nên những hạn chế trong việc thông tin tuyên truyền một chiều của báo chí giai đoạn 1976 - 1986, khiến cho thông tin trên báo chí chưa hấp dẫn và hời hợt. Vì thế, hạn chế này yêu cầu phải được khắc phục trong thời kỳ đất nước bước vào công cuộc đổi mới. Đại hội Hội Nhà báo Việt Nam lần thứ V (1989) đã khẳng định: Báo chí thể hiện tiếng nói của Đảng đồng thời là diễn đàn của nhân dân: báo chí ngày nay đã trở thành gạch nối gắn bó Đảng và nhân dân. Báo chí không thể hoạt động theo kiểu thông tin một chiều, dội chủ trương, chính sách từ trên xuống dưới một cách quan liêu, cũng không thể phản ánh thực tế theo kiểu ''tô hồng'', ''bôi đen...''.
Thứ hai, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã ảnh hưởng đến sự phát triển của hoạt động báo chí. Từ việc bao cấp giấy in cho đến việc phân phối trong phát hành đã dẫn đến tình trạng các báo trong thời kỳ này không tự tìm cách nâng cao chất lượng mà chủ yếu hoạt động mang tính chất tuyên truyền, cổ động là chính. Tuy nhiên, đầu những năm 1980, để khắc phục tình trạng khủng hoảng của mình, một số tờ báo đã tự hạch toán giấy in và phát hành. Những hoạt động này tạo tiền đề cho sự đổi mới công tác báo chí sau này.
Thứ ba, trang thiết bị kỹ thuật của các tờ báo lạc hậu. Sau chiến tranh, mặc dù ta tiếp quản đổi mới được đài phát thanh và truyền hình của chế độ Mỹ ngụy nhưng nói chung các thiết bị cũng đã bị lạc hậu nhiều. Đội ngũ những người làm báo có trình độ, tay nghề chưa cao, công tác đào tạo báo chí chưa phát huy hết hiệu quả. Mặc dù Việt Nam vẫn có những lớp người làm báo từ thời kỳ trước nhưng công tác đào tạo chưa hiệu quả và còn hẹp gây nên tình trạng thiếu nhân lực cho hoạt động báo chí.
Có thể nói, bối cảnh mới đã tạo cho hoạt động của báo chí Việt Nam cả những điều kiện thuận lợi và khó khăn. Mặc dù thời kỳ này, báo chí Việt Nam đã hoạt động thống nhất nhưng vẫn còn tồn tại hai đường lối hoạt động báo chí ở hai miền khác hẳn nhau do ảnh hưởng của hai hệ ý thức từ giai đoạn trước. Vì vậy, khó khăn đặt ra là báo chí phải khắc phục những tàn tích chiến tranh còn sót lại trong hoạt động của mình.
___________
1.Sơ thảo lịch sử 50 năm báo Nhân dân, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 185.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1982, tr.35.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.45, tr.2.
4. Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật Việt Nam: 40 năm báo Khoa học và đời sống, Hà Nội, 1999, tr. 56.
5. Hội Nhà báo thành phố Hà Nội: Báo chí Hà Nội - một chặng đường lịch sử 1954 – 1993, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.60.
6. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam: 70 năm báo Lao động, Nxb. Lao động, Hà Nội, 1999, tr.77.
7. Ban Chấp hành Trung ương Đảng: Quy chế tổ chức báo địa phương, ngày 15-10-1985.
8. Báo Nhân dân, ngày 1-1-1976.
9. Báo Sài Gòn giải phóng, ngày 10-1-1976.
10. Xem báo Nhân dân, ngày 25-4-1976.
11. Báo Nhân dân, ngày 13-12-1976.
12. Báo Nhân dân, ngày 13-12-1976.
13. Báo Sài Gòn giải phóng, ngày 17-2-1976.
14. Báo Người lao động, ngày 26-8-1977.
15. Báo Nhân dân, ngày 2-2-1976.
16. Báo Người lao động, ngày 19-8-1977.
17. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam: 70 năm báo Lao động, Sđd, tr.86.
18. Báo Lao động, ngày 16-10-1986.
19. Trần Đình Bá: Một chặng đường làm báo, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 1999, tr. 37.
20. Báo Người Lao động, ngày 30-10-1986.
21. Báo Nhân dân, ngày 25-11-1980.
22. Báo Nhân dân, ngày 21-10-1986.
23. Báo Nhân dân, ngày 4-7-1980.
24. Báo Nhân dân, ngày 13-2-1978.
25. Báo Nhân dân, ngày 12-1-1978.
26. Hồng Chương: 120 năm báo chí Việt Nam, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1985, tr. 109.
27. Đài Tiếng nói Việt Nam: 55 phát thanh đối ngoại, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, tr. 19.
28. Xem GS. Hà Minh Đức (chủ biên): Thời gian và nhân chứng, Sđd, t.2, tr. 441 – 445.
29. Xem Văn kiện Đại hội lần thứ IV, Hội Nhà báo Việt Nam.
30. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1982, tr. 45.
31. Hữu Thọ: Công việc của người viết báo, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1998, tr. 333.
32. Xem Hữu Thọ: Công việc của người viết báo, Sđd, tr. 334.
CHƯƠNG V
BÁO CHÍ CÁCH MẠNG VIỆT NAM TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC 1986 - 2000
 I- BÁO CHÍ HOẠT ĐỘNG TRONG ĐIỀU KIỆN ĐẤT NƯỚC BẮT ĐẦU ĐỔI MỚI
1. Đổi mới đất nước và yêu cầu đổi mới báo chí
a) Bối cảnh lịch sử
Giai đoạn 1986 - 2000 được coi là thời điểm đất nước có nhiều biến động sâu sắc. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (12-1986) trở thành mốc quan trọng đánh dấu bước chuyển sang thời kỳ đổi mới của Việt Nam. Nghị quyết Đại hội xác định: ''đổi mới toàn diện trên mọi lĩnh vực'', ''trọng tâm trước mắt là đổi mới chính sách kinh tế'', ''giữ vững ổn định chính trị là tiền đề để bảo đảm thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới''1. Đại hội VI khẳng định quyết tâm tiếp tục thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Từ đại hội này, Đảng đã đặt ra vấn đề đổi mới toàn diện, trước hết trên lĩnh vực đặc biệt là quản lý kinh tế và sản xuất. Nhiệm vụ chung cho cả chặng đường đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được đề ra là: toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đoàn kết một lòng, quyết tâm đem hết tinh thần và lực lượng tiếp tục thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong khi không ngừng chăm lo nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, Đảng và nhân dân ta tiếp tục đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng chế độ làm chủ tập thể, nền kinh tế mới, nền văn hóa mới và con người mới xã hội chủ nghĩa. Những mục tiêu cụ thể được đặt ra gồm: sản xuất đủ tiêu dùng và có tích lũy, tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý nhằm phát triển sản xuất, xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới, tạo ta chuyển biến tốt về mặt xã hội, bảo đảm nhu cầu củng cố quốc phòng và an ninh.
Từ năm 1986 - 1990, hàng xuất khẩu tăng gấp 8 lần. Từ năm 1989, nước ta đã tăng thêm các mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn như gạo, dầu thô... Nhập khẩu giảm đáng kể, cán cân xuất nhập khẩu gần ngang bằng. Một thành tựu hết sức quan trọng trong thời kỳ này là Việt Nam đã kiềm chế được một bước đà lạm phát. Nếu chỉ số tăng giá bình quân hàng tháng trên thị trường năm 1986 là 20%, năm 1987 là l0%, năm 1989 con số này còn 2,5%, năm 1990 là 4,4%. Điều này tạo điều kiện cho các cơ sở kinh tế hạch toán kinh doanh, đời sống nhân dân giảm bớt khó khăn.
Quan hệ kinh tế của Việt Nam thời kỳ này được mở rộng. Tính đến 31-12-1989, Việt Nam đã có quan hệ với 114 nước, trong đó có 76 nước có quan hệ thương mại và hợp tác kinh tế. Việt Nam thời kỳ này tích cực tham gia vào các tổ chức quốc tế. Tính đến cuối năm 1989, Việt Nam đã là thành viên của hơn 20 tổ chức quốc tế khác nhau. Điều này khiến Việt Nam dần dần tạo được mối quan hệ hợp tác kinh tế, khoa học - kỹ thuật với các nước trên thế giới cũng như tiếp xúc với các nền văn minh. Đặc biệt, sau khi có có Luật Đầu tư (12-1987), Việt Nam bắt đầu thiết lập mối quan hệ kinh tế với nước ngoài một cách chặt chẽ và lâu dài hơn. Sau hơn l năm có Luật Đầu tư, đã có trên 2.000 đoàn nước ngoài vào Việt Nam thăm dò, nghiên cứu khả năng đầu tư hợp tác. Đến tháng 10-1989 đã có 96 dự án được cấp giấy phép với tổng số vốn đầu tư 755 triệu USD. Mặc dù con số này chưa nhiều nhưng bước đầu đã mở ra mối quan hệ kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật của Việt Nam với các nước trên thế giới.
Riêng với Liên Xô, một trong những thị trường truyền thống, có ảnh hưởng to lớn tới Việt Nam trong thời kỳ này đã lâm vào khủng hoảng chưa từng có. Sau gần 6 năm tiến hành cải tổ (tháng 2-1986) đã không đem lại kết quả tốt. Không những thế, công cuộc cải tổ ngày càng trục trặc, bế tắc và vượt xa mục tiêu chủ nghĩa xã hội, khiến Liên Xô lâm vào khủng hoảng về mọi mặt. Năm 1989 được coi là năm xấu nhất của nền kinh tế Liên Xô cùng với những diễn biến cực kỳ phức tạp của đất nước này. Toàn bộ quá trình trì trệ - khủng hoảng kéo dài trong nhiều năm của Liên Xô đã lên tới đỉnh cao khiến Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết tan vỡ sau gần 75 năm tồn tại.
Sau sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu, các thế lực thù địch tăng cường việc thực hiện âm mưu ''diễn biến hòa bình'', kích động việc thực hiện đa nguyên chính trị, đa dạng nhằm xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Về kinh tế, những thay đổi lớn ở Liên Xô và Đông Âu đã gây ra cho Việt Nam nhiều đảo lộn lớn về thị trường xuất khẩu và nhập khẩu cũng như nhiều chương trình hợp tác kinh tế.
Tuy nhiên, thời kỳ này Việt Nam cũng còn nhiều vấn đề kinh tế - xã hội chưa được giải quyết. Đó cũng là những hạn chế tất yếu của thời kỳ như: nền kinh tế còn mất cân đối lớn, lạm phát vẫn ở mức cao, lao động còn thiếu việc làm, hiệu quả kinh tế thấp, nhiều cơ sở sản xuất bị đình đốn kéo dài, chưa có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, chế độ tiền lương bất hợp lý, tốc độ tăng dân số cao; sự nghiệp văn hóa có mặt xuống thấp, tình trạng tham nhũng còn nặng nề và phổ biến.
Những thành tựu cũng như hạn chế trong giai đoạn này phần nào đã khẳng định đường lối đổi mới đúng đắn của Việt Nam. Điều này cũng ảnh hưởng tới sự phát triển của hệ thống báo chí trong thời kỳ này. Vấn đề đổi mới báo chí cũng theo luồng gió của đổi mới sau Đại hội Đảng lần thứ VI cũng được đặt ra hết sức quyết liệt.
b) Đảng đặt vấn đề đổi mới báo chí
Tính đến cuối năm 1989, Việt Nam đã có hơn 200 tờ báo, cả báo trung ương lẫn địa phương, với trên 6.000 người làm báo chuyên nghiệp. Mặc dù trong thời kỳ này, báo chí Việt Nam vẫn gặp rất nhiều khó khăn về cơ sở vật chất - kỹ thuật như giấy in báo, cơ sở ấn loát, kỹ thuật..., nhưng báo chí vẫn phát triển cả về nội dung lẫn hình thức.
Sau Đại hội VI của Đảng, mọi lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội cũng đồng thời phải đổi mới. Chưa bao giờ trong lịch sử Việt Nam báo chí cách mạng lại có sự sôi động và vai trò của người làm báo được xã hội thừa nhận đến như vậy.
Hội nghị thường kỳ Ban Chấp hành Hội Nhà báo Việt Nam đúng ra được triệu tập vào tháng 12-1985 nhưng lùi sang cuối năm 1986 nhằm tiếp thu các quan điểm mới của Trung ương về dự thảo Báo cáo chính trị và nội dung tuyên truyền của báo chí phục vụ Đại hội VI của Đảng. Một trong những trọng tâm của Hội nghị Ban Chấp hành Hội Nhà báo Việt Nam tổ chức trong hai ngày 30 và 31-7-1986, là quán triệt tinh thần chỉ đạo, đổi mới của Đảng trên các lĩnh vực công tác, trước hết là trên lĩnh vực quản lý kinh tế - xã hội, trong đó có công tác báo chí. Đây là lần đầu tiên, vấn đề đổi mới báo chí được nêu ra một cách thẳng thắn và quyết tâm trong hội nghị thường kỳ của Hội Nhà báo. Hội nghị này nhấn mạnh: phải đổi mới tư duy, đổi mới phong cách, đổi mới tổ chức và cán bộ trong báo chí mới có thể tiến kịp sự phát triển của cách mạng và báo chí mới phát huy được đầy đủ chức năng là công cụ của Đảng, là cầu nối liền giữa Đảng với quần chúng.
Bản thân tổ chức Hội Nhà báo cũng yêu cầu phải được kiện toàn vững mạnh, đủ đáp ứng nhu cầu công tác ngày càng phát triển. Đồng chí Hoàng Tùng, Chủ tịch Hội Nhà báo phân tích: Trong hoàn cảnh mới hiện nay, Hội ta cũng như các đoàn thể khác phải tiếp tục đổi mới phong cách hoạt động, trong điều kiện sẽ không còn chế độ bao cấp thì phải làm như thế nào cho thích hợp cũng là vấn đề phải tiếp tục nghiên cứu giải quyết dần từng bước. Ở trung ương, hội ít nhiều cũng đã có kinh nghiệm về hoạt động dịch vụ trong khuôn khổ hợp lý, hợp pháp nhằm mục tiêu đảm bảo cho công tác khác về nghiệp vụ, quan hệ quốc tế... hoạt động bình thường, tuy còn không ít khó khăn trở ngại. Ở các hội tỉnh, thành phố và các chi hội còn nhiều lúng túng, khó khăn về xây dựng quỹ và cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ cho công tác của hội. Đó là những vấn đề đặt ra phải có biện pháp giải quyết thỏa đáng.
Châm ngòi nổ cho quá trình đổi mới báo chí Việt Nam bắt đầu từ loạt bài “Những việc cần làm ngay'' của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh ngày 25-5-1987 trên các báo, đài. Những bài báo mang tiêu đề “Những việc cần làm ngay'' đã phê bình cụ thể, có địa chỉ rõ ràng, mở ra luồng sinh khí mới cho giới báo chí tham gia trực tiếp cuộc đấu tranh chống tiêu cực đi đôi với cổ vũ các nhân tố mới. Tiếp theo, hàng loạt các báo, đài từ Bắc vào Nam với đủ đề tài đã mở chuyên mục “Hưởng ứng những việc cần làm ngay''. Nhờ đó, hàng loạt các vụ tiêu cực, những biểu hiện đặc quyền đặc lợi của một số người như áp bức quần chúng, làm ăn bê bối... đã được đưa ra trước công luận. Báo Nhân dân từ việc đăng những bài báo ngắn gọn trên góc phải trang nhất, sau này được chuyển thành diễn đàn “Nói và Làm'' đã gắn kết chặt chẽ giữa việc phê phán trên báo với những hành động cụ thể để sửa chữa những khuyết điểm đó.
Tại Đại hội lần thứ V Hội Nhà báo Việt Nam (tháng 10-1989), vấn đề đổi mới báo chí đã được đánh giá cụ thể và có tầm chiến lược. Với tiêu đề Đổi mới báo chí vì sự nghiệp đổi mới của đất nước, báo chí của Ban Chấp hành khóa IV tại Đại hội đã khẳng định sự phát triển của báo chí thế hiện rõ qua phong trào đổi mới báo chí phục vụ sự nghiệp đổi mới của đất nước. Ba vấn đề đổi mới báo chí đã được nêu lên gồm: đổi mới thông tin, báo chí cố gắng thể hiện là tiếng nói của Đảng đồng thời là diễn đàn của nhân dân, báo chí tích cực tham gia chống tiêu cực đi đôi với việc phát hiện và cổ vũ nhân tố mới. Trong đó, nét nổi bật của đổi mới báo chính là đổi mới thông tin.
Từ những thành tựu và khuyết điểm của báo chí việt Nam trong quá trình đổi mới, Đại hội V đã đưa ra quan điểm đổi mới báo chí: Báo chí thể hiện tiếng nói của Đảng, đồng thời là diễn đàn của nhân dân; sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí; mở rộng dân chủ với tinh thần dân chủ trong báo chí. Có thể nói tư tưởng lấy dân làm gốc, dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra của Đảng đã thực sự thấm sâu vào quá trình đổi mới báo chí.
Ngày 20-1-1990, Quốc hội đã thông qua và chính thức công bố Luật Báo chí mới. Luật Báo chí thể hiện trung thực những bước đi về những quan điểm cơ bản trong công cuộc đổi mới báo chí của Đảng và Nhà nước cũng như ý nguyện của toàn dân. Luật Báo chí xác định, dù là cơ quan thông tin, ngôn luận của bất cứ cơ quan, tổ chức nào cũng là diễn đàn của nhân dân. Nhà nước tạo điều kiện để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí và để phát huy đúng vai trò của mình. Báo chí không bị kiểm duyệt trước khi in, phát sóng. Quyền thông tin và quyền được tự do thông tin của nhân dân đã được thể hiện vào Luật Báo chí. Nội dung cơ bản của quyền này là người dân được thông tin qua báo chí về mọi mặt của tình hình đất nước và thế giới, được cung cấp thông tin cho báo chí, được phát biểu ý kiến của mình và tham gia xây dựng chính sách, pháp luật, được kiến nghị, phê bình, khiếu nại...qua báo chí. Cốt lõi của nó là cơ quan báo chí cho dù là ai, và người làm báo bất luận hoạt động trong lĩnh vực nào đều được quyền thông tin và được thông tin của nhân dân.
Có thể nói Luật Báo chí năm 1990 đã thể hiện khá trung thực những bước tiến quan trọng về những quan điểm cơ bản trong công cuộc đổi mới báo chí của Đảng và Nhà nước ta cũng như ý nguyện của toàn dân. Luật ra đời cũng chính do sự phát triển nội tại của báo chí Việt Nam, là kết quả của cả một quá trình tự vận động để đổi mới báo chí, đóng góp vào công cuộc chung của toàn đất nước ở thời điểm đó. Luật Báo chí quy định quyền và nghĩa vụ của nhà báo, của tổng biên tập, của cơ quan chủ quản. Lần đầu tiên, Hội Nhà báo Việt Nam được pháp luật công nhận quyền và nghĩa vụ của mình. Tuy ngắn gọn (chỉ có 31 điều), nhưng Luật Báo chí đã chứa đựng lượng thông tin cao và thể hiện đầy đủ chế độ báo chí ở một nước độc lập, tự do, nhân dân làm chủ đang xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của mình.
2. Vai trò của báo chí trước những biến động lớn của xã hội và thế giới
a) Trước những vấn đề bức xúc của đất nước ở thời kỳ đầu của công cuộc đổi mới
Ngay sau Đại hội Đảng lần thứ VI của Đảng, vấn đề đổi mới nền kinh tế cùng những mối quan hệ xã hội được đặt ra một cách gay gắt. Sau Đại hội Đảng, quán triệt tinh thần, hầu hết các báo tập trung vào việc phổ biến, tuyên truyền và giáo dục về đường lối đổi mới của Đảng, một mặt trang bị cho cán bộ và nhân dân một sự đánh giá đúng thực tế tình hình đất nước, mặt khác làm rõ quan điểm, đường lối và nội dung đổi mới. Theo tinh thần ''nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật'', báo chí công bố những đánh giá quan trọng nhất của Đảng qua các văn kiện lớn của Đại hội, thẳng thắn vạch rõ những sai lầm, khuyết điểm, đồng thời đấu tranh chống lại các xu hướng sai trái muốn phủ nhận thành tựu của cách mạng, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng. Báo cũng chỉ ra tính chất cấp bách và tất yếu phải đổi mới, nhưng đổi mới là một sự nghiệp cách mạng đầy khó khăn gian khổ, chưa có tiền lệ, phải vừa làm vừa tìm tòi, khám phá, phải nhằm mục tiêu chủ nghĩa xã hội, lựa chọn bước đi và các giải pháp, tránh những vấp váp trước đây, không chủ quan duy ý chí nhưng cũng không được bảo thủ, trì trệ.
Về mặt kinh tế, các báo tập trung tuyên truyền nổi bật các quan điểm đổi mới của Đảng:
- Bố trí lại cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu tư, đổi mới công nghệ và kỹ thuật, tập trung thực hiện ba chương kinh tế lớn: lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu.
- Về quan hệ sản xuất, đi đôi với việc phát triển kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể cần có những bước đi phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của hai thành phần kinh tế trên; đồng thời có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế khác, khuyến khích kinh tế gia đình; thừa nhận sự tồn tại của kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ và kinh tế tư bản tư nhân.
- Đổi mới cơ chế quản lý theo hướng xóa bỏ tập trung bao cấp, xây dựng cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, chuyển sang quản lý nền kinh tế bằng phương pháp kinh tế là chủ yếu.
Trong công nghiệp và xây dựng, các báo như Nhân dân, Lao động, Tiền phong, Sài Gòn giải phóng tập trung tuyên truyền cho việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư, hướng vào các công trình trọng điểm như thủy điện Sông Đà và Trị An, dầu khí Vũng Tàu - Côn Đảo,... Đồng thời cổ vũ mạnh hơn nữa việc đổi mới quản lý theo cơ chế mới, thực hiện tự chủ tài chính, hạch toán kinh doanh, đưa ra nhiều điển hình làm ăn theo cơ chế mới.
Coi việc tuyên truyền cho mặt trận phân phối lưu thông là một trọng điểm. Điểm này, ngoài các báo lớn ở cấp trung ương, những tờ báo địa phương như Hà Nội mới, Sài Gòn giải phóng đã làm rất tốt. Ngoài việc cổ vũ mạnh cuộc phấn đấu thực hiện “bốn giảm'' và chỉ rõ rằng muốn ''bốn giảm” phải dứt khoát đi vào cơ chế quản lý mới.
Tình hình kinh tế - xã hội trực tiếp ảnh hưởng đến đời sống văn hóa, văn nghệ. Giới văn nghệ sĩ nước ta phấn khởi tiếp nhận những chủ trương đổi mới của Đảng, đồng thời cũng đề ra yêu cầu bức xúc về tự do sáng tạo. Trong khi đó, cũng có những quan điểm sai trái muốn phủ nhận những thành tựu của cách mạng và kháng chiến nói chung và của nền văn học, nghệ thuật cách mạng nói riêng, phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng đối với văn hóa, văn nghệ, coi đó là sự trói buộc đối với văn học, nghệ thuật. Đây chính là thời điểm mà vấn đề ''Văn hóa nghệ thuật'' được các báo chú trọng, trở thành diễn đàn dể hầu hết các văn nghệ sĩ bày tỏ quan điểm, lập trường tư tưởng của mình. Đã có lúc, các vấn đề này trở thành gay gắt, nóng bỏng trên các mặt báo, bên cạnh những vấn đề kinh tế - xã hội. Bên cạnh việc ủng hộ việc tôn trọng quyền tự do sáng tạo, nhưng mặt khác, báo chí Việt Nam lúc đó phải tiến hành cuộc đấu tranh chống các khuynh hướng lệch lạc, không tán thành chủ trương ''định hướng rộng'' để trên thực tế buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực này.
Tháng 11-1987, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 05 về Đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo quản lý văn học, nghệ thuật và văn hóa, phát huy khả năng sáng tạo, đưa văn học nghệ thuật và văn hóa phát triển lên một bước mới. Nghị quyết đã góp phần nâng cao nhận thức, đẩy mạnh các hoạt động văn hóa, văn học nghệ thuật. Những tờ báo, tạp chí như Nhân dân, Văn nghệ, Văn nghệ quân đội, Tiền phong, Tạp chí Cộng sản, Sông Hương ở thời điểm đó đã có nhiều cố gắng trong công tác tuyên truyền cho nghị quyết đó, thông qua nhiều bài viết của nhiều cán bộ lãnh đạo và vàn nghệ sĩ. Hội nghị Trung ương lần thứ bảy (8-1989) ra Nghị quyết Một số vấn đề cấp bách về công tác tư tưởng, nhận định những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng khó khăn ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa để rút kinh nghiệm cho ta phòng và tránh những sai lầm trong lãnh đạo nói chung và trong lãnh đạo tư tưởng nói riêng.
Hội nghị Trung ương lần thứ tám (tháng 3-1990) của Đảng ra Nghị quyết về Tình hình các nước xã hội chủ nghĩa, sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc và nhiệm vụ cấp bách của Đảng ta, đã phân tích sâu sắc những nguyên nhân của cuộc khủng hoảng, trong đó nguyên nhân trực tiếp thứ nhất là sự ''xa rời hoặc từ bỏ những tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin'', và nguyên nhân thứ hai là ''sự phá hoại của các thế lực đế quốc và phản động quốc tế''.
Căn cứ vào nghị quyết của Trung ương, những tờ báo như Nhân dân, Hà Nội mới, Sài Gòn giải phóng, Văn nghệ, Lao động... đã có hàng loạt bài viết, vừa làm sáng tỏ các nhận định của Trung ương, vừa phê phán các tư tưởng sai trái nêu trên. ''Cứ như luận điệu của các thế lực chống chủ nghĩa xã hội thì khủng hoảng bắt nguồn từ bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, một chế độ theo họ không cao hơn mà lại thấp hơn chế độ tư bản chủ nghĩa, một chế độ bị áp đặt khiên cưỡng trong tiến trình lịch sử. Không! Khủng hoảng không bắt đầu từ đó. Chủ nghĩa xã hội đã, đang và sẽ còn tiếp tục chứng tỏ sức sống của nó''2.
b) Báo chí tích cực tham gia đấu tranh chống tiêu cực đi đôi với việc phát hiện và cổ vũ nhân tố mới
Cùng với việc tiếp tục phản ánh ý kiến nhân dân đóng góp với Đại hội Đảng lần thứ VI, báo chí mở cuộc đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực, phê bình công khai, có địa chỉ và yêu cầu xử lý nghiêm minh những vụ việc tiêu cực và những cán bộ phạm sai lầm.
Ngày 25-5-1987, trên các báo, đài, đồng chí Nguyễn Văn Linh mở mục “Những việc cần làm ngay''. Tiếp đó, hầu hết các báo, đài mở chuyên mục “Hưởng ứng những việc cần làm ngay''. Bằng nhiều hình thức và thể tài, báo chí trong Nam ngoài Bắc phanh phui trước công luận nhiều vụ tiêu cực, nghiêm khắc phê phán những hiện tượng một số người đặc quyền đặc lợi, vi phạm quyền công dân, áp bức quần chúng, làm ăn bê bối.
Nhìn chung, cuộc đấu tranh chống tiêu cực trên báo, đài thời gian này về cơ bản là đúng hướng, chọn đúng vấn đề. Những vụ việc đấu tranh có kết quả là do mấy yếu tố:
1. Nhân dân phát hiện những hiện tượng tiêu cực, kiên trì đấu tranh.
2. Báo chí với ý thức trách nhiệm xã hội của mình, cân nhắc chọn lựa, điều tra, đưa đúng vụ việc tiêu biểu ra công khai.
3. Có sự phối hợp giữa các cơ quan báo, đài khi đề cập những vụ việc quan trọng và phức tạp.
4. Các cơ quan Đảng và Nhà nước có trách nhiệm quan tâm kiểm tra, kết luận và xử lý3.
Báo chí thông qua đấu tranh chống tiêu cực đã góp phần vào cuộc vận động làm trong sạch tổ chức đảng, bộ máy nhà nước, lành mạnh hóa các quan hệ xã hội, góp phần phát huy dân chủ trong sinh hoạt Đảng và trong xã hội, minh oan cho người vô tội, lên án những hành vi trù dập người phê bình. Báo chí cũng lên án những người lợi dụng dân chủ để vu cáo, xuyên tạc sự thật, hỗ trợ các cơ quan pháp luật và quần chúng chống tiêu cực như báo Đại đoàn kết, Tiền phong, Lao động, Phụ nữ Việt Nam, Thanh niên, Công an thành phố Hồ Chí Minh...
Đi đôi với việc chống tiêu cực, báo chí đã có cố gắng phát hiện những nhân tố mới, cổ vũ những ''điểm sáng”, những điển hình tiên tiến. Nhìn lại các số báo, các chương trình phát thanh, các buổi truyền hình, các phim thời sự đều có thể thấy chúng ta đã chú ý biểu dương cái mới. Có những nhân tố mới báo chí phát hiện, cổ vũ và đã trở thành điển hình tiên tiến. Nhiều kinh nghiệm của nhân dân đã được tổng kết, làm cơ sở cho nhiều nghị quyết của Đảng về đổi mới quản lý, sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ chế mới. Trên báo viết, báo nói, báo hình, báo ảnh ngày càng xuất hiện nhiều hơn những mô hình mới về ba chương trình kinh tế lớn, về ''Khoán 10'' trong nông nghiệp, về kinh tế nhiều thành phần, về những thành tựu áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất và đời sống.
Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận không ít báo chí đã có lúc thiên về chống tiêu cực, chưa thật coi trọng việc phát hiện và cổ vũ gương tốt về những con người, những đơn vị kinh tế quốc doanh công nghiệp, nông nghiệp, phân phối lưu thông, những đơn vị đã vươn lên tháo gỡ khó khăn, tìm ra cách làm ăn mới, đem lại hiệu quả kinh tế.
Tại thời điểm này, rất nhiều các tờ báo làm tốt công tác chống tiêu cực, đồng thời cổ vũ những nhân tố mới như Nhân dân, Tiền phong, Sài Gòn giải phóng, Hà Nội mới...
c) Báo chí với sự khủng hoảng và sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu
Khi công cuộc đổi mới do Đảng đề xướng đang được tiến hành và bước đầu đã thu được những kết quả khả quan thì tháng 8-1991, xảy ra sự kiện chính trị lớn ở Liên Xô và tháng 12-1991, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô sụp đổ, Liên bang Xôviết tan rã. Cùng với Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu bị tan vỡ. Quan hệ giữa nước ta với các thị trường truyền thống bị đảo lộn. Trong khi đó Mỹ vẫn tiếp tục cấm vận. Các thế lực thù địch đẩy nhanh những hoạt động phá hoại, mưu toan gây rối làm mất ổn định chính trị để tạo thời cơ tiến hành bạo loạn lật đổ. Chấn động chính trị lớn trên thế giới đã tác động sâu sắc đến tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân ta. Có thể nói, sau năm 1975, chưa bao giờ Việt Nam lại rơi vào hoàn cảnh khó khăn như vậy. Lo lắng lớn nhất của Đảng cũng như mọi người dân Việt Nam là liệu cách mạng nước ta có trụ được trong cơn thử thách hiểm nghèo không? Có thực hiện được con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản khi không còn những nước xã hội chủ nghĩa đi trước giúp đỡ không?
Trước tình hình đó, báo chí Việt Nam đã vào cuộc và thực hiện xuất sắc vai trò của mình. Nghị quyết 01 của Bộ Chính trị về phương hướng công tác tư tưởng và đối sách của ta trước tình thế mới để thực hiện ngày càng tốt công tác thông tin và nghị luận của mình. Những tờ báo lớn, có đông đảo bạn đọc như Nhân dân, Quân đội nhân dân, Sài Gòn giải phóng, Hà Nội mới, Lao động, Tiền phong, Văn nghệ... đã một mặt thông tin trung thực tình hình; mặt khác qua các bài bình luận thời sự và chuyên luận chính trị, hướng vào giải quyết các mối lo ngại trong cán bộ và nhân dân, khẳng định khả năng đứng vững và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Có thể nói, ở thời điểm này, chính hệ thống báo chí Việt Nam đã chủ động ''mở cửa'' đem lại một cái nhìn đa chiều cho bạn đọc Việt Nam về những sự kiện trên thế giới. Cùng với khủng hoảng và sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, là cái nhìn vào cuộc đấu tranh giữa con đường phát triển: xã hội chủ nghĩa hay là tư bản chủ nghĩa? Trước tình hình đó, Hội Nhà báo Việt Nam đã tiến hành quán triệt tinh thần của Nghị quyết 01 của Bộ Chính trị và Nghị quyết Trung ương 7 khóa VI. Từ đó, hệ thống báo, đài đã tập trung vào những nhiệm vụ và nội dung quan trọng nêu trong các nghị quyết của Đảng. Bằng thông tin, nghị luận qua những bài viết, báo chí Việt Nam góp phần:
1. Khẳng định tính tất yếu lịch sử của chủ nghĩa xã hội và những thành tựu vĩ đại của hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới.
2. Khẳng định tính tất yếu khách quan và phương hướng xã hội chủ nghĩa của quá trình cải tổ, cải cách, đổi mới.
3. Làm cho cán bộ và nhân dân ta nhận rõ bản chất và con đường diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản, nâng cao cảnh giác cách mạng, đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế.
4. Giáo dục trong Đảng và trong nhân dân kiên trì mục tiêu lý tưởng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở quán triệt 5 nguyên  tắc và những chính sách đổi mới của Đảng.
5. Giáo dục nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng xã hội chủ nghĩa, tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, sự thống nhất ý chí và hành động trong xã hội, đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực.
3. Sự phát triển của hệ thống báo chí địa phương
Trước khi Đại hội lần thứ VI của Đảng diễn ra, cả nước có hơn 200 tờ báo và tạp chí xuất bản định kỳ và có hơn 200 tờ thông tin khoa học, kỹ thuật. Bước vào thời kỳ đổi mới, bên cạnh sự khẳng định tên tuổi, uy tín của những tờ báo như Nhân dân, Quân đội nhân dân, Lao động, Tiền phong, Hà Nội mới, Sài Gòn giải phóng, Văn nghệ, Khoa học và đời sống, Phụ nữ Việt Nam... hầu hết các tờ báo đều bắt đầu có sự sắp xếp, chuyển đổi để phù hợp với tình hình mới, đặc biệt là hệ thống báo chí địa phương.
Trước Đại hội lần thứ VI của Đảng, hay xa hơn nữa là trong thời kỳ chiến tranh, báo chí địa phương chủ yếu là công cụ, là cơ quan ngôn luận của đảng bộ địa phương nhằm phổ biến, tuyên truyền và hướng dẫn nhân dân thực hiện các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Đặc biệt báo chí địa phương lúc đó được quy định hết sức chặt chẽ: Hầu như mỗi địa phương chỉ có một tờ báo của đảng bộ địa phương. Thậm chí có địa phương không có tờ báo nào như tỉnh Cần Thơ (đến tận năm 1992, tỉnh Cần Thơ mới có tờ báo của đảng bộ). Trừ một số địa phương lớn như Hà Nội, thành phố hồ Chí Minh... ngoài tờ báo của đảng bộ địa phương, còn có thêm một số tờ báo khác. Ví dụ, ở Hà Nội ngoài tờ Hà Nội mới còn có tờ Người Hà Nội (cơ quan của Hội Văn nghệ Hà Nội ra đời năm 1978), An ninh Thủ đô (của Công an thành phố hà Nội, ra đời năm 1981). Ở thành phố Hồ Chí Minh ngoài tờ Sài Gòn giải phóng ra còn có tờ Công nhân giải phóng (tiếng nói của công nhân và lao động thành phố Hồ Chí Minh, ra đời năm 1976, đến năm 1989, báo Công nhân giải phóng đổi tên thành Người lao động), Phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh (Tiếng nói của phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh ra đời năm 1976)... Sự quy định chặt chẽ đó, cùng với phong cách làm báo cũ (tờ báo mới chỉ là công cụ tuyên truyền, đấu tranh của đảng bộ địa phương, chưa thực sự trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu được) đã khiến cho báo chí địa phương nhiều khi trở nên khô cứng, ít hấp dẫn được bạn đọc.
Trong những năm đầu tiên ấy, dưới ánh sáng đổi mới của Đảng, báo chí bắt đầu có những đổi mới cải tiến nhất định, đặc biệt là báo địa phương. Nhiều cuộc hội thảo về báo chí địa phương đã diễn ra ở nhiều nơi như Hà Nội, Hải Phòng, Hà Tây, Vĩnh Phú, Bắc Thái, Hải Hưng, Yên Bái và nhiều tỉnh phía Nam... nhằm xác định rõ vai trò, chức năng quan trọng của báo chí địa phương hiện nay. Cũng qua các cuộc hội thảo đó, khái niệm về báo chí địa phương cũng đã được xác định lại một cách đúng đắn và toàn diện hơn, phù hợp với tình hình mới. Báo địa phương là các báo Đảng ở các tỉnh, thành phố, trở thành công cụ sắc bén trong công tác tư tưởng, đồng thời là món ăn tinh thần không thể thiếu được ở địa phương. Vị trí, vai trò và chức năng của báo chí địa phương cũng được xác định rất rõ. Trước hết, nó phải là công cụ, là cơ quan ngôn luận của đảng bộ địa phương về tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội... Đồng thời, nó là một trong những phương tiện hướng dẫn dư luận chỉ đạo công tác của đảng bộ và chính quyền địa phương. Mặt khác, báo chí địa phương cũng là diễn đàn của nhân dân, phản ánh nguyện vọng, ý kiến của nhân dân về tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội tại địa phương.
Báo chí địa phương dần dần có được những bước phát triển rõ rệt. Báo chí địa phương không còn bó hẹp trong khuôn khổ duy nhất một tờ báo của đảng bộ trước đây, mà hiện tại mỗi địa phương có thể có nhiều tờ báo khác nhau như báo ngành, báo đoàn thể hay báo của các tổ chức xã hội. Chẳng hạn, ở thành phố Hồ Chí Minh có rất nhiều tờ báo khác nhau: báo Tuổi trẻ thành phố Hồ Chí Minh (2 ngày một số), Tuổi trẻ chủ nhật (tuần báo), Giác ngộ (2 tuần một số), Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh (3 ngày một số) v.v.. Ở Hải Phòng, ngoài báo Hải Phòng ra còn có Tạp chí cửa biển, An ninh Hải Phòng, ở Bà Rịa - Vũng Tàu, ngoài tờ Vũng Tàu còn có tờ Văn nghệ Vũng Tàu, Tạp chí du lịch Vũng Tàu, Tạp chí du lịch bốn mùa (bằng tiếng Anh)... Điều đó chứng tỏ báo chí ở các tỉnh, thành phố ngày càng phong phú, đa dạng hơn. Sự phát triển nhanh chóng của báo chí địa phương còn thể hiện qua những con số cụ thể. Tính đến năm 1993 cả nước ta có 320 tờ báo, tạp chí với số lượng phát hành trên 350 triệu bản, trong đó, báo chí địa phương phát triển từ 69 đơn vị năm 1989 lên 91 đơn vị năm 1990 và 120 đơn vị năm 1993. Trong số 320 tờ báo hiện nay, có tới 50 tờ tuần báo của đảng bộ địa phương, 5 tờ báo hàng ngày, trong đó trung ương 2 tờ, địa phương 3 tờ (đó là Hà Nội mới, Sài Gòn giải phóng, Hải Phòng). Điều đó chứng tỏ báo địa phương đã không ngừng vươn lên, xóa đi dần cái khoảng cách phân biệt trước đây giữa báo trung ương và báo địa phương, đồng thời từng bước khẳng định vị trí của mình trong làng báo Việt Nam.
4. Sự thay đổi về nghệ thuật và kỹ thuật làm báo
Sự ghi nhận đầu tiên về nghệ thuật báo chí thời kỳ 1986 -1990 là đa dạng về thể loại, phong phú về nội dung và cái nhìn đa chiều của báo chí trước những vấn đề lớn của đất nước và thế giới. Có thể nói, đây chính là thời điểm mà báo chí Việt Nam bắt đầu tiếp cận với nền báo chí hiện đại với việc từng bước xóa bỏ bao cấp, hình thành nền kinh tế thị trường, trong đó báo chí cũng là một bộ phận.
Báo, đài đã thông tin nhiều chiều, đa dạng, phong phú hơn. Tin trong nước, tin thế giới được chọn lọc trình bày hấp dẫn hơn.
Thông tin toàn diện hơn, bên cạnh tin về những thành tựu, ưu điểm cũng đã thông tin về những khó khăn, khuyết điểm, những hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Hình thức trình bày phong phú hơn, gần gũi với đời sống hàng ngày hơn...
Báo, đài đã thông tin nhằm góp phần hoàn thiện hơn một số chính sách chưa đồng bộ, chưa hợp lý... Những kiến nghị của nhân dân được phản ánh. Tại thời điểm này, những thông tin từ phía bạn đọc đã được các báo, đài rất quan tâm. Ngoài việc trả lời bạn đọc, căn cứ trên các đơn thư của bạn đọc, các báo, đài đã triển khai các bài viết, điều tra rất có giá trị, đáp ứng được những nhu cầu bức xúc của nhân dân, trực tiếp đấu tranh chống lại các hiện tượng, vụ việc tiêu cực, góp phần làm trong sạch xã hội, tạo lòng tin của người dân đối với Đảng và chính quyền.
Các tạp chí, báo chuyên ngành, xưởng phim thời sự cũng có nhiều đổi mới về mở rộng thông tin, từ thông tin lý luận, thông tin kinh tế - xã hội đến thông tin khoa học kỹ thuật, thông tin văn hóa - thể thao...
Thông tin đối ngoại có những cố gắng đổi mới, đã thông tin nhiều hơn về tình hình nước ta với nội dung phong phú, đa dạng, thể hiện đúng quan điểm của Đảng ta, phù hợp với đối tượng nước ngoài. Chính sự mở rộng thông tin đã góp phần hình thành tư duy mới, nâng cao kiến thức, mở rộng tầm nhìn của cán bộ và nhân dân trên nhiều lĩnh vực.
Bước vào thời kỳ đổi mới, cùng với những khó khăn về kinh tế của thời kỳ đầu đổi mới, sự thiếu thốn về kỹ thuật hiện đại, nguyên vật liệu đã khiến cho nhiều tờ báo hoạt động rất khó khăn. Cơ chế thị thường, nhất là tình trạng lạm phát tăng nhanh, giá nguyên vật liệu, trực tiếp là giá giấy in báo tăng cao đã buộc nhiều tờ báo phải tự tìm đường đi mới để tiếp tục tồn tại và phát triển. Những tờ báo như Sài Gòn giải phóng, Khoa học và đời sống, Lao động, Tiền phong... đã phải tự mình huy động vốn, tìm kiếm nguồn cung cấp giấy ăn báo, tự trang bị lại máy in, các thiết bị kỹ thuật làm báo. Điểm đặc biệt trong thời kỳ này là một số tờ báo ở miền Nam đã tự mình tiến hành phát hành báo, từng bước thực sự chủ động ''kinh doanh'' báo chí. Rất nhiều tờ báo, sau khi báo in xong, phóng viên, cán bộ tòa soạn đã tự mình đi bán báo. Đây chính là sự đổi mới rất cơ bản về tư duy làm báo của Việt Nam ở thời điểm đó. Để tồn tại và thực hiện tốt được những nhiệm vụ chính trị, mỗi tờ báo phải không ngừng đổi mới để đem thông tin đến với bạn đọc một cách gần gũi và dễ hiểu nhất.
5. Vai trò của Hội Nhà báo Việt Nam với sự nhìn nhận về nền báo chí mới
Bắt đầu từ năm 1986, báo chí nước ta (bao gồm cả báo in, phát thanh, truyền hình, thông tấn xã) mặc dù gặp nhiều khó khăn về cơ sở vật chất và thiếu thốn về phương tiện kỹ thuật vẫn phát triển. Hội Nhà báo Việt Nam (từ Đại hội V) đã trở thành một tổ chức toàn quốc mới hệ thống ba cấp: trung ương, tỉnh hội và thành hội, chi hội cơ sở. Hiện nay có 32/44 hội nhà báo cấp tỉnh, thành phố, gần 260 chi hội với tổng số trên 6.200 hội viên (năm 1983, tại Đại hội IV có 130 chi hội và hơn 1.000 hội viên, chưa hình thành hệ thống tổ chức báo chí trong cả nước).
Trên cơ sở kiện toàn tổ chức ở nhiệm kỳ IV, với tư cách là một tổ chức chính trị và nghề nghiệp, Hội Nhà báo Việt Nam đã gắn bó hơn với hoạt động của báo chí trong tình hình mới. Trước yêu cầu cấp bách đổi mới báo chí và báo chí tham gia phê bình, đấu tranh chống tiêu cực, Ban Chấp hành khóa IV đã triệu tập một phiên họp ba ngày vào tháng 8-1987 để trao đổi về cuộc vận động này. Hội nghị đánh giá cao vai trò của báo chí về bước đầu đổi mới thông tin, về đấu tranh chống tiêu cực, thực hiện dân chủ và công bằng xã hội. Ban Chấp hành Hội cũng đã nghiêm túc tự phê bình công tác của Hội còn thiếu năng động, chưa theo kịp sự phát triển của lực lượng báo chí trong cả nước, chưa theo sát cuộc đấu tranh chống tiêu cực trên báo chí để từng bước rút kinh nghiệm, hướng dẫn, giúp đỡ, cổ vũ các chi hội trong cuộc đấu tranh này. Hội cũng đã đề nghị các hội nhà báo các tỉnh, thành phố, các chi hội thông qua cuộc đấu tranh chống tiêu cực và phong trào đổi mới báo chí để rà soát lại tổ chức và tư cách hội viên.
Ý thức về trách nhiệm là người đại diện cho hơn 6.200 người làm báo trong cả nước, Ban Chấp hành Hội đã phản ánh tâm tư, nguyện vọng và những kiến nghị của các nhà báo về những vấn đề cơ bản của công tác báo chí nước ta trong giai đoạn mới để Đảng và Nhà nước quan tâm giải quyết. Cuộc gặp và làm việc với các nhà báo của Ban Bí thư Trung Ương Đảng và đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh trong hai ngày 24 và 25-5-1988 đã thể hiện tình thần đó.
Về nghiệp vụ, trong thời kỳ này, Hội Nhà báo đã lựa chọn một số hình thức hoạt động thích hợp như sau:
-         Tổ chức hội thảo phối hợp với các cơ quan báo chí, các chi hội ở trung ương và địa phương tổ chức một số cuộc hội thảo chuyên đề về đổi mới quan điểm làm báo, báo chí phê bình công khai chống tiêu cực, cải tiến công tác thông tin, quốc phòng, phê bình đấu tranh chống tiêu cực…
-         Hằng năm, Hội còn phối hợp với Hội Nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt Nam, Hội Nghệ sĩ tạo hình Việt Nam tổ chức và cùng với OIJ tham dự thi ảnh báo chí, tranh biếm họa ở Cuba, Irắc, Cộng hòa Dân chủ Đức, Liên Xô... Các tiểu phẩm và tác giả của ta dự thi đã được bạn đánh giá cao và có một số tác phẩm được giải cao.
-         Tổ chức các lớp bồi dưỡng ngắn hạn cho các nhà báo. Sau khi Hội đồng Bộ trưởng quyết định cho thành lập Trường Bồi dưỡng báo chí, Hội đã phối hợp với các chi bộ ở trung ương và một số hội ở địa phương mở lớp bồi dưỡng ngắn hạn. Từ năm 1985 đã mở lớp bồi dưỡng cho hàng ngàn học viên, chủ yếu từ các tỉnh miền Trung trở ra. Hình thức mở lớp bồi dưỡng tại chỗ theo khu vực là hình thức thiết thực, có kết quả tốt, cần tiếp tục phát huy. Đồng thời, tranh thủ sử giúp đỡ của OIJ, của hội nhà báo một số nước anh em. Ngoài ra, Hội đã cử hàng trăm nhà báo ra nước ngoài học tập, theo các chương trình cả ngắn và dài hạn.
-         Thành lập các câu lạc bộ báo chí chuyên đề (phát thanh, truyền hình, thể dục, thể thao, kinh tế, quốc tế…) là một yêu cầu bức thiết, tuy đã có chủ trương nhưng chưa thực hiện được vì thiếu phương tiện và cán bộ phụ trách.
-         Xuất bản Tạp chí Người làm báo và các ấn phẩm báo chí. Lần đầu tiên Hội Báo chí Việt Nam xuất bản Tạp chí Người làm báo - cơ quan nghiệp vụ của Hội. Từ đó, duy trì xuất bản tạp chí một cách đều đặn. Theo thời gian, tạp chí được cải tiến về nội dung và hình thức và đã góp phần đắc lực vào việc bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt của người làm báo.
-         Biên tập lịch sử báo chí là một công tác quan trọng. Hội đã thành lập Hội đồng nghiên cứu lý luận và lịch sử báo chí nhưng chỉ mới có đề cương hướng dẫn viết lịch sử báo, đài cho các hội và chi bộ. Đã khuyến khích một số nhà báo soạn thảo được hai tài liệu “Soạn thảo lịch sử báo chí trước Cách mạng Tháng Tám”.
-         Hội Nhà báo Việt Nam đã bước đầu tham gia xây dựng chính sách thông tin, báo chí, tham gia ý kiến xây dựng hệ thống lương báo chí, tuy chưa đáp ứng được mong muốn của người viết báo, nhưng có những điểm tiến bộ hơn so với hệ thống lương cũ. Trực tiếp tham gia xây dựng Luật Báo chí (được Quốc hội thông qua ngày 20-l-1990).
Những hoạt động đối ngoại trong quá trình làm báo đã góp phần tăng cường đoàn kết, hợp tác hữu nghị của Hội Nhà báo Việt Nam với Tổ chức quốc tế các nhà báo, các hội nhà báo các nước xã hội chủ nghĩa anh em ở thời điểm đó và báo chí nước ngoài. Bước đầu, hội có quan hệ với Tổ chức Văn hóa, giáo dục và khoa học (UNESCO), các hội nhà báo Indônêxia, Nhật Bản, Thái Lan, Malaixia... Hội đã tổ chức một số cuộc hội thảo ở Hà Nội, đặc biệt là Hội nghị các nhà báo các nước châu Á – Thái Bình Dương tháng 1-1988 tại thành phố Hồ Chí Minh4.
Có thể nói, cùng với sự đổi mới của đất nước, hệ thống báo chí Việt Nam đã không ngừng đổi mới một cách toàn diện. Đề cập đến vấn đề này, nhà báo Hoàng Tùng viết: ''Muốn tiến lên thì phải đổi mới liên tục, đổi mới toàn diện. Cái mới ngày hôm qua đã trở thành cái cũ ngày hôm nay. Nước không chảy ngược. Người viết, người chỉ đạo phải săn đuổi cái mới, xử lý, làm rõ cái mới. Sát cuộc sống, nắm vững chính sách, quán triệt sáng tạo. Đó là sứ mệnh cao cả của đội ngũ các nhà báo chúng ta, trong đó Hội Nhà báo góp phần quan trọng, to lớn''5.
II- TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG VÀ QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG HOẠT ĐỘNG BÁO CHÍ
l. Chỉ thị 08-CT/TW Và Chỉ thị 22-CT/TW của Bộ Chính trị về đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác báo chí, xuất bản
a) Chỉ thị Số 08-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương về “Tăng cường sự lãnh đạo và quản lý nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác báo chí, xuất bản''
Ngày 31-3-1992, Ban Bí thư ra Chỉ thị số 08-CT/TW về “Tăng cường sự lãnh đạo và quản lý nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác báo chí, xuất bản”. Ngày 17-4-1992, Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương ra văn bản Hướng dẫn số 176 thực hiện chỉ thị nói trên. Đây là sự kiện vô cùng quan trọng của ngành tư tưởng văn hóa nói chung và lĩnh vực báo chí nói riêng.
Chỉ thị khẳng định những tiến bộ của báo chí nước ta trong thời kỳ đổi mới: ''Báo chí (bao gồm báo viết, báo nói, báo hình) đã thông tin nhanh, phong phú, đa dạng, nhiều chiều theo định hướng chính trị của Đảng, đã phổ biến đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đồng thời phản ánh nguyện vọng chính đáng và ý kiến xây dựng của nhân dân. Báo chí đã giới thiệu những nhân tố tích cực, khẳng định những thành tựu đổi mới và con đường xã hội chủ nghĩa đã lựa chọn, chống những hiện tượng tiêu cực, tham thũng, buôn lậu, những hành vi ức hiếp nhân dân, phê phán những quan điểm sai trái, chống những luận điệu thù địch''.
Chỉ thị cũng nêu rõ: ''Song, bên cạnh những ưu điểm cơ bản nói trên, công tác báo chí, xuất bản còn nhiều khuyết điểm, nhược điểm, trong đó có những khuyết điểm nghiêm trọng và kéo dài''.
Chỉ thị đã chỉ ra: ''Sự lãnh đạo, quản lý lỏng lẻo của các cơ quan chức năng trung ương, của nhiều cấp uỷ đảng, cấp uỷ chính quyền, cơ quan chủ quản có báo và nhà xuất bản là nguyên nhân quan trọng của tình trạng nói trên''.
Chỉ thị nêu rõ một số biện pháp cụ thể để khắc phục khuyết điểm nói trên.
''1. Ngay sau khi nhận được chỉ thị này, các cấp uỷ, các đồng chí phụ trách công tác báo chí, xuất bản đánh giá thực trạng báo chí, xuất bản ở địa phương mình và ngành mình, vạch rõ ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân, trách nhiệm''...
''2. Ban Bí thư giao cho Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương phối hợp với các ngành, các cấp hướng dẫn các cơ quan báo chí, xuất bản xây dựng và thực hiện kế hoạch đề tài nội dung sách báo phục vụ các nhiệm vụ đã ghi trong văn kiện Đại hội VII của Đảng cùng các văn kiện quan trọng khác của Đảng và Nhà nước từ sau Đại hội''.
''3. Đến tháng 6-1992, các cấp uỷ đảng, các đồng chí phụ trách các ngành phải lãnh đạo thực hiện xong việc sắp xếp lại hệ thống báo chí, xuất bản theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả chính trị, tư tưởng, văn hóa''.
''4. Báo chí, xuất bản thực hiện hạch toán thu chi để sử dụng tiền vốn có hiệu quả, phục vụ tốt các mục tiêu chính trị, văn hóa - tư tưởng...''.
''5. Xây dựng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ báo chí, xuất bản đến năm 2000...''.
''6. Kiện toàn cơ quan chỉ đạo của Đảng và cơ quan quản lý nhà nước về báo chí, xuất bản...''.
Bản hướng dẫn của Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương còn nhấn mạnh: ''Mục tiêu bao trùm là giữ vững ổn định chính trị, đẩy mạnh công cuộc đổi mới, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội''.
Ngày 20-4-1992, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 133-HĐBT ''Quy định chi tiết thi hành Luật Báo chí''. Bản Nghị định quy định chi tiết các vấn đề:
l. Bảo đảm quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo của công dân.
2. Tổ chức báo chí và nhà báo.
3. Quản lý nhà nước về báo chí.
4. Khen thưởng và xử lý vi phạm.
Bản Nghị định cùng với Chỉ thị 08 là những sự kiện có ý nghĩa hết sức to lớn đối với sự phát triển báo chí nước ta trong quá trình đổi mới.
b) Chỉ thị 22-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) về “Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý công tác báo chí, xuất bản''
- Bối cảnh ra đời của Chỉ thị 22:
Trong quá trình thực hiện Chỉ thị 08, báo chí nước ta phát huy được ưu điểm, khắc phục khuyết điểm và đã có bước phát triển mới. Đến năm 1997, cả nước đã có 450 đơn vị báo chí với 563 ấn phẩm các loại gồm 153 tờ báo, 290 tạp chí; cả nước đã có 17 trang Website phát trên mạng internet. Đội ngũ làm báo lên tới 7.560 người, trong đó 71% có trình độ đại học trở lên, 25% có trình độ ngoại ngữ bằng B trở lên. Số lượng tuyển sinh và đào tạo tập trung và tại chức đại học báo chí lên tới 400 – 500 người/năm. Số lượng sinh viên theo học báo chí lên tới hàng nghìn người.
Bên cạnh những thành tựu to lớn, báo chí lại xuất hiện những vấn đề mới. Trước hết, đó là khuynh hướng thương mại hóa với nhiều biểu hiện khác nhau chưa được khắc phục, mà ngược lại có chiều hướng phát triển. Tính trạng xa rời tôn chỉ, mục đích diễn ra khá phổ biến. Điều đó thể hiện ở việc coi nhẹ chức năng tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng. Trên một số ít báo chí, đã có những tin bài, hình ảnh có nội dung tư tưởng, quan điểm sai trái, chất lượng chính trị, văn hóa, khoa học, nhất là chất lượng chính trị của một số ẩn phẩm báo chí còn thấp. Một số cơ quan quản lý, nhất là cơ quan chủ quản đã không thường xuyên kiểm tra nên một số tờ báo xa rời tôn chỉ, mục đích. Một số ấn phẩm đã bị tư nhân thao túng, nhiều nhà báo vi phạm đạo đức nghề nghiệp, chế độ chính sách đối với báo chí chưa được xem xét.
Để khắc phục các khuyết điểm đó, tạo điều kiện cho báo chí phát triển lên một tầm cao mới, ngày 17-10-1997, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị 22 ''Tiếp tục đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý công tác báo chí, xuất bản''.
Chỉ thị đã nêu rõ: ''Hoạt động báo chí - xuất bản đã có chuyển biến tích cực và tiến bộ nhiều mặt” sau khi có Chỉ thị 08.
Chỉ thị 22 cũng nêu rõ những thiếu sót, khuyết điểm như “khuynh hướng thương mại hóa'' coi nhẹ biểu dương ''người tốt, việc tốt'', “coi nhẹ công tác đấu tranh tư tưởng''. Bản chỉ thị nhấn mạnh ''Kiểm tra và xử lý những hành động tiêu cực, những vi phạm pháp luật về hoạt động báo chí, xuất bản còn chậm''.
- Chỉ thị nêu ra một số nhiệm vụ quan trọng:
“1. Nắm vững các quan điểm và định hướng lớn trong hoạt động báo chí - xuất bản'', trong đó nhấn mạnh: “Báo chí - xuất bản đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng”, “Phải bảo đảm tính tư tưởng, tính chân thật, tính nhân dân, tính chiến đấu và tính đa dạng”; ''Tiếp tục phát triển sự nghiệp báo chí - xuất bản đi đôi mới quản lý tốt''.
“2. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương và Bộ Văn hóa - Thông tin dựa trên dự kiến quy hoạch tổng thể báo chí, xuất bản đến năm 2000 và những năm tiếp theo để kiểm tra, xem xét cụ thể và chấn chỉnh kịp thời theo hướng nâng cao chất lượng và hiệu quả, trước mắt cần chấm dứt tình trạng in ấn sách, báo, số phụ, số chuyên đề có nội dung xấu''.
“3. Khẩn trương quy hoạch và sắp xếp lại hệ thống trường lớp, nâng cao chất lượng đào tạo''.
“4. Bộ Văn hóa - Thông tin chủ trì phối hợp với Hội Nhà báo Việt Nam, các ban, bộ, ngành có liên quan nghiên cứu, đề nghị sửa đổi, bổ sung và ban hành các chế độ, chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động báo chí''.
''5. Các cấp uỷ, chính quyền, cơ quan chủ quản phải chịu trách nhiệm về mọi mặt quản lý và chỉ đạo chặt chẽ báo chí, xuất bản của cấp mình, ngành mình, đơn vị mình''.
Chỉ thị 22 là cột mốc quan trọng trong quá trình đổi mới công tác lãnh đạo và quản lý báo chí. Đó là cẩm nang để tiếp tục phát triển ngành báo chí Việt Nam.
2. Hoạt động của tổ chức Hội Nhà báo
a) Đại hội lần thứ VI Hội Nhà báo Việt Nam
Trong không khí phấn khởi trước bước phát triển mới của báo chí Việt Nam, Đại hội lần thứ VI của Hội Nhà báo Việt Nam được tổ chức tại Hà Nội. Đến dự Đại hội có đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười, đồng chí Nguyễn Đức Bình, Uỷ viên Bộ Chính trị. Phát biểu tại Đại hội, đồng chí Đỗ Mười nhấn mạnh: ''Thay mặt Đảng và Nhà nước, tôi nhiệt liệt biểu dương đội ngũ những người làm báo trong cả nước về những thành tựu mà các đồng chí đã đạt được trong những năm qua''.
Bên cạnh những thành tựu đó, phải thẳng thắn thừa nhận báo chí ta thời gian qua cũng còn nhiều mặt yếu. Đồng chí Tổng Bí thư giao nhiệm vụ cho báo chí: ''Cần phản ánh và tham gia tổng kết thực tiễn, cơ sở khoa học cho việc cụ thể hóa và phát triển đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ mới'', ''cổ vũ nhân dân ta tiết kiệm để công nghiệp hóa'', ''cần tiếp tục coi trọng nhiệm vụ phát triển văn hóa''.
Đại hội đã thông qua Báo cáo của Ban Chấp hành khóa V với nhan đề ''Báo chí vì sự nghiệp đổi mới và hiện đại đất nước'', thông qua ''Điều lệ Hội Nhà báo Việt Nam” và ''Quy ước về tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp của báo chí Việt Nam''.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Hội Nhà báo Việt Nam khóa VI gồm 35 đồng chí. Đồng chí Phan Quang được bầu làm Chủ tịch Hội. Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký: Trần Mai Hạnh, Phó Chủ tịch: Nguyễn Long Khởi.
Đại hội lần thứ VI Hội Nhà báo Việt Nam là cột mốc quan trọng trên đà phát triển của báo chí nước nhà.
b) Đại hội lần thứ VII Hội Nhà báo Việt Nam
Trong không khí kỷ niệm 70 năm ngày báo chí cách mạng và 50 năm thành lập Hội Nhà báo Việt Nam, ngày 24 và 25-3-2000, Đại hội lần thứ VII Hội Nhà báo Việt Nam đã được tổ chức trọng thể tại Hội trường Ba Đình, Hà Nội.
Tham dự Đại hội có 326 đại biểu đại diện cho 8.500 hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Đại hội được đồng chí Phan Văn Khải, Uỷ viên Thường vụ Bộ Chính trị Trung ương Đảng, Thủ tướng Chính phủ đến dự. Phát biểu tại Đại hội, đồng chí Phan Văn Khải nêu bật những thành tựu to lớn của ngành báo chí Việt Nam, những yếu kém, bất cập của ngành.
Đồng chí Phan Văn Khải nhấn mạnh: ''Quy ước đạo đức nghề nghiệp báo chí Việt Nam'' được Đại hội lần thứ VI, Hội Nhà báo thông qua đã và đang đi vào đời sống báo chí. Hội Nhà báo Việt Nam phải giương cao ngọn cờ tư tưởng của báo chí cách mạng và tư tưởng của vị lãnh tụ và nhà báo vĩ đại Hồ Chí Minh - tổ chức, động viên các nhà báo và cổ vũ toàn dân phấn đấu giành những thắng lợi, đạt tầm phát triển mới về kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xứng đáng với niềm tin yêu của nhân dân và của Đảng''.
Báo cáo của Ban Chấp hành Hội Nhà báo Việt Nam khóa VI mang tiêu đề “Báo chí vì sự nghiệp cách mạng của dân tộc và của Đảng những năm đầu của thế kỷ mới”. Báo cáo đề cập tới tình hình báo chí và đội ngũ người làm báo Việt Nam 5 năm qua (1995 - 1999) về nội dung và hình thức của báo chí, về bước trưởng thành của đội ngũ nhà báo. Báo cáo cũng rút ra các bài học kinh nghiệm 15 năm phấn đấu vì sự nghiệp đổi mới đất nước. Báo cáo nhấn mạnh: ''Phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu của giới báo chí Việt Nam và Hội Nhà báo Việt Nam trong 5 năm của nhiệm kỳ khóa VII (2000 - 2004) được xác định là: Mọi hoạt động báo chí phải hướng vào phục vụ nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Hội Nhà báo Việt Nam gồm 39 đồng chí. Đồng chí Hồng Vinh, Uỷ viên Trung ương Đảng được bầu làm Chủ tịch Hội và được Ban Bí thư chỉ định làm Bí thư Đảng Đoàn của Hội.
Đại hội VII Hội Nhà báo Việt Nam có ý nghĩa hết sức to lớn. Đây là cột mốc đánh đấu bước trưởng thành của ngành báo chí Việt Nam, của đội ngũ những người làm báo chí cách mạng. Đại hội là một sự khẳng định rõ ràng những người làm báo Việt Nam đã đóng góp to lớn vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc và sự nghiệp đổi mới đất nước. Nó cũng báo hiệu một tương lai sáng sủa của ngành báo chí Việt Nam trong thế kỷ XXI.
c) Đại hội thi đua toàn quốc giới báo chí Việt Nam lần thứ nhất
Vào cuối năm 2000, một sự kiện nổi bật của ngành báo chí đã diễn ra: Đại hội thi đua toàn quốc giới báo chí Việt Nam lần thứ nhất. Đại hội diễn ra vào ngày 11-11-2000, tại Hà Nội. Tham gia Đại hội có 321 đại biểu các nhà báo thuộc các loại hình báo chí, công tác trên mọi miền đất nước. Đại hội đã được đón đồng chí Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh đến dự và trao Huân chương Hồ Chí Minh cho báo giới. Phát biểu tại Đại hội, đồng chí Nông Đức Mạnh nói: ''Chính trong thực tiễn sinh động của đất nước trong 15 năm qua, bản thân báo chí nước ta đã tự đổi mới chính mình với một tốc độ phát triển khá nhanh so với 15 năm trước đây. Hiện nay, chúng ta có gần 500 cơ quan báo chí trên cả nước với nhiều loại báo chí khác nhau: báo viết, báo nói, báo hình, báo điện tử, nối mạng internet''... ''với hình thức trình bày ngày càng sinh động, hấp dẫn hơn''… Đặc biệt, đội ngũ báo chí nước ta với hơn 9.000 nhà báo chuyên nghiệp mà đại bộ phận có quan điểm chính trị vững vàng, trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân. Đồng chí Nông Đức Mạnh khẳng định: ''Huân chương Hồ Chí Minh - phần thưởng cao quý mà Đảng và Nhà nước quyết định trao tặng Hội Nhà báo và giới báo chí Việt Nam là sự đánh giá cao của Đảng, Nhà nước và nhân dân về sự đóng góp to lớn, quan trọng của báo chí trong sự nghiệp cách mạng của nước nhà''.
Về ý nghĩa của Đại hội, đồng chí Hồng Vinh nêu rõ: ''Ngày nay, nước ta đã có một lực lượng báo chí hùng hậu: gần 500 cơ quan báo chí và gần 600 ấn phẩm của các loại hình báo chí của trung ương, của các cấp, các ngành, các địa phương, với công nghệ làm báo khá hiện đại, phát hành gần 600 triệu bản/năm... Có thể nói đây là thời kỳ phát triển mạnh mẽ nhất của ngành truyền thông và giới báo chí nước ta''.
Đồng chí Hồng Vinh cũng khẳng định: ''Nhiều nhà báo đã bám sát các phong trào thi đua yêu nước để có các tác phẩm báo chí sinh động, có sức rung động lòng người, cổ vũ kịp thời tinh thần thi đua lao động sáng tạo''.
Có thể nói đây chính là nét đặc sắc và cũng là thành tích đóng góp xuất sắc nhất của phong trào thi đua yêu nước trong giới báo chí Việt Nam. Với những thành tích, kết quả thi đua yêu nước đã nói trên đây, giới báo chí Việt Nam đã nhiều lần được Đảng, Nhà nước biểu dương, khen ngợi, được nhân dân tin cậy và yêu mến. Tại lễ kỷ niệm trọng thể 75 năm báo chí cách mạng Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã trao tặng giới báo chí và Hội Nhà báo Việt Nam bức trướng mang dòng chữ “Báo chí cách mạng Việt Nam: trung thành, đoàn kết, trí tuệ, đổi mới vì sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước''. Và điều vinh dự lớn lao đối với giới báo chí Việt Nam, tại Đại hội thi đua này, Đảng và Nhà nước đã trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh cho ngành báo chí và Hội Nhà báo Việt Nam nhân 50 năm thành lập Hội. Đó là sự đánh giá toàn diện về những đóng góp quan trọng của báo chí nước ta trong nửa thế kỷ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là nguồn cổ vũ, khích lệ chúng ta tiếp tục đẩy tới phong trào thi đua yêu nước trong thời kỳ mới.
III- NHIỆM VỤ CỦA BÁO CHÍ TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
1. Đổi mới tư duy và hoạt động báo chí
Sự nghiệp cách mạng và công cuộc đổi mới của Đảng ta, nhân dân ta đang đứng trước những thời cơ và thuận lợi to lớn, đồng thời cũng có cả nguy cơ và thách thức. Dưới tác động mạnh mẽ của khủng hoảng kinh tế khu vực và âm mưu bao vây cấm vận kinh tế của Mỹ trong những năm đầu của thập kỷ 90 của thế kỷ XX, trước sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, cùng với chiến lược ''diễn biến hòa bình'' nguy hiểm chống Việt Nam của các thế lực thù địch, báo chí Việt Nam đã phải đối mặt với những yêu cầu, nhiệm vụ mới. Trong bản Hướng dẫn số 176 của Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương ngày 17-4-1992 về thực hiện Chỉ thị 08 ngày 31-3-1992 của Ban Bí thư về công tác báo chí, xuất bản đã nêu rõ trách nhiệm, yêu cầu của báo chí như sau:
a) Báo chí, xuất bản dù cơ quan của Đảng và Nhà nước, các đoàn thể quần chúng hay tổ chức xã hội đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và hoạt động theo pháp luật.
b) Thực hiện vai trò vừa là tiếng nói của Đảng, của Nhà nước, của đoàn thể, vừa là diễn đàn của nhân dân, sách, báo cần:
- Tăng cường phản ánh ý kiến thu hút trí tuệ của nhân dân đóng góp vào công cuộc đổi mới.
- Đồng thời phê phán những quan điểm lệch lạc, đề cao cảnh giác, chống lại những âm mưu và thủ đoạn phá hoại của các thế lực thù địch.
c) Trách nhiệm của báo chí, xuất bản là:
- Góp phần làm cho thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, động viên toàn Đảng, toàn dân vượt mọi khó khăn, năng động, sáng tạo thực hiện Nghị quyết Đại hội VII của Đảng.
- Mục tiêu bao trùm: là giữ vững ổn định chính trị, đẩy mạnh công cuộc đổi mới, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội.
d) Phát triển báo chí, xuất bản theo hướng nâng cao chất lượng nhằm:
- Đáp ứng nhu cầu thông tin, nâng cao kiến thức.
- Cổ vũ nhân tố mới, đồng thời đấu tranh chống tiêu cực.
- Bảo tồn, phát huy truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
- Đề cao tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường kết hợp với mở rộng quan hệ quốc tế, cần kiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Biểu dương tính trung thực, lòng nhân ái, tinh thần dũng cảm, tình yêu cao đẹp, chân chính, phê phán thói hư tật xấu, tính giả dối, độc ác, thị hiếu thấp kém.
Trải qua 5 năm thực hiện Chỉ thị 08, báo chí nước ta đã có bước tiến mới, đất nước đã có những thay đổi. Cuộc khủng hoảng kinh tế đã được ngăn chặn. Sự nghiệp đổi mới bước đầu giành thắng lợi. Đại hội VIII của Đảng đã chỉ ra phương hướng, nhiệm vụ cho những năm tới, chuẩn bị hành trang để Đảng ta và nhân dân ta bước vào thế kỷ XXI. Điều đó, càng đòi hỏi sự nghiệp báo chí, xuất bản và đội ngũ những người chỉ đạo, quản lý và hoạt động trên lĩnh vực đặc biệt quan trọng và nhạy cảm này phải không ngừng vươn lên, tiếp tục đổi mới hoạt động của mình, phấn đấu để ngày càng có nhiều tác phẩm báo chí - xuất bản xuất sắc, có tác động cổ vũ phong trào cách mạng của nhân dân, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tại Hội nghị báo chí toàn quốc (năm 1997), Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương đã cụ thể hóa các quan điểm và nhiệm vụ của báo chí:
1. Các quan điểm về báo chí
Hoạt động báo chí trong thời kỳ này cần nắm vững và vận dụng trong hoạt động thực tiễn những quan điểm cơ bản sau đây:
- Báo chí - xuất bản đặt đước sự lãnh đạo của Đảng và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Báo chí là tiếng nói của Đảng, của Nhà nước, của các tổ chức chính trị, xã hội và là diễn đàn của nhân dân. Sách, báo trước hết là phương tiện tác động tư tưởng, văn hóa. Các cơ quan báo chí - xuất bản hoạt động theo định hướng của Đảng và pháp luật của Nhà nước, nhằm phản ánh và hướng dẫn dư luận xã hội hình thành dư luận xã hội lành mạnh, cổ vũ phong trào cách mạng của quần chúng thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Báo chí là phương tiện thông tin, giáo dục và chỉ đạo. Sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước phải đảm bảo và tạo điều kiện thuận lợi cho báo chí thông tin, bình luận nhanh nhạy, kịp thời, chân thật, thể hiện được tính tư tưởng, tính nhân dân, tính chiến đấu và tính đa dạng. Tính chiến đấu thể hiện qua việc bảo vệ và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước ta, coi trọng biểu dương các nhân tố tích cực, người tốt, việc tốt; phê phán cái xấu, cái ác, cái đồi trụy, đấu tranh chống các quan điểm, luận điệu sai trái, xấu độc, lối sống xa hoa, trụy lạc xa rời truyền thống văn hóa dân tộc, hành vi tham ô, lãng phí, quan liêu nhằm mục tiêu xây dựng con người Việt Nam có lý tưởng cao đẹp, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, có kiến thức ngày một nâng cao, có đời sống tinh thần phong phú, lành mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới của cách mạng.
- Báo chí và xuất bản phải không ngừng phát triển, nhưng phát triển phải đi đôi với quản lý tốt, trước hết coi trọng chất lượng chính trị, văn hóa, nghiệp vụ và kỹ thuật, đặc biệt là chất lượng chính trị, bảo đảm đưa thông tin đến với mọi nhà, mọi vùng, phù hợp với tầng lớp, lứa tuổi, với những sản phẩm đúng, hay và đẹp, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của các tầng lớp nhân dân ở trong nước, ngoài nước, và để có thể hội nhập bình đẳng trên thế giới.
- Người làm báo, biên tập trong các cơ quan báo chí, xuất bản phải là chiến sĩ xung kích trên mặt trận tư tưởng - văn hóa như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, hoạt động theo định hướng của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Phải là những người có bản lĩnh chính trị vững vàng, có kiến thức sâu rộng, có đạo đức cách mạng và đạo đức nghề nghiệp trong sáng, có nghiệp vụ vững vàng, luôn luôn gắn bó với đồng chí, đồng bào, với thực tiễn đất nước để sáng tạo ra những sản phẩm chính trị, văn hóa có giá trị và có đủ khả năng hội nhập với các bạn đồng nghiệp trên thế giới, trước hết là trong khu vực.
2. Nhiệm vụ chủ yếu của hoạt động báo chí, xuất bản
Chủ động và tích cực góp phần vào việc tuyên truyền, giải thích quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, làm cho toàn Đảng, toàn dân quán triệt sâu sắc và nhất trí cao với đường lối, chủ trương đúng đắn, sáng tạo của Đảng được thể hiện trong văn kiện Đại hội VIII và nghị quyết của các kỳ Hội nghị Trung ương Đảng, trong các luật, nghị định của Nhà nước, trong các chương trình, nhiệm vụ công tác của Trung ương Đảng và Chính phủ. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là chủ đề trung tâm của hoạt động báo chí, xuất bản.
Bám sát thực tiễn đất nước, góp phần tổng kết và phổ biến kinh nghiệm điển hình tiên tiến, đồng thời đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực, các tệ nạn xã hội, xây dựng con người Việt Nam về tư tưởng, tình cảm, tri thức, nhân cách, đạo đức, lối sống đáp ứng tình hình nhiệm vụ mới, động viên, cổ vũ phong trào cách mạng của nhân dân thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ chính trị đã được Đại hội VIII đề ra.
Tích cực và chủ động góp phần vào cuộc đấu tranh tư tưởng, đấu tranh lý luận; kịp thời làm thất bại âm mưu, thủ đoạn ''diễn biến hòa bình'' của các thế lực thù địch, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Cương lĩnh của Đảng, đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta, thành quả cách mạng và của sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa; làm tốt công tác thông tin đối ngoại, góp phần tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân thế giới và kiều bào ta ở nước ngoài đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta.
Tất cả các loại hình báo chí, xuất bản và đội ngũ những người trực tiếp chiến đấu trên lĩnh vực này phải coi đây là nhiệm vụ chủ yếu, thường xuyên, quan trọng nhất và cũng là lý do tồn tại và phát triển của mình.
3. Hoạt động báo chí, xuất bản và những chiến sĩ hoạt động trên mặt trận này phải quán triệt sâu sắc nền tảng tư tưởng, cương lĩnh của Đảng
Đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng được thể hiện trong các văn kiện của Đại hội VIII; quán triệt và thấm nhuần sâu sắc quan điểm báo chí - xuất bản của Đảng, phát huy ưu điểm, đồng thời đấu tranh để khắc phục các quan điểm, khuynh hướng lệch lạc, sai trái trong hoạt động báo chí - xuất bản đã nêu ở trên. Chủ động và tích cực góp phần xứng đáng vào việc thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Giáo dục và rèn luyện bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng và đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ báo chí, xuất bản là một đòi hỏi rất quan trọng, là vấn đề cơ bản của sự nghiệp báo chí, xuất bản, cần tiến hành thường xuyên, có nền nếp. Trong quá trình đấu tranh làm trong sạch xã hội, báo chí, xuất bản cũng cần phải kiên quyết đấu tranh khắc phục các biểu hiện tiêu cực trong hoạt động làm báo, xuất bản, làm trong sạch đội ngũ của mình, xứng đáng với lòng tin của Đảng và của nhân dân. Hơn ai hết, những người làm báo chí, xuất bản phải thường xuyên nâng cao trách nhiệm đảng viên, trách nhiệm công dân, thực hiện đúng đắn quy ước đạo đức nghề nghiệp của những người làm báo, trước hết của các tổng biên tập, giám đốc, trưởng chuyên mục và phóng viên, biên tập viên. Thông qua nhiều hình thức: các lớp học tập trung, tại chức, các hình thức tự học tập, tự nghiên cứu, tìm hiểu và khảo sát thực tiễn... các cơ quan chỉ đạo và quản lý báo chí - xuất bản các cơ quan chủ quản, các tòa soạn báo chí, nhà xuất bản cũng như từng cán bộ, phóng viên, biên tập viên… xây dựng kế hoạch cụ thể, thích hợp để thường xuyên bồi dưỡng và từng bước nâng cao trình độ lý luận chính trị, lập trường quan điểm, phẩm chất đạo đức, chuyên môn, nghiệp vụ kỹ thuật để có đủ phẩm chất và năng lực hoàn thành nhiệm vụ cao quý mà Đảng và nhân dân đã tin cậy giao phó.
4. Tổ chức cho các cơ quan báo chí, xuất bản quán triệt những quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước, phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm, giữ vững tôn chỉ, mục đích của từng tờ báo, nhà xuất bản
Sắp xếp lại báo chí (cả báo viết, báo nói, báo hình) - xuất bản (cả in ấn và phát hành) phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện đúng phương châm Đảng đã đề ra: ''phát triển đi đôi với quản lý tốt''. Nguyên tắc của việc chấn chỉnh là: có nhu cầu thông tin, đồng thời phù hợp với điều kiện, khả năng của đất nước và khả năng chỉ đạo, quản lý hoạt động báo chí - xuất bản của cơ quan chủ quản, có đủ cán bộ, phóng viên... trực tiếp tác chiến trên lĩnh vực này, về cơ bản có nguồn tài chính bảo đảm. Chủ động chuẩn bị cho bước phát triển mới của hoạt động báo chí, xuất bản.
Về số lượng và cơ cấu loại hình báo chí, xuất bản sẽ được xem xét để phát triển từng bước, đáp ứng nhu cầu thông tin ngày càng cao và phong phú của xã hội, phù hợp với sự phát triển của đất nước, với khả năng và điều kiện đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, của đội ngũ cán bộ quản lý, phóng viên, biên tập viên, phấn đấu thu hẹp khoảng cách phát triển của báo chí - xuất bản của ta so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Xử lý nghiêm các trường hợp thông tin sai sự thật gây hậu quả không tốt, tuyên truyền dâm ô, bạo lực, trái với truyền thống văn hóa dân tộc và những trường hợp vi phạm pháp luật khác. Hoạt động báo chí, xuất bản phải gương mẫu trong việc thi hành đúng định hướng tư tưởng, đúng luật pháp. Thực hiện đúng chế độ quản lý của Nhà nước trong việc xây dựng và sử dụng các quỹ từ thiện, tài trợ... do các cơ quan báo chí tổ chức. Đánh giá đầy đủ các mặt hợp tác với nước ngoài về in ấn và phát hành đối với một số tờ báo.
5. Tăng cường các cơ sở đào tạo cán bộ báo chí, xuất bản đã có, bảo đảm việc đào tạo cán bộ báo chí, xuất bản chủ yếu từ trong nước
Đảng thống nhất quản lý dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ báo chí - xuất bản trong toàn quốc, nhất là về nội dung chương trình, sách giáo khoa, đội ngũ cán bộ quản lý, giảng dạy, về xác định chỉ tiêu, tiêu chuẩn, tổ chức chiêu sinh, về kế hoạch đầu tư để từng bước xây dựng cơ sở vật chất, trang bị phương tiện kỹ thuật dạy và học tiên tiến, hiện đại đối với việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ báo chí - xuất bản.
6. Củng cố, kiện toàn tổ chức và tăng cường đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực, số lượng cho các cơ quan tham mưu, chỉ đạo và quản lý hoạt động báo chí xuất bản (cả in ấn và phát hành) từ trung ương đến cơ sở, có sự phân công, phân cấp quyền hạn trách nhiệm rõ ràng.
Đề nghị Bộ Văn hóa - Thông tin có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước hoạt động báo chí - xuất bản, kiểm tra việc thực hiện luật báo chí - xuất bản, chủ trì việc xây dựng đề án và tổ chức thực hiện chiến lược thông tin quốc gia; khen thưởng và xử lý các sai phạm về hoạt động báo chí - xuất bản trong phạm vi toàn quốc theo quy định của pháp luật.
Các cơ quan chủ quản báo chí, xuất bản chịu trách nhiệm trực tiếp chỉ đạo, quản lý các hoạt động báo chí - xuất bản của mình hoặc những báo chí, tạp chí, nhà xuất bản được giao trách nhiệm chỉ đạo, quản lý từ phương hướng, nội dung đến công tác cán bộ, kịp thời biểu dương thành tích, ưu điểm cũng như xử lý các sai phạm khuyết điểm nếu có của các đơn vị này. Có phương án tổ chức thích hợp để bảo đảm trách nhiệm cụ thể của cơ quan chủ quản và phát huy lãnh đạo tập thể trong các cơ quan báo chí, nhà xuất bản.
2. Những kết quả thực hiện
a) Báo chí phát triển về số lượng, đổi mới về thông tin
Bước vào đầu những năm 90 của thế kỷ XX, báo chí Việt Nam đã có bước phát triển mới. Theo số liệu thống kê vào tháng 10 - 1991, số lượng báo chí có 350 tờ (154 tạp chí), bao gồm báo ở trung ương và địa phương. Đài phát 36 giờ/ngày và phát 11 thứ tiếng nước ngoài với thời lượng 26 giờ/ngày. Đài phát thanh địa phương có 49/53 tỉnh, thành phố. Tỷ lệ dân nghe đài: 31%, diện phủ sóng 55%. Đài Truyền hình Việt Nam phát sóng 8 giờ/ngày với hai chương trình (chương trình l mang tính tổng hợp, chương trình 2 về khoa giáo), khi có sự kiện chính trị quan trọng (Đại hội Đảng, họp Quốc hội... có thêm bản tin tiếng Anh phục vụ yêu cầu tuyên truyền đối ngoại). Thông tấn xã Việt Nam, có thường trú ở tất cả các tỉnh, thành phố cả nước và có 13 phân xã ở nước ngoài. Đã có 3 cơ sở đào tạo cán bộ báo chí là Phân viện Báo chí và tuyên truyền (bắt đầu đào tạo năm 1962), Khoa Báo chí - Trường đại học Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội (bắt đầu dào tạo năm 1991), khoa Ngữ văn và báo chí - Trường đại học Khoa học xã hội và nhân văn thành phố Hồ Chí Minh (bắt đầu đào tạo năm 1992).
Trải qua 5 năm đổi mới, vào đầu những năm 90 của thế kỷ XX, báo chí của chúng ta mặc dù gặp nhiều khó khăn về cơ sở vật chất và thiếu thốn về phương tiện kỹ thuật nhưng vẫn phát triển. Sự phát triển biểu hiện rõ qua phong trào báo chí phục vụ sự nghiệp đổi mới đất nước.
Nhiều cơ quan thông tin đại chúng đã đi đúng hướng, đổi mới thông tin thông qua việc mở rộng thông tin, báo chí phổ biến và giải thích đường lối, quan điểm của Đảng, phản ánh những hoạt động tích cực ở cơ sở, giới thiệu những kinh nghiệm sáng tạo của quần chúng, góp phần làm cho các Nghị quyết của Đảng đi vào cuộc sống, mang lại hiệu quả rõ rệt, nhất là trong công cuộc cải cách kinh tế.
Để đạt được mục tiêu đó, các báo, đài đã cố gắng thực hiện truyền tải những thông tin đa chiều, làm cho thông tin đa dạng, phong phú hơn. Tin trong nước, tin thế giới được chọn lọc từ nhiều nguồn, biên tập lại và trình bày tập trung, hấp dẫn, bổ ích hơn.
Các báo, đài cũng đã chú ý đưa tin toàn diện hơn, bên cạnh đưa tin về những điều hay, những thành tựu, ưu điểm cũng như đã thông tin về những khó khăn, khuyết điểm, những hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Báo, đài bước đầu tìm hiểu nhu cầu và thị hiếu của bạn đọc, bạn nghe, đưa nhiều tin tức hơn về những sinh hoạt đời thường, như việc đi lại, học hành của nhân dân, giá cả thị trường, tình hình điện nước... Ngoài ra báo, đài còn mở thêm mục quảng cáo.
Báo, đài đã thông tin cả một số mặt sai sót hoặc không còn phù hợp của một số chính sách, của cơ chế quản lý kinh tế, chú trọng phát hiện và phân tích những thiếu sót do cơ chế và tổ chức thực hiện chưa đồng bộ, chưa hợp lý gây ra, nêu lên những kiến nghị của cơ sở, của người sản xuất; đề xuất những vấn đề yêu cầu các cấp các ngành có thẩm quyền giải quyết. Những kiến nghị hợp tình, hợp lý của nhân dân được phản ánh trên báo, đài là một đóng góp đáng kể của báo chí, giúp Đảng và Nhà nước xây dựng, bổ sung, hoàn chỉnh các chính sách, pháp luật.
Các tạp chí, báo chuyên ngành, xưởng phim thời sự, thời gian qua cũng đã có nhiều đổi mới về mở rộng thông tin, từ thông tin lý luận, thông tin kinh tế - xã hội đến thông tin khoa học kỹ thuật, thông tin văn hóa - thể thao.
Thông tin đối ngoại có những cố gắng đổi mới, đã thông tin nhiều hơn về tình hình nước ta với những tin phong phú, đa dạng thể hiện đúng quan điểm của Đảng ta, phù hợp với đối tượng nước ngoài. Tuy nhiên, nhìn chung, công tác thông tin đối ngoại của ta chưa được chú ý đúng mức, còn nhiều khó khăn và hạn chế.
Việc mở rộng thông tin đã góp phần hình thành tư duy mới, nâng cao kiến thức, mở lộng tầm nhìn của cán bộ và nhân dân trên nhiều lĩnh vực.
b) Báo chí tích cực tham gia đấu tranh chống tiêu cực
Cùng với việc tiếp tục phản ánh ý kiến của nhân dân đóng góp với Đại hội lần thứ VI của Đảng, báo chí mở cuộc đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực, phê bình công khai, có địa chỉ và yêu cầu xử lý nghiêm minh những vụ việc tiêu cực và những cán bộ phạm sai lầm.
Ngày 25-5-1987, trên các báo, đài đồng chí Nguyễn Văn Linh mở mục “Những việc cần làm ngay”, tiếp đó, hầu hết các báo, đài mở chuyên mục “Hưởng ứng những việc cần làm ngay''. Bằng nhiều hình thức và thể tài, báo chí trong Nam ngoài Bắc phanh phui trước công luận nhiều vụ tiêu cực, nghiêm khắc phê phán những hiện tượng một số người đặc quyền, đặc lợi, vi phạm quyền công dân, áp bức quần chúng, làm ăn bê bối.
Thư bạn đọc gần xa tới tấp gửi về tòa soạn báo, đài. Nhiều người tìm đến các cơ quan thông tin đại chúng để nhờ nói lên nỗi oan ức của mình. Chưa bao giờ bạn đọc gắn bó với báo chí như những ngày này. Họ thấy đây là nơi đáng tin cậy và nhân dân đã sử dụng báo chí để đấu tranh chống những hiện tượng tiêu cực, bất công trong xã hội
Cuộc đấu tranh diễn ra hết sức gay go, phức tạp. Nhiều trường hợp, người bị phê bình, mặc dù sự việc đã rõ ràng, vẫn tìm mọi cách chống lại bằng nhiều thủ đoạn, từ ''im lặng đáng sợ”, nhận lỗi qua loa cho xong chuyện đến đe dọa, trù dập người phê bình mình hoặc tìm ''ô dù'' và kiện cáo, làm cho tình hình thêm phức tạp.
Nhìn chung, cuộc đấu tranh chống tiêu cực trên báo, đài thời gian qua về cơ bản là đúng hướng, chọn đúng vấn đề. Những vụ việc đấu tranh có kết quả là do:
l. Nhân dân phát hiện những hiện tượng tiêu cực, kiên trì đấu tranh.
2. Báo chí với ý thức trách nhiệm xã hội của mình, cân nhắc chọn lựa, điều tra, đưa đúng vụ việc tiêu biểu ra công khai.
3. Có sự phối hợp giữa các cơ quan báo, đài khi đề cập những vụ việc quan trọng và phức tạp.
4. Các cơ quan Đảng và Nhà nước có trách nhiệm quan tâm kiểm tra, kết luận và xử lý.
Báo chí thông qua đấu tranh chống tiêu cực đã góp phần vào cuộc vận động làm trong sạch tổ chức đảng, bộ máy nhà nước, lành mạnh hóa các quan hệ xã hội, góp phần phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng và trong xã hội, minh oan cho người vô tội, lên án những hành vi trù dập người phê bình. Báo chí cũng lên án những người lợi dụng dân chủ để vu cáo, xuyên tạc sự thật, hỗ trợ các cơ quan pháp luật và quần chúng đấu tranh để lập lại trật tự kỷ cương và công bằng xã hội.
Trong cuộc vận động này, báo chí cũng có những khuyết điểm, thiếu sót cần rút kinh nghiệm. Đó là chưa đi sâu phát hiện và đưa ra trước công luận bọn buôn gian bán lận, làm giàu phi pháp, bọn lưu manh côn đồ lợi dụng những sơ hở trong công tác quản lý, có những thủ đoạn tinh vi móc nối với những kẻ thoái hóa, biến chất trong các cơ quan nhà nước, gây thiệt hại cho nền kinh tế.
Báo chí cũng chưa thật sắc bén, tập trung phê phán lối sống thực dụng, sa đọa, chạy theo đồng tiền, danh lợi, coi thường giá trị đạo đức tinh thần. Lối sống này đang là độc tố tác động vào nhân sinh quan của thế hệ trẻ nước ta, nó đã trở thành vấn đề bức xúc của xã hội.
Đấu tranh chống tiêu cực là việc làm đầy khó khăn. Trong khi đó, người làm báo còn thiếu kiến thức, chưa có đủ kinh nghiệm và từng trải cuộc sống, cũng có khi do động cơ thiếu trong sáng cho nên trở thành thiếu khách quan, trung thực. Một số vụ việc phê bình chưa trúng, có vụ nêu không đúng sự thật, làm phương hại đến uy tín của người bị phê bình. Các cơ quan báo chí vì không nhất trí và thiếu tôn trọng nhau, đã dẫn đến truy chụp lẫn nhau gây ảnh hưởng không tốt đến dư luận.
Cũng có nhiều vụ việc báo chí nêu lên chưa được những người có trách nhiệm và các cơ quan chức năng quan tâm xem xét, kết luận và xử lý. Có hiện tượng một số người lơi dụng chức quyền, dùng nhiều thủ đoạn hạn chế báo chí đấu tranh chống tiêu cực. Trong khi nhiều cấp uỷ đảng và lãnh đạo các ngành ủng hộ, lãnh đạo và phối hợp với các cơ quan báo chí để làm rõ những vụ việc tiêu cực thuộc phạm vi trách nhiệm của mình và xử lý nghiêm minh, thì một số đồng chí cán bộ lãnh đạo chưa quán triệt chủ trương của Đảng, chưa phối hợp với báo chí để đấu tranh chống tiêu cực.
Mỗi cơ quan báo chí cần tiếp tục tổng kết, rút kinh nghiệm sâu sắc trong công tác phê bình, đấu tranh chống tiêu cực, nêu cao tinh thần trách nhiệm, phẩm chất đạo đức của nhà báo trong khi làm nhiệm vụ. Cần rút kinh nghiệm cả về quan điểm, thái độ, phương pháp điều tra, nghiệp vụ thể hiện bài phê bình, đồng thời cần có thái độ xử lý nghiêm khắc đối với nhà báo phê bình với động cơ không trong sáng.
c) Cổ vũ nhân tố mới
Đi đôi với chống tiêu cực, báo chí đã cố gắng phát hiện những nhân tố mới, cổ vũ những ''điểm sáng”, những điển hình tiên tiến. Nhìn lại các số báo, các chương trình phát thanh, các buổi truyền hình, các phim thời sự đều có thể thấy chúng ta đã chú ý biểu dương cái mới do báo chí phát hiện, cổ vũ và đã trở thành điển hình tiên tiến. Nhiều kinh nghiệm của nhân dân đã được tổng kết, làm cơ sở cho nhiều nghị quyết của Đảng về đổi mới quản lý, sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ chế mới. Trên báo viết, báo nói, báo hình, báo ảnh ngày càng xuất hiện nhiều hơn những mô hình mới về ba chương trình kinh tế lớn, đó là ''khoán 10'' trong nông nghiệp; kinh tế nhiều thành phần; những thành tựu áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất và đời sống.
Tuy nhiên cũng phải thừa nhận không ít báo chí đã có lúc thiên về chống tiêu cực, chưa thật coi trọng việc phát hiện và cổ vũ gương tốt về những con người, những đơn vị kinh tế quốc doanh công nghiệp, nông nghiệp, phân phối lưu thông, những đơn vị đã vươn lên tháo gỡ khó khăn, tìm ra cách làm ăn mới, đem lại hiệu quả kinh tế.
Nhìn chung chúng ta viết về cái mới chưa hay, chưa sâu sắc và chưa có sức thuyết phục cao. Cũng có một nguyên nhân khách quan là hoạt động kinh tế- xã hội hiện nay tuy có nhiều cái mới nhưng cũng còn bị nhiều vướng mắc, đặc biệt là trong kinh tế quốc doanh, cơ chế quản lý kinh tế mới đang trong quá trình hình thành trong khi cơ chế cũ còn tồn tại; đối với cái mới còn có nhiều ý kiến đánh giá khen, chê khác nhau. Mặt khác, kiến thức chưa đầy đủ về kinh tế, về khoa học quản lý của nhà báo cũng là một trở ngại trong việc đi sâu phát hiện, phân tích và cổ vũ những điển hình tiên tiến mới, khẳng định những nhân tố mới nảy sinh.
d) Báo chí nước ta đổi mới toàn diện
Từ đổi mới nội dung, báo đài đang tìm tòi cải tiến cách trình bày cho đẹp hơn, hấp dẫn hơn. Thể loại báo chí ngày càng phong phú, đặc biệt là các thể loại tin tức, phóng sự điều tra, bút ký, ghi nhanh, phỏng vấn, ảnh phóng sự, ảnh phê bình... Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam tìm tòi cải tiến các chương trình. Một số báo hàng ngày, hàng tuần ra số chủ nhật, số cuối tháng, trình bày đẹp, in trên giấy tốt, nội dung phong phú, truyền bá nhiều kiến thức, được bạn đọc hoan nghênh.
Hệ thống phát thanh, truyền hình, thông tấn xã vừa đi vừa tìm tòi, cải tiến về nghiệp vụ, rèn luyện cán bộ làm báo, vừa cố gắng tăng cường và hiện đại hóa từng bước cơ sở vật chất - kỹ thuật. Bên cạnh những cố gắng đúng hướng, thời gian qua cũng xuất hiện những khuynh hướng lệch lạc như thương mại hóa báo chí, đưa tin ''giật gân'', 'thỏa mãn thị hiếu tầm thường của một số người nào đó nhằm thu lợi nhuận''. Đã có một số tờ báo xuất bản không hợp lệ. Nội dung và hình thức của một số báo, đặc san không lành mạnh, có ảnh hưởng tiêu cực tới thanh, thiếu niên, Chúng ta cho rằng báo chí không thể không quan tâm đến thị hiếu của bạn đọc, không thể thiếu hấp dẫn nhưng báo chí trước hết có trách nhiệm hướng dẫn và xây dựng thị hiếu lành mạnh. Hấp dẫn phải đi đôi với bổ ích.
Công cuộc đổi mới báo chí phải tiến hành toàn diện và đồng bộ: đổi mới nội dung, cải tiến hình thức thể tài, đi đôi với tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật và bồi dưỡng cán bộ xuất phát từ kinh nghiệm chung cũng như từ kinh nghiệm của chính mình.
IV- SỰ PHÁT TRIỂN CỦA BÁO CHÍ
l. Các cơ quan báo chí trung ương
a) Báo Nhân dân
Giữ vị trí hàng đầu, phải kể đến báo Nhân dân ra hàng ngày. Xuất bản từ ngày 13-l-1951 trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, sau năm 1954 đóng trụ sở tại số 71 Hàng Trống. Tổng biên tập đầu tiên của báo là Hoàng Tùng, đến năm 1982 là Hồng Hà, rồi Hà Đăng (1987), Hữu Thọ (1992), Hồng Vinh (từ 1996), Đinh Thế Huynh (từ 2001 đến nay) đều là Uỷ viên Trung ương Đảng.
Là cơ quan trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam, sau ghi thêm là ''Tiếng nói của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam'', báo Nhân dân là tờ báo có uy tín nhất trong nước, là cơ quan phát ngôn chính thức của Đảng và Chính phủ. Báo thông tin thận trọng, chính xác, các bài xã luận, bình luận (trong nước và quốc tế), phê bình văn học nghệ thuật... có tính chỉ đạo, định hướng cao. Khẩu hiệu ''Đọc và làm theo báo Đảng'' ứng trước hết với báo Nhân dân. Báo phát hành rộng rãi, hầu như mỗi cơ quan nhà nước, mỗi đơn vị tổ chức xã hội, mỗi chi bộ cơ sở đều mua báo Nhân dân (bằng kinh phí của Đảng và Nhà nước), nên báo càng phát huy sức mạnh. Báo có những đợt tuyên truyền tập trung vào các công tác trọng tâm, cổ vũ phong trào lớn của quần chúng. Mọi người đều nhớ những đợt tuyên truyền phong trào thi đua yêu nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc với những điển hình như ''Gió Đại Phong”, “Sóng Duyên Hải”, “Cờ Ba Nhất”... sôi nổi một thời. Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, các xã luận, phóng sự của báo có sức cổ vũ lớn với những hình tượng “Nguyễn Viết Xuân, nhằm thẳng quân thù mà bắn”, “Lê Mã Lương, cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến đánh quân thù”. Ngày 26-12-1972, trong khí thế hào hùng của quân dân Hà Nội đánh cả máy bay B52 của giặc Mỹ, báo ra bài xã luận “Hà Nội, Thủ đô của phẩm giá con người''. Đầu đề này đã trở thành khẩu ngữ dùng phổ biến trong nước và thế giới.
Sau giải phóng miền Nam năm 1975, báo nhanh chóng phát hành trên cả nước, đặc biệt khi có cơ sở ấn loát riêng ở thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng, in theo chế bản từ Hà Nội gửi vào, thì báo được bảo đảm phát hành đồng thời ở cả ba miền.
Ngày 12-2-1969, Nhân dân chủ nhật ra số đầu tiên, khổ nhỏ bằng tờ báo hằng ngày gấp tư. Tháng 2-1995, Nhân dân chủ nhật đổi tên thành Nhân dân cuối tuần, số Nhân dân chủ nhật vẫn ra thường lệ với khổ lớn. Tháng 5-1997, báo ra thêm số Nhân dân hàng tháng. Với tất cả những ấn phẩm trên, cùng với Nhân dân hàng ngày ra với 8 trang khổ lớn (trước chỉ có 4 trang), báo có điều kiện mở rộng thông tin, đề cập toàn diện đến các vấn đề thời sự chính trị - xã hội và cả văn hóa - nghệ thuật, thể dục - thể thao.
Ngày 21-6-1998, báo Nhân dân điện tử bằng tiếng Việt ra số đầu hòa mạng internet, đến ngày 11-3-1999 lại có bản bằng tiếng Anh, đáp ứng nhu cầu thông tin của hàng chục triệu bạn đọc là người Việt Nam ở nước ngoài, cũng như người ngoại quốc.
Báo đều đặn xuất bản tờ Nội san báo Nhân dân nhằm mục đích trao đổi kinh nghiệm nghề nghiệp trong cán bộ, phóng viên.
b) Tạp chí Cộng sản
Đại hội lần thứ VI của Đảng (tháng 12-1986), sau khi đánh giá những thắng lợi mà Đảng và nhân dân ta đã giành được, và thẳng thắn phân tích những sai lầm, khuyết điểm, trong đó có những sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện, đã quyết định phải tiến hành đổi mới toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trọng tâm của công cuộc đổi mới là lĩnh vực kinh tế, bao gồm bố trí lại cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, kiên quyết xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, chuyển mạnh sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, sử dụng đầy đủ và đúng đắn các đòn bẩy kinh tế trong kế hoạch hóa và quản lý kinh tế, v.v.. Về mặt chính trị - xã hội, Đại hội nhấn mạnh việc phát huy mọi khả năng của con người, lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất, do đó phải dân chủ hóa đời sống xã hội, đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể quần chúng theo tinh thần ''lấy dân làm gốc'', không ngừng suy nghĩ, tìm tòi để đổi mới đúng hướng. Ngày l0-1-1987, Ban biên tập đã có dự án về đổi mới các mặt của tạp chí. Cuối năm 1987, đồng chí Đào Duy Tùng thay mặt Ban Bí thư đã làm việc với Ban biên tập tạp chí.
Ngày 29-3-1988, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra chỉ thị về công tác của Tạp chí cộng sản. Chỉ thị viết: ''Tạp chí Cộng sản cần phân tích một cách khoa học những quan điểm của Lênin về chủ nghĩa xã hội, vận dụng những nguyên lý cơ bản, nhất là phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin mà phân tích tình hình thực tế nước ta một cách sâu sắc, từ đó làm sáng tỏ tính đặc thù của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nội dung biên tập của tạp chí cần tập trung vào các vấn đề: đổi mới tư duy, đổi mới tổ chức, cán bộ, phong cách và đổi mới cơ chế quản lý trong kinh tế dân chủ hóa, xây dựng Đảng, xây dựng nền văn hóa mới và con người mới xã hội chủ nghĩa, đồng thời phê phán những quan điểm ấu trĩ, sai lệch về chủ nghĩa xã hội. Tạp chí Cộng sản phải tiên phong đấu tranh cho sự đổi mới tư duy theo tinh thần của Đại hội VI, kiên quyết chống mọi sự bảo thủ, trì trệ, mọi biểu hiện của khuôn sáo, đồng thời đấu tranh chống chủ nghĩa duy ý chí, chống mọi biểu hiện của nóng vội, chủ quan''.
“…Tạp chí Cộng sản phải đổi mới cả nội dung và hình thức. Tạp chí phải kết hợp chặt chẽ lý luận với thực tế, hết sức coi trọng yêu cầu của đông đảo bạn đọc. Tạp chí cần có hình thức và biện pháp khuyến khích sự tìm tòi sáng tạo của các nhà khoa học, của những cán bộ quản lý có kinh nghiệm, mở ra những mục tranh luận dân chủ trên những vấn đề lớn mang tính lý luận và thực tiễn cao. Nói chung các bài cần ngắn gọn, súc tích, có hàm lượng thông tin lớn, có chất lượng lý luận. Tạp chí cần dành một tỷ lệ trang nhất định dể đăng những ý kiến của bạn đọc góp phần xây dựng Đảng và hoàn chỉnh đường lối, chính sách của Đảng. Tạp chí có những mục giới thiệu kinh nghiệm của các nước anh em, đọc sách báo nước ngoài, thông tin kịp thời và có chọn lọc những vấn đề mới về lý luận cũng như về thực tiễn trong cộng đồng các nước xã hội chủ nghĩa cũng như trong phong trào cộng sản quốc tế. Tạp chí cần tiến tới mở mục điểm sách, báo trong nước có tác dụng thông tin và hướng dẫn bạn đọc theo đường lối của Đảng...''.
Đổi mới thật sự và đúng hướng, một mặt tạp chí kiên quyết giữ gìn những truyền thống tốt đẹp của mình như bám chắc đường lối và các chính sách của Đảng và Nhà nước, kiên quyết bảo vệ các quan điểm của Đảng, đấu tranh chống những quan điểm sai trái, nâng cao vai trò lý luận của tạp chí, bám sát thực tế của đất nước và thế giới. Mặt khác, tạp chí cố vượt ra ngoài các khuôn sáo cũ cả về nội dung và hình thức, tạo nên một không khí cởi mở, tự do tư tưởng, dân chủ thảo luận trên tạp chí, dám nhìn thẳng vào sự thật, mạnh dạn phân tích, góp phần tích cực vào việc làm sáng tỏ đường lối và các quan điểm của Đảng.
Để đáp ứng yêu cầu của công tác tư tưởng và lý luận trong giai đoạn mới, thực hiện quyết định của Thường trực Bộ Chính trị - Ban Bí thư, bắt đầu từ tháng 7-1995, Tạp chí Cộng sản ra hai kỳ một tháng. Đây là một quyết định đúng đắn và cần thiết, bởi vì trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, trong điều kiện bùng nổ thông tin, trình độ dân trí ngày càng cao, đòi hỏi của bạn đọc ngày càng lớn, yêu cầu của công tác lý luận rất nặng nề, nếu tạp chí ra mỗi tháng 1 kỳ như trước thì không còn thích hợp. Cuộc sống đòi hỏi tạp chí phải có những thông tin nhanh hơn, phong phú hơn, kịp thời hơn.
Trong bài ''Cùng bạn đọc thân mến'' nhằm thông báo sự kiện trên, Bộ biên tập Tạp chí Cộng sản một lần nữa lại khẳng định Tạp chí Cộng sản ra hai kỳ một tháng và tiếp tục đổi mới nhưng trên cơ sở theo đúng tôn chỉ, mục đích và chức năng là cơ quan lý luận và chính trị của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, bảo đảm không ngừng nâng cao chất lượng mọi mặt của tạp chí. Tạp chí đổi mới nhưng kế thừa những truyền thống tốt đẹp và giữ đúng bản sắc của mình.
Từ khi ra hai kỳ một tháng, tạp chí có điều kiện đăng nhiều bài hơn, chuyển tải kịp thời hơn đến bạn đọc những thông tin lý luận cần thiết, những quan điểm, đường lối của Đảng, tăng thêm những bài nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, giới thiệu những nhân tố mới, những điển hình tiên tiến cùng nhiều nội dung khác theo chức năng của tạp chí.
Ngoài Tạp chí Cộng sản (bản in), từ ngày 2-9-2001, Bộ biên tập Tạp chí Cộng sản, thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị Trung ương Đảng khóa VIII về công tác của Tạp chí Cộng sản trong giai đoạn mới, đã phát hành thử nghiệm Tạp chí Cộng sản điện tử trên mạng internet. Sau 5 tháng phát hành thử nghiệm, vào dịp kỷ niệm 72 năm thành lập Đảng (3-2-2002) và đón Xuân Nhâm Ngọ, Tạp chí Cộng sản điện tử phát hành chính thức bằng tiếng Việt trên mạng. Và một năm sau, vào dịp kỷ niệm 73 năm ngày thành lập Đảng (3-2-2003) và đón Xuân Quý Mùi, Tạp chí Cộng sản điện tử chính thức phát hành trên mạng bằng hai thứ tiếng Việt và Anh.
Tạp chí Cộng sản điện tử được Bộ Văn hóa - Thông tin cấp giấy phép hoạt động số 420 ngày 20-8-2001 và được Tổng cục Bưu điện chính thức cấp phát trên miền internet là w.w.w.tapchicongsan.org.vn.
Tạp chí Cộng sản điện tử là tạp chí lý luận và chính trị trên mạng internet, là ''cánh tay nối dài'' của Tạp chí Cộng sản (bản in). Tạp chí có nhiệm vụ tuyên truyền có định hướng những vấn đề lý luận chính trị trong nước và quốc tế, tuyên truyền, phổ biến các quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, mở rộng thông tin đối ngoại, giới thiệu về đất nước, con người, truyền thống lịch sử và văn hóa Việt Nam, nhằm tăng cường sự hiểu biết và tình cảm của bạn bè quốc tế đối với đất nước và con người Việt Nam. Tạp chí Cộng sản điện tử còn có nhiệm vụ đấu tranh chống lại những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch đối với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
Vào dịp kỷ niệm 73 năm ngày xuất bản số tạp chí đầu tiên của Đảng (5-8-1930 – 5-8-2003), một vinh dự lớn đến với Tạp chí Cộng sản là được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng, Huân chương cao quý nhất của Đảng và Nhà nước ta “vì đã có công lao to lớn đóng góp vào sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc''. Vinh dự này không chỉ là của lớp lớp thế hệ cán bộ, phóng viên, biên tập viên, nhân viên của tạp chí Đảng trong suốt 73 năm qua, mà còn là của các thế hệ cộng tác viên và bạn đọc của tạp chí khắp cả nước. Có được vinh dự này trước hết là nhờ có sự quan tâm lãnh đạo trực tiếp, thường xuyên của Đảng và Nhà nước, sự phối hợp giúp đỡ chặt chẽ của bộ, ban, ngành, các địa phương.
c) Đài Tiếng nói Việt Nam
- Về nội dung các chương trình:
Sự đổi mới về đường lối trong Đại hội VI năm 1986 kéo theo sự đổi mới về báo chí (cả báo viết, báo nói, báo hình). Trước đó, kể từ Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng, tư tưởng xóa bỏ cơ chế quản lý quan liêu hành chính, bao cấp đã được đưa vào Nghị quyết. Đồng chí Trường Chinh phát biểu một bài rất quan trọng về vấn đề này, được cả nước hoan nghênh. Tư tưởng đổi mới tư duy ngày càng rõ thêm, nhưng vẫn chưa hoàn chỉnh. Có nhiều nơi thành công nhưng cũng không ít nơi thất bại vì chưa biết vận dụng. Đài Tiếng nói Việt Nam luôn luôn ủng hộ những nhân tố mới, phổ biến những kinh nghiệm tốt của những điển hình tiên tiến.
Đến Đại hội lần thứ VI năm 1986 của Đảng, đường lối đổi mới được hoàn chỉnh, cuộc tranh luận xung quanh nhiều vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn mới kết thúc ''về cơ bản''. Trong lúc đó, lại phải đấu tranh với một thiểu số có ý kiến muốn rập khuôn theo kiểu ''cải cách'' của Liên Xô và Đông Âu, muốn xóa sạch cái cũ, bỏ chế độ Đảng Cộng sản độc quyền lãnh đạo, đòi cải cách kinh tế và cải cách chính trị (đa nguyên, đa đảng, có đảng đối lập) phải ngang nhau, phê phán Đảng ta nặng về cải cách kinh tế mà không cải cách chính trị (theo kiểu nói trên) là đi chân dài chân ngắn, khập khiễng v.v..
Đài Tiếng nói Việt Nam không bị ảnh hưởng bởi luồng tư tưởng ngược chiều này. Có thể nói là đường lối đổi mới của Đảng, đã tạo ra cho các nhà báo, trong đó có báo điện tử, một sự đổi mới toàn diện cả về quan điểm, nội dung và hình thức, thể tài.
Đài Tiếng nói Việt Nam đã tham gia tích cực vào việc chống tư tưởng bảo thủ, chống cách làm ăn trì trệ, chống những hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Đài cũng đổi mới thông tin từ ngoài vào, từ trong ra. Trước kia đưa tin về các sự kiện trên thế giới, chủ yếu chỉ đưa ra những thành tựu của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa mà không phản ánh những mặt yếu kém, những sai lầm của họ. Đưa tin về phương Tây, thì chỉ đưa mặt xấu mặt hư hỏng, không đưa những mặt mạnh của họ như phương thức quản lý kinh tế có hiệu quả, ứng dụng khoa học kỹ thuật mới v.v. đã làm cho bạn nghe Đài hiểu thế giới một cách méo mó, không chính xác. Đưa tin từ trong nước ra ngoài, cũng chỉ nói về thành tựu, có tính chất thổi phồng, giấu diếm những mặt yếu kém. Chính vì thông tin phiến diện, một phần theo định kiến chủ quan, nên nội dung có phần nghèo nàn, thiếu tính chân thật, thiếu tính chiến đấu và thiếu tính thuyết phục.
Từ lúc có quan điểm đổi mới, thông tin của Đài trở nên phong phú hơn, toàn diện hơn, chân thực hơn, hấp dẫn hơn và có hiệu quả cao hơn, giúp cho bạn nghe Đài ngày càng quán triệt đường lối đổi mới của Đảng. Thông tin của Đài nêu cả mặt được, mặt chưa được, chủ động góp phần vào việc hoàn thiện từng bước chính sách theo con đường đổi mới.
- Sự đổi mới tư duy, đổi mới quan điểm báo chí một cách có hệ thống:
Do có sự tăng cường sử dụng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại và đổi mới tư duy một cách có hệ thống, đã giúp cho tính sáng tạo của các phóng viên, biên tập viên cũng phát triển làm nảy nở nhiều thể tài, tiết mục mới sinh động, hấp dẫn và gần gũi với cuộc sống. Với trung tâm âm thanh mới được xây dựng, đưa vào sử dụng từ năm 1988, với những thiết bị hiện đại hơn, gọn nhẹ hơn, lại tận dụng được vệ tinh, đường cáp quang và đường viba theo kỹ thuật số, thông tin nhanh được cả hai chiều, nên Đài Tiếng nói Việt Nam đã có thể đưa rất nhanh các phóng sự phỏng vấn từ các tỉnh thành ở xa qua đường điện thoại để phát ngay trên sóng. Tính toàn quốc của Đài được thể hiện ngày một tốt hơn, xóa được định kiến là ''Đài đồng bằng sông Hồng''.
Việc sử dụng phóng viên nói trực tiếp trước micrô những bài của mình thay cho phát thanh viên cũng được sử dụng mạnh dạn hơn trước, có sức truyền cảm mạnh hơn, có tính thuyết phục cao hơn.
Số lượng các chương trình phát thanh cũng tăng lên nhanh chóng, thỏa mãn ngày càng cao cho nhu cầu thông tin của các tầng lớp nhân dân khác nhau. Từ khi Đài Tiếng nói Việt Nam phát chương trình bằng sóng FM hằng ngày thì việc thỏa mãn nhu cầu giải trí, thưởng thức ca nhạc và nâng cao kiến thức của nhân dân trở lên tốt hơn. Tuy nhiên, Đài vẫn chưa xóa bỏ được hết cách làm chương trình theo kiểu đường mòn, công thức, dễ dãi, thiếu sáng tạo trong một số bộ phận, mặc dù có phương tiện hiện đại trong tay. Trong cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới thì tư duy theo kiểu mới đang ngày càng thắng thế.
- Sự thay đổi tổ chức bộ máy:
Năm 1987, để thống nhất đường truyền tín hiệu bằng các phương tiện kỹ thuật hiện đại như vệ tinh, viba số, cáp quang cùng máy phát sóng vào một mối với vô tuyến viễn thông, Chính phủ đã ra quyết định chuyển đường truyền tín hiệu và các đài phát sóng phát thanh sang cho Tổng cục Bưu điện quản lý, theo cơ chế Đài Tiếng nói Việt Nam thuê bao của bưu điện. Nhưng tháng 8-1993, Chính phủ ra quyết định tổ chức Đài Tiếng nói Việt Nam và Đài Truyền hình Việt Nam - hai cơ quan trực thuộc Chính phủ thành hai ngành quản lý nghiệp vụ hệ thống các Đài phát thanh và hệ thống các Đài Truyền hình các địa phương trong cả nước. Chính phủ cũng quyết định giao cho Đài Tiếng nói Việt Nam và Đài Truyền hình Việt Nam quản lý các máy phát sóng của toàn hệ thống do Tổng cục Bưu điện chuyển sang Đài Tiếng nói Việt Nam (cũng như Đài Truyền hình Việt Nam). Hai đài có trách nhiệm làm dự án kế hoạch chiến lược phát triển toàn ngành cho đến năm 2000 và xa hơn nữa. Đến năm 2000, Đài Tiếng nói Việt Nam phủ sóng 95% dân cư bảo đảm 14 triệu hộ gia đình có rađiô nghe tốt chương trình của đài quốc gia. Thực tế diễn ra ở Đài Tiếng nói Việt Nam là quá trình suy nghĩ, tìm tòi, xác định hướng đi đúng để đổi mới đồng bộ cả về thiết bị kỹ thuật, quy trình công nghệ lẫn trình độ của đội ngũ phóng viên, biên tập viên, kỹ thuật viên theo hướng phát thanh hiện đại. Sau nhiều năm được Đảng và Nhà nước quan tâm đầu tư, đến năm 2000 cơ sở kỹ thuật của Đài Tiếng nói Việt Nam đã đi vào hoạt động có hiệu quả với một trung tâm sản xuất các chương trình phát thanh quy mô và đang hình thành tổ hợp biên tập - kỹ thuật phát thanh công nghệ hiện đại. Ngoài các cơ sở biên tập và kỹ thuật tại Hà Nội còn có 5 cơ quan thường trú khu vực đóng tại thành phố Hồ Chí Minh - Cần Thơ - Buôn Ma Thuật - Đà Nẵng - Sơn La. Cánh sóng của Đài Tiếng nói Việt Nam đã vươn tới 70 nước thuộc vùng Đông Nam Á, châu Á, châu Âu, Bắc Mỹ và Caribê với 11 thứ tiếng nước ngoài và một chương trình dành cho đồng bào Việt kiều ở xa Tổ quốc. Và lần đầu tiên, trong chặng đường 56 năm phát triển của mình, Đài Tiếng nói Việt Nam đã có 5 cơ quan thường trú nước ngoài đóng tại Băng Cốc - Pa ri - Bắc Kinh - Mátxcơva - Cairô, thông tin kịp thời các sự kiện quốc tế và khu vực. Nếu như trước đây nguồn tin của Đài thường chậm hơn so với các đài nước ngoài hàng chục giờ đồng hồ, thì bây giờ, với các thiết bị hiện đại, một phong cách làm việc chủ động, chuyên nghiệp, nhiều sự kiện trên thế giới đã được đưa tin nhanh không thua bất cứ phương tiện thông tin nước ngoài nào. Sự kiện ngày 11-9-2001 ở Mỹ; việc Mỹ ném bom Apganixtan..., Đài Tiếng nói Việt Nam và cơ quan báo chí thông tin nhanh nhất tới bạn nghe đài.
Trong tình hình hiện nay, với việc bùng nổ thông tin, và để cạnh tranh lành mạnh với các phương tiện báo chí truyền thông khác, việc nâng cao chất lượng tin, bài, chất lượng các chương trình phát thanh có thể coi là yếu tố sống còn của Đài Tiếng nói Việt Nam. Bởi vậy, không ngừng cải tiến mạnh mẽ theo hướng tăng thời lượng, mở rộng nội dung và đối tượng tuyên truyền, nâng cao chất lượng và hiệu quả, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu thông tin của nhân dân trong thời kỳ đổi mới - đó là nhiệm vụ quan trọng đối với những người làm báo phát thanh. Từ 2 hệ chương trình (đối ngoại) đến nay Đài Tiếng nói Việt Nam đã mở ra 6 chương trình bao gồm 4 hệ đối nội (trong đó có hệ chương trình dân tộc thiểu số) và 2 hệ chương trình đối ngoại. Từ 40 chương trình mỗi ngày, nay đã có 482 chương trình với tổng thời lượng 172 giờ chương trình phát thanh mỗi ngày đề cập tất cả các lĩnh vực: chính trị - kinh tế - văn hóa - quốc phòng - an ninh - âm nhạc - văn hóa nghệ thuật… phục vụ tất cả các đối tượng xã hội. Nhiều chương trình mới đã ra đời trong mấy năm qua thực sự thu hút bạn nghe đài. Từ chỗ nội dung thông tin còn phụ thuộc vào tin tức thông tấn hoặc khai thác một cách thụ động trên báo chí, từ cách tuyên truyền còn nặng về thông báo, truyền đạt, nay đã đổi mới, chú trọng tính chất thông tin - đối thoại - phát hiện - dự báo, hướng dẫn dư luận; vừa biểu dương nhân tố mới, vừa đấu tranh không khoan nhượng trước các biểu hiện tiêu cực.
Trước những diễn biến phức tạp diễn ra ở Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, vấn đề đoàn kết dân tộc đã, đang là vấn đề đặc biệt nhạy cảm và có tầm quan trọng quốc gia. Đài Tiếng nói Việt Nam đã xây dựng các chương trình phát thanh bằng 8 thứ tiếng dân tộc thiểu số, là cơ quan báo chí có nhiều chương trình phát thanh bằng các thứ tiếng dân tộc thiểu số, đó là: Bana, Êđê, Giarai, Xêđăng, K’ho (cho vùng Tây Nguyên); Mông, Thái (cho vùng phía bắc); Khơme (cho vùng Nam Bộ); và đang xúc tiến việc phát sóng tiếng Mông cho đồng bào Mông ở Tây Nguyên, với tổng thời lượng các chương trình tiếng dân tộc là 750 phút/chương trình/ngày. Các chương trình phát thanh tiếng dân tộc luôn bám sát các vấn đề thời sự - chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng và những diễn biến nảy sinh từ các vùng dân tộc thiểu số, những vấn đề nổi cộm mà đồng bào quan tâm - đặc biệt là vấn đề dân tộc, sắc tộc và tôn giáo đan xen nhau. Các thế lực phản động ra sức xuyên tạc, bóp méo chính sách dân tộc và tôn giáo của Đảng ta. Đài Tiếng nói Việt Nam đã chú trọng tuyên truyền, lên tiếng làm sáng tỏ vấn đề trên sóng đối nội và đối ngoại; thông tin, tuyên truyền giúp đồng bào hiểu rõ chủ trương, đường lối, chính sách dân tộc của Đảng; nâng cao hiểu biết trên nhiều lĩnh vực cho đồng bào để nêu cao cảnh giác chống lại luận điệu xuyên tạc, chia rẽ của các thế lực thù địch; cổ vũ việc giữ gìn bản sắc văn hóa các dân tộc; theo tinh thần Nghị quyết Trung ương lần thứ năm. Các chương trình phát thanh này đã ngày càng khẳng định vị trí quan trọng và tin cậy trong lòng đồng bào các dân tộc thiểu số.
Trong những năm vừa qua, Đảng, Nhà nước đã chú trọng đầu tư lớn cho phát thanh. Đến nay, Đài Tiếng nói Việt Nam là cơ quan thông tin đại chúng duy nhất có 3 phương thức truyền thông: Đó là làn sóng phát thanh, là báo điện tử trên mạng internet, là tờ báo in số ra hàng tuần và số cuối tháng, trong đó sóng phát thanh là chủ yếu nhất, quan trọng nhất, quyết định nhất, tờ báo Điện tử trên mạng internet và tờ báo in đã hỗ trợ tích cực, làm cho nội dung thông tin của Đài quốc gia ngày càng phong phú, hiệu quả, đa dạng và hấp dẫn. Hàng vạn lá thư của bạn nghe đài gửi để góp ý, xây dựng, động viên, khích lệ... đã tạo nguồn cảm hứng, sự say mê nghề nghiệp cho những người làm báo phát thanh.
d) Đài Truyền hình Việt Nam
Vào giai đoạn 1990 - 2000, trọng tâm của Đài Truyền hình Việt Nam thực hiện là quy hoạch phát triển truyền hình đến năm 2000 và những giai đoạn tiếp theo, tập trung vào những mục tiêu chính là:
Thứ nhất, nâng cao thời lượng và chất lượng chương trình truyền hình về nội dung, kỹ thuật, nghệ thuật, hình thức thể hiện, tăng cường tính toàn quốc, toàn diện của các chương trình truyền hình quốc gia.
Thứ hai, xây dựng mạng truyền dẫn toàn quốc từ trung ương đến địa phương với cơ sở vật chất kỹ thuật được đổi mới và hiện đại hóa, phù hợp với ưu thế phát triển của thế giới.
Trong điều kiện báo in của chúng ta, do những khó khăn khách quan, mới chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn, thì đối với báo chí điện tử, việc nhanh chóng chiếm lĩnh không gian và thời gian có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, góp phần lấp khoảng trống về thông tin ở những vùng thôn quê rộng lớn, những vùng sâu vùng xa, biên giới, hải đảo.
Nhìn lại bốn năm thực hiện Chỉ thị 22-CT/TW của Bộ Chính trị và quy hoạch phát triển truyền hình được Chính phủ phê duyệt, Đài Truyền hình Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng. Hầu hất các chỉ tiêu lớn đề ra đã được thực hiện:
- Về quy mô chương trình: Đã hình thành 4 kênh: VTV1 (chính trị tổng hợp), VTV2 (khoa học giáo dục), VTV3 (thể thao, giải trí) và VTV4 (thông tin đối ngoại và dành cho người Việt Nam ở nước ngoài) với tổng thời lượng từ 41 đến 45 giờ/ngày.
- Về diện phủ sóng: Đã hoàn thành mục tiêu đưa sóng truyền hình tới 80% dân số cả nước. Chương trình VTV4 phủ sóng tới hầu hết các khu vực của thế giới có nhiều người Việt Nam sinh sống.
Ba chức năng cơ bản của truyền hình là thông tin tuyên truyền, nâng cao dân trí và giải trí được thực hiện tốt hơn. Với 14 bản tin trong ngày và các chuyên mục đa dạng về các lĩnh vực khác nhau của đời sống đất nước, Đài Truyền hình Việt Nam đã thông tin nhanh, kịp thời các sự kiện diễn ra trong nước và trên thế giới tuyên truyền, giải thích đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân; phát hiện, thông tin kịp thời nhiều vấn đề bức xúc trong cuộc sống. Cả tuyên truyền người tốt, việc tốt lẫn đấu tranh chống tiêu cực đều được tăng cường trên sóng truyền hình.
Các chương trình khoa học, giáo dục đã tăng thời lượng và nâng cao chất lượng, bám sát Nghị quyết Trung ương lần thứ hai, Nghị quyết Trung ương lần thứ năm và được cải tiến phong phú, hấp dẫn người xem hơn trước. Các chương trình về khoa học xã hội và nhân văn cũng được mở rộng. Một loạt chương trình dạy học trên truyền hình được thực hiện. Do ưu thế vốn có, truyền hình có điều kiện đóng góp hữu hiệu cho sự nghiệp nâng cao dân trí, bồi dưỡng nguồn nhân lực, tạo cơ hội học hành cho những người không có điều kiện đến trường lớp chính quy, đưa giáo dục đến vùng xa xôi, hẻo lánh, đến với người nghèo.
Số lượng các chương trình văn học nghệ thuật, phim truyện Việt Nam, các chương trình thể thao, giải trí tăng lên nhằm đáp ứng nhu cầu của nhân dân về đời sống văn hóa, tinh thần, đặc biệt là nhân dân ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, những nơi đời sống đang gặp nhiều khó khăn. Có nhiều chương trình được ưa thích, ảnh hưởng sâu rộng và trở thành sinh hoạt văn hóa - giáo dục bổ ích như các chương trình: “Bảy sắc cầu vồng”; “Đường lên đỉnh Olimpia”, “Hành trình văn hóa''... Mặt khác, Đài Truyền hình Việt Nam cũng luôn chú trọng đến công tác giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc thông qua các chương trình giới thiệu những tác phẩm nghệ thuật cổ truyền của dân tộc như tuồng, chèo, cải lương... hay thông qua việc công bố các tác phẩm, giới thiệu chân dung tác giả, chân dung văn nghệ sĩ...
Công tác tuyên truyền đối ngoại tuy còn có những hạn chế song đã từng bước mở rộng thời lượng và quy mô phát sóng. Hiện nay, Đài Truyền hình Việt Nam đã phát sóng 24 giờ/ngày cho cộng đồng Việt Nam sống ở các nước châu Á, châu Âu, Bắc Ôxtrâylia, 4 giờ/ngày ở Bắc Mỹ và vịnh Caribê.
Cơ sở vật chất, kỹ thuật được đổi mới, tăng cường theo xu thế phát triển của truyền hình hiện đại, chuyên nghiệp. Nhờ đó mà Đài Truyền hình Việt Nam bảo đảm sản xuất một khối lượng lớn chương trình hằng ngày với chất lượng kỹ thuật và nghệ thuật thể hiện ở trình độ cao hơn.
Các chương trình truyền hình trực tiếp, các cầu truyền hình nối nhiều điểm trong nước và ở nước ngoài cùng một lúc được thực hiện, góp phần tạo nên diện mạo mới của truyền hình Việt Nam tiến theo hướng chuyên nghiệp.
Truyền hình Việt Nam đang đứng trước cả cơ hội lẫn thách thức to lớn trên con đường phát triển dể thực hiện tốt hơn nhiệm vụ nặng nề mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã nêu rõ: ''Đến năm 2010 hoàn thành cơ bản việc phổ cập các phương tiện phát thanh, truyền hình đến mỗi gia đình”. Quy hoạch phát triển truyền hình Việt Nam đến năm 2000 và những năm tiếp theo cũng khẳng định: ''Về nội dung, các chương trình truyền hình phải nhằm cung cấp thông tin nhanh chóng và chính xác đến mọi người dân về đường lối, chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước ta, về sự phát triển của đất nước, góp phần nâng cao nhận thức chính trị, tư tưởng, dân trí, trình độ thẩm mỹ của công chúng, đấu tranh chống các âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch. Nội dung các chương trình cần phong phú, đa dạng, có sự cân đối hài hòa giữa thông tin, giáo dục và giải trí''.
đ) Thông tấn xã Việt Nam
Thông tấn xã Việt Nam với mạng lưới phân xã ở khắp các tỉnh, thành phố trong cả nước và 23 phân xã ở ngoài nước trải khắp 5 châu lục. Thông tin trong nước và thế giới của Thông tấn xã Việt Nam đã bám sát và bao quát để phản ánh nhanh nhạy và kịp thời, đúng định hướng các vấn đề thời sự chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học công nghệ trong nước và thế giới. Ngoài các thông tin cung cấp cho các cơ quan thông tin đại chúng trong nước và nước ngoài, Thông tấn xã Việt Nam còn cung cấp các thông tin báo cáo có tính chất chiến lược và quan trọng cho lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các cơ quan quản lý điều hành của Chính phủ, các cơ quan nghiên cứu...
Thông tấn xã Việt Nam hiện đang tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh và cạnh tranh thông tin toàn cầu. Thông tấn xã Việt Nam hiện đang là một trong những cơ quan chủ lực của Đảng và Nhà nước với tờ báo tiếng Anh Vietnam News, báo tiếng Pháp Le courier du Vietnam, bản tin đối ngoại tiếng Anh, Pháp và Tây Ban Nha, Báo ảnh Việt Nam bằng nhiều ngôn ngữ, tạp chí tiếng Anh Vietnam Law & legal Forum (Luật Việt Nam và diễn đàn pháp luật). Thông tấn xã Việt Nam đã góp phần quan trọng trên mặt trận tư tưởng trong cuộc đấu tranh chống các lực lượng thù địch, chống âm mưu ''Diễn biến hòa bình'', bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các giá trị tinh thần của chủ nghĩa xã hội, kiên định sự lãnh đạo cửa Đảng đối với xã hội và bản chất của Nhà nước ta.
Ngoài thông tin kịp thời và có định hướng về các vấn đề chính trị, kinh tế - xã hội, Thông tấn xã Việt Nam cũng chú trọng thông tin kịp thời các sự kiện quan trọng trong lĩnh vực thể thao, văn hóa, khoa học và công nghệ thông qua các báo chuyên ngành của mình như Thể thao và văn hóa, Khoa học và công nghệ, góp phần đáng kể đảm bảo quyền được thông tin của nhân dân, góp phần định hướng thông tin về các vấn đề được xã hội quan tâm.
Thông tấn xã Việt Nam đang phấn đấu xây dựng thành một tập đoàn truyền thông như Chủ tịch nước Trần Đức Lương đã chỉ thị khi đồng chí đến thăm Thông tấn xã Việt Nam tháng 8-2000. Thông tấn xã Việt Nam hiện đang xuất bản 35 loại ấn phẩm khác nhau với các thông tin đa dạng nhằm vào nhiều tầng lớp bạn đọc khác nhau có trong nước và nước ngoài với các loại hình khác nhau: Báo viết, báo điện tử, băng nghe nhìn, sách, ấn phẩm thông tin chung, ấn phẩm thông tin chuyên ngành, ấn phẩm chuyên phục vụ thông tin đối ngoại, ấn phẩm tham khảo phục vụ lãnh đạo Đảng và Nhà nước, ấn phẩm phục vụ các cơ quan nghiên cứu hoạch định chính sách, ấn phẩm phục vụ các phương tiện thông tin đại chúng…
2. Báo của các cơ quan, đoàn thể
Các đoàn thể chính trị - xã hội ra đời sau này lần lượt đều có cơ quan ngôn luận riêng: Nông thôn ngày nay (nguyên Nông dân Việt Nam) của Hội Nông dân Việt Nam; Tạp chí Nhân đạo (từ năm 1990) của Hội Chữ thập đỏ Việt Nam; báo Cựu chiến binh Việt Nam (từ năm 1991) của Hội Người Công giáo (thuộc Uỷ ban đoàn kết Công giáo Việt Nam)…
Trong Mặt trận Việt Minh trước đây có Đảng Dân chủ Việt Nam và Đảng Xã hội Việt Nam. Đảng Dân chủ Việt Nam thành lập từ năm 1944, ngay sau khi thành lập đã ra báo Độc lập, xuất bản bí mật. Sau Cách mạng Tháng Tám, báo ra công khai và tiếp tục xuất bản trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Sau giải phóng Thủ đô, báo ra hàng tuần và được giao trách nhiệm tuyên truyền, vận động chủ yếu là giới công thương, các nhà tư bản dân tộc chấp hành các chính sách của Nhà nước, đi theo đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội của đảng cầm quyền.
Đảng Xã hội Việt Nam thành lập năm 1946, nhằm thu hút giới trí thức đi theo con đường cách mạng của Đảng cầm quyền. Cơ quan ngôn luận là báo Tổ quốc, xuất bản hàng tháng. Các tác giả cũng như độc giả chủ yếu là trí thức, cán bộ nghiên cứu, cán bộ khoa học kỹ thuật.
Hai tờ báo trên đã góp phần tích cực vào việc tăng cường và mở rộng khối đối đoàn kết toàn dân tộc trong Mặt trận dân tộc thống nhất. Sau khi cách mạng giải phóng dân tộc thắng lợi trong phạm vi cả nước, đối tượng vận động có nhiều sự biến chuyển, Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội tự thấy mình đã làm tròn nhiệm vụ lịch sử, quyết định kết thúc hoạt động vào cuối năm 1988. Hai tờ Độc lập Tổ quốc cũng ngừng xuất bản.
Hầu như ngành hoạt động nào, hội nghề nghiệp nào ở trung ương cũng có cơ quan báo chí của mình.
Hội Nhà báo Việt Nam có Tạp chí Người làm báo từ năm l985 đến năm 1990 đổi tên là Nhà báo và Công luận. Khi báo ra hàng tuần (từ năm 1996), đề cập rộng rãi các vấn đề chính trị xã hội, thì Người làm báo trở lại thành tạp chí hàng tháng chuyên bàn về nghiệp vụ và công tác hội.
Bộ Văn hóa - Thông tin xuất bản báo Văn hóa - Nghệ thuật ra hàng tháng, sau đổi tên là Văn hóa ra hàng tuần, rồi một tuần hai kỳ.
Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam có Tạp chí Diễn đàn văn nghệ (1991). Trước đây, Hội Văn nghệ Việt Nam có Tạp chí Văn nghệ ra từ năm 1948. Khi thành lập Hội Nhà văn, có báo Văn là tuần báo sáng tác, lý luận, phê bình, thông tin văn học, đến tháng 5-1958 lấy tên là Văn học. Đến năm 1963, báo hợp nhất với Tạp chí Văn nghệ thành tuần báo Văn nghệ. Báo Văn nghệ còn có các ấn phẩm: Văn nghệ dân tộc miền núi (từ năm 1995, ra hàng tháng), Văn nghệ trẻ (từ năm 1995, ra hàng tuần), Tác phẩm mới hàng tháng (1969), Văn học nước ngoài (từ năm 1996, ra hai tháng một số).
Về văn nghệ, có Tạp chí Văn nghệ quân đội do Tổng cục Chính trị quân đội nhân dân Việt Nam xuất bản từ tháng 1-1957, ra hàng tháng. Bộ Công an xuất bản báo Văn hóa – văn nghệ công an từ tháng l-1996.
Các hội nghệ thuật đều có cơ quan ngôn luận riêng: Hội Mỹ thuật có Mỹ thuật thời nay, Hội Điện ảnh có Nghệ thuật điện ảnh, sau đổi tên là Nghệ thuật thứ bảy (về điện ảnh còn có Điện ảnh - kịch trường của Bộ Văn hóa - Thông tin, Điện ảnh ngày nay của Viện Nghệ thuật và lưu trữ điện ảnh); Hội Nghệ sĩ sân khấu có Sân khấu; Hội Nhiếp ảnh có Nghê thuật nhiếp ảnh, sau chỉ gọi là Nhiếp ảnh; Hội Nhạc sĩ có Tạp chí Âm nhạc; Hội Nghệ sĩ múa có Nhịp điệu; Hội Văn nghệ dân gian có Tạp chí Nguồn sáng; Hội Kiến trúc sư có Tạp chí Kiến trúc (với phụ san là Nhà đẹp)...
Thể thao Việt Nam là cơ quan ngôn luận của Uỷ ban Thể dục thể thao Việt Nam, nguyên là báo Thể dục thể thao (xuất bản từ năm 1957). Lúc đầu báo ra hàng tháng, rồi hàng tuần, sau ra một số ba kỳ. Báo còn có các chuyên san Thể thao - khoẻ và đẹp, Thế giới thể thao.
Báo chí của các ngành khoa học xã hội rất phong phú. Báo của các tổ chức xã hội, có Lao động - xã hội của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xuất bản từ năm 1993; Vì trẻ thơ của Uỷ ban Bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam (từ năm 1991); Gia đình và xã hội của Uỷ ban quốc gia dân số và kế hoạch hóa gia đình (từ năm 1999), nay là Ủy ban Dân số, gia đình và trẻ em. Bộ Tư pháp có Dân chủ và pháp luật sau đổi là Pháp luật. Tòa án nhân dân tối cao có Người bảo vệ công lý (từ năm 1994). Viện Kiểm sát nhân dân tối cao có Tạp chí Kiểm sát. Hội Khoa học lịch sử có Xưa và nay (từ năm 1994). Các viện nghiên cứu đều có báo hoặc tạp chí: Ngôn ngữ (1969) của Viện Ngôn ngữ học; Nhà nước và pháp luật (1972) của Viện Nhà nước và pháp luật; Khảo cổ học (1969) của Viện Khảo cổ; Triết học (1972) của Viện Triết học; Tâm lý học (1996) của Viện Tâm lý học (Hội Tâm lý học còn xuất bản Thế giới trong ta từ năm 1994); Dân tộc học (1974) của Viện Dân tộc học; Nghiên cứu Đông Nam Á (1990) của Viện Nghiên cứu Đông Nam Á; Nghiên cứu Tôn giáo (1999) của Viện Nghiên cứu Tôn giáo...
Các ngành hoạt động kinh tế và khoa học - kỹ thuật cũng xuất bản nhiều báo: Thời báo kinh tế Việt Nam (1991) và Tư vấn tiêu dùng của Hội Khoa học kinh tế, Công nghệ Việt Nam (1995) của Bộ Công nghiệp; Thương mại (1950) của Bộ Thương mại; Ngoại thương lúc đầu của Bộ Ngoại thương, đến 1994 trở thành tuần tin của Trung tâm thương mại, báo này còn ra phụ trương riêng là Mua và bán; Đầu tư (1991) của Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Giao thông vận tải (1962) của Bộ Giao thông vận tải; Đường sắt Việt Nam (1985) của Liên hiệp đường sắt Việt Nam; Bưu điện Việt Nam (1990) của Tổng cục Bưu điện; Diễn đàn doanh nghiệp (1997) của Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam; Hải quan Việt Nam (1991) của Tổng cục Hải quan; Hàng không Việt Nam (1991) của Hàng không dân dụng Việt Nam; Con số và sự kiện (1994) của Tổng cục Thống kê, Điện tử và tin học (1992) của Tổng Công ty Điện tử - tin học; Dầu khí (1986) của Tổng Công ty Dầu mỏ và khí đốt; Du lịch Việt Nam (1981) của Tổng cục Du lịch...
Về nông nghiệp, có Nông nghiệp Việt Nam (1955) của Bộ Nông nghiệp (sau là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn); Kinh tế VAC (nguyên là báo Người làm vườn) của Hội những người làm vườn, từ năm 1988; Việt Nam hương sắc (1993) của Hội Sinh vật cảnh việt Nam...
3. Sự phát triển của báo chí điện tử
Tác động rõ nhất của toàn cầu hóa đối với báo chí có lẽ là thông tin qua internet và liên lạc viễn thông qua vệ tinh.
Một mặt, internet và truyền hình qua vệ tinh là nguồn thông tin nhanh, phong phú, đa dạng về mọi mặt đời sống quốc tế. Nó giúp cho báo chí phản ánh tình hình thế giới được đầy đủ hơn, nhanh nhạy hơn. Bạn đọc Việt Nam nhìn chung rất quan tâm theo dõi các thông tin thời sự quốc tế. Mảng thông tin các sản phẩm báo chí Việt Nam đều có phần thời sự quốc tế. Mảng thông tin này ngày càng phong phú, đa dạng, hấp dẫn nhờ có internet và liên lạc viễn thông. Và nhờ đó, báo chí Việt Nam cũng có điều kiện hội nhập quốc tế, khai thác thông tin, học tập kinh nghiệm báo chí quốc tế để nâng cao chất lượng các sản phẩm của mình. Đồng thời qua đó, công chúng Việt Nam cũng tiếp nhận được nhiều thông tin hơn về thế giới, cảm thấy các dân tộc trên thế giới xích lại gần nhau hơn. Mặt khác, nhờ có công cụ internet, báo chí Việt Nam có điều kiện thuận lợi hơn trong việc đưa thông tin về đất nước và con người Việt Nam đến với hàng triệu đồng bào Việt Nam ở xa Tổ quốc và bạn bè quốc tế, những ai quan tâm đến Việt Nam.
Mạng lưới internet mới có ở Việt Nam từ cuối năm 1997, nhưng đã phát triển khá nhanh chóng. Đến 2001, đã có hơn 46 tờ báo điện tử ra đời được bạn đọc hoan nghênh. Đó là các tờ: Nhân dân điện tử tiếng Việt và tiếng Anh, VOV News của Đài Tiếng nói Việt Nam, Thời báo kinh tế Việt Nam, báo Vietnam News của Thông tấn xã Việt Nam, báo Lao động, báo Sài Gòn giải phóng, Website Đảng Cộng sản Việt Nam... đã có 400 triệu lượt người truy cập.
Riêng báo Nhân dân điện tử lên mạng internet từ ngày 21-6-1998, hiện nay ra hàng ngày bằng cả hai thứ tiếng (tiếng Việt và tiếng Anh), trung bình mỗi ngày có 120.000 lượt người truy cập.
Các báo điện tử ra đời là một bước tiến mới trong hoạt động thông tin đối ngoại của Việt Nam, đưa đến bạn đọc ở nước ngoài những thông tin trực tiếp, trung thực, đúng đắn về hình ảnh của đất nước Việt Nam đang trên đà đổi mới. Trước đây, thông tin về Việt Nam đến với bạn đọc ở nước ngoài gặp rất nhiều khó khăn trong việc phát hành báo chí. Báo điện tử ra đời đã khắc phục được vấn đề này.
Trên đây là những tác dụng tích cực, những mặt thuận lợi của toàn cầu hóa đối với hoạt động của báo chí Việt Nam.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tốt của toàn cầu hóa mà chúng ta cần khai thác, phát huy, cũng có những nguy cơ, những tác động bất lợi của toàn cầu hóa mà báo chí cần hạn chế và ngăn chặn.
Thứ nhất, internet với xa lộ thông tin là nguồn thông tin vô cùng lớn, ngày đêm chảy như thác lũ, tràn ngập mọi xã hội. Nhưng các nguồn thông tin này thiếu tính chính xác, độ tin cậy không cao, thậm chí có cả những thông tin xuyên tạc, những sản phẩm văn hóa độc hại. Do đó, trong khi khai thác nguồn thông tin này, các nhà báo cần có ý thức cảnh giác, có tinh thần phê phán, biết cách chọn lọc và kiểm tra thông tin trước khi sử dụng.
Ở góc độ này cần nhấn mạnh sự đòi hỏi rất cao với từng nhà báo trong việc hiểu biết thực chất toàn cầu hóa, cũng như hiểu rõ vai trò của internet và kỹ năng sử dụng thành thạo công việc quan trọng này nhằm phục vụ có hiệu quả các tác nghiệp báo chí.
Thứ hai, một số hãng thông tin báo chí lũng đoạn trong lĩnh vực thông tin, họ lợi dụng quá trình toàn cầu hóa để tăng cường vai trò độc quyền của mình. Chẳng hạn, thông tin về các nước đang phát triển, các hãng thông tin này phản ánh thực tế qua lăng kính của họ, do đó hình ảnh các nước đang phát triển bị biến dạng. Bởi vì, họ chỉ coi trọng thông tin tiêu cực, tin xấu, mà ít khi phản ánh những nỗ lực của nhân dân trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Chúng tôi cho rằng, để hạn chế sự lũng đoạn thông tin của các hãng độc quyền, các nước đang phát triển ngoài việc phát triển hoạt động thông tin đối ngoại của mình, cần tăng cường hợp tác trong lĩnh vực thông tin báo chí.
V- NHỮNG ĐÁNH GIÁ BƯỚC ĐẦU
1. Thành tựu
a) Sự phát triển nhanh về số lượng ấn phẩm, loại hình, không ngừng nâng cao chất lượng và hình thức của các loại hình báo chí
Năm năm qua, với sự quan tâm chỉ đạo của Đảng, sự đầu tư ngân sách của Nhà nước, của các ngành, đoàn thể, địa phương và sự nỗ lực phấn đấu của các cơ quan báo chí, nền báo chí ở nước ta đã phát triển khá nhanh về số lượng, hình thành hệ thống thông tấn, báo chí, phát thanh, truyền hình rộng khắp trong cả nước. Cả nước hiện có trên 450 đơn vị báo chí, trong đó báo in xuất bản 563 ấn phẩm các loại, phát hành 565 triệu bản/năm; 160 tờ báo ngày và tuần báo với lượng phát hành 546.223.000 bản/năm; có 63 tờ báo trung ương, 97 tờ báo địa phương, 1 báo và 20 tạp chí đối ngoại. Công suất, thời lượng phát sóng, diện phủ sóng của phát thanh và truyền hình tăng lên đáng kể, phủ sóng rộng khắp không chỉ trong nước, cả khu vực nông thôn, hải đảo, vùng sâu, vùng xa mà còn vươn ra nhiều nước trên thế giới. Hệ thống đài, trạm phát thanh, truyền hình các khu vực, tỉnh, thành đến quận, huyện và các vùng dân cư quan trọng đã được hình thành. Trên 80% số hộ được đem Đài Truyền hình quốc gia. Nhiều cơ quan báo chí đã có cơ quan thường trú ở nước ngoài. Công nghệ làm báo có bước tiến về nhiều mặt và ngày càng hiện đại. Nhiều phương tiện kỹ thuật mới trong báo chí, xuất bản được sử dụng, tạo điều kiện cho việc thông tin nhanh hơn và nâng cao chất lượng in ấn, trình bày. Kỹ thuật hiện đại về phát thanh, truyền hình giúp đưa nhanh âm thanh, hình ảnh có chất lượng cao đến với người nghe, người xem trên địa bàn rộng, không những ở trong nước mà còn đưa thông tin ra thế giới.
Trên cơ sở phát triển nhanh về số lượng và quy mô, về nội dung và hình thức, về in, phát thanh, truyền dẫn, báo chí Việt Nam ngày càng phát huy vai trò quan trọng trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước. Hệ thống mạng thông tin trong nước và quốc tế được xác lập, tạo khả năng lựa chọn, khai thác các nguồn thông tin trên thế giới, phục vụ đông đảo công chúng, công tác tuyên truyền đối ngoại được tăng cường, giúp cho nhân dân thế giới, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài có được những thông tin đúng đắn về tình hình đất nước, tranh thủ sự ủng hộ ngày càng rộng rãi của dư luận quốc tế đối với công cuộc đổi mới và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Một số cơ quan báo chí đã đưa thông tin lên mạng internet, mở ra sự trao đổi thông tin báo chí điện tử với thế giới. Những năm qua, báo chí từ trung ương tới địa phương đã đem đến cho nhân dân ta một khối lượng thông tin và tri thức vô cùng phong phú. Báo chí, đặc biệt là phát thanh, truyền hình và phương tiện giáo dục từ xa cực kỳ lợi hại, rẻ tiền và có thể tiếp cận mọi đối tượng cần tiếp cận.
b) Nội dung thông tin của báo chí ngày càng phong phú, hiệu quả; hình thức ngày càng đẹp, sinh động và hấp dẫn
Thực hiện Chỉ thị 08-CT/TW, ngày 31-3-1992 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VII) và Chỉ thị 22-CT/TW ngày 17-10-1997 của Bộ Chính trị Trung ương Đảng (khóa VIII) và Luật Báo chí do Nhà nước ban hành, báo chí Việt Nam luôn hoạt động đúng định hướng chính trị, trong khuôn khổ luật pháp nhà nước và đạt được những thành tựu quan trọng.
Báo chí ngày càng sát cuộc sống hơn; tính nhân dân, tính chiến đấu của báo chí được tăng cường, chất lượng chính trị, chất lượng văn hóa, chất lượng nghề nghiệp của báo chí được nâng lên một bước đáng kể. Báo chí giữ vai trò chủ động trong thông tin, thực sự là ngọn cờ của Đảng, tiếng nói của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp, là diễn đàn tin cậy của nhân dân. Báo chí tuyên truyền, phổ biến đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, phản ánh nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp nhân dân, đóng góp tích cực vào nhiệm vụ phấn đấu tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, tạo ra bầu không khí dân chủ, cởi mở, góp phần quan trọng giữ vững ổn định chính trị, xã hội. Đi sâu vào thực tiễn đời sống, tính dự báo của báo chí ngày càng cao. Việc phát hiện, giới thiệu, cổ vũ các mô hình kinh tế mới, cách làm ăn mới, nhân tố mới, người tốt, việc tốt đã góp phần vào việc tổng kết kịp thời kinh nghiệm trong quá trình đổi mới, xây dựng chính sách kinh tế - xã hội trong cơ chế thị thường, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Báo chí đã thể hiện rõ quan điểm bảo vệ và phát huy bản sắc, truyền thống văn hóa dân tộc, tuyên truyền, cổ vũ toàn dân tiếp thu có chọn lọc nền văn hóa tiên tiến của các nước trên thế giới, góp phần nâng cao dân trí, ngăn chặn văn hóa độc hại len lỏi vào nước ta. Trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, chống tiêu cực và các tệ nạn xã hội, báo chí cả nước đã dũng cảm phát huy vai trò xung kích, thể hiện rõ chức năng giám sát của nhân dân. Có thể nói, hầu hết các vụ tiêu cực lớn được đưa ra xét xử trong những năm qua đều đã được báo chí lên tiếng cảnh báo trước công luận với những tin, bài điều tra sắc sảo, công phu. Trong cuộc đấu tranh tư tưởng đang diễn ra gay gắt, báo chí đã thường xuyên cổ vũ toàn dân đoàn kết, chống âm mưu, thủ đoạn ''diễn biến hòa bình'', kịp thời đáp lại luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và giá trị tinh thần của chế độ xã hội chủ nghĩa ưu việt. Báo chí đã tổ chức, khơi dậy và biến nhiều hoạt động xã hội - từ thiện trở thành phong trào của toàn xã hội như đền ơn đáp nghĩa, xây dựng nhà tình nghĩa, xóa đói giảm nghèo, ủng hộ đồng bào khắc phục hậu quả thiên tai; khuyến khích tài năng, khuyến thiện...
c) Đội ngũ các nhà báo ngày càng đông, có bước trưởng thành về chính trị, tư tưởng và nghiệp vụ
Trong nhiệm kỳ Đại hội VI Hội Nhà báo Việt Nam, đội ngũ báo chí Việt Nam gồm các thế hệ người làm báo như sau:
Thế hệ các nhà báo trưởng thành trong Cách mạng Tháng Tám và trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đến nay, số đông đã nghỉ hưu, một số ít đang còn công tác, đa số các đồng chí thuộc thế hệ lớp trước nay vẫn viết đều, viết khỏe, có ý nghĩa quan trọng trong việc cổ vũ các thế hệ nhà báo kế tiếp.
Thế hệ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc đang giữ cương vị chủ chốt ở các cơ quan chỉ đạo, quản lý báo chí và các tòa soạn báo. Đội ngũ này đã kế thừa được truyền thống, đạo đức, kinh nghiệm làm báo của thế hệ các nhà báo trong Cách mạng Tháng Tám và kháng chiến chống thực dân Pháp, hiện là lực lượng nòng cốt chủ yếu bảo đảm cho báo chí cách mạng Việt Nam phát triển đúng hướng, theo đường lối của Đảng và Nhà nước, luôn vững vàng trước thách thức của thời cuộc.
Thế hệ trưởng thành sau ngày đất nước thống nhất có những bước tiến quan trọng về nhiều mặt. Nhiều người trở thành lãnh đạo chủ chốt ở các cơ quan báo chí, thành những cây bút sắc sảo trong đội ngũ báo chí cả nước.
Thế hệ các nhà báo trẻ xuất hiện trong thời kỳ đổi mới được đào tạo hệ thống, cơ bản, có khả năng nắm bắt nhanh các thiết bị, công nghệ làm báo tiên tiến, có trình độ ngoại ngữ nên tiến bộ nhanh về nghiệp vụ.
Trong số trên 9.000 nhà báo chuyên nghiệp, không chuyên nghiệp và các sinh viên báo chí mới ra trường, bổ sung vào đội ngũ báo chí, đã có 8.291 nhà báo được kết nạp vào Hội Nhà báo Việt Nam, số có từ một đến hay bằng đại học và trên đại học chiếm 72% hội viên,
Điểm nổi bật của đội ngũ những người làm báo Việt Nam là:
Luôn thể hiện rõ quan điểm chính trị vững vàng, trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc và nhân dân. Làm báo trong cơ chế thị trường nhưng không chệch định hướng xã hội chủ nghĩa; vừa tích cực phấn đấu, phục vụ đắc lực công cuộc đổi mới đất nước, đồng thời luôn tự phấn đấu đổi mới chính mình để phục vụ ngày càng có hiệu quả sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đội ngũ báo chí Việt Nam đã giữ vững bản lĩnh chính trị và bản sắc văn hóa dân tộc, không ngừng học hỏi vươn lên, làm chủ công nghệ làm báo tiên tiến, nâng cao trình độ chính trị trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, chủ động hội nhập vào báo chí khu vực và báo chí thế giới. Có một số tờ báo đã tự trang trải được các chi phí, một số ít tờ báo có lại, từ đó đầu tư, đổi mới thiết bị làm báo hiện đại.
2. Hạn chế và hướng khắc phục
1. Trong khi lực lượng báo chí nòng cốt chủ yếu vẫn kiên trì thông tin có định hướng thì một bộ phận các báo, đáng chú ý là các số chuyên san, phụ san cuối tuần, cuối tháng, đã bị tác động bởi khuynh hướng thương mại hóa. Vấn đề này, Đại hội VI Hội Nhà báo Việt Nam đã lên tiếng cảnh báo, nhưng trên thực tế vẫn chưa được đẩy lùi.
Biểu hiện cụ thể là coi nhẹ chức năng tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng; né tránh đề cập hoặc chỉ đề cập hời hợt những chủ đề, sự kiện chính trị quan trọng của đất nước. Ngay cả đối với các sự kiện chính trị quan trọng, các hoạt động phong phú, sinh động của chính cơ quan, đơn vị chủ quản, của phong trào cách mạng sôi nổi ở các địa phương, đơn vị mà các nhà báo, tạp chí có trách nhiệm và nghĩa vụ làm người phát ngôn và tuyên truyền nhưng cũng chỉ đưa dưới dạng tin tức, sự kiện với số chữ và thời lượng rất ít trong khi đó lại khai thác và đề cập quá nhiều tin, bài không cần thiết của các địa phương, đơn vị khác và những chuyện giật gân, câu khách của nước ngoài, chạy theo thị hiếu tầm thường của một bộ phận bạn đọc, không thấy hết ''trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân của nhà báo'' trong thông tin, do đó không chú trọng trong việc lựa chọn tin tức sự việc để đưa lên mặt báo. Một số tờ tuần báo, do muốn chiều lòng một bộ phận bạn đọc chỉ nặng về phê phán tiêu cực, yếu kém, đưa đậm các mặt trái của xã hội, chỉ cốt bán được báo, coi nhẹ việc biểu dương, cổ vũ nhân tố mới, người tốt, việc tốt, tạo ra không khí nặng nề lên mặt báo và trong dư luận xã hội; khai thác quá nhiều đề tài có nội dung giật gân, câu khách về tình dục, bạo lực, các vụ án, chuyện đời tư các nhân vật, nghệ sĩ ở trong nước và trên thế giới... trái với thuần phong, mỹ tục của dân tộc, thậm chí, đưa lên mặt báo những chuyện, những người  không có thực, không tính đến tác hại nghiêm trọng đối với xã hội. Một số tờ báo, trong thông tin của mình còn chủ trương làm to những vụ việc thực tế không phải là nghiêm trọng, làm lệch hướng dư luận xã hội. Trên một số tờ báo đã có những tin, bài, hình ảnh có nội dung tư tưởng, quan điểm sai trái. Có không ít những tin, bài khi cho đăng không được cân nhắc kỹ, để cho các thế lực thù địch khai thác, lợi dụng để đả kích, nói xấu chế độ ta. Không ít báo còn quảng cáo quá nhiều các sản phẩm hàng hóa nước ngoài, các kiểu thời trang của những người mẫu giàu có do các cơ sở sản xuất, kinh doanh nước ngoài yêu cầu, với ngôn từ và hình ảnh thiếu chọn lọc, xa lạ với bản sắc văn hóa và lối sống của nhân dân ta. Có những tờ báo quảng cáo cả hàng cấm, quảng cáo quá mức quy định, đặt lợi nhuận lên trên lợi ích xã hội.
2. Từ khuynh hướng thương mại hóa đã dẫn đến biểu hiện xa rời tôn chỉ, mục đích của một số tờ báo, tạp chí. Trong hoạt động báo chí còn có biểu hiện coi nhẹ chức năng tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, coi trọng việc đưa tin giật gân, câu khách để đạt mục đích về số lượng phát hành, có trường hợp làm lộ bí mật quốc gia, tính chính trị, tính văn hóa, tính khoa học, nhất là chất lượng chính trị của một số ẩn phẩm báo chí còn thấp; tính chiến đấu chưa cao, tính phát hiện, dự báo và hướng dẫn dư luận chưa sắc sảo. Do không nêu cao tinh thần trách nhiệm trong quản lý, không thể hiện rõ trách nhiệm trước xã hội và lợi ích của cộng đồng nên có báo đã đặt lợi nhuận lên trên hết, có một số ấn phẩm báo chí bị tư nhân chi phối và thao túng, dẫn đến việc xa rời tôn chỉ, mục đích, lệch lạc về quan điểm, tư tưởng. Ngoại trừ phát thanh và truyền hình phủ sóng được rộng khắp cả nước, các ấn phẩm và sản phẩm báo chí nhìn chung vẫn chỉ tập trung ở các trung tâm thành phố, thị xã, thị trấn, chưa đến rộng rãi với nhân dân vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Các vấn đề trong sản xuất, đời sống của nông dân, công nhân chưa được đề cập tương xứng và kịp thời trên mặt báo cũng như các tạp chí.
3. Bên cạnh đội ngũ đông đảo các nhà báo có lương tâm và đạo đức trong sáng, tuyệt đối trung thành với quan điểm, đường lối của Đảng, tận tụy với nghề nghiệp, phấn đấu vì lợi ích của Tổ quốc và nhân dân, còn có một bộ phận, tuy không nhiều nhưng cũng không phải quá ít nhà báo xa rời ''Quy ước đạo đức nghề nghiệp báo chí'', gây tác hại xấu đến uy tín báo chí, làm cho xã hội phiền lòng. Vấn đề đặt ra là, tại sao nhiều thiếu sót, nhược điểm được phát hiện từ lâu, được nhắc nhở nhiều và không ai là không nhất trí, thế nhưng vẫn tồn tại, thậm chí có mặt còn phát triển; tại sao nhiều vấn đề lớn tồn đọng lâu nay vẫn chưa được giải quyết? Rõ làng là, cho dù thuộc vào loại yếu kém, bất cập nào đi nữa, cũng đều có trách nhiệm về quản lý, chỉ đạo ở tầm vĩ mô. Hội Nhà báo Việt Nam với tư cách là tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp tự nguyện của những người làm báo Việt Nam, là tổ chức do Đảng lập ra để chỉ đạo báo chí bằng phương thức vận động, giáo dục quần chúng, đương nhiên không thể thoái thác trách nhiệm của mình trước những khuyết điểm nói trên.
4. Một số biểu hiện tiêu cực trong báo chí cần được chú ý phối hợp chặt chẽ giữa tổ chức và cơ quan, đặc biệt là cơ quan chủ quản báo chí để ngăn chặn và loại bỏ, cụ thể là:
- Những yếu kém về chính trị, tư tưởng, nghiệp vụ... của một số cán bộ chỉ đạo, quản lý báo chí, của một số ít người đứng đầu cơ quan báo chí và của cơ quan chủ quản báo chí.
- Những yếu kém thuộc về trình độ nghề nghiệp, năng lực, nhất là thuộc về phẩm chất, đạo đức của những người làm báo và những người trực tiếp làm công tác quản lý báo chí.
- Những thông tin thiếu khách quan, thiếu trung thực, ca ngợi hoặc phê phán không đúng sự thật với động cơ vụ lợi cá nhân; móc nối, liên kết để ''đánh'' người này, bảo vệ người kia, làm rối nội bộ, làm tổn hại thanh danh một số cá nhân và cơ sở để lấy quảng cáo hoặc đòi tiền.
- Những nhận thức, quan niệm không đúng về vai trò, trách nhiệm và quyền lực báo chí trong đời sống xã hội, tự đặt mình lên trên hết, tự cho mình quyền phán xét hết cả, không tôn trọng tổ chức cơ sở và nhân dân.
- Những biểu hiện mất cảnh giác ở một bộ phận nhà báo trong quan hệ giao tiếp, khi nhận tài trợ, quảng cáo, liên doanh, liên kết, nhận lời đi tham quan, du lịch nước ngoài...
_________
1.     Sơ thảo lịch sử 50 năm báo Nhân dân 1951 – 2001, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 163.
2.     Báo Nhân dân, ngày 1-6-1990.
3.     Xem Văn kiện Đại hội lần thứ V, Hội Nhà báo Việt Nam.
4.     Xem Văn kiện Đại hội lần thứ V, Hội Nhà báo Việt Nam.
5.     Tạp chí Người làm báo, tháng 4-2004.
Chương VI
Ngày 31/8/2011. Cập nhật lúc 16h 10'
CHƯƠNG VI
BÁO CHÍ CÁCH MẠNG VIỆT NAM THỜI KỲ TIẾP TỤC ĐỔI MỚI, ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC 2001 - 2010
I- BÁO CHÍ HOẠT ĐỘNG TRONG ĐIỀU KIỆN TIẾP TỤC SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI, ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA 
1. Bối cảnh lịch sử
Giai đoạn 2001 - 2010 tình hình thế giới diễn biến phức tạp, khó lường, cách mạng khoa học - công nghệ và toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ; hòa bình, hợp tác và phát triển là xu thế lớn nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, khủng bố quốc tế, bất ổn trong xã hội, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ giữa một số nước tiếp tục diễn biến phức tạp. Thiên tai, dịch bệnh, khủng hoảng tài chính, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu trở thành những vấn đề nghiêm trọng trên quy mô toàn cầu.
Trong giai đoạn này, tình hình trong nước bên cạnh những thuận lợi cơ bản là chính trị - xã hội ổn định, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và tiềm lực của đất nước được tăng cường; quan hệ quốc tế được mở rộng, vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam được nâng cao. Tuy nhiên, đất nước cũng phải đối mặt với sự chống phá của các thế lực thù địch, phải giành nhiều công sức cho việc đảm bảo độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; thiên tai, dịch bệnh liên tiếp xảy ra gây thiệt hại nặng nề. Những năm đầu thập niên, đất nước phải khắc phục những hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ toàn cầu tác động bất lợi về nhiều mặt làm suy giảm tăng trưởng và làm trầm trọng thêm những yếu kém của nền kinh tế nước ta. Trong giai đoạn này, thực hiện đường lối của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX và lần thứ X của Đảng về nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đã nỗ lực phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đạt được những thành tựu rất quan trọng trên tất cả các lĩnh vực chính trị - xã hội, văn hóa, an ninh - quốc phòng, đối ngoại. Tiềm lực của đất nước tăng mạnh, vị thế quốc tế của Việt Nam được tăng cao. Những thắng lợi này đang tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam tiếp tục đổi mới toàn diện đồng bộ đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, phát triển nhanh mạnh và bền vững để đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại hóa.
2. Sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí
Nói tới cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với báo chí là nói đến cách thức mà Đảng thực hiện để lãnh đạo, tác động có chủ đích tới các cơ quan báo chí và nhà báo. Để Đảng lãnh đạo báo chí có hiệu quả, cùng với nội dung lãnh đạo đúng, Đảng cần có cơ chế lãnh đạo thích hợp, đặc biệt là trong từng giai đoạn.
Cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với báo chí được thể hiện qua các mặt cụ thể: đề ra các nghị quyết, chỉ thị đối với báo chí; lãnh đạo tổ chức đảng, đảng viên cơ quan chủ quản và cơ quan báo chí; lãnh đạo thông qua các cấp uỷ, ban cán sự đảng, đảng đoàn cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội; lãnh đạo thông qua đoàn thể nhân dân; lãnh đạo thông qua việc quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, quản lý cán bộ lãnh đạo cơ quan báo chí; kiểm tra các cấp uỷ, tổ chức đảng và đảng viên thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng.
a) Đảng lãnh đạo bằng việc đề ra các chủ trương, nghị quyết chỉ thị đối với báo chí
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng là cơ sở để các cơ quan nhà nước thể chế hóa thành các chủ trương, kế hoạch, chính sách, luật pháp... Các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về báo chí trở thành cơ sở để Nhà nước thể chế hóa, cụ thể hóa các quan điểm của Đảng nhằm thực hiện quyền hạn và trách nhiệm quản lý nhà nước đối với báo chí. Trong hơn 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới, cơ chế này được thực hiện ngày càng đầy đủ và sâu sắc hơn.
Chỉ thị 63-CT/TW ngày 25-7-1990 của Ban Bí thư (khóa VI) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác báo chí - xuất bản. Đại hội VII của Đảng thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh 1991), khẳng định: ''Bảo đảm quyền được thông tin, quyền tự do sáng tạo của công dân. Phát triển các phương tiện thông tin đại chúng, thông tin đa dạng, nhiều chiều, kịp thời, chân thực và bổ ích''. Ngày 31-3-1992, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị 08-CT/TW về Tăng cường sự lãnh đạo và quản lý nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác báo chí, xuất bản. Nghị quyết 09-NQ/TW ngày 18-2-1995 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa VII) về Một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng nêu yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả của báo chí; coi trọng công tác bồi dưỡng cán bộ, nhất là cán bộ phụ trách báo chí, nắm vững và chủ động thực hiện đúng đắn, sáng tạo các định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng; đấu tranh có hiệu quả chống tham nhũng, tiêu cực, chống âm mưu ''diễn biến hòa bình'' của các thế lực thù địch. Ngày 17-10-1997, Bộ Chính trị (khóa VIII) ban hành Chỉ thị 22-CT/TW Về tiếp tục đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý công tác báo chí, xuất bản. Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) xác định quyết tâm hiện đại hóa hệ thống thông tin đại chúng; sắp xếp hợp lý nhằm tăng hiệu quả thông tin; xây dựng và từng bước thực hiện chiến lược truyền thông quốc gia phù hợp với đặc điểm nước ta và xu thế phát triển thông tin của thế giới. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, khi đề cập đến công tác lãnh đạo báo chí đã khẳng định một quan điểm mới, khoa học ''phát triển đi đôi với quản lý tốt”... Sau Đại hội IX, Hội nghị Trung ương 5 (khóa IX) ra Nghị quyết về công tác tư tưởng, lý luận, đối với báo chí, Nghị quyết khẳng định: ''Báo chí nước ta là báo chí cách mạng, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, sự giám sát và xây dựng của nhân dân'', đồng thời yêu cầu tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác thông tin, cổ động. Ở nhiệm kỳ khóa IX, tại Hội nghị lần thứ năm, Ban Chấp hành Trung ương đã ra Nghị quyết 16-NQ/TW ''Về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới”, trong đó nhấn mạnh đến yêu cầu ''nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tuyên truyền cổ động, báo chí - xuất bản, văn hóa - văn nghệ, thông tin đối ngoại''. Bộ Chính trị, Ban Bí thư cũng ban hành một số chỉ thị, thông báo nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với công tác báo chí, trong đó có một số văn bản hết sức quan trọng: Thông báo kết luận số 162-TB/TW, ngày l-12-2004 của Bộ Chính trị ''Về một số biện pháp tăng cường quản lý báo chí trong tình hình mới”. Cuối năm 2006, Bộ Chính trị (khóa X) ra Thông báo kết luận số 41-TB/TW (ngày 11-10-2006), nêu nhiệm vụ chủ yếu của các cơ quan chỉ đạo, quản lý báo chí, các cơ quan chủ quản và cơ quan báo chí. Ngày 30-3-2007, Bộ Chính trị ban hành Thông báo kết luận số 68-TB/TW tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với báo chí. Ngày 9-5-2007, Ban Bí thư ban hành Kế hoạch 03-KH/TW, nêu một số biện pháp cụ thể nhằm thực hiện Thông báo kết luận 68-TB/TW. Hội nghị lần thứ năm (khóa X), đã thảo luận và ra Nghị quyết ''Về công tác tư tưởng, lý luận, báo chí trước yêu cầu mới”.
b) Đảng lãnh đạo báo chí thông qua đồng thời nhiều kênh
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, sự lãnh đạo của Đảng đối với các lĩnh vực đời sống xã hội chủ yếu được thông qua Nhà nước. Ở lĩnh vực báo chí, đó là việc thể chế hóa, cụ thể hóa đường lối, quan điểm của Đảng thành luật pháp, kế hoạch, chính sách về báo chí kiểm tra hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí. Năm 1989, Quốc hội thông qua Luật Báo chí, 10 năm sau, Quốc hội ban hành Luật số 12/1999-QH10 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí. Ngày 26-4-2002, Chính phủ ban hành Nghị định số 51/2002/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật Báo chí. Thực hiện Kế hoạch 03-KH/TW của Ban Bí thư (khóa X), với sự chủ trì của Ban cán sự đảng Bộ Thông tin và Truyền thông, các cơ quan liên quan cùng tham gia xây dựng các quy hoạch: Quy chế người phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí; Quy chế thu hồi ấn phẩm, đình bản tạm thời và thu hồi giấy phép hoạt động báo chí; Quy chế cải chính trên báo chí; Quy chế khai thác và sử dụng nguồn tin; Quy chế cấp phép hoạt động báo chí; Quy chế quản lý văn phòng đại diện và phóng viên thường trú tại các địa phương; rà soát lại, bổ sung, chỉnh sửa quy hoạch, kế hoạch phát triển báo chí của cả nước; đặc biệt chú ý đến việc quy hoạch hệ thống các đài phát thanh, truyền hình từ trung ương đến địa phương và báo chí điện tử trong điều kiện các loại hình truyền thông đa phương tiện đã và đang phát triển mạnh mẽ; xây dựng, bổ sung và hoàn chỉnh hệ thống các chính sách về báo chí, cụ thể là chính sách lương và phụ cấp của nhà báo, chính sách đầu tư, chính sách thuế…
Đảng lãnh đạo báo chí thông qua các đoàn thể nhân dân, đặc biệt là Hội Nhà báo. Hội Nhà báo Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp của những người làm báo Việt Nam, và thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, một bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị của đất nước. Hội hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý của Nhà nước, theo pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và điều lệ hội.
Đảng lãnh đạo báo chí thông qua các tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng bên trong các cơ quan báo chí, trong các cấp Hội Nhà báo. Đây là điều kiện để Đảng thực hiện sự lãnh đạo trực tiếp, sâu sát, kịp thời của mình với báo chí. Coi trọng việc quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng đội ngũ cán bộ, biên tập biên, nhất là tổng biên tập, phó tổng biên tập, trưởng các ban chuyên môn, trưởng các chuyên trang, chuyên mục.
Đảng lãnh đạo trực tiếp các cơ quan báo chí chủ lực của Đảng. Hệ thống báo chí của ta đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Bên cạnh sự lãnh đạo mang tính nguyên tắc đó, Đảng còn lãnh đạo trực tiếp một số cơ quan báo chí của Đảng - những cơ quan báo chí quan trọng, thể hiện rõ nhất đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đó là báo Nhân dân, là Tạp chí Cộng sản, Thông tấn xã Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam...
c) Đảng lãnh đạo thông qua công tác tổ chức - cán bộ, qua việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo cơ quan báo chí
Cán bộ là khâu đặc biệt quan trọng trong bất cứ lĩnh vực nào trong đó, có lĩnh vực báo chí. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: Cán bộ là cái gốc của công việc... Mọi việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém mà nên. Sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí là tạo dựng một đội ngũ cán bộ trung thành, tận tụy, vừa có đức, vừa có tài, những người quyết định địa nghị quyết của Đảng đi vào cuộc sống, lan tỏa trong quần chúng nhân dân. Chỉ thị 08-CT/TW ngày 31-3-1992 của Bộ Chính trị (Khóa VII) chỉ rõ: ''Xây dựng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ báo chí, xuất bản đến năm 2000, bảo đảm đội ngũ này vững vàng về chính trị và tư tưởng, trong sạch về phẩm chất đạo đức và tinh thông nghề nghiệp; chuẩn bị tốt đội ngũ cán bộ kế cận… Chỉ thị 22-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) yêu cầu: Việc bổ nhiệm, đề bạt, thay đổi tổng biên tập, phó tổng biên tập các báo, tạp chí, giám đốc, phó giám đốc nhà xuất bản phải làm đúng quy trình và có sự thống nhất ý kiến bằng văn bản giữa cơ quan tham mưu về tư tưởng - văn hóa của Đảng với cơ quan nhà nước về văn hóa - thông tin. Các văn kiện quan trọng của Đảng như Thông báo kết luận số 162-TB/TW của Bộ Chính trị (khóa X) về công tác báo chí, đặc biệt ra Nghị quyết Trung ương 5 (khóa X) về ''Công tác tư tưởng, lý luận, báo chí trước yêu cầu mới'' và Kết luận số 12-KL/TW ngày 24-9-2007 của Bộ Chính trị về những công việc cần làm để triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa X) đều khẳng định tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng nói chung, công tác báo chí nói riêng.
đ) Đảng kiểm tra nội dung chính trị tư tưởng của báo chí; kiểm tra các tổ chức đảng và đảng viên thực hiện sự lãnh đạo của Đảng trong các cơ quan báo chí
Với báo chí, Đảng lãnh đạo các tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên qua công tác kiểm tra tập trung vào các nội dung quan trọng: kiểm tra việc thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về báo chí; kiểm tra việc thực hiện công tác tổ chức, cán bộ, công tác xây dựng Đảng trong các cơ quan báo chí; kiểm tra việc thực hiện chế độ tài chính của cơ quan báo chí. Năm 2008, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã có Chương trình kiểm tra số 67-KH/TW đối với tổ chức đảng trong cơ quan báo chí việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà nước trên các mặt vừa nêu. Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đối với báo chí được tiến hành đồng bộ với thanh tra của Nhà nước, tạo sự thống nhất giữa lãnh đạo và quản lý, giữa định hướng chính trị và việc chấp hành các quy định cụ thể.
Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX), đã ra Nghị quyết 16-NQ/TW ''Về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới”, trong đó nhấn mạnh đến yêu cầu ''nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tuyên truyền cổ động, báo chí xuất bản, văn hóa - văn nghệ, thông tin đối ngoại''. Bộ Chính trị, Ban Bí thư cũng ban hành một số chỉ thị, thông báo nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với công tác báo chí, trong đó, có một số văn bản hết sức quan trọng: Thông báo kết luận số 162-TB/TW, ngày 1-12-2004 của Bộ Chính trị ''Về một số biện pháp tăng cường quản lý báo chí trong tình hình mới''. Chỉ thị 22-CT/TW và Thông báo kết luận 162-TB/TW chỉ rõ những yếu kém, khuyết điểm của báo chí như xa rời tôn chỉ mục đích, sa vào giật gân, câu khách, chạy theo lợi ích kinh tế thuần túy, sao nhãng biểu dương người tốt, việc tốt, nặng thông tin mặt tiêu cực, mặt trái xã hội, làm ''nóng'' một số vấn đề kinh tế - xã hội đất nước một cách không đáng có... Khi thực hiện nhiệm vụ thông tin, tuyên truyền, cùng với tuân thủ quy định của pháp luật theo tiêu chí đúng sai, cơ quan báo chí của ta còn có một tiêu chí khác không kém phần quan trọng là nên hay không nên. Để thực hiện tiêu chí này, rất cần nhãn quan chính trị đúng đắn, sắc sảo, sự nhạy cảm và tinh thần trách nhiệm cao của người làm báo, nhất là cán bộ lãnh đạo cơ quan báo chí. Cũng trong năm 2005, Ban Bí thư (khóa IX) ra Chỉ thị 52-CT/TW về tăng cường quản lý báo chí điện tử - một loại hình báo chí hiện đại mới xuất hiện ở nước ta từ năm 1997 nhưng đã có sự phát triển hết sức mạnh mẽ, sôi động và có phần phức tạp. Việc lãnh đạo, quản lý báo chí điện tử cần một cách nhìn mới, năng lực mới, và đương nhiên, cần có những quy định mới của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Chỉ thị 52-CT/TW nhấn mạnh: ''Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm không ngừng nâng cao nhận thức của các cấp uỷ, chính quyền, đoàn thể, cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là trong thanh niên, thiếu niên về vị trí, tầm quan trọng và tính hai mặt của internet và báo điện tử, để khai thác, sử dụng có hiệu quả mặt tích cực, đồng thời phòng ngừa, hạn chế mặt tiêu cực. Tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với báo điện tử và các mạng thông tin điện tử. Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các văn bản pháp luật, các cơ chế, chính sách phát triển, quản lý báo điện tử và mạng internet''.
Sau gần ba năm lãnh đạo thực hiện Thông báo kết luận 162-TB/TW, cuối năm 2006, Bộ Chính trị (khóa X) ra Thông báo kết luận số 41-TB/TW (ngày 11-10-2006). Trong bản thông báo này, Bộ Chính trị đã chỉ rõ những nhiệm vụ mà các cơ quan chỉ đạo, quản lý báo chí, các cơ quan chủ quản và cơ quan báo chí phải thực hiện - một sự ''phân vai'' rõ ràng, khoa học. Thông báo 41-TB/TW của Bộ Chính trị (khóa X) đặc biệt coi trọng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cấp uỷ, ban cán sự đảng, đảng đoàn và lãnh đạo cơ quan chủ quản trong công tác quản lý, bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ báo chí, trực tiếp chịu trách nhiệm về các sai phạm của cơ quan báo chí thuộc quyền. Nhấn mạnh công tác xây dựng Đảng về nâng cao vai trò của tổ chức đảng, ý thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên trong các cơ quan báo chí; khẳng định nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo, định hướng về chính trị, tư tưởng, về chủ trương, đường lối và chiến lược phát triển, về công tác cán bộ. Mặt khác, đề cao việc quản lý hoạt động báo chí theo pháp luật và chính sách của Nhà nước. Ngày 30-3-2007, Bộ Chính trị (khóa X) ban hành Thông báo kết luận số 68-TB/TW tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với báo chí. Ngày 9-5-2007, Ban Bí thư ban hành Kế hoạch 03-KH/TW, nêu một số biện pháp cụ thể nhằm thực hiện Thông báo kết luận 68-TB/TW. Đây là một bước đi mang tính sâu sát, thể hiện quyết tâm của Bộ Chính trị, Ban Bí thư trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác báo chí.
Từ tinh thần chỉ đạo và kết quả thu được qua việc thực hiện các chỉ thị, thông báo, kế hoạch đã nêu trên, tại Hội nghị Trung ương 5 (khóa X) (từ ngày 5 đến ngày 14-7-2007) đã thảo luận và ra Nghị quyết ''Về công tác tư tưởng, lý luận, báo chí trước yêu cầu mới''. Lần đầu tiên, công tác báo chí, hoạt động báo chí được Trung ương đề cập một cách toàn diện, đầy đủ, sâu sắc trong một nghị quyết hết sức quan trọng. Nghị quyết chỉ rõ: ''Đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với hoạt động báo chí. Coi trọng, chăm lo công tác xây dựng Đảng trong các cơ quan báo chí, đề cao trách nhiệm đảng viên của người làm báo, nhất là người giữ cương vị lãnh đạo. Thường xuyên kiểm tra, giám sát các tổ chức đảng, đảng viên ở các cơ quan báo chí, cơ quan chủ quản, cơ quan quản lý báo chí về thi hành Điều lệ Đảng, các quy định của Đảng và Nhà nước đối với hoạt động báo chí. Xây dựng quy chế để thuờng xuyên làm tốt việc định hướng và cung cấp thông tin cho báo chí, nhất là đối với các vấn đề quan trọng, phức tạp, nhạy cảm về đối nội, đối ngoại; nghiên cứu bổ sung, sửa đổi Luật Báo chí và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan; quy định thẩm quyền, trách nhiệm, cơ chế phối hợp giữa cơ quan chỉ đạo báo chí của Đảng, cơ quan quản lý báo chí của Nhà nước, Hội Nhà báo và cơ quan chủ quản báo chí đối với cơ quan báo chí và người làm báo; xây dựng chế tài đủ mạnh, xử lý dứt điểm, kịp thời, nghiêm minh các sai phạm''.
Nhằm thể chế hóa, cụ thể hóa nghị quyết, chỉ thị, thông báo kết luận của Đảng về lãnh đạo, quản lý công tác báo chí, Ban cán sự đảng Chính phủ, Ban cán sự đảng Bộ Văn hóa - Thông tin, sau này là Bộ Thông tin và Truyền thông và các ban, ngành liên quan để triển khai nhiều công việc quan trọng. Thực hiện Đề án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí (1989, 1999), xây dựng quyết định của Thủ tướng Chính phủ (Quyết định số 77-2007/QĐ-TTg ngày 28-5- 2007) ban hành quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí; Thông tư số 07-2007/TT-VHTT của Bộ Văn hóa - Thông tin hướng dẫn cấp, đổi và thu hồi Thẻ nhà báo; Quyết định số 52-2008/QĐ-BTTTT ngày 2-12-2008 của Bộ Thông tin và Truyền thông về việc ban hành Quy chế xác định nguồn tin trên báo chí; Thông tư số 13-2008/TT-BTTTT ngày 31-12-2008 của Bộ Thông tin và Truyền thông hướng dẫn việc thành lập và hoạt động của cơ quan đại diện, phóng viên thường trú trong nước của các cơ quan báo chí; Nghị định số 97-2008/NĐ-CP ngày 28-8-2008 của Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin điện tử trên internet; Nghị định số 28-2009/NĐ-CP ngày 20-3-2009 quy định xử phạt hành chính trong quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin điện tử trên internet; Quy hoạch truyền dẫn, phát sóng, phát thanh, truyền hình đến năm 2020; Thông tư số 15-2009/TT-BTTTT ngày 4-5-2009 của Bộ Thông tin và Truyền thông quy định về việc tổ chức liên hoan phát thanh, truyền hình; Quyết định số 241-2009/QĐ-BTTTT ngày 24-2-2009 của Bộ Thông tin và Truyền thông quy định về thi đua, khen thưởng trong lĩnh vực phát thanh, truyền hình; Thông tư số 07-2008/TT-BTTTT ngày 18-12-2008 hướng dẫn một số nội dung về hoạt động cung cấp thông tin trên trang điện tử cá nhân trong Nghị định số 97-2008/NĐ-CP ngày 28-8-2008 của Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin điện tử trên internet; Quy hoạch hệ thống báo in, tạp chí in đến năm 2020; Thông tư số 18-2009/TT-BTTTT, ngày 28-5-2009 quy định một số yêu cầu về quản lý hoạt động cung cấp dịch vụ truyền hình cáp tương tự tại đầu cuối của người sử dụng dịch vụ; Thông tư số 19-2009/TT-BTTTT, ngày 28-5-2009 quy định về việc liên kết trong hoạt động sản xuất chương trình phát thanh, truyền hình;...
3. Tình hình hoạt động của báo chí thời kỳ 2001 – 2010
Thời kỳ 2001 - 2010, báo chí Việt Nam tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, phát triển nhanh, toàn diện cả số lượng và chất lượng, cả nội dung, hình thức, loại hình, số lượng chất lượng ấn phẩm, cả lượng phạm vi phát hành, phủ sóng.
Tính đến đầu tháng 5-2009, cả nước có trên 710 cơ quan báo chí in, gồm 175 báo in (trung ương, các ban, bộ, ngành, đoàn thể có 76 báo; các tỉnh, thành phố có 99 báo); trên 530 tạp chí (trung ương, các ban, bộ, ngành, đoàn thể có 421 tạp chí; địa phương 114 tạp chí); 1 hãng thông tấn quốc gia; 2 đài phát thanh, truyền hình quốc gia, đài truyền hình của ngành, 63 đài phát thanh, truyền hình tỉnh, thành phố, trên 500 đài truyền thanh, truyền hình cấp huyện, hàng nghìn trạm truyền thanh, truyền hình cấp xã; 5 tờ báo điện tử lớn, hàng chục trang báo điện tử là cánh tay nối dài của các báo in, hàng trăm trang thông tin điện tử, hàng nghìn Website. Đài Tiếng nói Việt Nam đã phủ sóng 97,5% diện tích lãnh thổ và phủ sóng qua vệ tinh đến nhiều nước trên thế giới. Đài Truyền hình Việt Nam phủ sóng đến gần 90% số hộ gia đình ở trong nước và phủ sóng qua vệ tinh đến nhiều khu vực ở ngoài nước.
Với gần 175 báo in phần lớn đều tăng trang, kỹ thuật in hiện đại, hình thức đẹp, hấp dẫn; nhiều đơn vị báo in đã xuất bản từ 3 đến 7 ấn phẩm và hàng chục tờ báo có in ra phát hành từ 100.000 bản - 500.000 bản/ngày.
- Báo nói với Đài Phát thanh quốc gia, 63 đài phát thanh tỉnh, thành, trên 600 đài phát thanh huyện và trên 10.000 đài truyền thanh xã, phường với thời lượng phát sóng tăng hơn l0 lần, với nhiều kênh, nhiều chương trình, với nhiều tiếng dân tộc và tiếng nước ngoài đã phủ sóng cả nước và nước ngoài, đáp ứng nhu cầu thông tin ngày càng cao, càng phong phú, đa dạng của nhân dân và thông tin đối ngoại. Khối báo truyền hình với 1 đài quốc gia, 1 đài của ngành, 63 đài tỉnh, thành, 500 đài truyền hình huyện thị. Với công nghệ kỹ thuật số, cùng với hệ thống truyền hình cáp mở rộng chất lượng thông tin ngày một nâng cao.
Cả nước có hơn 17.000 người làm báo chuyên nghiệp được cấp thẻ nhà báo, hàng ngàn cán bộ, kỹ sư, nghệ sĩ, nhân viên làm việc trong các cơ quan báo chí và hàng chục ngàn người khác là cộng tác viên, nhân viên, lao động tham gia các công đoạn in ấn, tiếp thị, quảng cáo, phát hành, sống chủ yếu bằng dịch vụ nghề báo. So với năm 1986 - thời điểm đất nước ta bắt đầu tiến hành công cuộc đổi mới thì số lượng các cơ quan báo chí, số lượng báo, đài, tạp chí và đội ngũ những người làm báo hiện nay tăng từ 3 đến 4 lần; nếu so với năm 2001, các chỉ số này tăng 1,3 đến 1,5 lần, Năm 1969, mạng thông tin toàn cầu (internet), một trong những phát minh lớn nhất của loài người trong thế kỷ XX ra đời và gần 30 năm sau mới có mặt ở Việt Nam, nhưng đến thời điểm này, số người sử dụng internet của Việt Nam gần bằng 25% số dân, một mức khá cao ở khu vực Đông Nam Á và châu Á. Sự ra đời và phát triển vượt bậc của báo điện tử nối mạng internet cùng với khả năng tích hợp nhiều loại hình báo chí trên một thiết bị truyền thông hiện đại tạo ra khả năng to lớn cho việc truyền tải, thu nhận thông tin của các cơ quan báo chí, xuất bản và công chúng của báo chí, xuất bản.
Nhìn trên tổng thể, báo chí, xuất bản nước ta đã có bước phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ về nhiều mặt: tăng loại hình; tăng số lượng cơ quan báo chí, xuất bản; tăng số đầu báo, tạp chí, đài phát thanh, truyền hình, nhà xuất bản, nhà in sách báo, ấn phẩm, chương trình; tăng chất lượng nội dung, hình thức, công nghệ in ấn, truyền tải thông tin; tăng số lượng, phạm vi phát hành, phạm vi phủ sóng; tăng số lượng nhà báo, người làm công tác xuất bản và đội ngũ những người làm việc trong các cơ quan báo chí, xuất bản; tăng số lượng công chúng báo chí, xuất bản, đặc biệt là ở nước ngoài; tăng nguồn lực tài chính, cơ sở vật chất, kỹ thuật1.
Các cơ quan báo chí đã giới thiệu với đông đảo công chúng nhiều tác phẩm báo chí, văn học, nghệ thuật có giá trị về nội dung tư tưởng và hình thức thể hiện ngày càng tốt hơn tôn chỉ, chức năng của báo chí cách mạng: Tuyên truyền tập thể, hướng dẫn tổ chức tập thể, cổ vũ thực hiện đường lối, chính sách pháp luật của Đảng, Nhà nước; thông tin nhanh chóng, chính xác, đa dạng, phong phú, thực hiện quyền được thông tin của nhân dân và trở thành người bạn gần gũi của nhân dân. Hệ thống truyền hình Việt Nam đã có bước phát triển rất mạnh mẽ, trở thành một loại hình báo chí có vị trí rất quan trọng ở Việt Nam.
Trong thời gian này có sự xuất hiện của báo điện tử. Tuy xuất hiện muộn nhưng báo điện tử đã có bước phát triển mạnh mẽ.
Với gần 100 báo điện tử, trong đó có một số báo điện tử lớn như Báo Điện tử Đảng Cộng sản việt Nam, Cổng thông tin điện tử Chính phủ, Vietnamnet, Vn.Express... và hàng chục báo điện tử là các cánh tay nối dài của các báo in, báo phát thanh, truyền hình lớn cùng hàng trăm trang điện tử. Hàng nghìn Website đã phát huy mạnh mẽ các ưu thế của báo điện tử nên đã sản xuất, khai thác, tổng hợp được khối lượng thông tin lớn nhất, truyền tải nhanh nhất đến bạn đọc với nhiều hình thức hấp dẫn, do đó lượng bạn đọc báo điện tử đã tăng lên rất nhanh chóng, chiếm tỷ lệ rất lớn, đặc biệt là bạn đọc trẻ, trí thức, cán bộ công chức và bạn đọc quốc tế.
Nét nổi bật là trong thời gian này báo chí phục vụ kịp thời các ngày lễ, các sự kiện lớn của đất nước và nhu cầu văn hóa của nhân dân: các kỳ Đại hội toàn quốc của Đảng, các kỳ họp của Quốc hội, Hội nghị APEC 14, Việt Nam gia nhập WTO, Việt Nam là Uỷ viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc; tổng kết thành tựu 20 năm đổi mới đất nước... Nhiều tác phẩm báo chí tiếp tục khai thác, phản ảnh đề tài chiến tranh cách mạng, thu hút sự quan tâm của cả xã hội như Nhật ký Đặng Thùy Trâm, Mãi mãi tuổi 20; các cuốn nhật ký chiến trường của Hoàng Thượng Lân, Nguyễn Văn Goá, Hoàng Kim Giao...; tuyên truyền kỷ niệm Ngày thành lập Đảng, Ngày thành lập nước, Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, Đại thắng mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, phục vụ cuộc vận động ''Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh''; thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Các cơ quan báo chí tích cực tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà nước; phản ánh tâm tư, nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp nhân dân; phát hiện, cổ vũ nhân tố mới, điển hình tiên tiến, thành quả của công cuộc đổi mới; tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, chống thông tin, quan điểm sai trái, âm mưu ''Diễn biến hòa bình'' của các thế lực phản động, thù địch; góp phần quan trọng vào quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội, củng cố lòng tin của nhân dân đối với sự nghiệp đổi mới; mở rộng giao lưu, hội nhập với bên ngoài. Nhiều cơ quan báo chí xây dựng và kiên trì thực hiện những quy định mang tính nguyên tắc giữ vững tôn chỉ, mục đích bảo đảm thông tin tích cực, lành mạnh luôn chiếm tỷ lệ lớn; khuyến khích việc phát hiện và cổ vũ nhân tố mới, điển hình tiên tiến; phát động và tổ chức nhiều phong trào hành động cách mạng, hoạt động xã hội, nhân đạo, từ thiện có ý nghĩa, mang lại hiệu quả thiết thực.
Tóm lại trong 10 năm qua, báo chí Việt Nam đã có bước đổi mới mạnh mẽ, trưởng thành, phát triển nhanh, đạt được những thành tựu nổi bật sau:
- Phát triển đội ngũ, tăng số lượng, chất lượng các ấn phẩm, các loại hình báo chí, báo viết, báo nói, báo hình, báo điện tử, lượng phát hành, phủ sóng và số bạn đọc báo chí tăng cao.
- Phần lớn các cơ quan báo chí hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích và định hướng chính trị, tư tưởng thông tin, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
- Công chúng báo chí có bước phát triển mạnh về số lượng, trình độ, tham gia ngày càng tích cực vào quá trình truyền thông.
- Tăng năng lực tài chính, đổi mới công nghệ, máy móc, điều kiện làm việc, đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động báo chí.
- Tham gia tích cực vào hoạt động báo chí thế giới và khu vực.
- Hội Nhà báo Việt Nam trong hai khóa VII, VIII đã đổi mới mạnh mẽ hoạt động, tăng cường đoàn kết, tập hợp, đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục hội viên, nhất là giáo dục đạo đức nhà báo, tăng cường công tác bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế và nhất là tổ chức tốt giải báo chí quốc gia.
- Khuyết điểm, yếu kém:
Một số cơ quan báo chí thiếu nhạy bén chính trị, chưa làm tốt chức năng tư tưởng, văn hóa, có biểu hiện xa rời sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, xa rời tôn chỉ, mục đích, thông tin không trung thực, thiếu chính xác, phản ánh nhiều về tiêu cực và tệ nạn xã hội, ít tuyên truyền các điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt, cổ vũ phong trào thi đua yêu nước; khuynh hướng tư nhân hóa, thương mại hóa báo chí, tư nhân núp bóng để ra báo, kinh doanh báo chí ngày càng tăng. Có một vấn đề đặt ra cần giải quyết trong thời gian tới là: một số báo ngành, đoàn thể, địa phương đã vượt ra khỏi phạm vi tôn chỉ, mục đích của mình để gần như trở thành (hoặc muốn trở thành) một tờ báo chính trị - xã hội của mình (của ngành, đoàn thể, địa phương mình); đề cập quá nhiều các vấn đề của các ngành, đoàn thể, địa phương khác; nội dung thông tin trên báo chí thường giống nhau, bắt chước hoặc sao chép nhau, nhất là khi có các vấn đề phức tạp, nhạy cảm, các vụ án, các vụ việc giật gân, câu khách.
Các báo, đài chủ lực (được xác định tại Thông báo kết luận 41-TB/TW, Thông báo kết luận 68-TB/TW của Bộ Chính trị và Kế hoạch 03-KH/TW của Ban Bí thư) tuy thực hiện nghiêm tôn chỉ, mục đích, nhưng lại thường bộc lộ một nhược điểm khá rõ và phổ biến là tư duy đổi mới báo chí còn hạn chế, lúng túng; nội dung, hình thức thông tin kém phong phú, sinh động; thiếu tính sắc bén, tính hấp dẫn; lượng phát hành không lớn, sự tác động, chi phối thông tin đến công chúng không mạnh mẽ, do đó hiệu quả tuyên truyền không cao.
Một số báo có xu hướng mở thêm ấn phẩm phụ để tăng nguồn thu, tập trung nâng cao chất lượng ấn phẩm phụ (chủ yếu là về hình thức, cách thiết kế, in ấn, quảng cáo, phát hành...) do đó thường không quan tâm đúng mức đến việc nâng cao chất lượng nội dung, hình thức, hiệu quả thông tin của ấn phẩm chính. Việc cấp phép cho ra nhiều các ấn phẩm phụ như hiện nay cũng tạo nên tình trạng nhiều ấn phẩm phụ giống nhau về nội dung, đối tượng bạn đọc, địa bàn phát hành... gây trùng lặp, lãng phí, tốn kém.
Việc xây dựng và thực hiện quy hoạch phát triển hệ thống các đài phát thanh, truyền hình còn nhiều lúng túng, bất cập, gây lãng phí, tốn kém. Nhiều đài truyền hình, do muốn cạnh tranh công chúng (nhằm mục đích chính là tăng nguồn thu quảng cáo) nên mở thêm nhiều kênh, khai thác, biên dịch và phát sóng quá nhiều ấn phẩm nước ngoài, một số phim nhạt nhẽo về nội dung, thậm chí lệch lạc về tư tưởng chính trị; lạm dụng khai thác chương trình truyền hình nước ngoài phát trên mạng truyền hình cáp; còn dễ dãi, sơ hở khi thực hiện ''xã hội hóa'' sản xuất, phát sóng các chương trình truyền hình; đưa quảng cáo quá nhiều, nhất là trên chương trình thời sự - tổng hợp gây bức xúc cho người xem.
Mục tiêu có 50% phim Việt Nam trong chương trình. Phim truyện của Đài Truyền hình Việt Nam và các đài truyền hình lớn sau nhiều năm phấn đấu vẫn chưa đạt được (mới chỉ đạt 30 - 35%), phần còn lại khai thác từ nước ngoài, chủ yếu là phim Trung Quốc và Hàn Quốc. Việc xã hội hóa, liên kết trong sản xuất, phát sóng các chương trình truyền hình đang đặt ra nhiều vấn đề cần nghiên cứu và cần có giải pháp thỏa đáng trong thời gian tới.
Có một thực tế đáng quan tâm là, những yếu kém, khuyết điểm vừa nêu thường chỉ bộc lộ ở một số cơ quan báo chí nhất định, được cơ quan chỉ đạo, quản lý báo chí của Đảng và Nhà nước đề cập, nhắc nhở, phê bình nhiều lần, nhất là trong các cuộc giao ban báo chí hàng tuần, nhưng chậm khắc phục. Tình trạng một số cán bộ, phóng viên các cơ quan báo chí, văn phòng đại diện cơ quan báo chí ở các địa phương thiếu rèn luyện đạo đức, phẩm chất, vi phạm đạo đức nghề nghiệp, thậm chí vi phạm pháp luật đang có chiều hướng gia tăng. Vai trò của cấp uỷ, tổ chức đảng chuyên môn, công đoàn, đoàn thanh niên, hội nhà báo trong cơ quan báo chí chưa được đặt đúng vị trí, tác dụng hạn chế, giảm sút sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo.
Việc xử lý các sai phạm trong hoạt động báo chí chưa được thực hiện nghiêm túc, chưa có những chế tài đủ mạnh. Một số cơ quan chủ quản và cơ quan báo chí còn tiến hành công việc này một cách hình thức, chiếu lệ, không kiên quyết và triệt để.
Tình trạng tư nhân núp bóng nhà nước để ra báo, kinh doanh, dịch vụ truyền thông ngày càng tăng. Một số tờ báo, tạp chí, phụ san, chuyên san, mạng truyền hình cáp…bị cơ quan chủ quản hay cơ quan báo chí, xuất bản, bị tư nhân ''mua sóng”, chi phối hoặc thao túng. Thông tin không trung thực, áp đặt vô lối, suy diễn chủ quan, viết ẩu, viết sai có xu hướng gia tăng, kể cả những sai sót nghiêm trọng. Việc cải chính thông tin sai trên báo chí chưa nghiêm túc, đúng luật. Số nhà báo, người làm công tác trong lĩnh vực báo chí yếu kém đạo đức, lợi dụng nghề báo để thực hiện hành vi vụ lợi không còn là điều cá biệt. Đã xuất hiện ''câu lạc bộ'' hoặc nhóm nhà báo kết hợp với nhau để làm ăn, tung hô người này, ''hạ bệ'' người khác, ''đánh hội đồng'' các doanh nghiệp, cơ quan hay cá nhân nào đó vì ác ý hoặc vì vụ lợi.
- Nguyên nhân của những yếu kém, khuyết điểm:
Thứ nhất, phương thức, năng lực lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước đối với báo chí chậm đổi mới, có mặt còn lúng túng, bất cập. Chưa có những quyết sách cơ bản, lâu dài; còn có biểu hiện vừa buông lỏng, hữu khuynh, vừa áp đặt, thiếu sức thuyết phục. Việc cung cấp thông tin cho báo chí, thực hiện cơ chế người phát ngôn của các ngành, địa phương, đơn vị còn nhiều yếu kém, sơ hở. Sự phân công, phối hợp giữa cơ quan chỉ đạo, quản lý báo chí và cơ quan chủ quan chưa chặt chẽ, rõ ràng. Nhận thức một số vấn đề cơ bản trong hoạt động báo chí chưa thống nhất. Luật Báo chí (1989) được bổ sung, sửa đổi năm 1999 mới được ban hành chưa lâu đến nay đã bộc lộ những bất cập, hạn chế, khó điều chỉnh các hoạt động vốn sinh động, phức tạp của báo chí, xuất bản, nhất là với loại hình báo chí điện tử, sách điện tử.
Thứ hai, năng lực, bản lĩnh, trách nhiệm cho đội ngũ những người làm báo, nhất là người đứng đầu cơ quan báo chí còn bất cập, hạn chế. Ban biên tập, tổng biên tập cơ quan báo, đài có vai trò hết sức quan trọng trong việc tổ chức và điều hành bộ máy, nhìn nhận hiện thực đời sống, chọn lọc, xử lý để đưa thông tin, nhất là những thông tin quan trọng, phức tạp, nhạy cảm. Tuy vậy, việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, luân chuyển cán bộ lãnh đạo trong cơ quan báo chí thực hiện chưa tốt, thậm chí còn bộc lộ những sơ hở, non kém. Một số cán bộ lãnh đạo cơ quan báo chí (tổng biên tập, phó tổng biên tập, giám đốc, phó giám đốc) sau khi được đề bạt, bổ nhiệm vẫn tỏ ra non yếu về bản lĩnh chính trị, năng lực chuyên môn, năng lực quản lý, không hoàn thành nhiệm vụ được giao. Công tác quản lý cán bộ, phóng viên trong cơ quan báo chí còn nhiều yếu kém. Ở những nơi thường xảy ra sai phạm đều có nguyên nhân tổng biên tập, ban biên tập đề cao quyền hạn mà chưa coi trọng trách nhiệm chính trị; xa rời tôn chỉ, mục đích, đối tượng phục vụ, chạy theo lợi ích cục bộ; không tôn trọng tổ chức đảng, đoàn thể cơ quan, sự chỉ đạo của cơ quan quản lý báo chí và cơ quan chủ quản.
Thứ ba, công tác đào tạo, giáo dục, sử dụng cán bộ, phóng viên, nhân viên ở một số cơ quan báo chí chưa tốt. Báo chí là một nghề đặc thù. Người làm báo phải có những phẩm chất tương đối cao về nhận thức chính trị, năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp. Pháp luật ta không cho phép có báo chí tư nhân. Tuy nhiên, việc tuyển sinh vào các cơ sở đào tạo báo chí hiện nay được tiến hành cũng giống như bất cứ ngành học nào khác. Ngoài hệ thống chính quy, hệ tại chức, còn có cả hệ mở rộng, có cả khoa đào tạo báo chí ở trường đại học dân lập. Cả nước có 3 cơ sở đào tạo phóng viên báo chí ở trình độ đại học, trên đại học, nhưng chưa có cơ sở đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cơ quan báo chí. Công tác đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, bố trí đội ngũ cán bộ lãnh đạo; tuyển chọn, giáo dục, sử dụng phóng viên, nhân viên ở một số cơ quan báo chí chưa tốt2.
Việc tiếp nhận, sử dụng cán bộ, phóng viên, nhân viên ở nhiều cơ quan báo chí chưa đảm bảo nguyên tắc, quy trình. Có nhà báo bị kỷ luật, bị sa thải ở cơ quan báo chí này lại được cơ quan báo chí khác tiếp nhận, sử dụng; bị báo địa phương đưa ra khỏi bộ máy vì yếu kém về đạo đức, tư cách lại được báo các bộ, ngành, đoàn thể ở trung ương hoặc địa phương khác tiếp nhận, được bố trí vào chỗ làm việc có thu nhập cao hơn, thậm chí vào vị trí quản lý, lãnh đạo.
Thứ tư, công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về báo chí không theo kịp sự phát triển của báo chí. Nhận thức một số khái niệm, vấn đề trong hoạt động báo chí chưa thống nhất. Các khái niệm về quyền tự do báo chí; quyền tự do ngôn luận trên báo chí; thông tin trung thực về mọi mặt của tình hình đất nước và thế giới, việc xâm phạm lợi ích của Nhà nước, tập thể và công dân chưa được làm rõ, đôi lúc còn mơ hồ dẫn đến tình trạng lạm quyền, không đề cao trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân của người làm báo.
Các vấn đề ''thương mại hóa'' hoạt động báo chí; xây dựng các tập đoàn truyền thông; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng trong cơ quan báo chí; chính sách tài chính, thuế, tiền lương, tiền thưởng, quỹ phúc lợi, quảng cáo, kinh doanh trong hoạt động báo chí; phương pháp lãnh đạo, quản lý báo chí; kể cả việc xem xét để bổ sung, sửa đổi Luật Báo chí và văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực này chưa được quan tâm đúng mức, không theo kịp bước phát triển phong phú, sôi động, có phần phức tạp của báo chí.
Mâu thuẫn giữa chức năng tư tưởng, văn hóa với hoạt động kinh tế; giữa thông tin, tuyên truyền và thương mại của báo chí ngày càng gia tăng, tính chất ''hàng hóa đặc biệt'' của báo chí không phải lúc nào cũng được hiểu đúng, dẫn đến tình trạng vận dụng và thực hiện tùy tiện...
Thứ năm, chiến lược thông tin quốc gia công tác quy hoạch phát triển báo chí chưa theo kịp bước phát triển của ngành. Hệ thống báo chí của ta hiện nay còn nhiều điểm bất hợp lý, cồng  kềnh, trùng lặp về nội dung, nặng về bao cấp, gây lãng phí, tốn kém...
Thứ sáu, công tác xây dựng Đảng, vai trò của tổ chức đảng, các đoàn thể chính trị - xã hội ở một số cơ quan báo chí chưa được coi trọng đúng mức. Một số tổng biên tập, ban biên tập báo, đài, tạp chí chưa thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao, chưa tuân thủ nghiêm túc sự chỉ đạo của cơ quan chủ quản và các cơ quan làm công tác quản lý báo chí.
Thứ bảy, tác động tiêu cực từ bên ngoài. Một nguyên nhân nữa, không thể xem nhẹ là những tác động tiêu cực từ bên ngoài, khi ngấm ngầm, lúc lộ liễu. Các thế lực cơ hội, thù địch rất quan tâm đến việc lợi dụng báo chí và một số nhà báo không vững vàng về bản lĩnh chính trị để xâm nhập, tác động, thực hiện âm mưu ''Diễn biến hòa bình'' trong lĩnh vực thông tin, báo chí. Một số tổ chức nước ngoài lôi kéo, lợi dụng các nhà báo thông qua các lớp đào tạo, bồi dưỡng, tham quan, hội thảo, nghiên cứu về báo chí, về các vấn đề khác.
II- TƯ TƯỞNG CHỈ ĐẠO, NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ CÔNG TÁC LÃNH ĐẠO,
QUẢN LÝ BÁO CHÍ NHỮNG NĂM SẮP TỚI
l. Tư tưởng chỉ đạo
Trước hết, cần xác định một số quan điểm mang tính nguyên tắc, đã được Nghị quyết Trung ương 5 (khóa X) về công tác tư tưởng, lý luận, báo chí trước yêu cầu mới khẳng định: Báo chí nước ta đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, vừa là tiếng nói của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp, vừa là diễn đàn của nhân dân; tích cực tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cổ vũ toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Luôn kiên trì bản chất của nền báo chí cách mạng, vừa nỗ lực vươn lên để theo kịp trình độ phát triển của báo chí khu vực và thế giới: hiện đại về mô hình, tổ chức, phương thức hoạt động, không ngừng nâng cao chất lượng chính trị, chuyên môn, kỹ thuật, công nghệ. Tiếp tục phát triển sự nghiệp báo chí đi đôi với tăng cường lãnh đạo, quản lý công tác báo chí đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra trong tình hình mới.
2. Nhiệm vụ, giải pháp
a) Bám sát những nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư tưởng nói chung, của báo chí nói riêng
Tích cực tuyên truyền, cổ vũ thành tựu công cuộc đổi mới; phát hiện, biểu dương các nhân tố mới, điển hình tiên tiến; đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, các tiêu cực và tệ nạn xã hội; kế thừa và phát huy các giá trị quý báu của tinh hoa văn hóa nước nhà; tiếp nhận, phát huy tinh hoa văn hóa nhân loại; phản bác thông tin, quan điểm sai trái, phản động, thù địch, phi văn hóa.
b) Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiện quả công tác lãnh đạo của Đảng đối với báo chí
- Đổi mới tư duy và phong cách lãnh đạo báo chí:
Trong điều kiện hoạt động mới, nhất là những tác động tiêu cực của mặt trái kinh tế thị trường đối với hoạt động báo chí, vấn đề Đảng lãnh đạo báo chí càng cần phải được thấm nhuần một cách tự giác, sâu sắc và điều chỉnh phương cách lãnh đạo, quản lý một cách sát hợp. Nếu không tỉnh táo, bản lĩnh, báo chí rất dễ tự phát thành những khuynh hướng, xu hướng tiêu cực, nhất là khuynh hướng ''thương mại hóa''; ''xa rời tôn chỉ, mục đích''... Đó là chưa kể mối đe dọa thường trực của các thế lực thù địch với nhiều thủ đoạn thâm độc, lợi dụng sơ hở để tiến công Đảng qua báo chí, thậm chí nắm báo chí khi có cơ hội, biến báo chí thành vũ khí tiến công Đảng, Nhà nước và chế độ. Cùng với đổi mới tư duy về báo chí, rất cần đổi mới tư duy lãnh đạo báo chí bao gồm cả nội dung, phương thức, phương châm lãnh đạo. Các cơ quan chỉ đạo công tác báo chí phải chủ động trong việc định hướng chính trị, nhất là đối với những vấn đề quan trọng, phức tạp, nhạy cảm. Về phương thức: bên cạnh nhiều chỉ thị, quy định quan trọng đã có, Đảng cần tiếp tục xây dựng, bổ sung hệ thống các nghị quyết, chỉ thị, quy định có tính đồng bộ, đầy đủ, kịp thời hơn, tạo cơ sở chính trị cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo báo chí. Mặt khác, cần nhanh chóng thể chế hóa sự lãnh đạo của Đảng bằng chính sách, pháp luật của Nhà nước. Về mặt phương tiện: Công tác lãnh đạo, chỉ đạo cần kịp thời nhưng phải đảm bảo tính thuyết phục, tránh áp đặt, mệnh lệnh nhằm đạt tới sự tuân thủ một cách tự giác, triệt để của các cơ quan báo chí. Cần tập trung khắc phục tình trạng cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo ''cầm tay chỉ việc''; hạn chế hoặc chưa quan tâm đúng mức đến công tác dự báo tình huống để chủ động chỉ đạo, định hướng thông tin, tuyên truyền; chậm cung cấp thông tin cho báo chí; quan niệm một cách đơn giản về tính trung thực của báo chí; quan niệm xơ cứng về ''tôn chỉ, mục đích''; thiếu nhất quán trong chỉ đạo, định hướng thông tin.
- Tăng cường trách nhiệm, năng lực của cơ quan chủ quản và người đứng đầu cơ quan báo chí:
Bố trí những người có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, trách nhiệm vào các vị trí quan trọng như tổng biên tập, phó tổng biên tập (báo, tạp chí); giám đốc, phó giám đốc (các đài phát thanh, truyền hình), cán bộ đại diện cơ quan chủ quản chỉ đạo cơ quan báo chí thuộc quyền; cán bộ là tổng thư ký, thư ký tòa soạn, trưởng ban, trưởng phòng, trưởng chuyên trang, chuyên mục. Đề cao quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan chủ quản, nhất là trong công tác quản lý cán bộ, việc bổ nhiệm miễn nhiệm cán bộ lãnh đạo cơ quan báo chí; việc xử lý cán bộ sai phạm.
- Chăm lo công tác xây dựng Đảng, nâng cao vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng trong cơ quan báo chí:
Đề cao trách nhiệm cán bộ, đảng viên, nhất là người giữ cương vị lãnh đạo. Thường xuyên kiểm tra, giám sát các tổ chức đảng, đảng viên ở các cơ quan báo chí, cơ quan chủ quản, cơ quan chỉ đạo, quản lý báo chí về thi hành Điều lệ Đảng, các quy định của Đảng trong hoạt động báo chí, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 5 (khóa X) về công tác tư tưởng, lý luận, báo chí trước yêu cầu mới.
- Thực hiện nghiêm túc chế độ cung cấp thông tin cho báo chí:
Thực hiện quy chế người phát ngôn của các bộ, ban, ngành, địa phương, đơn vị. Xác lập cơ chế cung cấp, chỉ đạo, định hướng thông tin đầy đủ, kịp thời trước một số vấn đề quan trọng, phức tạp nhạy cảm để tránh bị báo chí nước ngoài thông tin sai, thông tin với dụng ý ấu; tránh các thế lực thù địch xuyên tạc, kích động dư luận.
- Tăng cường lãnh đạo, nâng cao vị trí, vai trò, chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội Nhà báo Việt Nam theo tinh thần Chỉ thị 37-CT/TW của Ban Bí thư là một giải pháp rất quan trọng nhằm nâng cao vai trò 1ãnh đạo của Đảng với báo chí.
- Coi trọng công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác báo chí:
Hàng năm, cơ quan chủ quản và cơ quan báo chí cần rà soát, đánh giá công tác quy hoạch cán bộ; việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nguồn; chuẩn bị đội ngũ kế cận các chức danh chủ chốt; bố trí cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín vào các vị trí quan trọng, nhất là ở khâu nội dung.
- Đầu tư thỏa đáng cho hoạt động thông tin đối ngoại:
Tiếp tục mở rộng sóng phát thanh, truyền hình ra các nước, các khu vực; đưa sách, báo có nội dung tốt trong nước phục vụ công chúng, nhất là đồng bào ta ở nước ngoài. Tăng cường giao lưu hợp tác với các tổ chức báo chí trong khu vực và trên thế giới; coi trọng tuyên truyền, quảng bá hình ảnh đất nước, con người, sự nghiệp đổi mới của Việt Nam đến nhiều nước trên thế giới.
c) Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý của Nhà nước đối với báo chí
- Hoàn thiện và phát huy hiệu lực hệ thống pháp lý trong công tác quản lý nhà nước về báo chí.
- Xây dựng và thực hiện tốt quy hoạch hệ thống báo chí.
- Hoàn thiện hệ thống đào tạo cán bộ báo chí đại học và trên đại học, tham gia xây dựng ngành khoa học báo chí học, đào tạo đội ngũ nhà báo và những người hoạt động trong lĩnh vực báo chí có phẩm chất chính trị vững vàng, chuyên môn cao, đáp ứng yêu cầu nhân lực của báo chí nước nhà.
- Tăng cường kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm, khen thưởng, động viên kịp thời hoạt động báo chí. Bổ sung, hoàn thiện quy chế hoạt động của từng cơ quan báo chí. Coi trọng quy trình thẩm định, xử lý thông tin trước khi đưa lên trang báo, sóng phát thanh, truyền hình; cẩn trọng, sáng suốt trước các sự kiện, vấn đề nhạy cảm, phức tạp về đối nội, đối ngoại.
- Tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động của các văn phòng đại diện, phóng viên thường trú của cơ quan báo chí tới địa phương. Ban biên tập cơ quan báo chí cần phối hợp chặt chẽ với cấp uỷ chính quyền, nhất là ban tuyên giáo, sở thông tin và truyền thông các địa phương nhằm động viên, giúp đỡ các văn phòng, các phóng viên thường trú hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật hoặc đạo đức nghề nghiệp.
- Nâng cao năng lực quản lý tài chính của cơ quan báo chí, nhất là các vấn đề dễ xảy ra sơ suất, sai phạm như khai thác, quản lý nguồn tiền quảng cáo, tiền tài trợ, lập dự toán và quản lý xây dựng cơ bản, mua sắm vật tư, máy móc, văn phòng phẩm, việc trích quỹ nhuận bút, việc chi lương, thưởng, làm thêm giờ...
__________
1. Năm 1992, cả nước có 350 cơ quan báo chí (136 báo, 214 tạp chí). Năm 1997, có 153 báo, 337 tạp chí. Năm 2001 có 486 cơ quan báo chí (154 báo, 334 tạp chí, hơn 11.000 nhà báo được cấp Thẻ nhà báo).
Thụy Điển có hơn 150 tờ báo định kỳ, trên 3.000 ấn phẩm, 3 hãng phát thanh và truyền hình công, 25 đài phát thanh địa phương. 1 người dân Thuỵ Điển trung bình dành 6 giờ/ngày để tìm kiếm thông tin bổ ích trên báo, đài.
Nước Anh có 10 tờ báo hàng ngày, 9 tờ báo chủ nhật cấp quốc gia, l.400 tờ báo địa phương, 6.500 tạp chí; hệ thống phát thanh, truyền hình của nhà nước mạnh, phát thanh, truyền hình thương mại yếu hơn.
Pháp có 81 báo ngày, trong đó có 10 tờ báo quốc gia chuyên đưa tin chính trị, tổng hợp; 10 tờ chuyên về thương mại, thể thao, còn lại là báo địa phương và hàng nghìn tạp chí.
Malaixia có 63 báo in (41 tờ báo ngày), 32 đài phát thanh (28 đài của Chính phủ), 5 đài truyền hình (2 đài của Chính phủ), nhiều tạp chí.
Thái Lan có 52 tờ báo ngày (50 tiếng Thái, 2 tiếng Anh). Tờ Thai Rath in l.015.000 bản/kỳ, tờ Daily News 800.000/kỳ; 496 đài phát thanh (l/2 do quân đội quản lý); 6 đài truyền hình quốc gia…
Mỹ có 770 tờ nhật báo, 610 tờ báo chủ nhật, hàng trăm tờ báo khác; không có đài phát thanh - truyền hình quốc gia, hệ thống đài phát thanh, truyền hình thương mại nhiều và mạnh nhất thế giới.
2. Theo số liệu điều tra gần đây ở 147 cơ quan báo chí trong cả nước, trong số 13.475 cán bộ, phóng viên, biên tập viên, nhân viên, có 34,48% người là đảng viên (các cơ quan báo chí của Đảng, Nhà nước ở trung ương, địa phương đạt gần 40%; các báo ngành, đoàn thể chỉ đạt khoảng 15 – 20%).
Về chuyên môn: 73,17% có trình độ đại học, cao đẳng; trên 3,22% sau đại học; 15,11% trung cấp; 8,2% chưa có bằng chuyên môn. Có 28,95% trong số nêu trên đã được đào tạo chuyên ngành báo chí, số còn lại từ chuyên ngành khác chuyển sang.
Về trình độ lý luận chính trị: sơ cấp 16,71%; trung cấp 29,84%; cao cấp 32,89%. Có 20,30% chưa được học tập, bồi dưỡng.
Về độ tuổi: 18-30 tuổi chiếm 27,26%; 31 - 40% chiếm 32,83%; 41 - 50 chiếm 25,52%; 51 – 60 chiếm 13,70%; trên 60 tuổi chiếm 0,66%. Như vậy, độ tuổi dưới 40 chiếm 50%.
Về đội ngũ cán bộ lãnh đạo: cấp trưởng 100% là đảng viên; đại học, cao đẳng 68,70%; trên đại học 24,48%; trung cấp 3,40%; 5 người chưa có bằng chuyên môn. Trình độ lý luận chính trị: cao cấp 87,07%; trung cấp 8,16%, sơ cấp 4.76%. Cấp phó: 99,18% là đảng viên; đại học, cao đẳng 82,44%; trên đại học 13,46%; trung cấp 2,85%, 58% cán bộ cấp phó có bằng chuyên ngành báo chí; trình độ lý luận chính trị: sơ cấp 2,44%; trung cấp 14,69%; cao cấp 82,44%.
KẾT LUẬN
I- NHẬN ĐỊNH VÀ KẾT LUẬN
1. Báo chí cách mạng Việt Nam ra đời trong một bối cảnh đặc biệt, đó là khi xã hội Việt Nam phải sống trong môi trường thuộc địa. Trong bối cảnh chủ nghĩa tư bản thực dân đang ở thời kỳ hoàng kim với việc bóc lột sức lao động, khai thác tài nguyên, sự hình thành những cơ cấu xã hội giai cấp mới và đồng thời cũng là lúc cách mạng giải phóng dân tộc nước ta đang chuyển giai đoạn theo hướng chủ nghĩa xã hội, theo xu hướng cách mạng vô sản mà người đứng đầu là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, đồng thời lại là một nhà báo lớn, đã kinh qua những kinh nghiệm báo chí ở châu Âu. Thanh niên, tờ báo cách mạng của tổ chức tiền thân quan trọng nhất có xu hướng mácxít ở Việt Nam, đã xuất hiện ngày 21-6-1925 ở nước ngoài (Quảng Châu, Trung Quốc) đã hội tụ đủ các tiêu chí một tờ báo cách mạng đầu tiên của giai cấp vô sản và nhân dân Việt Nam. Và ngay từ đầu, tờ báo này đã hoạt động theo phương thức mácxít về báo chí. Tờ báo không chỉ là người tuyên truyền tập thể, cổ động tập thể mà còn là người tổ chức tập thể.
Báo Thanh niên là dấu son cho cả một dòng báo chí mới, báo chí cách mạng của Đảng ta, trang bị một thế giới quan và phương pháp cách mạng mới, là hơi thở, là sự phản ánh, sự ra đời và phát triển của khuynh hướng dân tộc xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Thanh niên trở thành người mở đường cho nền báo chí cách mạng của nước Việt Nam mới.
2. Báo chí cách mạng Việt Nam bắt nguồn trước hết từ khuynh hướng yêu nước, dân chủ trong báo chí hợp pháp, đặc biệt từ khi báo chí quốc văn ra khỏi giai đoạn phôi thai, nặng chất công báo để dần dần trở thành một hệ thống báo chí mới đầy đủ những đặc trưng của các cơ quan thông tin ngôn luận, như xuất bản định kỳ, lưu hành rộng rãi, có độc giả ổn định, có đội ngũ người làm báo chuyên nghiệp. Tuy nhà cầm quyền luôn tìm cách đối phó, ngăn ngừa, đàn áp, nhưng tiếng nói yêu cầu, dân chủ, tiến bộ phản ánh ý chí quật cường của dân tộc ta không vì thế bị dập tắt mà ngược lại, vẫn tiếp tục vang lên ngày càng rõ ràng hơn, dõng dạc hơn dưới nhiều hình thức.
Cùng với tư tưởng yêu nước, chống thực dân và bè lũ phong kiến tay sai trên báo chí công khai, những tác phẩm báo chí, thơ văn yêu nước và cách mạng hoặc được công bố qua các phương tiện thông tin, hoặc lưu truyền trong nhân dân qua nhiều kênh khác, đều là những cội nguồn trực tiếp và nội tại của báo chí cách mạng Việt Nam.
Báo chí cách mạng Việt Nam đã tiếp thét và kế thừa di sản báo chí cách mạng, dân chủ và tiến bộ trên thế giới. Nó học tập và chịu ảnh hưởng khá sâu đậm của nền báo chí ấy, nhưng trước sau vẫn giữ được đậm đà tính cách dân tộc của mình.
Báo chí cách mạng Việt Nam là sản phẩm tất yếu của quá trình đấu tranh lâu dài, gian khổ của nhân dân Việt Nam. Là đội quân đi đầu trong công tác chính trị - tư tưởng - văn hóa, với chức năng tuyên truyền, cổ động, tổ chức nhân dân đứng lên làm cách mạng vì độc lập, tự do, gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, báo chí Việt Nam là con đẻ của cách mạng Việt Nam đồng thời cũng là vũ khí cách mạng vô cùng lợi hại, góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội, đổi mới, chấn hưng đất nước như ngày nay.
3. Báo chí cách mạng Việt Nam là báo chí kiểu mới, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng chính trị tư tưởng, lấy việc phục vụ nhân dân làm mục tiêu cao cả của mình. Lý tưởng, mục tiêu, tôn chỉ cao nhất của báo chí cách mạng là góp phần vào sự nghiệp đấu tranh lật đổ ách thống trị của thực dân, phong kiến, xóa bỏ các hình thức bóc lột; giành độc lập dân tộc, mang lại tự do hạnh phúc cho nhân dân; xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Do tính chất và mục tiêu, tôn chỉ của nó, trải qua bao sóng gió, trước những thủ đoạn tinh vi cũng như sự đàn áp khốc liệt của các thế lực thù địch, báo chí cách mạng Việt Nam vẫn vượt qua được mọi tình huống hiểm nghèo để tồn tại và phát triển.
4. Báo chí cách mạng Việt Nam ngày nay là một hệ thống các cơ quan thông tin đại chúng gồm đủ các loại hình, phát triển từ trung ương đến cơ sở, do nhiều tổ chức, cơ quan khác nhau làm chủ quản, được thực hiện bằng tiếng Việt, tiếng các dân tộc thiểu số và bằng ngoại ngữ, với những chức năng, nhiệm vụ cụ thể hết sức đa dạng, nhằm vào nhiều loại đối tượng và dùng nhiều công nghệ khác nhau, xuất bản và lưu hành ở trong nước và ở ngoài nước.
Nó trở thành một nền báo chí lớn, phát triển toàn diện, đang từng bước tiến lên hiện đại, rộng khắp cả nước và vươn ra mở rộng giao lưu, hợp tác với nước ngoài. Báo chí đang được sắp xếp lại theo quy hoạch tổng thể, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong vài thập niên đầu của thế kỷ XXI. Cơ sở kỹ thuật và công nghệ của báo chí ngày càng lớn mạnh, khai thác cấu trúc hạ tầng chung của đất nước về thông tin, viễn thông, lại có một số cơ sở riêng của báo chí, nhằm tranh thủ tiếp thu sử dụng công nghệ thông tin hiện đại nhất trên thế giới vào tác nghiệp hằng ngày. Làm việc trong ngành báo chí hiện nay có một đội ngũ đông đảo nhà báo chuyên nghiệp, không chuyên, nhà văn, nghệ sĩ, cán bộ quản lý, cán bộ và công nhân kỹ thuật, những người chuyên làm công việc quảng bá, phát hành, dịch vụ, v.v. đáp ứng nhu cầu thông tin ngày càng cao của công chúng vì sự phát triển của đất nước, vì lợi ích lâu dài của dân tộc Việt Nam, vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
5. Điểm đặc sắc mà báo chí Việt Nam đang thể hiện và không ngừng phát huy là ở vai trò diễn đàn nhân dân của nó.
Báo chí ta thực hiện chức năng làm diễn đàn của nhân dân không chỉ thể hiện ở chỗ thường xuyên đăng tải nhiều ý kiến độc giả, ý kiến bạn nghe và xem đài, truy cập báo mạng. Quan trọng hơn, thực chất hơn là báo chí phải thể hiện được ý chí, trí tuệ, tâm tư, tình cảm, nguyện vọng đa dạng của các tầng lớp nhân dân trong nước cũng như của người Việt Nam ở nước ngoài, góp phần xây dựng đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; thu hút nhân tài cống hiến tri thức và trí tuệ cũng như bày tỏ tâm huyết của mình vì lợi ích của Tổ quốc Việt Nam; tham gia đấu tranh chống các âm mưu, thủ đoạn, luận điệu sai trái của các thế lực thù địch, đẩy lùi và bài trừ các tệ nạn tham nhũng, lãng phí, ma túy, mại dâm, mê tín, hủ tục...; đặc biệt qua diễn đàn báo chí, nhân dân thực hiện quyền giám sát tối cao đối với mọi công việc của đất nước, thực hiện quyền làm chủ của mình.
6. Nhiệm vụ tổng quát của báo chí ngày nay là phục vụ mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Báo chí cần đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu thông tin của nhân dân, góp phần nâng cao dân trí, thúc đẩy phát triển xã hội, mở rộng giao lưu quốc tế.
Sự nghiệp phát triển của đất nước, bối cảnh quốc tế cũng như sự phát triển của bản thân báo chí đặt ra yêu cầu báo chí cần phát huy ưu điểm, sửa chữa thiếu sót, khuyết điểm để tiếp tục phát triển. Nhà nước cần sớm hoàn thiện chiến lược thông tin, hoàn thiện hệ thống pháp lý, kiện toàn các cơ quan quản lý báo chí, quy hoạch hệ thống cơ quan báo chí, xây dựng kế hoạch đào tạo cơ bản, lâu dài, có hệ thống đội ngũ người làm báo có tài năng, đủ kiến thức và đức độ đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của báo chí đương đại.
Qua ba phần tư thế kỷ làm đội quân xung kích trong công tác tư tưởng, phục vụ tiến trình đấu tranh cách mạng của dân tộc, báo chí Việt Nam hòa nhập vào cuộc đấu tranh ấy và trở thành một bộ phận quan trọng của cuộc đấu tranh ấy.
Trong thế kỷ XXI, chắc chắn xã hội loài người sẽ có nhiều biến đổi lớn, khó lường. Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã đề ra mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội vài chục năm đầu của thế kỷ là, trong mười năm (2001 - 2010) đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Những năm tới, tuy khó khăn còn nhiều, nhưng đất nước ta có cơ hội lớn để tiến lên. Đòi hỏi bức bách của toàn dân tộc ta lúc này là phải tranh thủ cơ hội, vượt qua thách thức, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ hơn, phát triển với tốc độ nhanh hơn và bền vững hơn. Cũng như mọi ngành hoạt động khác, báo chí đang đứng trước cơ hội lớn và thách thức lớn. Trên cơ sở một nền kinh tế ngày càng phát triển, dân trí ngày càng cao, nhu cầu văn hóa, tinh thần của nhân dân chắc chắn sẽ có những bước phát triển mạnh mẽ. Từ những thành tựu và kinh nghiệm thu được qua 85 năm tồn tại và phát triển trong những điều kiện cực kỳ đa dạng trước đây, nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức, báo chí Việt Nam chắc chắn sẽ ngày càng phát triển nhịp nhàng và vững chắc hơn.
II- KIẾN NGHỊ - GIẢI PHÁP
l. Những ưu điểm và hạn chế
Nói đến lịch sử báo chí cách mạng Việt Nam, cần quan tâm đặc biệt đến sự phát triển mạnh mẽ của báo chí trong thờ kỳ đổi mới. Đây là thời kỳ báo chí đã phát triển nhanh chóng cả về số lượng, chất lượng, trình độ kỹ thuật, đạt được nhiều thành tựu lớn và cơ bản, đồng thời cũng nảy sinh nhiều yếu kém, khuyết điểm trong quá trình phát triển. Một số thành tích, ưu điểm nổi bật là:
l. Tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta, kiên định lý tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định và nhiệt tình ủng hộ sự nghiệp đổi mới.
Báo chí tích cực tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; thông tin sinh động về công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; phản ánh trung thực tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân; góp phần tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận; cổ vũ, động viên phong trào thi đua yêu nước, phát hiện, biểu dương các nhân tố mới, điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt; tích cực đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí, chống ''diễn biến hòa bình''; góp phần giữ vững ổn định chính trị, thúc đẩy công cuộc đổi mới và dân chủ hóa đời sống xã hội, củng cố lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Thành tích, công lao của báo chí đối với sự nghiệp đổi mới đất nước trong hơn 20 năm qua là to lớn, có nghĩa quan trọng.
2. Báo chí đã có đóng góp to lớn trong công tác giáo dục nhất là các hình thức giáo dục từ xa; nâng cao dân trí; tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, bảo vệ và xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; hình thành con người Việt Nam hiện đại. Báo chí còn đóng vai trò ngày càng quan trọng trong việc thỏa mãn nhu cầu thông tin, văn hóa, giải trí của nhân dân.
3. Có sự phát triển mạnh mẽ về chất lượng, số lượng, trình độ kỹ thuật và loại hình báo chí. Ngoài báo viết, báo nói, báo hình, báo điện tử đã khẳng định vị trí của mình và đang phát triển nhanh chóng.
Tính đến thời điểm tháng 7-2006, cả nước có gần 620 cơ quan báo chí, hơn 803 ấn phẩm, sản phẩm báo chí; năm 2009 có 710 cơ quan báo chí. Trong thời gian qua, báo điện tử ra đời và phát triển mạnh mẽ, trở thành công cụ có nhiều ưu thế trong việc tiếp nhận, chuyển tải nhanh, sinh động, nội dung thông tin lớn phục vụ tuyên truyền đối nội, đối ngoại có hiệu quả. Đến nay, cả nước có 88 báo điện tử và khoảng 2.000 bản tin cùng hàng ngàn trang điện tử (website) có tính chất, cách thức hoạt động gần giống như trang báo hoặc tạp chí điện tử.
Về đội ngũ, đến nay đã có hơn 13.000 người đã được cấp thẻ nhà báo, hàng trăm người đang trong diện xét cấp thẻ, hàng ngàn cán bộ, nhân viên kỹ thuật, hành chính làm việc trong các cơ quan báo chí. Ngoài ra, còn có hàng chục ngàn cộng tác viên, nhân viên, lao động gắn bó với nghề báo hoặc sống chủ yếu dựa vào dịch vụ cho nghề báo.
Chất lượng kỹ thuật bao gồm chất lượng tiếp nhận và phát thông tin; chất lượng xử lý thông tin; chất lượng in ấn, phương thức và phạm vi phát hành, phạm vi phủ sóng; dịch vụ internet... tăng lên nhanh chóng, nhiều mặt ngang trình độ tiên tiến của thế giới.
4 Năng lực tài chính được tăng cường tạo điều kiện cho việc đổi mới công nghệ, cải thiện đời sống và điều kiện làm việc cho người lao động làm nghề báo, đẩy mạnh các hoạt động xã hội.
Sau nhiều năm tự chủ về tài chính, phá thế ràng buộc của cơ chế bao cấp, chủ động, sáng tạo trong xuất bản... cả nước hiện có trên 100 cơ quan báo chí tạo được nguồn thu tài chính khá ổn định, tự cân đối được nhu cầu thu - chi, trong đó có hơn 50 đơn vị hoạt động có lãi, có nguồn thu mỗi năm lên tới hàng chục tỷ đồng, thậm chí hàng trăm tỷ đồng. Nhờ đó, một số cơ quan báo, đài có điều kiện nâng cấp máy móc, thiết bị, đổi mới công nghệ làm báo, đầu tư nhiều hơn cho hoạt động nghiệp vụ, cải thiện và nâng cao đời sống cán bộ, phóng viên, nhân viên.
Các cơ quan báo chí cũng đã có công rất lớn trong việc huy động hàng trăm tỷ đồng từ các nguồn lực xã hội để mở rộng các hoạt động nhân đạo, từ thiện như xây dựng quỹ đền ơn đáp nghĩa, quỹ vì người nghèo, quỹ hỗ trợ nạn nhân chất độc da cam điôxin, quỹ khuyến khích tài năng, quỹ học bổng, góp tiền xây dựng trạm y tế, trường học, cầu đường, công trình phúc lợi, giúp trẻ em mồ côi, tàn tật v.v..
Một số cơ quan báo chí còn có sáng kiến tổ chức hoặc bảo trợ các sinh hoạt văn hóa, nghệ thuật nhất là ca nhạc, lễ hội, xuất bản hoặc các giải thể thao có uy tín, góp phần nâng cao đời sống văn hóa, cải thiện đời sống tinh thần của nhân dân.
5. Công chúng báo chí phát triển về số lượng, trình độ được nâng cao, tham gia ngày càng tích cực vào quá trình truyền thông.
Số lượng người đọc báo, nghe đài, xem truyền hình, truy cập mạng internet tăng nhanh so với trước. Riêng số người sử dụng internet chiếm 16,5% dân số, đạt mức cao của khu vực Đông Nam Á. Nhờ những đổi thay lớn lao trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước, quá trình dân chủ hóa thông tin được tăng cường. Công chúng từ chỗ tiếp nhận thụ động chuyển dần sang chủ động, bình đẳng trong thu nhận, trao đổi thông tin. Chức năng ''diễn đàn'' của các tầng lớp nhân dân trên báo chí ngày càng được thể hiện rõ nét và sinh động. Số lượng đồng bào ta ở xa Tổ quốc được trực tiếp nghe, xem chương trình của 2 đài phát thanh, truyền hình quốc gia, đọc báo qua mạng điện tử và báo in chuyển từ trong nước tăng mạnh.
6. Tham gia tích cực các hoạt động báo chí thế giới và khu vực.
Báo chí nước ta đã chủ động, tích cực hội nhập với báo chí thế giới trên cơ sở giữ vững bản sắc dân tộc và những nguyên tắc cơ bản của nền báo chí cách mạng. Hội Nhà báo Việt Nam là thành viên của Tổ chức quốc tế các nhà báo (OIJ), Liên đoàn Báo chí ASEAN (CAJ). Hội và các cơ quan báo chí trong nước đẩy mạnh giao lưu, hợp tác với các tổ chức, cơ quan báo chí của Lào, Trung Quốc, Thái Lan, Hàn Quốc, Pháp, Thụy Điển và các nước khác trong ASEAN... Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam mở rộng phạm vi phủ sóng phát thanh, truyền hình ra nhiều khu vực trên thế giới, nhất là khu vực Bắc Mỹ, châu Á, châu Âu, Thông tấn xã Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, báo Nhân dân, Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam và một số báo, đài khác đã mở văn phòng đại diện, cử phóng viên thường trú ở các địa bàn quan trọng, cử phóng viên đến các điểm nóng trên thế giới, tham gia phản ánh kịp thời các sự kiện đối ngoại của nước ta và các sự kiện chính trị, kinh tế, xã hội nổi bật của khu vực và thế giới.
Các cuộc giao lưu, trao đổi nghiệp vụ được tăng cường. Một số dự án hợp tác về nghiệp vụ báo chí duy trì được nhiều năm và có hiệu quả. Qua các cuộc trao đổi, học tập kinh nghiệm và do nhu cầu phát triển nội tại, một số phương thức quản lý báo chí mới, mô hình tập đoàn báo chí đã bắt đầu hình thành và phát triển.
7. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ báo chí đã có nhiều cố gắng, thu được thành tích đáng kể. Đến nay, Học viện Báo chí và Tuyên truyền đã được củng cố và hoàn thiện một bước về tổ chức, mở rộng thêm ngành đào tạo, tăng cường cán bộ và cơ sở vật chất, kỹ thuật. Khoa Báo chí, Đại học khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đã hoàn chỉnh các cấp đào tạo, chất lượng đào tạo được nâng lên.
Công tác bồi dưỡng nghiệp vụ của Hội Nhà báo, Bộ Thông tin và Truyền thông có sự phối hợp với các tổ chức nước ngoài và công tác tự đào tạo của nhiều cơ quan, trong đó có nhiều cơ quan lớn như Thông tấn xã Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam... đã góp phần không nhỏ vào công tác đào tạo, bồi dưỡng chung.
Trong số khoảng l.300 cán bộ báo chí đang hành nghề hiện nay, 7l% có trình độ đại học, trong đó 95% các phóng viên, biên tập viên thẻ có từ l bằng đại học trở lên.
8. Công tác chỉ đạo, quản lý báo chí được tăng cường một bước.
Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (nay là Ban Tuyên giáo Trung ương), Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Thông tin và Truyền thông), Hội Nhà báo Việt Nam và các đơn vị hữu quan đã tăng cường phối hợp, đổi mới một bước nội dung, phương thức công tác, hoàn thành tương đối tốt nhiệm vụ được giao. Trong hai năm qua, Ban, Bộ, Hội tiếp tục tham mưu với Trung ương Đảng và Chính phủ ban hành một số văn bản lãnh đạo quản lý báo chí. Một số cơ quan chủ quản báo chí như Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Bộ Ngoại giao, thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh... đã có những cố gắng đáng ghi nhận nhằm tăng cường sự lãnh đạo, quản lý các cơ quan báo chí trực thuộc.
Công tác tổ chức nhân sự, khen thưởng, kỷ luật, thanh tra, kiểm tra có tiến bộ.
Cùng với ưu điểm và thành tích nêu trên, hoạt động báo chí còn có những khuyết điểm, yếu kém, trong đó có những yếu kém chậm được khắc phục. Nổi lên một số yếu kém, khuyết điểm sau:
1. Một số nhà báo, cơ quan báo chí còn thiếu nhạy bén chính trị, chưa làm tốt chức năng tư tưởng, văn hóa của báo chí cách mạng, thậm chí có biểu hiện xa rời tôn chỉ, mục đích; né tránh sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước.
Một bộ phận không nhỏ người làm báo, kể cả một số cán bộ lãnh đạo cơ quan báo chí chưa quán triệt đầy đủ, sâu sắc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan báo chí và của những người làm báo; chưa thường xuyên coi trọng rèn luyện bản lĩnh chính trị, năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp.
Đã xuất hiện trên một số tờ báo, tạp chí những ý kiến, bài viết vô tình hay cố ý đi chệch định hướng chính trị; hoài nghi, phê phán thiếu căn cứ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đòi xem xét lại một số vấn đề lịch sử đã được kết luận...
2. Sa đà vào những thông tin tiêu cực, yếu kém, mặt trái xã hội; xem nhẹ việc phát hiện, biểu dương nhân tố mới, điển hình tiên tiến, người tốt, việc tốt. Thông tin thiếu trung thực, thiếu chính xác, suy diễn chủ quan, áp đặt. Giật gân, câu khách, xâm phạm đời tư của công dân.
Một số tờ báo sa đà khi phản ánh các vụ án, mặt tiêu cực, mặt trái và những yếu kém của xã hội, thậm chí tiết lộ bí mật quốc gia, để các thế lực thù địch lợi dụng vu cáo, đả kích ta. Làm ''nóng'' một cách giả tạo các vấn đề kinh tế - xã hội của đất nước, của địa phương vì mục đích câu khách, bán được nhiều báo. Thiếu trách nhiệm, không nắm chắc vấn đề, sự việc dẫn đến viết ẩu, viết sai, thậm chí có những sai sót nghiêm trọng. Khi bị cơ quan chức năng phát hiện, nhắc nhở; bị tổ chức, cá nhân phản đối, khiếu nại không tiếp thu, cải chính nghiêm túc, đúng luật. Một số nhà báo suy thoái về đạo đức, lợi dụng nghề báo để thực hiện hành vi vụ lợi.
3. Khuynh hướng tư nhân hóa báo chí, tư nhân hóa kinh doanh, dịch vụ truyền thông tăng lên.
Do những yếu kém, sơ hở trong công tác quản lý, do tác động của cơ chế thị trường, đã xuất hiện tình trạng một số tờ báo, tạp chí, phụ san, chuyên san. mạng truyền hình cáp... bị chi phối hoặc thao túng. Các công ty trách nhiệm hữu hạn và cổ phần đăng ký hoạt động trong lĩnh vực truyền thông xuất hiện ngày càng nhiều. Tình hình này càng biểu hiện rõ và phức tạp hơn trong thời gian gần đây.
4. Một số báo, đài phát thanh, truyền hình, tạp chí chậm đổi mới, thiếu quy hoạch, chất lượng thấp, lãng phí.
Phần lớn các báo, đài phát thanh, truyền hình, tạp chí ở trung ương và địa phương hoạt động có hiệu quả, bên cạnh đó như nhận định của Bộ Chính trị trong Thông báo 162 còn có “một số tờ báo ở trung ương, địa phương, bộ, ngành thiếu năng động, chậm đổi mới, nội dung và hình thức chưa hấp dẫn, thiếu sức thuyết phục người đọc, chất lượng và hiệu quả tuyên truyền, giáo dục không cao''. Nhiều báo, tạp chí có lượng phát hành thấp, sức vươn để chiếm lĩnh thị trường báo chí còn yếu; một số đài phát thanh, truyền hình chưa đủ sức lôi cuốn người nghe, người xem, do đó, khả năng tác động, chi phối thông tin đối với công chúng hạn chế, đời sống và điều kiện làm việc của người lao động rất khó khăn.
Do hệ quả của nhiều năm phát triển thiếu quy hoạch, kế hoạch, đầu tư tràn lan, hệ thống báo chí nước ta, nhất là phát thanh truyền hình mất cân đối, gây chồng chéo, cạnh tranh, lãng phí nghiêm trọng. Báo chí không bảo đảm tỷ lệ cân đối theo ngành và theo lãnh thổ. Có ngành nhiều báo, tạp chí, có ngành không có báo. Thành phố quá nhiều báo trong khi nông thôn thiếu báo. Phát thanh, truyền hình dày đặc, nhiễu sóng lẫn nhau ở thành phố và đồng bằng nhưng lại thưa thớt, chất lượng sóng kém ở vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo. Sự bung ra khá nhanh của dịch vụ internet, games show, truyền hình trả tiền... mang lại những khó khăn mới trong quản lý nội dung.
5. Công tác đào tạo, bồi dưỡng, đào tạo lại cán bộ báo chí còn nhiều bất cập. Hệ thống đào tạo chưa phù hợp, thiếu cân đối giữa các loại hình báo chí, vùng lãnh thổ. Chương trình giảng dạy chưa thống nhất trong các trường. Cán bộ giảng dạy thiếu và chất lượng chưa cao, đãi ngộ chưa hợp lý. Cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy thiếu thốn. Chỉ tiêu đào tạo, sức ép của xã hội, bệnh thành tích trong giáo dục và nhiều tiêu cực khác chi phối chất lượng giảng dạy.
6. Hệ thống pháp luật, các văn bản pháp lý còn thiếu, lạc hậu, chồng chéo gây không ít khó khăn cho công tác quản lý. Còn nhiều lúng túng, chưa hợp lý, thiếu rõ ràng trong phân định chức năng, nhiệm vụ, phạm vi công tác giữa các cơ quan lãnh đạo quản lý. Công tác đảng, đoàn thể quần chúng trong các cơ quan còn yếu, nhiều nơi bị buông lỏng. Công tác cán bộ còn thiếu những cơ chế cụ thể, nhiều trường hợp chưa nghiêm, chưa sát thực tế. Không ít cơ quan chủ quản không đủ năng lực hoặc cục bộ, buông lỏng quản lý, hữu khuynh trong hướng dẫn, kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan báo chí dưới quyền.
Nguyên nhân của những yếu kém, khuyết điểm trên là do việc quán triệt, thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về báo chí chưa nghiêm túc; công tác đảng trong các cơ quan báo chí chậm đổi mới, ít hiệu quả; công tác phát hiện, đào tạo, bổ nhiệm, miễn nhiệm, sắp xếp cán bộ theo hướng ''vừa hồng vừa chuyên'' chưa được quán triệt và thực hiện thường xuyên, nghiêm túc; cơ chế thị trường, tự do cạnh tranh và những tiêu cực trong đời sống xã hội đã tác động đến báo chí; một số cán bộ báo chí thiếu tu dưỡng, rèn luyện, suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; hệ thống pháp luật thiếu đồng bộ, nhiều mặt còn lạc hậu; quy hoạch báo chí theo chiến lược thông tin còn bị buông lỏng; công tác lãnh đạo, quản lý báo chí chưa đáp ứng được yêu cầu.
Báo chí nước ta đang đứng trước thời cơ, vận hội mới, đồng thời phải đối mặt với những khó khăn, thách thức không nhỏ trong quá trình phát triển, phục vụ sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, mở cửa, hội nhập quốc tế, trong tình hình các thế lực cơ hội, thù địch ráo riết triển khai chiến lược ''diễn biến hòa bình'' trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa. Nghị quyết Đại hội X của Đảng, khi đề cập đến nhiệm vụ công tác tư tưởng, lý luận và báo chí đã nhấn mạnh: ''Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giảng dạy và học tập lý luận, công tác thông tin, tuyên truyền, cổ động, báo chí, xuất bản, văn hóa nghệ thuật, nắm bắt và định hướng dư luận xã hội; tăng cường tuyên truyền đối ngoại, đặc biệt là những vấn đề chính trị nhạy cảm như dân tộc, tôn giáo, nhân quyền... Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức trong các cơ quan báo chí. Khắc phục những biểu hiện lệch lạc trong hoạt động báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ, nhất là xa rời tôn chỉ, mục đích, chạy theo thị hiếu thấp kém, vì lợi ích vật chất cá nhân, cục bộ''.
2. Mấy kiến nghị cụ thể
Để đáp ứng được nhu cầu cuộc sống và nhu cầu của thời đại, báo chí đang đứng trước thời cơ mới, dự báo sẽ có sức mạnh phát triển mang tính đột phá cả về số lượng và chất lượng. Trong khuôn khổ cuốn sách này xin đưa ra một số kiến nghị cụ thể như sau:
1. Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với công tác báo chí, phát huy truyền thống báo chí, là vũ khí sắc bén của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp giải phóng, bảo vệ độc lập dân tộc và đổi mới. Báo chí phấn đấu vươn lên toàn diện, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động báo chí cần làm tốt một số nội dung công tác:
- Định hướng phát triển, định hướng thông tin; nắm chắc công tác tổ chức - cán bộ, tăng cường kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các chủ trương, chính sách trên cơ sở Điều lệ của Đảng và sự chỉ đạo của Trung ương. Coi trọng việc xây dựng tổ chức đảng trong cơ quan báo chí vững mạnh về mọi mặt; đề cao vai trò đảng viên của người làm báo, nhất là người giữ cương vị lãnh đạo; trên cơ sở đó nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng hoạt động theo đúng tôn chỉ, mục đích, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan báo chí và nhà báo.
- Nâng cao chất lượng tư tưởng, chính trị, văn hóa, khoa học của cán bộ, đảng viên trong các cơ quan báo chí, để thông qua họ, báo chí thực sự là tiếng nói của Đảng và Nhà nước; các tổ chức chính trị - xã hội và là diễn đàn tin cậy của nhân dân.
- Các cấp uỷ đảng, chính quyền, cơ quan chủ quản tăng cường lãnh đạo, quản lý hệ thống báo chí của ngành, địa phương, đơn vị mình. Xây dựng, hoàn thiện quy chế quản lý, quy chế phối hợp, chế độ trách nhiệm giữa cơ quan chủ quản và cơ quan báo chí dưới quyền, nhất là trong các vấn đề nội dung, nhân sự, tài chính.
- Phối hợp thường xuyên, chặt chẽ trên cơ sở phân công trách nhiệm rõ ràng giữa các cấp uỷ đảng với các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí. Xây dựng và thực hiện quy chế phối hợp giữa cơ quan báo chí trung ương, các bộ, ngành, đoàn thể ở trung ương với ban tuyên giáo, sở văn hóa - thông tin, hội nhà báo các địa phương trong việc quản lý, giám sát hoạt động báo chí ở ngành, địa phương và trên phạm vi cả nước.
2. Tăng cường vai trò quản lý nhà nước đối với báo chí:
Các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí bao gồm Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Thông tin và Truyền thông) và hệ thống cấp dưới theo ngành dọc; Văn phòng Chính phủ và các cơ quan giúp việc của Thủ tướng về báo chí; các ngành, bộ có liên quan như Bộ Bưu chính - Viễn thông, Bộ Tài chính, Bộ Công an... cần quán triệt chủ trương của Đảng và Nhà nước, phối hợp chặt chẽ để thực hiện:
- Rà soát, bổ sung, hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp quy liên quan đến báo chí, xuất bản như quản lý tần số, quản lý tài chính, an ninh mạng và các chế tài, văn bản hướng dẫn khác về báo chí, xuất bản. Đề xuất chủ trương tiến hành sửa đổi Luật Báo chí cho phù hợp với tình hình mới. Bổ sung một số nội dung mới của Chiến lược thông tin quốc gia đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2020; hoàn chỉnh quy hoạch, kế hoạch và triển khai sắp xếp, quy hoạch lại hệ thống báo chí hiện nay.
- Xây dựng, hoàn thiện, thực hiện Quy chế người phát ngôn và chế độ cung cấp thông tin cho báo chí; thực hiện nghiêm túc, đúng pháp luật việc thanh tra, kiểm tra, thưởng phạt, kỷ luật, khen thưởng với nhà báo và cơ quan báo chí.
3. Hệ thống báo chí nước ta hiện nay như chiếc áo đã chật, không có khả năng ôm lấy một cơ thể cường tráng đang phát triển. Thực tiễn phát triển mới của báo chí cùng những hạn chế, bất cập của nó đang báo hiệu một sự chuyển đổi tất yếu trong tương lai gần, báo chí phải được hoạt động trong mô hình mới. Đó là từng bước xây dựng các tập đoàn báo chí.
Trong bản hoạch định “Mục tiêu chiến lược phát triển thông tin Việt Nam đến năm 2010'' đã ghi rõ: ''Từng bước thực hiện xã hội hóa một số khâu và công đoạn thuộc các lĩnh vực và hình thức thông tin, trước mắt là các khâu chế bản, in ấn, phát hành của báo in, quảng cáo thương mại của phát thanh, truyền hình, báo in... và sản xuất các chương trình nghe - nhìn thời sự của truyền hình; nghiên cứu xây dựng cơ chế chính sách để cơ quan thông tin có điều kiện tự chủ về tài chính.. Nghiên cứu để sớm có chính sách cụ thể về hợp tác, liên doanh, liên kết với nước ngoài trên lĩnh vực thông tin nhằm thu hút vốn đầu tư, kinh nghiện quản lý, kỹ năng, kỹ xảo và công nghệ hiện đại của nước ngoài, nhất là trong khâu quảng bá, phát hành ra nước ngoài và thông tin đối ngoại''.
Kiện toàn hệ thống báo chí theo hướng hiện đại, hội nhập trên cơ sở phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ thông tin đại chúng của Đảng và Nhà nước vẫn là một đòi hỏi cấp bách.
4. Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, bố trí đội ngũ cán bộ báo chí. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy, chương trình đào tạo, chỉ tiêu đào tạo và sử dụng cán bộ sau đào tạo. Xem xét, sắp xếp hợp lý và hiệu quả các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng báo chí. Xây dựng tiêu chuẩn chức danh cán bộ báo chí cho phù hợp với thực tế. Thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao phẩm chất chính trị, trình độ nghiệp vụ, năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ những người làm báo. Mở rộng nghiên cứu trao đổi kinh nghiệm phát triển và quản lý báo chí với các nước trong khu vực và trên thế giới.
5. Đầu tư thỏa đáng, tạo điều kiện thuận lợi về cơ chế, tài chính, kỹ thuật, con người nhằm phát triển và nâng cao chất lượng hiện đại hóa thông tin, chủ động tích cực hội nhập trên cơ sở giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản chất cách mạng của báo chí Việt Nam. Tăng cường trao đổi thông tin, đẩy mạnh hợp tác tiếp thu thành tựu, bài học tốt của báo chí các nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
I. SÁCH TIẾNG VIỆT
l. Báo chí và chính quyền tại Việt Nam, Viện Đại học Đà Lạt, 1973.
2. Bảo tàng Cách mạng Việt Nam: Báo Việt Nam độc lập 1941 - 1945, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2000.
3. Bảo tàng Cách mạng Việt Nam: Báo Dân chúng 1930 – 1939 (3 tập), Nxb. Lao động, Hà Nội, 2000.
4. Bằng Giang: Mảnh vụn văn học sử, Sài Gòn, 1974.
5. Bằng Giang: Văn học quốc ngữ ở Nam Kỳ 1865 - 1930, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1992.
6. Bộ Văn hóa - Thông tin: Niên giám báo chí Việt Nam 2002 - 2003, Nxb. Thông tấn, 2003.
7. Diệp Văn Kỳ: Chế độ báo giới Nam Kỳ, Sài Gòn, 1938.
8. Đỗ Mười: Báo chí văn nghệ trong sự nghiệp đổi mới, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1989.
9. Đông Tùng: Bút chiến đấu, Hội Khổng học Việt Nam, Sài Gòn, 1957.
10. Đỗ Quang Hưng (chủ biên): Lịch sử báo chí Việt Nam 1896 - 1945, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2000.
11. Hà Minh Đức (chủ biên): Thời gian và nhân chứng, tập 1 (1994), tập 2 (1997), tập 3 (2001), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Hà Minh Đức (chủ biên): Báo chí - những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội, 1997.
13. Hồ Chí Minh về văn hóa văn nghệ, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1989.
14. Hội Nhà báo thành phố Hà Nội: Báo chí Hà Nội - một chặng đường lịch sử 1954 - 1993, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
15. Hội Nhà báo Việt Nam: Chân dung các nhà báo liệt sĩ, Hội Nhà báo Việt Nam xuất bản, 1996.
16. Hồ Hữu Tường: 41 năm làm báo, Sài Gòn, 1968.
17. Hồng Chương: 120 năm báo chí Việt Nam, thành phố Hồ Chí Minh, 1985.
18. Hồng Chương: Tìm hiểu lịch sử báo chí Việt Nam, Nxb, Sự thật, Hà Nội, 1992.
19. Huỳnh Văn Tòng: Lịch sử báo Việt Nam từ khởi thuỷ đến 1930, Trí Đăng, Sài Gòn, 1973.
20. Lê Ngọc Trụ: Một trăm năm báo chí Việt Nam, Sài Gòn, 1965.
21. Lê Thanh Bình: Quản lý và phát triển báo chí - xuất bản, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.
22. Lê Thanh Bình: Báo chí truyền thông và kinh tế, văn hóa - xã hội, Nxb. Văn hóa thông tin, 2005.
23. Lưu Quý Kỳ: Báo chí kiểu Mỹ dưới chế độ Diệm, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1961.
24. Một số văn kiện của Đảng Lao động Việt Nam về công tác báo chí, tập 1 (1930 - 1945), Hội Nhà báo Việt Nam, 1970.
25. Ngọc Đán: Báo chí với sự nghiệp đổi mới, Nxb. Lao động, 1995.
26. Nguyễn Khắc Xuyên: Mục lục, phân tích Tạp chí Nam Phong, Sài Gòn, 1968.
27. Nguyễn Khắc Xuyên: Mục lục, phân tích Tạp chí Tri Tân, Hội Sử học xuất bản, Hà Nội, 1998.
28. Nguyễn Kỳ Nam: Hồi ký 1925 - 1954, Sài Gòn, 1965.
29. Nguyễn Khánh Đàm: Lịch trình tiến hóa sách báo quốc ngữ, Sài Gòn, 1942.
30. Nguyễn Vạn An: Tự do báo chí, Sài Gòn, 1958.
31. Nguyễn Văn Đính: Nghề làm báo, Sài Gòn, 1938.
32. Nguyễn Thành: Báo chí cách mạng Việt Nam 1925 - 1945, Hà Nội, 1984.
33. Nguyễn Viết Chước: Lược sử báo chí Việt Nam, Nam Sơn, Sài Gòn, 1974.
34. Nguyễn Vỹ: Văn thi sĩ tiền chiến, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội, 1994.
35. Nhiều tác giả: Nửa thế kỷ Đài Tiếng nói Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
36. Phan Quang: Về diện mạo báo chí Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
37. Phân viện Báo chí và Tuyên truyền: 80 năm báo chí cách mạng Việt Nam - Những bài học lịch sử và định hướng phát triển, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
38. Sự nghiệp báo chí của Hồ Chủ tịch, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1988.
39. Sơ thảo lịch sử báo Đảng bộ các tỉnh, thành phố, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
40. Sơ thảo lịch sử 50 năm báo Nhân dân 1951 – 2001, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
41. Tạ Ngọc Tấn: Từ lý luận đến thực tiễn báo chí, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1999.
42. Tô Huy Rứa: Thư tịch báo chí Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998.
43. Tổng cục Chính trị: Lịch sử báo Quân đội nhân dân 1950 - 2000, Nxb. Quân đội nhân dân, 2000.
44. Thông tấn xã Việt Nam - 50 năm một chặng đường, Nxb. Thông tấn, 1995.
45. Thiếu Sơn: Phê bình và cảo luận, Nxb. Nam Ký, Hà Nội, 1933.
46. Trường Chinh: Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam, Hà Nội, 1974.
47. Viện Sử học: Việt Nam - Những sự kiện lịch sử 1945 – 1975, Nxb. Giáo dục, 2003.
48. Vũ Đình Hòe: Hồi ký Thanh Nghị, Nxb.Văn học, Hà Nội, 1998.
49. Vũ Bằng: Bốn mươi năm nói láo, Sài Gòn, 1968.
50. Vũ Bội Liên: Những sự gặp gỡ Đông phương và Tây phương trong ngôn ngữ văn chương, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1999.
51. Đào Duy Quát: Công tác tư tưởng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
II- SÁCH NƯỚC NGOÀI
l. Đoàn Thị Đỗ: Le Journalisme au Vietnam et les périodiques Vietnamiens de 1865 à 1944, Paris, 1958.
2. Henry Litolff: Le régime de la Presse en Indochine, Hà Nội, 1939.
3. Charles Ledré: Histoire de la Presse, Paris, 1958.
4. M.M Durand Nguyễn Trần Huân: Introduction à la littérature Vietnamienne, Paris, 1969.
5. A Masson: Notes bibliographiques sur les débults de la Presse en l’Indochine, Hà Nội, 1927.
6. G.J Kasza: The State and the MASS MEDIA in Japan 1918 - 1945, University of California Press, 1988.
7. Qua Công Chấn: Lịch sử báo chí Trung Quốc (tiếng Trung Quốc), Thượng Hải, 1967, Bản dịch khoa học lịch sử, Đại học Tổng hợp, Hà Nội.
III- CÁC BÀI BÁO
1. Ái Lan: Làng báo miền Nam 40 năm trước, Tạp chí Bách khoa, Sài Gòn, 1961.
2. Khuông Việt: Lịch trình báo chí Việt Nam, Tạp chí Tri Tân, số 56 (28-7-1942).
3. Hoa Bằng: Từ lối in mộc bản xa đến kỹ thuật in hoạt bản bây giờ, Tạp chí Tri Tân, số 44 (3-6-1942).
4. Nghề làm báo (Hồng Nhân biên dịch), Tạp chí Nam Phong, số 48 (6-1932).
5. Lược khảo về nghề làm báo, Đại Nam Đồng Văn Nhật báo, số 213 (24-11-1895).
6. Hoa Bằng: Thủ tục làm thành tờ báo ở xứ ta, Tạp chí Tri Tân, số 332 (6-1942).
7. Liste des périodiques disparus eu 1939, xem trong Journal officiel de l'Indochine francaise, 13 avril 1940.