CHƯƠNG III
BÁO CHÍ CÁCH MẠNG VIỆT NAM THỜI
KỲ 1954 - 1975
I- BÁO CHÍ TRONG THỜI KỲ ĐẦU XÂY
DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ ĐẤU TRANH THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC 1954 - 1964
l. Báo chí cách mạng hoạt động trong
điều kiện mới
Hòa bình lập lại, trong mấy năm đầu, hoạt
động báo chí đã khởi sắc, phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng, đặc biệt là
ở đô thị và các thành phố lớn. Tính đến năm 1957 toàn miền Bắc đã có 134 tờ
báo, trong đó có 5 tờ xuất bản hàng ngày, 15 tờ tuần báo, 20 tờ bán nguyệt san
và nguyệt san. Khác với thời kỳ kháng chiến chống Pháp, báo chí tập trung chủ
yếu vào các hoạt động tuyên truyền của Đảng và các đoàn thể, như báo Nhân
dân, Quân đội nhân dân, Cứu quốc, Văn nghệ. Các tờ báo trên còn có nhánh ở
các liên khu. Hòa bình lập lại báo chí phát triển đồng bộ. Ngoài những tờ báo
lớn như Nhân dân, Quân đội nhân dân, Tạp chí Cộng sản, Cứu quốc, còn có
báo chí của các đoàn thể như báo Phụ nữ, Tiền phong, Lao động, báo của
các đảng, hội như Tổ quốc, Đảng Dân chủ có tờ Độc lập, Đài Phát thanh
tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam. Một vài tờ báo tư nhân tuy có ít
ảnh hưởng nhưng vẫn tồn tại. Một số tờ báo và tạp chí trong thời kỳ này lợi
dụng những sai lầm của Đảng trong cải cách ruộng đất, khó khăn trong phát triển
kinh tế để tìm cách chống đối như các tờ Nhân văn - Giai phẩm và Đất
mới. Tình hình thời kỳ mới của cách mạng Việt Nam cần có một hành lang pháp
lý cho báo chí hoạt động. Ngày 20-5-1957, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa ban bố Luật số 100 SL/L002 - đó là luật báo chí đầu tiên ở nước ta. Chương
I của luật khẳng định trách nhiệm của báo chí và nhà báo cách mạng: ''Báo chí
dưới chế độ ta, bất kỳ là của một cơ quan chính quyền, đảng phái chính trị,
đoàn thể nhân dân hoặc của tư nhân cũng đều là công cụ đấu tranh của nhân dân,
phải phục vụ quyền lợi của Tổ quốc, của nhân dân, bảo vệ chế độ dân chủ nhân
dân, ủng hộ chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa''.
Như vậy, trong luật lúc này bao gồm cả
báo chí tư nhân và trên thực tế báo chí tư nhân chỉ hoạt động trong một thời
gian ngắn là chấm dứt. Khi nói về tự do báo chí, nhiều phóng viên của báo chí
phương Tây thường xem báo chí tư nhân là đặc điểm của tự do báo chí. Thực ra
không có sự ngăn cấm loại bỏ những tờ báo tư nhân trong giai đoạn này. Theo nhà
báo Hiền Nhân thì khi Hà Nội mới được giải phóng, có các tờ Thời mới, Giang
sơn của Hoàng Cơ Bình, sau đổi thành Sông Hồng, Liên hiệp của
Văn Tuyển, tờ Dân chủ của Vũ Đức Toa và tờ Nói thật - tuần
báo do Văn Nhân chủ trương. Các tờ báo tư nhân này không tồn tại được lâu phần
vì không có được sự tín nhiệm của công chúng, số bản in giảm sút dần, phần vì
không rõ ràng về mục tiêu chính trị, xã hội và không tạo được sức sống cho tờ
báo. Như tờ báo Nói thật, thực ra tuy mang danh là một tờ báo nhưng thực
chất nội dung nghèo nàn, công việc do một số người trong gia đình đảm nhiệm, số
lượng phát hành rất hạn chế. Cũng trong thời gian này, có một số tờ báo tư nhân
được ấn hành như Nhân văn và các ấn phẩm của Giai phẩm, Đất nước. Nội
dung các báo và tạp chí trên đi ngược lại đường lối của Đảng và Nhà nước
và bị cấm sau một thời gian ngắn hoạt động. Những tờ báo lớn của Đảng và
Nhà nước đã phát huy vai trò tích cực của báo chí trong các nhiệm vụ
tuyên truyền cho đường lối chính sách của Đảng trong giai đoạn cách mạng
xã hội chủ nghĩa. Báo chí cách mạng phê phán khuynh hướng chính trị tư
sản đã khoét sâu vào một số sai lầm trong cải cách ruộng đất và chỉnh
đốn tổ chức, xuyên tạc các chính sách của Đảng và Nhà nước trong các
hoạt động xã hội, tư tưởng - văn hóa, đòi chia quyền lãnh đạo cho các
đảng phái khác. Báo chí cách mạng phê phán các tư tưởng thù địch của Mỹ
- Diệm nhằm xóa bỏ tổng tuyển cử và chia cắt lâu dài đất nước.
Trong trách nhiệm xây dựng và phát triển
nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, báo chí cách mạng đề cao tinh thần lao
động quên mình xây dựng cuộc sống, vượt qua những thách thức nhiều
mặt. Phương hướng xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi sự xóa
bỏ các thành phần kinh tế chiếm hữu tư nhân về ruộng đất, nhà máy, xí
nghiệp, kinh doanh thương nghiệp. Nền kinh tế tập thể từng bước được
củng cố vững chắc hơn. Hoạt động báo chí ngày một phát triển đòi hỏi
phải theo Luật Báo chí nhằm đảm bảo quyền dân chủ cho các hoạt động báo
chí, ngăn cấm những luận điệu thù địch chống phá cách mạng trên báo chí.
Luật Báo chí ra đời đánh dấu một bước phát triển mới của báo chí cách
mạng. Cho đến nay, sau nửa thế kỷ được ban hành, về cơ bản Luật Báo chí
vẫn có giá trị tương đối ổn định. Nguyên tắc cơ bản là báo chí không
được tuyên truyền chống lại Đảng và Nhà nước, không được tuyên truyền
cho chủ nghĩa đế quốc và chiến tranh, không được tiết lộ bí mật quốc gia
và tuyên truyền cho dâm ô, trụy lạc, đồi bại. Những nguyên tắc cấm
kỵ ấy là hợp lý không chỉ với Việt Nam mà với bất kỳ quốc gia nào. Nó nói
lên trách nhiệm của nhà báo là một công dân và nhà báo phải có trách nhiệm công
dân đối với việc bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ giá trị và nhân phẩm của con
người.
Luật Báo chí đã tạo điều kiện cho báo chí
hoạt động và phát triển. Hội Nhà báo cũng có nhiều hoạt động nghề nghiệp thích
hợp với tình hình chính trị - xã hội trong giai đoạn này và bước vào chuẩn bị
cho Đại hội lần thứ II những người viết báo Việt Nam. Đại hội được tổ
chức trong hai ngày 16 và 17-4-1959 tại Câu lạc bộ Đoàn kết, Hà Nội với sự tham
dự của 220 đại biểu ở miền Bắc. Đại hội vinh dự được Chủ tịch Hồ Chí
Minh đến dự và nói chuyện với các nhà báo. Đồng chí Trường Chinh cũng đến tham
dự và phát biểu ý kiến.
Nhà báo Xuân Thuỷ, Chủ tịch Hội đọc diễn
văn khai mạc hội nghị và nhà báo Hoàng Tùng trình bày báo cáo của Ban Chấp hành
Hội Nhà báo Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói chuyện với hội nghị. Người
căn dặn: ''Báo chí của ta thì cần phải phục vụ nhân dân lao động, phục vụ chủ
nghĩa xã hội, phục vụ cho đấu tranh thống nhất nước nhà, cho hòa bình thế giới.
Chính vì thế cho nên tất cả những người làng báo (người viết, người in, người
sửa bài, người phát hành, v.v.) phải có lập trường chính trị vững chắc. Chính
trị phải làm chủ. Đường lối chính trị đúng thì những việc khác mới đúng được.
Cho nên các báo chí của ta đều phải có đường lối chính trị đúng''1.
Người cũng yêu cầu báo chí “phải có tính chất quần chúng và tinh thần chiến
đấu”2. Đại hội đổi tên là Hội Nhà báo Việt Nam và
bầu ra Ban Chấp hành gồm 29 người do nhà báo Xuân Thuỷ được tái cử làm Chủ
tịch.
Ở miền Bắc, thời gian này diễn ra nhiều
sự kiện chính trị có ý nghĩa to lớn. Đại hội lần thứ III của Đảng (9-1960) đã
họp trong không khí cả nước hồ hởi xây dựng chủ nghĩa xã hội. Báo chí cũng đóng
góp xứng đáng trách nhiện của mình trên mặt trận văn hóa, tư tưởng, trong cuộc
đấu tranh chống những tư tưởng tư sản, phê phán âm mưu chia cắt đất nước lâu
dài của bọn Mỹ- Diệm và tập trung tuyên truyền theo nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa
xã hội và con người xã hội chủ nghĩa.
Ba năm sau theo kỳ hạn, Đại hội Nhà báo
lần thứ III được tổ chức vào ngày 7-9-1962 gồm 160 đại biểu chính thức thay mặt
cho 757 hội viên. Lúc này tổng số nhà báo có khoảng gần 1.500 người. Nhà báo
Xuân Thuỷ, Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam đọc lời khai mạc. Nhà báo Hoàng Tùng,
Phó Chủ tịch trình bày báo cáo của Ban Chấp hành Hội.
Báo chí miền Nam trong những năm đầu đất
nước tạm thời bị chia cắt cũng diễn ra những tình thế và hoạt động phức tạp. Một
là, hoạt động báo chí trong lòng thành thị miền Nam. Phải làm sao để có
những tờ báo tiến bộ nói lên được nguyện vọng của nhân dân với tinh thần đấu
tranh cho độc lập dân tộc và thống nhất đất nước, bảo vệ quyền dân chủ, chống
lại những hành động phát xít của chính quyền Mỹ - Diệm. Trách nhiệm này của báo
chí tiến bộ thật nặng nề và có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển của đời
sống tinh thần của xã hội miền Nam. Hai là, hoạt động báo chí của Mặt
trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam từ khi Mặt trận được thành lập và báo
chí là một bộ phận quan trọng.
Ngay từ sau Hiệp nghị Giơnevơ, báo chí hợp
pháp dưới chế độ Mỹ - Diệm đã có tiếng nói đấu tranh chống địch trả thù và
khủng bố những người kháng chiến cũ, đòi thi hành Hiệp nghị Giơnevơ như các tờ
báo Buổi sáng của Mai Lan Quế, Nhân loại của Tân Đức, Tiếng
chuông của Nguyễn Văn Hiếu, Bình dân (1954 - 1963) của Phú Đức và
Nguyễn Đức Nhuận, Dân đen (1955 - 1965) của Nguyễn Duy Hinh, Đoàn kết
(1954 -1964) của Huỳnh Thiên Môn, Thời đại (1954 – 1965) của Phạm
Xuân Thái và Nguyễn Thành Danh, Dân Việt (1961 - 1968) của Phan Văn Hiển
và Bùi Công Út, Dân mới (sau là Dân chủ mới, 1962 - 1972) của Hà
Thành Thọ, Dân luận (1963 - 1964) của Huỳnh Văn Chiêu, Ban mai
(1963 - 1964) của Dương Văn Sum. Nhà báo Trần Bạch Đằng thay mặt Thành uỷ Sài
Gòn - Chợ Lớn phụ trách công tác tư tưởng và báo chí đã chỉ đạo và tham gia
viết cho nhiều tờ báo như Nhân loại, Phòng thương mại, Dân trí, Thần chung. Khi
Diệm dẹp xong các phe phái, bắt đầu tính sổ các tờ báo mà chúng vu cho là
''Việt cộng nằm vùng'', nhiều nhà báo bị bắt, một số phải đổi nghề.
Báo chí thành thị miền Nam ngày càng tiến
bộ và có tác động xã hội rộng rãi hơn sau khi Diệm đổ và nhất là khi quân Mỹ
tràn vào miền Nam, bộc lộ rõ bản chất xâm lược của chúng thì tinh thần đấu
tranh của báo chí càng mạnh mẽ hơn. Nhiều tờ báo của chính quyền Sài Gòn như Người
Việt tự do, Cách mạng quốc gia, Ngôn luận không phát huy được
tác dụng với người đọc vì tính chất chính trị phản động của chúng về cuộc chiến
tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam.
Hoạt động báo chí ở vùng giải phóng mang
những đặc điểm riêng. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, công tác tư tưởng -
văn hóa hoạt động tuyên truyền của báo chí được đặc biệt coi trọng. Cũng vì thế
nên khi Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập, đã thu
hút vào hàng ngũ báo chí các nhà báo đã tham gia kháng chiến chống Pháp và được
phân công ở lại hoạt động tại các thành thị miền Nam. Ngày 12-10-1960, Thông
tấn xã giải phóng được thành lập còn gọi là Giải phóng xã. Ngày
1-2-1962, Đài Phát thanh giải phóng bắt đầu hoạt động. Ngày l-10-1964, báo Nhân
dân, cơ quan của Đảng nhân dân cách mạng miền Nam Việt Nam do Thép Mới phụ
trách ra mắt bạn đọc. Ngày 20-10-1964 báo Giải phóng, cơ quan của Mặt
trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam do Huỳnh Tấn Phát làm Chủ nhiệm cũng
được ấn hành. Hoạt động báo chí ở vùng giải phóng miền Nam có nhiều thuận lợi
về phía công chúng. Không có sự ngăn cách nào về tư tưởng, tình cảm của người
tiếp nhận với báo chí cách mạng. Món ăn tinh thần này từ lâu đã quen thuộc và
trở thành nhu cầu cần thiết. Tuy nhiên, do phải hoạt động ở vùng rừng sâu,
kẻ địch lại luôn tìm mọi cách phá hoại nên công việc thâm nhập thực tế, tổ chức
ấn loát, phát hành có nhiều khó khăn. Các nhà báo cách mạng miền Nam lại tiếp
tục hoạt động như những chiến sĩ trong thời kỳ chiến tranh. Họ đến với nhiều
vùng, miền của đất nước, cảm phục sâu sắc những tấm gương của đồng bào, đồng
chí gắn bó một lòng, một dạ với cách mạng, mặc cho sự de dọa, tra tấn của kẻ
thù. Cả một thời gian dài Mỹ - Diệm gieo rắc tội ác. Tập hồi ký Những ngày
gian khổ ghi lại được phần nào thực trạng xã hội đen tối của thời kỳ này.
Đa số các tác giả trong Những ngày gian khổ là nhà báo, cán bộ phong
trào. Báo chí đã có mặt khi phong trào cách mạng cần đến. Ít năm sau, các nhà
văn có tên tuổi và kinh nghiệm lần lượt trở về miền Nam để thâm nhập thực tế
của tiền tuyến lớn và sáng tác như Anh Đức, Nguyễn Thi, Trần Hiếu Minh, Nguyễn
Quang Sáng, Phan Tứ, Nguyễn Trung Thành. Qua một số năm gắn bó và đi sâu vào
thực tế cách mạng, những gặt hái bước đầu về văn chương và giải thưởng Nguyễn
Đình Chiểu đã góp phần nói lên sự phong phú cho sáng tạo văn học và báo chí
của tiền tuyến lớn anh hùng.
2. Báo chí với nhiệm vụ xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà
Sau những năm hàn gắn vết thương chiến
tranh, miền Bắc bước vào thời kỳ khôi phục và phát triển kinh tế. Không khí lao
động sôi nổi diễn ra trên nhiều hoạt động, trong nhà máy, ngoài hầm mỏ, nơi
ruộng đồng. Lúc này, lao động cơ bản vẫn dựa vào sức người, vào lao động tập
thể và đã làm nên nhiều kỳ tích. Chống lụt, chống hạn, đào kênh, khơi ngòi vẫn
là nhiệm vụ cấp bách và thách thức thường xuyên của mặt trận lao động nông
nghiệp. Ngay trong ngày lễ mừng tết độc lập năm 1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nêu những trách nhiệm lớn với toàn dân là hoàn thành tốt cải cách ruộng đất,
khôi phục kinh tế, chú trọng nông nghiệp, củng cố quốc phòng, củng cố an ninh
trật tự, nâng cao đời sống cho dân và giảm nhẹ sự đóng góp của dân. Với báo
chí, đây là thời điểm đội ngũ phóng viên phải đi sâu vào thực tiễn khôi phục và
phát triển kinh tế - xã hội đến với công trường, nhà máy, hợp tác xã nông
nghiệp. Nhiều tờ báo viết về khôi phục tuyến đường sắt từ Hà Nội đến Lạng Sơn,
viết về công trường Bắc Hưng Hải, về khôi phục kinh tế ở chiến trường Điện Biên
Phủ. Các báo đều cần đến các cây bút phóng sự. Báo Nhân dân và báo Cứu
quốc có một đội ngũ phóng viên viết phóng sự rất sắc sảo. Nhà báo Hồng Hà
đi viết về việc khôi phục đường sắt, về vùng mỏ Cẩm Phả và cắm sâu ở vùng đất
mỏ trong hàng năm trời. Kết quả là tập ký Lên công trường ra đời và được
giải thưởng về bút ký của Hội Nhà văn năm 1955 -1956. Trong thời điểm này, các
điển hình xã hội về cuộc sống mới được xây dựng trong cao trào thi đua lao động
xã hội chủ nghĩa như điển hình trong hợp tác xã nông nghiệp có Nhà máy Đóng tàu
Duyên Hải (Sóng Duyên Hải) và trong quân đội có Cờ Ba Nhất, Đại Phong.
Bước vào đầu năm 1958, nạn hạn hán diễn
ra nghiêm trọng ở nhiều tỉnh miền Bắc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có Lời kêu
gọi nông dân và cán bộ quyết tâm chống hạn, đẩy mạnh sản xuất vụ Đông Xuân.
Người nói chuyện với đồng bào tỉnh Hưng Yên, với nông dân xã Mễ Trì, huyện Từ
Liêm (Hà Nội) kêu gọi chống hạn. Với bút danh Trần Lực giới thiệu chuyện Nông
dân Trung Quốc chống hạn, báo Nhân dân trong các số ngày
7-l-1958 và 8-l-1958 đã liên tục đăng các bài của Người về chống hạn. Người
viết:
''Chống hạn phải khẩn trương như đánh
giặc. Chúng ta sống ở trên mạch nước. Cứ đào thì nhất định có nước, chỉ có đào
nông hay đào sâu mà thôi. Dưới đất có nước sông, nước mạch thấm vào đào thì
phải thấy. Đào 5 nơi không có, đào mãi thì phải có''.
Câu thành ngữ: ''Vắt đất ra nước thay
trời làm mưa'' không chỉ là câu nói suông mà phải trở thành sự thật. Nông thôn
thời kỳ này đang ở thời kỳ củng cố và phát triển hợp tác hóa nông nghiệp. Các
báo Nhân dân và Cứu quốc với đội ngũ phóng viên viết về nông thôn
có kinh nghiệm như Hữu Thọ, Phan Quang, Hà Đăng, Thái Duy, Hải Như về các tỉnh
đồng bằng Bắc Bộ khảo sát và rút kinh nghiệm về phong trào hợp tác hóa nông
nghiệp qua các bài như Hợp tác hóa ở Thái Bình, Vài nét về phong trào, Mấy
kinh nghiệm tốt trong phong trào hợp tác hóa nông nghiệp ở Hải
Dương (Nhân dân, ngày 10-4-1959) của Hà Đăng, Phát động tư tưởng tốt,
lập hợp tác xã tốt của Hữu Thọ (Nhân dân, ngày 15-5-1959), Mấy ý
kiến về phong trào hợp tác hóa nông nghiệp ở Sơn Tây, điều
tra của Phan Quang, Thanh Sơn và Hồng Thái (Nhân dân, ngày 21-5-1959).
Không chỉ là khảo sát và nghiên cứu phong trào ở địa phương, báo Nhân dân còn
đề xuất những vấn đề về đường lối, cơ sở lý luận qua phong trào hợp tác hóa
nông nghiệp. Nhà báo Hoàng Tùng đã có một loạt bài như Hợp tác hóa nông
nghiệp - con đường duy nhất đưa nông dân đến no ấm, hạnh phúc và tự do (Nhân
dân, ngày 26-5 và 27-5-1959), rồi Vận động hợp tác hóa nông nghiệp là
một cuộc đấu tranh cách mạng to lớn và khó khăn (Nhân dân, ngày 29 và
30-5-1959), Đường lối giai cấp của Đảng ở nông thôn (Nhân dân, ngày
6-6-1959). Phát triển và tổng kết những thắng lợi của phong trào hợp tác hóa
nông nghiệp, trong định hướng sớm hoàn thành tốt đẹp nhiệm vụ cách mạng này ở
nông thôn. Tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa I, đồng chí Trường Chinh có báo cáo
quan trọng: Kiên quyết đưa nông thôn miền Bắc nước ta qua con đường hợp tác
hóa nông nghiệp tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đường lối hợp tác hóa nông
nghiệp của Đảng được tiến hành tập trung trong vài năm và đến năm 1960 thì
xem như đã xóa bỏ việc chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất ở nông thôn. Các
nhà báo đã khảo sát qua các chặng đường phát triển của nông thôn từ bước đi ban
đầu đến khi phong trào được củng cố, từ khó khăn đến thuận lợi. Kết quả được
biểu hiện là những vụ mùa thắng lợi được các nhà báo giải thích không chỉ ở
nguyên nhân đất đai mà còn nhiều nhân tố khác do con người tạo ra. Hữu Thọ viết
bài Vì sao lúa chiêm năm nay ở Vĩnh Linh tốt chưa từng có (Nhân dân, ngày
8-6-1959) và Phong trào hợp tác hóa ở Sơn Tây đang được củng cố. Phan
Quang viết Vượt bậc (Nhân dân, ngày 14-6-1959). Quan hệ sản xuất đã góp
phần quan trọng để nâng cao năng suất, nhưng không thể không thấy kỹ thuật sẽ
là một động lực phát triển. Năng suất lúa tăng tiến luôn tạo những bất ngờ.
Những yếu tố truyền thống góp phần nâng cao năng suất như dân gian vẫn đúc kết
là ''Nước, phân, cần, giống'' bao giờ cũng có ý nghĩa tích cực và tạo hiệu quả
với cây trồng. Phải tìm kiếm thêm những phương thức mới. Hoàng Tùng viết bài Hợp
tác hóa và cải tiến kỹ thuật (Nhân dân, ngày 22-6-1959). Báo Nhân dân tổ
chức cuộc trao đổi về cấy dày, cấy thửa. Các nhà khoa học như Bùi Huy
Đáp cũng tham gia trao đổi. Báo Nhân dân đã thực sự vào cuộc với
vấn đề hợp tác hóa và tăng năng suất nông nghiệp với nhiều bài báo có
giá trị của Hoàng Tùng, Hữu Thọ, Phan Quang... Nông nghiệp lúc này đang
là vấn đề hàng đầu quyết định sự phát triển của nền kinh tế và sự giàu
mạnh của đất nước. Xóa bỏ hình thức chiếm hữu tư nhân về ruộng đất phải
chăng đã là chiếc chìa khóa vạn năng mở cánh cửa đi vào cánh đồng
bội thu cho nông nghiệp? Còn nhiều việc phải làm và chúng ta đã có những
nỗ lực bước đầu. Bên cạnh chủ trương hợp tác hóa nông nghiệp ở nông thôn
là nhiệm vụ công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Chúng ta bắt đầu đi lên từ
những con số nhỏ bé của nền công nghiệp lạc hậu của một nước thuộc địa
bị chiến tranh tàn phá. Chúng ta nhanh chóng làm lại từ đầu. Một số nhà
máy như xi măng, điện, nước đã được khôi phục lại và nâng cao năng suất.
Một vùng than của đất nước được tổ chức lại sản xuất, tăng năng suất.
Các bài viết trên các báo Nhân dân, Cứu quốc như Chung quanh việc
thực hiện kế hoạch bóc đất đá của mỏ Cẩm Phả (Nhân dân ngày 3-6-1959), Vượt
mọi khó khăn (Cứu quốc, ngày 18-5-1955), Những cánh tay miền Nam trên
khu gang thép (Cứu quốc, ngày 25-6-1961). Chắc chắn báo chí cũng gặp
những khó khăn về chủ nghĩa trong giai đoạn này. Trong sáng tác văn học,
những nhà văn viết về công nghiệp ở thời điểm này dễ lúng túng, va vấp.
Võ Huy Tâm có lúc sa lầy trên vùng than qua tác phẩm Những người thợ
mỏ. Nguyên Ngọc gặp nhiều khó khăn không dễ vượt qua với tác phẩm Mạch
nước ngầm. Và đặc biệt là Hà Minh Tuân với Vào đời có phần đuối sức
khi giải quyết nhiều mâu thuẫn trong khuôn khổ một nhà máy. Các tác
phẩm trên đều bị phê phán. Ngày nay, nhìn lại sự phê phán là nặng nề. Có
những tác phẩm được in lại, song số lượng còn hạn chế. Báo chí thời gian
này chưa khai thác chiều sâu những số phận nhân vật và những tình huống
phức tạp, nhất là ở những nhà máy công trường vừa tiếp quản của chế độ
cũ. Một mạch sống mới thu hút nhiều đến báo chí là công trường khổng lồ
Bắc Hưng Hải, nơi bộc lộ sức mạnh của cộng đồng, là khu công nghiệp Hải
Phòng, vùng than Quảng Ninh, những nông trường rộng lớn được khai phá và
sản xuất theo phương thức tập trung có cơ giới hiện đại hóa. Chỉ riêng
trong khu vực Hà Nội, đã có Nhà máy Cơ khí Trung quy mô, Nhà máy xe lửa
Gia Lâm, Khu công nghiệp Thượng Đình (gồm các nhà máy cao su, xà
phòng, thuốc lá, bóng đèn, phích nước). Ở nhiều tỉnh cũng có những khu
công nghiệp tập trung như khu gang thép Thái Nguyên, khu công nghiệp
Việt Trì... Tất cả đã góp phần đặt nền móng vững chắc cho nền công
nghiệp xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Trong Báo cáo tại Hội nghị chính trị
đặc biệt ngày 27-3-1964, khi nói về công nghiệp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nêu lên thực tế đáng phấn khởi:
“Chúng ta đã xây dựng thêm nhiều xí
nghiệp mới. Từ 41 nhà máy (trong đó chỉ có 20 nhà máy lớn) năm 1954, đến
nay chúng ta đã có l.000 nhà máy (trong đó có 217 nhà máy lớn). Những cơ sở
quan trọng của các ngành công nghiệp nặng: chế tạo máy móc, sức điện, luyện
kim, hóa chất, khai mỏ, v.v. dần dần được xây dựng. Công nghiệp nhẹ và thủ công
nghiệp đã sản xuất được phần lớn hàng tiêu dùng trong nước. Nền kinh tế nước ta
hiện nay về căn bản đã trở thành một nền kinh tế dân chủ đang vững bước tiến
lên''3.
Bước vào thời kỳ đầu xây dựng hòa bình,
cuộc đấu tranh tư tưởng diễn biến phức tạp hơn. Có tiếng nói thù địch ở bên kia
trận tuyến đối địch, có tiếng nói chia rẽ trong hàng ngũ của chúng ta. Trước
một số sai lầm trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, trước
những khó khăn của đời sống, có tiếng nói đòi chia quyền lãnh đạo của
Đảng. Về kinh tế, họ phê phán kinh tế quốc doanh, đòi phát triển kinh tế cá
nhân. Nhóm Nhân văn – Giai phẩm dấy lên tiếng nói chống đối lạc lõng, họ
đòi ''tự do tuyệt đối'' trong sáng tác văn nghệ, tránh mọi kìm hãm về tư tưởng
và tổ chức. Trương Tửu xuyên tạc bài viết Tổ chức Đảng và văn học của
Đảng của Lênin, xem nhẹ vai trò của ''chiếc đinh ốc và bánh xe nhỏ'' trong
bộ máy của Đảng, nhấn mạnh một chiều tính đặc thù, không ràng buộc của văn nghệ
với chính trị. Về sáng tác, họ cố tình miêu tả hình ảnh người cộng sản như
''những người khổng lồ không tim'', không biết đến tình cảm, chỉ cần những
''thi sĩ máy” lặp lại một cách máy móc khẩu hiệu đã có sẵn. Các cây bút trong
Nhân văn-Giai phẩm nhìn cuộc sống một cách ảm đạm: ''Tôi đi không thấy phố thấy
nhà, chỉ thấy mưa sa lên màu cờ đỏ''. Lê Đạt lại càng định kiến và nặng nề hơn
khi nhận xét sai lệch chế độ mới: ''Đem bục công an đặt giữa trái tim người''.
Đành rằng, trong những năm đầu của thời hậu chiến, mọi việc chưa phải đã tốt
đẹp, cuộc sống còn quá nhiều khó khăn, nhưng người cầm bút phải có cách nhìn
cuộc sống tin cậy và có ý nghĩa khích lệ. Từ hiện tượng cá biệt được nêu lên
thành bản chất, từ phạm vi kinh tế liên hệ sang chính trị, nhóm Nhân văn, Giai
phẩm đã dần tự gạt bỏ mình ra khỏi hoạt động báo chí cách mạng và tiến công lại
những nguyên tắc cơ bản của phong trào cách mạng. Hội nghị các đảng viên làm
công tác văn nghệ họp vào tháng 12-1956 đã phê phán những sai lầm của nhóm Nhân
văn. Báo Nhân văn đã bị dư luận báo chí phê phán kịch liệt. Bộ Chính trị
ra Nghị quyết 60 NQ/TW về công tác báo chí. Ngày l5-12-1956, chính quyền Hà Nội
ra lệnh cấm lưu hành báo Nhân văn. Trong Nghị quyết của Trung ương Đảng
về việc chấn chỉnh các hoạt động trong văn hóa - văn nghệ trong thời kỳ này, có
yêu cầu phải xác định rõ lập trường, quan điểm cách mạng và phê phán những tư
tưởng thù địch. Văn nghệ sĩ phải học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, các vấn đề
chính sách và thời sự của Nhà nước và đi vào đời sống thực tế. Nhiều văn nghệ
sĩ hăng hái lên đường như Nguyên Hồng về với Nhà máy xi măng Hải Phòng, Huy Cận
về vùng mỏ, Nguyễn Huy Tưởng trở lại Điện Biên, Nguyễn Tuân lên Tây Bắc, Tô
Hoài cũng về với miền Tây, Đào Vũ đến với vùng nông thôn đang xây dựng hợp tác
xã ở Hải Dương. Trong hoạt động báo chí cũng có những hiện tượng tương tự. Các
nhà báo Hữu Thọ, Phan Quang, Hồng Hà, Thái Duy, Hải Như, Xuân Thu, Chính Yên đã
đến với nhiều miền đất và cho ra đời nhiều phóng sự có giá trị. Một trong những
vấn đề đặt ra trong công tác tư tưởng của giai đoạn này là cán bộ, đảng viên
phải có những đổi thay về nhận thức tư tưởng trong giai đoạn mới của
cách mạng. Trong bài Nhận rõ yêu cầu của chỉnh huấn về mặt xác định lập
trường quan điểm cách mạng, đồng chí Đào Duy Tùng yêu cầu phải quán triệt
nhận rõ hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa và xác định rõ chỗ
đứng của mỗi người trong ngành của mình, phê phán quan điểm tư sản. Vấn đề ai
thắng ai đã được phân định bước đầu trong hoạt động chính trị, xã hội và kinh
tế. Cuộc đấu tranh giữa hai con đường đã xác định rõ: con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội phù hợp với quy luật của thời đại cách mạng và bước phát triển tất
yếu của dân tộc. Mọi xu hướng cản trở đều bị phê phán, gạt bỏ.
Nhận thức rõ vai trò của báo chí trong
cuộc đấu tranh thống nhất đất nước nên các tờ báo lớn như Nhân dân, Quân đội
nhân dân, Cứu quốc thường xuyên có chuyên mục về miền Nam. Nhiệm vụ quan
trọng lúc này là phải tố cáo tội ác của bọn Mỹ - Diệm đang đàn áp đồng bào miền
Nam, nhất là với những người kháng chiến cũ mà chúng rêu rao là Việt cộng nằm
vùng. Báo Nhân dân cũng dành một phần quan trọng cho những bài viết về
miền Nam như Tố cộng công dã tràng của HQ (Nhân dân, ngày
15-4-1959), rồi các bài của Trường Lưu như Nạn đói ở miền Nam - con đẻ của
chế độ Mỹ - Diệm (Nhân dân, ngày 23-4-1959), Phong trào công nhân miền
Nam đứng đầu trong cuộc đấu tranh (Nhân dân, ngày l-5-1959), Ngăn chặn
bọn Ngô Đình Diệm gây tội ác đối với nhân dân miền Nam (Nhân dân, ngày
20-5-1959). Báo Nhân dân cũng nhận được các bài từ miền Nam gửi ra như Phong
trào chống khủng bố ở miền Nam đang lên mạnh ở Dương Châu (Nhân dân, ngày
17-5-1959).
Trong nhiệm vụ đấu tranh thống nhất đất
nước phải kể đến sự đóng góp của báo Thống nhất do Tôn Thất Vỹ làm chủ nhiệm
và Lưu Quý Kỳ làm chủ bút. Thống nhất thuộc loại tuần báo; lúc đầu ra
một tuần một số, sau một tuần ra hai số. Đối tượng của báo là trí thức, sinh
viên đô thị miền Nam và cả giới tư sản. Ở miền Bắc, báo Thống nhất được
cán bộ tập kết hoan nghênh. Đi sát với những vấn đề thời sự ở miền Nam, góp một
tiếng nói đấu tranh, báo Thống nhất đã tạo được sự tin cậy trong dư
luận. Những nhà báo như Lưu Quý Kỳ, Nguyễn Chánh Sắc, Phan Thao đều là những
cây bút có tay nghề vững chắc. Các nhà thơ Xích Điểu, Bảo Định Giang, Tế Hanh
là những cộng tác viên đắc lực của tờ báo. Trong gần mười năm hoạt động từ năm
1955 đến năm 1974, báo Thống nhất đã để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp với
bạn đọc về một tờ báo chuyên sâu về miền Nam với những bài viết sắc sảo và giàu
tình cảm về sự nghiệp thống nhất đất nước.
Nhân dịp kỷ niệm 5 năm ngày hòa bình lập
lại ở nước ta, nhà báo Tôn Thất Vỹ có bài Thất bại của cái gọi là quốc sách
chống cộng của Mỹ -Diệm ở miền Nam (Nhân dân, ngày 15-7-1959). Mỹ - Diệm đã
lợi dụng chống cộng để bóp nghẹt mọi tự do dân chủ. Chúng đưa khẩu hiệu ''Đả
thực, bài phong, chống cộng'' nhưng thực ra thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đang tiếp
tay cho chúng. Diệm chủ trương gia đình trị kiểu phong kiến và kế hoạch chống
cộng của chúng thực chất là chống lại đồng bào yêu nước, gắn bó với kháng
chiến. Ngày 19-7-1959, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cực lực tố cáo
và lên án trước đồng bào cả nước và dư luận thế giới chính sách khủng bố và tàn
sát nhân dân và âm mưu chuẩn bị chiến tranh của đế quốc Mỹ và tập đoàn thống
trị Ngô Đình Diệm. Ngày 20-7-1959, Xuân Thủy nói chuyện tại cuộc míttinh của 15
vạn nhân dân Hà Nội: ''Muốn cho nước ta được hòa bình, thống nhất, nhân dân ta
phải chống đế quốc Mỹ xâm lược, phải chống tập đoàn Ngô Đình Diệm tay sai của
đế quốc Mỹ''. Sáng kiến Ngày Việt Nam được nhiệt liệt ủng hộ ở trong
nước và trên thế giới. Đại tá Hà Văn Lâu giao cho Uỷ ban quốc tế bản phụ lục Tội
ác tày trời của Mỹ-Diệm ở miền Tây Nam Bộ (ngày 18-8-1959), Chấm dứt
ngay cuộc chém giết dã man của Mỹ-Diệm ở miền Tây Nam Bộ (ngày 22-8-1959).
Năm 1959 có ý nghĩa đặc biệt với nhiệm vụ đấu tranh thống nhất đất nước. Hiệp
nghị Giơnevơ được ký kết đã 5 năm. Bọn Mỹ- Diệm đã chống lại tổng tuyển cử
thống nhất đất nước và âm mưu chia cắt lâu dài hai miền Nam Bắc. Chúng đề ra
Luật 10/59 nhằm chém giết, trả thù những người kháng chiến cũ; dồn dân vào các
ấp chiến lược, tiến hành tố cộng khắp nơi. Các vụ thảm sát ở Chợ Được, Vĩnh
Trinh, Phú Lợi gây căm thù, phẫn nộ trong nhân dân hai miền và là nguyên nhân
dẫn đến phong trào đồng khởi giành chính quyền lan rộng trên khắp miền Nam. Mặt
trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời ngày 20-12-1960 đánh dấu một
thời kỳ mới của cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam.
3. Một số tờ báo tiêu biểu
a) Báo Nhân dân trong những năm 1954 -
1958
Hòa bình lập lại, báo Nhân dân vẫn
giữ trách nhiệm quan trọng trong làng báo Việt Nam, là tiếng nói chính thống
của Đảng, Nhà nước và tạo được sự tin cậy ở bạn đọc. Tờ Nhân dân đã tập
trung được nhiều cây bút xuất sắc vào bậc nhất trong làng báo. Phần lớn các nhà
báo được rèn luyện từ thời kỳ Sự thật vẫn luôn tỏ ra sắc sảo qua những
trang viết của giai đoạn mới.
Nhà báo Hoàng Tùng là chủ bút báo Sự
thật (1950) và làm Tổng biên tập báo Nhân dân từ năm 1954 đến năm
1982. Ông là nhà báo sắc sảo, chuyên gia thể luận của tờ báo, đảm nhiệm phần
quan trọng xã luận của báo Nhân dân trong suốt hàng chục năm. Không phải
chỉ là tay nghề mà còn là trí tuệ, nhạy cảm chính trị, lý luận chặt chẽ, ông
nói: ''Trong hoạt động báo chí tôi chuyên viết thể luận. Người viết luận
phải rèn luyện sắc bén tư duy, có vốn hiểu biết cần thiết. Phải hằng ngày
''nhồi'' thêm cái mới, không học và không đọc không có đầu vào thì không thể
bình luận. Cũng phải hiểu cuộc sống, trình độ và tâm trạng người đọc. Điều cần
tránh là giải thích một chiều đơn giản. Cũng có lúc cần giải thích nhưng phải
có chất lượng tốt. Viết xã luận phải sáng tạo không lặp lại. Phải truyền sức
sống vào những điều mà mình cho là nguyên lý''. Nhà báo Hoàng Tùng viết cho Sự
thật thì ký tên còn ở báo Nhân dân thường ký tên báo. Ông là người
thợ cả của tờ báo. Báo Nhân dân được xem là cái lò hun đúc rèn luyện nên
nhiều nhà báo có tài năng. Nhà báo Hoàng Tùng nhận xét về một thế hệ nhà báo
của báo Nhân dân: ''Đội ngũ những nhà báo tập hợp chung quanh các tờ Sự
thật, Nhân dân đều là những cây bút tiêu biểu. Mọi người có một mặt mạnh và
mặt yếu của mình. Anh Thép Mới có năng khiếu làm báo và học có hệ thống bậc đại
học, anh Quang Đạm học vấn rộng, Hà Xuân Trường, Lê Điền, Phan Quang viết vững
chắc. Hữu Thọ, Hà Đăng hiểu sâu văn học'' và ở một chỗ khác ông lại chân tình
khích lệ những nhà báo đã phát triển tài năng trong những năm chống Mỹ. ''Lúc
này các nhà báo Việt Nam cũng viết nhiều và khởi sắc hơn. Thép Mới, Nguyễn
Thành Lê, Xuân Trường, Hồng Hà, Hữu Thọ, Hà Đăng đều viết nhiều. Viết sắc sảo
là Thép Mới, Lê Điền, Lê Dân, Hồng Hà, Phan Quang, Hà Đăng4. Có thể
từng thời điểm, ông lại biểu dương, ca ngợi đội ngũ những nhà báo tài năng của
báo Nhân dân. Vẫn còn thiếu nhiều tên tuổi đáng nể trọng như Lê Bá
Thuyên, Nguyễn Thành Lê, Trần Kiên, Lê Bình... Có thể xem những năm tháng của
những năm 1954 - 1958 là thời kỳ hưng thịnh nhất của đội ngũ những nhà báo có
tên tuổi của báo Nhân dân. Có thể kể một vài những nhà báo kỳ cựu và có
đóng góp nhiều như Thép Mới, Quang Đạm, Hữu Thọ, Phan Quang. Thép Mới đã đến
với báo chí cách mạng ngay vừa kết thúc tuổi trẻ học đường. Thép Mới đã viết và
có mặt trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và những năm đầu
của thời kỳ đổi mới. Ông là cây bút chủ lực trong những năm 1947 - 1950, hăng
hái đi các chiến trường, có mặt hầu hết ở các chiến trường, nhất là đường số 4
và chiến dịch Điện Biên Phủ. Nhà báo Hoàng Tùng đánh giá: ''Từ sau năm 1954 đến
năm 1960, Thép Mới là phóng viên chủ lực về các sự kiện chính trị''. Từ năm
1960 lại có mặt ở chiến trường miền Nam, có mặt ở các chiến trường cho
đến chiến dịch Hồ Chí Minh... ''Là nhà báo có tầm cỡ, Thép Mới là một nhân
chứng lịch sử trong các quá trình cách mạng nước ta từ năm 1945 đến đầu năm
1990''. Hoàng Tùng gọi ''Thép Mới là một cây bút thép''. Nhà báo Phan Quang
nhận xét: ''Thép Mới là một người làm báo mới tâm hồn nghệ sĩ''. Thép Mới là
con người suốt đời đi tìm cái mới.
Nhà báo lão thành Quang Đạm cũng là cây
bút chủ lực trong giai đoạn này. Nhà báo Quang Đạm có trí thức uyên bác, viết nhiều
bài lý luận sắc sảo, lý lẽ vững chắc. Hai kỷ niệm báo chí mà ông ghi nhớ là các
bài đấu tranh tư tưởng và luận chiến. Trước hết là những bài phê phán nhóm Nhân
văn- Giai phẩm như Quan hệ giữa chính trị và văn nghệ đăng báo Nhân
dân ngày l-10-1956 nhằm phê phán luận điểm ''sự lợi dụng lẫn nhau giữa văn
nghệ và chính trị'', rồi bài Giữ vững những nguyên tắc dân chủ của
chúng ta đăng ngày 11-12-1956. Nhạy cảm với quan điểm chính trị, quan điểm
giai cấp, Quang Đạm viết tiếp bài Quan điểm báo chí vô sản và quan điểm báo
chí tư sản đăng báo Nhân dân vào cuối năm 1957. Hữu Thọ, Phan Quang
về báo Nhân dân chậm hơn một thời gian nhưng cũng nhanh chóng bắt kịp
vào không khí và hoạt động chung và sớm trở thành những cây bút chủ lực. Hữu
Thọ sắc sảo, trong các bài điều tra với khả năng phát hiện nhanh chóng các vấn
đề xã hội. Hữu Thọ đi sâu về đề tài nông thôn và đã góp phần vào việc khoán sản
phẩm ở nông thôn. Sau này, trong trách nhiệm lãnh đạo công tác tư tưởng - văn
hóa, Hữu Thọ không có điều kiện viết bút ký, phóng sự về những vùng đất xa và
ông chuyển sang viết và cho xuất bản nhiều tập tiểu phẩm văn học. Quan tâm đến
cuộc sống đời thường, phát hiện những hiện tượng và vấn đề tiêu biểu, đề
xuất nhiều ý kiến với ý nghĩ sắc sảo. Tiểu phẩm báo chí của Hữu Thọ tạo ấn
tượng tốt về tư tưởng và thể loại. Nhà báo Phan Quang vốn có bút danh là Hoàng
Tùng khi làm báo ở địa phương và được gọi là Hoàng Tùng khu IV. Khi về báo Nhân
dân ông lấy tên là Phan Quang. ''Về báo Nhân dân chúng tôi
được đào luyện theo phong cách của báo Nhân dân''. Phong cách của báo Nhân
dân là gì, tuy không nói ra trực tiếp, nhưng có lẽ sự rèn luyện của một tập
thể giàu trí tuệ để phát huy năng lực sáng tạo của mỗi cá nhân. Đó là môi
trường để nhà báo phát huy và hoàn thiện mình, có thể biến sự bắt buộc thành
say mê như cách nói của Phan Quang: ''Tôi say mê đi vào nông nghiệp là do sự
bắt buộc'', Vào những năm 60 của thế kỷ XX, Phan Quang phụ trách ban Nông
nghiệp, báo Nhân dân. Ông là nhà báo có vốn văn hóa và kết hợp được
giữa tư duy báo chí và cảm hứng văn chương.
Có thể kể đến nhiều nhà báo tên tuổi khác
của báo Nhân dân. Trong thời kỳ này, báo Nhân dân là một
trung tâm báo chí với những hoạt động năng động và hiệu quả và môi trường rèn
luyện tài năng báo chí. Nhiều cán bộ của báo Nhân dân ở những chặng
đường sau đã đảm nhận các trách triệm cao ở các cơ quan của Đảng và Nhà nước.
Nhà báo Hoàng Tùng vẫn là cây bút sắc sảo suốt trong thời kỳ chống Mỹ và đổi
mới. Ông còn chịu trách nhiệm lãnh dạo ở Ban Tuyên giáo Trung ương. Nhà báo Hữu
Thọ là Trưởng Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương. Nhà báo Phan Quang đảm nhiệm
chức vụ Tổng Giám đốc Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam.
b) Báo Cứu quốc thời kỳ đầu xây dựng
chủ nghĩa xã hội
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, báo
Cứu quốc chuyển về Việt Bắc. Khoảng năm 1950, nhà báo Nguyễn Thành Lê
được cử về làm chủ bút giúp nhà báo Xuân Thuỷ điều hành công việc. Đội ngũ các
biên tập viên khá hùng hậu gồm khoảng 20 người với nhiều nhà báo tiêu biểu như
Tô Ninh (Thư ký tòa soạn), Xuân Sanh, Hồng Hà, Chính Yên, Thái Duy, Thái Cương.
Từ tháng 6-1950 lại có thêm Nguyễn Ngọc Kha và Như Phong từ Cứu quốc khu
III về và các anh đều tham gia ban phụ trách tòa soạn. Báo Cứu quốc là
cơ quan của Mặt trận Liên Việt. Số báo ra mắt bạn đọc Thủ đô ngày 23-10-1954 do
Xuân Thuỷ làm chủ nhiệm và Nguyễn Ngọc Kha làm chủ bút. Do mục tiêu chính trị
và xã hội của tờ báo, báo Cứu quốc hướng tới độc giả toàn quốc với tư
cách là tiếng nói của Mặt trận với miền Bắc, miền Nam, các dân tộc miền núi,
thành thị, nông thôn, Ngoài các chuyên mục chính trị, xã hội, văn nghệ còn có
chuyên mục Cứu quốc trả lời nhằm giải đáp những câu hỏi do bạn đọc đề
xuất. Báo Cứu quốc có một đội ngũ phóng viên khá thành thạo, vững
vàng trong nghề nên đã ứng phó kịp thời với yêu cầu của thời cuộc. Các nhà báo
như Thái Duy, Xuân Thu, Lưu Động, Chính Yên, Hải Như, Thái Bá Cơ đều thành thục
trong các thể điều tra, phóng sự, bình luận. Khi miền Bắc được giải phóng, các
phóng viên báo Cứu quốc được tung về nhiều miền của đất nước. Biết bao
vấn đề cần được phản ánh, ghi nhận qua trang báo. Nhiều phóng sự chân thực và
sâu sắc về thời điểm ta tiếp quản Hà Nội và chờ ngày quân Pháp rút khỏi toàn
miền Bắc. Bút ký nhiều kỳ của Thái Duy về Hải Phòng như Hải Phòng hiện nay (28-3,
4-4, 18-4), Hải Phòng chờ đợi ngày giải phóng. Hải Phòng còn là thành
phố thuộc vùng tạm bị Pháp chiếm đóng, kẻ thù gây nhiều hành động tàn ác, đau
lòng. Cũng một tình cảnh tương tự và còn có phần nhức nhối hơn là cuộc sống ở
vùng Bùi Chu, Phát Diệm, Thái Bá Cơ với các phóng sự Tội ác của bọn phản
động đội lốt tôn giáo, Sự thật về trại tập trung Phát Diệm
(22-11-1954). Qua xứ Bùi Chu, đã miêu tả bộ mặt thật của bọn người tàn ác ở xứ
Đạo. Bên cạnh những bài viết tố cáo kẻ địch là những phóng sự ca ngợi cuộc sống
mới. Trước hết là sự trân trọng với truyền thống anh hùng của đất nước qua
những chiến công của thời kỳ kháng chiến chống Pháp như nhà báo Thái Duy với
một loạt bài: Chiến sĩ Điện Biên Phủ (30-10-1954), Sẻ núi bạt rừng (30-10-1954),
Trọng pháo Điện Biên Phủ (30-12-1954). Chính Yên với 55 ngày bão táp.
Xuân Thu, Hải Như đến với nhà máy và ruộng đồng ca ngợi sức sống của nhiều
vùng đất: Vùng cơm hẩm gạo vàng ngày xưa (19-3-1961), Một chuyến
lên Tây Bắc (9-4-1961), Vượt mọi khó khăn (18-5-1955), Những cánh
tay miền Nam trên khu gang thép (25-6-1961).
Báo Cứu quốc cũng tổ chức những
cuộc trao đổi về nhiều vấn đề thời sự chính trị vừa có tính chất lý luận và
giàu ý nghĩa thực tiễn. Cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh lúc này
đang diễn ra trên nhiều thành phố lớn. Cuộc trao đổi về mặt tích cực và tiêu
cực của giai cấp tư sản được nhiều người tham gia thảo luận kéo dài trên hai
năm từ cuối năm 1959 đến cuối năm 1961. Thiên hướng chung của cuộc trao đổi là
dân chủ không áp đặt, không kinh viện sách vở, tôn trọng ý kiến của mọi người.
Điều quan trọng là sự vận dụng lý luận vào thực tiễn và các chương trình hành
động.
Báo Cứu quốc trong giai đoạn này
ngoài phần viết do các phóng viên đảm nhiệm còn có sự đóng góp bài vở của nhiều
cây bút tiêu biểu như Trần Văn Giàu, Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Huyên, Phạm Huy
Thông. Giáo sư Trần Văn Giàu viết về giai cấp công nhân Việt Nam, lực lượng
nòng cốt của mặt trận trên hai bình diện lịch sử và lý luận với mục đích khẳng
định những phẩm chất của giai cấp công nhân Việt Nam, giai cấp lãnh đạo cách
mạng Việt Nam. Báo Cứu quốc cũng theo sát công cuộc đấu tranh thống nhất
đất nước qua từng thời kỳ. Huỳnh Văn Tiểng, Phó Giám đốc Đài Phát thanh tiếng
nói Việt Nam chuyên theo dõi vấn đề miền Nam cũng đã viết một số bài vạch trần
tội ác của Mỹ - Diệm như Bọn Mỹ - Diệm chạy trời không khỏi nắng (21-5-1961)
và Mỹ - Diệm càng hành động điên cuồng hốt hoảng càng thất bại thảm hại... Phạm
Huy Thông viết Diệm sẽ bị lật đổ (7-1961) như một lời dự báo những đổi
thay của số phận Ngô Đình Diệm.
c) Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam
Hiệp định Giơnevơ năm 1954 được ký kết,
hòa bình lập lại. Cũng như mọi lực lượng và tổ chức quân sự, chính trị kháng
chiến, Đài Phát thanh kháng chiến Nam Bộ và miền Nam Trung Bộ đều tập
kết và nhập vào Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam. Hoạt động của bộ phận phát
thanh miền Nam lúc này rất quan trọng. Phải theo sát diễn biến và tình hình của
miền Nam để có đối sách thích hợp. Đài đã phản ánh sát sao cuộc đấu tranh của
nhân dân miền Nam tạm thời dưới ách xâm lược của Mỹ - Diệm. Tội ác của Mỹ -
Diệm trong vụ đầu độc tại nhà giam Phú Lợi và tinh thần sôi sục căm thù trong
cả nước được Đài phản ánh kịp thời. Đài có nhiều chuyên mục chính trị, xã hội,
văn nghệ. Chuyên mục Nối liền Nam Bắc là cầu nối tinh thần gắn bó hai
miền. Đài có những chương trình dành riêng cho các tầng lớp nhân dân thành thị
miền Nam, cho quân dân cộng hòa. Những bài hát, bài thơ về đề tài đấu tranh
thống nhất đất nước đã đem lại thêm sức hấp dẫn. Nhà báo Huỳnh Văn Tiểng là Phó
Giám đốc của Đài phụ trách phát thanh miền Nam.
Từ năm 1960 khi tình hình miền Nam đã
bước sang một giai đoạn mới, phong trào Đồng khởi nổi dậy ở khắp nơi. Mặt trận
dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời và ngày l-2-1962, Đài Phát thanh
giải phóng, tiếng nói của những người yêu nước miền Nam Việt Nam bắt đầu
phát sóng. Các cơ quan thông tấn, báo chí miền Nam cũng đồng loạt hoạt động như
Thông tấn xã giải phóng thành lập ngày 12-10-1960, báo Nhân
dân, cơ quan của Đảng Nhân dân Cách mạng ra số đầu ngày 1-10-1964, báo Giải
phóng, cơ quan của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam phát hành
vào ngày 20-12-1964. Ở miền Bắc, Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam có nhiệm vụ
chi viện cho Đài Phát thanh giải phóng. Bài hát Giải phóng miền Nam của
Huỳnh Minh Siêng (tức Lưu Hữu Phước) sáng tác được giới thiệu trên Đài và có sức
cổ vũ, vang sâu, vang xa khắp vùng giải phóng miền Nam và gây xúc động tự hào
với đồng bào miền Bắc về sức mạnh chiến đấu của nhân dân miền Nam Việt Nam. Đài
Phát thanh tiếng nói Việt Nam gửi biên tập viên và máy móc trang thiết bị cần
thiết vào công tác ở Đài Phát thanh giải phóng. Đài giải phóng có hai bộ phận,
đài A ở miền Bắc và đài B ở miền Nam chi viện cho nhau. Đài A do anh Vũ Thành
làm Giám đốc và đài B do anh Vũ Đường làm Giám đốc.
Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam trong
thời kỳ này được trang bị với nhiều máy móc hiện đại hơn. Theo ông Trần Lâm thì
năm 1955 Đài Phát sóng có công suất 7,5kw sóng ngắn và 1kw sóng trung do Trung
Quốc giúp. Năm 1958 đã có máy phát sóng lớn công suất 150kw, hai máy phát sóng
ngắn 15kw đủ khả năng mở rộng và phủ sóng trên khắp đất nước. Nhà báo Trần Lâm
nhận xét: ''Đài Tiếng nói Việt Nam trở thành một tờ báo nói tổng hợp, đồng thời
là một sân khấu truyền thanh có hiệu quả lớn đối với sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc làm hậu phương vững chắc cho miền Nam''.
Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam hoạt
động trong điều kiện từ sau ngày hòa bình lập lại đã có bước phát triển mới về
số lượng giờ phát, kênh phát ở trong và ngoài nước. Năm 1957, Đài Trung ương đã
phát từ 13 đến 15 giờ mỗi ngày trên năm hệ thống phục vụ người nghe trong và
ngoài nước (11 ngôn ngữ trên thế giới). Mạng phát thanh còn có 400 đài cấp
huyện và các trạm ở xã. Đài đã xây dựng nhiều chương trình như Chương trình
thời sự, Chương trình phát thanh Quân đội nhân dân, Chương trình dành cho nông
nghiệp, Chương trình dành cho công nhân, Chương trình văn hóa xã hội, Chương
trình phát thanh cho thanh niên. Về văn nghệ có các Chương trình đọc truyện đêm
khuya, Chương trình tiếng thơ, Chương trình sân khấu truyền thanh, Chương tình
ca nhạc (riêng Ban Ca nhạc của Đài có lúc biên chế đến 120 người).
Hệ thống chương trình phát thanh dành cho
miền Nam gồm Chương trình dành cho thành thị miền Nam, Chương tình phát thanh
dành cho nông thôn miền Nam, Chương trình nối liền Nam Bắc, các chương trình
dành cho các dân tộc thiểu số Tây Nguyên.
Hệ thống chương trình phát thanh đối
ngoại ngày càng được phủ sóng rộng ra nhiều khu vực trên thế giới (gồm các thứ
tiếng như Trung Quốc, Thái Lan, Campuchia, Inđônêxia, Nhật, Lào, Nga, Tây Ban
Nha, Anh, Pháp).
Về lực lượng cán bộ, Đài được đặc biệt
tăng cường nhiều đồng chí giàu năng lực và kinh nghiệm công tác như Nguyễn Kim
Cương, Huỳnh Văn Tiểng, Bảo Định Giang, Mai Thúc Long, Phạm Hữu Tùng, Mai Văn
Tạo, Phạm Trường Hạnh; các nghệ sĩ Quốc Hương, Nguyễn Văn Ty, Tân Nhân, Hồng Lê,
Châu Loan, Khánh Vân, Tuyết Mai, Nguyễn Thơ. Có thể nói, Đài Phát thanh tiếng
nói Việt Nam trong thời kỳ 1954 - 1965 đã quy tụ được nhiều tài năng và có bước
phát triển đặc biệt.
d) Các tờ báo văn học, nghệ thuật
trong giai đoạn 1954 – 1965
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, khi
Hội Văn nghệ Việt Nam được thành lập vào năm 1948, thì tờ Tạp chí Văn
nghệ cũng chính thức hoạt động. Thư ký tòa soạn đầu tiên của tờ báo do
nhà thơ Tố Hữu đảm nhiệm. Tòa soạn gồm các nhà văn Đặng Thai Mai, Tố
Hữu, Thế Lữ, Văn Cao, Nguyên Hồng. Đội ngũ cộng tác viên khá đông đảo
như Tô Ngọc Vân, Ngô Tất Tố, Nguyễn Đình Thi, Nam Cao, Kim Lân, Hoài
Thanh, Huy Cận, Xuân Diệu, Tô Hoài, Thép Mới, Xuân Thuỷ, Nguyễn Huy
Tưởng. Tạp chí Văn nghệ sớm có uy tín trong giới văn nghệ và bạn đọc. Tờ
tạp chí đã đăng nhiều tác phẩm văn nghệ có giá trị của các nhà văn có
tên tuổi như Ngô Tất Tố, Tú Mỡ, Tố Hữu, Nam Cao, Tô Hoài, Nguyễn Đình Thi, Xuân
Diệu, Huy Cận,… Các cuộc thảo luận về văn nghệ như tranh luận văn nghệ
Việt Bắc, trao đổi về tuyên truyền và văn nghệ cũng được phản ánh chân
thực, sinh động. Hòa bình lập lại, tờ Văn nghệ vẫn tiếp tục hoạt
động trong tình hình mới. Năm 1957, Hội Nhà văn tổ chức đại hội và bầu
nhà văn Nguyễn Công Hoan là Chủ tịch Hội và nhà văn Nguyễn Đình Thi làm
Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam. Tờ Tuần báo Văn do nhà văn
Nguyên Hồng phụ trách được ấn hành. Đây là thời điểm còn ảnh hưởng của
nhóm Nhân văn - Giai phẩm và thường được gọi là thời hậu Nhân văn - Giai
phẩm. Tờ báo sau một thời gian hoạt động có một số biểu hiện hữu khuynh.
Một số cán bộ của báo bị khiển trách. Tờ Tuần báo Văn tạm đình chỉ hoạt
động trong một năm, từ năm 1957 đến năm 1958 và chuyển sang một tờ báo mới là
Tuần báo Văn học. Tuần báo Văn học với tôn chỉ vì Tổ quốc, vì chủ
nghĩa xã hội đã hoạt động trong thời gian từ năm 1958 đến năm 1963. Trong
khoảng thời gian trên, Tạp chí Văn nghệ vẫn ra đều kỳ hàng tháng. Tờ
Tuần báo Văn học chuyên chế vào văn học do nhà văn Nguyễn Đình Thi làm
chủ nhiệm. Các nhà văn Nguyễn Văn Bổng, Tô Hoài, Hà Minh Tuân, Tế Hanh,
Vũ Tú Nam tham gia thường trực biên tập. Tờ báo có nhiều chuyên mục. Nhà
thơ Tú Mỡ phụ trách chuyên mục Đòn bút, nhà văn Bùi Hiển tổ trưởng tổ
văn xuôi, nhà thơ Tế Hanh Tổ trưởng tổ thơ, nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh Tổ
trưởng văn học nước ngoài và nhà văn Mạnh Phú Tư là Tổ trưởng tổ thời sự
chính trị. Từ tháng 9-1959 Vũ Tú Nam làm Thư ký tòa soạn. Nhà văn Hà
Minh Tuân được cử sang phụ trách Nhà xuất bản Văn học của Hội Nhà văn.
Vũ Tú Nam thêm chuyên mục Người mới cuộc sống mới, tiếp nhận nhiều
bài viết về người thật, việc thật nổi lên từ phong trào thi đua xã hội
chủ nghĩa. Sau năm năm hoạt động, Tuần báo Văn học và Tạp chí Văn
nghệ sáp nhập thành Tuần báo Văn nghệ. Tuần báo Văn học được
tặng thưởng Huân chương Lao động. Trong khoảng thời gian mười năm sau khi
hòa bình lập lại, các báo Văn học và Văn nghệ có nhiều
thay đổi về tổ chức nhằm chọn lựa những phương thức hoạt động tốt nhất.
Trong thực tế, các tờ Văn học, Văn nghệ trong thời kỳ này cũng
phải tiến hành những cuộc đấu tranh. Từ đấu tranh tư tưởng dẫn đến sắp
xếp tổ chức cho phù hợp. Qua cuộc đấu tranh chống nhóm Nhân văn -
Giai phẩm rồi những chuyến đi vào đời sống thực tế đã góp phần cho văn
nghệ thu hoạch được nhiều kinh nghiệm bổ ích cho lao động và sáng tác
nghệ thuật.
Đất nước bước vào thời kỳ xây dựng chủ
nghĩa xã hội, không khí lao động sôi nổi trên các công trường, nhà máy,
nông thôn đã tạo cảm hứng để các nhà văn sáng tác và có nhiều tác phẩm
có giá trị tư tưởng và nghệ thuật. Tố Hữu với Gió lộng, Chế Lan Viên có Ánh
sáng và phù sa, Xuân Diệu với Một khối hồng. Riêng Huy Cận từ năm
1958 đến năm 1962 đã có các tác phẩm Trời mỗi ngày lại sáng, Đất nở
hoa, Bài thơ cuộc đời. Theo tác giả, đây là thời điểm chín cộng với
thực tế mới, những giọt nước cuối cùng làm tràn bình nước. Trong văn
xuôi, Nguyễn Tuân có Sông Đà, Tô Hoài có Miền Tây, Nguyễn
Huy Tưởng với Bốn năm sau... Các tác phẩm vừa mang không khí thời sự,
vừa có giá trị lâu dài.
đ) Báo Quân đội nhân dân trong thời kỳ
quân đội xây dựng chính quy, hiện đại (1954 - 1965)
Năm 1950, Báo Quân đội nhân dân ra
đời trên cơ sở sáp nhập hai tờ báo Vệ quốc quân và Quân du
kích (hai tờ báo tiền thân có nhiều thành tích của Quân đội nhân dân
Việt Nam). Báo Quân đội nhân dân là tờ báo của toàn quân nhằm
tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng và Chính phủ đến toàn quân.
Tờ báo cũng phổ biến chiến lược quân sự của Đảng qua các giai đoạn cách
mạng, về chiến tranh nhân dân, tôn vinh chủ nghĩa anh hùng cách mạng,
những kỳ tích trong chiến đấu, những tấm gương anh hùng của quân và dân
ta trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong
nhiều năm hoạt động, tờ báo đã hoàn thành trách nhiệm của một tờ báo quân
đội trong chiến tranh. Đội ngũ phóng viên là những nhà báo quen thuộc đã
trải qua thử thách ở chiến trường như Lê Kim, Ngọc Bằng, Phác Văn, Lục
Văn Thao, Nguyễn Trần Thiết, nay lại nhận nhiệm vụ trong thời kỳ mới.
Tuy hoạt động nội bộ, nhưng tờ báo vẫn quan tâm phản ánh những vấn đề xã
hội rộng rãi cho bạn đọc của toàn quân. Vào thời điểm tháng 7-1955, tòa
soạn có 89 biên chế chính thức với các phòng: Phòng Thư ký tòa soạn,
Phòng Quân sự hậu bị, Phòng Chính trị - văn hóa, Phòng Thời sự chính
sách, Phòng Bạn đọc, Ban Hành chính, Ban Tư liệu và Tổ ảnh. Tháng
9-1954, Trần Cư làm Thư ký tòa soạn, sau đó là đồng chí Vũ Chính. Tổng
biên tập do đồng chí Hoàng Xuân Tuỳ phụ trách và từ tháng 2-1956, Phó
Tổng biên tập Văn Doãn phụ trách. Tháng 11-1956, theo Sắc luật 003 của
Phó Chủ tịch nước và Nghị định 275 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Quốc
phòng và Tổng cục Chính trị quyết định để báo Quân đội nhân dân, Tạp
chí Văn nghệ quân đội phát hành ra công khai trong tình hình mới.
Ngày 23-l-1957 báo Quân đội nhân dân ra công khai. Báo đã theo sát
với những nhiệm vụ chính trị. Trong nhiệm vụ xây dựng quân đội với các
đợt chỉnh huấn, chỉnh quân, báo mở trang Mặt trận tư tưởng và tổ
chức các cuộc thảo luận về chủ đề Thế nào là chủ nghĩa xã hội, Phẩm
chất anh bộ đội Cụ Hồ. Tiếp theo là tổ chức thảo luận về Tiền đồ
của người quân nhân cách mạng (từ số 361 ngày 16-7-1957).
Trong hướng xây dựng quân đội chính quy,
báo có các mục Trên đường tiến lên chính quy, hiện đại, Theo dõi chấp hành
điều lệnh. Báo Quân đội nhân dân bám sát các mục tiêu chính
trị - xã hội, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Báo có các chuyên mục
ổn định, có những mục phát triển phù hợp với thời cuộc. Ngay với những chuyên
mục ổn định cho một giai đoạn như Thời kỳ quân đội xây dựng chính quy, hiện
đại cũng bao gồm nhiều vấn đề từ rèn luyện về tư tưởng đến thi đua trên
thao trường. Một trong những nhiệm vụ chính trị lớn là đấu tranh thống nhất đất
nước, báo Quân đội nhân dân đã nhiệt liệt hưởng ứng qua các chuyên mục: Miền
Nam là của Việt Nam, Miền Nam ruột thịt, Chuyện miền Nam, Hướng về miền Nam,
Tin miền Nam. Mỗi tiểu mục đảm nhiệm chức năng riêng. Báo Quân đội
cũng cung cấp nhiều tin tức thế giới và bình luận những vấn đề phức tạp.
Các cụm Tin hoạt động quốc tế, Thời sự thế giới, Thế giới đó đây, Thế giới
Mỹ, Tư liệu quốc tế, Quân đội anh em, Bình an quốc tế có nhiều ưu điểm.
Ngoài ra, tờ báo cũng có nhiều chuyên mục
đời thường gồm nhiều câu chuyện kể, chuyện vui. Đời sống bộ đội vừa
nghiêm trang chặt chẽ như quân lệnh lại vừa lạc quan tươi tắn qua các
mục Những mẩu chuyện hay, Nụ cười chiến đấu, Vui dăm phút, Ông cha ta
đánh giặc, Mẹo du kích, Từ biên giới đến hải đảo, Hoạt động câu lạc bộ, Thư về
đơn vị. Có thể nói, báo Quân đội nhân dân là tờ báo có nhiều chuyên
mục nhất, bao gồm cả những chuyên mục ổn định và những chuyên mục chuyển
đổi. Điều này nói lên sự nhạy cảm của tờ báo với thời cuộc và lực lượng
riêng phong phú. Mối liên hệ giữa tờ báo với quân đội hết sức chặt chẽ.
Đã thành truyền thống, tờ báo đến với chiến sĩ theo một kênh tiếp nhận
đặc biệt. Đọc báo Quân đội nhân dân không phải chỉ là chuyện tuỳ
thích của các chiến sĩ là trước hết là để thu hoạch những tri thức bổ
ích và cần thiết để bồi đắp nhận thức. Báo Quân đội nhân dân cũng
đem đến niềm lạc quan cho các chiến sĩ, niềm vui đồng đội, niềm vui gắn
bó với nhân dân, niềm vui của đất nước đang vượt lên phía trước. Thời kỳ
1954 - 1965 có ý nghĩa đặc biệt đối với báo Quân đội nhân dân. Đây là
giai đoạn tờ báo chuyển từ báo nội bộ ra công chúng rộng rãi. Đây cũng
là thể hiện bước phát triển từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
sang cách mạng xã hội chủ nghĩa mà tờ báo phải thực hiện đầy đủ trách
nhiệm nhanh chóng về nhiều mặt. Đội ngũ phóng viên trẻ, sung sức lại có
lực lượng đông đảo ở người đọc ủng hộ, nên tờ báo có nội lực để chuyển
đổi, phát thển nhanh chóng. Gắn với thực tế đời sống mà cụ thể là đời
sống chiến trường, các phóng viên luôn đi sát và có mặt ở những điểm
nóng để kịp thời phản ánh tình hình. Báo Quân đội nhân dân là một
trong số ít tờ báo có phóng viên thường trú, phóng viên lưu động ở các quân
khu, các binh chủng như Nguyễn Đức Toại ở binh chủng pháo binh, Lục Văn Thao,
Lưu Thanh tại Tây Bắc, Hàn Thụy Vũ ở Quân khu III, Khắc Tiếp ở Quân khu tả
ngạn. Trước tình hình chính trị phức tạp, đế quốc Mỹ có những hành động khiêu
khích miền Bắc, báo Quân đội nhân dân lại chuẩn bị củng cố tổ chức để
đối phó với tình hình mới: Từ ngày 29-9-1964, Lê Quang Hà, Phó Chủ nhiệm Tổng
cục Chính trị kiêm Tổng biên tập, Nguyễn Đình Ứớc là Phó Tổng biên tập thứ nhất
và Bùi Đình Kế là Phó Tổng biên tập và một đội ngũ phóng viên sắc sảo giàu kinh
nghiệm. Báo Quân đội nhân dân là một trong số ít tờ báo hàng ngày vững
vàng và tạo được uy tín với bạn đọc.
II. BÁO CHÍ CÁCH MẠNG
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN CẢ NƯỚC CÓ CHIẾN TRANH 1965 - 1975
l. Sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước về
công tác báo chí giai đoạn 1965 – 1975
Ngay trong những ngày đầu tháng 7-1965
khi đế quốc Mỹ bị thất bại trong cuộc Chiến tranh đặc biệt, chúng tăng
cường và mở rộng chiến tranh xâm lược miền Nam, tìm mọi cách mở rộng chiến
tranh phá hoại miền Bắc. Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Thông tư số
163-TT/TW ngày l-7-1965 ''Về kế hoạch tuyên truyền động viên đấu
tranh trong đợt 20 tháng 7'' (ngày quốc tế ủng hộ nhân dân Việt Nam
chống đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai). Thông tư đã chỉ rõ nội dung
và kế hoạch tuyên truyền như sau:
l. Lên án mạnh mẽ đế quốc Mỹ phá hoại
Hiệp định Giơnevơ xâm lược miền Nam Việt Nam trong 11 năm qua và hiện đang
tăng cường và mở rộng chiến tranh tội ác đó ở Việt Nam, đe dọa nghiêm
trọng hòa bình ở Đông Dương, Đông Nam Á và thế giới.
2. Nêu cao quyết tâm của nhân dân ta
chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược, giành thắng lợi hoàn toàn.
3. Khẳng định lập trường trước sau như
một của ta là kiên quyết chống sự xâm lược của đế quốc Mỹ, nghiêm chỉnh
thi hành Hiệp định Giơnevơ...
4. Tranh thủ các nước xã hội chủ nghĩa,
các nước dân tộc chủ nghĩa, các tổ chức quốc tế, nhân dân tiến bộ Mỹ,
Anh, Pháp và dư luận rộng rãi trên thế giới mở chiến dịch đòi đế quốc Mỹ
phải chấm dứt chiến tranh xâm lược việt Nam...
5. Trong nước, động viên một phong trào
biến căm thù đế quốc Mỹ thành sức mạnh chống Mỹ, cứu nước, quyết tâm
đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, sẵn sàng đối phó với mọi tình thế, đẩy mạnh
phong trào thi đua sản xuất, chiến đấu chống Mỹ xâm lược.
Nhiệm vụ cụ thể của các cơ quan thông tin
báo chí, phát thanh cùng với văn học nghệ thuật là lập kế hoạch tuyên
truyền rầm rộ và liên tục suốt trong tháng 7-1965 ở nước ngoài, tổ chức
họp báo, tổ chức nói chuyện trên đài phát thanh, vô tuyến truyền hình,
tuyên truyền cho nhân dân thế giới biết cuộc chiến tranh phi nghĩa mà đế
quốc Mỹ đã gây ra trên đất nước ta, đồng thời cũng tuyên truyền lập
trường quan điểm của Đảng ta về tình hình trong nước để tranh thủ sự ủng
hộ của nhân dân thế giới.
Ban Bí thư cũng ban hành Chỉ thị số
113-CT/TW ngày 15-11-1965 Về nhiệm vụ của báo Nhân dân trước tình
hình và nhiệm mới của cách mạng và Chỉ thị số 116-CT/TW ngày 6-12-1965 Về
nâng cao chất lượng của Tạp chí Học tập để phục vụ sự nghiệp chống Mỹ, cứu
nước và tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
Chỉ thị yêu cầu báo Nhân dân phải
tăng cường nâng cao hơn nữa vai trò, vị trí của tờ báo, thực sự là cơ quan ngôn
luận của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Nội dung tuyên truyền phải đáp ứng một số
yêu cầu cơ bản sau:
l. Xây dựng con người mới, có tư tưởng,
tình cảm cách mạng, có tinh thần yêu nước và trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa
ngày càng được nâng cao. Xây dựng và phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng
trong đấu tranh chống đế quốc Mỹ thống nhất nước nhà và trong sự nghiệp xây
dựng đất nước, đặc biệt là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, trở thành hậu
phương vững chắc cho cách mạng miền Nam.
2. Làm cho toàn Đảng, toàn dân thông suốt,
nắm vững và tuyệt đối tin tưởng ở đường lối, chính sách và quan điểm
cách mạng của Đảng. Thứ nhất, đường lối chống Mỹ, cứu nước đang tiến
hành gắn chặt với đường lối chống đế quốc từ trước cho đến nay và từ nay về
sau. Thứ hai, đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, chú trọng
tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất; cách mạng
khoa học kỹ thuật và cách mạng văn hóa tư tưởng. Làm tốt ba cuộc cách mạng này
cũng là thực hiện nhiệm vụ vừa cải tạo xã hội chủ nghĩa, vừa xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Thứ ba, lập trường quan điểm của Đảng về đường lối cách mạng thế
giới, tăng cường sự đoàn kết và ủng hộ của các nước trong hệ thống xã hội chủ
nghĩa và phong trào cộng sản quốc tế.
3. Trên cơ sở thấu suốt hai yêu cầu nói
trên, đẩy mạnh mọi hành động cách mạng, tập trung vào cuộc chiến đấu
đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, vào các phong trào thi đua sản xuất và xây dựng
nhằm hoàn thành các nhiệm vụ của kế hoạch nhà nước.
Về chuyên môn nghiệp vụ, Ban Bí thư yêu
cầu báo Nhân dân không ngừng nâng cao chất lượng thông tin tuyên
truyền cả về nội dung và hình thức. Cần vận dụng một cách linh hoạt trong các
thể tài nghị luận, thể tài tin tức, thể tài phản ánh để chuyển tải thông tin
một cách phong phú và có hiệu quả. Kế hợp chặt chẽ giữa thông tin lý luận để
tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước với thông tin sự kiện
để nhân dân thấy rõ bức tranh đời sống xã hội đất nước ta trong thời kỳ cả nước
có chiến tranh. Kịp thời phản ánh những nhân tố điển hình về người mới, việc
mới, phổ biến những kinh nghiệm làm ăn tốt, đánh Mỹ giỏi. Đồng thời cũng tìm
tòi, phát hiện những yếu tố điển hình đang nhú mầm để khích lệ, bồi dưỡng và
tạo điều kiện phát triển tốt. Chỉ thị cũng khẳng định: ''Thể tài phản ánh có
một ý nghĩa rất quan trọng trong việc làm cho báo Nhân dân thật
sự là tờ báo của quần chúng, thể tài ấy chủ yếu dành cho quần chúng nói rõ ý
nghĩa, tình cảm và việc làm của mình, ghi lại tiếng nói của quần chúng, của
đông đảo những người có lao động sáng tạo, có công tác thực tiễn''.
Đối với Tạp chí Học tập, với tư
cách là tạp chí lý luận của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chỉ thị số 116-CT/TW
của Ban Bí thư cũng đã biểu dương sự nỗ lực vượt bậc trong việc thực hiện nhiệm
vụ như tuyên truyền cho các chủ trương, chính sách lớn của Đảng, về đường lối
cách mạng hai miền Nam - Bắc, về đường lối đối ngoại, về đường lối xây dựng
Đảng... Tuy nhiên, so với yêu cầu trong tình hình mới, Tạp chí Học tập còn
có nhiều hạn chế.
Để Tạp chí Học tập đóng vai trò
quan trọng trong công tác tư tưởng của Đảng, phát huy những việc đã làm tốt,
khắc phục những nhược điểm, Ban Bí thư chỉ thị một số vấn đề cụ thể sau đây:
1. Vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin đã soi sáng đường lối chống Mỹ, cứu nước, làm cho mọi người nhận rõ tình
hình và yêu cầu mới của cách mạng... Biên tập những bài có chất lượng cao về
chiến tranh nhân dân và quốc phòng toàn dân. Do đó làm cho mọi người tin tưởng
tuyệt đối vào đường lối chống Mỹ, cứu nước của Đảng, vào nhiệm vụ vừa kháng
chiến, vừa kiến quốc...
2. Vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin để soi sáng hơn nữa đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa và chủ trương
tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trong điều kiện có chiến tranh...
Chú ý vận dụng lý luận để soi sáng các vấn đề quan hệ giữa cải tạo xã hội chủ
nghĩa và xây dựng chủ nghĩa - xã hội...
3. Tuyên truyền cho quan điểm của Đảng về
các vấn đề quốc tế quan trọng, tích cực góp phần vào việc bảo vệ sự trong sáng
của chủ nghĩa Mác - Lênin, khôi phục và tăng cường đoàn kết trong phe xã hội
chủ nghĩa và phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, ủng hộ các phong trào
đấu tranh cho độc lập và hòa bình ở các nước trên thế giới, chống chủ nghĩa đế
quốc hiếu chiến...
4. Khôi phục việc xây dựng Đảng về tư
tưởng và tổ chức, tuyên truyền cho đường lối xây dựng Đảng, biểu dương những
điển hình tốt, đồng thời phê phán những biểu hiện tiêu cực trong sinh hoạt
Đảng…
5. Cùng các cơ quan có trách nhiệm góp
phần tổng kết những kinh nghiệm lịch sử của Đảng ta, cụ thể là công tác xây
dựng Đảng, công tác mặt trận thống nhất, về đấu tranh vũ trang và xây dựng các
lực lượng vũ trang nhân dân, về xây dựng chính quyền nhà nước, về Cách mạng
Tháng Tám, về cải cách ruộng đất…, tổng kết tốt những kinh nghiệm lịch sử của
Đảng sẽ góp phần tích cực vào việc chuẩn bị Đại hội lần thứ IV của Đảng.
Chỉ thị của Ban Bí thư nhắc nhở cần làm
rõ hơn nữa nhiệm vụ của Tạp chí Học tập và các tạp chí Tuyên huấn và
Xây dựng Đảng để có kế hoạch tuyên truyền phù hợp. Làm sao mỗi tạp chí
thực hiện đúng chức năng của mình và có sự kết hợp tốt trong các đợt tuyên truyền
từng giai đoạn, thời điểm nhất định.
Một điều cần chú ý nữa là trong những năm
1966, 1967 báo Nhân dân được Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên đọc.
Những nhân tố điển hình, đặc biệt cá nhân điển hình trong lao động sản xuất,
trong chiến đấu đánh Mỹ được tòa soạn kịp thờ phản ánh, đã được Người đọc kỹ,
dùng bút mực màu đỏ khoanh tròn để tặng thưởng ''Huy hiệu Bác Hồ''.
Đối với Thông tấn xã Việt Nam, cơ quan
thông tin chính thức của cả nước, tất cả mọi văn kiện thông tin và hình ảnh
chính thức của Đảng và Nhà nước đều do Thông tấn xã Việt Nam phát. Thông tấn xã
Việt Nam được Hội đồng Chính phủ luôn luôn quan tâm chỉ đạo và ưu tiên xây dựng
đi lên chính quy, tiến tới hiện đại. Liên tiếp trong những năm 1968, 1971,
1972, Thường vụ Hội đồng Chính phủ luôn chỉ đạo sát sao Thông tấn xã Việt Nam
khắc phục mọi khó khăn, trong mọi điều kiện phải thu phát tin, ảnh trong nước
tới các chiến trường, tới mọi miền đất nước và các nước anh em. Đồng thời, cũng
ưu tiên đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật đảm bảo các hoạt động thông tin kịp
thời, nhất là cho Thông tấn xã giải phóng.
Các cơ quan báo chí quan trọng khác như Đài
Tiếng nói Việt Nam, báo Quân đội nhân dân cũng luôn nhận được sự
quan tâm của Đảng, Nhà nước và Bộ Quốc phòng.
Điều đặc biệt cần chú ý trong sự lãnh đạo
của Đảng và Nhà nước đối với báo chí là sự nhất quán trong tư tưởng, thấu suốt
đường lối cách mạng. Mỗi cơ quan báo chí thực sự là người tuyên truyền, cổ
động, tạo sức mạnh đoàn kết dân tộc, thống nhất ý chí tư tưởng từ trung ương
đến địa phương, từ lãnh đạo đến mỗi người dân, hướng tới mục tiêu đấu tranh
chống quân xâm lược Mỹ và từng bước xây dựng đất nước.
2. Tình hình xuất bản báo chí
Bước vào năm 1960, các cơ quan báo chí
trung ương như Đài Tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam, báo Nhân dân
đã có những bước phát triển mới. Các phân xã (thuộc Thông tấn xã Việt Nam) ở
các địa phương, nhất là ở miền Nam, Đài Phát thanh giải phóng đã được
thành lập, phục vụ thông tin, tuyên truyền, phản ánh cuộc chiến đấu chống Mỹ,
cứu nước của quân và dân miền Nam.
Theo Niên giám báo chí xuất bản năm 2000,
từ năm 1960 đến năm 1975 có 80 tờ báo, tạp chí, báo tiếng nước ngoài được xuất
bản, trong đó có 40 tờ báo, 4 tờ tạp chí và 6 tờ báo tiếng nước ngoài.
Trong 40 tờ báo, có 33 tờ báo của các địa
phương xuất bản, 7 tờ của các cơ quan đoàn thể. Các tỉnh miền Nam xuất bản báo
chí là Tỉnh uỷ An Giang, Tiền Giang, Cà Mau, Quảng Bình, Trà Vinh, Vinh Long.
Còn lại phần lớn của các tỉnh miền Bắc và Bắc Trung Bộ như Bắc Giang, Bắc Ninh,
Lào Cai, Lai Châu, Lạng Sơn, Hòa Bình, Ninh Bình, Phú Thọ, Nghệ An, Thanh
Hóa...
Báo của các cơ quan đoàn thể được xuất
bản trong giai đoạn này chỉ có Giao thông vận tải của Bộ Giao thông- Vận
tải (1962), báo Sức khỏe và đời sống của Bộ Y tế.
Về tạp chí, đây là giai đoạn phát triển
của tạp chí, bao gồm tạp chí lý luận chính trị, các tạp chí của các bộ
và cơ quan ngang bộ, của các cơ quan đoàn thể, của Trung tâm Khoa học tự nhiên
và công nghệ quốc gia và Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn.
Các tạp chí lý luận chính trị có Tạp chí Xây
dựng Đảng, xuất bản năm 1966. Các tạp chí của các bộ, ngành tương đương
như:
Tạp chí Bưu chính - viễn thông
xuất bản năm 1962;
Tạp chí Dược học của Bộ Y tế xuất bản năm 1960;
Tạp chí Đại học và giáo dục chuyên nghiệp của Bộ Giáo
dục và Đào tạo xuất bản năm 1968;
Tạp chí Kinh tế và dự báo của Bộ
Kế hoạch và Đầu tư xuất bản năm 1967;
Tạp chí kiểm sát của Viện Kiểm sát
nhân dân tối cao xuất bản năm 1961;
Tạp chí Nghiên cứu giáo dục của Bộ
Giáo dục và Đào tạo xuất bản năm 1969;
Tạp chí Tài chính của Bộ Tài chính
xuất bản năm 1963;
Tạp chí Văn hóa nghệ thuật của Bộ
Văn hóa - Thông tin xuất bản năm 1973;
Tạp chí Xây dựng của Bộ Xây dựng
xuất bản năm 1961.
Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn có
các tạp chí: Tạp chí Dân tộc học (1974), Tạp chí Ngôn ngữ (1969),
Tạp chí Nghiên cứu kinh tế (1961), Tạp chí Nhà nước và pháp luật
(1972), Tạp chí Triết học (1966), Tạp chí Văn học (1960), Tạp chí
Khảo cổ học (1969). Trung tâm Khoa học tự nhiên và công nghệ quốc gia có
các tạp chí được xuất bản: Tạp chí Khoa học và công nghệ (1963), Tạp chí
Hóa học (1963).
Ngoài ra, còn có một số tờ tạp chí của
các Hội được xuất bản như Tổng hội Y dược học Việt Nam với Tạp chí Nội khoa,
Ngoại khoa, Hội Y học dự phòng Việt Nam xuất bản Tạp chí Y học dự
phòng và các Tạp chí Bán đảo Cà Mau, Cửa biển của Hội Văn học nghệ
thuật tỉnh Cà Mau và Hải Phòng.
Báo tiếng nước ngoài có 6 tờ được xuất
bản, trong đó có ba tờ dược xuất bản năm 1960: Le courrier du Vietnam (tiếng
Pháp), Vietnamese Trade Unions (tiếng Anh), Revue medicale (tiếng
Pháp), một tờ xuất bản năm 1963: Vietnamese Studies; một tờ xuất bản năm
1971: Commulation in Physics (tiếng Anh và Việt Nam), Journal of
Mathematics (tiếng Anh) xuất bản năm 1973.
* Một vài nhận xét:
-
Về số lượng: Giai đoạn này các tờ báo và tạp chí xuất bản không nhiều. Nếu tính
từ năm 1960 đến năm 1975 chỉ có 80 tờ. Tuy nhiên, trong năm năm tiến hành xây
dựng xã hội chủ nghĩa lần thứ nhất (1960 - 1965) đã có 52 tờ được xuất bản. Có
11 tờ xuất bản sau ngày 30-4-1975. Như vậy, chỉ có 17 tờ ra đời trong 10
năm (1965 - 1975), giai đoạn cả nước có chiến tranh.
-
Về loại hình: Các tờ báo xuất bản giai đoạn này chủ yếu là báo của các địa
phương, chiếm trên 30%. Loại hình tạp chí chiếm gần 50% (kể cả tạp chí bằng
tiếng nước ngoài). Phần lớn là tạp chí của các bộ, ban, ngành, cơ quan đoàn thể
và của Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia. Điều này chứng tỏ, trong
khi chiến tranh diễn ra ác liệt trong cả nước nhưng các tạp chí chuyên ngành,
nghiên cứu sâu các lĩnh vực khoa học và xã hội vẫn được quan tâm, chú ý.
Đặc biệt, sự hợp nhất giữa tờ Thủ đô
Hà Nội và Thời mới (25-l-1968) thành tờ Hà Nội mới, cơ quan
ngôn luận của Đảng bộ thành phố Hà Nội là một bước phát triển mới, thể
hiện sự thống nhất trong việc thông tin, tuyên truyền trong hệ thống.
Sự ra đời của Truyền hình Việt Nam (phát
thử ngày 7-9-1970 và chương trình truyền hình đầu tiên phục vụ khán giả Thủ đô
Hà Nội ngày 27-l-1971) là một sự kiện đặc biệt. Hệ thống báo chí Việt Nam có
thêm loại hình mới. Mặc dù truyền hình ở nước ta ra đời muộn, nhưng những bước
đi đầu tiên trong những năm chiến tranh ác liệt là cơ sở, nền tảng cho sự phát
triển hệ thống truyền hình sau này trên cả nước.
3. Sự ra đời của báo Hà Nội mới
và Đài Truyền hình Việt Nam
a) Báo Hà Nội mới
Các cơ quan báo chí của Đảng và Nhà nước như
báo Nhân dân, Thông tấn xã Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam và một số
tờ báo của các ban ngành đoàn thể như Lao động, Quân đội nhân
dân, Tiền phong, Phụ nữ... đã có các cơ quan đại diện của mình
ở miền Nam. Trong thời kỳ này, các báo tiếp tục củng cố xây dựng và tăng cường
lực lượng. Phần lớn các phóng viên, biên tập viên có trình độ
nghiệp vụ, tuổi đời còn trẻ được tung vào chiến trường, đến những
nơi ác liệt nhất như chiến trường miền Đông Nam Bộ, Tây Ninh,
chiến trường đường 9 - Nam Lào để lấy tin, viết bài, kịp thời
phản ánh tình hình chiến sự.
Ở miền Bắc, nhiều tờ báo địa phương được
thành lập. Sự ra đời của các tờ báo Bắc Giang, Bắc Ninh, Lào Cai,
Lạng Sơn, Phú Thọ, Nghệ An, Thanh Hóa... đã làm cho mạng lưới báo
chí ở các tỉnh, thành phố dần dần hoàn thiện. Trong điều kiện cả
nước có chiến tranh, giao thông khó khăn, báo Đảng chưa kịp đến
tay bạn đọc thì các báo địa phương làm nhiệm vụ tuyên truyền tại
chỗ và phản ánh kịp thời, cụ thể những hoạt động của địa phương
mình một cách nhanh chóng.
Cùng mới sự ra đời của báo đảng bộ các
tỉnh, báo Hà Nội mới - cơ quan ngôn luận của Đảng bộ Hà Nội, Thủ
đô của cả nước ra đời trên cơ sở sáp nhập hai tờ Thủ đô Hà
Nội và tờ Thời mới.
Trong hồi ký của mình, nhà báo Hiền Nhân
đánh giá: ''Sự sáp nhập này là một chủ trương vừa có mục đích
chính trị vừa có mục đích tự thân của hoạt động báo chí. Trong
tình hình chính trị xã hội bấy giờ sự phân tán báo chí, đặc biệt
là thiếu vai trò lãnh đạo định hướng trong bản thân báo Thời
mới là không có lợi trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt''5.
Số 1 báo Hà Nội mới ra ngày
25-1-1968, trong lời phi lộ với bạn đọc, ban biên tập hứa:
''Hà Nội mới quyết sẽ là vũ khí sắc bén
của Đảng bộ Đảng Lao động Việt Nam và chính quyền thành phố Hà Nội, một người
bạn chân thành của nhân dân Thủ đô trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước cũng như
trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Thủ đô xã hội chủ nghĩa anh hùng''.
Tòa soạn và trị sự báo Hà Nội mới đặt
tại trụ sở báo Thủ đô Hà Nội, số 44, Lê Thái Tổ. Ban biên tập gồm: Tổng
biên tập, đồng chí Dương Ngà; Phó tổng biên tập, đồng chí Lê Hưng và Lê Tam
Kính. Đội ngũ phóng viên, biên tập viên là những người trước đây làm cho báo Thủ
đô Hà Nội và báo Thời mới. Theo yêu cầu nhiệm vụ, một số chuyển sang
công tác khác.
Báo Hà Nội mới phát huy thế mạnh
của hai tờ báo trước đây để thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình, là cơ quan
ngôn luận, tiếng nói của đảng bộ của một thành phố trung tâm chính trị, nơi các
cơ quan đầu não của trung ương và chính phủ làm việc. Đồng thời, nhân dân Thủ
đô Hà Nội là lớp độc giả có trình độ văn hóa cao, đòi hỏi việc thông tin phải
nhanh nhạy, mới mẻ và phong phú. Phải làm sao tờ báo thực sự là người
hướng dẫn, định hướng dư luận trong tình hình cách mạng mới, vừa là bức
tranh điển hình về đời sống nhân dân Thủ đô trên nhiều lĩnh vực chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội… Thông tin phong phú nhưng phải hấp dẫn, thu hút bạn đọc.
Để giúp báo Hà Nội mới làm tốt nhiệm vụ, Thường vụ Thành uỷ đã ra Nghị
quyết về “Nâng cao chất lượng và tăng cường chỉ đạo báo Hà Nội mới”. Bản
nghị quyết nêu rõ:
''Phải tuyên truyền, phổ biến chủ trương,
quyết định của Đảng bộ và chính quyền thành phố, cổ vũ khí thế cách mạng
của phong trào quần chúng, động viên mạnh mẽ các tầng lớp nhân dân
chấp hành mọi chính sách chủ trương của Đảng, xây dựng con người mới,
đẩy mạnh nhiệm vụ xây dựng bảo vệ Thủ đô bảo vệ miền Bắc, giải phóng
miền Nam, tiến tới thống nhất nước nhà”.
Trước mắt, tuyên truyền những nội dung
chủ yếu sau:
- Tuyên truyền cổ động khí thế quyết
chiến, quyết thắng, động viên mạnh mẽ quân dân thành phố tích cực chuẩn bị
chiến đấu tốt, phòng tránh tốt, sẵn sàng chiến đấu tiêu diệt địch, đồng thời
làm hết sức mình, thực hiện khẩu hiệu ''Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm
lược''.
- Tuyên truyền cổ động nhiệm vụ xây
dựng chủ nghĩa xã hội đẩy mạnh việc xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật, tiếp
tục phát triển mạnh sản xuất, trọng tâm là sản xuất nông nghiệp và thực phẩm,
tăng cường công tác giao thông vận tải và các ngành kinh tế khác.
- Tuyên truyền cổ động cách mạng kỹ
thuật, cách mạng quan hệ sản xuất…
- Tuyên truyền cổ động việc tổ chức
đời sống nhân dân, thực hiện bồi dưỡng sức dân để đảm bảo sức khỏe, đảng bảo
sức sản xuất và chiến đấu lâu dài6...
Như vậy, báo Hà Nội mới trở thành
tiếng nói, diễn đàn của Đảng bộ, nhân dân thành phố Hà Nội, là tờ báo địa
phương đặc biệt, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của cả nước. Trong giai
đoạn chống chiến tranh phá hoại của Mỹ lần thứ hai, nhất là 12 ngày đêm ''Điện
Biên Phủ trên không'', báo Hà Nội mới cùng Đài Phát thanh Hà Nội
thực sự là bạn đồng hành của mọi người cùng bám trụ, chiến đấu và chiến thắng.
b) Quá trình ra đời Đài Truyền hình
Việt Nam
Trước nguy cơ thất bại hoàn toàn của
chiến lược ''Chiến tranh đặc biệt'', đế quốc Mỹ chuẩn bị tiến hành chiến lược
“Chiến tranh cục bộ'' từ giữa năm 1965. Bên cạnh việc Mỹ đưa quân ồ ạt vào miền
Nam và tăng cường xây dựng lực lượng, ngụy quyền Sài Gòn, chúng tăng cường bộ
máy tuyên truyền nhằm mục đích huy động tổng lực để giành lại chiến trường đã
mất trong ''Chiến tranh đặc biệt'' trước đó. Bước vào năm 1966, chúng xây dựng hai
đài truyền hình ở Sài Gòn, một đài do Mỹ trực tiếp quản lý, một đài cho chính
quyền tay sai Sài Gòn làm công cụ tuyên truyền. Ngoài ra, để mở rộng phạm vi
tuyên truyền bằng loại hình báo chí điện tử lợi hại này, chúng còn xây dựng các
đài chuyển tiếp chương trình của đài Sài Gòn ở Cần Thơ, Nha Trang, Quy Nhơn,
Huế. Như vậy, ở miền Nam, năm 1966 có thêm một loại hình báo chí hoạt động, đó
là truyền hình.
Ở miền Bắc, báo chí cách mạng đã có những
bước phát triển đáng kể, tuy nhiên do điều kiện kinh tế khó khăn, cơ sở vật
chất nghèo nàn, lại phải chịu nhiều cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ tiến hành
cho nên đến những năm cuối của thập kỷ 60 của thế kỷ XX, miền Bắc nước vẫn chưa
có Đài truyền hình. Sự cần thiết phải có một Đài truyền hình là một mong muốn của
Đảng, Chính phủ và của những người làm công tác thông tin tuyên truyền, của
những người quản lý báo chí hồi đó. Họ đã âm thầm chuẩn bị để khi có điều kiện,
thời cơ có thể bắt tay vào việc xây dựng một đài truyền hình. Người đặt nền
móng và chuẩn bị cho sự ra đời báo truyền hình là đồng chí Trần Lâm, Giám đốc
Đài Tiếng nói Việt Nam.
Trong hồi ký của mình, ông Trần Lâm bộc
bạch suy nghĩ về những bước chuẩn bị đầu tiên như sau:
''Lúc ấy, tôi đã rất muốn làm thử truyền
hình ở miền Bắc nhưng hoàn cảnh khách quan không cho phép vì ngày ngày miền Bắc
và cả Thủ đô Hà Nội luôn dưới tầm bom đạn Mỹ. Dù vậy chúng tôi vẫn xúc tiến
việc tìm hiểu kinh nghiệm các nước bạn để chuẩn bị sẵn sàng làm truyền hình
trong tương lai. Bản thân tôi tìm hiểu và biết rằng trong khối cộng đồng xã hội
chủ nghĩa chỉ có Cuba là phát hình theo hệ kỹ thuật của Mỹ, phù hợp với hệ kỹ
thuật ở Sài Gòn. Vì vậy, ngay từ năm 1967 nhân chuyến đi thăm Cuba, tôi đã ký
với Viện Phát thanh truyền hình Cuba một hiệp định hợp tác và nước bạn sẵn sàng
giúp Đài Tiếng nói Việt Nam đào tạo cán bộ làm truyền hình cả về kỹ thuật phát
sóng, và về công tác biên tập, đạo diễn làm chương trình truyền hình''7.
Sau khi ký được hiệp định với Cuba, Bộ
biên tập Đài Tiếng nói Việt Nam chọn 18 cán bộ, vừa là kỹ thuật, vừa là biên
tập viên của đài sang Cuba học 18 tháng. Cán bộ của chúng ta đã được chuyên gia
bạn tận tình giúp đỡ cả lý thuyết và thực hành trong tất cả các khâu làm truyền
hình, từ kỹ thuật ghi hình, dựng hình, thu trong, phát hình đến khâu biên tập
nội dung theo từng chương trình thời sự, ca nhạc, sân khấu truyền hình, các
chương trình mang tính chuyên đề, đạo diễn truyền hình, âm thanh ánh sáng...
Trong khi đó, những người ở nhà cũng cố gắng sưu tầm tài liệu, cố gắng nghiên
cứu để làm quen và từng bước tiếp cận với những kiến thức cơ bản về truyền
hình.
Sự chuẩn bị của Đài Tiếng nói Việt Nam đã
không thừa. Cục diện chiến trường miền Nam và cuộc đấu trí trên bàn ngoại giao
ở Pari về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam đã dự báo những bước đi mới. Mỹ thất
bại liên tiếp trong cuộc ''Chiến tranh cục bộ'' đến ''Việt Nam hóa chiến
tranh'' ở miền Nam, thất bại nặng nề trong cuộc leo thang phá hoại miền Bắc lần
thứ hai, đặc biệt trong cuộc đọ sức ''Điện Biên Phủ trên không'' 12 ngày đêm
đánh phá Thủ đô Hà Nội và một số thành phố khác, buộc Mỹ phải đến Pari nối lại
đàm phán và Hiệp định Pari được ký kết, buộc Mỹ phải rút quân về nước.
Trước tình hình đó, việc chuẩn bị cho sự
ra đời của đài truyền hình trở nên cấp bách hơn. Trong điều kiện khó khăn,
thiếu thốn, ban biên tập Đài Tiếng nói Việt Nam tiếp tục xây dựng kế hoạch xây
dựng và phát thử với phương châm: Tự lực, khắc phục mọi khó khăn, quyết tâm làm
bằng được.
Ngày 2-l-1970, Bộ biên tập Đài Tiếng nói
Việt Nam triệu tập đoàn cán bộ mới được đào tạo ở Cu Ba về, cùng với những cán
bộ khác có tâm huyết để bàn cách làm thử truyền hình và giao nhiệm vụ cho các
bộ phận chuẩn bị. Bằng kiến thức đã được học tập cộng với sự vận dụng sáng tạo,
các cán bộ được giao nhiệm vụ đã làm được những việc phi thường, đó là chuyển
một số máy phát thanh sóng ngắn sang máy phát hình; lắp ráp hoàn chỉnh một cách
cơ bản trung tâm kỹ thuật bằng các vật tư kỹ thuật của đài phát thanh, tự chế
tạo camera điện tử...
Nhà báo Trần Lâm nhớ lại: ''Sau nhiều
ngày phát thử thấy các khâu đều đảm bảo tốt, ngày 7-9-1970 chúng tôi tổ
chức buổi ra mắt. Khách mời là một số cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước để
chứng kiến sự ra đời của Đài Truyền hình Việt Nam. Trong số khách mời có đồng
chí Hoàng Tùng, Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương; đồng chí Phan Anh, Bộ trưởng
Bộ Ngoại giao; đại diện Văn phòng Chính phủ; Uỷ ban Kế hoạch nhà nước; Bộ Tài
chính... tất cả là những người có thể giúp đỡ cho Đài Truyền hình ra đời.
Buổi phát rất đáng ghi nhớ. Tất cả khách
mời, diễn viên, phát thanh viên, cán bộ kỹ thuật, người ghi hình đến ngồi chung
trong một phòng rộng. Người xem có thể vừa nhìn phát thanh viên, diễn viên biểu
diễn trực tiếp, vừa xem cán bộ kỹ thuật ghi hình và xem hình ảnh trên mônitơ
kiểm tra và trên máy thu hình bắt từ máy phát sóng. Chương trình gồm có 15 phút
tin tức do hai phát thanh viên quen thuộc của Đài Tiếng nói Việt Nam đọc thẳng,
tiếp sau đó là nửa giờ ca nhạc do các diễn viên quen thuộc Thanh Huyền, Bích
Liên, Thuý Hà, Kiều Hưng biểu diễn bằng phương pháp lay back (tức là chỉ thu
hình còn tiếng thì thu trước để bảo đảm tiêu chuẩn).
Thành công quả là bất ngờ. Hình ảnh trung
thực, âm thanh tốt. Sau khi nghe giới thiệu về tính năng từng bộ phận và quá
trình lắp ráp, ai cũng xúc động khi biết lý lịch của hai camera “ngựa trời''.
Hai đồng chí Hoàng Tùng và Phan Anh đã hứa sẽ giúp cho Đài Tiếng nói Việt Nam,
xin Chính phủ cho phép được chính thức làm truyền hình. Gần một tuần sau, chúng
tôi nhận được một lúc hai quyết định của Chính phủ do Phó Thủ tướng Lê Thanh
Nghị ký: một là giao cho Đài Tiếng nói Việt Nam chuẩn bị làm truyền hình; hai
là, cấp cho Đài 400.000 rúp để mua những thiết bị ban đầu cần thiết''.
Được sự quan tâm của Chính phủ, những
tháng cuối năm 1970, Bộ Biên tập Đài Tiếng nói Việt Nam gấp rút xây dựng Đài
Truyền hình như mua máy phát hình, xe ghi hình, lắp ráp ăng ten, xây dựng
Studio ghi hình... để chuẩn bị phát chương trình đầu tiên cho khán giả xem
truyền hình Thủ đô Hà Nội.
Tối ngày 27-1-1971, Đài phát chương trình
đầu tiên với câu mở đầu ''Chương trình truyền hình thử nghiệm'' phục vụ khán
giả Thủ đô Hà Nội. Thời gian đầu Đài Truyền hình Việt Nam phát mỗi tuần ba tối,
mỗi tối 2 giờ đồng hồ.
Năm 1976, xây dựng Trung tâm truyền hình
ở Giảng Võ. Cuối năm 1977, Chính phủ ra quyết định thành lập Uỷ ban Phát thanh
và truyền hình gồm cả Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình trung ương và
quản lý sự nghiệp toàn ngành phát thanh và truyền hình trong cả nước. Đồng chí
Trần Lâm được bổ nhiệm làm Chủ nhiệm Uỷ ban.
Như vậy là, ngày 7-9-1970 được coi là
ngày khai sinh ra Đài Truyền hình Việt Nam. Từ đây, nền báo chí Việt Nam có
thêm một loại hình báo chí mới: Báo truyền hình. Nhân dân ta tiếp nhận thông
tin qua một kênh báo chí bằng hình ảnh với những ưu thế đặc biệt mà các loại
hình khác không có được.
4. Hoạt động báo chí của một số tờ báo
tiêu biểu
a) Báo Nhân dân
Trong 10 năm (1965 - 1975), báo Nhân
dân luôn ở vị trí hàng đầu tuyên truyền đường lối cách mạng của Đảng, phản
ánh kịp thời tình hình chiến tranh và tinh thần chiến đấu chống đế quốc Mỹ của
quân và dân cả nước. Đồng thời, báo cũng chú trọng phản ánh phong trào thi đua
lao động sản xuất, xây dựng đất nước của nhân dân miền Bắc, những hoạt động
ngoại giao, những thành tựu về văn hóa, giáo dục và khoa học...
Báo Nhân dân tiếp tục ra
hàng ngày, 4 trang, khổ 75x42cm. Trên trang nhất, ở vị trí quan trọng báo đưa
tin chiến thắng trên các chiến trường miền Nam, tin chiến đấu chống chiến tranh
phá hoại ở miền Bắc và tin lao động sản xuất của nhân dân miền Bắc. Đầu đề tin
được in cỡ chữ to, đậm. Phần tin thời sự này thường chiếm 213 diện tích trang
báo. Phần còn lại là xã luận và tin ngoại giao.
Trang 2 thường dành toàn bộ cho các bài
viết về lao động sản xuất, các chuyên mục xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc như ''Xây dựng chi bộ bốn tốt'', “Sử dụng hợp lý sức lao động và chống lãng
phí sức lao động'', ''Tăng năng suất trồng trọt và chăn nuôi, tăng năng suất
lao động trong nông nghiệp''... bao gồm các bài phản ánh sản xuất nông nghiệp,
công nghiệp, phổ biến khoa học kỹ thuật, cung cách quản lý, xây dựng chế độ
quản lý xã hội chủ nghĩa, những thành tựu về văn hóa, giáo dục, y tế...
Trang 3 dành để phản ánh hiện thực cuộc
sống chiến đấu của quân và dân cả nước với nhiệm vụ đánh Mỹ và ngụy quân Sài
Gòn; phong trào cách mạng quốc tế ủng hộ cuộc đấu tranh chống Mỹ của nhân dân
ta. ''Nhân dân anh hùng, thời đại anh hùng''; ''Bài từ miền Nam gửi ra'' là
những chuyên mục chuyển tải những điển hình trong chiến đấu.
Trang 4 là trang tin quốc tế.
- Phản ánh phong trào thi đua lao động
sản xuất, xây dựng chủ nghĩa xã hội miền Bắc:
Lao động sản xuất để từng bước xây dựng
xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là một trong hai nhiệm vụ chiến lược của Đảng và
Nhà nước ta. Trong hoàn cảnh cả nước có chiến tranh, nhân dân miền Bắc vừa phải
chiến đấu đánh trả các cuộc ném bom phá hoại của không quân Mỹ, vừa phải tăng
cường lao động sản xuất làm hậu cứ vững chắc, chi viện cho miền Nam đánh Mỹ,
giữ nước. Bên cạnh các bài viết phản ánh những thành tích tăng năng suất lao
động như Cánh đồng năm tấn; Ngọn cờ Bắc Lý, Mỗi người thi đua làm việc bằng
hai..., báo Nhân dân còn mở nhiều mục để trao đổi, thảo luận về các
vấn đề đặt ra trong quá trình đi lên xây dựng nền kinh tế - xã hội xã hội chủ
nghĩa.
Năm 1966, báo Nhân dân mở mục trao
đổi ý kiến về vấn đề: “Sử dụng hợp lý sức lao động và chống lãng phí sức lao
động''. Trong bài mở đầu số ra ngày 9-4-1966, đồng chí Hoàng Tùng, Tổng
biên tập báo Nhân dân nêu rõ:
''Trong thời bình vấn đề tiết kiệm sức
lao động đã rất quan trọng, trong hoàn cảnh vừa sản xuất vừa chiến đấu hiện
nay, vấn đề này lại trở nên bức thiết. Trên các công trường, cán bộ, công nhân,
thanh niên xung phong đã có nhiều cố gắng nhằm hoàn thành đúng thời hạn các
công trình. Nhưng tình hình lãng phí sức lao động còn khá phổ biến và nghiêm
trọng. Chúng ta phải làm sao gây được một dư luận xã hội thật rộng rãi, đấu
tranh chống những hiện tượng lãng phí sức lao động và làm cho đông đảo cán bộ,
công nhân, thanh niên xung phong và những người lao động khác trên các công
trường có ý thức quý trọng và tiết kiệm sức lao động, tích cực góp phần tổ
chức, phân phối sử dụng lao động tốt hơn, đạt năng suất cao và tiết kiệm sức
lao động để đáp ứng yêu cầu ngày càng lớn của sự nghiệp cách mạng cứu nước''.
Bài viết chỉ ra những nguyên nhân lãng
phí sức lao động như: chưa thấu suốt nhiệm vụ, lấy lý do phục vụ chiến đấu,
công việc để gấp rút lấy người, tuyển người ồ ạt mà không nghĩ đến cải tiến kỹ
thuật, lao động sáng tạo. Trình độ quản lý, trình độ khoa học kỹ thuật của
người cán bộ quản lý còn thấp. Có người trước đây là cán bộ chính trị nay
chuyển sang quản lý công trường mấy nghìn người, làm việc theo lối gióng trống
mở cờ, động viên cật lực mà không tổ chức lao động hợp lý, cải tiến công cụ lao
động. Sự chỉ đạo của nhiều cơ quan cấp trên còn quan liêu, không sát thực tế,
chỉ nhấn mạnh yếu tố tinh thần, tư tưởng, không tính toán cân nhắc kỹ các mặt
tổ chức và kỹ thuật...
Báo đã có loạt bài đăng liên tục như: “Sử
dụng hợp lý thời gian lao động trên các công trường xây dựng cơ bản'' của
Tân Sắc (ngày 10-4-1966), ''Coi trọng việc tổ chức lao động trên
các công trường thủy lợi'' của Phi Bằng (ngày 10-4-1966), “Năng suất lao
động bình quân trong ngành xây dựng cơ bản 1965 còn thấp'' của Thần Thu
(ngày 12-4-1966), “Kinh nghiệm quản lý công tác xây dựng cơ bản trong thời
chiến của tỉnh Quảng Bình'' của Võ Văn Kinh (ngày 13-4-1966), ''Tăng
cường công tác quản lý lao động trên các công trường'' của Nguyễn Đức Thụy
(ngày 16-4-1966).
Mục ''Tăng năng suất trồng trọt và
chăn nuôi, tăng năng suất lao động trong nông nghiệp'' kéo dài trong sáu
tháng cuối năm 1966 với 42 bài trao đổi ý kiến và kinh nghiệm. Báo đã tổ chức
sơ kết, sau đó mục này còn kéo dài cả năm 1967. Các bài viết chú trọng việc
tăng sản lượng cây trồng; tăng năng suất trên đơn vị diện tích canh tác, kết
hợp giữa chăn nuôi và trồng trọt, cải tạo sử dụng hợp lý ruộng đất, đưa tiến bộ
khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, coi trọng công tác thủy lợi...
Những điển hình tăng năng suất lao động
cao như hợp tác xã Nam Tiến (Phú Thọ); xây dựng đồng ruộng ở Hưng Yên;
phát triển chăn nuôi trồng trọt ở Thổ Tang (Vĩnh Phúc); Gia Viễn (Ninh Bình);
Tăng năng suất ngô màu ở Anh Sơn...
Bước sang năm 1967, mục này được duy trì
với một cuộc trao đổi kinh nghiệm bổ ích giữa các huyện năm tấn “Huyện uỷ
cải tiến sự chỉ đạo trong nông nghiệp như thế nào để đạt năm tấn thóc một
hécta”. Bao gồm các bài viết về cuộc trao đổi giữa báo Nhân dân với
lãnh đạo một số huyện thuộc các tỉnh Thái Bình, Phú Thọ, Hưng Yên, Hà Tây, Nghệ
An... để tìm câu trả lời làm thế nào để đạt năm tấn thóc một hécta.
Sau cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ lần
thứ hai, nhân dân miền Bắc tập trung khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục
và phát triển kinh tế - xã hội, ra sức chi viện cho miền Nam, nên nội dung
thông tin trên báo Nhân dân cũng có những thay đổi nhất định.
Báo ưu tiên thông tin về phong trào lao
động sản xuất trong cả nước, nhất là nhân dân các địa phương miền Bắc. Ngoài
ra, báo có nhiều bài viết phản ánh lao động sản xuất trong nông nghiệp, công
nghiệp, phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học. Tiêu biểu là các bài: ''Thêm
một mùa gặt khảo cổ học”, số ra ngày 8-7-1973 của Phạm Huy Thông ''Tổ
chức và hướng dẫn học sinh đại học nghiên cứa khoa học”, số ra ngày
14-8-1973 của Vũ Dương Ninh; “Gọi tên các dân tộc như thế nào cho đúng”, số
ra ngày 25-7-1974 của Đặng Nghiêm Vạn; “Khám phá những bí mật
của khí tượng nhiệt đới”, số ra ngày 28-7-1974 của Nguyễn Ngọc Thụy, v.v..
Đặc biệt, báo có loạt bài viết đăng nhiều kỳ của nhà báo Phan Quang trong dịp
đi công tác tại các nước xã hội chủ nghĩa như bài “Sức hấp dẫn mới của đất
nước Đimitơrốp”, ''Việc áp dụng phương pháp công nghiệp vào sản xuất”, với
loạt bài kèm theo như “Đi vào chiều sâu”; “Hóa học với nghề nông”, “Kỹ thuật
quản lý và con người”.
- Phản ánh cuộc chiến đấu chống Mỹ của
quân và dân ta trong cả nước:
Đây là mảng đề tài chính, được báo Nhân
dân nói riêng và các phương tiện thông tin đại chúng nói chung dành vị trí
trang trọng với diện tích trang báo đáng kể để chuyển tải. Ở trang nhất báo Nhân
dân, bất kỳ số nào được xuất bản trong 10 năm giai đoạn 1965 - 1975 được
kéo hàng tít chữ to đậm nổi bật về thời sự thắng lợi của quân dân hai miền Nam
Bắc. Đặc biệt, năm 1967, 1968 quân và dân miền Nam anh hùng đã đập tan chiến
lược ''Chiến tranh cục bộ'', ''Việt Nam hóa chiến tranh''. Tin chiến thắng bắn
rơi hàng trăm máy bay Mỹ trong các cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại
(1965 - 1966); (1969 - 1973). Hàng ngàn, hàng vạn lính Mỹ - ngụy phải đền tội,
hàng trăm hàng ngàn máy bay Mỹ bị bắn rơi trên khắp chiến trường miền Bắc đã
chứng tỏ chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân ta đã phát huy, thăng hoa
cao độ. Thắng lợi đó là kết quả của ý chí kiên cường, không sợ hy sinh gian
khổ, không chịu khuất phục trước bất cứ kẻ thù nào. Sức mạnh đó thể hiện ý chí,
tinh thần đoàn kết của mọi tầng lớp nhân dân, thể hiện sự lãnh đạo sáng suốt,
đường lối nhất quán trong việc chỉ đạo toàn dân, toàn quân ta vì sự sống còn
của dân tộc, với tinh thần ''Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất
nước, không chịu làm nô lệ”, “Không có gì quý hơn độc lập, tự do''
mà Bác Hồ đã ra lời kêu gọi.
Ngoài trang nhất là tin chiến sự nóng hổi
hàng ngày, báo Nhân dân còn dành phần lớn trang 3 để đăng những bài viết
của phóng viên, cộng tác viên phản ánh cuộc sống chiến đấu đầy hy sinh, vất vả
nhưng cũng đầy vinh quang của nhân dân ta trên khắp mọi miền. Thông qua các bài
phản ánh, bài phóng sự, ghi nhanh, bức tranh thành đồng Tổ quốc hiện lên sinh
động trong máu lửa. Cuộc sống của nhân dân Củ Chi trong địa đạo sâu dưới lòng
đất, của nhân dân Quảng Trị, đường 9, Khe Sanh bám trụ trên cát trắng những
ngày hè đổ lửa, của nhân dân Nam Bộ thoắt ẩn, thoắt hiện giữa các miệt vườn,
cánh đồng hoang, kênh rạch nhằng nhịt để bảo vệ mình, tìm địch mà đánh.
Đặc biệt, đầu năm 1967, báo Nhân dân đã
dành 3 số (từ ngày 6-l-1967 đến ngày 8-1-1967) để tường thuật, tuyên truyền Đại
hội anh hùng chiến sĩ thi đua chống Mỹ, cứu nước được tổ chức tại Hà Nội. ''Một
đại hội chiến đấu lớn nhất của miền Bắc trong một khung cảnh chiến đấu hùng
tráng và một khí thế chiến đấu sục sôi của Thủ đô và của cả nước... Một cuộc
gặp mặt to nhất và hào hứng nhất giữa những người và đơn vị mà sự tích anh hùng
đã và đang cổ vũ tất cả chúng ta suốt hơn hai mươi năm chiến đấu chống Mỹ vừa
qua''.
Đại hội đón chào hơn 500 anh hùng, chiến
sĩ thi đua cả nước về dự.
Nhân dịp này, báo Nhân dân mở mục “Nhân
dân anh hùng, thời đại anh hùng'' để giới thiệu những thành tích, những
chiến công của các tập thể, cá nhân anh hùng, chiến sĩ thi đua, như chủ nhiệm
hợp tác xã Mạnh Trữ (Vĩnh Phúc), Nguyễn Văn Tắc; Lớn lên với nhà máy xã hội chủ
nghĩa (về anh hùng Đào Thị Hào); Những con đường trắng (về anh hùng đồng muối
Hồ Thị Lượm); Nhằm thẳng quân thù mà bắn (về liệt sĩ Nguyễn Viết Xuân); Suốt
đời quên mình vì Đảng vì dân (về anh hùng Trần Văn Thọ); anh hùng dân quân Lê
Đăng Tối; Tiểu đoàn 14 anh hùng Nguyễn Viết Xuân…
b) Tạp chí Học tập (1955 - 1976)
Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp, cách mạng nước ta chuyển sang giai đoạn mới. Miền Bắc được hoàn
toàn giải phóng, từ căn bản hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
chuyển sang cách mạng xã hội chủ nghĩa. Miền Nam còn ở dưới ách thống
trị của đế quốc Mỹ và tay sai, phải tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân. Nhiệm vụ chung của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn này là thực
hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt
Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
Hội nghị lần thứ bảy của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa II họp tháng 3-1955 đã nhận định: qua 8 - 9 năm kháng
chiến, Đảng ta đã được rèn luyện và lớn lên nhiều. Sự lãnh đạo của Đảng về các
mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức đều có tiến bộ rõ rệt. Tuy vậy, trước tình
hình đang thay đổi mạnh mẽ, từ chiến tranh chuyển sang hòa bình, từ nông thôn
chuyển vào thành thị, từ phân tán chuyển đến tập trung, trong Đảng bộc lộ những
biểu hiện hữu khuynh và ''tả'' khuynh. Công tác tư tưởng và lý luận chưa đáp
ứng đúng mức yêu cầu của nhiệm vụ chính trị. Để ''giúp vào việc nghiên cứu
chính sách và giáo dục, tư tưởng, bước đầu xây dựng công tác lý luận của
Đảng'', Hội nghị lần thứ bảy của Trung ương Đảng đã ra nghị quyết xuất bản Tạp
chí Học tập.
Đề án xuất bản được Bộ Chính trị thông
qua, đã nêu rõ tính chất nhiệm vụ, đối tượng và phương châm biên tập của tạp
chí.
Tạp chí Học tập là ''cơ quan lý
luận và chính trị của Đảng'', do Trung ương Đảng trực tiếp lãnh đạo. Nhiệm vụ
của tạp chí là ''lấy học thuyết Mác - Lênin làm cơ sở, kết hợp chặt chẽ lý luận
Mác - Lênin với thực tiễn cách mạng nước ta để tuyên truyền, giáo dục đường
lối, phương châm, chính sách của Đảng một cách sâu sắc''; tạp chí còn có nhiệm
vụ ''hướng dẫn cán bộ học tập theo chương trình do Đảng quy định''. Đối tượng
phục vụ của tạp chí là: ''Cán bộ Đảng từ trung cấp trở lên, những cán bộ ngoài
Đảng và những người trí thức thích nghiên cứu chính trị và có trình độ đọc hiểu
được''. Phương châm biên tập của tạp chí là ''căn cứ vào nhiệm vụ trung tâm và
những công tác lớn của Đảng trong từng thời kỳ mà định trọng tâm biên tập làm
cho nội dung tạp chí gắn chặt với chính sách và sinh hoạt chính trị, sinh hoạt
tư tưởng của Đảng''. Tạp chí ''dựa trên cơ sở học thuyết Mác - Lênin để giải
thích đường lối, phương châm, chính sách của Đảng, kết hợp với thực tế nước ta
mà giáo dục lý luận. Cụ thể là căn cứ vào những chính sách và công tác lớn của
Đảng, trình bày những vấn đề lý luận chung quanh chính sách và công tác ấy,
nhằm vạch rõ cơ sở lý luận của nó, rồi lại căn cứ vào tình hình cụ thể của Việt
Nam mà phân tích thêm, kết hợp lý luận Mác - Lênin với thực tế nước ta, làm cho
cán bộ nắm vững nội dung, thực chất của các chính sách của Đảng, đồng thời đấu
tranh chống những tư tưởng lạc hậu, sai lầm, trở ngại cho việc thực hiện các
chính sách''; tạp chí cần tập trung vào những vấn đề chính trong nước, đồng
thời dành một phần cần thiết cho những vấn đề quốc tế quan trọng.
Trong bài ''Việc xuất bản Tạp chí học
tập và công tác xây dựng Đảng'' đăng trong số đầu tiên của tạp chí, đồng
chí Trường Chinh viết: ''Tạp chí Học tập phải đóng một vai trò
xứng đáng trong công tác tư tưởng và công tác tổ chức của Đảng, trong
công tác xây dựng, phát triển và củng cố Đảng... Nó phải đem lý luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin mà soi sáng những chính sách lớn của Đảng,
nâng cao nhận thức của cán bộ trong Đảng và ngoài Đảng về tư tưởng, chính sách
giúp cho họ tránh được những khuyết điểm, sai lầm trong khi thi hành những
chính sách ấy. Ngược lại, nó phải góp phần làm cho cán bộ qua công tác cụ thể,
chấp hành chính sách mà củng cố được lập trường, nâng cao được trình độ tư
tưởng và lý luận... Mong rằng với Tạp chí Học tập ra đời, Đảng ta sẽ đẩy
mạnh phê bình, tự phê bình, đẩy mạnh đấu tranh chống mọi khuynh hướng sai lầm
trong khi chấp hành đường lối, chính sách của Đảng và của Chính phủ, chống mọi
sự xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin và những lệch lạc về tư tưởng đã khá nhiều ở
nước ta hiện nay. Đồng thời, Đảng sẽ làm cho tư tưởng, lý luận của mình tiến
trước và chỉ đường cho công tác thực hành, khắc phục được chủ nghĩa sự vụ, hẹp
hòi hiện đang phổ biến trong cán bộ, đảng viên và cán bộ ngoài Đảng''.
Bộ Chính trị đã cử ra một Ban biên tập
tạp chí do đồng chí Trường Chinh làm Tổng biên tập, đồng chí Trần Quang Huy làm
Thư ký tòa soạn.
Sau một thời gian ngắn khẩn trương chuẩn
bị, Tạp chí Học tập ra số 1 vào tháng 12-1955 và kéo dài suốt từ năm
1955 đến năm 1976.
Trong những năm đầu, tạp chí tập trung
phục vụ các nhiệm vụ công tác lớn của Đảng: đấu tranh đòi thi hành Hiệp nghị
Giơnevơ nhằm thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà; hoàn thành cải cách ruộng
đất và chỉnh đốn tổ chức, khôi phục kinh tế, tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa
và bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Từ ngày 5 đến ngày 10-9-1960, Đảng ta họp
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III tại Hà Nội. Đại hội chỉ rõ, trong giai
đoạn hiện tại cách mạng nước ta có hai nhiệm vụ chiến lược: một là, tiến
hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc; hai là, giải phóng miền Nam
khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước
nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước. Hai nhiệm vụ ấy có quan hệ
mật thiết với nhau và có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau. Trong đó, tiến hành cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự
phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam, đối với sự nghiệp thống nhất nước
nhà. Đại hội chỉ rõ nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ ở miền Bắc nước ta
là công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, mà mấu chốt là ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng. Đại hội đã thông qua phương hướng và nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm
lần thứ nhất (1961 - 1965) nhằm mục tiêu phấn đấu xây dựng bước đầu cơ sở vật
chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện một bước công nghiệp hóa xã
hội chủ nghĩa và hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, tiếp tục đưa
miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.
Trước tình hình mới và nhiệm vụ mới hết
sức nặng nề, để tạp chí lý luận của Đảng làm tốt được vai trò của mình, Trung
ương Đảng, đặc biệt là Bộ Chính trị và Ban Bí thư, hết sức quan tâm đến việc
tăng cường lực lượng, nâng cao trình độ, cải tiến công tác của tạp chí.
Trong khoảng thời gian chưa đầy 5 tháng,
từ ngày 20-10-1961 đến ngày 3-3-1962, Bộ Chính trị đã có hai cuộc họp và Ban Bí
thư có một cuộc họp bàn về Tạp chí Học tập.
Cuộc họp Bộ Chính trị ngày 3-3-1962 có
Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng, Lê
Thanh Nghị, Nguyễn Chí Thanh, Trần Quốc Hoàn (Bộ Chính trị); tham dự có các
đồng chí: Trần Quỳnh, Phạm Chung (Văn phòng Trung ương), Hồng Chương (Tạp chí Học
tập).
Hội nghị đã vạch rõ nhiệm vụ của Tạp chí Học
tập. Nhiệm vụ đó đã được ghi trong Chỉ thị số 41-CT/TW, ngày 7-4-1962
của Bộ Chính trị về ''Cải tiến tạp chí lý luận của Đảng'' trong đó nêu rõ,
Nhiệm vụ của Tạp chí Học tập là đứng vững trên lập trường của giai cấp
công nhân, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm cơ sở, kết hợp chặt chẽ lý luận Mác -
Lênin với thực tiễn cách mạng Việt Nam để tuyên truyền đường lối, phương châm,
chính sách của Đảng một cách sâu sắc; đem lý luận Mác - Lênin soi sáng những
chủ trương, chính sách của Đảng, nâng cao nhận thức của cán bộ trong Đảng và
ngoài Đảng về tư tưởng chính sách, giúp họ tránh những khuyết điểm, sai lầm
trong khi thi hành chính sách của Đảng và Nhà nước. Tạp chí phải căn cứ vào
chức năng của mình mà tuyên truyền cho Nghị quyết của Đại hội lần thứ III của
Đảng và nghị quyết của các cuộc hội nghị Trung ương Đảng. Tạp chí phải góp phần
đắc lực vào việc thực hiện hai nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam hiện nay là xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (mà trung tâm là công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa) và giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai,
thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả
nước. Tạp chí phải góp phần vào việc tổng kết kinh nghiệm công tác của Đảng, đi
đến những kết luận có tính chất lý luận để lãnh đạo phong trào cách mạng Việt
Nam. Nội dung của tạp chí cần phải tập trung vào những vấn đề chính trong nước,
đồng thời cần dành một phần cần thiết cho những vấn đề quốc tế quan trọng.
Tạp chí Học tập cần tích cực góp
phần vào việc tổng kết kinh nghiệm lịch sử của Đảng, viết về những vấn đề lớn
trong lịch sử cách mạng Việt Nam và kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng ta. Sau Chỉ
thị 41-CT/TW, ngày 7-4-1962, Bộ Chính trị bổ nhiệm đồng chí Đào Duy Tùng làm
Tổng biên tập Tạp chí Học tập.
Từ đầu năm 1966, Tạp chí Học tập bước
vào thời kỳ mới của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước với hành trang mới: Chỉ
thị số 116-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về ''Nâng cao chất lượng của
Tạp chí Học tập để phục vụ sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước và tiếp tục xây
dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội'' ra ngày 14-12-1965.
Sau khi chỉ ra những ưu điểm và khuyết
điểm của tạp chí trong thời gian qua, Chỉ thị vạch rõ:
Hiện nay, cách mạng nước ta đang ở trong
một bước chuyển biến mới. Cả nước ta đang có chiến tranh với mức độ khác nhau ở
mỗi miền. Nhân dân ta đang có nhiệm vụ cấp bách là chống Mỹ, cứu nước. Tạp chí Học
tập phải đóng một vai trò quan trọng trong công tác tư tưởng của Đảng, nhằm
góp phần bảo đảm cho thắng lợi của sự nghiệp đánh thắng giặc Mỹ trong cả nước
và sự nghiệp tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện có chiến tranh.
Về phương hướng biên tập của tạp chí, Chỉ
thị chỉ rõ:
1. Vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin để soi sang đường lối chống Mỹ, cứu nước, làm cho mọi người nhận rõ tình
hình và yêu cầu mới của cách mạng, đánh giá đúng đắn âm mưu thâm độc của đế
quốc Mỹ và tay sai đối với nước ta, phân tích lực lượng, đối sách giữa ta và
địch, vạch rõ thế tất thắng của ta và thế thất bại của địch; hiểu rõ phương
hướng, chủ trương mới về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, các
chính sách đối nội và đối ngoại do Đảng đề ra trong tình hình mới; biên tập
những bài có chất lượng cao về chiến tranh nhân dân và quốc phòng toàn dân. Do
đó làm cho mọi người tin tưởng tuyệt đối vào đường lối chống Mỹ, cứu nước của
Đảng, vào nhiệm vụ vừa kháng chiến vừa kiến quốc, phát huy chủ nghĩa anh hùng
cách mạng, nâng cao trình độ về mọi mặt, cống hiến nhiều nhất cho cách mạng, đưa
sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước đến toàn thắng.
2. Vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin để soi sang hơn nữa đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa và chủ trương
tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trong điều kiện có chiến tranh.
Phục vụ tốt việc xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội theo
phương châm mới thích hợp với tình hình mới. Cần làm rõ mối quan hệ giữa sản
xuất và chiến đấu, giữa nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và nhiệm vụ chống
Mỹ, cứu nước. Cần phục vụ tốt ba cuộc cách mạng đang được tiến hành ở miền Bắc.
Cần chú ý vận dụng lý luận để soi sáng
các vấn đề về quan hệ giữa cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã
hội, giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa tích luỹ và tiêu dùng, giữa cơ sở
kinh tế và kiến trúc thượng tầng, giữa xây dựng kinh tế và tăng cường quốc
phòng. Trong tình hình mới, cần làm rõ vị trí của công nghiệp trung ương
và công nghiệp địa phương; của kinh tế đồng bằng và kinh tế trung du, kinh tế
miền núi, của sản xuất và phân phối, của công tác văn hóa và xã hội.
Kết hợp với việc giáo dục về tình hình và
nhiệm vụ mới mà tuyên truyền cho các cuộc vận động lớn trong nền kinh tế và các
phong trào thi đua, nhằm đẩy mạnh sản xuất, tăng năng suất lao động và hiệu
suất công tác, tăng cường công tác chuẩn bị chiến đấu và chiến đấu tốt.
Phải góp phần vào việc củng cố và tăng
cường Nhà nước chuyên chính dân chủ nhân dân, thực chất là chuyên chính vô sản,
nhằm xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, giải phóng miền Nam, tiến
tới thực hiện thống nhất nước nhà.
3. Tuyên truyền cho quan điểm của Đảng về
các vấn đề quốc tế quan trọng, tích cực góp phần vào việc bảo vệ sự trong sáng
của chủ nghĩa Mác - Lênin, đấu tranh có lý, có lẽ, có mức, chống chủ nghĩa xét
lại hiện đại là nguy cơ chủ yếu của phong trào cộng sản quốc tế, đồng thời
chống chủ nghĩa giáo điều; khôi phục và tăng cường sự đoàn kết trong phe xã hội
chủ nghĩa và trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế; ủng hộ phong trào
giải phóng dân tộc của nhân dân châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh, ủng hộ phong
trào đấu tranh vì dân chủ và chủ nghĩa xã hội của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động các nước tư bản chủ nghĩa; đấu tranh chống bọn đế quốc hiếu chiến
do đế quốc Mỹ cầm đầu, góp phần bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới.
4. Phục vụ việc xây dựng Đảng về tư tưởng
và tổ chức; tuyên truyền cho đường lối xây dựng Đảng; biểu dương những điển
hình tốt; đồng thời phê phán những biểu hiện tiêu cực trong sinh hoạt Đảng; đấu
tranh chống tư tưởng hữu khuynh và ảnh hưởng của chủ nghĩa xét lại hiện đại là
chủ yếu, đồng thời ngăn chặn và khắc phục tư tưởng “tả'' khuynh và bệnh giáo
điều, rập khuôn, máy móc.
5. Cùng các cơ quan có trách nhiệm góp
phần tổng kết những kinh nghiệm lịch sử của Đảng ta. Qua tổng kết kinh nghiệm
lịch sử của cách mạng Việt Nam mà làm cho mọi người thêm tin tưởng vào sự lãnh
đạo của Đảng và ra sức phát huy tinh thần tích cực, chủ động và sáng tạo trong
công tác của mình.
Nhìn lại những năm 1955 - 1976, Tạp chí Học
tập đã tích cực góp phần đưa đường lối, chủ trương chính sách của Đảng vào
cuộc sống. Đáng chú ý nhất là:
Tạp chí đã tuyên truyền tập trung cho
đường lối chống Mỹ, cứu nước và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà. Gắn
với nhiệm vụ này, việc xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng được tạp chí rất
coi trọng.
Tạp chí đã góp phần đắc lực vào việc thực
hiện các nhiệm vụ: sửa sai và hoàn thành cải cách ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức;
cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, khôi phục và phát triển
kinh tế, phát triển văn hóa, tiến hành ba cuộc cách mạng, thực hiện công nghiệp
hóa xã hội chủ nghĩa... làm cho miền Bắc trở thành cơ sở vững chắc cho công
cuộc chống Mỹ, cứu nước của toàn dân ta. Những nhiệm vụ đó không tách rời việc
củng cố nhà nước dân chủ nhân dân.
Cùng với việc phục vụ công tác xây dựng
Đảng về tổ chức, tạp chí đã tích cực đấu tranh chống những tư tưởng sai lầm
trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, góp phần nâng cao phẩm chất cách mạng cho
mọi người, củng cố đoàn kết nhất trí trong Đảng. Tạp chí đã đi đầu trong cuộc
đấu tranh chống nhóm “Nhân văn - Giai phẩm'', bảo vệ sự lãnh đạo của Đảng.
Tạp chí đã tích cực tuyên truyền đường
lối đối ngoại và quan điểm quốc tế của Đảng; phê phán chủ nghĩa xét lại hiện
đại, chủ nghĩa cơ hội..., bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, bảo
vệ sự đoàn kết quốc tế, kiên quyết chống chủ nghĩa đế quốc, ủng hộ cuộc đấu
tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội.
Trong 21 năm qua (1955 - 1976) Tạp chí Học
tập đã cố gắng đóng góp vào công tác lý luận và tư tưởng của Đảng và góp phần
tích cực vào việc thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng
việt Nam.
c) Báo Quân đội nhân dân
Với tiêu đề “Vì nhân dân phục vụ'', báo Quân
đội nhân dân trở thành nguời bạn thân thiết, gần gũi và không thể thiếu được
đối với lực lượng vũ trang cũng như nhân dân cả nước trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước.
Báo xuất bản hàng ngày 4 trang, khổ rộng.
Giai đoạn 1965 - 1975, nội dung của các trang báo được thể hiện như sau:
Trang l dành phần lớn đưa tin chiến sự
đánh Mỹ của nhân dân hai miền Nam, Bắc. Tít của tin chiến sự được in cỡ chữ to,
đậm.
Ví dụ: Trang l số ra ngày 20-10-1967:
Miền Nam: Tân An - Chợ Lớn: Tiến
công dữ dội sở chỉ huy sư đoàn 25 ngụy và 6 vị trí khác. Diệt gần 300 địch.
Miền Bắc: Tin thêm ngày 17, 18-10,
Hà Bắc, Hải Phòng Bắn rơi hai máy bay Mỹ.
Ngoài ra, còn có các tin hoạt động chính
trị, ngoại giao của Đảng, Nhà nước ta và tin hoạt động của các lực lượng vũ
trang trong cả nước. Mỗi số báo có một bài xã luận được in vào trang l. Báo Quân
đội nhân dân còn dành một ô cửa sổ khoảng 80cmx40cm ở giữa trang l để in
con số máy bay Mỹ bị bắn rơi tính đến ngày ra báo. Ví dụ, số ra ngày 29-10-1967,
ô cửa sổ đăng tin từ ngày 5-8-1964 đến ngày 18-10-1967: 2.467 máy bay Mỹ đã
bị bắn rơi trên miền Bắc.
Trang 2 và trang 3, báo dành đăng các bài
viết phản ánh tình hình chiến đấu của quân và dân trên các chiến trường. Một
nội dung quan trọng báo đề cập là xây dựng lực lượng vũ trang, thế trận quốc
phòng vững chắc. Một số bài về quốc tế, giới thiệu về đất nước, con người các
nước xã hội chủ nghĩa anh em.
Bước sang năm 1968, phong trào đấu tranh
cách mạng phát triển mạnh, quân và dân ta dồn dập tiến công, liên tục chiến
thắng. Hầu hết các thành phố, thị xã, thị trấn miền Nam đều nổi lên, đánh chiếm
các trung tâm quốc tế, chính trị của bọn Mỹ ngụy, giành quyền làm chủ nhiều địa
bàn. Cuộc tiến công thần tốc, phát triển rộng lớn và toàn diện đó được báo Quân
đội nhân dân phản ánh. Trên trang 1, phần lớn in hai màu (đỏ và đen) với những
hàng chữ cỡ lớn, có khi chiếm nửa trang báo. Ngoài ra, tình hình chiến sự còn
được minh họa bằng bản đồ chiến sự miền Nam thể hiện diễn biến tiến công nổi
dậy từng ngày ở các địa điểm khác nhau. Đặc biệt, số ra ngày 23-3-1968 thì toàn
bộ trang l là tít tin, chỉ còn một phần nhỏ dành cho xã luận.
Tin chiến sự hàng ngày là mối quan tâm
chú ý hàng đầu của những người đọc báo, nghe đài trong giai đoạn này. Những bản
tin được in với cỡ chữ to đậm chạy kín bề ngang và chiếm một phần đáng kể của
trang báo đã làm nên sức mạnh của thông tin. Tin Thắng lớn ở Lộc Ninh (Số
ra ngày 6-11-1967) chạy tít: Sáu ngày đêm liên tục tiến công địch
tiêu diệt 4 tiểu đoàn Mỹ, 8 đại đội Mỹ, ngụy, gồm hơn 2.800 địch (có một chiến
đoàn bị diệt); Các đơn vị chiến thắng ở Lộc Ninh được tặng thưởng huân chương, được
chạy tít ngang giữa trang 1 đã tạo nên một điểm nhấn cho người đọc chú ý.
Tuyên truyền điển hình, nhân điển hình
trong phong trào giết giặc lập công, là chủ đề xuyên suốt nội dung phản ánh
cuộc chiến đấu của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Có
thể nói, không một số báo nào không có những bài viết về những gương sáng quên
mình vì dân phục vụ. Họ là những chiến sĩ giáp mặt với kẻ thù trong một trận
đánh, là những dân quân, người dân bình thường tham gia chiến dịch... Đại hội
anh hùng chiến sĩ thi đua chống Mỹ, cứu nước được tổ chức đầu năm 1967 là một
dịp để báo Quân đội nhân dân biểu dương những cá nhân, tập thể điển hình
với những hành động anh hùng, lẽ sống anh hùng. Xã luận số ra ngày 6-l-1967 với
tiêu đề “Đất nước anh hùng, đại hội anh hùng'' đã khẳng định: ''Chủ
nghĩa anh hùng cách mạng ở Việt Nam đã từ lý tưởng biến thành cuộc sống
hiện thực, đã từ một số ít chiến sĩ cộng sản kiên trung nhập vào hàng triệu
quần chúng đông đảo. Ở miền Nam có câu ''ra ngõ gặp anh hùng, phụ nữ, trẻ em,
cụ già đều có thể là dũng sĩ diệt Mỹ. Trên miền Bắc, súng trường của dân quân
bắn rơi máy bay phản lực Mỹ, nhiều cô gái từng phá bom nổ chậm, bắt sống giặc
Mỹ lái máy bay. Thế hệ thanh niên ngày nay bám sát gót lớp người cách mạng vì
kháng chiến cũ, khí thế chiến đấu cách mạng phơi phới đang phát huy cao độ
truyền thống quật cường của dân tộc''.
Tháng 10-1967, Đại hội anh hùng chiến sĩ
thi đua, dũng sĩ các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng miền Nam lần thứ II
khai mạc. Báo Quân đội nhân dân ra tít màu đỏ: Đại hội của những người
chiến thắng, của những bông hoa tiêu biểu cho thời đại chống Mỹ mà dân tộc ta
đang được vinh dự đứng ở tuyến đầu. Báo mở mục ''Anh hùng lực lượng vũ trang
nhân dân giải phóng miền Nam'' để viết tiếp những chiến công chói lọi, những
gương hy sinh quên mình của 47 anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng
được tuyên dương anh hùng và khen thưởng...
Không thể kể hết được hàng loạt chuyên
mục, với hàng trăm, hàng nghìn bài báo viết về người tốt việc tốt, về các tập
thể điển hình đã lập nên nhiều chiến công điển hình trên báo Quân đội nhân
dân trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Phóng viên, cộng tác
viên báo Quân đội nhân dân đã bằng khả năng, trí tuệ, bút lực của mình,
kịp thời đến từng trận chiến, nằm dưới công sự để viết nên những bản hùng ca
đầy bi tráng của dân tộc. Ở đó, mỗi một con người hiện diện là những chiến công
với những mất mát hy sinh không có gì bù đắp nổi cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc,
cho sự tồn vong của nước nhà.
d) Đài Tiếng nói Việt Nam
Giai đoạn 1965 - 1975, Đài Tiếng nói Việt
Nam tiếp tục hoàn thiện các chương trình phát sóng để phục vụ yêu cầu chỉ đạo
cách mạng Việt Nam của Đảng và Chính phủ, đồng thời đáp ứng thông tin về cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân hai miền Nam Bắc.
Về chương trình phát thanh, ngoài các
chương trình thời sự còn có các chương trình dành riêng cho nông thôn, chương
trình dành cho công nhân, chương trình văn hóa - xã hội, chương trình phát
thanh cho thanh niên, chương trình phát thanh quân đội nhân dân, chương trình
vì an ninh Tổ quốc, chương trình văn nghệ...
Đài tiếp tục xây dựng hệ chương trình
phát thanh dành cho miền Nam như chương trình giới thiệu miền Bắc vào miền Nam,
chương trình phát thanh dành cho nông thôn miền Nam, chương trình nối liền Nam
Bắc, chương trình dành cho các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Về hệ chương
trình tuyên truyền đối ngoại đã từng bước tăng thêm 11 thứ tiếng: Anh, Pháp,
Nhật Bản, Bắc Kinh, Quảng Đông, Lào, Campuchia, Thái Lan, Inđônêxia, Nga, Tây
Ban Nha và tiếng Việt cho những người xa Tổ quốc.
Về hệ thống phát sóng, năm 1970 lập Đài
Phát thanh Campuchia đặt tại miền Bắc Việt Nam để Chính phủ Campuchia chỉ đạo
cuộc chiến tranh chống Mỹ và Lonnon ở trong nước. Đối với mạng làn sóng trong
nước, ra sức tăng cường bảo vệ và củng cố nhanh nếu bị máy bay Mỹ oanh tạc bắn
phá các đài trọng điểm như Bạch Mai, Mễ Trì, Bà Triệu. Mặt khác, tăng cường các
đài dự bị để trong trường hợp cấp bách nhất, sóng phát thanh vẫn liên tục phát
sóng truyền tin. Các đài này được phân lẻ các bộ phận để vừa cơ động, vừa tránh
sự chú ý của giặc như một bộ phận của đài sơ tán về Quốc Oai, đoàn ca nhạc sơ
tán về nông trường Cửu Long… Các đài dự phòng được rải ra ở nhiều địa điểm như
Xuân Mai, Chi Nê, Lạng Sơn, Cao Bằng, đã có hiệu quả rất lớn, nhất là năm 1972
khi Mỹ bắn phá miền Bắc ác liệt, đánh sập, phá hủy hoàn toàn đài Bạch Mai, Mễ
Trì thì lập tức có các đài dự phòng thay thế.
Được sự giúp đỡ của Chính phủ và nhân dân
Trung Quốc, Đài Tiếng nói Việt Nam mượn sóng của Đài Tiếng nói Côn Minh để tiếp
sóng. Để đảm bảo chất lượng tín hiệu, đài đã cử cán bộ biên tập, phát thanh vên
sang Côn Minh để biên soạn chương trình và phát tại chỗ. Nhờ chuẩn bị tốt mọi
mặt từ xây dựng các đài dự phòng và nhờ phát sóng đài Côn Minh cho nên
trong mọi hoàn cảnh, tiếng nói của Đảng và Nhà nước vẫn được phát đi. Dưới làn
bom đạn Mỹ, tiếng nói đó vẫn đến được với nhân dân cả nước.
Đồng thời với việc giữ làn sóng được phát
đi liên tục, trong điều kiện khó khăn về kinh tế, Đảng và Nhà nước vẫn ưu tiên
đầu tư trang bị cơ sở vật chất để khôi phục những cơ sở bị phá huỷ. Bộ biên tập
còn chủ động gửi cán bộ sang Cu Ba học truyền hình, tự lực xây dựng phòng
truyền hình, nắm vững kỹ thuật và cách thức làm truyền hình. Kết quả là đài đã
làm được truyền hình phục vụ nhân dân. Sau ngày 30-4-1975, lực lượng cán bộ, kỹ
thuật của đài vào tiếp quản Đài Truyền hình Sài Gòn một cách chủ động và sử
dụng tốt.
_________
1,2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.414.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.223.
4. Quang Đạm: Một cuộc đời làm báo, in trong sách
Thời gian và nhân chứng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t.1, tr.
43.
5. GS. Hà Minh Đức (chủ biên): Thời gian và nhân chứng,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, t.2, tr. 346.
6. Xem Hội Nhà báo thành phố Hà Nội: Báo chí Hà Nội - Một
chặng đường lịch sử 1954 – 1993, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.
115 – 116.
7. GS. Hà Minh Đức (chủ biên): Thời gian và nhân chứng,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, t.1, tr. 183 - 184.
CHƯƠNG IV
BÁO CHÍ CÁCH MẠNG VIỆT NAM THỜI
KỲ 1976 - 1986
I- BÁO CHÍ HOẠT ĐỘNG TRONG ĐIỀU KIỆN
MỚI CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Thống nhất hệ thống báo chí cách
mạng trên toàn quốc
Cuộc tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm
1975 đã xóa bỏ chế độ thuộc địa kiểu mới mà đế quốc Mỹ dựng lên ở
miền Nam nước ta, đồng thời quét sạch nền báo chí thực dân mới, công cụ chủ
nghĩa thực dân mới của Mỹ ở Việt Nam. Báo chí giải phóng từ bưng biền đã
theo bước chân chiến thắng của bộ đội Cụ Hồ tiến vào thành phố và phát hành
công khai giữa các thành phố vừa được giải phóng. Lần đầu tiên, báo chí phản
cách mạng đã tàn lụi hoàn toàn, thay vào đó dòng báo chí cách mạng công khai
hoạt động. Tuy vậy, cho đến thời điểm thống nhất đất nước, báo chí Việt Nam vẫn
còn tồn tại những đặc điểm và hình thức hoạt động riêng của báo chí hai miền
trước đây, đòi hỏi phải có sự hợp nhất báo chí trong cả nước.
Trước giải phóng, báo chí miền Bắc vẫn
được xuất bản đều đặn dù gặp rất nhiều khó khăn do hậu quả của những cuộc chiến
tranh phá hoại của Mỹ. Báo chí được phát triển mở rộng cả về số lượng và chất
lượng với các loại hình như báo chí hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng của các cơ
quan trung ương và các tỉnh. Đồng thời, báo chí cũng mở rộng vào các lĩnh vực
hoạt động khác như báo chính trị - xã hội, báo văn hóa - nghệ thuật, báo khoa
học kỹ thuật, báo đối ngoại, báo ngành...
Ở miền Nam, thời kỳ trước giải phóng có
một bộ phận báo chí phục vụ âm mưu xâm lược của quân Pháp và quân Mỹ do Việt
gian xuất bản và tuyên truyền nhằm chống phá chủ nghĩa cộng sản, nói xấu miền
Bắc xã hội chủ nghĩa. Chúng dùng các khẩu hiệu độc lập dân tộc, dân chủ lừa bịp
người đọc. Đó là các tờ Ngôn luận, Trắng đen, Tự do, Cách mạng quốc gia. Về
lĩnh vực báo điện tử, ngay từ giữa năm 1966, Mỹ đã cho lập một đài truyền hình
phục vụ cho quân đội Mỹ và một đài truyền hình cho chính quyền ngụy. Vấn đề này
đặt ra cho báo chí Việt Nam nhiệm vụ là phải chuẩn bị sẵn sàng để khi giải
phóng miền Nam có thể điều hành được các đài truyền hình đã có ở phía Nam.
Một dòng báo chí cách mạng phát triển
trong thời kỳ này ở miền Nam chính là những tờ báo tuyên truyền tinh thần dân
tộc và chống địch được một số nhà báo yêu nước xuất bản. Ở những vùng giải
phóng, các khu căn cứ du kích cũng như các vùng địch tạm chiếm, báo chí cách
mạng phục vụ cho sự nghiệp giải phóng, thống nhất đất nước cũng xuất hiện và
phát triển. Trong những năm 1954 - 1960, Xứ uỷ Nam Bộ bí mật xuất bản tờ báo Hòa
bình thống nhất, Cờ giải phóng; ở Sài Gòn thành lập Thông tấn xã giải
phóng, đóng căn cứ ở Tây Ninh. Vào năm 1962, Trung ương cục miền Nam Việt Nam
thành lập Đài Phát thanh giải phóng, sau đó xuất bản các tờ báo Nhân dân
miền Nam, Việt Nam đấu tranh, Tạp chí Tiên phong. Bên cạnh đó còn có hàng
loạt các tờ báo của đảng bộ các tỉnh và các tổ chức phục vụ cho việc tuyên
truyền, cổ động đường lối cách mạng. Tại căn cứ Tây Bắc ở tỉnh Tây Ninh, các
nhà báo yêu nước ở các tỉnh miền Nam và Sài Gòn đã họp Đại hội Báo chí lần thứ
nhất và thành lập Hội Nhà báo yêu nước và dân chủ miền Nam. Có thể nói rằng,
báo chí ở miền Nam trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước tuy hoạt động trong điều
kiện vô cùng khó khăn, gian khổ nhưng đã có những đóng góp tích cực vào công
cuộc giải phóng, thống nhất đất nước sau này.
Về tổ chức Hội, ở miền Nam thời kỳ trước
giải phóng có Hội Nhà báo dân chủ miền Nam Việt Nam, còn ở miền Bắc có Hội Nhà
báo Việt Nam. Đây là hai tổ chức hoạt động ở hai phạm vi khác nhau nhưng thực
ra ngay từ đầu những năm ba mươi, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, báo chí Việt Nam luôn là một nền báo chí thống nhất. Do nhu cầu sách lược
nên hình thức, tên gọi và phương thức hoạt động tuỳ lúc, tuỳ nơi có sự
khác nhau, song tất cả đều hướng về mục tiêu chung là thực hiện cương lĩnh và
đường lối của Đảng. Cả hai hội nhà báo này thực chất đều xuất phát từ một cột
nguồn, cùng làm một nhiệm vụ chính trị, cùng hưởng chung một sự chỉ đạo. Vì
vậy, việc kịp thời hợp nhất hai hội nhà báo thành một tổ chức thống nhất đã
đánh dấu một bước phát triển mới của lịch sử báo chí Việt Nam. Đây là một việc
làm cấp thiết, hợp với tự nhiên, lý trí và tình cảm của dân tộc.
Ngày 7-7-1976, tại Hà Nội, đoàn đại biểu
Hội Nhà báo Việt Nam do đồng chí Hoàng Tùng, Chủ tịch Hội làm trưởng đoàn và
đoàn đại biểu Hội Nhà báo yêu nước và dân chủ miền Nam do đồng chí Tân Đức, Chủ
tịch Hội dẫn đầu, đã họp hội nghị bàn việc thống nhất hai tổ chức hội. Trên cơ
sở nhất trí hoàn toàn về ý nghĩa trọng đại của việc thống nhất Hội Nhà báo Việt
Nam, Hội nghị quyết định: Từ ngày 7-7-1976, Hội Nhà báo Việt Nam và Hội
Nhà báo yêu nước và dân chủ miền Nam Việt Nam hợp nhất thành một hội, hoạt động
trên phạm vi cả nước, tên gọi thống nhất là Hội Nhà báo Việt Nam. Về nguyên tắc,
cơ quan lãnh đạo của Hội từ nay đến đại hội sẽ gồm tất cả những uỷ viên của Ban
Chấp hành cũ của hai hội... Hội nghị thống nhất cử đồng chí Hoàng Tùng làm Chủ
tịch Hội, các đồng chí Tân Đức, Huỳnh Văn Tiểng làm Phó Chủ tịch. Trong thời
gian trước mắt, Ban Thường vụ Hội phải nghiên cứu và đưa ra một hướng dẫn áp
dụng điều lệ cho phù hợp với báo chí vùng mới giải phóng.
Kể từ đây mạng lưới thông tin trong cả
nước trở thành một hệ thống duy nhất. Bên cạnh việc hợp nhất về mặt tổ chức,
một số tờ báo của hai miền cũng được thống nhất như báo Cứu quốc ở miền
Bắc và báo Giải phóng ở miền Nam hợp lại thành báo Đại đoàn kết. Tháng
1-1977, Hội Văn nghệ giải phóng miền Nam hợp nhất với Hội Liên hiệp văn học
nghệ thuật Việt Nam, theo đó báo Văn nghệ giải phóng hợp nhất cùng báo Văn
nghệ trở thành tuần báo Văn nghệ chung trên cả nước. Tờ Phụ nữ
giải phóng trong Nam kết hợp với tờ Phụ nữ Việt Nam ngoài Bắc lấy
tên là tờ Phụ nữ Việt Nam. Báo Lao động giúp cho Liên hiệp Công
đoàn Việt Nam xây dựng tờ báo của riêng mình.
Ngày 8-4-1975, số ra mắt tờ Lao động
được coi như ấn phẩm đặc biệt ở Sài Gòn. Đến khi thống nhất công đoàn cả nước, báo
Lao động mới sáp nhập vào báo Lao động thành tờ Lao động, cơ
quan ngôn luận của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
Mạng lưới báo chí từ đó được phân bổ lại
hợp lý hơn cho phù hợp với việc tổ chức lại hệ thống hành chính trong cả nước.
Báo chí được phát hành đồng bộ và rộng rãi khắp cả nước. Các tờ Nhân dân,
Quân đội nhân dân, Tạp chí Lý luận của Đảng cũng như tạp chí Lý luận
của quân đội được phát hành đến các tỉnh phía nam. Kể từ tháng 1-1976, tạp chí Học
tập được in tại thành phố Hồ Chí Minh với một số lượng nhất định và đến tay
bạn đọc chỉ sau một đến hai ngày khi số tạp chí ấy được phát hành ở miền Bắc.
Từ ngày 20-4-1976, báo Nhân dân bắt
đầu được in và phát hành rộng rãi ở thành phố Hồ Chí Minh. Ngay từ cuối tháng
8-1975, báo Nhân dân đã lập một bộ phận thường trực ở miền Nam. Đầu
tháng 12-1975, Ban Bí thư chỉ thị báo Nhân dân phải xuất bản ở Sài Gòn
cùng ngày với Hà Nội trước ngày Tổng tuyển cử bầu cử Quốc hội thống nhất cả
nước. Báo Nhân dân đã kết hợp với Thông tấn xã Việt Nam và Tổng cục Bưu
điện, sử dụng những thiết bị máy móc sẵn có trong nước lập được cơ sở truyền
báo Nhân dân bằng fax ở Hà Nội và Sài Gòn. Báo còn xây dựng được nhà in
của báo Nhân dân tại Sài Gòn. Ngày 20-4-1976, báo Nhân dân in và
phát hành tại thành phố Hồ Chí Minh cùng lúc và cùng ngày với Hà Nội. ''Trong
những ngày này, hàng nghìn sinh viên, học sinh do Thành đoàn thanh niên thành
phố Hồ Chí Minh tổ chức, xuống đường phát hành tờ báo của Trung ương Đảng. Hàng
vạn tờ áp phích quảng cáo báo Nhân dân dán khắp thành phố Hồ Chí Minh và
các tỉnh Nam Bộ. Tin, bài, ảnh của phóng viên thường trú báo Nhân dân tại
miền Nam hằng ngày gửi ra Hà Nội bằng fax. Báo Nhân dân trở thành tờ báo
đi đầu trong làng báo Việt Nam về kỹ thuật - truyền báo... thắng lợi bước đầu
của việc in và phát hành báo Nhân dân tại Sài Gòn cùng ngày với Hà Nội,
góp phần tăng cường sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Trung ương Đảng''1.
Việc in và phát hành báo chí rộng rãi ở miền Nam tạo điều kiện cho việc tuyên
truyền đường lối và chủ trương của Đảng, đồng thời cũng tạo thuận lợi hơn cho
nhu cầu đọc báo của người dân.
Từ tháng 1-1977, Bộ Chính trị Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa IV quyết định đổi tên Tạp chí Học tập thành Tạp
chí Cộng sản. Việc lấy tên này phù hợp hơn với tình hình và nhiệm vụ của
cách mạng trong thời kỳ mới. Đặc biệt là phù hợp với việc đổi tên Đảng
thành Đảng Cộng sản Việt Nam trong Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ IV.
Nhiệm vụ của Tạp chí Cộng sản được Chỉ thị số 32-CT/TW của Bộ Chính trị
nêu rõ: Tạp chí Cộng sản phải đứng vững trên lập trường của giai cấp
công nhân, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm cơ sở, kết hợp chặt chẽ lý luận Mác -
Lênin với thực tiễn cách mạng Việt Nam để tuyên truyền đường lối, chính sách và
các quan điểm của Đảng một cách xuất sắc. Tạp chí Cộng sản phải vận dụng
lý luận Mác - Lênin, phân tích những chủ trương, chính sách của Đảng, nâng cao
nhận thức của cán bộ và đảng viên về tư tưởng, chính sách và quan điểm của
Đảng, phê phán những khuyết điểm, sai lầm trong khi thi hành các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước.
2. Chính sách báo chí và sự phát triển
của báo chí
a) Nhiệm vụ của báo chí hoạt động
thống nhất trong cả nước
Giai đoạn 1976 - 1986 là thời kỳ đầu tiên
báo chí hoạt động thống nhất trên cả nước, vì thế nhiệm vụ đặt ra cho mỗi tờ
báo sau khi hợp nhất là sau khi thống nhất hai tờ báo, nhiệm vụ lớn là phải làm
sao cho các vấn đề của hai miền được đề cập đến một cách đầy đủ và hợp lý.
Văn kiện Đại hội lần thứ IV Hội Nhà báo
Việt Nam đã chỉ rõ: Nếu như trong những năm tháng chống Mỹ, cứu nước chủ đề đặt
ra cho báo chí Việt Nam là ''Không có gì quý hơn độc lập, tự do'' thì trong
thời điểm này, chủ đề trung tâm được phản ánh là ''Tất cả vì Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân''. Nhiệm vụ mới được đặt ra cho những người
làm báo là phải hăng hái tìm hiểu, học tập tự thu xếp cho mình những hành trang
cần thiết để phản ánh những vấn đề của cuộc sống mới.
Tuy nhiên, hai cuộc chiến tranh biên giới
xảy ra ngay sau những ngày đầu đất nước thống nhất khiến các lớp thanh niên đầy
triển vọng đang xây dựng đất nước lại tiếp tục ra trận, chiến đấu. Trước tình
hình đó, các nhà báo lại một lần nữa “khoác ba lô lên vai, đi vào đề tài chiến
đấu, cùng với đề tài lao động sản xuất, xây dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa''2.
Trong thời kỳ mới, yêu cầu mới đòi
hỏi toàn bộ lĩnh vực thông tin đại chúng phải nâng cao hơn nữa về tính tư
tưởng, về chất lượng và hiệu quả. Độc giả của báo chí thời kỳ này đã biến chuyển
về chất, trình độ văn hóa đã có nhiều thay đổi, ngày càng có nhiều công chúng
có trình độ văn hóa cao hơn, khát khao đi vào các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, kỹ thuật trong đó có các ngành
liên quan tới báo chí, sự giao lưu giữa Việt Nam với các nước ngày càng được mở
rộng. Điều này đặt ra cho đất nước những thuận lợi và nguy cơ mới. Vì
thế, nhiệm vụ đặt ra cho báo chí phải cung cấp cho công chúng lượng thông tin
ngày càng lớn, đề cập đến nhiều mặt của cuộc sống, có tính tư tưởng cao, mục
đích rõ rệt và hình thức thể hiện hấp dẫn.
Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ V (1982), Đảng Cộng sản Việt Nam nêu rõ: Nhiệm vụ cụ thể được đặt ra
cho báo chí giai đoạn này là, bằng các phương tiện và ngôn ngữ đặc thù của mỗi
loại hình, phối hợp với các binh chủng khác trong mặt trận tư tưởng phải trang
bị cho nhân dân những dữ kiện cần thiết để có một cái nhìn toàn diện về cục
diện của đất nước, khẳng định mạnh mẽ những thắng lợi làm cho mọi người
phấn khởi, tự hào đồng thời cũng chỉ rõ những khó khăn, yếu kém, phê phán những
quan điểm sai lầm trong sản xuất và đời sống. Báo chí phải tham gia vào cuộc
đấu tranh đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, quản lý xã hội, tích cực khắc
phục những hành động và định hướng lệch lạc trong khi thực hiện đường lối,
chính sách của Đảng. Đồng thời báo chí phải làm cho mọi người thấy rõ kẻ thù cơ
bản của nhân dân trong thời kỳ hiện tại là các thế lực phản động quốc tế. Trong
đó, nhiệm vụ trực tiếp của báo chí trong thời kỳ là giáo dục, bồi dưỡng phẩm
chất cách mạng, xây dựng nền văn hóa mới và con người mới bằng cách xây dựng
những nhân tố điển hình tiên tiến trên báo chí trong đó người lao động giỏi là
nhân vật trung tâm.
Nhiệm vụ đặt ra với báo chí, không thể
dừng lạc ở việc giải thích, phổ cập đường lối, chính sách, mà phải bằng những
luận cứ khoa học và sinh động, làm cho mọi người hiểu sâu đường lối, chính sách
và góp phần nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn, trước hết là của cán bộ, để
thực hiện chương trình kinh tế - xã hội và những mục tiêu do Đại hội lần thứ V
của Đảng nêu ra.
Những nhiệm vụ được đặt ra ở trên cho
thấy vai trò của báo chí trong thời kỳ này có ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp
mới của đất nước. Báo chí từ đó trở thành vũ khí sắc bén của Đảng, Nhà nước để
làm công tác tổ chức và công tác tư tưởng, đồng thời báo chí là công cụ để thực
hiện quyền làm chủ của nhân dân nước Việt Nam thống nhất. Cùng với sự chỉ đạo,
quản lý, hướng dẫn của Nhà nước, báo chí ngày càng thể hiện rõ hơn ý nghĩa và
vai trò đặc biệt của mình trong đời sống xã hội.
b) Chính sách quản lý báo chí
Nhìn chung, báo chí trong thời kỳ này đã
làm tốt công tác tư tưởng, công tác quản lý báo chí đã đi vào nền nếp thể hiện
rõ sự phát triển của báo chí. Đến thời điểm năm 1984, cả nước có hơn 200 tờ
báo, tạp chí xuất bản định kỳ và có hơn 200 tờ thông tin khoa học, kỹ thuật.
Thông tấn xã Việt Nam có đủ các phân xã ở các tỉnh, thành phố trong nước và một
số cơ sở thường trú ở nước ngoài. Báo chí có nội dung phong phú hơn rất nhiều
cả về lượng và chất: xuất bản nhiều loại báo chí về đối nội và đối ngoại; báo
chí địa phương và báo chí lực lượng vũ trang có một bước phát triển đáng kể.
Lượng thông tin của báo chí được mở rộng, chất lượng từng bước có cải tiến. Báo
chí cố gắng bám sát và phục vụ nhiệm vụ chính trị, góp phần tích cực vào công
tác tư tưởng, tổ chức của Đảng.
Tuy nhiên, hạn chế của hoạt động báo chí
trong thời kỳ này là chưa đáp ứng đầy đủ nhiệm vụ cách mạng và yêu cầu của quần
chúng, bộ máy báo chí chưa được kiện toàn. Điều này đã tạo nên những việc làm không
đúng của một số tờ báo như một số địa phương hoặc ngành xuất bản báo không theo
đúng luật lệ, một số báo ra phụ trương, phụ bản trái với quy định hiện hành,
các báo chưa làm đầy đủ việc nộp lưu chiểu và số lượng in... Những biểu hiện đó
làm cho công tác quản lý báo chí lỏng lẻo và báo chí chưa đảm nhiệm tốt được
nhiệm vụ và trách nhiệm của mình, gây khó khăn cho việc chỉ đạo và thống nhất
nội dung chính trị, tư tưởng.
Trước tình hình đó, ngày 10-1-1984, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị sề 32-CT/TW Về tăng cường công tác
quản lý báo chí. Ngày 20-6-1984, Ban Chấp hành Trung ương cũng ra Thông
tri hướng dẫn việc thi hành Chỉ thị của Ban Bí thư về tăng cường công tác quản
lý báo chí. Theo đó, một số hoạt động báo chí được quy định cụ thể để đưa hoạt
động báo chí đi vào nền nếp.
Để đảm bảo cho mỗi tờ báo khi xuất bản
đều có những chức năng, nhiệm vụ riêng, không dẫm đạp lên địa phận của nhau,
bản Chỉ thị quy định những nguyên tắc trong thể thức xuất bản, đình bản và
những việc có liên quan đến việc cho ra báo và tạp chí: ''Trong điều kiện về
giấy in, cơ sở vật chất, cán bộ cũng như tổ chức phát hành hiện nay chưa thể
cho ra thêm nhiều tờ báo mới. Phương hướng chính là nâng cao chất lượng nội
dung, cải tiến hình thức các tờ báo, tạp chí, tập san hiện có tuỳ điều kiện mà
tăng số lượng in và cải tiến việc phát hành cho đúng đối tượng và kịp thời,
không để mất mát, không gây phiền hà cho người đọc, đồng thời tổ chức tốt việc
sử dụng báo để nâng cao hiệu quả tuyên truyền''3.
Việc cho ra báo mới được quy định cụ thể,
phải được xem xét, cân nhắc và quyết định từng trường hợp thật cần thiết và phù
hợp với những quy định đã có. Soát lại những tờ báo, tạp chí đang lưu hành, tờ
nào xét thấy cần thiết mà chưa làm đúng thủ tục thì các cơ quan chức năng phải
hướng dẫn làm đầy đủ các thủ tục như luật lệ hiện hành, tờ nào xét chưa cần
thiết hoặc chức năng, nhiệm vụ trùng hợp với một số tờ báo đã có thì đình bản.
Báo chí của lực lượng vũ trang và an ninh, trừ những tờ báo, tập san, bản in
lưu hành nội bộ thì không được phát hành ra ngoài cơ quan tổ chức của ngành
mình, không được trao đổi với các báo chí lưu hành rộng rãi. Các báo muốn ra
thên phụ san, phụ bản phải có kế hoạch và xin phép trước và nội dung của các
phụ san phải phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của mình.
Một đặc điểm nổi bật của chính sách quản
lý báo chí trong thời kỳ này là việc phân phối giấy in báo cho các tờ báo trên
cả nước. Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của báo chí trong thời
kỳ này. Quý III hàng năm, Cục Xuất bản và Báo chí tập hợp yêu cầu về giấy của
các cơ quan báo chí và đề xuất ý kiến lên Bộ Văn hóa - Thông tin. Căn cứ vào
chỉ tiêu giấy do Uỷ ban Kế hoạch nhà nước cấp, Ban Tuyên huấn Trung ương sẽ căn
cứ nhiệm vụ chính trị chung và nhiệm vụ của từng địa phương, của các ngành trong
từng giai đoạn, từ đó phân phối in cho từng tờ báo cụ thể. Riêng báo Nhân
dân do Ban Bí thư quyết định, nhưng cũng tổng hợp xong chỉ tiêu về giấy cho
báo chí nói chung. Ngoài chỉ tiêu giấy do Nhà nước phân phối, các báo có thể sử
dụng thêm các nguồn giấy từ uỷ ban kế hoạch tỉnh hoặc thành phố cấp trên cơ sở
cân đối kế hoạch của địa phương. Giấy từ các ngành và các địa phương nhập khẩu
thêm: giấy từ nguồn viện trợ quốc tế mà địa phương được sử dụng. Một quy định
được đặt ra là, các báo không được mua đi, bán lại giấy trên thị trường tự do
hoặc mua thẳng từ nhà máy giấy với giá cao.
Chỉ thị của Ban Bí thư cũng chỉ rõ, báo
chí là vũ khí để làm công tác tư tưởng. Không thể vì thị hiếu của người đọc,
lợi ích kinh doanh hay vì một lý do nào khác mà coi nhẹ nhiệm vụ chính trị đó,
hoặc làm trái với chức năng, nhiệm vụ đã quy định. Tuyệt đối không được chạy
theo khuynh hướng thương mại. Trong hoàn cảnh Nhà nước chưa cung cấp đầy đủ
giấy in, các địa phương, các ngành có thể khai thác khả năng về giấy của địa
phương hoặc ngành mình để tăng số lượng in...
Sự bao cấp và phân phối báo chí này đã
góp phần tạo nên những yếu kém của báo chí trong thời kỳ này. Nhà báo Lan Anh,
nguyên Phó Tổng biên tập phụ trách báo Khoa học và đời sống kể lại:
''Trước năm 1983, các báo hầu như được bao cấp, có loại được bao cấp hoàn toàn
như Nhân dân, Quân đội nhân dân, Hà Nội mới... Có loại được bao cấp một
phần thông qua việc cấp chỉ tiêu giấy in báo hàng năm, đó là báo ngành, đoàn
thể như Tiền phong, Phụ nữ, Khoa học và đời sống... nên không có giấy in
báo bán tự do. Hàng năm, Bộ Văn hóa - Thông tin phân phối chỉ tiêu giấy in báo
cho từng báo với giá cung cấp nên rất rẻ, vì vậy báo giá cũng rẻ. Thật nực cười
là xem báo xong đem cân cho đồng nát theo giá giấy cân mà vẫn hòa so với tiền
đặt mua báo. Vì vậy, ai chẳng muốn mua báo! Do đó, báo cũng phải phân phối, chỉ
những ai đúng đối tượng mới được mua, ai có hóa đơn năm trước mới được mua báo
năm sau. Báo in tới mười mấy vạn mà vẫn không đủ bán''4.
Do giấy khan hiếm nên số lượng báo phát
hành bị hạn chế. Việc đặt mua báo dài hạn tăng lên và phải được cơ quan phát
hành báo chí duyệt, cắt bớt, số bán lẻ chẳng còn bao nhiêu. Sáng sáng, người
xếp hàng mua báo ở các quầy bưu điện kéo dài. Hiện tượng mua đi, bán lại tăng
giá báo đã xảy ra5.
Trường hợp của Sài Gòn giải phóng cũng
là một thí dụ tiêu biểu cho tình trạng bao cấp giấy in. Từ ngày 1-7-1981 để đáp
ứng yêu cầu mới về thông tin tuyên truyền, thành uỷ đã quyết định báo Sài
Gòn giải phóng chuyển sang xuất bản và phát hành buổi sáng. Đồng thời báo
cũng tăng từ 4 trang lên 6 trang. Nhưng những năm sau đó, do kinh tế đất nước
gặp khó khăn, nguồn giấy in báo cung cấp không đủ, báo phải trở lại 4 trang.
Sau này, để chủ động cho nguồn giấy, báo Sài Gòn giải phóng chủ
trương xây dựng một nhà máy giấy cuộn in báo.
Hoạt động phát hành báo chí thời kỳ này
bắt đầu được chuyển giao, việc phát hành cho cơ quan bưu điện với điều kiện cơ
quan phát hành đảm bảo tờ báo đến đúng đối tượng và không để sụt số lượng so
với trước. Chỉ thị 32 nêu rõ: những tờ báo và tạp chí hiện đang do tòa báo tự
tổ chức việc phát hành thì cần có kế hoạch từng bước chuyển giao việc phát hành
cho bưu điện. Cơ quan bưu điện phải đảm bảo đưa tờ báo đến đúng đối tượng và
không để sụt số lượng so với trước. Trường hợp bưu điện chưa đảm nhiệm được thì
có thể tạm thời hai bên cùng tổ chức việc phát hành hoặc tòa báo tự phát hành
thêm một thời gian nữa. Riêng báo địa phương, ở địa phương nào chỉ phát hành ở
địa phương đó, việc bán sang địa phương khác cần được cơ quan cho phép ra báo
xem xét với một tỷ lệ nhất định so với tổng số lượng in của tờ báo đó. Vấn đề
trao đổi và phát hành báo chí ra nước ngoài thời kỳ này được xác định, chỉ có
các báo chí xuất bản ở trung ương mới được phép trao đổi với các cơ quan
xuất bản ở nước ngoài và việc phát hành này do Tổng Công ty xuất nhập khẩu sách
báo đảm nhiệm. Sự chặt chẽ này, có thể nói, đã phần nào làm hạn chế sự phát
triển của báo chí trong thời kỳ này.
Thời điểm này, hầu như chỉ có báo Sài
Gòn giải phóng là tự phát hành, các báo khác đều phải giao cho bưu điện.
''Tuy nhiên, báo bị kiện giữ lắm, phải giải quyết mất mấy lần''. Nhà báo Nguyễn
Thị Vân Anh, nguyên Phó Tổng biên tập báo Sài Gòn giải phóng đã
giải thích: Sở dĩ báo Sài Gòn giải phóng làm như vậy vì lý do: Một là,
nếu chúng tôi không quản khâu phát hành mà giao cho bưu điện, hàng ngày báo đến
tay bạn đọc chậm, chúng tôi đành bó tay. Mà báo ngày nay là phải có tính chiến
đấu, phải nhanh, nhạy, chậm là không tốt cho tờ báo của Đảng. Hơn nữa, báo mất,
bạn đọc kêu, chúng tôi không giải quyết được. Như vậy, vừa mất tính thời sự của
báo, vừa mất lòng tin của quần chúng và bạn đọc.
Về giá bán báo, Nghị định số 33 ngày
27-2-1984 của Hội đồng Bộ trưởng ban hành điều lệ quản lý giá định rõ, ngoài
giá báo Nhân dân và Quân đội nhân dân, giá các báo chí khác do Bộ
Văn hóa - Thông tin quy định. Thủ tục định giá báo vẫn theo quy định giá từng
tờ báo sau khi tham khảo ý kiến của Ban Tuyên huấn Trung ương, Uỷ ban Vật giá
nhà nước và ban biên tập của tờ báo. Việc định lại giá, nếu cần thiết cũng chỉ
làm nhiều nhất là hai lần trong một năm. Việc định giá bán mỗi tờ báo phải xuất
phát từ yêu cầu chính trị đối với tờ báo đó, kết hợp với tính toán giá thành và
khả năng tiêu thụ, nhằm tiến tới thực hiện báo lấy thu bù chi. Nói chung, giá
báo không nên định thấp hơn giá mua báo cũ, để tránh tình trạng xảy ra những
hiện tượng tiêu cực trong việc phát hành. Đối với những tờ báo có nhiều khả
năng tiêu thụ (như báo Văn nghệ, báo đặc biệt số Xuân, một số phụ bản
biên tập theo chuyên đề thì có thể định giá cao hơn mức giá đối với các báo
thông thường một ít.
Công tác quảng cáo của báo chí được quy
định: Nội dung chủ yếu của quảng cáo là thông tin kinh tế, mục đích quảng cáo
là phục vụ sản xuất và tiêu dùng, khuyến khích, nâng cao chất lượng sản phẩm,
cải tiến lưu thông, tuyên truyền cho lối sống lành mạnh, phục vụ nhu cầu đời
sống vật chất và văn hóa của xã hội. Cần phải ngăn ngừa những lệch lạc có thể
xảy ra, như quảng cáo cho hàng xấu, hàng giả, khuyến khích lối sống xa hoa, góp
phần làm sống lại những phong tục, tập quán đã lỗi thời.
Những quy định về hoạt động của báo chí
có ảnh hưởng đến hoạt động của báo chí, vì thế vấn đề được đặt ra là công tác
quản lý báo chí cần phải đi vào nền nếp và phù hợp với những chuyển biến tích
cực đang xảy ra trong đời sống kinh tế, xã hội.
Tuy nhiên, việc bao cấp các hoạt động báo
chí trong thời kỳ này đã phần nào kìm hãm sự phát triển của báo chí.
Hoạt động xuất bản báo chí chủ yếu theo sự phân phối từ trên xuống (thậm chí là
phát không) theo cơ chế bao cấp, vì thế kém phát triển và thiếu hiệu quả cả về
chất lượng và số lượng.
c) Tình hình phát triển của hệ
thống báo chí
Thời kỳ 1976 - 1986, nền báo chí thực dân
mới đã thực sự bị xóa bỏ, hệ thống báo chí xã hội chủ nghĩa thống nhất trên cả
nước. Ở thành phố Hồ Chí Minh, ngay sau khi đất nước thống nhất đã có 14 tờ báo
mới ra đời như Sài Gòn giải phóng, Tuổi trẻ, Văn nghệ thành phố Hồ
Chí Minh, Khoa học phổ thông...
Đặc biệt do điều kiện cụ thể của đất
nước, thời kỳ này còn có một vài tờ báo không thuộc cơ quan đoàn thể nào. Đây
là một ngoại lệ cần thiết lúc đó nên những tờ báo này phải tự đặt mình trong
quỹ đạo chung của chủ nghĩa xã hội và dưới sự lãnh đạo của Đảng như đồng chí
Lưu Quý Kỳ đã chỉ rõ: ''Trên lĩnh vực báo chí, công cụ của nền chuyên chính vô
sản, không thể có công tư hợp doanh về quan điểm và tư tưởng''.
10 năm sau ngày thống nhất đất nước, báo
chí Việt Nam đã phát triển lớn mạnh không chỉ về số lượng mà còn mở rộng thành
một hệ thống đa dạng, phong phú. Với số lượng 186 tờ báo năm 1980, báo chí Việt
Nam đã phát triển rộng, gồm các loại: Báo Đảng ở trung ương: 7 tờ, báo Đảng ở
địa phương: 40 tờ, báo của các đoàn thể, đảng phái: 16 tờ, báo đối ngoại: 6 tờ,
báo của các lực lượng vũ trang: 29 tờ, báo văn hóa nghệ thuật: 10 tờ, báo của
các ngành: 77 tờ, báo tư nhân: có 1 tờ là Tia sáng. Trong số đó,
đã có 7 tờ báo xuất bản hàng ngày là: Nhân dân, Quân đội nhân dân, Sài Gòn
giải phóng, Hoa văn giải phóng, Hà Nội mới, Tia sáng, Bản tin của Thông
tấn xã. Báo xuất bản hàng tuần có 19 tờ, bán nguyệt san có 31 tờ, nguyệt
san có 30 tờ, báo phát hành 2 tháng/kỳ có 30 tờ, 3 tháng/kỳ có 22 tờ…
Hệ thống báo điện tử cũng phát triển
nhanh chóng trong thời kỳ: Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam phát trên 5 hệ
thống với 13 giờ/ngày bằng tiếng Việt, 35 giờ/ngày với 11 ngôn ngữ nước ngoài.
Ngoài ra, còn có 40 đài phát thanh của các tỉnh thành, đặc khu phát cả tiếng
phổ thông, tiếng dân tộc thiểu số địa phương, 500 đài truyền thanh cấp huyện và
4.000 trạm truyền thanh cơ sở. Truyền hình thời kỳ này tuy đang ở những bước
đầu nhưng đã có hệ thống đài vô tuyến truyền hình trung ương, trung tâm nghe
nhìn ở trung ương và 8 đài vô tuyến truyền hình ở địa phương.
Để hiểu rõ hơn về tình hình hoạt động của
báo chí trong thời kỳ, hãy so sánh những số liệu trong bảng dưới đây:
Bảng thống kê hoạt động của báo chí giai
đoạn 1976 - 1986:
Năm
|
Số lượng
|
Trung ương
|
Địa phương
|
Phát hành
|
Giấy in
|
Số báo/người
|
1975
|
>130
|
|
|
|
|
|
1976
|
168
|
118
|
50
|
300 triệu bản
|
11.000 tấn
|
6,1 bản
|
1977
|
169
|
118
|
51
|
270 triệu bản
|
9.300 tấn
|
|
1978
|
198
|
148
|
50
|
262 triệu bản
|
9.000 tấn
|
|
1979
|
200
|
150
|
50
|
214 triệu bản
|
6.800 tấn
|
|
1980
|
186
|
136
|
50
|
161 triệu bản
|
5.400 tấn
|
|
1983
|
>200
|
|
|
|
|
3,8 bản
|
1985
|
>200
|
|
|
|
6.600 tấn
|
|
1986
|
241
|
|
|
243 triệu bản
|
6.900 tấn
|
|
1996
|
562
|
|
|
525 triệu bản
|
|
6,9 bản
|
Từ bảng trên, có thể thấy sự phát triển
về số lượng của báo chí Việt Nam mà đặc biệt là sự tăng mạnh của báo chí trung
ương trong thời kỳ 1976 - 1986. Với số lượng từ hơn 130 tờ báo năm 1975 đã lên
tới 241 tờ năm 1986, thể hiện sự tăng trưởng trung bình của báo chí trong một
năm là hơn 6 tờ báo. Năm 1980, lượng báo chí giảm đi do có sự thay đổi, sắp xếp
lại báo của các lực lượng vũ trang nên một số tạp chí bị đình bản.
Như đã trình bày lượng giấy in báo của
các cơ quan báo chí là do Cục Báo chí phân phối cho từng đơn vị. Ba năm đầu của
giai đoạn 1976 - 1978, báo chí được bao cấp nên các tờ báo đều có lượng phát
hành lớn phục vụ cho nhu cầu của nhân dân. Năm 1976 trung bình một người được
hưởng 6,l bản/người gần bằng mức bình quân năm 1996 là 6,9 bản/người. Đặc biệt
trong thời kỳ đó, báo Nhân dân đã xuất bản được 30 đến 35 vạn số. Những
con số đó đã nói lên phần nào sự tăng trưởng của hoạt động báo chí trong thời
kỳ này.
Tuy nhiên, từ cuối năm 1979 đến đầu năm
1980 trở đi, lượng phát hành của các tờ báo bắt đầu giảm đi: Từ 300 triệu bản
in năm 1976 xuống còn 214 triệu bản năm 1978 và 161 triệu bản năm 1980. Lý do
dẫn đến tình trạng này là lượng giấy cung cấp cho các báo giảm từ 9.300 tấn
giấy năm 1976 xuống dần đến 6.800 năm 1979 và 5.400 năm 1980. Như vậy, lượng
giấy Nhà nước phân phối giảm đi gần một nửa so với thời kỳ trước, vì thế báo
chí thời kỳ này chỉ đáp ứng được khoảng từ 30% đến 50% yêu cầu của độc giả. Đến
năm 1983, các báo bắt đầu thấy chóng mặt vì sóng gió của thị trường: do số
lượng báo chí xuất bản ngày càng nhiều, trong khi đó, lượng ngân sách có hạn
nên mức độ bao cấp giấy giảm đi kéo theo giá giấy ngày càng tăng.
Điều đó đã dẫn đến sự khủng hoảng của các
tờ báo, ''do báo đặt mua qua bưu điện theo quý nên giá báo chỉ được phép thay
đổi vào đầu quý. Trong khi đó, giá giấy và công in lại tăng liên tục. Vì vậy,
có lúc giá thành của báo lại cao hơn giá bán! Thế là các tòa soạn bị lỗ, càng
in nhiều càng lỗ nhiều. Tình trạng đó dẫn đến một bệnh dịch của làng báo là gộp
số mà không tăng trang. Nghĩa là trên tờ báo ghi là gộp 2 - 3 số nhưng số trang
vẫn chỉ là của một số báo''. Những ảnh hưởng trực tiếp kéo theo hoạt động của
báo chí đến giai đoạn sau. Cuối năm 1988, giá báo Khoa học và đời sống là
80 đồng/tờ, sang quý I năm 1989 tăng lên 130 đồng/tờ; đến quý II là 200
đồng/tờ. Chỉ trong vòng 3 năm, từ năm 1987 đến năm 1989 giá báo đã tăng từ 2
đồng lên 200 đồng/tờ, như vậy là tăng 100 lần.
Trong cái khó, ló cái khôn. Sự khó khăn
đã khiến cho một số báo tìm ra cách làm mới phù hợp với thời cuộc, đồng thời
thoát khỏi việc phải đóng cửa tờ báo. Đây cũng là bước phát triển bước đầu của
loại hình báo chí chuyên biệt. Các báo bắt đầu ra phụ san với những chuyên đề
khác nhau, bán với số lượng cao để bù lỗ cho báo. Một trong những tờ báo mở đầu
là báo “Phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh'' và báo “Khoa học và đời sống”.
Báo Khoa học và đời sống xuất bản phụ san theo khuôn khổ tạp chí,
nhỏ bằng nửa tờ báo. Phụ san in từ 6 đến l0 vạn bản mà không đủ phân phối cho
các Đại lý. Với phụ san “Hỏi đáp khoa học'' thấy nhu cầu lớn, tòa soạn
đã tái bản lần thứ hai 10 vạn bản nữa. Tất nhiên, phụ san bán với giá cao nên
thu lãi nhiều. Những thành công trong việc ra phụ san của những tờ báo mở đầu
đã có nhiều báo học tập để cải thiện đời sống của mình.
Cùng với công tác cải tiến nâng cao chất
lượng nội dung thông tin và hình thức của tờ báo, từ cuối năm 1977, Sài Gòn
giải phóng còn tăng thêm ấn phẩm để đáp ứng yêu cầu mở rộng thông tin của
bạn đọc. Ấn phẩm “Hóa đơn giải phóng'' của Sài Gòn giải phóng được
xuất bản đều đặn hàng ngày đã thu hút số lượng người đọc báo ngày càng đông.
Một bước đột phá góp phần vào sự thành công trong hoạt động của báo Sài Gòn
giải phóng là việc đăng quảng cáo thông tin kinh tế trên báo (thời
kỳ bao cấp, chuyện đăng quảng cáo chưa phổ biến). Từ năm 1980, báo đã mở mục
thông tin kinh tế với nội dung gồm giới thiệu sản phẩm mới, mặt hàng
mới, những mặt hàng cần trao đổi..., tiếp đến là các mục quảng cáo, rao vặt.
Ban đầu, diện tích của những mục này chỉ có l/3 trang và từ khi diện tích quảng
cáo tăng lên hơn 2/3 trang thì quảng cáo trên báo Sài Gòn giải phóng trở
thành một ''kênh'' riêng như Phụ trương của Sài Gòn giải phóng.
Tuy nhiên, khi những sai lầm, khuyết điểm
trong đường lối kinh tế, quản lý xã hội bắt đầu lộ rõ những yếu kém của cơ chế
quan liêu, bao cấp (khoảng từ đầu năm 1980) thì cũng là lúc báo chí lâm vào căn
bệnh sáo mòn, khô khan. Chất lượng giảm, giá bán báo tăng, nên báo chí trong
những năm này không đáp ứng được yêu cầu của nhân dân, đồng thời làm giảm uy
tín của các tờ báo. Trong cuốn sách 70 năm báo Lao động đã chỉ rõ: ''Đầu
tiên là sự phai nhạt tình cảm của bạn đọc miền Nam sau những vồ vập ban đầu.
Bạn đọc chê báo khô khan, nhất là thiếu thông tin, tin không mới, một chiều,
thiếu khách quan. Các phóng sự viết theo yêu cầu minh họa cho chủ đề có sẵn, ít
có những nhận xét sắc sảo, ít tư liệu bổ sung kiến thức cho người đọc…
Hậu quả của tình hình trên là lượng phát hành giảm sút nghiêm trọng, ngay cả
trên các tỉnh miền Bắc. Tổng số phát hành trong cả nước từ khoảng 60.000 đến
70.000 bản mỗi số xuống còn 20.000 đến 30.000 bản''6.
Trước tình hình mới, Ban Bí thư Trung
ương Đảng đã có Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 24-2-1981 về cải tiến công tác
thông tin, báo chí - xuất bản, trong đó đề cập tới báo cần chú ý đăng những
kinh nghiệm công tác thực tiễn, nhất là về mặt kinh tế và cải tạo xã hội để phổ
biến kịp thời cho các nơi. Biểu dương người tốt việc tốt, nêu cao ưu điểm,
thuận lợi, đồng thời phê phán những hiện tượng không lành mạnh, nói rõ khó
khăn, thiếu sót và biện pháp khắc phục, không nói một chiều... Để tránh căn
bệnh sáo mòn của báo chí, ngày 20-5-1981, Ban Chấp hành Trung ương ra Thông tri
hướng dẫn việc giảm bớt tin tức có tính lễ tân. Theo đó, các cơ quan thông tin
báo chí đều phải thực hiện việc giảm bớt, rút ngắn thông tin về các cuộc mít
tinh, chiêu đãi, đón tiếp, viếng thăm xã giao,... để tăng thêm số lượng thông
tin về sản xuất, quản lý kinh tế, quản lý xã hội và giải quyết những vấn đề đời
sống của nhân dân.
Qua những số liệu được phân tích trên, có
thể nhận xét hoạt động của báo chí Việt Nam trong thời kỳ này đã có sự phát
triển hơn về số lượng, đồng thời cũng phong phú đa dạng về loại hình. Tuy
nhiên, hoạt động của hệ thống báo chí trong thời kỳ này còn hạn chế. Hệ thống
báo chí trong thời kỳ này còn mỏng, chưa có nhiều thay đổi so với thời kỳ
trước, ít các loại báo chuyên biệt và chủ yếu là các loại báo đảng bộ phục vụ
cho công tác tuyên truyền của Đảng. Sự bao cấp báo chí đã làm hạn chế sự phát
triển của báo chí. Báo chí chủ yếu phát hành dựa vào các tổ chức. Vì thiếu sự
quan tâm, đầu tư đến hiệu quả kinh tế nên hình thức, nội dung của mỗi tờ báo
còn nhiều hạn chế. Những vấn đề đó làm cho báo chí trong thời kỳ này hoạt động
không hiệu quả, vì thế đòi hỏi báo chí phải có một sự đổi mới thật sự từ phong
cách đến nội dung của mỗi tờ báo.
d) Hoạt động của báo chí địa phương
Nằm trong hoạt động chung của báo chí,
báo chí địa phương trong thời kỳ này cũng phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và
chất lượng. Đến năm 1986 đã có hơn 50 tờ báo của các địa phương quản lý, bao
gồm báo ngành và báo đoàn thể. Trong đó, thành phố Hồ Chí Minh có 14 tờ báo,
gồm: Công nhân giải phóng, Tuổi trẻ thành phố Hồ Chí Minh, Khăn quàng đỏ,
Giác ngộ... Báo chí Hà Nội thời kỳ này, ngoài Hà Nội mới, Đài Phát thanh
và truyền hình Hà Nội, Màn ảnh Hà Nội và các bản tin của ngành Văn hóa -
Thông tin còn có thêm các tờ An ninh Thủ đô, Chiến sĩ Thủ đô, Tuổi trẻ Thủ
đô, Người Hà Nội...
Hệ thống các đài truyền thanh, truyền
hình địa phương cũng bắt đầu tăng mạnh trên cả nước. Đến năm 1985, ngoài Đài
Truyền hình Trung ương, cả nước đã có thêm 8 đài truyền hình ở các địa phương:
Nghệ Tĩnh, Bình Trị Thiên, Quảng Nam - Đà Nẵng, Nghĩa Bình, Phú Khánh, thành
phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Vũng Tàu - Côn Đảo.
Trước yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ
cách mạng và đòi hỏi của đông đảo công chúng, công tác báo chí ở địa phương cần
phải kịp thời cải tiến, nâng cao chất lượng nội dung tuyên truyền, nghiệp vụ để
đáp ứng được những yêu cầu trong hoàn cảnh mới. Nhằm thống nhất và ổn định tổ
chức của các báo đài địa phương trong thời kỳ này, ngày 15-10-1985, Ban Tuyên
huấn Trung ương ra Chỉ thị về ''Quy chế tổ chức báo chí địa phương”. Theo
đó, nhiệm vụ của các báo, đài của tỉnh, thành phố được đề cập cụ thể như sau:
''Tất cả các báo, đài của tỉnh, thành phố có nhiệm vụ chủ yếu tuyên truyền các
vấn đề của địa phương và phát hành trong phạm vi địa phương, không đề cập đến
các vấn đề và các đối tượng các tỉnh, thành phố khác. Báo đài địa phương dành
một phần nhất định để tuyên truyền giáo dục về các sự kiện chính trị quan trọng
trong nước và thời sự quốc tế (theo sự chỉ đạo của Ban Tuyên huấn Trung ương và
thông tin phổ biến của Thông tấn xã Việt Nam) nhưng không có nhiệm vụ bình luận
các vấn đề quốc tế có quan hệ đến chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng và
Nhà nước''.
Công tác quản lý báo chí địa phương từ đó
cũng được quy định: ''Mỗi tỉnh thành phố (trực thuộc trung ương) có một tờ báo
của đảng bộ, một đài phát thanh trực thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố và
thuộc sự chỉ đạo ngành dọc của Uỷ ban Phát thanh truyền hình trung ương. Ngoài
các tờ báo Đảng, các cơ quan, đoàn thể cấp tỉnh, thành phố không được ra tờ báo
riêng. Báo Đảng sẽ đảm nhiệm việc tuyên truyền cho các ngành, các giới của địa
phương''7.
Có thể nói, báo chí địa phương trong thời
kỳ này đã chung sức cùng với các loại hình báo chí Việt Nam trải qua những khó
khăn do sự khủng hoảng kinh tế của đất nước, cố gắng vươn lên, đóng vai trò
xung kích trong mặt trận tư tưởng, phục vụ chủ trương đổi mới đất nước,
xóa bỏ cơ chế quan liêu, bao cấp, nâng cao mức sống của người dân. Nằm trong
hoạt động của hệ thống báo chí Việt Nam, trong thời kỳ này, báo chí của các địa
phương nói chung cũng không thoát khỏi những khó khăn và hạn chế chung. Vì thế,
cùng với yêu cầu phải đổi mới hoạt động báo chí, báo chí địa phương cũng phải
chuẩn bị cho sự đổi mới riêng của mình.
3. Vai trò của báo chí trong công cuộc
xây dựng đất nước
Giai đoạn lịch sử mới đã mở ra cho
báo chí Việt Nam những điều kiện và nhiệm vụ mới. Từ đó, nội dung phản ánh trên
báo chí thời kỳ này cũng có những thay đổi. Nếu như trong giai đoạn trước, chủ
đề trung tâm của báo chí Việt Nam là ''Tất cả vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì
hạnh phúc của nhân dân” thì nay là:
a) Củng cố tình cảm thống nhất đất
nước
Phản ánh thắng lợi của đại thắng mùa Xuân
năm 1975, báo chí Việt Nam đã tận đụng triệt để ưu thế của mình để tuyên truyền
và cổ vũ khí thế hào hùng của dân tộc. Trên các trang báo sau ngày thống nhất
đất nước đã xuất hiện thường xuyên các mục tuyên truyền và giải thích ý nghĩa
của cuộc thắng lợi chống Mỹ, cứu nước. ''Trong bốn nghìn năm lịch sử, không có
xuân nào vui bằng xuân 1976 này. Dân tộc ta vừa đánh thắng một tên đế quốc mạnh
nhất thế giới, đất nước ta vừa làm nên một bản anh hùng ca của thời đại. Nhân
dân ta vừa giành lại được hòa bình, độc lập và thống nhất trọn vẹn, Bắc Nam sum
họp một nhà, mở ra giai đoạn cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội''8.
Các trang báo, các chương trình phát
thanh truyền hình trong thời kỳ này có dịp kể lại những trận đánh hào hùng,
những giai đoạn phát triển của cuộc đại chiến mùa Xuân đầy ý nghĩa. Từ ngày
l-4-1976 đến ngày 23-5-1976, trên báo Nhân dân có đăng loạt bài
nhiều kỳ của Đại tướng Văn Tiến Dũng, người trực tiếp tham gia chỉ huy Chiến
dịch Hồ Chí Minh, kể chuyện về những ngày chiến đấu cuối cùng giải phóng miền
Nam. Loạt bài này cung cấp lượng thông tin hấp dẫn cho bạn đọc trong cả nước,
đồng thời cũng mở ra cho người đọc cái nhìn chiến lược về cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước vừa qua. Báo Sài Gòn giải phóng từ số 212 (ngày
8-1-1976) cũng đưa tin về những chiến công oanh liệt của binh chủng không quân
vận tải vào những giờ phút lịch sử của Chiến dịch Hồ Chí Minh: ''30 năm qua,
quân đội và nhân dân ta đã tiến những bước dài. Từ những chiến sĩ quân giải
phóng đi chân đất băng rừng vượt suối tiếp tế cho đơn vị tiến công đồn bốt phát
xít Nhật, những đoàn xe đạp thồ tải đạn lên mặt trận Điện Biên Phủ đến những phi
đoàn máy bay vận tải cất cánh từ Hà Nội tham gia cuộc tổng tiến công giải phóng
Sài Gòn... cách mạng lớn lên và chiến thắng để lại cho lịch sử những chuyện
thần kỳ''.
Một loạt bài viết của báo chí trong thời
kỳ này đã đề cập tới những đơn vị anh hùng, những chiến sĩ anh hùng trong cuộc
chiến tranh như: “Một thắng ba trăm'' viết về trận đánh cuối cùng của
Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, liệt sĩ Trần Kiệt; ''Từ đường dây
chiến thắng đến đường dây thống nhất'' viết về trung đoàn 132 thông tin9.
Báo chí cũng trở thành cầu nối thông tin cho bạn đọc về nghệ thuật sử dụng lực
lượng, chỉ đạo chiến lược tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như những tư
liệu quý về các phương pháp chiến đấu của các binh chủng quân đội, của quân dân
du kích mà trước đây chưa có điều kiện công bố. Dưới những thể loại hồi ký,
điều tra, hay là những câu chuyện lịch sử, báo chí đã tạo dựng lại được một bức
tranh toàn cảnh về sự chiến đấu, hy sinh anh dũng của nhân dân Việt Nam để
giành lại cho được độc lập, tự do. Hàng loạt bài báo của báo chí nước ngoài nói
về ý nghĩa cuộc đại thắng của dân tộc Việt Nam cũng được báo chí Việt Nam đăng
tải. Điều này góp phần khẳng định ý nghĩa to lớn của công cuộc giải phóng thống
nhất đất nước và vị trí của Việt Nam trên trường thế giới. Các báo, đài trong
thời kỳ này bên cạnh ý nghĩa của chiến thắng vĩ đại của dân tộc đã không ngừng
ca ngợi và khẳng định ý nghĩa, vai trò to lớn của sự lãnh đạo của Đảng và Nhà
nước.
Có thể nói, một mảng màu tươi sáng trong
bức tranh báo chí Việt Nam giai đoạn 1976 - 1986 là những trang viết, những
chương trình phát thanh truyền hình ôn lại thắng lợi của cuộc chiến tranh giải
phóng dân tộc, về ý nghĩa to lớn và về lòng tin đối với đường lối lãnh đạo của
Đảng và Nhà nước. Những mảng màu đó đã phần nào tái hiện được không khí hào
hùng, niềm vui chiến thắng, và cả những niềm tin về một tương lai tươi sáng và
tốt đẹp của người dân Việt Nam.
b) Vận động xây dựng chủ nghĩa xã hội
Nhiệm vụ đặt ra cho báo chí trong thời kỳ
này ngoài việc tuyên truyền cho thắng lợi của cuộc chiến tranh giải phóng đất
nước còn phải cổ vũ cho công cuộc thống nhất đất nước. Cuộc bầu cử Quốc hội
chung trong cả nước đã trở thành ''ngày hội hoàn thành trọn vẹn sự nghiệp thống
nhất nước nhà''. Vì thế, báo chí đã tưng bừng tuyên truyền cho ý nghĩa to lớn
của ngày hội toàn dân này: ''Đây là ngày hội của lịch sử của non sông đất nước
ta, ngày hội thống nhất sơn hà, ngày hội chói sáng tinh thần, nghị lực và ý chí
cách mạng của dân tộc ta... Cuộc tổng tuyển cử này cũng khẳng định chân lý: “Nước
Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn song
chân lý ấy không bao giờ thay đổi''. Nhân dân ta đã đập tan mọi âm mưu chia
cắt, hoàn thành trọn vẹn sự nghiệp thống nhất thiêng liêng của nước Việt Nam ta10.
Báo chí đã gợi lên được không khí háo hức, vui mừng của người dân trên cả nước,
đặc biệt những người dân Sài Gòn trong ngày hội bầu cử: ''Những nơi niêm yết
danh sách cử tri đều được trang trí cờ, biểu ngữ, và khẩu hiệu nền đỏ, chữ vàng
trang trọng, khiến mỗi cử tri đến dò tìm tên mình trên danh sách đều cảm thấy
tự hào là công dân của Tổ quốc thống nhất và chế độ mới”11.
Khắp mọi miền của đất nước đều được tái hiện lại bức tranh tươi mới của ngày
vui thống nhất đất nước của người dân Việt Nam: ''Những cuộc thông xe cuối cùng
đã kết thúc. Dù nắng hay mưa, đoạn đường nào những ngày ấy đều có cờ đỏ và lòng
ai cũng lồng lộng những suy nghĩ tốt lành; tiếng cười vui gần muốn biến thành
nức nở; người già và con trẻ trên mọi miền đất nước đã tranh nhau nâng niu từng
đầu máy, toa xe... với tuyến đường Thống Nhất, toàn dân ta đều có chung một
động thái thống nhất, suốt từ khi mới nghĩ về nó cho tới khi nó đã hoàn thành''12.
Trong khi tiếp quản và xây dựng các vùng
đất mới, vấn đề đặt ra cho các tờ báo phải vừa đồng thời đấu tranh những lại những
luận điệu phản động còn sót lại. Báo chí Việt Nam đặc biệt 1à báo chí Sài Gòn
trong thời kỳ này đã góp sức mình vào nhiệm vụ xóa bỏ những tàn dư cũ bằng cách
phản ánh một cách chân thực những tệ nạn xã hội còn sót lại của bọn phản động.
Đồng thời, báo chí phân tích những hành động đó để cho nhân dân thấy rõ bản
chất của chúng: ''Bọn phản động cách mạng ở nhà thờ Vinh Sơn là những bọn nào?
Đó là những tên sĩ quan ngụy không chịu ra nộp súng và đăng ký trình diện, vẫn
ngoan cố chống lại chính quyền cách mạng. Đó là những tên đội lốt Thiên chúa
giáo, lợi dụng nhà thờ để hoạt động chống phá cách mạng, chống phá nhân dân.
Chúng tung ra những tin đồn nhảm, đặc biệt đã in giấy bạc giả, tung ra thị
trường phá hoại nền kinh tế tài chính của đất nước, phối hợp với bọn đầu cơ làm
cho vật giá tăng vọt, trực tiếp ăn cướp của nhân dân ta, nuôi dưỡng những tên
phản loạn, mua chuộc cám dỗ một số người đi vào con đường tội lỗi''13.
Xã luận trên báo chí một lần nữa tập
trung vào đề tài tuyên truyền cho khối đại đoàn kết Bắc Nam, cho những cảnh
đoàn tụ gia đình của nhân dân sau ngày giải phóng. Những bài báo đó đã góp phần
phục vụ tốt công tác tuyên truyền của báo chí theo định hướng của Đảng. Báo chí
trong các tỉnh miền Nam cũng không ngừng phổ biến cho đường lối của Đảng, Nhà
nước và chủ động lựa chọn con đường đi cho bản thân mình dưới sự định hướng
chung. Báo Sài Gòn giải phóng đã đi đầu trong công tác này với loại bài
như: ''Cục diện mới ở thành phố chúng ta'', “Chung sức đắp xây Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa Việt Nam đời đời cường thịnh''…
Song song với việc bài trừ các tệ nạn báo
chí Việt Nam tuyên truyền cho những hình thức sinh hoạt văn hóa lành mạnh và bổ
ích, đáp ứng được nhu cầu giải trí, văn hóa văn nghệ cho nhân dân: “Gần như đã
thành thường lệ, vào giờ nghỉ công nhân được nghe đài truyền thanh nhà máy kết
hợp giới thiệu nội dung tóm tắt các quyển sách cần đọc. Những sự kiện lịch sử
như các ngày lễ lớn, Đại hội toàn quốc của Đảng, Đại hội Đảng bộ thành phố, tên
các quyển sách nói về Đảng còn được viết lên bảng để công nhân tìm đọc''14.
Các chuyên mục của báo chí cũng xuất hiện các chuyên mục, vụ việc tuyên truyền
về những giá trị văn hóa – xã hội gắn liền với sự phát triển của đời sống.
c) Xây dựng kinh tế trong thời kỳ mới
Cùng vời các chủ đề đã được phản ánh
trong thời kỳ này, báo chí đã tập trung sức cổ vũ chiến đấu của mình vào phong
trào khôi phục kinh tế. Đại hội lần thứ IV của Đảng (1976) đề ra đường lối
chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội
chủ nghĩa của nước ta. Đây là những vấn đề có tính nguyên tắc lớn như vai trò
làm chủ tập thể của nhân dân, sự kết hợp chặt chẽ ba cuộc cách mạng... đã đưa
ra thảo luận và trở thành chủ đề chính của báo chí thời kỳ này.
Báo chí đã phản ánh không khí lao động
sôi nổi của nhân dân trong việc khôi phục lại các tuyến đường sắt, đường bộ,
đường biển, các khu công nghiệp, chỉnh trang lại các thành phố, thị xã mới giải
phóng, đồng thời cũng duy trì và phát triển các cơ sở sản xuất, kinh doanh,
truyền bá những chủ trương, chính sách kinh tế. Những bài báo vừa gợi lên không
khí xây dựng mới, vừa đưa ra những phương hướng, chủ trương nhiệm vụ mới của
phong trào xây dựng kinh tế. ''Dấy lên một cao trào lao động trong cả nước nhằm
thực hiện tốt kế hoạch nhà nước, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa
xã hội và đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và công nghiệp là nhiệm vụ trung tâm
của cách mạng trong cả nước… Xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp chung của
mấy chục triệu nhân dân ta. Phong trào lao động sản xuất sẽ có một khí thế mới,
một sức mạnh mới khi nào hàng chục triệu người lao động chân tay và trí óc thật
sự tham gia vào công cuộc đẩy mạnh sản xuất, xây dựng chủ nghĩa xã hội''15.
Trong điều kiện xây dựng kinh tế đất nước
thời kỳ này, khẩu hiệu ''Tất cả cho sản xuất, tất cả cho chủ nghĩa xã hội'' đã
trở thành dòng tít lớn của nhiều tờ báo. Báo chí không ngừng cổ vũ cho những
người công nhân, nông dân, những tầng lớp trí thức và cả những con người tình
nguyện đi xây dựng các vùng kinh tế mới: ''Giờ đây, trước mắt giai cấp công
nhân và nhân dân là cuộc chiến đấu mới không kém gian khổ để quyết định ''ai
thắng ai'' giữa ''hai con đường''. Nền sản xuất nhỏ nghèo nàn, lạc hậu là một
thách thức lớn đối với chúng ta. Hậu quả của chủ nghĩa thực dân mới thật
là nghiêm trọng đòi hỏi sự nỗ lực phi thường của chúng ta để thanh toán. Công
cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội yêu cầu chúng ta
phát huy trí tuệ và sức mạnh để gánh vác''16.
Năm 1980, có nhiều chuyển biến tích cực
trong việc điều hành nền kinh tế. Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị đã đề ra
phương pháp mới, phương châm mới và chính sách mới soi sáng việc giải quyết
hàng loạt vấn đề đang bế tắc ở hầu khắp mọi nơi. Nhiều hợp tác nông nghiệp, thủ
công nghiệp, nhiều cơ sở công nghiệp và cơ sở kinh tế nói chung đạt được kết
quả tốt về tăng năng suất lao động, hạ giá thành, làm thêm sản phẩm, vừa đảm
bảo lợi ích của người lao động, vừa làm lợi một cách thiết thực cho Nhà nước và
cho tập thể. Báo chí tập trung tuyên truyền những đơn vị đó, đồng thời bắt đầu
đi sâu vào cuộc sống, phát hiện những điển hình và những nhân tố mới có tính
đột phá để mở rộng thành phong trào của quần chúng. Thời gian này, đã có nhiều
địa phương, nhiều xí nghiệp tự tìm tòi, thử nghiệm, có nơi đã tự phát
''phá rào'' để tháo gỡ khó khăn trong sản xuất và đời sống. Trên Tạp chí Cộng
sản có một số bài báo kinh tế đã đoạt giải của Hội Nhà báo Việt Nam như xã
luận “Phát triển nông nghiệp, nhiệm vụ hàng đầu hiện nay”, “Bài học Quỳnh
Lưu”, “Khoán mầu ở Vĩnh Phú”…
Để góp phần giải quyết hàng loạt những
vấn đề mâu thuẫn và vướng mắc trong điều hành kinh tế đất nước, báo chí không
ngừng tìm tòi, nghiên cứu những cơ chế quản lý mới, đồng thời nêu lên những hạn
chế của hình thức kinh tế hiện tại. Những năm 1979 - 1980, tình trạng thiếu
lương thực, thực phẩm kéo dài đã dẫn đến nạn đói xảy ra vào năm 1979. Một vấn
đề được mở ra trên báo chí trong thời kỳ này là “Làm gì để giải quyết
vấn đề ăn của xã hội?”. Hàng loạt bài báo đi vào phân tích những vấn đề
liên quan đến bữa ăn của người dân. Một hoạt động rất thiết thực của báo Nhân
dân trong thời kỳ này là đã tổ chức cuộc hội thảo ở Côn Sơn về vấn đề ăn
của xã hội, với những bài tham luận như: Vấn đề số dân và lương thực, thực phẩm
ở nước ta; Đề nghị một số chủ trương, chính sách; Cá nước ngọt ở Hà Nội...
Những bài tham gia hội thảo đã trở thành
một diễn đàn trên báo. Sau khi cuộc hội thảo kết thúc, báo Nhân dân đi
tới kết luận: Phải đưa nông thôn lên sản xuất lớn, đưa các hợp tác xã lên quy
mô lớn, đưa máy móc cơ khí to về hợp tác xã là chưa thích hợp, nên cho làm thử
khoán sản phẩm cây lúa tới đơn vị, cá nhân và gia đình. Từ những yêu cầu đặt ra
trên báo chí, từ tháng 10-1981, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị 100 với
chủ trương khoán sản phẩm đến nhóm người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp
và sau đó là ''Khoán tới các hộ xã viên”. Từ những phương hướng này, trên khắp
các loại hình báo chí trong cả nước đã mở rộng việc tuyên truyền khoán sản
phẩm, hoàn chỉnh khoán, đấu tranh với những quan điểm muốn xóa bỏ hình thức
khoán sản phẩm trong nông nghiệp.
d) Bước đầu đề cập tới cụm từ “Đổi
mới''
Bắt đầu từ những năm 1980, nền kinh tế
Việt Nam xuất hiện những biểu hiện của cuộc khủng hoảng kinh tế. Chế độ quản lý
tập trung quan liêu bao cấp đã bộc lộ những hạn chế rất lớn của mình, xã hội
bắt đầu xuất hiện những hiện tượng tiêu cực ảnh hưởng lớn đến đời sống của
người dân. Trên báo chí dần có những bài điều tra kinh tế nêu lên những hiện
tượng tiêu cực trong đời sống xã hội. ''Những bài chống tiêu cực đầu tiên đăng
trên báo Lao động xuất hiện vào tháng 6-1986, một thời điểm có ý nghĩa
trước khi tiến hành Đại hội VI của Đảng... Chính trong bối cảnh đó, các bài
điều tra đã xuất hiện đều tập trung vạch rõ những bất hợp lý của chế độ ''Đặc
quyền, đặc lợi'' mà một số cán bộ có chức đã mắc phải''17.
Mở đầu là những bài như “Nhà khách Bộ Giao
thông biến đi đâu” (ngày 21-8-1986), ''Tòa nhà cao tầng đó xây cho ai”,
“Mắc tội tham ô, trù dập người ngay vẫn được bầu vào Đảng uỷ''18,
báo Lao động đã cùng các tờ báo khác sử dụng thành công thể loại bài
điều tra trong việc xây dựng lên những tác phẩm có tính chiến đấu cao và trở
thành lực lượng tiên phong trong công cuộc chống tập trung quan liêu bao cấp
của đất nước. Hàng loạt bài điều tra được đăng tải trên các báo thời kỳ đó hầu
hết đều được đi thẳng từ những phát hiện của quần chúng: ''Theo bạn đọc thì ông
đã móc một số nguyên vật liệu ở kho H và hơn một ngàn tấn tôn loại có bề dày
1,2 - 1,5 mm, bạn đọc còn cho biết rõ một xe ô tô đã chở số tôn này về
cho ông''19.
Lần đầu tiên báo chí đề cập mạnh dạn đến
cụm từ đổi mới kinh tế đất nước. Như đã nói ở trên, những hạn tiêu cực của cơ
chế quản lý quan liêu bao cấp đã ngày càng bộc lộ rõ rệt. Vì thế, báo chí mở ra
hàng loạt trang bài với những dòng tít lớn: “Xóa bỏ cơ chế quan liêu bao
cấp, chuyển hẳn sang hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa”. Tiêu chí được
đặt ra là ''Chống tập trung quan liêu bao cấp là cuộc đấu tranh vô cùng gian
khổ giữa cái mới và cái cũ, giữa tính năng động của yêu cầu đổi mới và tư tưởng
bảo thủ, sức ì của những thói quen, giữa yêu cầu cấp thiết lập quyền làm chủ
tập thể xã hội chủ nghĩa thật sự của đoàn thể nhân dân lao động với chủ nghĩa
cá nhân trong một số người nhân danh bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa để cố bám
giữ đặc quyền, đặc lợi''20.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khóa V,
báo chí Việt Nam đặc biệt là báo Nhân dân đã tăng liên tục loạt bài về
đổi mới tư duy kinh tế, nhân tố quan trọng đầu tiên để đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế. Đây cũng là lần đầu tiên mà khái niệm ''Đổi mới tư duy kinh tế'' được
đưa lên mặt báo. Những bài báo đó đã uốn nắn một số nhận thức không đúng trong
Đảng, trong dân về chủ nghĩa xã hội, về vai trò của kinh tế thị trường, thương
nghiệp, tài chính, ngân hàng, về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế, mối
quan hệ giữa phát triển kinh tế và ổn định xã hội và chức năng quản lý của nhà
nước.
Từ những kinh nghiệm quản lý kinh tế ở
một số cơ sở, địa phương..., trên các báo chí đã có nhiều bài điều tra, phóng
sự, tranh luận về những vấn đề của đất nước như: trả lương bằng tiền, bù giá
vào lương, xóa bỏ tem phiếu, bán lẻ theo một giá làm cho người tiêu dùng có sự
lựa chọn tự do mặt hàng và nơi mua hàng: “Trong việc cải tiến quản lý kinh tế,
quản lý xí nghiệp, hàng trăm cơ sở sản xuất quốc doanh ở các ngành khác nhau đã
áp dụng có hiệu quả những hình thức cụ thể trả lương khoán: khoán tập thể theo
sản phẩm cuối cùng, khoán sản phẩm theo đơn giá luỹ tiến, khoán gọn công trình
xây dựng, v.v.. Nhờ làm tốt hình thức trả lương này, nhiều xí nghiệp đã giành
được thế chủ động tiếp tục đẩy mạnh sản xuất đưa công tác quản lý ở cơ sở đi
vào nền nếp, từng bước tăng thêm thu nhập về tiền lương, tiền thưởng cho người
lao động. Đó là một bước trong việc kết hợp kế hoạch hóa với hạch toán kinh tế
và sử dụng đòn bẩy kinh tế trực tiếp ở cơ sở''21.
Tiến tới Đại hội lần thứ VI của Đảng, báo
chí đã chuẩn bị tài liệu và đăng tải các bài viết về yêu cầu bức bách phải đổi
mới trong nền kinh tế quốc dân. Cụm từ đổi mới xuất hiện mạnh dạn trên báo chí
lúc này thực sự đã có sức mạnh và trở thành chủ đề lớn của báo chí cuối giai
đoạn 1976 - 1986. ''Có đổi mới tư duy kinh tế mới dám thừa nhận và thay đổi
những quyết định sai lầm trước đây trong việc bố trí cơ cấu đầu tư, dũng cảm xử
lý những việc nảy sinh trong cuộc chuyển hướng, điều chỉnh lớn phương án bố trí
cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư năm tới. Có đổi mới tư duy kinh tế mới đổi được
cơ chế quản lý theo phương hướng có ý nghĩa cách mạng sâu sắc là kiên quyết xóa
bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang hạch toán kinh tế, kinh
doanh xã hội chủ nghĩa''22.
đ) Cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc
Sau khi đất nước thống nhất, báo chí Việt
Nam tuyên truyền cho chủ trương hòa bình, hữu nghị, mong muốn làm bạn với tất
cả các nước đặc biệt là mối quan hệ khăng khít với Liên Xô và các nước xã hội
chủ nghĩa. ''Sự đoàn kết hợp tác Việt Nam - Liên Xô là một biểu tượng của sự
đoàn kết cách mạng và hợp tác đồng chí giữa các Nhà nước kiểu mới trong thời
đại chúng ta. Lịch sử đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau giữa hai Đảng và hai dân tộc
đã có lịch sử lâu dài trên một nửa thế kỷ và trở thành một truyền thống quý
báu. Đoàn kết, hợp tác với Liên Xô là vấn đề nguyên tắc và là một điều kiện
quyết định đối với thắng lợi của cách mạng nước ta”23.
Sự kiện chiến tranh biên giới, gây khó
hiểu đối với dư luận trên thế giới, bởi vì, cả Campuchia và Trung Quốc đều là
những người bạn láng giềng của nhân dân Việt Nam, cùng sát cánh và hỗ trợ Việt
Nam trong cuộc chiến tranh giành độc lập tự do, đồng thời góp phần vào phong
trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới. Trong khi đó, khi Việt Nam vừa
giành giải phóng chưa được bao lâu thì lại có cuộc xung đột giữa những người
anh em này. Vấn đề này đặt ra cho báo chí thời kỳ này là phải thực sự tỉnh táo,
phân tích chủ nghĩa bá quyền, nhưng phải tuyên truyền giữ tình cảm dân tộc giữa
nhân dân hai nước, đồng thời phải giải thích, tuyên truyền với dư luận thế giới
về vấn đề này. Phần lớn báo chí thời kỳ này đi vào phân tích tình hình và
nguyên nhân xảy ra chiến tranh, đồng thời động viên tinh thần yêu nước và tinh
thần quốc tế. Bằng cách phân tích bản chất phản động, bất tín của bọn Khơme đỏ,
báo chí đã gợi lên cho nhân dân Việt Nam nói riêng và nhân dân thế giới
hiểu rõ cuộc chiến tranh giữa hai nước anh em: ''những người cầm quyền
Campuchia vừa tiến công lãnh thổ nước ta vừa không ngớt lời rêu rao rằng các
lực lượng vũ trang Việt Nam xâm phạm biên giới, xâm phạm lãnh thổ nước họ. Đây
là những điều hoàn toàn bịa đặt. Tuy vậy, để tránh mọi sự hiểu lầm, để ngăn
chặn mọi khả năng va chạm giữa hai bên, chúng ta đề nghị ''lực lượng vũ trang
của mỗi bên đóng sâu trong lãnh thổ của mình, cách đường biên giới năm
kilômét''. “Tại sao những người cầm quyền Campuchia không chấp nhận? Phải chăng
họ sợ làm như vậy thì họ sẽ không còn có điều kiện để vừa xâm phạm lãnh thổ
nước ta, tiến công nhân dân ta vừa vu cáo chúng ta xâm phạm biên giới nước
họ?''24.
Vấn đề quan hệ giữa Việt Nam và Campuchia
thời kỳ này rất phức tạp, vì thế sau khi đánh đuổi bọn diệt chủng khỏi bờ cõi
đất nước, báo chí Việt Nam đi vào ca ngợi những anh hùng, chiến sĩ trên chiến
trường và tình quân dân thắm thiết. Bên cạnh đó, báo chí còn đề cao tấm gương
cao đẹp của quân và dân ta không tiếc xương máu để cứu nhân dân Campuchia khỏi
họa diệt chủng.
Về cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc,
báo chí Việt Nam đã nhạy bén, thông tin kịp thời những bằng chứng bác bỏ những
luận diệu vu khống của Trung Quốc về cái gọi vụ ''Nạn Kiều''. Một chuyên mục
mới đã được báo chí đặt ra trong thời kỳ này với những tiêu đề khác nhau: “Không
được đụng đến Việt Nam, đe dọa Việt Nam là đe dọa toàn thế giới”, “Dư luận thế
giới ủng hộ lập trường của Chính phủ Việt Nam về vấn đề biên giới Việt Nam –
Campuchia”, “Những kẻ chống lại Việt Nam nhất định thất bại”... Nội dung
chính của các chuyên mục này chủ yếu đăng tải những bài viết tổng hợp từ báo
chí tiến bộ các nước phê phán hành động bành trướng của các thế lực thù địch.
Đồng thời báo chí Việt Nam thể hiện rõ sự ủng hộ mạnh mẽ của cộng đồng quốc tế.
''Các nhà báo Mỹ Latinh chúng tôi đứng về phía Chính phủ và nhân dân nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và hoan nghênh ý muốn của Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam không để cho xung đột phát triển nữa và chấm dứt cuộc xung đột
đó thông qua đàm phán và thương lượng giữa hai nước anh em”25.
Báo chí Việt Nam cũng trở thành nguồn
động viên tinh thần chiến đấu của nhân dân. Có thể nói, thể loại mang tính xung
kích trong thời kỳ này là xã luận và bình luận đã phát huy tối đa tác dụng của
mình. Hàng loạt những bài viết ca ngợi sức chiến đấu anh dũng của nhân dân cùng
với những bài viết thể hiện khát vọng hòa bình và tinh thần đoàn kết, xả thân
bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ và nền độc lập của Tổ quốc.
Những nội dung được phản ánh trên báo chí
Việt Nam giai đoạn 1976 - 1986 không chỉ dừng lại ở những vấn đề ở trên, mà
thực sự, báo chí đã bao quát cả những mảng đề tài khác đa dạng và phong phú
hơn. Tất cả những nội dung đó đã khẳng định báo chí trong thời kỳ này là một
loại hình phản ánh muôn mặt của đời sống xã hội Việt Nam thống nhất, đồng thời
có những đóng góp to lớn trong các hoạt động của đất nước.
Về nội dung, có thể khẳng định, báo chí
đã bám sát theo từng sự kiện của cuộc sống, phản ánh kịp thời, khách quan tới
công chúng. Mặc dù vậy, báo chí thời kỳ này thực sự chưa hấp dẫn. Điều đó được
biểu hiện ở hình thức trang báo chưa đẹp mắt, nội dung thông tin hiệu quả chưa
cao. Bên cạnh đó, còn có một đặc điểm nữa là nghệ thuật trình bày, phong cách
viết các tờ báo giống nhau, thiếu sự sáng tạo của mỗi tờ báo... Dù không hoàn
toàn do lỗi của báo chí trong thời kỳ này, nhưng hạn chế về mặt nội dung này do
bản thân báo chí là chính. Vì thế, trong thời kỳ đổi mới đất nước sau này báo
chí cũng phải tự điều chỉnh mình để có thể kịp thời nắm bắt được những yêu cầu
mới về kinh tế - xã hội.
4. Diện mạo của một số cơ quan báo chí
a) Báo Nhân dân
Cuối tháng 8-1975, báo Nhân dân
lập bộ phận thường trực ở miền Nam. Với tinh thần làm việc khắc phục khó khăn,
đồng thời phối hợp với Thông tấn xã Việt Nam và Tổng cục Bưu điện, ngày
20-4-1976, báo Nhân dân đã thực hiện in và phát hành báo ở Sài Gòn cùng
lúc với phát hành ở Hà Nội. Trong thời gian này, Nhà in báo Nhân dân được
cải tạo, bỏ hẳn xếp chữ bằng tay để chuyển sang công nghệ in ốp sét với những
máy móc hiện đại, công suất in lớn, đáp ứng yêu cầu số lượng báo in. Đồng thời,
báo cũng xây dựng thêm một nhà máy in và một cơ sở truyền báo ở Đà Nẵng đảm bảo
in và phát hành báo Nhân dân ở miền Trung cùng ngày với thành phố Hồ Chí
Minh và Hà Nội. Những hoạt động này đã góp phần tăng cường sự lãnh đạo tập
trung, thống nhất của Trung ương Đảng trên toàn quốc.
Thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của mình
trong thời kỳ này, đặc biệt đối mặt với những phức tạp ở biên giới, báo Nhân
dân tập trung vào phân tích nguyên nhân, tình hình của sự kiện, động
viên tinh thần yêu nước, tinh thần quốc tế, đồng thời hàng ngày phải đấu tranh,
luận chiến trước báo chí nước ngoài và một số giới cầm quyền bao che cho bọn
phản động. Trước những khó khăn của đất nước vào cuối giai đoạn này, báo Nhân
dân mạnh dạn nêu lên hàng loạt những giải pháp như chế độ khoán sản phẩm,
đổi mới tư duy kinh tế... đồng thời, báo đi vào biểu dương những điển hình kinh
tế mới góp phần đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng.
Đây là thời kỳ báo Nhân dân có
những tiến bộ về đưa tin nhanh, viết xã luận, bình luận, điều tra, phóng sự sắc
nét. Bên cạnh đó, báo cũng bắt đầu đăng thông tin phản hồi bằng cách đưa nhiều
ý kiến của nhân dân về tình hình, kinh tế - xã hội của đất nước. Không chỉ viết
về những vấn đề mang tầm lý luận, tư tưởng, báo Nhân dân còn dành chỗ
cho các mục bóng đá quốc tế, thơ, giải trí, tranh vẽ châm biếm, hướng dẫn du
lịch, nấu ăn... Báo tăng xuất bản hàng ngày từ 4 trang lên 6 trang với số lượng
25 vạn bản/ngày. Năm 1985, báo Nhân dân ra đặc san hàng tháng và nội san
“Người làm báo Nhân dân”, trở thành tờ báo đầu tiên xuất bản đặc san
hàng tháng.
b) Tạp chí Cộng sản
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của
nhân dân ta đã giành thắng lợi trọn vẹn, nước nhà được thống nhất. Đại hội IV
của Đảng họp vào tháng 12-1976 đã vạch ra đường lối của cách mạng xã hội chủ
nghĩa trong phạm vi cả nước. Đại hội cũng quyết định đổi tên Đảng thành Đảng
Cộng sản Việt Nam. Trên cơ sở tình hình và nhiệm vụ trong giai đoạn mới, ngày
5-1-1977 Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IV) ra Nghị quyết Số
01-NQ/TW đổi tên Tạp chí Học tập thành Tạp chí Cộng sản bắt đầu
từ tháng l-1977 và giữ tên tạp chí là Tạp chí Cộng sản từ đó đến nay.
Trong lịch sử tạp chí Đảng, đây là lần
thứ 5 tạp chí Đảng lấy tên là Tạp chí Cộng sản. Việc lấy tên đó là để
phù hợp với tình hình và nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới và phù hợp với
việc đổi tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tại Đại hội IV, đồng chí Đào Duy Tùng,
Tổng biên tập tạp chí, được bầu là Uỷ viên dự khuyết Trung ương Đảng.
Ngày 7-1-1978, Bộ Chính trị ra Chỉ thị số
32-TT/TW về nhiệm vụ của Tạp chí Cộng sản. Chỉ thị nêu rõ: ''Nhiệm vụ
của Tạp chí Cộng sản là đứng vững trên lập trường của giai cấp công
nhân, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm cơ sở, kết hợp chặt chẽ lý luận Mác - Lênin
với thực tiễn cách mạng Việt Nam để tuyên truyền đường lối, chính sách và các
quan điểm của Đảng một cách sâu sắc. Tạp chí Cộng sản phải vận dụng lý
luận Mác - Lênin, phân tích những chủ trương, chính sách của Đảng nâng cao nhận
thức của cán bộ và đảng viên về tư tưởng, chính sách và quan điểm của Đảng phê
phán những khuyết điểm, sai lầm trong khi thi hành các chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước.
Tạp chí phải giáo dục tư tưởng xã hội chủ
nghĩa, chống tư tưởng tư sản và tàn dư phong kiến, phê phán tư tưởng tiểu tư
sản, quét sạch ảnh hưởng của tư tưởng thực dân mới. Tạp chí phải đi hàng đầu
trong việc bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, bảo vệ đường lối
cách mạng và các quan điểm của Đảng, đồng thời làm nổi bật việc Đảng ta vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam để lãnh
đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác …''.
Sau khi nêu rõ “Trước mắt, Tạp chí
Cộng sản phải căn cứ vào chức năng của mình và tuyên truyền sâu sắc Nghị
quyết Đại hội lần thứ IV của Đảng và các nghị quyết quan trọng của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng, của Quốc hội và Hội đồng Chính phủ'', chỉ thị đã đề ra
sáu phương hướng cụ thể cho việc tiến hành công tác biên tập của tạp chí:
1. Kết hợp lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin với thực tiễn cách mạng Việt Nam để giải thích đường lối chung của cách
mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa trong giai
đoạn mới ở nước ta.
2. Căn cứ vào chủ nghĩa Mác - Lênin và
Nghị quyết Đại hội lần thứ IV của Đảng mà trình bày có hệ thống và hướng dẫn
những công tác lớn của Đảng như: xây dựng Đảng, quản lý nhà nước, vận động quần
chúng, kinh tế tài chính, văn hóa giáo dục, khoa học - kỹ thuật, văn học nghệ
thuật, tăng cường củng cố quốc phòng, bảo vệ trật tự, an ninh, v.v..
3. Nêu bật một cách sâu sắc và có tính
tổng kết những kinh nghiệm tốt, những sáng kiến mới, phê phán những khuynh
hướng và biểu hiện tư tưởng sai lầm trong phong trào quần chúng nhân dân đang
phấn đấu để thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, kế hoạch và pháp luật của
Nhà nước.
4. Góp phần tổng kết những kinh nghiệm
của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa và của hai
cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ ở Việt Nam, đi đến những kết luận có
tính chất lý luận.
5. Tuyên truyền các chính sách đối ngoại
của Đảng và Nhà nước, quan điểm của Đảng về các vấn đề quốc tế quan trọng. Giới
thiệu có chọn lọc những kinh nghiệm chủ yếu của các nước xã hội chủ nghĩa anh
em, và của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Thông qua bình luận thời
sự mà phê phán chiến lược toàn cầu của đế quốc Mỹ, bóc trần những âm mưu đen
tối của bọn đế quốc và tay sai.
6. Dùng những hình thức trình bày trực
diện vấn đề mà bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Chỉ thị cũng ghi rõ: ''Ban Biên tập Tạp
chí Cộng sản là một ban của Trung ương Đảng đặt dưới sự chỉ đạo của Bộ
Chính trị''.
Mặc dù còn có những hạn chế trong tư duy
lý luận, nhưng nhìn chung nội dung của tạp chí đã về cơ bản đáp ứng đúng những
yêu cầu của công tác lý luận trong thời kỳ cách mạng, đồng thời đã phản ánh sự
tìm tòi nhằm vận dụng ngày càng sát hợp lý luận Mác - Lênin vào thực tiễn nước
ta, thúc đẩy cách mạng Việt Nam tiến tới. Những bài viết của tạp chí phục vụ
Nghị quyết 6 (khóa IV) và Nghị quyết 8 (khóa V) của Trung ương Đảng vừa thể
hiện đúng những quan điểm của Đảng, vừa có những tìm tòi, phù hợp với
tình hình thực tế. Cũng do biết kết hợp lý luận với thực tế, tạp chí đã có
những bài viết kịp thời, có tác dụng tốt trong chỉ đạo thực tiễn về các vấn đề:
khoán trong nông nghiệp; kế hoạch ba phần, v.v.. Chính sự tìm tòi đó là những
cơ sở để góp phần cùng toàn Đảng tìm ra định hướng đúng và những quan điểm đúng
của công cuộc đổi mới trong giai đoạn tiếp theo của cách mạng Việt Nam.
Tạp chí cũng đã đứng ở tuyến đầu của cuộc
đấu tranh tư tưởng của Đảng. Tạp chí đi đầu trong cuộc đấu tranh chống các quan
điểm sai trái của nhóm Nhân văn - Giai phẩm; chống thuyết nhân vị - duy linh
của tập đoàn Ngô Đình Diệm; chống chủ nghĩa xét lại hiện đại và chủ nghĩa giáo
điều; chống tư tưởng phản động của chủ nghĩa thực dân mới chống hệ tư tưởng tư
sản cùng các trào lưu tư tưởng phi vô sản khác. Tạp chí đã góp phần tích cực
bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, bảo vệ đường lối và quan điểm
cách mạng của Đảng ta.
Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 30 ngày xuất bản
số đầu tiên của Tạp chí Học tập - Tạp chí Cộng sản (1955 - 1985),
Tạp chí Cộng sản đã được Hội đồng Nhà nước tặng thưởng Huân
chương Hồ Chí Minh, vì ''Trong 30 năm qua đã có nhiều cống hiến vào việc giáo
dục chủ nghĩa Mác - Lênin và tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng cho
cán bộ và nhân dân''. Cũng nhân dịp này, đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn đã đến
thăm và nói chuyện với Bộ biên tập của tạp chí.
Ngày 3-12-1985, tại Trung tâm báo chí Hà
Nội, Lễ kỷ niệm 30 năm xuất bản Tạp chí Cộng sản và trao tặng Huân
chương cao quý của Đảng và Nhà nước - Huân chương Hồ Chí Minh cho tạp chí, đã
được tổ chức trọng thể. Đồng chí Trường Chinh, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước đã có
thư gửi Bộ biên tập Tạp chí Cộng sản nhân buổi lễ này. Thư có
đoạn viết: Ba mươi năm qua, dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của Trung ương Đảng, Tạp
chí Cộng sản đã cố gắng kết hợp lý luận Mác - Lênin với thực tiễn
cách mạng Việt Nam để tuyên truyền đường lối, phương châm chính sách của Đảng
và Nhà nước ta một cách sâu sắc. Tạp chí đã góp phần nâng cao trình độ lý luận
và chính trị của cán bộ, đảng viên, động viên phong trào hành động cách mạng
của quần chúng. Đông đảo cán bộ trong Đảng và ngoài Đảng coi tạp chí là tài
liệu tin cậy để hoạt động, nghiên cứu đường lối chính sách và quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta. Tạp chí Cộng sản xứng đáng là ngọn cờ lý luận của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
c) Thông tấn xã Việt Nam
Tính đến năm 1975, Thông tấn xã Việt Nam
đã đảm bảo 300% năng lực thu phát quốc tế với vô tuyến điện báo thế hệ 2
tự động, công suất phát 150 triệu từ/năm, kịp thời khai thác thông
tin phục vụ các nhiệm vụ chính trị của đất nước. Ngày 24-5-1976, Việt
Nam Thông tấn xã và Thông tấn xã giải phóng thống nhất thành Thông tấn
xã Việt Nam, đánh dấu bước phát triển mới của ngành Thông tấn xã Việt
Nam. Ngày 18-6-1977, Hội đồng Chính phủ ra Nghị quyết số 165/CP đổi tên
Việt Nam Thông tấn xã thành Thông tấn xã Việt Nam thuộc Hội đồng Chính
phủ. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Thông tấn xã
Việt Nam được quy định: ''là cơ quan thông tin chính thức đối nội, đối
ngoại của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có trách nhiệm bằng
tin, ảnh, tài liệu thời sự và các loại hình thông tấn khác, thực hiện
việc thông tin từ trung ương đến cơ sở cho nhân dân cả nước và nhân dân
thế giới''. Nhiệm vụ của Thông tấn xã Việt Nam là cung cấp tin, ảnh
tư liệu, tài liệu chính thức về các lĩnh vực cho các phương tiện thông
tin đại chúng trong nước và nước ngoài...
Thông tấn xã Việt Nam đã không ngừng nâng
cao trang thiết bị kỹ thuật phục vụ tốt cho nhiệm vụ của mình: việc thu
phát tin dần dần được trang bị máy móc điện tử, bán dẫn, sử dụng
ăngten lôga có chất lượng cao, truyền tin qua hệ thống viba, hệ thống
truyền ảnh được trang bị những bộ thu phát tự động. Từ năm 1980, Thông
tấn xã Việt Nam bắt đầu nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật vi tính vào việc
điện tử hóa công tác thông tin (hệ thống thu phát tin và in). Sau 4 năm,
Thông tấn xã việt Nam trở thành cơ quan đầu tiên cài đủ 5 dấu tiếng Việt
thành công trong máy vi tính. Điều đó đã giúp Thông tấn xã Việt Nam đưa
hệ thống truyền tin điện tử tốc độ cao giữa Hà Nội và Mátxcơva, Hà
Nội - thành phố Hồ Chí Minh thay cho máy truyền chữ.
Thời kỳ này, Thông tấn xã Việt Nam bắt
đầu tăng cường công tác đổi mới thông tin, đa dạng nội dung và loại hình
thông tấn, đồng thời vẫn đảm bảo cung cấp đều đặn, đầy đủ thông tin cho
các phương tiện truyền thông khác... Từ năm 1980 trở đi, Thông tấn xã
Việt Nam từng bước đi vào hạch toán kinh tế từng phần rồi đến toàn phần.
Có thể nói việc Thông tấn xã Việt Nam tự trang trải kinh phí, chủ động
thử nghiệm in và bán có lãi Bản tin nhanh nhân dịp giải bóng đá thế giới
năm 1982 là một bước tập dượt thành công, mở đầu cho việc ra mắt hàng
loạt các tờ báo, bản tin trong những năm tiếp theo. Đặc biệt sự ra đời
của hai bản tin đối ngoại ''Vietnam Heb'' và ''Vietnam Weekly'' năm
1985 là bước khởi đầu cho sự xuất hiện báo đối ngoại. Thông tấn xã Việt
Nam đã mạnh dạn đổi mới thông tin bằng cách đa dạng hóa thông tin, thực
hiện thông tin không bù lỗ. Từ một bản tin trong nước và thế giới chung
cho các đối tượng, từ một bản tin phát sóng giống nhau dịch ra nhiều
ngôn ngữ, Thông tấn xã Việt Nam đã nhanh chóng chuyển đổi thành những
bản tin riêng theo yêu cầu của các đối tượng khác nhau, xuất bản nhiều
tờ tin hàng ngày, hàng tuần...
d) Đài Tiếng nói Việt Nam
Sau khi thống nhất đất nước, việc thống
nhất hệ thống phát thanh không gặp nhiều khó khăn vì có chung hệ thống cả nước
nên hoạt động được ngay. Đến cuối năm 1976, hệ thống các đài miền Nam được phục
hồi hoàn toàn, tuy nhiên trang thiết bị của Đài Phát thanh ở Sài Gòn bị hỏng
nặng. Bên cạnh đó, việc mở rộng diện phát sóng của các đài phát thanh đã tạo
nên một hệ thống các trạm phát lại ở các tỉnh phía Nam như: Vĩnh Long, Cần Thơ,
Côn Đảo…
Năm 1977, Chính phủ ra nghị định thành
lập Uỷ ban Phát thanh và truyền hình, Đài Tiếng nói Việt Nam trở thành một bộ
phận trọng yếu của tổ chức này. Đến năm 1984, theo thông báo của Ban Tuyên huấn
Trung ương, Đài Tiếng nói Việt Nam và Đài Truyền hình Trung ương tách ra khỏi cơ
cấu của Uỷ ban Phát thanh truyền hình, trực thuộc Ban Bí thư Trung ương Đảng.
Thời kỳ này, Đài phát 13 giờ/ngày bằng
tiếng Việt (riêng chủ nhật 15 giờ/ngày), và 35 giờ/ngày với 11 ngôn ngữ trên 5
hệ thống với nhiều làn sóng khác nhau phục vụ cho nhân dân trong nước và một số
đối tượng nước ngoài26. Đài Tiếng nói Việt Nam đã xây dựng
hàng loạt các hệ chương trình cho các đối tượng khác nhau, bao gồm: chương
trình thời sự, là chương trình chủ lực, quan trọng nhất giúp cho mọi người theo
dõi được tình hình trong nước và thế giới, theo dõi các chủ trương, đường lối
chính sách của Đảng và Nhà nước; chương trình dành cho nông nghiệp; chương
trình dành cho công nhân chuyên đi sâu vào vấn đề sản xuất công nghiệp; chương
trình văn hóa - xã hội; chương trình phát thanh cho thanh niên; chương trình
phát thanh cho quân đội nhân dân.
Hệ chương trình phát thanh đối ngoại
trong thời kỳ này vẫn được xem là mũi xung kích hàng đầu trong mặt trận thông
tin đối ngoại của đất nước. Nhiệm vụ đặt ra lúc này là: “Làm cho thế giới hiểu
rõ và tin yêu dân tộc Việt Nam hơn, giới thiệu cho nước ngoài thấy rõ thành quả
của cách mạng ta, đồng tình với đường lối của chính sách của Đảng và Nhà nước
ta, qua đó mà tăng thêm tình hữu nghị và sự ủng hộ đối với sự nghiệp cách mạng
của nhân dân ta trong giai đoạn mới. Cũng qua những thông tin này, cần
phải từng bước xóa dần những đám mây mù vẩn đục của hàng chục đài phát thanh
nước ngoài đang ngày đêm phun nọc độc vào Việt Nam với âm mưu ''diễn biến hòa
bình''''27.
Cùng với sự phát triển của Đài Tiếng nói
Việt Nam, hệ thống các đài truyền thanh địa phương thời kỳ này hoạt động nở rộ.
Các đài truyền thanh ở các tỉnh, huyện ngoài các chương trình tiếp âm của Đài
Tiếng nói Việt Nam còn có các chương trình của địa phương nhằm giải quyết những
vấn đề bức xúc của địa phương... Vào thời điểm tháng 7-1977, tỉnh Bình Trị
Thiên đã xây dựng 70 hệ thống truyền thanh, trong đó có 25 hệ thống cấp nhà
nước, 45 hệ thống nhân dân tự làm để tiếp sóng của Đài Tiếng nói Việt Nam và
cung cấp những tin tức của địa phương. Trong sự phát triển đó, hầu hết các địa
phương đều xây dựng riêng cho mình hệ thống truyền thanh rộng khắp đến tận các
xã, thôn.
đ) Đài Truyền hình Việt Nam
Chương trình thử nghiệm đầu tiên của
Truyền hình Việt Nam được phát vào ngày 7-9-1970 do Đài Tiếng nói Việt Nam thực
hiện. Sau một thời gian làm thử trong nội bộ, Bộ Biên tập Đài quyết định phát
chương trình đầu tiên cho nhân dân thủ đô xem truyền hình vào tối 30 Tết Tân
Hợi (27-1-1971). Trong khi những chương trình truyền hình của Đài Tiếng nói Việt
Nam được dự kiến phát thử nghiệm đến giữa năm 1976 thì ở Sài Gòn, nhân dân đã
có thói quen xem truyền hình từ những năm cuối thập kỷ 60 của thế kỷ XX. Vấn đề
đặt ra là làm thế nào để tiếp quản và điều hành được ngay các đài truyền hình
đã có ở phía nam ngay khi giải phóng miền Nam. Ngay trong thời kỳ chiến tranh,
Đài Tiếng nói Việt Nam đã đề ra một kế hoạch chủ động, gửi cán bộ đi học tập ở
nước ngoài nhằm đào tạo một đội ngũ đồng bộ bao gồm tất cả các khâu cần thiết
của một đài truyền hình.
Với sự chuẩn bị kỹ càng đó, chỉ một ngày
sau khi giải phóng miền Nam, nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã được xem chương
trình truyền hình với nội dung hoàn toàn mới lạ. Bắt đầu từ tối ngày
1-5-1975 đó, Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh được phát đều đặn hàng ngày
trong lúc ở miền Bắc vẫn tiếp tục phát chương trình thử nghiệm mỗi tuần 4 lần.
Từ giữa năm 1976, Đài Truyền hình Việt
Nam bắt đầu phát chính thức hàng ngày. Giai đoạn 1976 - 1986 trở thành giai
đoạn mà Truyền hình Việt Nam kết thúc thời kỳ thử nghiệm chuyển sang phát chính
thức, cũng là mở đầu quá trình từ truyền hình đen trắng chuyển sang truyền hình
màu. Tuy nhiên, hệ thống truyền hình ở hai miền chưa được đồng nhất, ở miền Bắc
sử đụng hệ OST, trong khi ở miền Nam theo hệ SCC của Mỹ. Tần số hình ảnh, làn sóng
cũng khác cho nên hoạt động truyền hình thời kỳ này khó khăn hơn của Đài Tiếng
nói Việt Nam rất nhiều. Mặt khác, chúng ta không thể duy trì cùng một lúc hai
hệ truyền hình khác nhau. Vì vậy, trong thời kỳ đầu (1975 - 1978) sẽ thay đổi
dần dần cho tần số, hình ảnh và tiếng của hệ thống hai đài truyền hình gần
nhau. Sau đó bước kế tiếp là thay hệ SCC cho miền Bắc đồng bộ với miền Nam28.
Truyền hình Việt Nam cũng không ngừng
tăng cường cơ sở vật chất để Đài có thể phát sóng được cao hơn, xa hơn. Ngày
28-10-1976, Đài phát sóng truyền hình Tam Đảo ở độ cao hơn 2.000m được khởi
công. Đây là địa điểm lý tưởng cho việc phủ sóng truyền hình các tỉnh đồng bằng
Bắc Bộ, trung du và một phần miền núi. Năm 1978, Việt Nam và Liên Xô đã ký 6
văn kiện chính thức trong đó có đề cập đến việc xây dựng trạm thông tin vũ trụ
mặt đất. Trạm thông tin vũ trụ Intesput đã giúp đỡ cho Việt Nam có điều kiện
tiếp nhận những nguồn thông tin trên thế giới nhanh chóng và thuận lợi.
Bên cạnh truyền hình trung ương, hệ thống
truyền hình địa phương cũng phát triển rộng khắp. Khi giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước, đã có các đài truyền hình ở Thành phố Hồ Chí Minh, các đài
phát lại chương trình truyền hình ở Cần Thơ, Nha Trang, Quy Nhơn, Huế. Sau đó,
nhiều địa phương ở các tỉnh phía Bắc cũng lần lượt dùng ngân sách địa phương
mua máy phát để tiếp sóng các chương trình của truyền hình Việt Nam. Mặc dù
thời kỳ đầu, hầu hết những đài truyền hình ở các địa phương mới dừng lại ở mức
phát lại các chương trình truyền hình của Đài Truyền hình Trung ương nhưng điều
đó đã chứng tỏ mạng lưới truyền hình của Việt Nam đã có bước phát triển rộng
khắp.
Có thể nói, hoạt động của báo chí Việt
Nam trong giai đoạn 1976 - 1986 là sự phát triển của hệ thống báo in. Đến thời
điểm này đã phát triển được 120 năm, dù là tương đối trẻ so với báo chí trên
thế giới, nhưng đã thu được không ít thành tựu và đạt được một trình độ nhất
định.
e) Báo Quân đội nhân dân
Trong những ngày đầu sau khi đất nước
thống nhất, do điều kiện còn khó khăn nên số lượng phát hành của báo Quân
đội nhân dân ở các tỉnh phía Nam còn ít, đồng thời phải phụ thuộc
vào vận chuyển hàng không, nên việc phát hành báo không ổn định. Sau một
thời gian thử nghiệm việc truyền báo và in báo, ngày 20-7-1976 tờ báo Quân
đội nhân dân đầu tiên được in tại Thành phố Hồ Chí Minh. Mặc dù được
phát hành kịp thời nhưng những tờ báo này chất lượng in còn kém, ảnh xấu
thậm chí có những số báo ở phía Nam hình thức không giống báo in ở phía
Bắc. Để khắc phục những hạn chế này, công tác in và phát hành báo Quân
đội nhân dân tiếp tục được cải tiến trong những năm tám mươi, dần
dần chất lượng truyền báo được nâng lên cao và có những bước tiến bộ
đáng kể.
Ngày 17-4-1997, với việc phát hành thêm
số chủ nhật để phục vụ nâng cao đời sống bộ đội, báo Quân đội nhân
dân trở thành tờ báo đầu tiên trong cả nước ra số chủ nhật. Với cách
viết mới, sinh động, đậm chất văn hóa, nội dung nhẹ nhàng và hình
thức hấp dẫn, tờ báo đã được bạn đọc đánh giá cao. Tuy không tách khỏi
hệ thống báo hàng ngày nhưng đây là tiền đề cho việc xuất bản tờ báo
cuối tuần thành một ấn phẩm riêng.
Giai đoạn 1976 - 1986, báo Quân đội
nhân dân đã làm tròn nhiệm vụ chính trị của mình, không những trên
các mặt trận an ninh quốc phòng, kinh tế - xã hội mà còn ở lĩnh vực đối
ngoại của đất nước. Việc giúp đỡ hai nước bạn Lào và Campuchia xây dựng
kế hoạch hình thành cơ quan báo chí, chuẩn bị ra báo của quân đội nhân
dân Lào và quân đội nhân dân Campuchia đã tạo đà cho hai tờ báo này phát
triển và trưởng thành. Mối quan hệ đó đã góp phần tích cực nhằm tăng
cường sự đoàn kết, hiểu biết giữa quân đội các nước anh em.
f) Báo Sài Gòn giải phóng
Chỉ 5 ngày sau khi thành phố Sài Gòn và
miền Nam được hoàn toàn giải phóng, (5-5-1975), báo Sài Gòn giải
phóng ra đời dựa trên cơ sở kế thừa truyền thống của các tờ báo của
Khu uỷ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định cũ từ các thời kỳ chống Pháp và chống
Mỹ, như: Cảm tử, Chống xâm lăng, Ngọn cờ Gia Định, Cờ khởi nghĩa, Cờ
giải phóng. Từ đó, bằng sự nỗ lực của mình, chỉ một thời gian ngắn
ra mắt bạn đọc, báo Sài Gòn giải phóng đã trở thành món ăn tinh
thần của nhân dân thành phố và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Từ ngày
l-7-1981, để đáp ứng yêu cầu mới về thông tin, tuyên truyền, Thành uỷ
Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định xuất bản và phát hành báo vào buổi
sáng.
Cuối năm 1977, Sài Gòn giải phóng tăng
thêm ấn phẩm Hoa văn giải phóng. Từ năm 1980, báo đã mở mục thông tin
kinh tế với nội dung gồm giới thiệu sản phẩm mới, mặt hàng mới, những mặt hàng
cần trao đổi..., tiếp đến là các mục quảng cáo rao vặt. Ban đầu, diện tích của
những mục này chỉ có l/3 trang và từ khi diện tích quảng cáo tăng lên hơn 2/3
trang thì quảng cáo trên báo Sài Gòn giải phóng trở thành một ''kênh”
riêng như phụ trương của Sài Gòn giải phóng.
Trong hệ thống báo chí địa phương, Sài
Gòn giải phóng là một tờ báo non trẻ mà giai đoạn này lại chính là
những bước khởi đầu, chập chững của tờ báo. Tuy nhiên, báo đã rất năng
động, nhạy bén với thời cuộc và hòa mình vào sự phát triển chung của
dòng báo chí dân tộc. Những thành quả và nỗ lực mà Sài Gòn giải phóng đạt
được đã khẳng định những bước đi mạnh dạn và vững chắc trong thời kỳ đầu
của tờ báo, tạo tiền đề cho sự phát triển sau này.
II- HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC HỘI NHÀ
BÁO VIỆT NAM
l. Đại hội Báo chí lần thứ IV và vấn
đề củng cố, phát triển báo chí
Đại hội lần thứ IV, Hội Nhà báo Việt Nam
diễn ra ngày 8-12-1983 đã đánh giá được phần nào hoạt động của hệ thống
báo chí giai đoạn 1976 - 1986. Trong Đại hội IV lần này, vấn đề vai trò, nhiệm
vụ mới của báo chí trong tình hình kinh tế - xã hội mới đã được Đại hội đề ra:
“Trong nhiều nhân tố khách quan đang tác
động trực tiếp các hoạt động truyền thông đại chúng, chúng ta cần cân nhắc đầy
đủ mấy nhân tố sau đây khi xác định phương hướng, nhiệm vụ và yêu cầu đối với
báo chí trong giai đoạn cách mạng mới.
Trước hết, công chúng mới, những đối
tượng phục vụ của chúng ta đã khác trước về chất. Chỉ tính hai mươi năm gần
đây, từ Đại hội trước tới Đại hội này của hội ta, trình độ nhân dân đã có nhiều
thay đổi... Công chúng đòi hỏi các phương tiện truyền thông đại chúng cung cấp
nhiều loại món ăn văn hóa, tinh thần chất lượng cao; hai là, sự phát triển mạnh
mẽ của khoa học, kỹ thuật trong đó có các ngành liên quan tới báo chí; ba là,
sự giao lưu giữa nước ta và các nước khác ngày càng mở rộng... Quần chúng và sự
nghiệp cách mạng đang đòi hỏi toàn bộ lĩnh vực thông tin đại chúng phải nâng
cao hơn nữa về tính tư tưởng, về chất lượngvà hiệu quả…''.
Từ bối cảnh hoạt động mới này, nhiệm vụ
của báo chí được đặt ra, bằng những phương tiện và ngôn ngữ đặc thù của mỗi
loại hình, phối hợp với các binh chủng khác trong mặt trận tư tưởng, góp phần
làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức sâu sắc đường lối cách mạng xã
hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng kinh tế trong thời kỳ quá độ, và phấn đấu
thực hiện đường lối ấy một cách tự giác. Báo chí không chỉ dừng lại ở việc giải
thích, phổ cập đường lối, chính sách mà phải bằng những luận cứ khoa học và
thực tế sinh động, làm cho mọi người hiểu sâu đường lối, chính sách và góp phần
nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn, trước hết là của cán bộ, để thực hiện chương
trình kinh tế - xã hội và những mục tiêu do Đại hội lần thứ V của Đảng nêu ra.
Báo chí phải làm cho mọi người thấy rõ kẻ thù cơ bản của nhân dân ta...; Báo
chí là một trong những phương tiện quan trọng và rất hiệu quả để nâng cao kiến
thức kinh tế và kiến thức khoa học, kỹ thuật cho cán bộ, nhân dân; Báo chí có
trách nhiệm tham gia trực tiếp vào cuộc đấu tranh để giữ gìn phẩm chất, đạo đức
cách mạng trong sáng, thể hiện tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng
viên, nhân viên nhà nước, thông qua đó mà củng cố và tăng cường lòng tin của
quần chúng đối với Đảng và Nhà nước... Bằng cách thông tin nhanh chóng, có lựa
chọn và bình luận sắc sảo, kịp thời, báo chí giáo dục chủ nghĩa quốc tế vô sản,
đồng thời qua đó tham gia thực hiện đường lối quốc tế của Đảng. Báo chí có
nhiệm vụ làm cho tiếng nói của nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa vang xa trên
trường quốc tế…
Bên cạnh đó, Đại hội lần thứ IV Hội Nhà
báo Việt Nam cũng đã đề ra nhiệm vụ cấp bách của hoạt động báo chí trong thời
kỳ mới, đó là: cần có kế hoạch bồi dưỡng về chính trị, tư tưởng và nghiệp vụ
cho những người đang làm việc tại các báo, đài thông tấn xã...29.
2. Thống nhất đội ngũ người làm báo
trong cả nước
Từ khi đất nước thống nhất, hoạt động báo
chí phát triển đã sinh ra đội ngũ những người làm báo có những tiến bộ
vượt bậc về nghiệp vụ. Tính đến thời điểm Đại hội lần thứ IV của Hội
Nhà báo (1983), báo chí Việt Nam có hơn 6.000 nhà báo, trong đó có
khoảng 65% số nhà báo tuổi đời dưới 40, 42% có trình độ đại học, 51% học
hết cấp III, 41% có mười năm tuổi nghề trở lên. Với hơn 3.000 nhà báo là
thành viên của Hội Nhà báo Việt Nam, nếu so với 800 hội viên của Đại hội
lần thứ III, con số này đã đánh dấu một bước phát triển không chỉ về số
lượng mà cả về chất lượng của người làm báo.
Nhiệm vụ của những người làm báo
thời kỳ này phải vừa là người tuyên truyền cho công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội, vừa phải đồng thời là người chiến sĩ trong cuộc chiến
tranh bảo vệ Tổ quốc. Đội ngũ làm báo thời kỳ này có ''bốn thế hệ cùng
sánh vai công tác'', gồm: Thế hệ những người làm báo tiên phong. Đây là
những người bạn chiến đấu, đồng thời là những học trò xuất sắc của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, là những người đã xây dựng và phát triển nền báo chí
cách mạng Việt Nam. Đến thời kỳ hoạt động này, tuy đã cao tuổi và đảm
nhiệm nhiều trọng trách của Đảng và Nhà nước, song họ vẫn trực tiếp hoạt
động báo chí rất sắc sảo. Lớp nhà báo thứ hai là những người làm báo
chuyên nghiệp vào nghề từ sau Cách mạng Tháng Tám. Giai đoạn hoạt động
này họ trở thành lực lượng chỉ đạo và biên tập nòng cốt của các loại hình báo
chí trong cả nước. Hai thế hệ những người làm báo từ sau kháng chiến chống Pháp
và sau ngày giải phóng miền Nam là những người làm báo trẻ, phát huy lòng nhiệt
tình và sự năng động, sáng tạo của mình. Mặc dù còn nhiều hạn chế do thiếu kinh
nghiệm hoạt động và chưa có hiểu biết thực tiễn một cách sâu sắc nhưng họ sẽ là
lớp nhà báo kế tục sự nghiệp báo chí cách mạng và trở thành lớp người tiên
phong cho sự nghiệp ''đổi mới'' báo chí sau này.
Bên cạnh những người làm báo chuyên nghiệp,
làm việc thường xuyên ở các cơ quan báo chí, còn có đội ngũ cộng tác viên đông
đảo góp sức mình vào hoạt động của báo chí trong thời kỳ này. Đó là những cán
bộ lãnh đạo, những nhà hoạt động xã hội, văn hóa nghệ thuật, những nhà nghiên
cứu và thực hành khoa học, kỹ thuật, những cán bộ quản lý, ác liệt có cả những
người là công nhân, nông dân, chiến sĩ đang trực tiếp sản xuất, chiến đấu. Họ
tiêu biểu cho những người làm báo không chuyên đại diện của các lớp
người trong xã hội.
Sự thống nhất đội ngũ những người làm báo
ở khắp mọi miền đất nước vào một tổ chức nghiệp vụ thống nhất là Hội Nhà báo
Việt Nam đã làm tăng thêm sức mạnh của đội ngũ làm báo giai đoạn này.
Tính tới năm 1983, hội có hơn 3.000 hội viên và 130 chi hội cơ sở ở khắp các
tỉnh. Đến ngày 30-6-1986, Hội có 205 chi hội với 4.864 hội viên30.
Ở các tòa soạn báo lớn, các báo hàng ngày, hàng tuần ở trung ương và một số tạp
chí đều thành lập chi hội nhà báo. Điều đó khẳng định phần nào vai trò và nhiệm
vụ của tổ chức Hội Nhà báo Việt Nam trong sự phát triển của báo chí, tuy
nhiên hoạt động của hội trong thời kỳ này “còn nghèo nàn và trì trệ''.
Một yêu cầu đặt ra cho tổ chức này là cần xem xét điều lệ các tổ chức
hội, đồng thời cần có tổ chức hội ở cả ba cấp: trung ương, tỉnh, thành
phố, cơ sở và định rõ phương thức hoạt động cũng như các mối quan hệ của
các cấp hội nhà báo tỉnh, thành phố...
Nhìn chung, đội ngũ cán bộ báo chí trong
thời kỳ này khá đông đảo và có nhiều kinh nghiệm hoạt động, trong đó, có nhiều
cây bút sắc sảo, có uy tín và đã được tổ chức quốc tế các nhà báo thế giới tặng
giải thưởng và Huy chương Phuxich như: nhà báo Hoàng Tùng, Trần Lâm, Lưu Quý
Kỳ, Hồng Chương, Thép Mới. Tuy nhiên, số lượng người làm báo nói chung vẫn còn
thiếu nhiều, trong đó đặc biệt là ở báo chí khu vực phía Nam, như báo Tuổi
trẻ đến cuối năm 1980, sau 5 năm hoạt động, mới chỉ có 15 phóng viên, trong
đó chỉ có 2 phóng viên đã tốt nghiệp đại học báo chí. Vì vậy, vấn đề đào tạo
người làm báo chuyên môn cung cấp cho các cơ quan báo chí, đặc biệt là các cơ
quan phía nam trở thành vấn đề cấp thiết của hoạt động báo chí.
Để giải quyết những vấn đề đó, bên cạnh
các lớp đào tạo báo chí của Trường Tuyên huấn trung ương, Hội Nhà báo, Hội Nghệ
sĩ nhiếp ảnh, Thông tấn xã Việt Nam cũng tổ chức các lớp nâng cao nghiệp vụ chơ
phóng viên. Từ năm 1955 đến năm 1985, Thông tấn xã Việt Nam đã mở lớp
đào tạo cho l.000 phóng viên, biên tập viên, đặc biệt là các phóng viên ảnh cho
các địa phương và phân xã nước ngoài. Đồng thời, các hội nhà báo ở từng chi hội
cũng tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề, hội thảo nghiệp vụ, các cuộc thi
báo chí và các lớp bồi dưỡng ngắn hạn ở trong và ngoài nước..., và đã thu được
những kết quả tốt, đáp ứng được phần nào yêu cầu đặt ra.
III- ĐÁNH GiÁ CHUNG
l. Những thành tựu
Việc thống nhất và hoàn chỉnh hệ thống
báo chí có thể nói là một thắng lợi lớn nhất của báo chí Việt Nam giai đoạn
1976 -1986. Từ đó, hoạt động báo chí phát triển thuần nhất một loại hình phục
vụ cho chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước. Báo chí được hợp nhất thành
một tổ chức đã nâng tư thế của báo chí Việt Nam trong giai đoạn này lên một tầm
mới.
Có thể khẳng định chắc chắn một điều
rằng, báo chí Việt Nam ngay từ sau năm 1975 đã có sự phát triển nở rộ cả
về số lượng đến loại hình báo chí. Hệ thống báo chí phát triển phong phú, bao gồm
cả các loại báo chuyên ngành, báo cho các đối tượng. Đặc biệt, ở Thành phố Hồ
Chí Minh và ở các tỉnh miền Nam, ngay sau ngày giải phóng đã có hàng loạt tờ
báo mới xuất hiện. Sự phát triển của mạng lưới các trạm truyền hình địa phương
tiếp sóng của Đài Truyền hình Trung ương, hoạt động của các loại báo in, của
Thông tấn xã Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam có những bước phát triển đáng kể.
Về mặt nghiệp vụ, báo chí đã không ngừng
mở rộng diện phản ánh và đa dạng hóa, nâng cao chất lượng tin tức. Báo
chí đã phần nào đi đúng hơi thở của cuộc sống, kịp thời thông tin những sự kiện
trong nước và quốc tế bằng các kênh thông tin của mình, đồng thời báo chí cũng
nhanh nhạy bình luận những vấn đề thời sự một cách sắc sảo và chính xác để định
hướng cho dư luận. Báo chí trở thành một vũ khí xung kích trên mặt trận chống
tiêu cực và cũng là nơi xây dựng những điển hình kinh tế mới. Tiếng nói
của báo chí giai đoạn này có ý nghĩa to lớn trong yêu cầu đổi mới của đất nước.
2. Những hạn chế
Về hình thức trình bày, báo chí trong
thời kỳ này thực sự chưa hấp dẫn được người đọc. Bỏ qua những hạn chế về
mặt kỹ thuật, việc trình bày báo còn thiếu sự sáng tạo: chủ yếu là những
bài dài nói về một vấn đề. Ngoài ra, phong cách của các tờ báo hầu như
giống nhau theo xu hướng cào bằng, chủ yếu tuyên truyền cho đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước. Cũng có một số tờ có phong cách hoạt
động, bút pháp và ngôn ngữ riêng như các loại báo văn nghệ... Tuy nhiên,
những loại báo chuyên biệt như thế này chiếm số lượng ít.
Vấn đề phát hành báo chí trong thời kỳ
này chưa thực sự được coi trọng, mới chủ yếu dựa vào các tổ chức - các
cơ quan chủ quản. Báo chí được bao cấp nên giá bán báo rẻ, ai cũng muốn
mua báo. Vì thế phải phân phối báo ''chỉ có ai đúng đối tượng mới được
mua, ai có hóa đơn mua báo năm trước mới được mua báo năm sau. Có tờ báo
in tới mười mấy vạn bản nhưng vẫn không đủ bán. Chính yếu tố này đã tạo
nên sự hạn chế của báo chí vì chưa phải hoạt động hạch toán kinh doanh
nên chưa thực sự coi trọng công tác in ấn, phát hành... của báo''. Cho
đến đầu những năm 1980, một số tờ báo phải chịu hậu quả của tình trạng
thiếu giấy in, giảm lượng phân phối giấy in, báo chí bắt đầu lao đao với
sóng gió của thị trường gây nên tình trạng khủng hoảng của một số tờ
báo.
Hạn chế rất lớn của báo chí trong thời kỳ
này là thông tin tuyên truyền còn nhiều biểu hiện một chiều. Báo
chí của Việt Nam giai đoạn này vẫn làm theo luận đề “Báo chí không chỉ
là người tuyên truyền tập thể, cổ vũ tập thể mà còn là người tổ chức
tập thể''. Vì thế, hoạt động báo chí chủ yếu phục vụ cho công tác tuyên
truyền, cổ động cho đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước, mà còn
rất hạn chế trong việc thể hiện diễn đàn của nhân dân. Vấn đề này thể
hiện trên các mặt: Báo chí thông tin chung chung, chưa đi sâu vào nắm
bắt vấn đề và thiếu tính thuyết phục. Độ tỉnh táo của báo chí chưa cao,
chủ yếu chạy theo những sự kiện trước mắt, không đi tìm hiểu từ lịch
sử vấn đề để có định hướng chính xác trong tương lai. Phân tích nguyên
nhân và những biểu hiện này của báo Nhân dân, nhà báo Hữu Thọ có
chia ra làm hai vấn đề: Thứ nhất, chúng ta cho rằng, sau chiến
tranh, Việt Nam có khả năng tiến nhanh, tiến mạnh. Bởi vì trong chiến
tranh, hàng triệu người hy sinh mà chúng ta còn vượt qua được huống hồ là việc
xây dựng kinh tế. Thứ hai, là sau khi đánh thắng đế quốc Mỹ, chúng ta
cho rằng vĩnh viễn không có ai dám xâm phạm nước ta31. Thực
tế đã xảy ra không đúng như vậy, vì chỉ sau khi giành được độc lập không lâu,
Việt Nam đã phải tiến vào cuộc chiến để bảo toàn lãnh thổ. Về phần xây dựng và phát
triển kinh tế, thì đây lại là thời kỳ mở đầu của cuộc khủng hoảng trầm trọng,
chứ không phải là thời kỳ phát triển mạnh về kinh tế.
Một thời gian dài, báo chí nặng về phổ
biến đường lối, chính sách, chủ yếu là tin tức hội nghị, văn phòng. Lên các
trang báo trong thời kỳ này, ta nhận thấy tin đối ngoại lên báo chí chủ yếu là
thông tin về các cuộc viếng thăm ngoại giao mang tính chất lễ nghi. Khắc phục
vấn đề này, ngày 20-5-1981, Ban Tuyên huấn Trung ương đã ra Thông thì Hướng dẫn
về việc giảm bớt, rút ngắn tin tức có tính lễ tân. Bản Thông tri khẳng
định rõ: Các cơ quan thông tin báo chí đều phải thực hiện việc giảm bớt, rút
ngắn thông tin về các cuộc mít tinh, chiêu đãi, đón tiếp, viếng thăm xã giao và
các hoạt động có tính lễ nghi khác, để có thể tăng thêm số lượng thông tin về
sản xuất, quản lý kinh tế, quản lý xã hội và giải quyết những vấn đề của đời
sống nhân dân.
Báo chí trong thời kỳ này chưa đi sâu
phân tích tình hình xã hội để phản hồi thông tin chính xác mà chủ yếu thông tin
cứng nhắc theo chủ trương được đề ra. Về vấn đề này, báo chí đã góp phần thúc
đẩy khuynh hướng nóng vội chủ quan của hoạt động xây dựng kinh tế của Đảng và
Nhà nước. Đó là việc cổ vũ mạnh mẽ cho chủ trương đến năm 1980 phải tiến
hành cải tạo xong ở miền Nam, kể cả cải tạo nông nghiệp với cách làm
ép buộc. Bên cạnh đó, cổ vũ miền Bắc lên quy mô to, tổ chức lại sản xuất
theo kiểu hợp tác xã, tăng nhanh tốc độ xã hội như Định Công... Nhà báo
Hữu Thọ dã nói rõ quan điểm của mình về vấn đề này như sau: ''Tôi nằm ở
Tân Hội - Ấp Bắc cả tuần nhưng không viết gì về Cai Lậy vì thấy ép quần
chúng ghê quá. Nhưng rồi cũng phải viết về Quỳnh Lôi cổ vũ cho sự
tiến nhanh, tiến mạnh. Nhưng chúng ta cũng cần nghiêm khắc mà nhận rằng
chưa thấy được mặt cực đoan của điển hình này. Trong khi đó, anh em cũng
có những bàn khoăn ghê gớm''32.
Báo chí chưa dự báo được tình trạng suy
thoái về mặt đạo đức trong thời kỳ mới. Mặc dù, ngay từ đầu giai đoạn,
báo chí đã đề cập đến những tệ nạn xã hội còn sót lại của thời kỳ chiến
tranh và định hướng quần chúng phải bài trừ các tệ nạn và xây dựng
cuộc sống mới tiết kiệm và trong sạch. Tuy nhiên, báo chí chưa đi vào
việc phát hiện ra những suy thoái rất phức tạp của tệ nạn tham ô, tham
nhũng và tệ quan liêu. Cho đến gần cuối thời kỳ, các loạt bài điều tra
về kinh tế, xã hội cũng xuất hiện, nhưng vai trò phản ánh và phát hiện
chưa cao. Báo chí đã nhanh chóng phát hiện và xây dựng những điển hình
trong hoạt động sản xuất và đã thu được hiệu quả tốt nhưng vai trò cổ
vũ còn có phần dè dặt, chưa đầy đủ.
- Những hạn chế trên do
những nguyên nhân sau:
Trước hết, do hoàn cảnh và nhiệm
vụ chính trị của thời kỳ này báo chí Việt Nam thực hiện chức năng, nhiệm vụ dựa
theo luận điểm ''Báo chí là người tuyên truyền tập thể, cổ động tập thể, đồng
thời là người tổ chức tập thể''. Chưa trở thành diễn đàn của quần chúng nhân
dân. Mặt khác, trong điều kiện hoạt động mới này yêu cầu phải thay đổi nhưng
chưa đáp ứng được. Nguyên nhân này trực tiếp tạo nên những hạn chế trong việc
thông tin tuyên truyền một chiều của báo chí giai đoạn 1976 - 1986, khiến cho
thông tin trên báo chí chưa hấp dẫn và hời hợt. Vì thế, hạn chế này yêu cầu
phải được khắc phục trong thời kỳ đất nước bước vào công cuộc đổi mới. Đại hội
Hội Nhà báo Việt Nam lần thứ V (1989) đã khẳng định: Báo chí thể hiện tiếng nói
của Đảng đồng thời là diễn đàn của nhân dân: báo chí ngày nay đã trở thành gạch
nối gắn bó Đảng và nhân dân. Báo chí không thể hoạt động theo kiểu thông tin
một chiều, dội chủ trương, chính sách từ trên xuống dưới một cách quan liêu,
cũng không thể phản ánh thực tế theo kiểu ''tô hồng'', ''bôi đen...''.
Thứ hai, cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp đã ảnh hưởng đến sự phát triển của hoạt động báo chí. Từ việc bao
cấp giấy in cho đến việc phân phối trong phát hành đã dẫn đến tình trạng các
báo trong thời kỳ này không tự tìm cách nâng cao chất lượng mà chủ yếu hoạt
động mang tính chất tuyên truyền, cổ động là chính. Tuy nhiên, đầu những năm
1980, để khắc phục tình trạng khủng hoảng của mình, một số tờ báo đã tự hạch
toán giấy in và phát hành. Những hoạt động này tạo tiền đề cho sự đổi mới công
tác báo chí sau này.
Thứ ba, trang thiết bị kỹ thuật
của các tờ báo lạc hậu. Sau chiến tranh, mặc dù ta tiếp quản đổi mới được đài
phát thanh và truyền hình của chế độ Mỹ ngụy nhưng nói chung các thiết bị cũng
đã bị lạc hậu nhiều. Đội ngũ những người làm báo có trình độ, tay nghề chưa
cao, công tác đào tạo báo chí chưa phát huy hết hiệu quả. Mặc dù Việt Nam vẫn
có những lớp người làm báo từ thời kỳ trước nhưng công tác đào tạo chưa hiệu
quả và còn hẹp gây nên tình trạng thiếu nhân lực cho hoạt động báo chí.
Có thể nói, bối cảnh mới đã tạo cho hoạt
động của báo chí Việt Nam cả những điều kiện thuận lợi và khó khăn. Mặc dù thời
kỳ này, báo chí Việt Nam đã hoạt động thống nhất nhưng vẫn còn tồn tại hai
đường lối hoạt động báo chí ở hai miền khác hẳn nhau do ảnh hưởng của hai hệ ý
thức từ giai đoạn trước. Vì vậy, khó khăn đặt ra là báo chí phải khắc phục
những tàn tích chiến tranh còn sót lại trong hoạt động của mình.
___________
1.Sơ thảo lịch sử 50 năm báo Nhân dân, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 185.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ V, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1982, tr.35.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd,
t.45, tr.2.
4. Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật Việt Nam: 40 năm
báo Khoa học và đời sống, Hà Nội, 1999, tr. 56.
5. Hội Nhà báo thành phố Hà Nội: Báo chí Hà Nội - một
chặng đường lịch sử 1954 – 1993, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995,
tr.60.
6. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam: 70 năm báo Lao động,
Nxb. Lao động, Hà Nội, 1999, tr.77.
7. Ban Chấp hành Trung ương Đảng: Quy chế tổ chức báo địa
phương, ngày 15-10-1985.
8. Báo Nhân dân, ngày 1-1-1976.
9. Báo Sài Gòn giải phóng, ngày 10-1-1976.
10. Xem báo Nhân dân, ngày 25-4-1976.
11. Báo Nhân dân, ngày 13-12-1976.
12. Báo Nhân dân, ngày 13-12-1976.
13. Báo Sài Gòn giải phóng, ngày 17-2-1976.
14. Báo Người lao động, ngày 26-8-1977.
15. Báo Nhân dân, ngày 2-2-1976.
16. Báo Người lao động, ngày 19-8-1977.
17. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam: 70 năm báo Lao động,
Sđd, tr.86.
18. Báo Lao động, ngày 16-10-1986.
19. Trần Đình Bá: Một chặng đường làm báo, Nxb. Thanh
niên, Hà Nội, 1999, tr. 37.
20. Báo Người Lao động, ngày 30-10-1986.
21. Báo Nhân dân, ngày 25-11-1980.
22. Báo Nhân dân, ngày 21-10-1986.
23. Báo Nhân dân, ngày 4-7-1980.
24. Báo Nhân dân, ngày 13-2-1978.
25. Báo Nhân dân, ngày 12-1-1978.
26. Hồng Chương: 120 năm báo chí Việt Nam, Nxb. Thành
phố Hồ Chí Minh, 1985, tr. 109.
27. Đài Tiếng nói Việt Nam: 55 phát thanh đối ngoại,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, tr. 19.
28. Xem GS. Hà Minh Đức (chủ biên): Thời gian và nhân
chứng, Sđd, t.2, tr. 441 – 445.
29. Xem Văn kiện Đại hội lần thứ IV, Hội Nhà báo Việt
Nam.
30. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ V, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1982, tr. 45.
31. Hữu Thọ: Công việc của người viết báo, Nxb. Giáo
dục, Hà Nội, 1998, tr. 333.
32. Xem Hữu Thọ: Công việc của người viết báo, Sđd,
tr. 334.
CHƯƠNG V
BÁO CHÍ CÁCH MẠNG
VIỆT NAM TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC 1986 - 2000
I- BÁO CHÍ
HOẠT ĐỘNG TRONG ĐIỀU KIỆN ĐẤT NƯỚC BẮT ĐẦU ĐỔI MỚI
1. Đổi mới đất nước và yêu cầu
đổi mới báo chí
a) Bối cảnh lịch sử
Giai đoạn 1986 - 2000 được coi là thời điểm
đất nước có nhiều biến động sâu sắc. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của
Đảng Cộng sản Việt Nam (12-1986) trở thành mốc quan trọng đánh dấu bước chuyển
sang thời kỳ đổi mới của Việt Nam. Nghị quyết Đại hội xác định: ''đổi mới toàn
diện trên mọi lĩnh vực'', ''trọng tâm trước mắt là đổi mới chính sách kinh
tế'', ''giữ vững ổn định chính trị là tiền đề để bảo đảm thực hiện thắng lợi
công cuộc đổi mới''1. Đại hội VI khẳng định quyết tâm tiếp
tục thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Từ đại hội này, Đảng đã
đặt ra vấn đề đổi mới toàn diện, trước hết trên lĩnh vực đặc biệt là quản lý
kinh tế và sản xuất. Nhiệm vụ chung cho cả chặng đường đầu của thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội được đề ra là: toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đoàn kết
một lòng, quyết tâm đem hết tinh thần và lực lượng tiếp tục thực hiện thắng lợi
hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong khi không ngừng chăm lo nhiệm vụ
bảo vệ Tổ quốc, Đảng và nhân dân ta tiếp tục đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng
chủ nghĩa xã hội, xây dựng chế độ làm chủ tập thể, nền kinh tế mới, nền văn hóa
mới và con người mới xã hội chủ nghĩa. Những mục tiêu cụ thể được đặt ra gồm:
sản xuất đủ tiêu dùng và có tích lũy, tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý nhằm
phát triển sản xuất, xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới, tạo
ta chuyển biến tốt về mặt xã hội, bảo đảm nhu cầu củng cố quốc phòng và an
ninh.
Từ năm 1986 - 1990, hàng xuất khẩu
tăng gấp 8 lần. Từ năm 1989, nước ta đã tăng thêm các mặt hàng có giá trị xuất
khẩu lớn như gạo, dầu thô... Nhập khẩu giảm đáng kể, cán cân xuất nhập khẩu gần
ngang bằng. Một thành tựu hết sức quan trọng trong thời kỳ này là Việt Nam đã
kiềm chế được một bước đà lạm phát. Nếu chỉ số tăng giá bình quân hàng tháng
trên thị trường năm 1986 là 20%, năm 1987 là l0%, năm 1989 con số này còn 2,5%,
năm 1990 là 4,4%. Điều này tạo điều kiện cho các cơ sở kinh tế hạch toán kinh
doanh, đời sống nhân dân giảm bớt khó khăn.
Quan hệ kinh tế của Việt Nam thời kỳ này được
mở rộng. Tính đến 31-12-1989, Việt Nam đã có quan hệ với 114 nước, trong đó có
76 nước có quan hệ thương mại và hợp tác kinh tế. Việt Nam thời kỳ này tích cực
tham gia vào các tổ chức quốc tế. Tính đến cuối năm 1989, Việt Nam đã là thành
viên của hơn 20 tổ chức quốc tế khác nhau. Điều này khiến Việt Nam dần dần tạo
được mối quan hệ hợp tác kinh tế, khoa học - kỹ thuật với các nước trên thế
giới cũng như tiếp xúc với các nền văn minh. Đặc biệt, sau khi có có Luật
Đầu tư (12-1987), Việt Nam bắt đầu thiết lập mối quan hệ kinh tế với nước
ngoài một cách chặt chẽ và lâu dài hơn. Sau hơn l năm có Luật Đầu tư, đã
có trên 2.000 đoàn nước ngoài vào Việt Nam thăm dò, nghiên cứu khả năng đầu tư
hợp tác. Đến tháng 10-1989 đã có 96 dự án được cấp giấy phép với tổng số vốn
đầu tư 755 triệu USD. Mặc dù con số này chưa nhiều nhưng bước đầu đã mở ra mối
quan hệ kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật của Việt Nam với các nước trên
thế giới.
Riêng với Liên Xô, một trong những thị
trường truyền thống, có ảnh hưởng to lớn tới Việt Nam trong thời kỳ này đã lâm
vào khủng hoảng chưa từng có. Sau gần 6 năm tiến hành cải tổ (tháng 2-1986) đã
không đem lại kết quả tốt. Không những thế, công cuộc cải tổ ngày càng trục
trặc, bế tắc và vượt xa mục tiêu chủ nghĩa xã hội, khiến Liên Xô lâm vào khủng
hoảng về mọi mặt. Năm 1989 được coi là năm xấu nhất của nền kinh tế Liên Xô
cùng với những diễn biến cực kỳ phức tạp của đất nước này. Toàn bộ quá trình
trì trệ - khủng hoảng kéo dài trong nhiều năm của Liên Xô đã lên tới đỉnh cao
khiến Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết tan vỡ sau gần 75 năm tồn
tại.
Sau sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở
Liên Xô và các nước Đông Âu, các thế lực thù địch tăng cường việc thực hiện âm
mưu ''diễn biến hòa bình'', kích động việc thực hiện đa nguyên chính trị, đa
dạng nhằm xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Về kinh tế, những thay đổi lớn
ở Liên Xô và Đông Âu đã gây ra cho Việt Nam nhiều đảo lộn lớn về thị trường
xuất khẩu và nhập khẩu cũng như nhiều chương trình hợp tác kinh tế.
Tuy nhiên, thời kỳ này Việt Nam cũng còn
nhiều vấn đề kinh tế - xã hội chưa được giải quyết. Đó cũng là những hạn chế
tất yếu của thời kỳ như: nền kinh tế còn mất cân đối lớn, lạm phát vẫn ở mức
cao, lao động còn thiếu việc làm, hiệu quả kinh tế thấp, nhiều cơ sở sản xuất bị
đình đốn kéo dài, chưa có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, chế độ tiền lương bất
hợp lý, tốc độ tăng dân số cao; sự nghiệp văn hóa có mặt xuống thấp, tình trạng
tham nhũng còn nặng nề và phổ biến.
Những thành tựu cũng như hạn chế trong giai
đoạn này phần nào đã khẳng định đường lối đổi mới đúng đắn của Việt Nam. Điều
này cũng ảnh hưởng tới sự phát triển của hệ thống báo chí trong thời kỳ này.
Vấn đề đổi mới báo chí cũng theo luồng gió của đổi mới sau Đại hội Đảng lần thứ
VI cũng được đặt ra hết sức quyết liệt.
b) Đảng đặt vấn đề đổi mới báo chí
Tính đến cuối năm 1989, Việt Nam đã có hơn
200 tờ báo, cả báo trung ương lẫn địa phương, với trên 6.000 người làm báo
chuyên nghiệp. Mặc dù trong thời kỳ này, báo chí Việt Nam vẫn gặp rất nhiều khó
khăn về cơ sở vật chất - kỹ thuật như giấy in báo, cơ sở ấn loát, kỹ thuật...,
nhưng báo chí vẫn phát triển cả về nội dung lẫn hình thức.
Sau Đại hội VI của Đảng, mọi lĩnh vực kinh
tế, văn hóa - xã hội cũng đồng thời phải đổi mới. Chưa bao giờ trong lịch sử
Việt Nam báo chí cách mạng lại có sự sôi động và vai trò của người làm báo được
xã hội thừa nhận đến như vậy.
Hội nghị thường kỳ Ban Chấp hành Hội Nhà
báo Việt Nam đúng ra được triệu tập vào tháng 12-1985 nhưng lùi sang cuối năm
1986 nhằm tiếp thu các quan điểm mới của Trung ương về dự thảo Báo cáo chính
trị và nội dung tuyên truyền của báo chí phục vụ Đại hội VI của Đảng. Một trong
những trọng tâm của Hội nghị Ban Chấp hành Hội Nhà báo Việt Nam tổ chức trong
hai ngày 30 và 31-7-1986, là quán triệt tinh thần chỉ đạo, đổi mới của Đảng
trên các lĩnh vực công tác, trước hết là trên lĩnh vực quản lý kinh tế - xã
hội, trong đó có công tác báo chí. Đây là lần đầu tiên, vấn đề đổi mới báo chí
được nêu ra một cách thẳng thắn và quyết tâm trong hội nghị thường kỳ của Hội
Nhà báo. Hội nghị này nhấn mạnh: phải đổi mới tư duy, đổi mới phong cách, đổi
mới tổ chức và cán bộ trong báo chí mới có thể tiến kịp sự phát triển của cách
mạng và báo chí mới phát huy được đầy đủ chức năng là công cụ của Đảng, là cầu
nối liền giữa Đảng với quần chúng.
Bản thân tổ chức Hội Nhà báo cũng yêu cầu
phải được kiện toàn vững mạnh, đủ đáp ứng nhu cầu công tác ngày càng phát
triển. Đồng chí Hoàng Tùng, Chủ tịch Hội Nhà báo phân tích: Trong hoàn cảnh mới
hiện nay, Hội ta cũng như các đoàn thể khác phải tiếp tục đổi mới phong cách
hoạt động, trong điều kiện sẽ không còn chế độ bao cấp thì phải làm như thế nào
cho thích hợp cũng là vấn đề phải tiếp tục nghiên cứu giải quyết dần từng bước.
Ở trung ương, hội ít nhiều cũng đã có kinh nghiệm về hoạt động dịch vụ trong
khuôn khổ hợp lý, hợp pháp nhằm mục tiêu đảm bảo cho công tác khác về nghiệp
vụ, quan hệ quốc tế... hoạt động bình thường, tuy còn không ít khó khăn trở
ngại. Ở các hội tỉnh, thành phố và các chi hội còn nhiều lúng túng, khó khăn về
xây dựng quỹ và cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ cho công tác của hội. Đó là
những vấn đề đặt ra phải có biện pháp giải quyết thỏa đáng.
Châm ngòi nổ cho quá trình đổi mới báo chí
Việt Nam bắt đầu từ loạt bài “Những việc cần làm ngay'' của Tổng Bí thư
Nguyễn Văn Linh ngày 25-5-1987 trên các báo, đài. Những bài báo mang tiêu đề “Những
việc cần làm ngay'' đã phê bình cụ thể, có địa chỉ rõ ràng, mở ra luồng
sinh khí mới cho giới báo chí tham gia trực tiếp cuộc đấu tranh chống tiêu cực
đi đôi với cổ vũ các nhân tố mới. Tiếp theo, hàng loạt các báo, đài từ Bắc vào
Nam với đủ đề tài đã mở chuyên mục “Hưởng ứng những việc cần làm ngay''. Nhờ
đó, hàng loạt các vụ tiêu cực, những biểu hiện đặc quyền đặc lợi của một số
người như áp bức quần chúng, làm ăn bê bối... đã được đưa ra trước công luận.
Báo Nhân dân từ việc đăng những bài báo ngắn gọn trên góc phải trang
nhất, sau này được chuyển thành diễn đàn “Nói và Làm'' đã gắn kết chặt
chẽ giữa việc phê phán trên báo với những hành động cụ thể để sửa chữa những
khuyết điểm đó.
Tại Đại hội lần thứ V Hội Nhà báo Việt Nam
(tháng 10-1989), vấn đề đổi mới báo chí đã được đánh giá cụ thể và có tầm chiến
lược. Với tiêu đề Đổi mới báo chí vì sự nghiệp đổi mới của đất nước, báo
chí của Ban Chấp hành khóa IV tại Đại hội đã khẳng định sự phát triển của báo
chí thế hiện rõ qua phong trào đổi mới báo chí phục vụ sự nghiệp đổi mới của
đất nước. Ba vấn đề đổi mới báo chí đã được nêu lên gồm: đổi mới thông tin, báo
chí cố gắng thể hiện là tiếng nói của Đảng đồng thời là diễn đàn của nhân dân,
báo chí tích cực tham gia chống tiêu cực đi đôi với việc phát hiện và cổ vũ
nhân tố mới. Trong đó, nét nổi bật của đổi mới báo chính là đổi mới thông tin.
Từ những thành tựu và khuyết điểm của báo
chí việt Nam trong quá trình đổi mới, Đại hội V đã đưa ra quan điểm đổi mới báo
chí: Báo chí thể hiện tiếng nói của Đảng, đồng thời là diễn đàn của nhân dân;
sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí; mở rộng dân chủ với tinh thần dân chủ
trong báo chí. Có thể nói tư tưởng lấy dân làm gốc, dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra của Đảng đã thực sự thấm sâu vào quá trình đổi mới báo chí.
Ngày 20-1-1990, Quốc hội đã thông qua và
chính thức công bố Luật Báo chí mới. Luật Báo chí thể hiện trung
thực những bước đi về những quan điểm cơ bản trong công cuộc đổi mới báo chí
của Đảng và Nhà nước cũng như ý nguyện của toàn dân. Luật Báo chí xác
định, dù là cơ quan thông tin, ngôn luận của bất cứ cơ quan, tổ chức nào cũng
là diễn đàn của nhân dân. Nhà nước tạo điều kiện để công dân thực hiện quyền tự
do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí và để phát huy đúng vai trò của
mình. Báo chí không bị kiểm duyệt trước khi in, phát sóng. Quyền thông tin và
quyền được tự do thông tin của nhân dân đã được thể hiện vào Luật Báo chí. Nội
dung cơ bản của quyền này là người dân được thông tin qua báo chí về mọi mặt
của tình hình đất nước và thế giới, được cung cấp thông tin cho báo chí, được
phát biểu ý kiến của mình và tham gia xây dựng chính sách, pháp luật, được kiến
nghị, phê bình, khiếu nại...qua báo chí. Cốt lõi của nó là cơ quan báo chí cho
dù là ai, và người làm báo bất luận hoạt động trong lĩnh vực nào đều được quyền
thông tin và được thông tin của nhân dân.
Có thể nói Luật Báo chí năm 1990 đã
thể hiện khá trung thực những bước tiến quan trọng về những quan điểm cơ bản
trong công cuộc đổi mới báo chí của Đảng và Nhà nước ta cũng như ý nguyện của
toàn dân. Luật ra đời cũng chính do sự phát triển nội tại của báo chí Việt Nam,
là kết quả của cả một quá trình tự vận động để đổi mới báo chí, đóng góp vào
công cuộc chung của toàn đất nước ở thời điểm đó. Luật Báo chí quy định
quyền và nghĩa vụ của nhà báo, của tổng biên tập, của cơ quan chủ quản. Lần đầu
tiên, Hội Nhà báo Việt Nam được pháp luật công nhận quyền và nghĩa vụ của mình.
Tuy ngắn gọn (chỉ có 31 điều), nhưng Luật Báo chí đã chứa đựng
lượng thông tin cao và thể hiện đầy đủ chế độ báo chí ở một nước độc lập, tự
do, nhân dân làm chủ đang xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của mình.
2. Vai trò của báo chí trước những biến
động lớn của xã hội và thế giới
a) Trước những vấn đề bức xúc của đất
nước ở thời kỳ đầu của công cuộc đổi mới
Ngay sau Đại hội Đảng lần thứ VI của Đảng,
vấn đề đổi mới nền kinh tế cùng những mối quan hệ xã hội được đặt ra một
cách gay gắt. Sau Đại hội Đảng, quán triệt tinh thần, hầu hết các báo
tập trung vào việc phổ biến, tuyên truyền và giáo dục về đường lối đổi
mới của Đảng, một mặt trang bị cho cán bộ và nhân dân một sự đánh giá
đúng thực tế tình hình đất nước, mặt khác làm rõ quan điểm, đường lối và
nội dung đổi mới. Theo tinh thần ''nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng
sự thật, nói rõ sự thật'', báo chí công bố những đánh giá quan trọng
nhất của Đảng qua các văn kiện lớn của Đại hội, thẳng thắn vạch rõ những
sai lầm, khuyết điểm, đồng thời đấu tranh chống lại các xu hướng
sai trái muốn phủ nhận thành tựu của cách mạng, phủ nhận vai trò lãnh
đạo của Đảng. Báo cũng chỉ ra tính chất cấp bách và tất yếu phải đổi
mới, nhưng đổi mới là một sự nghiệp cách mạng đầy khó khăn gian
khổ, chưa có tiền lệ, phải vừa làm vừa tìm tòi, khám phá, phải nhằm mục
tiêu chủ nghĩa xã hội, lựa chọn bước đi và các giải pháp, tránh những
vấp váp trước đây, không chủ quan duy ý chí nhưng cũng không được bảo
thủ, trì trệ.
Về mặt kinh tế, các báo tập trung tuyên
truyền nổi bật các quan điểm đổi mới của Đảng:
- Bố trí lại cơ cấu sản xuất và cơ
cấu đầu tư, đổi mới công nghệ và kỹ thuật, tập trung thực hiện ba chương
kinh tế lớn: lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu.
- Về quan hệ sản xuất, đi đôi với việc phát
triển kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể cần có những bước đi phù hợp với trình
độ lực lượng sản xuất để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của hai thành
phần kinh tế trên; đồng thời có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các
thành phần kinh tế khác, khuyến khích kinh tế gia đình; thừa nhận sự tồn tại
của kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ và kinh tế tư bản tư nhân.
- Đổi mới cơ chế quản lý theo hướng xóa bỏ
tập trung bao cấp, xây dựng cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch toán kinh
doanh xã hội chủ nghĩa, chuyển sang quản lý nền kinh tế bằng phương pháp kinh
tế là chủ yếu.
Trong công nghiệp và xây dựng, các báo như Nhân
dân, Lao động, Tiền phong, Sài Gòn giải phóng tập trung tuyên truyền cho
việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư, hướng vào các công trình trọng điểm như
thủy điện Sông Đà và Trị An, dầu khí Vũng Tàu - Côn Đảo,... Đồng thời cổ
vũ mạnh hơn nữa việc đổi mới quản lý theo cơ chế mới, thực hiện tự chủ
tài chính, hạch toán kinh doanh, đưa ra nhiều điển hình làm ăn theo cơ
chế mới.
Coi việc tuyên truyền cho mặt trận phân
phối lưu thông là một trọng điểm. Điểm này, ngoài các báo lớn ở cấp trung ương,
những tờ báo địa phương như Hà Nội mới, Sài Gòn giải phóng đã làm
rất tốt. Ngoài việc cổ vũ mạnh cuộc phấn đấu thực hiện “bốn giảm'' và
chỉ rõ rằng muốn ''bốn giảm” phải dứt khoát đi vào cơ chế quản lý mới.
Tình hình kinh tế - xã hội trực tiếp ảnh
hưởng đến đời sống văn hóa, văn nghệ. Giới văn nghệ sĩ nước ta phấn khởi tiếp
nhận những chủ trương đổi mới của Đảng, đồng thời cũng đề ra yêu cầu bức xúc về
tự do sáng tạo. Trong khi đó, cũng có những quan điểm sai trái muốn phủ nhận
những thành tựu của cách mạng và kháng chiến nói chung và của nền văn học, nghệ
thuật cách mạng nói riêng, phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng đối với văn hóa, văn
nghệ, coi đó là sự trói buộc đối với văn học, nghệ thuật. Đây chính là thời
điểm mà vấn đề ''Văn hóa nghệ thuật'' được các báo chú trọng, trở thành diễn
đàn dể hầu hết các văn nghệ sĩ bày tỏ quan điểm, lập trường tư tưởng của mình.
Đã có lúc, các vấn đề này trở thành gay gắt, nóng bỏng trên các mặt báo, bên
cạnh những vấn đề kinh tế - xã hội. Bên cạnh việc ủng hộ việc tôn trọng quyền
tự do sáng tạo, nhưng mặt khác, báo chí Việt Nam lúc đó phải tiến hành cuộc đấu
tranh chống các khuynh hướng lệch lạc, không tán thành chủ trương ''định hướng
rộng'' để trên thực tế buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực này.
Tháng 11-1987, Bộ Chính trị ra Nghị quyết
05 về Đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo quản lý văn học, nghệ thuật và
văn hóa, phát huy khả năng sáng tạo, đưa văn học nghệ thuật và văn hóa phát
triển lên một bước mới. Nghị quyết đã góp phần nâng cao nhận thức,
đẩy mạnh các hoạt động văn hóa, văn học nghệ thuật. Những tờ báo, tạp
chí như Nhân dân, Văn nghệ, Văn nghệ quân đội, Tiền phong, Tạp chí Cộng sản,
Sông Hương ở thời điểm đó đã có nhiều cố gắng trong công tác tuyên truyền
cho nghị quyết đó, thông qua nhiều bài viết của nhiều cán bộ lãnh đạo và
vàn nghệ sĩ. Hội nghị Trung ương lần thứ bảy (8-1989) ra Nghị quyết Một
số vấn đề cấp bách về công tác tư tưởng, nhận định những nguyên nhân chủ
yếu dẫn đến tình trạng khó khăn ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa để rút
kinh nghiệm cho ta phòng và tránh những sai lầm trong lãnh đạo nói chung
và trong lãnh đạo tư tưởng nói riêng.
Hội nghị Trung ương lần thứ tám (tháng
3-1990) của Đảng ra Nghị quyết về Tình hình các nước xã hội chủ
nghĩa, sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc và nhiệm vụ cấp bách của Đảng ta, đã
phân tích sâu sắc những nguyên nhân của cuộc khủng hoảng, trong đó
nguyên nhân trực tiếp thứ nhất là sự ''xa rời hoặc từ bỏ những tư tưởng
cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin'', và nguyên nhân thứ hai là ''sự phá
hoại của các thế lực đế quốc và phản động quốc tế''.
Căn cứ vào nghị quyết của Trung ương, những
tờ báo như Nhân dân, Hà Nội mới, Sài Gòn giải phóng, Văn nghệ, Lao động... đã
có hàng loạt bài viết, vừa làm sáng tỏ các nhận định của Trung ương, vừa
phê phán các tư tưởng sai trái nêu trên. ''Cứ như luận điệu của các thế
lực chống chủ nghĩa xã hội thì khủng hoảng bắt nguồn từ bản chất của chế
độ xã hội chủ nghĩa, một chế độ theo họ không cao hơn mà lại thấp hơn
chế độ tư bản chủ nghĩa, một chế độ bị áp đặt khiên cưỡng trong tiến
trình lịch sử. Không! Khủng hoảng không bắt đầu từ đó. Chủ nghĩa xã hội
đã, đang và sẽ còn tiếp tục chứng tỏ sức sống của nó''2.
b) Báo chí tích cực tham gia đấu tranh
chống tiêu cực đi đôi với việc phát hiện và cổ vũ nhân tố mới
Cùng với việc tiếp tục phản ánh ý kiến nhân
dân đóng góp với Đại hội Đảng lần thứ VI, báo chí mở cuộc đấu tranh chống các
hiện tượng tiêu cực, phê bình công khai, có địa chỉ và yêu cầu xử lý nghiêm
minh những vụ việc tiêu cực và những cán bộ phạm sai lầm.
Ngày 25-5-1987, trên các báo, đài, đồng chí
Nguyễn Văn Linh mở mục “Những việc cần làm ngay''. Tiếp đó, hầu hết các
báo, đài mở chuyên mục “Hưởng ứng những việc cần làm ngay''. Bằng nhiều
hình thức và thể tài, báo chí trong Nam ngoài Bắc phanh phui trước công luận
nhiều vụ tiêu cực, nghiêm khắc phê phán những hiện tượng một số người đặc quyền
đặc lợi, vi phạm quyền công dân, áp bức quần chúng, làm ăn bê bối.
Nhìn chung, cuộc đấu tranh chống tiêu cực
trên báo, đài thời gian này về cơ bản là đúng hướng, chọn đúng vấn đề. Những vụ
việc đấu tranh có kết quả là do mấy yếu tố:
1. Nhân dân phát hiện những hiện tượng tiêu
cực, kiên trì đấu tranh.
2. Báo chí với ý thức trách nhiệm xã hội
của mình, cân nhắc chọn lựa, điều tra, đưa đúng vụ việc tiêu biểu ra công khai.
3. Có sự phối hợp giữa các cơ quan báo, đài
khi đề cập những vụ việc quan trọng và phức tạp.
4. Các cơ quan Đảng và Nhà nước có trách
nhiệm quan tâm kiểm tra, kết luận và xử lý3.
Báo chí thông qua đấu tranh chống tiêu cực
đã góp phần vào cuộc vận động làm trong sạch tổ chức đảng, bộ máy nhà nước,
lành mạnh hóa các quan hệ xã hội, góp phần phát huy dân chủ trong sinh hoạt
Đảng và trong xã hội, minh oan cho người vô tội, lên án những hành vi trù dập
người phê bình. Báo chí cũng lên án những người lợi dụng dân chủ để vu cáo,
xuyên tạc sự thật, hỗ trợ các cơ quan pháp luật và quần chúng chống tiêu cực
như báo Đại đoàn kết, Tiền phong, Lao động, Phụ nữ Việt Nam, Thanh niên,
Công an thành phố Hồ Chí Minh...
Đi đôi với việc chống tiêu cực, báo chí đã
có cố gắng phát hiện những nhân tố mới, cổ vũ những ''điểm sáng”, những
điển hình tiên tiến. Nhìn lại các số báo, các chương trình phát thanh,
các buổi truyền hình, các phim thời sự đều có thể thấy chúng ta đã
chú ý biểu dương cái mới. Có những nhân tố mới báo chí phát hiện,
cổ vũ và đã trở thành điển hình tiên tiến. Nhiều kinh nghiệm của nhân
dân đã được tổng kết, làm cơ sở cho nhiều nghị quyết của Đảng về đổi mới
quản lý, sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ chế mới. Trên báo viết, báo
nói, báo hình, báo ảnh ngày càng xuất hiện nhiều hơn những mô hình mới
về ba chương trình kinh tế lớn, về ''Khoán 10'' trong nông nghiệp, về kinh tế
nhiều thành phần, về những thành tựu áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản
xuất và đời sống.
Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận không ít báo
chí đã có lúc thiên về chống tiêu cực, chưa thật coi trọng việc phát
hiện và cổ vũ gương tốt về những con người, những đơn vị kinh tế quốc
doanh công nghiệp, nông nghiệp, phân phối lưu thông, những đơn vị đã vươn lên
tháo gỡ khó khăn, tìm ra cách làm ăn mới, đem lại hiệu quả kinh tế.
Tại thời điểm này, rất nhiều các tờ báo làm
tốt công tác chống tiêu cực, đồng thời cổ vũ những nhân tố mới như Nhân dân,
Tiền phong, Sài Gòn giải phóng, Hà Nội mới...
c) Báo chí với sự khủng hoảng và sụp đổ
của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu
Khi công cuộc đổi mới do Đảng đề xướng đang
được tiến hành và bước đầu đã thu được những kết quả khả quan thì tháng 8-1991,
xảy ra sự kiện chính trị lớn ở Liên Xô và tháng 12-1991, chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Liên Xô sụp đổ, Liên bang Xôviết tan rã. Cùng với Liên Xô, các
nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu bị tan vỡ. Quan hệ giữa nước ta với các
thị trường truyền thống bị đảo lộn. Trong khi đó Mỹ vẫn tiếp tục cấm
vận. Các thế lực thù địch đẩy nhanh những hoạt động phá hoại, mưu toan
gây rối làm mất ổn định chính trị để tạo thời cơ tiến hành bạo loạn lật
đổ. Chấn động chính trị lớn trên thế giới đã tác động sâu sắc đến tư
tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân ta. Có thể nói, sau năm 1975,
chưa bao giờ Việt Nam lại rơi vào hoàn cảnh khó khăn như vậy. Lo lắng
lớn nhất của Đảng cũng như mọi người dân Việt Nam là liệu cách mạng nước
ta có trụ được trong cơn thử thách hiểm nghèo không? Có thực hiện được
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản khi không còn
những nước xã hội chủ nghĩa đi trước giúp đỡ không?
Trước tình hình đó, báo chí Việt Nam đã vào
cuộc và thực hiện xuất sắc vai trò của mình. Nghị quyết 01 của Bộ Chính trị về
phương hướng công tác tư tưởng và đối sách của ta trước tình thế mới để thực
hiện ngày càng tốt công tác thông tin và nghị luận của mình. Những tờ báo lớn,
có đông đảo bạn đọc như Nhân dân, Quân đội nhân dân, Sài Gòn giải phóng, Hà
Nội mới, Lao động, Tiền phong, Văn nghệ... đã một mặt thông tin trung thực
tình hình; mặt khác qua các bài bình luận thời sự và chuyên luận chính trị,
hướng vào giải quyết các mối lo ngại trong cán bộ và nhân dân, khẳng định khả
năng đứng vững và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Có thể nói, ở thời điểm này, chính hệ thống
báo chí Việt Nam đã chủ động ''mở cửa'' đem lại một cái nhìn đa chiều cho bạn
đọc Việt Nam về những sự kiện trên thế giới. Cùng với khủng hoảng và sự sụp đổ
của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, là cái nhìn vào cuộc đấu tranh giữa
con đường phát triển: xã hội chủ nghĩa hay là tư bản chủ nghĩa? Trước tình hình
đó, Hội Nhà báo Việt Nam đã tiến hành quán triệt tinh thần của Nghị quyết 01
của Bộ Chính trị và Nghị quyết Trung ương 7 khóa VI. Từ đó, hệ thống báo, đài
đã tập trung vào những nhiệm vụ và nội dung quan trọng nêu trong các nghị quyết
của Đảng. Bằng thông tin, nghị luận qua những bài viết, báo chí Việt Nam góp
phần:
1. Khẳng định tính tất yếu lịch sử của chủ
nghĩa xã hội và những thành tựu vĩ đại của hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế
giới.
2. Khẳng định tính tất yếu khách quan và
phương hướng xã hội chủ nghĩa của quá trình cải tổ, cải cách, đổi mới.
3. Làm cho cán bộ và nhân dân ta nhận rõ
bản chất và con đường diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản, nâng cao cảnh
giác cách mạng, đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc
tế.
4. Giáo dục trong Đảng và trong nhân dân
kiên trì mục tiêu lý tưởng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở quán triệt 5
nguyên tắc và những chính sách đổi mới của Đảng.
5. Giáo dục nâng cao phẩm chất đạo đức cách
mạng xã hội chủ nghĩa, tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, sự thống
nhất ý chí và hành động trong xã hội, đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực.
3. Sự phát triển của hệ thống báo chí
địa phương
Trước khi Đại hội lần thứ VI của Đảng diễn
ra, cả nước có hơn 200 tờ báo và tạp chí xuất bản định kỳ và có hơn 200 tờ
thông tin khoa học, kỹ thuật. Bước vào thời kỳ đổi mới, bên cạnh sự khẳng định
tên tuổi, uy tín của những tờ báo như Nhân dân, Quân đội nhân dân, Lao động,
Tiền phong, Hà Nội mới, Sài Gòn giải phóng, Văn nghệ, Khoa học và đời sống, Phụ
nữ Việt Nam... hầu hết các tờ báo đều bắt đầu có sự sắp xếp, chuyển đổi để
phù hợp với tình hình mới, đặc biệt là hệ thống báo chí địa phương.
Trước Đại hội lần thứ VI của Đảng, hay xa
hơn nữa là trong thời kỳ chiến tranh, báo chí địa phương chủ yếu là công cụ, là
cơ quan ngôn luận của đảng bộ địa phương nhằm phổ biến, tuyên truyền và hướng
dẫn nhân dân thực hiện các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng.
Đặc biệt báo chí địa phương lúc đó được quy định hết sức chặt chẽ: Hầu như mỗi
địa phương chỉ có một tờ báo của đảng bộ địa phương. Thậm chí có địa phương
không có tờ báo nào như tỉnh Cần Thơ (đến tận năm 1992, tỉnh Cần Thơ mới có tờ
báo của đảng bộ). Trừ một số địa phương lớn như Hà Nội, thành phố hồ Chí
Minh... ngoài tờ báo của đảng bộ địa phương, còn có thêm một số tờ báo khác. Ví
dụ, ở Hà Nội ngoài tờ Hà Nội mới còn có tờ Người Hà Nội (cơ quan
của Hội Văn nghệ Hà Nội ra đời năm 1978), An ninh Thủ đô (của Công an
thành phố hà Nội, ra đời năm 1981). Ở thành phố Hồ Chí Minh ngoài tờ Sài Gòn
giải phóng ra còn có tờ Công nhân giải phóng (tiếng nói của
công nhân và lao động thành phố Hồ Chí Minh, ra đời năm 1976, đến năm 1989, báo
Công nhân giải phóng đổi tên thành Người lao động), Phụ nữ
thành phố Hồ Chí Minh (Tiếng nói của phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh ra
đời năm 1976)... Sự quy định chặt chẽ đó, cùng với phong cách làm báo cũ (tờ
báo mới chỉ là công cụ tuyên truyền, đấu tranh của đảng bộ địa phương, chưa
thực sự trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu được) đã khiến cho báo chí
địa phương nhiều khi trở nên khô cứng, ít hấp dẫn được bạn đọc.
Trong những năm đầu tiên ấy, dưới ánh sáng
đổi mới của Đảng, báo chí bắt đầu có những đổi mới cải tiến nhất định,
đặc biệt là báo địa phương. Nhiều cuộc hội thảo về báo chí địa phương đã diễn
ra ở nhiều nơi như Hà Nội, Hải Phòng, Hà Tây, Vĩnh Phú, Bắc Thái, Hải Hưng, Yên
Bái và nhiều tỉnh phía Nam... nhằm xác định rõ vai trò, chức năng quan trọng
của báo chí địa phương hiện nay. Cũng qua các cuộc hội thảo đó, khái niệm về
báo chí địa phương cũng đã được xác định lại một cách đúng đắn và toàn diện
hơn, phù hợp với tình hình mới. Báo địa phương là các báo Đảng ở các tỉnh,
thành phố, trở thành công cụ sắc bén trong công tác tư tưởng, đồng thời là món
ăn tinh thần không thể thiếu được ở địa phương. Vị trí, vai trò và chức năng
của báo chí địa phương cũng được xác định rất rõ. Trước hết, nó phải là công
cụ, là cơ quan ngôn luận của đảng bộ địa phương về tất cả các lĩnh vực chính
trị, kinh tế, xã hội... Đồng thời, nó là một trong những phương tiện hướng dẫn
dư luận chỉ đạo công tác của đảng bộ và chính quyền địa phương. Mặt khác, báo
chí địa phương cũng là diễn đàn của nhân dân, phản ánh nguyện vọng, ý kiến của
nhân dân về tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội tại địa phương.
Báo chí địa phương dần dần có được những
bước phát triển rõ rệt. Báo chí địa phương không còn bó hẹp trong khuôn khổ duy
nhất một tờ báo của đảng bộ trước đây, mà hiện tại mỗi địa phương có thể có
nhiều tờ báo khác nhau như báo ngành, báo đoàn thể hay báo của các tổ chức xã
hội. Chẳng hạn, ở thành phố Hồ Chí Minh có rất nhiều tờ báo khác nhau: báo Tuổi
trẻ thành phố Hồ Chí Minh (2 ngày một số), Tuổi trẻ chủ nhật (tuần
báo), Giác ngộ (2 tuần một số), Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh (3
ngày một số) v.v.. Ở Hải Phòng, ngoài báo Hải Phòng ra còn có Tạp chí
cửa biển, An ninh Hải Phòng, ở Bà Rịa - Vũng Tàu, ngoài tờ Vũng Tàu còn
có tờ Văn nghệ Vũng Tàu, Tạp chí du lịch Vũng Tàu, Tạp chí du lịch bốn mùa (bằng
tiếng Anh)... Điều đó chứng tỏ báo chí ở các tỉnh, thành phố ngày càng phong
phú, đa dạng hơn. Sự phát triển nhanh chóng của báo chí địa phương còn thể hiện
qua những con số cụ thể. Tính đến năm 1993 cả nước ta có 320 tờ báo, tạp chí
với số lượng phát hành trên 350 triệu bản, trong đó, báo chí địa phương phát
triển từ 69 đơn vị năm 1989 lên 91 đơn vị năm 1990 và 120 đơn vị năm 1993.
Trong số 320 tờ báo hiện nay, có tới 50 tờ tuần báo của đảng bộ địa phương, 5
tờ báo hàng ngày, trong đó trung ương 2 tờ, địa phương 3 tờ (đó là Hà Nội
mới, Sài Gòn giải phóng, Hải Phòng). Điều đó chứng tỏ báo địa phương đã không
ngừng vươn lên, xóa đi dần cái khoảng cách phân biệt trước đây giữa báo trung
ương và báo địa phương, đồng thời từng bước khẳng định vị trí của mình trong
làng báo Việt Nam.
4. Sự thay đổi về nghệ thuật và kỹ thuật
làm báo
Sự ghi nhận đầu tiên về nghệ thuật báo chí
thời kỳ 1986 -1990 là đa dạng về thể loại, phong phú về nội dung và cái nhìn đa
chiều của báo chí trước những vấn đề lớn của đất nước và thế giới. Có
thể nói, đây chính là thời điểm mà báo chí Việt Nam bắt đầu tiếp cận với
nền báo chí hiện đại với việc từng bước xóa bỏ bao cấp, hình thành nền
kinh tế thị trường, trong đó báo chí cũng là một bộ phận.
Báo, đài đã thông tin nhiều chiều, đa dạng,
phong phú hơn. Tin trong nước, tin thế giới được chọn lọc trình bày hấp dẫn
hơn.
Thông tin toàn diện hơn, bên cạnh tin về
những thành tựu, ưu điểm cũng đã thông tin về những khó khăn, khuyết điểm,
những hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Hình thức trình bày phong phú hơn, gần
gũi với đời sống hàng ngày hơn...
Báo, đài đã thông tin nhằm góp phần hoàn
thiện hơn một số chính sách chưa đồng bộ, chưa hợp lý... Những kiến nghị của
nhân dân được phản ánh. Tại thời điểm này, những thông tin từ phía bạn đọc đã
được các báo, đài rất quan tâm. Ngoài việc trả lời bạn đọc, căn cứ trên các đơn
thư của bạn đọc, các báo, đài đã triển khai các bài viết, điều tra rất có giá
trị, đáp ứng được những nhu cầu bức xúc của nhân dân, trực tiếp đấu tranh chống
lại các hiện tượng, vụ việc tiêu cực, góp phần làm trong sạch xã hội, tạo lòng
tin của người dân đối với Đảng và chính quyền.
Các tạp chí, báo chuyên ngành, xưởng phim
thời sự cũng có nhiều đổi mới về mở rộng thông tin, từ thông tin lý luận, thông
tin kinh tế - xã hội đến thông tin khoa học kỹ thuật, thông tin văn hóa - thể
thao...
Thông tin đối ngoại có những cố gắng đổi
mới, đã thông tin nhiều hơn về tình hình nước ta với nội dung phong phú, đa
dạng, thể hiện đúng quan điểm của Đảng ta, phù hợp với đối tượng nước ngoài.
Chính sự mở rộng thông tin đã góp phần hình thành tư duy mới, nâng cao kiến
thức, mở rộng tầm nhìn của cán bộ và nhân dân trên nhiều lĩnh vực.
Bước vào thời kỳ đổi mới, cùng với những
khó khăn về kinh tế của thời kỳ đầu đổi mới, sự thiếu thốn về kỹ thuật hiện
đại, nguyên vật liệu đã khiến cho nhiều tờ báo hoạt động rất khó khăn. Cơ chế
thị thường, nhất là tình trạng lạm phát tăng nhanh, giá nguyên vật liệu, trực
tiếp là giá giấy in báo tăng cao đã buộc nhiều tờ báo phải tự tìm đường đi mới
để tiếp tục tồn tại và phát triển. Những tờ báo như Sài Gòn giải phóng, Khoa
học và đời sống, Lao động, Tiền phong... đã phải tự mình huy động
vốn, tìm kiếm nguồn cung cấp giấy ăn báo, tự trang bị lại máy in, các thiết bị
kỹ thuật làm báo. Điểm đặc biệt trong thời kỳ này là một số tờ báo ở miền Nam
đã tự mình tiến hành phát hành báo, từng bước thực sự chủ động ''kinh doanh''
báo chí. Rất nhiều tờ báo, sau khi báo in xong, phóng viên, cán bộ tòa soạn đã
tự mình đi bán báo. Đây chính là sự đổi mới rất cơ bản về tư duy làm báo của
Việt Nam ở thời điểm đó. Để tồn tại và thực hiện tốt được những nhiệm vụ chính
trị, mỗi tờ báo phải không ngừng đổi mới để đem thông tin đến với bạn đọc một
cách gần gũi và dễ hiểu nhất.
5. Vai trò của Hội Nhà báo Việt Nam với
sự nhìn nhận về nền báo chí mới
Bắt đầu từ năm 1986, báo chí nước ta (bao
gồm cả báo in, phát thanh, truyền hình, thông tấn xã) mặc dù gặp nhiều khó khăn
về cơ sở vật chất và thiếu thốn về phương tiện kỹ thuật vẫn phát triển. Hội Nhà
báo Việt Nam (từ Đại hội V) đã trở thành một tổ chức toàn quốc mới hệ thống ba
cấp: trung ương, tỉnh hội và thành hội, chi hội cơ sở. Hiện nay có 32/44 hội nhà
báo cấp tỉnh, thành phố, gần 260 chi hội với tổng số trên 6.200 hội viên (năm
1983, tại Đại hội IV có 130 chi hội và hơn 1.000 hội viên, chưa hình thành hệ
thống tổ chức báo chí trong cả nước).
Trên cơ sở kiện toàn tổ chức ở nhiệm kỳ IV,
với tư cách là một tổ chức chính trị và nghề nghiệp, Hội Nhà báo Việt Nam đã
gắn bó hơn với hoạt động của báo chí trong tình hình mới. Trước yêu cầu cấp
bách đổi mới báo chí và báo chí tham gia phê bình, đấu tranh chống tiêu
cực, Ban Chấp hành khóa IV đã triệu tập một phiên họp ba ngày vào tháng 8-1987
để trao đổi về cuộc vận động này. Hội nghị đánh giá cao vai trò của báo chí về
bước đầu đổi mới thông tin, về đấu tranh chống tiêu cực, thực hiện dân chủ và
công bằng xã hội. Ban Chấp hành Hội cũng đã nghiêm túc tự phê bình công tác của
Hội còn thiếu năng động, chưa theo kịp sự phát triển của lực lượng báo chí
trong cả nước, chưa theo sát cuộc đấu tranh chống tiêu cực trên báo chí để từng
bước rút kinh nghiệm, hướng dẫn, giúp đỡ, cổ vũ các chi hội trong cuộc đấu
tranh này. Hội cũng đã đề nghị các hội nhà báo các tỉnh, thành phố, các chi hội
thông qua cuộc đấu tranh chống tiêu cực và phong trào đổi mới báo chí để rà
soát lại tổ chức và tư cách hội viên.
Ý thức về trách nhiệm là người đại diện cho
hơn 6.200 người làm báo trong cả nước, Ban Chấp hành Hội đã phản ánh tâm tư,
nguyện vọng và những kiến nghị của các nhà báo về những vấn đề cơ bản của công
tác báo chí nước ta trong giai đoạn mới để Đảng và Nhà nước quan tâm giải
quyết. Cuộc gặp và làm việc với các nhà báo của Ban Bí thư Trung Ương Đảng và
đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh trong hai ngày 24 và 25-5-1988 đã thể hiện
tình thần đó.
Về nghiệp vụ, trong thời kỳ này, Hội Nhà
báo đã lựa chọn một số hình thức hoạt động thích hợp như sau:
-
Tổ chức hội thảo phối hợp với các cơ quan báo chí, các chi hội ở trung ương và
địa phương tổ chức một số cuộc hội thảo chuyên đề về đổi mới quan điểm làm báo,
báo chí phê bình công khai chống tiêu cực, cải tiến công tác thông tin, quốc
phòng, phê bình đấu tranh chống tiêu cực…
-
Hằng năm, Hội còn phối hợp với Hội Nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt Nam, Hội Nghệ sĩ tạo
hình Việt Nam tổ chức và cùng với OIJ tham dự thi ảnh báo chí, tranh biếm họa ở
Cuba, Irắc, Cộng hòa Dân chủ Đức, Liên Xô... Các tiểu phẩm và tác giả của ta dự
thi đã được bạn đánh giá cao và có một số tác phẩm được giải cao.
-
Tổ chức các lớp bồi dưỡng ngắn hạn cho các nhà báo. Sau khi Hội đồng Bộ trưởng
quyết định cho thành lập Trường Bồi dưỡng báo chí, Hội đã phối hợp với
các chi bộ ở trung ương và một số hội ở địa phương mở lớp bồi dưỡng ngắn hạn.
Từ năm 1985 đã mở lớp bồi dưỡng cho hàng ngàn học viên, chủ yếu từ các tỉnh
miền Trung trở ra. Hình thức mở lớp bồi dưỡng tại chỗ theo khu vực là hình thức
thiết thực, có kết quả tốt, cần tiếp tục phát huy. Đồng thời, tranh thủ sử giúp
đỡ của OIJ, của hội nhà báo một số nước anh em. Ngoài ra, Hội đã cử hàng trăm
nhà báo ra nước ngoài học tập, theo các chương trình cả ngắn và dài hạn.
-
Thành lập các câu lạc bộ báo chí chuyên đề (phát thanh, truyền hình, thể dục, thể
thao, kinh tế, quốc tế…) là một yêu cầu bức thiết, tuy đã có chủ trương nhưng
chưa thực hiện được vì thiếu phương tiện và cán bộ phụ trách.
-
Xuất bản Tạp chí Người làm báo và các ấn phẩm báo chí. Lần đầu tiên Hội
Báo chí Việt Nam xuất bản Tạp chí Người làm báo - cơ quan nghiệp vụ của
Hội. Từ đó, duy trì xuất bản tạp chí một cách đều đặn. Theo thời gian, tạp chí
được cải tiến về nội dung và hình thức và đã góp phần đắc lực vào việc bồi
dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt của người làm báo.
-
Biên tập lịch sử báo chí là một công tác quan trọng. Hội đã thành lập Hội đồng
nghiên cứu lý luận và lịch sử báo chí nhưng chỉ mới có đề cương hướng dẫn viết
lịch sử báo, đài cho các hội và chi bộ. Đã khuyến khích một số nhà báo soạn
thảo được hai tài liệu “Soạn thảo lịch sử báo chí trước Cách mạng Tháng
Tám”.
-
Hội Nhà báo Việt Nam đã bước đầu tham gia xây dựng chính sách thông tin, báo
chí, tham gia ý kiến xây dựng hệ thống lương báo chí, tuy chưa đáp ứng được
mong muốn của người viết báo, nhưng có những điểm tiến bộ hơn so với hệ thống
lương cũ. Trực tiếp tham gia xây dựng Luật Báo chí (được Quốc hội thông
qua ngày 20-l-1990).
Những hoạt động đối ngoại trong quá trình
làm báo đã góp phần tăng cường đoàn kết, hợp tác hữu nghị của Hội Nhà báo Việt Nam
với Tổ chức quốc tế các nhà báo, các hội nhà báo các nước xã hội chủ nghĩa anh
em ở thời điểm đó và báo chí nước ngoài. Bước đầu, hội có quan hệ với Tổ chức
Văn hóa, giáo dục và khoa học (UNESCO), các hội nhà báo Indônêxia, Nhật Bản,
Thái Lan, Malaixia... Hội đã tổ chức một số cuộc hội thảo ở Hà Nội, đặc biệt là
Hội nghị các nhà báo các nước châu Á – Thái Bình Dương tháng 1-1988 tại thành
phố Hồ Chí Minh4.
Có thể nói, cùng với sự đổi mới của đất
nước, hệ thống báo chí Việt Nam đã không ngừng đổi mới một cách toàn diện. Đề
cập đến vấn đề này, nhà báo Hoàng Tùng viết: ''Muốn tiến lên thì phải đổi mới
liên tục, đổi mới toàn diện. Cái mới ngày hôm qua đã trở thành cái cũ ngày hôm
nay. Nước không chảy ngược. Người viết, người chỉ đạo phải săn đuổi cái mới, xử
lý, làm rõ cái mới. Sát cuộc sống, nắm vững chính sách, quán triệt sáng tạo. Đó
là sứ mệnh cao cả của đội ngũ các nhà báo chúng ta, trong đó Hội Nhà báo góp
phần quan trọng, to lớn''5.
II- TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH
ĐẠO CỦA ĐẢNG VÀ QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG HOẠT ĐỘNG BÁO CHÍ
l. Chỉ thị 08-CT/TW Và Chỉ thị 22-CT/TW
của Bộ Chính trị về đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác
báo chí, xuất bản
a) Chỉ thị Số 08-CT/TW của Ban Bí thư
Trung ương về “Tăng cường sự lãnh đạo và quản lý nhằm nâng cao chất lượng và
hiệu quả công tác báo chí, xuất bản''
Ngày 31-3-1992, Ban Bí thư ra Chỉ thị số
08-CT/TW về “Tăng cường sự lãnh đạo và quản lý nhằm nâng cao chất
lượng và hiệu quả công tác báo chí, xuất bản”. Ngày 17-4-1992, Ban Tư tưởng
- Văn hóa Trung ương ra văn bản Hướng dẫn số 176 thực hiện chỉ thị nói trên.
Đây là sự kiện vô cùng quan trọng của ngành tư tưởng văn hóa nói chung và lĩnh
vực báo chí nói riêng.
Chỉ thị khẳng định những tiến bộ của báo
chí nước ta trong thời kỳ đổi mới: ''Báo chí (bao gồm báo viết, báo nói,
báo hình) đã thông tin nhanh, phong phú, đa dạng, nhiều chiều theo định hướng
chính trị của Đảng, đã phổ biến đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đồng
thời phản ánh nguyện vọng chính đáng và ý kiến xây dựng của nhân dân. Báo chí
đã giới thiệu những nhân tố tích cực, khẳng định những thành tựu đổi mới và con
đường xã hội chủ nghĩa đã lựa chọn, chống những hiện tượng tiêu cực, tham
thũng, buôn lậu, những hành vi ức hiếp nhân dân, phê phán những quan điểm sai
trái, chống những luận điệu thù địch''.
Chỉ thị cũng nêu rõ: ''Song, bên cạnh những
ưu điểm cơ bản nói trên, công tác báo chí, xuất bản còn nhiều khuyết
điểm, nhược điểm, trong đó có những khuyết điểm nghiêm trọng và kéo
dài''.
Chỉ thị đã chỉ ra: ''Sự lãnh đạo, quản lý
lỏng lẻo của các cơ quan chức năng trung ương, của nhiều cấp uỷ đảng,
cấp uỷ chính quyền, cơ quan chủ quản có báo và nhà xuất bản là nguyên
nhân quan trọng của tình trạng nói trên''.
Chỉ thị nêu rõ một số biện pháp cụ thể để
khắc phục khuyết điểm nói trên.
''1. Ngay sau khi nhận được chỉ thị này,
các cấp uỷ, các đồng chí phụ trách công tác báo chí, xuất bản đánh giá
thực trạng báo chí, xuất bản ở địa phương mình và ngành mình, vạch
rõ ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân, trách nhiệm''...
''2. Ban Bí thư giao cho Ban Tư tưởng - Văn
hóa Trung ương phối hợp với các ngành, các cấp hướng dẫn các cơ quan báo
chí, xuất bản xây dựng và thực hiện kế hoạch đề tài nội dung sách
báo phục vụ các nhiệm vụ đã ghi trong văn kiện Đại hội VII của Đảng cùng
các văn kiện quan trọng khác của Đảng và Nhà nước từ sau Đại hội''.
''3. Đến tháng 6-1992, các cấp uỷ đảng, các
đồng chí phụ trách các ngành phải lãnh đạo thực hiện xong việc sắp xếp
lại hệ thống báo chí, xuất bản theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu
quả chính trị, tư tưởng, văn hóa''.
''4. Báo chí, xuất bản thực hiện hạch toán
thu chi để sử dụng tiền vốn có hiệu quả, phục vụ tốt các mục tiêu chính
trị, văn hóa - tư tưởng...''.
''5. Xây dựng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ báo chí, xuất bản đến năm 2000...''.
''6. Kiện toàn cơ quan chỉ đạo của Đảng và
cơ quan quản lý nhà nước về báo chí, xuất bản...''.
Bản hướng dẫn của Ban Tư tưởng - Văn hóa
Trung ương còn nhấn mạnh: ''Mục tiêu bao trùm là giữ vững ổn định chính
trị, đẩy mạnh công cuộc đổi mới, giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa, góp phần đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội''.
Ngày 20-4-1992, Hội đồng Bộ trưởng ban hành
Nghị định số 133-HĐBT ''Quy định chi tiết thi hành Luật Báo chí''. Bản
Nghị định quy định chi tiết các vấn đề:
l. Bảo đảm quyền tự do báo chí, tự do ngôn
luận trên báo của công dân.
2. Tổ chức báo chí và nhà báo.
3. Quản lý nhà nước về báo chí.
4. Khen thưởng và xử lý vi phạm.
Bản Nghị định cùng với Chỉ thị 08 là những
sự kiện có ý nghĩa hết sức to lớn đối với sự phát triển báo chí nước ta
trong quá trình đổi mới.
b) Chỉ thị 22-CT/TW của Bộ Chính trị
(khóa VIII) về “Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý công tác báo chí,
xuất bản''
- Bối cảnh ra đời của Chỉ thị 22:
Trong quá trình thực hiện Chỉ thị 08, báo
chí nước ta phát huy được ưu điểm, khắc phục khuyết điểm và đã có bước
phát triển mới. Đến năm 1997, cả nước đã có 450 đơn vị báo chí với 563
ấn phẩm các loại gồm 153 tờ báo, 290 tạp chí; cả nước đã có 17 trang
Website phát trên mạng internet. Đội ngũ làm báo lên tới 7.560 người,
trong đó 71% có trình độ đại học trở lên, 25% có trình độ ngoại ngữ bằng
B trở lên. Số lượng tuyển sinh và đào tạo tập trung và tại chức đại học
báo chí lên tới 400 – 500 người/năm. Số lượng sinh viên theo học báo chí
lên tới hàng nghìn người.
Bên cạnh những thành tựu to lớn, báo chí
lại xuất hiện những vấn đề mới. Trước hết, đó là khuynh hướng thương mại
hóa với nhiều biểu hiện khác nhau chưa được khắc phục, mà ngược lại
có chiều hướng phát triển. Tính trạng xa rời tôn chỉ, mục đích
diễn ra khá phổ biến. Điều đó thể hiện ở việc coi nhẹ chức năng tuyên
truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng. Trên một số ít báo chí, đã có
những tin bài, hình ảnh có nội dung tư tưởng, quan điểm sai trái, chất
lượng chính trị, văn hóa, khoa học, nhất là chất lượng chính trị của một
số ẩn phẩm báo chí còn thấp. Một số cơ quan quản lý, nhất là cơ quan chủ
quản đã không thường xuyên kiểm tra nên một số tờ báo xa rời tôn chỉ,
mục đích. Một số ấn phẩm đã bị tư nhân thao túng, nhiều nhà báo vi
phạm đạo đức nghề nghiệp, chế độ chính sách đối với báo chí chưa được xem
xét.
Để khắc phục các khuyết điểm đó, tạo điều
kiện cho báo chí phát triển lên một tầm cao mới, ngày 17-10-1997, Bộ
Chính trị đã ban hành Chỉ thị 22 ''Tiếp tục đổi mới và tăng cường sự
lãnh đạo, quản lý công tác báo chí, xuất bản''.
Chỉ thị đã nêu rõ: ''Hoạt động báo chí -
xuất bản đã có chuyển biến tích cực và tiến bộ nhiều mặt” sau khi có Chỉ thị
08.
Chỉ thị 22 cũng nêu rõ những thiếu sót,
khuyết điểm như “khuynh hướng thương mại hóa'' coi nhẹ biểu dương ''người tốt,
việc tốt'', “coi nhẹ công tác đấu tranh tư tưởng''. Bản chỉ thị nhấn mạnh
''Kiểm tra và xử lý những hành động tiêu cực, những vi phạm pháp luật về hoạt
động báo chí, xuất bản còn chậm''.
- Chỉ thị nêu ra một số nhiệm vụ quan
trọng:
“1. Nắm vững các quan điểm và định hướng
lớn trong hoạt động báo chí - xuất bản'', trong đó nhấn mạnh: “Báo chí -
xuất bản đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng”, “Phải bảo đảm tính tư tưởng, tính chân
thật, tính nhân dân, tính chiến đấu và tính đa dạng”; ''Tiếp tục phát triển sự
nghiệp báo chí - xuất bản đi đôi mới quản lý tốt''.
“2. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương và Bộ
Văn hóa - Thông tin dựa trên dự kiến quy hoạch tổng thể báo chí, xuất bản đến
năm 2000 và những năm tiếp theo để kiểm tra, xem xét cụ thể và chấn chỉnh kịp
thời theo hướng nâng cao chất lượng và hiệu quả, trước mắt cần chấm dứt tình
trạng in ấn sách, báo, số phụ, số chuyên đề có nội dung xấu''.
“3. Khẩn trương quy hoạch và sắp xếp lại hệ
thống trường lớp, nâng cao chất lượng đào tạo''.
“4. Bộ Văn hóa - Thông tin chủ trì phối hợp
với Hội Nhà báo Việt Nam, các ban, bộ, ngành có liên quan nghiên cứu, đề nghị
sửa đổi, bổ sung và ban hành các chế độ, chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho
hoạt động báo chí''.
''5. Các cấp uỷ, chính quyền, cơ quan chủ
quản phải chịu trách nhiệm về mọi mặt quản lý và chỉ đạo chặt chẽ báo chí, xuất
bản của cấp mình, ngành mình, đơn vị mình''.
Chỉ thị 22 là cột mốc quan trọng trong quá
trình đổi mới công tác lãnh đạo và quản lý báo chí. Đó là cẩm nang để tiếp tục
phát triển ngành báo chí Việt Nam.
2. Hoạt động của tổ chức Hội Nhà báo
a) Đại hội lần thứ VI Hội Nhà báo Việt
Nam
Trong không khí phấn khởi trước bước phát
triển mới của báo chí Việt Nam, Đại hội lần thứ VI của Hội Nhà báo Việt Nam
được tổ chức tại Hà Nội. Đến dự Đại hội có đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười, đồng
chí Nguyễn Đức Bình, Uỷ viên Bộ Chính trị. Phát biểu tại Đại hội, đồng chí Đỗ
Mười nhấn mạnh: ''Thay mặt Đảng và Nhà nước, tôi nhiệt liệt biểu dương đội ngũ
những người làm báo trong cả nước về những thành tựu mà các đồng chí đã đạt
được trong những năm qua''.
Bên cạnh những thành tựu đó, phải thẳng
thắn thừa nhận báo chí ta thời gian qua cũng còn nhiều mặt yếu. Đồng chí Tổng
Bí thư giao nhiệm vụ cho báo chí: ''Cần phản ánh và tham gia tổng kết thực
tiễn, cơ sở khoa học cho việc cụ thể hóa và phát triển đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ mới'', ''cổ vũ nhân dân ta tiết kiệm để công
nghiệp hóa'', ''cần tiếp tục coi trọng nhiệm vụ phát triển văn hóa''.
Đại hội đã thông qua Báo cáo của Ban Chấp
hành khóa V với nhan đề ''Báo chí vì sự nghiệp đổi mới và hiện đại đất nước'',
thông qua ''Điều lệ Hội Nhà báo Việt Nam” và ''Quy ước về tiêu chuẩn đạo đức
nghề nghiệp của báo chí Việt Nam''.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Hội Nhà báo
Việt Nam khóa VI gồm 35 đồng chí. Đồng chí Phan Quang được bầu làm Chủ tịch
Hội. Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký: Trần Mai Hạnh, Phó Chủ tịch: Nguyễn Long
Khởi.
Đại hội lần thứ VI Hội Nhà báo Việt Nam là
cột mốc quan trọng trên đà phát triển của báo chí nước nhà.
b) Đại hội lần thứ VII Hội Nhà báo Việt
Nam
Trong không khí kỷ niệm 70 năm ngày báo chí
cách mạng và 50 năm thành lập Hội Nhà báo Việt Nam, ngày 24 và 25-3-2000, Đại
hội lần thứ VII Hội Nhà báo Việt Nam đã được tổ chức trọng thể tại Hội trường
Ba Đình, Hà Nội.
Tham dự Đại hội có 326 đại biểu đại diện
cho 8.500 hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Đại hội được đồng chí Phan Văn Khải,
Uỷ viên Thường vụ Bộ Chính trị Trung ương Đảng, Thủ tướng Chính phủ đến dự.
Phát biểu tại Đại hội, đồng chí Phan Văn Khải nêu bật những thành tựu to lớn
của ngành báo chí Việt Nam, những yếu kém, bất cập của ngành.
Đồng chí Phan Văn Khải nhấn mạnh: ''Quy ước
đạo đức nghề nghiệp báo chí Việt Nam'' được Đại hội lần thứ VI, Hội Nhà báo
thông qua đã và đang đi vào đời sống báo chí. Hội Nhà báo Việt Nam phải giương
cao ngọn cờ tư tưởng của báo chí cách mạng và tư tưởng của vị lãnh tụ và nhà
báo vĩ đại Hồ Chí Minh - tổ chức, động viên các nhà báo và cổ vũ toàn dân phấn
đấu giành những thắng lợi, đạt tầm phát triển mới về kinh tế, văn
hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, xứng đáng với niềm tin yêu của nhân dân và của Đảng''.
Báo cáo của Ban Chấp hành Hội Nhà báo Việt
Nam khóa VI mang tiêu đề “Báo chí vì sự nghiệp cách mạng của dân tộc và của
Đảng những năm đầu của thế kỷ mới”. Báo cáo đề cập tới tình hình báo chí và
đội ngũ người làm báo Việt Nam 5 năm qua (1995 - 1999) về nội dung và hình thức
của báo chí, về bước trưởng thành của đội ngũ nhà báo. Báo cáo cũng rút ra các
bài học kinh nghiệm 15 năm phấn đấu vì sự nghiệp đổi mới đất nước. Báo
cáo nhấn mạnh: ''Phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu của giới báo chí Việt Nam và
Hội Nhà báo Việt Nam trong 5 năm của nhiệm kỳ khóa VII (2000 - 2004) được xác
định là: Mọi hoạt động báo chí phải hướng vào phục vụ nhiệm vụ chiến lược: Xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc; tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức, góp phần đẩy
mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Hội Nhà báo
Việt Nam gồm 39 đồng chí. Đồng chí Hồng Vinh, Uỷ viên Trung ương Đảng được bầu
làm Chủ tịch Hội và được Ban Bí thư chỉ định làm Bí thư Đảng Đoàn của Hội.
Đại hội VII Hội Nhà báo Việt Nam có ý nghĩa
hết sức to lớn. Đây là cột mốc đánh đấu bước trưởng thành của ngành báo chí
Việt Nam, của đội ngũ những người làm báo chí cách mạng. Đại hội là một sự
khẳng định rõ ràng những người làm báo Việt Nam đã đóng góp to lớn vào sự
nghiệp cách mạng của dân tộc và sự nghiệp đổi mới đất nước. Nó cũng báo hiệu
một tương lai sáng sủa của ngành báo chí Việt Nam trong thế kỷ XXI.
c) Đại hội thi đua toàn quốc giới báo
chí Việt Nam lần thứ nhất
Vào cuối năm 2000, một sự kiện nổi bật của
ngành báo chí đã diễn ra: Đại hội thi đua toàn quốc giới báo chí Việt
Nam lần thứ nhất. Đại hội diễn ra vào ngày 11-11-2000, tại Hà Nội. Tham
gia Đại hội có 321 đại biểu các nhà báo thuộc các loại hình báo chí, công
tác trên mọi miền đất nước. Đại hội đã được đón đồng chí Chủ tịch Quốc
hội Nông Đức Mạnh đến dự và trao Huân chương Hồ Chí Minh cho báo giới.
Phát biểu tại Đại hội, đồng chí Nông Đức Mạnh nói: ''Chính trong thực
tiễn sinh động của đất nước trong 15 năm qua, bản thân báo chí nước ta
đã tự đổi mới chính mình với một tốc độ phát triển khá nhanh so với 15
năm trước đây. Hiện nay, chúng ta có gần 500 cơ quan báo chí trên cả
nước với nhiều loại báo chí khác nhau: báo viết, báo nói, báo hình, báo
điện tử, nối mạng internet''... ''với hình thức trình bày ngày càng sinh
động, hấp dẫn hơn''… Đặc biệt, đội ngũ báo chí nước ta với hơn 9.000 nhà
báo chuyên nghiệp mà đại bộ phận có quan điểm chính trị vững vàng, trung
thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân. Đồng chí Nông Đức
Mạnh khẳng định: ''Huân chương Hồ Chí Minh - phần thưởng cao quý mà Đảng
và Nhà nước quyết định trao tặng Hội Nhà báo và giới báo chí Việt Nam là
sự đánh giá cao của Đảng, Nhà nước và nhân dân về sự đóng góp to lớn,
quan trọng của báo chí trong sự nghiệp cách mạng của nước nhà''.
Về ý nghĩa của Đại hội, đồng chí Hồng Vinh
nêu rõ: ''Ngày nay, nước ta đã có một lực lượng báo chí hùng hậu: gần
500 cơ quan báo chí và gần 600 ấn phẩm của các loại hình báo chí của trung
ương, của các cấp, các ngành, các địa phương, với công nghệ làm báo khá
hiện đại, phát hành gần 600 triệu bản/năm... Có thể nói đây là thời kỳ
phát triển mạnh mẽ nhất của ngành truyền thông và giới báo chí nước
ta''.
Đồng chí Hồng Vinh cũng khẳng định: ''Nhiều
nhà báo đã bám sát các phong trào thi đua yêu nước để có các tác phẩm báo chí
sinh động, có sức rung động lòng người, cổ vũ kịp thời tinh thần thi đua lao
động sáng tạo''.
Có thể nói đây chính là nét đặc sắc và cũng
là thành tích đóng góp xuất sắc nhất của phong trào thi đua yêu nước trong giới
báo chí Việt Nam. Với những thành tích, kết quả thi đua yêu nước đã nói trên
đây, giới báo chí Việt Nam đã nhiều lần được Đảng, Nhà nước biểu dương, khen
ngợi, được nhân dân tin cậy và yêu mến. Tại lễ kỷ niệm trọng thể 75 năm báo chí
cách mạng Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã trao
tặng giới báo chí và Hội Nhà báo Việt Nam bức trướng mang dòng chữ “Báo chí
cách mạng Việt Nam: trung thành, đoàn kết, trí tuệ, đổi mới vì sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước''. Và điều vinh dự lớn lao đối với giới
báo chí Việt Nam, tại Đại hội thi đua này, Đảng và Nhà nước đã trao tặng Huân
chương Hồ Chí Minh cho ngành báo chí và Hội Nhà báo Việt Nam nhân 50 năm thành
lập Hội. Đó là sự đánh giá toàn diện về những đóng góp quan trọng của báo chí
nước ta trong nửa thế kỷ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là nguồn cổ vũ, khích lệ
chúng ta tiếp tục đẩy tới phong trào thi đua yêu nước trong thời kỳ mới.
III- NHIỆM VỤ CỦA BÁO
CHÍ TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
1. Đổi mới tư duy và hoạt động báo chí
Sự nghiệp cách mạng và công cuộc đổi mới
của Đảng ta, nhân dân ta đang đứng trước những thời cơ và thuận lợi to lớn,
đồng thời cũng có cả nguy cơ và thách thức. Dưới tác động mạnh mẽ của khủng
hoảng kinh tế khu vực và âm mưu bao vây cấm vận kinh tế của Mỹ trong những năm
đầu của thập kỷ 90 của thế kỷ XX, trước sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa
ở Liên Xô và Đông Âu, cùng với chiến lược ''diễn biến hòa bình'' nguy hiểm
chống Việt Nam của các thế lực thù địch, báo chí Việt Nam đã phải đối mặt với
những yêu cầu, nhiệm vụ mới. Trong bản Hướng dẫn số 176 của Ban Tư tưởng - Văn
hóa Trung ương ngày 17-4-1992 về thực hiện Chỉ thị 08 ngày 31-3-1992 của Ban Bí
thư về công tác báo chí, xuất bản đã nêu rõ trách nhiệm, yêu cầu của báo chí
như sau:
a) Báo chí, xuất bản dù cơ quan của Đảng và
Nhà nước, các đoàn thể quần chúng hay tổ chức xã hội đều đặt dưới sự lãnh đạo
của Đảng và hoạt động theo pháp luật.
b) Thực hiện vai trò vừa là tiếng nói của
Đảng, của Nhà nước, của đoàn thể, vừa là diễn đàn của nhân dân, sách, báo cần:
- Tăng cường phản ánh ý kiến thu hút trí
tuệ của nhân dân đóng góp vào công cuộc đổi mới.
- Đồng thời phê phán những quan điểm lệch
lạc, đề cao cảnh giác, chống lại những âm mưu và thủ đoạn phá hoại của các thế
lực thù địch.
c) Trách nhiệm của báo chí, xuất bản là:
- Góp phần làm cho thế giới quan Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã
hội, động viên toàn Đảng, toàn dân vượt mọi khó khăn, năng động, sáng tạo thực
hiện Nghị quyết Đại hội VII của Đảng.
- Mục tiêu bao trùm: là giữ vững ổn định
chính trị, đẩy mạnh công cuộc đổi mới, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa,
góp phần đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội.
d) Phát triển báo chí, xuất bản theo hướng
nâng cao chất lượng nhằm:
- Đáp ứng nhu cầu thông tin, nâng cao kiến
thức.
- Cổ vũ nhân tố mới, đồng thời đấu tranh
chống tiêu cực.
- Bảo tồn, phát huy truyền thống tốt đẹp
của văn hóa dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
- Đề cao tinh thần yêu nước, ý chí tự lực
tự cường kết hợp với mở rộng quan hệ quốc tế, cần kiệm xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
- Biểu dương tính trung thực, lòng nhân ái,
tinh thần dũng cảm, tình yêu cao đẹp, chân chính, phê phán thói hư tật xấu,
tính giả dối, độc ác, thị hiếu thấp kém.
Trải qua 5 năm thực hiện Chỉ thị 08, báo
chí nước ta đã có bước tiến mới, đất nước đã có những thay đổi. Cuộc khủng
hoảng kinh tế đã được ngăn chặn. Sự nghiệp đổi mới bước đầu giành thắng lợi.
Đại hội VIII của Đảng đã chỉ ra phương hướng, nhiệm vụ cho những năm tới, chuẩn
bị hành trang để Đảng ta và nhân dân ta bước vào thế kỷ XXI. Điều đó, càng đòi
hỏi sự nghiệp báo chí, xuất bản và đội ngũ những người chỉ đạo, quản lý và hoạt
động trên lĩnh vực đặc biệt quan trọng và nhạy cảm này phải không ngừng vươn
lên, tiếp tục đổi mới hoạt động của mình, phấn đấu để ngày càng có nhiều tác
phẩm báo chí - xuất bản xuất sắc, có tác động cổ vũ phong trào cách mạng của
nhân dân, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, thực hiện
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ
nghĩa xã hội.
Tại Hội nghị báo chí toàn quốc (năm 1997),
Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương đã cụ thể hóa các quan điểm và nhiệm vụ của
báo chí:
1. Các quan điểm về báo chí
Hoạt động báo chí trong thời kỳ này cần nắm
vững và vận dụng trong hoạt động thực tiễn những quan điểm cơ bản sau
đây:
- Báo chí - xuất bản đặt đước sự lãnh đạo
của Đảng và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Báo chí là tiếng nói
của Đảng, của Nhà nước, của các tổ chức chính trị, xã hội và là diễn đàn
của nhân dân. Sách, báo trước hết là phương tiện tác động tư tưởng, văn
hóa. Các cơ quan báo chí - xuất bản hoạt động theo định hướng của Đảng
và pháp luật của Nhà nước, nhằm phản ánh và hướng dẫn dư luận xã hội
hình thành dư luận xã hội lành mạnh, cổ vũ phong trào cách mạng của quần
chúng thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng, đẩy
mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa
xã hội.
- Báo chí là phương tiện thông tin, giáo
dục và chỉ đạo. Sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước phải đảm bảo
và tạo điều kiện thuận lợi cho báo chí thông tin, bình luận nhanh nhạy,
kịp thời, chân thật, thể hiện được tính tư tưởng, tính nhân dân, tính
chiến đấu và tính đa dạng. Tính chiến đấu thể hiện qua việc bảo vệ và
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm,
đường lối của Đảng và Nhà nước ta, coi trọng biểu dương các nhân tố tích
cực, người tốt, việc tốt; phê phán cái xấu, cái ác, cái đồi trụy, đấu
tranh chống các quan điểm, luận điệu sai trái, xấu độc, lối sống xa hoa,
trụy lạc xa rời truyền thống văn hóa dân tộc, hành vi tham ô, lãng phí,
quan liêu nhằm mục tiêu xây dựng con người Việt Nam có lý tưởng cao
đẹp, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, có kiến
thức ngày một nâng cao, có đời sống tinh thần phong phú, lành mạnh, đáp
ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới của cách mạng.
- Báo chí và xuất bản phải không ngừng phát
triển, nhưng phát triển phải đi đôi với quản lý tốt, trước hết coi trọng
chất lượng chính trị, văn hóa, nghiệp vụ và kỹ thuật, đặc biệt là chất
lượng chính trị, bảo đảm đưa thông tin đến với mọi nhà, mọi vùng,
phù hợp với tầng lớp, lứa tuổi, với những sản phẩm đúng, hay và đẹp, đáp
ứng nhu cầu ngày càng cao của các tầng lớp nhân dân ở trong nước,
ngoài nước, và để có thể hội nhập bình đẳng trên thế giới.
- Người làm báo, biên tập trong các
cơ quan báo chí, xuất bản phải là chiến sĩ xung kích trên mặt trận tư tưởng -
văn hóa như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, hoạt động theo định hướng
của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Phải là những người có bản lĩnh
chính trị vững vàng, có kiến thức sâu rộng, có đạo đức cách mạng và đạo
đức nghề nghiệp trong sáng, có nghiệp vụ vững vàng, luôn luôn gắn bó với
đồng chí, đồng bào, với thực tiễn đất nước để sáng tạo ra những sản phẩm
chính trị, văn hóa có giá trị và có đủ khả năng hội nhập với các bạn
đồng nghiệp trên thế giới, trước hết là trong khu vực.
2. Nhiệm vụ chủ yếu của hoạt động báo
chí, xuất bản
Chủ động và tích cực góp phần vào việc tuyên
truyền, giải thích quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước, làm cho toàn Đảng, toàn dân quán triệt sâu sắc và nhất
trí cao với đường lối, chủ trương đúng đắn, sáng tạo của Đảng được thể
hiện trong văn kiện Đại hội VIII và nghị quyết của các kỳ Hội nghị Trung
ương Đảng, trong các luật, nghị định của Nhà nước, trong các chương
trình, nhiệm vụ công tác của Trung ương Đảng và Chính phủ. Độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội là chủ đề trung tâm của hoạt động báo chí, xuất
bản.
Bám sát thực tiễn đất nước, góp phần tổng
kết và phổ biến kinh nghiệm điển hình tiên tiến, đồng thời đấu tranh
chống các hiện tượng tiêu cực, các tệ nạn xã hội, xây dựng con người
Việt Nam về tư tưởng, tình cảm, tri thức, nhân cách, đạo đức, lối sống
đáp ứng tình hình nhiệm vụ mới, động viên, cổ vũ phong trào cách
mạng của nhân dân thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ chính trị đã được
Đại hội VIII đề ra.
Tích cực và chủ động góp phần vào cuộc đấu
tranh tư tưởng, đấu tranh lý luận; kịp thời làm thất bại âm mưu, thủ đoạn
''diễn biến hòa bình'' của các thế lực thù địch, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Cương lĩnh của Đảng, đường lối đổi mới của
Đảng và Nhà nước ta, thành quả cách mạng và của sự nghiệp đổi mới theo định
hướng xã hội chủ nghĩa; làm tốt công tác thông tin đối ngoại, góp phần
tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân thế giới và kiều bào ta ở nước
ngoài đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta.
Tất cả các loại hình báo chí, xuất bản và
đội ngũ những người trực tiếp chiến đấu trên lĩnh vực này phải coi đây là nhiệm
vụ chủ yếu, thường xuyên, quan trọng nhất và cũng là lý do tồn tại và phát
triển của mình.
3. Hoạt động báo chí, xuất bản và những
chiến sĩ hoạt động trên mặt trận này phải quán triệt sâu sắc nền tảng tư tưởng,
cương lĩnh của Đảng
Đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng
được thể hiện trong các văn kiện của Đại hội VIII; quán triệt và thấm nhuần sâu
sắc quan điểm báo chí - xuất bản của Đảng, phát huy ưu điểm, đồng thời đấu
tranh để khắc phục các quan điểm, khuynh hướng lệch lạc, sai trái trong hoạt
động báo chí - xuất bản đã nêu ở trên. Chủ động và tích cực góp phần xứng đáng
vào việc thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Giáo dục và rèn luyện bản lĩnh chính
trị, đạo đức cách mạng và đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ báo chí, xuất bản là
một đòi hỏi rất quan trọng, là vấn đề cơ bản của sự nghiệp báo chí,
xuất bản, cần tiến hành thường xuyên, có nền nếp. Trong quá trình đấu
tranh làm trong sạch xã hội, báo chí, xuất bản cũng cần phải kiên quyết
đấu tranh khắc phục các biểu hiện tiêu cực trong hoạt động làm báo, xuất
bản, làm trong sạch đội ngũ của mình, xứng đáng với lòng tin của Đảng và
của nhân dân. Hơn ai hết, những người làm báo chí, xuất bản phải thường
xuyên nâng cao trách nhiệm đảng viên, trách nhiệm công dân, thực hiện đúng đắn
quy ước đạo đức nghề nghiệp của những người làm báo, trước hết của các tổng
biên tập, giám đốc, trưởng chuyên mục và phóng viên, biên tập viên. Thông qua nhiều
hình thức: các lớp học tập trung, tại chức, các hình thức tự học tập, tự nghiên
cứu, tìm hiểu và khảo sát thực tiễn... các cơ quan chỉ đạo và quản lý báo chí -
xuất bản các cơ quan chủ quản, các tòa soạn báo chí, nhà xuất bản cũng như từng
cán bộ, phóng viên, biên tập viên… xây dựng kế hoạch cụ thể, thích hợp để
thường xuyên bồi dưỡng và từng bước nâng cao trình độ lý luận chính trị, lập
trường quan điểm, phẩm chất đạo đức, chuyên môn, nghiệp vụ kỹ thuật để có đủ
phẩm chất và năng lực hoàn thành nhiệm vụ cao quý mà Đảng và nhân dân đã tin
cậy giao phó.
4. Tổ chức cho các cơ quan báo chí, xuất
bản quán triệt những quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước, phát huy ưu điểm,
sửa chữa khuyết điểm, giữ vững tôn chỉ, mục đích của từng tờ báo, nhà xuất bản
Sắp xếp lại báo chí (cả báo viết, báo nói,
báo hình) - xuất bản (cả in ấn và phát hành) phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện đúng phương châm Đảng đã đề
ra: ''phát triển đi đôi với quản lý tốt''. Nguyên tắc của việc chấn chỉnh
là: có nhu cầu thông tin, đồng thời phù hợp với điều kiện, khả năng của đất
nước và khả năng chỉ đạo, quản lý hoạt động báo chí - xuất bản của cơ quan chủ
quản, có đủ cán bộ, phóng viên... trực tiếp tác chiến trên lĩnh vực này,
về cơ bản có nguồn tài chính bảo đảm. Chủ động chuẩn bị cho bước phát
triển mới của hoạt động báo chí, xuất bản.
Về số lượng và cơ cấu loại hình báo chí,
xuất bản sẽ được xem xét để phát triển từng bước, đáp ứng nhu cầu thông tin
ngày càng cao và phong phú của xã hội, phù hợp với sự phát triển của đất nước,
với khả năng và điều kiện đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, của đội ngũ cán bộ
quản lý, phóng viên, biên tập viên, phấn đấu thu hẹp khoảng cách phát triển của
báo chí - xuất bản của ta so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Xử lý nghiêm các trường hợp thông tin sai
sự thật gây hậu quả không tốt, tuyên truyền dâm ô, bạo lực, trái với truyền
thống văn hóa dân tộc và những trường hợp vi phạm pháp luật khác. Hoạt động báo
chí, xuất bản phải gương mẫu trong việc thi hành đúng định hướng tư tưởng, đúng
luật pháp. Thực hiện đúng chế độ quản lý của Nhà nước trong việc xây dựng và sử
dụng các quỹ từ thiện, tài trợ... do các cơ quan báo chí tổ chức. Đánh giá đầy
đủ các mặt hợp tác với nước ngoài về in ấn và phát hành đối với một số tờ báo.
5. Tăng cường các cơ sở đào tạo cán bộ
báo chí, xuất bản đã có, bảo đảm việc đào tạo cán bộ báo chí, xuất bản chủ yếu
từ trong nước
Đảng thống nhất quản lý dưới sự lãnh đạo
của Đảng, công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ báo chí - xuất bản trong
toàn quốc, nhất là về nội dung chương trình, sách giáo khoa, đội ngũ cán
bộ quản lý, giảng dạy, về xác định chỉ tiêu, tiêu chuẩn, tổ chức chiêu
sinh, về kế hoạch đầu tư để từng bước xây dựng cơ sở vật chất, trang bị
phương tiện kỹ thuật dạy và học tiên tiến, hiện đại đối với việc đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ báo chí - xuất bản.
6. Củng cố, kiện toàn tổ chức và tăng
cường đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực, số lượng cho các cơ quan tham
mưu, chỉ đạo và quản lý hoạt động báo chí xuất bản (cả in ấn và phát hành) từ
trung ương đến cơ sở, có sự phân công, phân cấp quyền hạn trách nhiệm rõ ràng.
Đề nghị Bộ Văn hóa - Thông tin có trách
nhiệm thực hiện quản lý nhà nước hoạt động báo chí - xuất bản, kiểm tra
việc thực hiện luật báo chí - xuất bản, chủ trì việc xây dựng đề án và
tổ chức thực hiện chiến lược thông tin quốc gia; khen thưởng và xử
lý các sai phạm về hoạt động báo chí - xuất bản trong phạm vi toàn quốc
theo quy định của pháp luật.
Các cơ quan chủ quản báo chí, xuất bản chịu
trách nhiệm trực tiếp chỉ đạo, quản lý các hoạt động báo chí - xuất bản
của mình hoặc những báo chí, tạp chí, nhà xuất bản được giao trách nhiệm
chỉ đạo, quản lý từ phương hướng, nội dung đến công tác cán bộ, kịp thời
biểu dương thành tích, ưu điểm cũng như xử lý các sai phạm khuyết điểm
nếu có của các đơn vị này. Có phương án tổ chức thích hợp để bảo đảm
trách nhiệm cụ thể của cơ quan chủ quản và phát huy lãnh đạo tập thể
trong các cơ quan báo chí, nhà xuất bản.
2. Những kết quả thực hiện
a) Báo chí phát triển về số lượng, đổi
mới về thông tin
Bước vào đầu những năm 90 của thế kỷ XX,
báo chí Việt Nam đã có bước phát triển mới. Theo số liệu thống kê vào tháng 10
- 1991, số lượng báo chí có 350 tờ (154 tạp chí), bao gồm báo ở trung ương và
địa phương. Đài phát 36 giờ/ngày và phát 11 thứ tiếng nước ngoài với thời lượng
26 giờ/ngày. Đài phát thanh địa phương có 49/53 tỉnh, thành phố. Tỷ lệ dân nghe
đài: 31%, diện phủ sóng 55%. Đài Truyền hình Việt Nam phát sóng 8 giờ/ngày với
hai chương trình (chương trình l mang tính tổng hợp, chương trình 2 về khoa
giáo), khi có sự kiện chính trị quan trọng (Đại hội Đảng, họp Quốc hội... có
thêm bản tin tiếng Anh phục vụ yêu cầu tuyên truyền đối ngoại). Thông tấn xã
Việt Nam, có thường trú ở tất cả các tỉnh, thành phố cả nước và có 13 phân xã ở
nước ngoài. Đã có 3 cơ sở đào tạo cán bộ báo chí là Phân viện Báo chí và tuyên
truyền (bắt đầu đào tạo năm 1962), Khoa Báo chí - Trường đại học Khoa học xã
hội và nhân văn Hà Nội (bắt đầu dào tạo năm 1991), khoa Ngữ văn và báo chí -
Trường đại học Khoa học xã hội và nhân văn thành phố Hồ Chí Minh (bắt đầu đào
tạo năm 1992).
Trải qua 5 năm đổi mới, vào đầu những năm
90 của thế kỷ XX, báo chí của chúng ta mặc dù gặp nhiều khó khăn về cơ sở vật
chất và thiếu thốn về phương tiện kỹ thuật nhưng vẫn phát triển. Sự phát triển
biểu hiện rõ qua phong trào báo chí phục vụ sự nghiệp đổi mới đất nước.
Nhiều cơ quan thông tin đại chúng đã đi
đúng hướng, đổi mới thông tin thông qua việc mở rộng thông tin, báo chí phổ
biến và giải thích đường lối, quan điểm của Đảng, phản ánh những hoạt động tích
cực ở cơ sở, giới thiệu những kinh nghiệm sáng tạo của quần chúng, góp phần làm
cho các Nghị quyết của Đảng đi vào cuộc sống, mang lại hiệu quả rõ rệt, nhất là
trong công cuộc cải cách kinh tế.
Để đạt được mục tiêu đó, các báo, đài đã cố
gắng thực hiện truyền tải những thông tin đa chiều, làm cho thông tin đa dạng,
phong phú hơn. Tin trong nước, tin thế giới được chọn lọc từ nhiều nguồn, biên
tập lại và trình bày tập trung, hấp dẫn, bổ ích hơn.
Các báo, đài cũng đã chú ý đưa tin toàn
diện hơn, bên cạnh đưa tin về những điều hay, những thành tựu, ưu điểm cũng như
đã thông tin về những khó khăn, khuyết điểm, những hiện tượng tiêu cực trong xã
hội. Báo, đài bước đầu tìm hiểu nhu cầu và thị hiếu của bạn đọc, bạn
nghe, đưa nhiều tin tức hơn về những sinh hoạt đời thường, như việc đi lại, học
hành của nhân dân, giá cả thị trường, tình hình điện nước... Ngoài ra báo, đài
còn mở thêm mục quảng cáo.
Báo, đài đã thông tin cả một số mặt sai sót
hoặc không còn phù hợp của một số chính sách, của cơ chế quản lý kinh tế, chú
trọng phát hiện và phân tích những thiếu sót do cơ chế và tổ chức thực hiện
chưa đồng bộ, chưa hợp lý gây ra, nêu lên những kiến nghị của cơ sở, của người
sản xuất; đề xuất những vấn đề yêu cầu các cấp các ngành có thẩm quyền giải quyết.
Những kiến nghị hợp tình, hợp lý của nhân dân được phản ánh trên báo, đài là
một đóng góp đáng kể của báo chí, giúp Đảng và Nhà nước xây dựng, bổ sung, hoàn
chỉnh các chính sách, pháp luật.
Các tạp chí, báo chuyên ngành, xưởng phim
thời sự, thời gian qua cũng đã có nhiều đổi mới về mở rộng thông tin, từ thông
tin lý luận, thông tin kinh tế - xã hội đến thông tin khoa học kỹ thuật, thông
tin văn hóa - thể thao.
Thông tin đối ngoại có những cố gắng đổi
mới, đã thông tin nhiều hơn về tình hình nước ta với những tin phong
phú, đa dạng thể hiện đúng quan điểm của Đảng ta, phù hợp với đối tượng nước
ngoài. Tuy nhiên, nhìn chung, công tác thông tin đối ngoại của ta chưa được chú
ý đúng mức, còn nhiều khó khăn và hạn chế.
Việc mở rộng thông tin đã góp phần hình thành
tư duy mới, nâng cao kiến thức, mở lộng tầm nhìn của cán bộ và nhân dân trên
nhiều lĩnh vực.
b) Báo chí tích cực tham gia đấu tranh
chống tiêu cực
Cùng với việc tiếp tục phản ánh ý kiến của
nhân dân đóng góp với Đại hội lần thứ VI của Đảng, báo chí mở cuộc đấu tranh
chống các hiện tượng tiêu cực, phê bình công khai, có địa chỉ và yêu cầu xử lý
nghiêm minh những vụ việc tiêu cực và những cán bộ phạm sai lầm.
Ngày 25-5-1987, trên các báo, đài đồng chí
Nguyễn Văn Linh mở mục “Những việc cần làm ngay”, tiếp đó, hầu
hết các báo, đài mở chuyên mục “Hưởng ứng những việc cần làm ngay''.
Bằng nhiều hình thức và thể tài, báo chí trong Nam ngoài Bắc phanh phui trước
công luận nhiều vụ tiêu cực, nghiêm khắc phê phán những hiện tượng một số người
đặc quyền, đặc lợi, vi phạm quyền công dân, áp bức quần chúng, làm ăn bê bối.
Thư bạn đọc gần xa tới tấp gửi về tòa soạn
báo, đài. Nhiều người tìm đến các cơ quan thông tin đại chúng để nhờ nói
lên nỗi oan ức của mình. Chưa bao giờ bạn đọc gắn bó với báo chí như những ngày
này. Họ thấy đây là nơi đáng tin cậy và nhân dân đã sử dụng báo chí để đấu
tranh chống những hiện tượng tiêu cực, bất công trong xã hội
Cuộc đấu tranh diễn ra hết sức gay go, phức
tạp. Nhiều trường hợp, người bị phê bình, mặc dù sự việc đã rõ ràng, vẫn tìm mọi
cách chống lại bằng nhiều thủ đoạn, từ ''im lặng đáng sợ”, nhận lỗi qua loa cho
xong chuyện đến đe dọa, trù dập người phê bình mình hoặc tìm ''ô dù'' và kiện
cáo, làm cho tình hình thêm phức tạp.
Nhìn chung, cuộc đấu tranh chống tiêu cực
trên báo, đài thời gian qua về cơ bản là đúng hướng, chọn đúng vấn đề. Những vụ
việc đấu tranh có kết quả là do:
l. Nhân dân phát hiện những hiện tượng tiêu
cực, kiên trì đấu tranh.
2. Báo chí với ý thức trách nhiệm xã hội
của mình, cân nhắc chọn lựa, điều tra, đưa đúng vụ việc tiêu biểu ra công khai.
3. Có sự phối hợp giữa các cơ quan báo, đài
khi đề cập những vụ việc quan trọng và phức tạp.
4. Các cơ quan Đảng và Nhà nước có trách
nhiệm quan tâm kiểm tra, kết luận và xử lý.
Báo chí thông qua đấu tranh chống tiêu cực
đã góp phần vào cuộc vận động làm trong sạch tổ chức đảng, bộ máy nhà nước,
lành mạnh hóa các quan hệ xã hội, góp phần phát huy dân chủ trong sinh hoạt
đảng và trong xã hội, minh oan cho người vô tội, lên án những hành vi trù dập
người phê bình. Báo chí cũng lên án những người lợi dụng dân chủ để vu cáo,
xuyên tạc sự thật, hỗ trợ các cơ quan pháp luật và quần chúng đấu tranh để lập
lại trật tự kỷ cương và công bằng xã hội.
Trong cuộc vận động này, báo chí cũng có
những khuyết điểm, thiếu sót cần rút kinh nghiệm. Đó là chưa đi sâu phát hiện
và đưa ra trước công luận bọn buôn gian bán lận, làm giàu phi pháp, bọn lưu
manh côn đồ lợi dụng những sơ hở trong công tác quản lý, có những thủ đoạn tinh
vi móc nối với những kẻ thoái hóa, biến chất trong các cơ quan nhà nước, gây
thiệt hại cho nền kinh tế.
Báo chí cũng chưa thật sắc bén, tập trung
phê phán lối sống thực dụng, sa đọa, chạy theo đồng tiền, danh lợi, coi thường
giá trị đạo đức tinh thần. Lối sống này đang là độc tố tác động vào nhân sinh
quan của thế hệ trẻ nước ta, nó đã trở thành vấn đề bức xúc của xã hội.
Đấu tranh chống tiêu cực là việc làm đầy
khó khăn. Trong khi đó, người làm báo còn thiếu kiến thức, chưa có đủ kinh
nghiệm và từng trải cuộc sống, cũng có khi do động cơ thiếu trong sáng cho nên
trở thành thiếu khách quan, trung thực. Một số vụ việc phê bình chưa trúng, có
vụ nêu không đúng sự thật, làm phương hại đến uy tín của người bị phê bình. Các
cơ quan báo chí vì không nhất trí và thiếu tôn trọng nhau, đã dẫn đến truy chụp
lẫn nhau gây ảnh hưởng không tốt đến dư luận.
Cũng có nhiều vụ việc báo chí nêu lên chưa
được những người có trách nhiệm và các cơ quan chức năng quan tâm xem xét, kết
luận và xử lý. Có hiện tượng một số người lơi dụng chức quyền, dùng nhiều thủ
đoạn hạn chế báo chí đấu tranh chống tiêu cực. Trong khi nhiều cấp uỷ đảng và
lãnh đạo các ngành ủng hộ, lãnh đạo và phối hợp với các cơ quan báo chí để làm
rõ những vụ việc tiêu cực thuộc phạm vi trách nhiệm của mình và xử lý nghiêm
minh, thì một số đồng chí cán bộ lãnh đạo chưa quán triệt chủ trương của Đảng,
chưa phối hợp với báo chí để đấu tranh chống tiêu cực.
Mỗi cơ quan báo chí cần tiếp tục tổng kết,
rút kinh nghiệm sâu sắc trong công tác phê bình, đấu tranh chống tiêu cực, nêu
cao tinh thần trách nhiệm, phẩm chất đạo đức của nhà báo trong khi làm nhiệm
vụ. Cần rút kinh nghiệm cả về quan điểm, thái độ, phương pháp điều tra, nghiệp
vụ thể hiện bài phê bình, đồng thời cần có thái độ xử lý nghiêm khắc đối với
nhà báo phê bình với động cơ không trong sáng.
c) Cổ vũ nhân tố mới
Đi đôi với chống tiêu cực, báo chí đã cố
gắng phát hiện những nhân tố mới, cổ vũ những ''điểm sáng”, những điển
hình tiên tiến. Nhìn lại các số báo, các chương trình phát thanh, các
buổi truyền hình, các phim thời sự đều có thể thấy chúng ta đã chú ý
biểu dương cái mới do báo chí phát hiện, cổ vũ và đã trở thành điển hình
tiên tiến. Nhiều kinh nghiệm của nhân dân đã được tổng kết, làm cơ sở
cho nhiều nghị quyết của Đảng về đổi mới quản lý, sản xuất kinh doanh,
xây dựng cơ chế mới. Trên báo viết, báo nói, báo hình, báo ảnh ngày càng
xuất hiện nhiều hơn những mô hình mới về ba chương trình kinh tế lớn, đó
là ''khoán 10'' trong nông nghiệp; kinh tế nhiều thành phần; những thành
tựu áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất và đời sống.
Tuy nhiên cũng phải thừa nhận không ít báo
chí đã có lúc thiên về chống tiêu cực, chưa thật coi trọng việc phát
hiện và cổ vũ gương tốt về những con người, những đơn vị kinh tế quốc
doanh công nghiệp, nông nghiệp, phân phối lưu thông, những đơn vị đã
vươn lên tháo gỡ khó khăn, tìm ra cách làm ăn mới, đem lại hiệu quả kinh
tế.
Nhìn chung chúng ta viết về cái mới chưa
hay, chưa sâu sắc và chưa có sức thuyết phục cao. Cũng có một nguyên
nhân khách quan là hoạt động kinh tế- xã hội hiện nay tuy có nhiều cái
mới nhưng cũng còn bị nhiều vướng mắc, đặc biệt là trong kinh tế
quốc doanh, cơ chế quản lý kinh tế mới đang trong quá trình hình thành
trong khi cơ chế cũ còn tồn tại; đối với cái mới còn có nhiều ý kiến
đánh giá khen, chê khác nhau. Mặt khác, kiến thức chưa đầy đủ về kinh
tế, về khoa học quản lý của nhà báo cũng là một trở ngại trong việc đi
sâu phát hiện, phân tích và cổ vũ những điển hình tiên tiến mới, khẳng
định những nhân tố mới nảy sinh.
d) Báo chí nước ta đổi mới toàn diện
Từ đổi mới nội dung, báo đài đang tìm tòi
cải tiến cách trình bày cho đẹp hơn, hấp dẫn hơn. Thể loại báo chí ngày càng
phong phú, đặc biệt là các thể loại tin tức, phóng sự điều tra, bút ký, ghi
nhanh, phỏng vấn, ảnh phóng sự, ảnh phê bình... Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài
Truyền hình Việt Nam tìm tòi cải tiến các chương trình. Một số báo hàng ngày,
hàng tuần ra số chủ nhật, số cuối tháng, trình bày đẹp, in trên giấy tốt, nội
dung phong phú, truyền bá nhiều kiến thức, được bạn đọc hoan nghênh.
Hệ thống phát thanh, truyền hình, thông tấn
xã vừa đi vừa tìm tòi, cải tiến về nghiệp vụ, rèn luyện cán bộ làm báo, vừa cố
gắng tăng cường và hiện đại hóa từng bước cơ sở vật chất - kỹ thuật. Bên cạnh
những cố gắng đúng hướng, thời gian qua cũng xuất hiện những khuynh hướng lệch
lạc như thương mại hóa báo chí, đưa tin ''giật gân'', 'thỏa mãn thị hiếu tầm
thường của một số người nào đó nhằm thu lợi nhuận''. Đã có một số tờ báo xuất
bản không hợp lệ. Nội dung và hình thức của một số báo, đặc san không lành
mạnh, có ảnh hưởng tiêu cực tới thanh, thiếu niên, Chúng ta cho rằng báo chí không
thể không quan tâm đến thị hiếu của bạn đọc, không thể thiếu hấp dẫn nhưng báo
chí trước hết có trách nhiệm hướng dẫn và xây dựng thị hiếu lành mạnh. Hấp dẫn
phải đi đôi với bổ ích.
Công cuộc đổi mới báo chí phải tiến hành
toàn diện và đồng bộ: đổi mới nội dung, cải tiến hình thức thể tài, đi đôi với
tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật và bồi dưỡng cán bộ xuất phát từ kinh
nghiệm chung cũng như từ kinh nghiệm của chính mình.
IV- SỰ PHÁT TRIỂN CỦA
BÁO CHÍ
l. Các cơ quan báo chí trung ương
a) Báo Nhân dân
Giữ vị trí hàng đầu, phải kể đến báo Nhân
dân ra hàng ngày. Xuất bản từ ngày 13-l-1951 trong thời kỳ kháng chiến
chống thực dân Pháp, sau năm 1954 đóng trụ sở tại số 71 Hàng Trống. Tổng biên
tập đầu tiên của báo là Hoàng Tùng, đến năm 1982 là Hồng Hà, rồi Hà Đăng
(1987), Hữu Thọ (1992), Hồng Vinh (từ 1996), Đinh Thế Huynh (từ 2001 đến nay)
đều là Uỷ viên Trung ương Đảng.
Là cơ quan trung ương của Đảng Cộng sản
Việt Nam, sau ghi thêm là ''Tiếng nói của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt
Nam'', báo Nhân dân là tờ báo có uy tín nhất trong nước, là cơ quan phát
ngôn chính thức của Đảng và Chính phủ. Báo thông tin thận trọng, chính xác, các
bài xã luận, bình luận (trong nước và quốc tế), phê bình văn học nghệ thuật...
có tính chỉ đạo, định hướng cao. Khẩu hiệu ''Đọc và làm theo báo Đảng'' ứng
trước hết với báo Nhân dân. Báo phát hành rộng rãi, hầu như mỗi cơ quan
nhà nước, mỗi đơn vị tổ chức xã hội, mỗi chi bộ cơ sở đều mua báo Nhân dân
(bằng kinh phí của Đảng và Nhà nước), nên báo càng phát huy sức mạnh. Báo có những
đợt tuyên truyền tập trung vào các công tác trọng tâm, cổ vũ phong trào lớn của
quần chúng. Mọi người đều nhớ những đợt tuyên truyền phong trào thi đua yêu
nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc với những điển hình như ''Gió Đại
Phong”, “Sóng Duyên Hải”, “Cờ Ba Nhất”... sôi nổi một thời. Bước vào cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, các xã luận, phóng sự của báo có sức cổ vũ lớn
với những hình tượng “Nguyễn Viết Xuân, nhằm thẳng quân thù mà bắn”, “Lê Mã
Lương, cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến đánh quân thù”. Ngày
26-12-1972, trong khí thế hào hùng của quân dân Hà Nội đánh cả máy bay B52 của
giặc Mỹ, báo ra bài xã luận “Hà Nội, Thủ đô của phẩm giá con người''. Đầu
đề này đã trở thành khẩu ngữ dùng phổ biến trong nước và thế giới.
Sau giải phóng miền Nam năm 1975, báo nhanh
chóng phát hành trên cả nước, đặc biệt khi có cơ sở ấn loát riêng ở thành
phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng, in theo chế bản từ Hà Nội gửi vào, thì báo
được bảo đảm phát hành đồng thời ở cả ba miền.
Ngày 12-2-1969, Nhân dân chủ nhật ra
số đầu tiên, khổ nhỏ bằng tờ báo hằng ngày gấp tư. Tháng 2-1995, Nhân dân
chủ nhật đổi tên thành Nhân dân cuối tuần, số Nhân dân chủ nhật vẫn
ra thường lệ với khổ lớn. Tháng 5-1997, báo ra thêm số Nhân dân hàng
tháng. Với tất cả những ấn phẩm trên, cùng với Nhân dân hàng ngày ra với
8 trang khổ lớn (trước chỉ có 4 trang), báo có điều kiện mở rộng thông tin, đề
cập toàn diện đến các vấn đề thời sự chính trị - xã hội và cả văn hóa - nghệ
thuật, thể dục - thể thao.
Ngày 21-6-1998, báo Nhân dân điện
tử bằng tiếng Việt ra số đầu hòa mạng internet, đến ngày 11-3-1999 lại có bản
bằng tiếng Anh, đáp ứng nhu cầu thông tin của hàng chục triệu bạn đọc là người
Việt Nam ở nước ngoài, cũng như người ngoại quốc.
Báo đều đặn xuất bản tờ Nội san báo Nhân
dân nhằm mục đích trao đổi kinh nghiệm nghề nghiệp trong cán bộ, phóng
viên.
b) Tạp chí Cộng sản
Đại hội lần thứ VI của Đảng (tháng
12-1986), sau khi đánh giá những thắng lợi mà Đảng và nhân dân ta đã giành
được, và thẳng thắn phân tích những sai lầm, khuyết điểm, trong đó có những sai
lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện, đã quyết định phải tiến hành
đổi mới toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trọng tâm của công cuộc đổi
mới là lĩnh vực kinh tế, bao gồm bố trí lại cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư,
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, kiên quyết xóa bỏ cơ chế quản
lý tập trung quan liêu bao cấp, chuyển mạnh sang hạch toán kinh doanh xã hội
chủ nghĩa, sử dụng đầy đủ và đúng đắn các đòn bẩy kinh tế trong kế hoạch hóa và
quản lý kinh tế, v.v.. Về mặt chính trị - xã hội, Đại hội nhấn mạnh việc phát
huy mọi khả năng của con người, lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao
nhất, do đó phải dân chủ hóa đời sống xã hội, đổi mới nội dung và phương thức
hoạt động của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể quần chúng theo tinh thần ''lấy
dân làm gốc'', không ngừng suy nghĩ, tìm tòi để đổi mới đúng hướng. Ngày
l0-1-1987, Ban biên tập đã có dự án về đổi mới các mặt của tạp chí. Cuối năm
1987, đồng chí Đào Duy Tùng thay mặt Ban Bí thư đã làm việc với Ban biên tập
tạp chí.
Ngày 29-3-1988, Ban Bí thư Trung ương Đảng
đã ra chỉ thị về công tác của Tạp chí cộng sản. Chỉ thị viết: ''Tạp
chí Cộng sản cần phân tích một cách khoa học những quan điểm của Lênin về
chủ nghĩa xã hội, vận dụng những nguyên lý cơ bản, nhất là phép biện chứng duy
vật của chủ nghĩa Mác - Lênin mà phân tích tình hình thực tế nước ta một cách
sâu sắc, từ đó làm sáng tỏ tính đặc thù của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa và
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nội dung biên tập của tạp chí
cần tập trung vào các vấn đề: đổi mới tư duy, đổi mới tổ chức, cán bộ, phong
cách và đổi mới cơ chế quản lý trong kinh tế dân chủ hóa, xây dựng Đảng, xây
dựng nền văn hóa mới và con người mới xã hội chủ nghĩa, đồng thời phê phán
những quan điểm ấu trĩ, sai lệch về chủ nghĩa xã hội. Tạp chí Cộng sản phải
tiên phong đấu tranh cho sự đổi mới tư duy theo tinh thần của Đại hội VI, kiên
quyết chống mọi sự bảo thủ, trì trệ, mọi biểu hiện của khuôn sáo, đồng
thời đấu tranh chống chủ nghĩa duy ý chí, chống mọi biểu hiện của nóng vội, chủ
quan''.
“…Tạp chí Cộng sản phải đổi mới cả
nội dung và hình thức. Tạp chí phải kết hợp chặt chẽ lý luận với thực tế, hết
sức coi trọng yêu cầu của đông đảo bạn đọc. Tạp chí cần có hình thức và biện
pháp khuyến khích sự tìm tòi sáng tạo của các nhà khoa học, của những cán bộ
quản lý có kinh nghiệm, mở ra những mục tranh luận dân chủ trên những vấn đề
lớn mang tính lý luận và thực tiễn cao. Nói chung các bài cần ngắn gọn, súc
tích, có hàm lượng thông tin lớn, có chất lượng lý luận. Tạp chí cần dành một
tỷ lệ trang nhất định dể đăng những ý kiến của bạn đọc góp phần xây dựng Đảng
và hoàn chỉnh đường lối, chính sách của Đảng. Tạp chí có những mục giới thiệu
kinh nghiệm của các nước anh em, đọc sách báo nước ngoài, thông tin kịp thời và
có chọn lọc những vấn đề mới về lý luận cũng như về thực tiễn trong cộng đồng
các nước xã hội chủ nghĩa cũng như trong phong trào cộng sản quốc tế. Tạp chí
cần tiến tới mở mục điểm sách, báo trong nước có tác dụng thông tin và hướng
dẫn bạn đọc theo đường lối của Đảng...''.
Đổi mới thật sự và đúng hướng, một mặt tạp
chí kiên quyết giữ gìn những truyền thống tốt đẹp của mình như bám chắc đường
lối và các chính sách của Đảng và Nhà nước, kiên quyết bảo vệ các quan điểm của
Đảng, đấu tranh chống những quan điểm sai trái, nâng cao vai trò lý luận của
tạp chí, bám sát thực tế của đất nước và thế giới. Mặt khác, tạp chí cố vượt ra
ngoài các khuôn sáo cũ cả về nội dung và hình thức, tạo nên một không khí cởi
mở, tự do tư tưởng, dân chủ thảo luận trên tạp chí, dám nhìn thẳng vào sự thật,
mạnh dạn phân tích, góp phần tích cực vào việc làm sáng tỏ đường lối và các
quan điểm của Đảng.
Để đáp ứng yêu cầu của công tác tư tưởng và
lý luận trong giai đoạn mới, thực hiện quyết định của Thường trực Bộ Chính trị
- Ban Bí thư, bắt đầu từ tháng 7-1995, Tạp chí Cộng sản ra hai kỳ một
tháng. Đây là một quyết định đúng đắn và cần thiết, bởi vì trong giai đoạn phát
triển mới của đất nước, trong điều kiện bùng nổ thông tin, trình độ dân trí
ngày càng cao, đòi hỏi của bạn đọc ngày càng lớn, yêu cầu của công tác lý luận
rất nặng nề, nếu tạp chí ra mỗi tháng 1 kỳ như trước thì không còn thích hợp.
Cuộc sống đòi hỏi tạp chí phải có những thông tin nhanh hơn, phong phú hơn, kịp
thời hơn.
Trong bài ''Cùng bạn đọc thân mến'' nhằm
thông báo sự kiện trên, Bộ biên tập Tạp chí Cộng sản một lần nữa lại
khẳng định Tạp chí Cộng sản ra hai kỳ một tháng và tiếp tục đổi mới
nhưng trên cơ sở theo đúng tôn chỉ, mục đích và chức năng là cơ quan lý luận và
chính trị của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, bảo đảm không ngừng nâng cao
chất lượng mọi mặt của tạp chí. Tạp chí đổi mới nhưng kế thừa những truyền
thống tốt đẹp và giữ đúng bản sắc của mình.
Từ khi ra hai kỳ một tháng, tạp chí có điều
kiện đăng nhiều bài hơn, chuyển tải kịp thời hơn đến bạn đọc những thông tin lý
luận cần thiết, những quan điểm, đường lối của Đảng, tăng thêm những bài nghiên
cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, giới thiệu những nhân tố mới, những điển hình
tiên tiến cùng nhiều nội dung khác theo chức năng của tạp chí.
Ngoài Tạp chí Cộng sản (bản in), từ
ngày 2-9-2001, Bộ biên tập Tạp chí Cộng sản, thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị
Trung ương Đảng khóa VIII về công tác của Tạp chí Cộng sản trong giai
đoạn mới, đã phát hành thử nghiệm Tạp chí Cộng sản điện tử trên mạng
internet. Sau 5 tháng phát hành thử nghiệm, vào dịp kỷ niệm 72 năm thành lập
Đảng (3-2-2002) và đón Xuân Nhâm Ngọ, Tạp chí Cộng sản điện tử phát hành
chính thức bằng tiếng Việt trên mạng. Và một năm sau, vào dịp kỷ niệm 73 năm
ngày thành lập Đảng (3-2-2003) và đón Xuân Quý Mùi, Tạp chí Cộng sản điện tử
chính thức phát hành trên mạng bằng hai thứ tiếng Việt và Anh.
Tạp chí Cộng sản điện tử được Bộ Văn
hóa - Thông tin cấp giấy phép hoạt động số 420 ngày 20-8-2001 và được Tổng cục
Bưu điện chính thức cấp phát trên miền internet là w.w.w.tapchicongsan.org.vn.
Tạp chí Cộng sản điện tử là tạp chí
lý luận và chính trị trên mạng internet, là ''cánh tay nối dài'' của Tạp chí
Cộng sản (bản in). Tạp chí có nhiệm vụ tuyên truyền có định hướng những vấn
đề lý luận chính trị trong nước và quốc tế, tuyên truyền, phổ biến các quan
điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, mở rộng thông tin đối ngoại, giới
thiệu về đất nước, con người, truyền thống lịch sử và văn hóa Việt Nam, nhằm
tăng cường sự hiểu biết và tình cảm của bạn bè quốc tế đối với đất nước và con
người Việt Nam. Tạp chí Cộng sản điện tử còn có nhiệm vụ đấu tranh chống
lại những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch đối với chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
Vào dịp kỷ niệm 73 năm ngày xuất bản số tạp
chí đầu tiên của Đảng (5-8-1930 – 5-8-2003), một vinh dự lớn đến với Tạp
chí Cộng sản là được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng,
Huân chương cao quý nhất của Đảng và Nhà nước ta “vì đã có công lao to lớn
đóng góp vào sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc''. Vinh dự này
không chỉ là của lớp lớp thế hệ cán bộ, phóng viên, biên tập viên, nhân viên
của tạp chí Đảng trong suốt 73 năm qua, mà còn là của các thế hệ cộng tác viên
và bạn đọc của tạp chí khắp cả nước. Có được vinh dự này trước hết là nhờ có sự
quan tâm lãnh đạo trực tiếp, thường xuyên của Đảng và Nhà nước, sự phối hợp
giúp đỡ chặt chẽ của bộ, ban, ngành, các địa phương.
c) Đài Tiếng nói Việt Nam
- Về nội dung các chương trình:
Sự đổi mới về đường lối trong Đại hội VI
năm 1986 kéo theo sự đổi mới về báo chí (cả báo viết, báo nói, báo
hình). Trước đó, kể từ Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng, tư tưởng xóa bỏ cơ
chế quản lý quan liêu hành chính, bao cấp đã được đưa vào Nghị quyết. Đồng chí
Trường Chinh phát biểu một bài rất quan trọng về vấn đề này, được cả nước hoan
nghênh. Tư tưởng đổi mới tư duy ngày càng rõ thêm, nhưng vẫn chưa hoàn chỉnh.
Có nhiều nơi thành công nhưng cũng không ít nơi thất bại vì chưa biết vận dụng.
Đài Tiếng nói Việt Nam luôn luôn ủng hộ những nhân tố mới, phổ biến
những kinh nghiệm tốt của những điển hình tiên tiến.
Đến Đại hội lần thứ VI năm 1986 của Đảng,
đường lối đổi mới được hoàn chỉnh, cuộc tranh luận xung quanh nhiều vấn đề cơ
bản về lý luận và thực tiễn mới kết thúc ''về cơ bản''. Trong lúc đó, lại phải
đấu tranh với một thiểu số có ý kiến muốn rập khuôn theo kiểu ''cải cách'' của
Liên Xô và Đông Âu, muốn xóa sạch cái cũ, bỏ chế độ Đảng Cộng sản độc quyền
lãnh đạo, đòi cải cách kinh tế và cải cách chính trị (đa nguyên, đa đảng, có
đảng đối lập) phải ngang nhau, phê phán Đảng ta nặng về cải cách kinh tế mà
không cải cách chính trị (theo kiểu nói trên) là đi chân dài chân ngắn, khập
khiễng v.v..
Đài Tiếng nói Việt Nam không bị ảnh hưởng
bởi luồng tư tưởng ngược chiều này. Có thể nói là đường lối đổi mới của Đảng,
đã tạo ra cho các nhà báo, trong đó có báo điện tử, một sự đổi mới toàn diện cả
về quan điểm, nội dung và hình thức, thể tài.
Đài Tiếng nói Việt Nam đã tham gia tích cực
vào việc chống tư tưởng bảo thủ, chống cách làm ăn trì trệ, chống những hiện
tượng tiêu cực trong xã hội. Đài cũng đổi mới thông tin từ ngoài vào, từ trong
ra. Trước kia đưa tin về các sự kiện trên thế giới, chủ yếu chỉ đưa ra những
thành tựu của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa mà không phản ánh những mặt
yếu kém, những sai lầm của họ. Đưa tin về phương Tây, thì chỉ đưa mặt xấu mặt
hư hỏng, không đưa những mặt mạnh của họ như phương thức quản lý kinh tế có
hiệu quả, ứng dụng khoa học kỹ thuật mới v.v. đã làm cho bạn nghe Đài hiểu thế
giới một cách méo mó, không chính xác. Đưa tin từ trong nước ra ngoài, cũng chỉ
nói về thành tựu, có tính chất thổi phồng, giấu diếm những mặt yếu kém. Chính
vì thông tin phiến diện, một phần theo định kiến chủ quan, nên nội dung có phần
nghèo nàn, thiếu tính chân thật, thiếu tính chiến đấu và thiếu tính thuyết
phục.
Từ lúc có quan điểm đổi mới, thông tin của
Đài trở nên phong phú hơn, toàn diện hơn, chân thực hơn, hấp dẫn hơn và có hiệu
quả cao hơn, giúp cho bạn nghe Đài ngày càng quán triệt đường lối đổi mới của
Đảng. Thông tin của Đài nêu cả mặt được, mặt chưa được, chủ động góp phần vào
việc hoàn thiện từng bước chính sách theo con đường đổi mới.
- Sự đổi mới tư duy, đổi mới quan điểm
báo chí một cách có hệ thống:
Do có sự tăng cường sử dụng cơ sở vật chất
kỹ thuật hiện đại và đổi mới tư duy một cách có hệ thống, đã giúp cho
tính sáng tạo của các phóng viên, biên tập viên cũng phát triển làm nảy nở
nhiều thể tài, tiết mục mới sinh động, hấp dẫn và gần gũi với cuộc sống. Với
trung tâm âm thanh mới được xây dựng, đưa vào sử dụng từ năm 1988, với những
thiết bị hiện đại hơn, gọn nhẹ hơn, lại tận dụng được vệ tinh, đường cáp quang
và đường viba theo kỹ thuật số, thông tin nhanh được cả hai chiều, nên Đài
Tiếng nói Việt Nam đã có thể đưa rất nhanh các phóng sự phỏng vấn từ các tỉnh
thành ở xa qua đường điện thoại để phát ngay trên sóng. Tính toàn quốc của Đài
được thể hiện ngày một tốt hơn, xóa được định kiến là ''Đài đồng bằng sông
Hồng''.
Việc sử dụng phóng viên nói trực tiếp trước
micrô những bài của mình thay cho phát thanh viên cũng được sử dụng mạnh dạn
hơn trước, có sức truyền cảm mạnh hơn, có tính thuyết phục cao hơn.
Số lượng các chương trình phát thanh cũng
tăng lên nhanh chóng, thỏa mãn ngày càng cao cho nhu cầu thông tin của các tầng
lớp nhân dân khác nhau. Từ khi Đài Tiếng nói Việt Nam phát chương trình bằng
sóng FM hằng ngày thì việc thỏa mãn nhu cầu giải trí, thưởng thức ca nhạc và
nâng cao kiến thức của nhân dân trở lên tốt hơn. Tuy nhiên, Đài vẫn chưa xóa bỏ
được hết cách làm chương trình theo kiểu đường mòn, công thức, dễ dãi, thiếu
sáng tạo trong một số bộ phận, mặc dù có phương tiện hiện đại trong tay. Trong
cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới thì tư duy theo kiểu mới đang ngày càng
thắng thế.
- Sự thay đổi tổ chức bộ máy:
Năm 1987, để thống nhất đường truyền tín
hiệu bằng các phương tiện kỹ thuật hiện đại như vệ tinh, viba số, cáp quang
cùng máy phát sóng vào một mối với vô tuyến viễn thông, Chính phủ đã ra quyết
định chuyển đường truyền tín hiệu và các đài phát sóng phát thanh sang cho Tổng
cục Bưu điện quản lý, theo cơ chế Đài Tiếng nói Việt Nam thuê bao của bưu điện.
Nhưng tháng 8-1993, Chính phủ ra quyết định tổ chức Đài Tiếng nói Việt Nam và
Đài Truyền hình Việt Nam - hai cơ quan trực thuộc Chính phủ thành hai ngành
quản lý nghiệp vụ hệ thống các Đài phát thanh và hệ thống các Đài Truyền hình
các địa phương trong cả nước. Chính phủ cũng quyết định giao cho Đài Tiếng nói
Việt Nam và Đài Truyền hình Việt Nam quản lý các máy phát sóng của toàn hệ
thống do Tổng cục Bưu điện chuyển sang Đài Tiếng nói Việt Nam (cũng như Đài Truyền
hình Việt Nam). Hai đài có trách nhiệm làm dự án kế hoạch chiến lược phát triển
toàn ngành cho đến năm 2000 và xa hơn nữa. Đến năm 2000, Đài Tiếng nói Việt Nam
phủ sóng 95% dân cư bảo đảm 14 triệu hộ gia đình có rađiô nghe tốt chương trình
của đài quốc gia. Thực tế diễn ra ở Đài Tiếng nói Việt Nam là quá trình suy
nghĩ, tìm tòi, xác định hướng đi đúng để đổi mới đồng bộ cả về thiết bị kỹ
thuật, quy trình công nghệ lẫn trình độ của đội ngũ phóng viên, biên tập viên,
kỹ thuật viên theo hướng phát thanh hiện đại. Sau nhiều năm được Đảng và Nhà
nước quan tâm đầu tư, đến năm 2000 cơ sở kỹ thuật của Đài Tiếng nói Việt Nam đã
đi vào hoạt động có hiệu quả với một trung tâm sản xuất các chương trình phát
thanh quy mô và đang hình thành tổ hợp biên tập - kỹ thuật phát thanh công nghệ
hiện đại. Ngoài các cơ sở biên tập và kỹ thuật tại Hà Nội còn có 5 cơ quan
thường trú khu vực đóng tại thành phố Hồ Chí Minh - Cần Thơ - Buôn Ma Thuật -
Đà Nẵng - Sơn La. Cánh sóng của Đài Tiếng nói Việt Nam đã vươn tới 70 nước
thuộc vùng Đông Nam Á, châu Á, châu Âu, Bắc Mỹ và Caribê với 11 thứ tiếng nước
ngoài và một chương trình dành cho đồng bào Việt kiều ở xa Tổ quốc. Và lần đầu
tiên, trong chặng đường 56 năm phát triển của mình, Đài Tiếng nói Việt Nam đã
có 5 cơ quan thường trú nước ngoài đóng tại Băng Cốc - Pa ri - Bắc Kinh -
Mátxcơva - Cairô, thông tin kịp thời các sự kiện quốc tế và khu vực. Nếu như
trước đây nguồn tin của Đài thường chậm hơn so với các đài nước ngoài hàng chục
giờ đồng hồ, thì bây giờ, với các thiết bị hiện đại, một phong cách làm việc
chủ động, chuyên nghiệp, nhiều sự kiện trên thế giới đã được đưa tin nhanh
không thua bất cứ phương tiện thông tin nước ngoài nào. Sự kiện ngày 11-9-2001
ở Mỹ; việc Mỹ ném bom Apganixtan..., Đài Tiếng nói Việt Nam và cơ quan báo chí
thông tin nhanh nhất tới bạn nghe đài.
Trong tình hình hiện nay, với việc bùng nổ
thông tin, và để cạnh tranh lành mạnh với các phương tiện báo chí truyền thông
khác, việc nâng cao chất lượng tin, bài, chất lượng các chương trình phát thanh
có thể coi là yếu tố sống còn của Đài Tiếng nói Việt Nam. Bởi vậy, không ngừng
cải tiến mạnh mẽ theo hướng tăng thời lượng, mở rộng nội dung và đối tượng
tuyên truyền, nâng cao chất lượng và hiệu quả, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu
cầu thông tin của nhân dân trong thời kỳ đổi mới - đó là nhiệm vụ quan trọng
đối với những người làm báo phát thanh. Từ 2 hệ chương trình (đối ngoại) đến
nay Đài Tiếng nói Việt Nam đã mở ra 6 chương trình bao gồm 4 hệ đối nội (trong
đó có hệ chương trình dân tộc thiểu số) và 2 hệ chương trình đối ngoại. Từ 40
chương trình mỗi ngày, nay đã có 482 chương trình với tổng thời lượng 172 giờ
chương trình phát thanh mỗi ngày đề cập tất cả các lĩnh vực: chính trị - kinh
tế - văn hóa - quốc phòng - an ninh - âm nhạc - văn hóa nghệ thuật… phục vụ tất
cả các đối tượng xã hội. Nhiều chương trình mới đã ra đời trong mấy năm qua
thực sự thu hút bạn nghe đài. Từ chỗ nội dung thông tin còn phụ thuộc vào tin
tức thông tấn hoặc khai thác một cách thụ động trên báo chí, từ cách tuyên
truyền còn nặng về thông báo, truyền đạt, nay đã đổi mới, chú trọng tính chất
thông tin - đối thoại - phát hiện - dự báo, hướng dẫn dư luận; vừa biểu dương
nhân tố mới, vừa đấu tranh không khoan nhượng trước các biểu hiện tiêu cực.
Trước những diễn biến phức tạp diễn ra ở
Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, vấn đề đoàn kết dân tộc đã, đang là vấn đề đặc
biệt nhạy cảm và có tầm quan trọng quốc gia. Đài Tiếng nói Việt Nam đã xây dựng
các chương trình phát thanh bằng 8 thứ tiếng dân tộc thiểu số, là cơ quan báo
chí có nhiều chương trình phát thanh bằng các thứ tiếng dân tộc thiểu số, đó
là: Bana, Êđê, Giarai, Xêđăng, K’ho (cho vùng Tây Nguyên); Mông, Thái (cho vùng
phía bắc); Khơme (cho vùng Nam Bộ); và đang xúc tiến việc phát sóng tiếng Mông
cho đồng bào Mông ở Tây Nguyên, với tổng thời lượng các chương trình tiếng dân
tộc là 750 phút/chương trình/ngày. Các chương trình phát thanh tiếng dân tộc
luôn bám sát các vấn đề thời sự - chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc
phòng và những diễn biến nảy sinh từ các vùng dân tộc thiểu số, những vấn đề
nổi cộm mà đồng bào quan tâm - đặc biệt là vấn đề dân tộc, sắc tộc và tôn giáo
đan xen nhau. Các thế lực phản động ra sức xuyên tạc, bóp méo chính sách dân
tộc và tôn giáo của Đảng ta. Đài Tiếng nói Việt Nam đã chú trọng tuyên truyền,
lên tiếng làm sáng tỏ vấn đề trên sóng đối nội và đối ngoại; thông tin, tuyên
truyền giúp đồng bào hiểu rõ chủ trương, đường lối, chính sách dân tộc của
Đảng; nâng cao hiểu biết trên nhiều lĩnh vực cho đồng bào để nêu cao cảnh giác
chống lại luận điệu xuyên tạc, chia rẽ của các thế lực thù địch; cổ vũ việc giữ
gìn bản sắc văn hóa các dân tộc; theo tinh thần Nghị quyết Trung ương lần thứ
năm. Các chương trình phát thanh này đã ngày càng khẳng định vị trí quan trọng
và tin cậy trong lòng đồng bào các dân tộc thiểu số.
Trong những năm vừa qua, Đảng, Nhà nước đã
chú trọng đầu tư lớn cho phát thanh. Đến nay, Đài Tiếng nói Việt Nam là cơ quan
thông tin đại chúng duy nhất có 3 phương thức truyền thông: Đó là làn sóng phát
thanh, là báo điện tử trên mạng internet, là tờ báo in số ra hàng tuần và số
cuối tháng, trong đó sóng phát thanh là chủ yếu nhất, quan trọng nhất, quyết
định nhất, tờ báo Điện tử trên mạng internet và tờ báo in đã hỗ trợ tích cực,
làm cho nội dung thông tin của Đài quốc gia ngày càng phong phú, hiệu quả, đa
dạng và hấp dẫn. Hàng vạn lá thư của bạn nghe đài gửi để góp ý, xây dựng, động
viên, khích lệ... đã tạo nguồn cảm hứng, sự say mê nghề nghiệp cho những người
làm báo phát thanh.
d) Đài Truyền hình Việt Nam
Vào giai đoạn 1990 - 2000, trọng tâm của
Đài Truyền hình Việt Nam thực hiện là quy hoạch phát triển truyền hình đến năm
2000 và những giai đoạn tiếp theo, tập trung vào những mục tiêu chính là:
Thứ nhất, nâng cao thời lượng và
chất lượng chương trình truyền hình về nội dung, kỹ thuật, nghệ thuật, hình
thức thể hiện, tăng cường tính toàn quốc, toàn diện của các chương trình truyền
hình quốc gia.
Thứ hai, xây dựng mạng truyền dẫn
toàn quốc từ trung ương đến địa phương với cơ sở vật chất kỹ thuật được đổi mới
và hiện đại hóa, phù hợp với ưu thế phát triển của thế giới.
Trong điều kiện báo in của chúng ta, do
những khó khăn khách quan, mới chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn,
thì đối với báo chí điện tử, việc nhanh chóng chiếm lĩnh không gian và thời
gian có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, góp phần lấp khoảng trống về thông tin ở
những vùng thôn quê rộng lớn, những vùng sâu vùng xa, biên giới, hải đảo.
Nhìn lại bốn năm thực hiện Chỉ thị 22-CT/TW
của Bộ Chính trị và quy hoạch phát triển truyền hình được Chính phủ phê duyệt,
Đài Truyền hình Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng. Hầu hất các
chỉ tiêu lớn đề ra đã được thực hiện:
- Về quy mô chương trình: Đã hình thành 4
kênh: VTV1 (chính trị tổng hợp), VTV2 (khoa học giáo dục), VTV3 (thể thao, giải
trí) và VTV4 (thông tin đối ngoại và dành cho người Việt Nam ở nước ngoài) với
tổng thời lượng từ 41 đến 45 giờ/ngày.
- Về diện phủ sóng: Đã hoàn thành mục tiêu
đưa sóng truyền hình tới 80% dân số cả nước. Chương trình VTV4 phủ sóng tới hầu
hết các khu vực của thế giới có nhiều người Việt Nam sinh sống.
Ba chức năng cơ bản của truyền hình là
thông tin tuyên truyền, nâng cao dân trí và giải trí được thực hiện tốt hơn.
Với 14 bản tin trong ngày và các chuyên mục đa dạng về các lĩnh vực khác nhau
của đời sống đất nước, Đài Truyền hình Việt Nam đã thông tin nhanh, kịp thời các
sự kiện diễn ra trong nước và trên thế giới tuyên truyền, giải thích đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của các
tầng lớp nhân dân; phát hiện, thông tin kịp thời nhiều vấn đề bức xúc trong
cuộc sống. Cả tuyên truyền người tốt, việc tốt lẫn đấu tranh chống tiêu cực đều
được tăng cường trên sóng truyền hình.
Các chương trình khoa học, giáo dục đã tăng
thời lượng và nâng cao chất lượng, bám sát Nghị quyết Trung ương lần thứ hai,
Nghị quyết Trung ương lần thứ năm và được cải tiến phong phú, hấp dẫn người xem
hơn trước. Các chương trình về khoa học xã hội và nhân văn cũng được mở rộng.
Một loạt chương trình dạy học trên truyền hình được thực hiện. Do ưu thế vốn
có, truyền hình có điều kiện đóng góp hữu hiệu cho sự nghiệp nâng cao dân trí,
bồi dưỡng nguồn nhân lực, tạo cơ hội học hành cho những người không có điều
kiện đến trường lớp chính quy, đưa giáo dục đến vùng xa xôi, hẻo lánh, đến với
người nghèo.
Số lượng các chương trình văn học nghệ
thuật, phim truyện Việt Nam, các chương trình thể thao, giải trí tăng lên nhằm
đáp ứng nhu cầu của nhân dân về đời sống văn hóa, tinh thần, đặc biệt là nhân
dân ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, những nơi đời sống đang gặp nhiều
khó khăn. Có nhiều chương trình được ưa thích, ảnh hưởng sâu rộng và trở thành
sinh hoạt văn hóa - giáo dục bổ ích như các chương trình: “Bảy sắc cầu
vồng”; “Đường lên đỉnh Olimpia”, “Hành trình văn hóa''... Mặt
khác, Đài Truyền hình Việt Nam cũng luôn chú trọng đến công tác giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc thông qua các chương trình giới thiệu những tác
phẩm nghệ thuật cổ truyền của dân tộc như tuồng, chèo, cải lương... hay thông
qua việc công bố các tác phẩm, giới thiệu chân dung tác giả, chân dung văn nghệ
sĩ...
Công tác tuyên truyền đối ngoại tuy còn có
những hạn chế song đã từng bước mở rộng thời lượng và quy mô phát sóng. Hiện
nay, Đài Truyền hình Việt Nam đã phát sóng 24 giờ/ngày cho cộng đồng Việt Nam
sống ở các nước châu Á, châu Âu, Bắc Ôxtrâylia, 4 giờ/ngày ở Bắc Mỹ và vịnh
Caribê.
Cơ sở vật chất, kỹ thuật được đổi mới, tăng
cường theo xu thế phát triển của truyền hình hiện đại, chuyên nghiệp. Nhờ đó mà
Đài Truyền hình Việt Nam bảo đảm sản xuất một khối lượng lớn chương trình hằng
ngày với chất lượng kỹ thuật và nghệ thuật thể hiện ở trình độ cao hơn.
Các chương trình truyền hình trực tiếp, các
cầu truyền hình nối nhiều điểm trong nước và ở nước ngoài cùng một lúc được
thực hiện, góp phần tạo nên diện mạo mới của truyền hình Việt Nam tiến
theo hướng chuyên nghiệp.
Truyền hình Việt Nam đang đứng trước cả cơ
hội lẫn thách thức to lớn trên con đường phát triển dể thực hiện tốt hơn nhiệm
vụ nặng nề mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó. Nghị quyết Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã nêu rõ: ''Đến năm 2010 hoàn thành cơ bản việc
phổ cập các phương tiện phát thanh, truyền hình đến mỗi gia đình”. Quy
hoạch phát triển truyền hình Việt Nam đến năm 2000 và những năm tiếp theo cũng
khẳng định: ''Về nội dung, các chương trình truyền hình phải nhằm cung cấp
thông tin nhanh chóng và chính xác đến mọi người dân về đường lối, chính sách
và pháp luật của Đảng và Nhà nước ta, về sự phát triển của đất nước, góp phần
nâng cao nhận thức chính trị, tư tưởng, dân trí, trình độ thẩm mỹ của công
chúng, đấu tranh chống các âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch. Nội dung
các chương trình cần phong phú, đa dạng, có sự cân đối hài hòa giữa thông tin,
giáo dục và giải trí''.
đ) Thông tấn xã Việt Nam
Thông tấn xã Việt Nam với mạng lưới phân xã
ở khắp các tỉnh, thành phố trong cả nước và 23 phân xã ở ngoài nước trải khắp 5
châu lục. Thông tin trong nước và thế giới của Thông tấn xã Việt Nam đã bám sát
và bao quát để phản ánh nhanh nhạy và kịp thời, đúng định hướng các vấn đề thời
sự chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học công nghệ trong nước và thế
giới. Ngoài các thông tin cung cấp cho các cơ quan thông tin đại chúng trong
nước và nước ngoài, Thông tấn xã Việt Nam còn cung cấp các thông tin báo cáo có
tính chất chiến lược và quan trọng cho lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các cơ quan
quản lý điều hành của Chính phủ, các cơ quan nghiên cứu...
Thông tấn xã Việt Nam hiện đang tham gia
tích cực vào cuộc đấu tranh và cạnh tranh thông tin toàn cầu. Thông tấn xã Việt
Nam hiện đang là một trong những cơ quan chủ lực của Đảng và Nhà nước với tờ
báo tiếng Anh Vietnam News, báo tiếng Pháp Le courier du Vietnam, bản
tin đối ngoại tiếng Anh, Pháp và Tây Ban Nha, Báo ảnh Việt Nam bằng
nhiều ngôn ngữ, tạp chí tiếng Anh Vietnam Law & legal Forum (Luật
Việt Nam và diễn đàn pháp luật). Thông tấn xã Việt Nam đã góp phần quan trọng
trên mặt trận tư tưởng trong cuộc đấu tranh chống các lực lượng thù địch, chống
âm mưu ''Diễn biến hòa bình'', bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và các giá trị tinh thần của chủ nghĩa xã hội, kiên định sự lãnh đạo
cửa Đảng đối với xã hội và bản chất của Nhà nước ta.
Ngoài thông tin kịp thời và có định hướng
về các vấn đề chính trị, kinh tế - xã hội, Thông tấn xã Việt Nam cũng chú trọng
thông tin kịp thời các sự kiện quan trọng trong lĩnh vực thể thao, văn hóa,
khoa học và công nghệ thông qua các báo chuyên ngành của mình như Thể thao
và văn hóa, Khoa học và công nghệ, góp phần đáng kể đảm bảo quyền được
thông tin của nhân dân, góp phần định hướng thông tin về các vấn đề được xã hội
quan tâm.
Thông tấn xã Việt Nam đang phấn đấu xây
dựng thành một tập đoàn truyền thông như Chủ tịch nước Trần Đức Lương đã chỉ
thị khi đồng chí đến thăm Thông tấn xã Việt Nam tháng 8-2000. Thông tấn xã Việt
Nam hiện đang xuất bản 35 loại ấn phẩm khác nhau với các thông tin đa dạng nhằm
vào nhiều tầng lớp bạn đọc khác nhau có trong nước và nước ngoài với các loại
hình khác nhau: Báo viết, báo điện tử, băng nghe nhìn, sách, ấn phẩm thông tin
chung, ấn phẩm thông tin chuyên ngành, ấn phẩm chuyên phục vụ thông tin đối
ngoại, ấn phẩm tham khảo phục vụ lãnh đạo Đảng và Nhà nước, ấn phẩm phục vụ các
cơ quan nghiên cứu hoạch định chính sách, ấn phẩm phục vụ các phương tiện thông
tin đại chúng…
2. Báo của các cơ quan, đoàn thể
Các đoàn thể chính trị - xã hội ra đời sau
này lần lượt đều có cơ quan ngôn luận riêng: Nông thôn ngày nay (nguyên
là Nông dân Việt Nam) của Hội Nông dân Việt Nam; Tạp chí Nhân đạo
(từ năm 1990) của Hội Chữ thập đỏ Việt Nam; báo Cựu chiến binh Việt Nam (từ
năm 1991) của Hội Người Công giáo (thuộc Uỷ ban đoàn kết Công giáo Việt Nam)…
Trong Mặt trận Việt Minh trước đây có Đảng
Dân chủ Việt Nam và Đảng Xã hội Việt Nam. Đảng Dân chủ Việt Nam thành lập từ
năm 1944, ngay sau khi thành lập đã ra báo Độc lập, xuất bản bí mật. Sau
Cách mạng Tháng Tám, báo ra công khai và tiếp tục xuất bản trong thời kỳ kháng
chiến chống thực dân Pháp. Sau giải phóng Thủ đô, báo ra hàng tuần và được giao
trách nhiệm tuyên truyền, vận động chủ yếu là giới công thương, các nhà tư bản
dân tộc chấp hành các chính sách của Nhà nước, đi theo đường lối xây dựng chủ
nghĩa xã hội của đảng cầm quyền.
Đảng Xã hội Việt Nam thành lập năm 1946,
nhằm thu hút giới trí thức đi theo con đường cách mạng của Đảng cầm quyền. Cơ
quan ngôn luận là báo Tổ quốc, xuất bản hàng tháng. Các tác giả cũng như
độc giả chủ yếu là trí thức, cán bộ nghiên cứu, cán bộ khoa học kỹ thuật.
Hai tờ báo trên đã góp phần tích cực vào
việc tăng cường và mở rộng khối đối đoàn kết toàn dân tộc trong Mặt trận dân
tộc thống nhất. Sau khi cách mạng giải phóng dân tộc thắng lợi trong phạm vi cả
nước, đối tượng vận động có nhiều sự biến chuyển, Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội
tự thấy mình đã làm tròn nhiệm vụ lịch sử, quyết định kết thúc hoạt động vào
cuối năm 1988. Hai tờ Độc lập và Tổ quốc cũng ngừng xuất bản.
Hầu như ngành hoạt động nào, hội nghề
nghiệp nào ở trung ương cũng có cơ quan báo chí của mình.
Hội Nhà báo Việt Nam có Tạp chí Người
làm báo từ năm l985 đến năm 1990 đổi tên là Nhà báo và Công luận. Khi
báo ra hàng tuần (từ năm 1996), đề cập rộng rãi các vấn đề chính trị xã hội,
thì Người làm báo trở lại thành tạp chí hàng tháng chuyên bàn về nghiệp
vụ và công tác hội.
Bộ Văn hóa - Thông tin xuất bản báo Văn
hóa - Nghệ thuật ra hàng tháng, sau đổi tên là Văn hóa ra
hàng tuần, rồi một tuần hai kỳ.
Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam
có Tạp chí Diễn đàn văn nghệ (1991). Trước đây, Hội Văn nghệ Việt Nam có
Tạp chí Văn nghệ ra từ năm 1948. Khi thành lập Hội Nhà văn, có báo Văn
là tuần báo sáng tác, lý luận, phê bình, thông tin văn học, đến tháng
5-1958 lấy tên là Văn học. Đến năm 1963, báo hợp nhất với Tạp chí Văn
nghệ thành tuần báo Văn nghệ. Báo Văn nghệ còn có các ấn
phẩm: Văn nghệ dân tộc miền núi (từ năm 1995, ra hàng tháng), Văn
nghệ trẻ (từ năm 1995, ra hàng tuần), Tác phẩm mới hàng tháng
(1969), Văn học nước ngoài (từ năm 1996, ra hai tháng một số).
Về văn nghệ, có Tạp chí Văn nghệ quân
đội do Tổng cục Chính trị quân đội nhân dân Việt Nam xuất bản từ tháng
1-1957, ra hàng tháng. Bộ Công an xuất bản báo Văn hóa – văn nghệ công an từ
tháng l-1996.
Các hội nghệ thuật đều có cơ quan ngôn luận
riêng: Hội Mỹ thuật có Mỹ thuật thời nay, Hội Điện ảnh có Nghệ thuật
điện ảnh, sau đổi tên là Nghệ thuật thứ bảy (về điện ảnh còn có
Điện ảnh - kịch trường của Bộ Văn hóa - Thông tin, Điện ảnh ngày
nay của Viện Nghệ thuật và lưu trữ điện ảnh); Hội Nghệ sĩ sân khấu
có Sân khấu; Hội Nhiếp ảnh có Nghê thuật nhiếp ảnh, sau chỉ gọi
là Nhiếp ảnh; Hội Nhạc sĩ có Tạp chí Âm nhạc; Hội Nghệ sĩ múa có Nhịp
điệu; Hội Văn nghệ dân gian có Tạp chí Nguồn sáng; Hội Kiến trúc sư
có Tạp chí Kiến trúc (với phụ san là Nhà đẹp)...
Thể thao Việt Nam là cơ quan ngôn
luận của Uỷ ban Thể dục thể thao Việt Nam, nguyên là báo Thể dục thể
thao (xuất bản từ năm 1957). Lúc đầu báo ra hàng tháng, rồi hàng
tuần, sau ra một số ba kỳ. Báo còn có các chuyên san Thể thao - khoẻ
và đẹp, Thế giới thể thao.
Báo chí của các ngành khoa học xã hội rất
phong phú. Báo của các tổ chức xã hội, có Lao động - xã hội của
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xuất bản từ năm 1993; Vì trẻ thơ của
Uỷ ban Bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam (từ năm 1991); Gia đình và
xã hội của Uỷ ban quốc gia dân số và kế hoạch hóa gia đình (từ năm 1999),
nay là Ủy ban Dân số, gia đình và trẻ em. Bộ Tư pháp có Dân chủ và pháp luật
sau đổi là Pháp luật. Tòa án nhân dân tối cao có Người bảo vệ công lý
(từ năm 1994). Viện Kiểm sát nhân dân tối cao có Tạp chí Kiểm sát. Hội
Khoa học lịch sử có Xưa và nay (từ năm 1994). Các viện nghiên cứu đều có
báo hoặc tạp chí: Ngôn ngữ (1969) của Viện Ngôn ngữ học; Nhà nước và
pháp luật (1972) của Viện Nhà nước và pháp luật; Khảo cổ học (1969)
của Viện Khảo cổ; Triết học (1972) của Viện Triết học; Tâm lý học (1996)
của Viện Tâm lý học (Hội Tâm lý học còn xuất bản Thế giới trong ta từ
năm 1994); Dân tộc học (1974) của Viện Dân tộc học; Nghiên cứu Đông
Nam Á (1990) của Viện Nghiên cứu Đông Nam Á; Nghiên cứu Tôn giáo (1999)
của Viện Nghiên cứu Tôn giáo...
Các ngành hoạt động kinh tế và khoa học -
kỹ thuật cũng xuất bản nhiều báo: Thời báo kinh tế Việt Nam (1991) và Tư
vấn tiêu dùng của Hội Khoa học kinh tế, Công nghệ Việt Nam (1995)
của Bộ Công nghiệp; Thương mại (1950) của Bộ Thương mại; Ngoại thương
lúc đầu của Bộ Ngoại thương, đến 1994 trở thành tuần tin của Trung tâm
thương mại, báo này còn ra phụ trương riêng là Mua và bán; Đầu tư (1991)
của Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Giao thông vận tải (1962) của Bộ Giao thông
vận tải; Đường sắt Việt Nam (1985) của Liên hiệp đường sắt Việt
Nam; Bưu điện Việt Nam (1990) của Tổng cục Bưu điện; Diễn đàn
doanh nghiệp (1997) của Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam; Hải
quan Việt Nam (1991) của Tổng cục Hải quan; Hàng không Việt Nam (1991)
của Hàng không dân dụng Việt Nam; Con số và sự kiện (1994) của Tổng cục
Thống kê, Điện tử và tin học (1992) của Tổng Công ty Điện tử - tin học; Dầu
khí (1986) của Tổng Công ty Dầu mỏ và khí đốt; Du lịch Việt Nam (1981)
của Tổng cục Du lịch...
Về nông nghiệp, có Nông nghiệp Việt Nam (1955)
của Bộ Nông nghiệp (sau là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn); Kinh tế
VAC (nguyên là báo Người làm vườn) của Hội những người làm vườn, từ
năm 1988; Việt Nam hương sắc (1993) của Hội Sinh vật cảnh việt Nam...
3. Sự phát triển của báo chí điện tử
Tác động rõ nhất của toàn cầu hóa đối với
báo chí có lẽ là thông tin qua internet và liên lạc viễn thông qua vệ tinh.
Một mặt, internet và truyền hình qua vệ
tinh là nguồn thông tin nhanh, phong phú, đa dạng về mọi mặt đời sống quốc tế.
Nó giúp cho báo chí phản ánh tình hình thế giới được đầy đủ hơn, nhanh nhạy
hơn. Bạn đọc Việt Nam nhìn chung rất quan tâm theo dõi các thông tin thời sự
quốc tế. Mảng thông tin các sản phẩm báo chí Việt Nam đều có phần thời sự quốc
tế. Mảng thông tin này ngày càng phong phú, đa dạng, hấp dẫn nhờ có internet và
liên lạc viễn thông. Và nhờ đó, báo chí Việt Nam cũng có điều kiện hội nhập
quốc tế, khai thác thông tin, học tập kinh nghiệm báo chí quốc tế để nâng cao
chất lượng các sản phẩm của mình. Đồng thời qua đó, công chúng Việt Nam
cũng tiếp nhận được nhiều thông tin hơn về thế giới, cảm thấy các dân
tộc trên thế giới xích lại gần nhau hơn. Mặt khác, nhờ có công cụ
internet, báo chí Việt Nam có điều kiện thuận lợi hơn trong việc đưa
thông tin về đất nước và con người Việt Nam đến với hàng triệu đồng bào
Việt Nam ở xa Tổ quốc và bạn bè quốc tế, những ai quan tâm đến Việt Nam.
Mạng lưới internet mới có ở Việt Nam từ
cuối năm 1997, nhưng đã phát triển khá nhanh chóng. Đến 2001, đã có hơn
46 tờ báo điện tử ra đời được bạn đọc hoan nghênh. Đó là các tờ: Nhân
dân điện tử tiếng Việt và tiếng Anh, VOV News của Đài Tiếng nói Việt
Nam, Thời báo kinh tế Việt Nam, báo Vietnam News của
Thông tấn xã Việt Nam, báo Lao động, báo Sài Gòn giải
phóng, Website Đảng Cộng sản Việt Nam... đã có 400 triệu lượt người
truy cập.
Riêng báo Nhân dân điện tử lên mạng
internet từ ngày 21-6-1998, hiện nay ra hàng ngày bằng cả hai thứ tiếng
(tiếng Việt và tiếng Anh), trung bình mỗi ngày có 120.000 lượt người truy
cập.
Các báo điện tử ra đời là một bước tiến mới
trong hoạt động thông tin đối ngoại của Việt Nam, đưa đến bạn đọc ở nước ngoài
những thông tin trực tiếp, trung thực, đúng đắn về hình ảnh của đất nước Việt
Nam đang trên đà đổi mới. Trước đây, thông tin về Việt Nam đến với bạn đọc ở
nước ngoài gặp rất nhiều khó khăn trong việc phát hành báo chí. Báo điện tử ra
đời đã khắc phục được vấn đề này.
Trên đây là những tác dụng tích cực, những
mặt thuận lợi của toàn cầu hóa đối với hoạt động của báo chí Việt Nam.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tốt của toàn
cầu hóa mà chúng ta cần khai thác, phát huy, cũng có những nguy cơ, những tác
động bất lợi của toàn cầu hóa mà báo chí cần hạn chế và ngăn chặn.
Thứ nhất, internet với xa lộ thông
tin là nguồn thông tin vô cùng lớn, ngày đêm chảy như thác lũ, tràn ngập mọi xã
hội. Nhưng các nguồn thông tin này thiếu tính chính xác, độ tin cậy không cao,
thậm chí có cả những thông tin xuyên tạc, những sản phẩm văn hóa độc hại. Do
đó, trong khi khai thác nguồn thông tin này, các nhà báo cần có ý thức cảnh giác,
có tinh thần phê phán, biết cách chọn lọc và kiểm tra thông tin trước khi sử
dụng.
Ở góc độ này cần nhấn mạnh sự đòi hỏi rất
cao với từng nhà báo trong việc hiểu biết thực chất toàn cầu hóa, cũng như hiểu
rõ vai trò của internet và kỹ năng sử dụng thành thạo công việc quan trọng này
nhằm phục vụ có hiệu quả các tác nghiệp báo chí.
Thứ hai, một số hãng thông tin báo
chí lũng đoạn trong lĩnh vực thông tin, họ lợi dụng quá trình toàn cầu hóa để
tăng cường vai trò độc quyền của mình. Chẳng hạn, thông tin về các nước đang
phát triển, các hãng thông tin này phản ánh thực tế qua lăng kính của họ, do đó
hình ảnh các nước đang phát triển bị biến dạng. Bởi vì, họ chỉ coi trọng thông
tin tiêu cực, tin xấu, mà ít khi phản ánh những nỗ lực của nhân dân trong công
cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Chúng tôi cho rằng, để hạn chế sự lũng
đoạn thông tin của các hãng độc quyền, các nước đang phát triển ngoài việc phát
triển hoạt động thông tin đối ngoại của mình, cần tăng cường hợp tác trong lĩnh
vực thông tin báo chí.
V- NHỮNG ĐÁNH GIÁ BƯỚC
ĐẦU
1. Thành tựu
a) Sự phát triển nhanh về số lượng ấn
phẩm, loại hình, không ngừng nâng cao chất lượng và hình thức của các loại hình
báo chí
Năm năm qua, với sự quan tâm chỉ đạo của
Đảng, sự đầu tư ngân sách của Nhà nước, của các ngành, đoàn thể, địa phương và
sự nỗ lực phấn đấu của các cơ quan báo chí, nền báo chí ở nước ta đã phát triển
khá nhanh về số lượng, hình thành hệ thống thông tấn, báo chí, phát thanh,
truyền hình rộng khắp trong cả nước. Cả nước hiện có trên 450 đơn vị báo chí,
trong đó báo in xuất bản 563 ấn phẩm các loại, phát hành 565 triệu bản/năm; 160
tờ báo ngày và tuần báo với lượng phát hành 546.223.000 bản/năm; có 63 tờ báo
trung ương, 97 tờ báo địa phương, 1 báo và 20 tạp chí đối ngoại. Công suất,
thời lượng phát sóng, diện phủ sóng của phát thanh và truyền hình tăng lên đáng
kể, phủ sóng rộng khắp không chỉ trong nước, cả khu vực nông thôn, hải đảo,
vùng sâu, vùng xa mà còn vươn ra nhiều nước trên thế giới. Hệ thống đài, trạm
phát thanh, truyền hình các khu vực, tỉnh, thành đến quận, huyện và các vùng
dân cư quan trọng đã được hình thành. Trên 80% số hộ được đem Đài Truyền hình
quốc gia. Nhiều cơ quan báo chí đã có cơ quan thường trú ở nước ngoài. Công
nghệ làm báo có bước tiến về nhiều mặt và ngày càng hiện đại. Nhiều phương tiện
kỹ thuật mới trong báo chí, xuất bản được sử dụng, tạo điều kiện cho việc thông
tin nhanh hơn và nâng cao chất lượng in ấn, trình bày. Kỹ thuật hiện đại về
phát thanh, truyền hình giúp đưa nhanh âm thanh, hình ảnh có chất lượng cao đến
với người nghe, người xem trên địa bàn rộng, không những ở trong nước mà còn
đưa thông tin ra thế giới.
Trên cơ sở phát triển nhanh về số lượng và
quy mô, về nội dung và hình thức, về in, phát thanh, truyền dẫn, báo chí Việt
Nam ngày càng phát huy vai trò quan trọng trong đời sống chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội của đất nước. Hệ thống mạng thông tin trong nước và quốc tế
được xác lập, tạo khả năng lựa chọn, khai thác các nguồn thông tin trên thế
giới, phục vụ đông đảo công chúng, công tác tuyên truyền đối ngoại được tăng
cường, giúp cho nhân dân thế giới, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài có
được những thông tin đúng đắn về tình hình đất nước, tranh thủ sự ủng hộ ngày
càng rộng rãi của dư luận quốc tế đối với công cuộc đổi mới và sự nghiệp xây
dựng, bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Một số cơ quan báo chí đã đưa thông tin
lên mạng internet, mở ra sự trao đổi thông tin báo chí điện tử với thế giới.
Những năm qua, báo chí từ trung ương tới địa phương đã đem đến cho nhân dân ta
một khối lượng thông tin và tri thức vô cùng phong phú. Báo chí, đặc biệt là
phát thanh, truyền hình và phương tiện giáo dục từ xa cực kỳ lợi hại, rẻ tiền
và có thể tiếp cận mọi đối tượng cần tiếp cận.
b) Nội dung thông tin của báo chí ngày
càng phong phú, hiệu quả; hình thức ngày càng đẹp, sinh động và hấp dẫn
Thực hiện Chỉ thị 08-CT/TW, ngày 31-3-1992
của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VII) và Chỉ thị 22-CT/TW ngày 17-10-1997
của Bộ Chính trị Trung ương Đảng (khóa VIII) và Luật Báo chí do Nhà nước ban
hành, báo chí Việt Nam luôn hoạt động đúng định hướng chính trị, trong khuôn
khổ luật pháp nhà nước và đạt được những thành tựu quan trọng.
Báo chí ngày càng sát cuộc sống hơn; tính
nhân dân, tính chiến đấu của báo chí được tăng cường, chất lượng chính trị,
chất lượng văn hóa, chất lượng nghề nghiệp của báo chí được nâng lên một bước
đáng kể. Báo chí giữ vai trò chủ động trong thông tin, thực sự là ngọn cờ của
Đảng, tiếng nói của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị, xã hội, nghề
nghiệp, là diễn đàn tin cậy của nhân dân. Báo chí tuyên truyền, phổ biến đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, phản ánh nguyện vọng chính đáng của các
tầng lớp nhân dân, đóng góp tích cực vào nhiệm vụ phấn đấu tăng trưởng kinh tế,
nâng cao đời sống nhân dân, tạo ra bầu không khí dân chủ, cởi mở, góp phần
quan trọng giữ vững ổn định chính trị, xã hội. Đi sâu vào thực tiễn đời sống,
tính dự báo của báo chí ngày càng cao. Việc phát hiện, giới thiệu, cổ vũ các mô
hình kinh tế mới, cách làm ăn mới, nhân tố mới, người tốt, việc tốt đã góp phần
vào việc tổng kết kịp thời kinh nghiệm trong quá trình đổi mới, xây dựng
chính sách kinh tế - xã hội trong cơ chế thị thường, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Báo chí đã thể hiện rõ quan điểm bảo vệ và phát huy bản sắc, truyền
thống văn hóa dân tộc, tuyên truyền, cổ vũ toàn dân tiếp thu có chọn lọc nền
văn hóa tiên tiến của các nước trên thế giới, góp phần nâng cao dân trí, ngăn
chặn văn hóa độc hại len lỏi vào nước ta. Trong cuộc đấu tranh chống tham
nhũng, chống tiêu cực và các tệ nạn xã hội, báo chí cả nước đã dũng cảm phát
huy vai trò xung kích, thể hiện rõ chức năng giám sát của nhân dân. Có thể nói,
hầu hết các vụ tiêu cực lớn được đưa ra xét xử trong những năm qua đều đã được
báo chí lên tiếng cảnh báo trước công luận với những tin, bài điều tra sắc sảo,
công phu. Trong cuộc đấu tranh tư tưởng đang diễn ra gay gắt, báo chí đã thường
xuyên cổ vũ toàn dân đoàn kết, chống âm mưu, thủ đoạn ''diễn biến hòa bình'',
kịp thời đáp lại luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, kiên quyết đấu
tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và giá trị tinh thần
của chế độ xã hội chủ nghĩa ưu việt. Báo chí đã tổ chức, khơi dậy và biến nhiều
hoạt động xã hội - từ thiện trở thành phong trào của toàn xã hội như đền ơn đáp
nghĩa, xây dựng nhà tình nghĩa, xóa đói giảm nghèo, ủng hộ đồng bào khắc phục
hậu quả thiên tai; khuyến khích tài năng, khuyến thiện...
c) Đội ngũ các nhà báo ngày càng đông,
có bước trưởng thành về chính trị, tư tưởng và nghiệp vụ
Trong nhiệm kỳ Đại hội VI Hội Nhà báo Việt
Nam, đội ngũ báo chí Việt Nam gồm các thế hệ người làm báo như sau:
Thế hệ các nhà báo trưởng thành trong Cách
mạng Tháng Tám và trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đến nay, số đông
đã nghỉ hưu, một số ít đang còn công tác, đa số các đồng chí thuộc thế hệ lớp
trước nay vẫn viết đều, viết khỏe, có ý nghĩa quan trọng trong việc cổ vũ các
thế hệ nhà báo kế tiếp.
Thế hệ trưởng thành trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc đang giữ cương vị chủ chốt ở
các cơ quan chỉ đạo, quản lý báo chí và các tòa soạn báo. Đội ngũ này đã kế
thừa được truyền thống, đạo đức, kinh nghiệm làm báo của thế hệ các nhà
báo trong Cách mạng Tháng Tám và kháng chiến chống thực dân Pháp, hiện là lực
lượng nòng cốt chủ yếu bảo đảm cho báo chí cách mạng Việt Nam phát triển đúng hướng,
theo đường lối của Đảng và Nhà nước, luôn vững vàng trước thách thức của thời
cuộc.
Thế hệ trưởng thành sau ngày đất nước thống
nhất có những bước tiến quan trọng về nhiều mặt. Nhiều người trở thành lãnh đạo
chủ chốt ở các cơ quan báo chí, thành những cây bút sắc sảo trong đội ngũ báo
chí cả nước.
Thế hệ các nhà báo trẻ xuất hiện trong thời
kỳ đổi mới được đào tạo hệ thống, cơ bản, có khả năng nắm bắt nhanh các thiết
bị, công nghệ làm báo tiên tiến, có trình độ ngoại ngữ nên tiến bộ nhanh về
nghiệp vụ.
Trong số trên 9.000 nhà báo chuyên nghiệp,
không chuyên nghiệp và các sinh viên báo chí mới ra trường, bổ sung vào đội ngũ
báo chí, đã có 8.291 nhà báo được kết nạp vào Hội Nhà báo Việt Nam, số có từ
một đến hay bằng đại học và trên đại học chiếm 72% hội viên,
Điểm nổi bật của đội ngũ những người làm
báo Việt Nam là:
Luôn thể hiện rõ quan điểm chính trị vững
vàng, trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc và nhân dân. Làm báo trong cơ chế
thị trường nhưng không chệch định hướng xã hội chủ nghĩa; vừa tích cực phấn
đấu, phục vụ đắc lực công cuộc đổi mới đất nước, đồng thời luôn tự phấn đấu đổi
mới chính mình để phục vụ ngày càng có hiệu quả sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
Đội ngũ báo chí Việt Nam đã giữ vững bản
lĩnh chính trị và bản sắc văn hóa dân tộc, không ngừng học hỏi vươn lên, làm
chủ công nghệ làm báo tiên tiến, nâng cao trình độ chính trị trình độ chuyên
môn, ngoại ngữ, chủ động hội nhập vào báo chí khu vực và báo chí thế giới. Có
một số tờ báo đã tự trang trải được các chi phí, một số ít tờ báo có lại, từ đó
đầu tư, đổi mới thiết bị làm báo hiện đại.
2. Hạn chế và hướng khắc phục
1. Trong khi lực lượng báo chí nòng cốt chủ
yếu vẫn kiên trì thông tin có định hướng thì một bộ phận các báo, đáng chú ý là
các số chuyên san, phụ san cuối tuần, cuối tháng, đã bị tác động bởi khuynh
hướng thương mại hóa. Vấn đề này, Đại hội VI Hội Nhà báo Việt Nam đã lên tiếng
cảnh báo, nhưng trên thực tế vẫn chưa được đẩy lùi.
Biểu hiện cụ thể là coi nhẹ chức năng tuyên
truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng; né tránh đề cập hoặc chỉ đề cập hời hợt
những chủ đề, sự kiện chính trị quan trọng của đất nước. Ngay cả đối với các sự
kiện chính trị quan trọng, các hoạt động phong phú, sinh động của chính cơ
quan, đơn vị chủ quản, của phong trào cách mạng sôi nổi ở các địa phương, đơn
vị mà các nhà báo, tạp chí có trách nhiệm và nghĩa vụ làm người phát ngôn và
tuyên truyền nhưng cũng chỉ đưa dưới dạng tin tức, sự kiện với số chữ và thời
lượng rất ít trong khi đó lại khai thác và đề cập quá nhiều tin, bài không cần
thiết của các địa phương, đơn vị khác và những chuyện giật gân, câu khách của
nước ngoài, chạy theo thị hiếu tầm thường của một bộ phận bạn đọc, không thấy
hết ''trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân của nhà báo'' trong thông tin, do
đó không chú trọng trong việc lựa chọn tin tức sự việc để đưa lên mặt báo. Một
số tờ tuần báo, do muốn chiều lòng một bộ phận bạn đọc chỉ nặng về phê phán
tiêu cực, yếu kém, đưa đậm các mặt trái của xã hội, chỉ cốt bán được báo, coi
nhẹ việc biểu dương, cổ vũ nhân tố mới, người tốt, việc tốt, tạo ra không khí
nặng nề lên mặt báo và trong dư luận xã hội; khai thác quá nhiều đề tài có nội
dung giật gân, câu khách về tình dục, bạo lực, các vụ án, chuyện đời tư các
nhân vật, nghệ sĩ ở trong nước và trên thế giới... trái với thuần phong, mỹ tục
của dân tộc, thậm chí, đưa lên mặt báo những chuyện, những người không có
thực, không tính đến tác hại nghiêm trọng đối với xã hội. Một số tờ báo, trong
thông tin của mình còn chủ trương làm to những vụ việc thực tế không phải là
nghiêm trọng, làm lệch hướng dư luận xã hội. Trên một số tờ báo đã có những
tin, bài, hình ảnh có nội dung tư tưởng, quan điểm sai trái. Có không ít những
tin, bài khi cho đăng không được cân nhắc kỹ, để cho các thế lực thù địch khai
thác, lợi dụng để đả kích, nói xấu chế độ ta. Không ít báo còn quảng cáo quá
nhiều các sản phẩm hàng hóa nước ngoài, các kiểu thời trang của những người mẫu
giàu có do các cơ sở sản xuất, kinh doanh nước ngoài yêu cầu, với ngôn từ và
hình ảnh thiếu chọn lọc, xa lạ với bản sắc văn hóa và lối sống của nhân
dân ta. Có những tờ báo quảng cáo cả hàng cấm, quảng cáo quá mức quy định, đặt
lợi nhuận lên trên lợi ích xã hội.
2. Từ khuynh hướng thương mại hóa đã dẫn
đến biểu hiện xa rời tôn chỉ, mục đích của một số tờ báo, tạp chí. Trong hoạt
động báo chí còn có biểu hiện coi nhẹ chức năng tuyên truyền, giáo dục chính
trị, tư tưởng, coi trọng việc đưa tin giật gân, câu khách để đạt mục đích về số
lượng phát hành, có trường hợp làm lộ bí mật quốc gia, tính chính trị, tính văn
hóa, tính khoa học, nhất là chất lượng chính trị của một số ẩn phẩm báo chí còn
thấp; tính chiến đấu chưa cao, tính phát hiện, dự báo và hướng dẫn dư luận chưa
sắc sảo. Do không nêu cao tinh thần trách nhiệm trong quản lý, không thể hiện
rõ trách nhiệm trước xã hội và lợi ích của cộng đồng nên có báo đã đặt lợi
nhuận lên trên hết, có một số ấn phẩm báo chí bị tư nhân chi phối và thao túng,
dẫn đến việc xa rời tôn chỉ, mục đích, lệch lạc về quan điểm, tư tưởng. Ngoại
trừ phát thanh và truyền hình phủ sóng được rộng khắp cả nước, các ấn phẩm và
sản phẩm báo chí nhìn chung vẫn chỉ tập trung ở các trung tâm thành phố, thị
xã, thị trấn, chưa đến rộng rãi với nhân dân vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa,
biên giới, hải đảo. Các vấn đề trong sản xuất, đời sống của nông dân, công nhân
chưa được đề cập tương xứng và kịp thời trên mặt báo cũng như các tạp chí.
3. Bên cạnh đội ngũ đông đảo các nhà báo có
lương tâm và đạo đức trong sáng, tuyệt đối trung thành với quan điểm, đường lối
của Đảng, tận tụy với nghề nghiệp, phấn đấu vì lợi ích của Tổ quốc và nhân
dân, còn có một bộ phận, tuy không nhiều nhưng cũng không phải quá ít nhà báo
xa rời ''Quy ước đạo đức nghề nghiệp báo chí'', gây tác hại xấu đến uy tín báo
chí, làm cho xã hội phiền lòng. Vấn đề đặt ra là, tại sao nhiều thiếu sót,
nhược điểm được phát hiện từ lâu, được nhắc nhở nhiều và không ai là không nhất
trí, thế nhưng vẫn tồn tại, thậm chí có mặt còn phát triển; tại sao nhiều vấn
đề lớn tồn đọng lâu nay vẫn chưa được giải quyết? Rõ làng là, cho dù thuộc vào
loại yếu kém, bất cập nào đi nữa, cũng đều có trách nhiệm về quản lý, chỉ đạo ở
tầm vĩ mô. Hội Nhà báo Việt Nam với tư cách là tổ chức chính trị - xã hội -
nghề nghiệp tự nguyện của những người làm báo Việt Nam, là tổ chức do Đảng lập
ra để chỉ đạo báo chí bằng phương thức vận động, giáo dục quần chúng, đương
nhiên không thể thoái thác trách nhiệm của mình trước những khuyết điểm nói
trên.
4. Một số biểu hiện tiêu cực trong báo chí
cần được chú ý phối hợp chặt chẽ giữa tổ chức và cơ quan, đặc biệt là cơ quan
chủ quản báo chí để ngăn chặn và loại bỏ, cụ thể là:
- Những yếu kém về chính trị, tư tưởng,
nghiệp vụ... của một số cán bộ chỉ đạo, quản lý báo chí, của một số ít người
đứng đầu cơ quan báo chí và của cơ quan chủ quản báo chí.
- Những yếu kém thuộc về trình độ nghề
nghiệp, năng lực, nhất là thuộc về phẩm chất, đạo đức của những người làm báo
và những người trực tiếp làm công tác quản lý báo chí.
- Những thông tin thiếu khách quan, thiếu
trung thực, ca ngợi hoặc phê phán không đúng sự thật với động cơ vụ lợi cá
nhân; móc nối, liên kết để ''đánh'' người này, bảo vệ người kia, làm rối nội
bộ, làm tổn hại thanh danh một số cá nhân và cơ sở để lấy quảng cáo hoặc đòi
tiền.
- Những nhận thức, quan niệm không đúng về
vai trò, trách nhiệm và quyền lực báo chí trong đời sống xã hội, tự đặt mình
lên trên hết, tự cho mình quyền phán xét hết cả, không tôn trọng tổ chức cơ sở
và nhân dân.
- Những biểu hiện mất cảnh giác ở một bộ
phận nhà báo trong quan hệ giao tiếp, khi nhận tài trợ, quảng cáo, liên doanh,
liên kết, nhận lời đi tham quan, du lịch nước ngoài...
_________
1. Sơ thảo lịch sử 50 năm báo Nhân
dân 1951 – 2001, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 163.
2. Báo Nhân dân, ngày 1-6-1990.
3. Xem Văn kiện Đại hội lần thứ V,
Hội Nhà báo Việt Nam.
4. Xem Văn kiện Đại hội lần thứ V,
Hội Nhà báo Việt Nam.
5. Tạp chí Người làm báo, tháng
4-2004.
Chương
VI
Ngày 31/8/2011. Cập nhật lúc
16h 10'
CHƯƠNG VI
BÁO CHÍ CÁCH MẠNG
VIỆT NAM THỜI KỲ TIẾP TỤC ĐỔI MỚI, ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT
NƯỚC 2001 - 2010
I- BÁO CHÍ HOẠT ĐỘNG
TRONG ĐIỀU KIỆN TIẾP TỤC SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI, ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI
HÓA
1. Bối cảnh lịch sử
Giai đoạn 2001 - 2010 tình hình thế giới
diễn biến phức tạp, khó lường, cách mạng khoa học - công nghệ và toàn cầu hóa
diễn ra mạnh mẽ; hòa bình, hợp tác và phát triển là xu thế lớn nhưng chiến
tranh cục bộ, xung đột vũ trang, khủng bố quốc tế, bất ổn trong xã hội, tranh
chấp chủ quyền lãnh thổ giữa một số nước tiếp tục diễn biến phức tạp. Thiên
tai, dịch bệnh, khủng hoảng tài chính, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu trở
thành những vấn đề nghiêm trọng trên quy mô toàn cầu.
Trong giai đoạn này, tình hình trong nước
bên cạnh những thuận lợi cơ bản là chính trị - xã hội ổn định, sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc và tiềm lực của đất nước được tăng cường; quan hệ quốc tế
được mở rộng, vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam được nâng cao. Tuy nhiên,
đất nước cũng phải đối mặt với sự chống phá của các thế lực thù địch, phải
giành nhiều công sức cho việc đảm bảo độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ; thiên tai, dịch bệnh liên tiếp xảy ra gây thiệt hại nặng nề.
Những năm đầu thập niên, đất nước phải khắc phục những hậu quả của cuộc khủng
hoảng tài chính - tiền tệ toàn cầu tác động bất lợi về nhiều mặt làm suy giảm
tăng trưởng và làm trầm trọng thêm những yếu kém của nền kinh tế nước ta. Trong
giai đoạn này, thực hiện đường lối của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX và lần
thứ X của Đảng về nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức
mạnh đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân
đã nỗ lực phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đạt được những thành tựu
rất quan trọng trên tất cả các lĩnh vực chính trị - xã hội, văn hóa, an ninh -
quốc phòng, đối ngoại. Tiềm lực của đất nước tăng mạnh, vị thế quốc tế của Việt
Nam được tăng cao. Những thắng lợi này đang tạo điều kiện thuận lợi để
Việt Nam tiếp tục đổi mới toàn diện đồng bộ đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, phát triển nhanh mạnh
và bền vững để đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại hóa.
2. Sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí
Nói tới cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với
báo chí là nói đến cách thức mà Đảng thực hiện để lãnh đạo, tác động có chủ
đích tới các cơ quan báo chí và nhà báo. Để Đảng lãnh đạo báo chí có hiệu quả,
cùng với nội dung lãnh đạo đúng, Đảng cần có cơ chế lãnh đạo thích hợp, đặc
biệt là trong từng giai đoạn.
Cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với báo chí
được thể hiện qua các mặt cụ thể: đề ra các nghị quyết, chỉ thị đối với báo
chí; lãnh đạo tổ chức đảng, đảng viên cơ quan chủ quản và cơ quan báo chí; lãnh
đạo thông qua các cấp uỷ, ban cán sự đảng, đảng đoàn cơ quan nhà nước, tổ chức
chính trị - xã hội; lãnh đạo thông qua đoàn thể nhân dân; lãnh đạo thông qua
việc quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, quản lý cán bộ lãnh đạo cơ quan báo
chí; kiểm tra các cấp uỷ, tổ chức đảng và đảng viên thực hiện nghị quyết, chỉ
thị của Đảng.
a) Đảng lãnh đạo bằng việc đề ra các chủ
trương, nghị quyết chỉ thị đối với báo chí
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, các nghị
quyết, chỉ thị của Đảng là cơ sở để các cơ quan nhà nước thể chế hóa thành các
chủ trương, kế hoạch, chính sách, luật pháp... Các nghị quyết, chỉ thị của Đảng
về báo chí trở thành cơ sở để Nhà nước thể chế hóa, cụ thể hóa các quan điểm
của Đảng nhằm thực hiện quyền hạn và trách nhiệm quản lý nhà nước đối với báo
chí. Trong hơn 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới, cơ chế này được thực hiện
ngày càng đầy đủ và sâu sắc hơn.
Chỉ thị 63-CT/TW ngày 25-7-1990 của Ban Bí
thư (khóa VI) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác báo chí -
xuất bản. Đại hội VII của Đảng thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh 1991), khẳng định: ''Bảo
đảm quyền được thông tin, quyền tự do sáng tạo của công dân. Phát triển các
phương tiện thông tin đại chúng, thông tin đa dạng, nhiều chiều, kịp thời, chân
thực và bổ ích''. Ngày 31-3-1992, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị
08-CT/TW về Tăng cường sự lãnh đạo và quản lý nhằm nâng cao chất lượng và
hiệu quả công tác báo chí, xuất bản. Nghị quyết 09-NQ/TW ngày 18-2-1995 của
Ban Chấp hành Trung ương (khóa VII) về Một số định hướng lớn trong công tác
tư tưởng nêu yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả của báo chí; coi trọng
công tác bồi dưỡng cán bộ, nhất là cán bộ phụ trách báo chí, nắm vững và chủ
động thực hiện đúng đắn, sáng tạo các định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng;
đấu tranh có hiệu quả chống tham nhũng, tiêu cực, chống âm mưu ''diễn biến hòa
bình'' của các thế lực thù địch. Ngày 17-10-1997, Bộ Chính trị (khóa VIII) ban
hành Chỉ thị 22-CT/TW Về tiếp tục đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý
công tác báo chí, xuất bản. Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) xác định
quyết tâm hiện đại hóa hệ thống thông tin đại chúng; sắp xếp hợp lý nhằm tăng
hiệu quả thông tin; xây dựng và từng bước thực hiện chiến lược truyền thông
quốc gia phù hợp với đặc điểm nước ta và xu thế phát triển thông tin của thế
giới. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, khi đề cập đến công tác lãnh đạo báo chí
đã khẳng định một quan điểm mới, khoa học ''phát triển đi đôi với quản lý
tốt”... Sau Đại hội IX, Hội nghị Trung ương 5 (khóa IX) ra Nghị quyết về công
tác tư tưởng, lý luận, đối với báo chí, Nghị quyết khẳng định: ''Báo chí nước
ta là báo chí cách mạng, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà
nước, sự giám sát và xây dựng của nhân dân'', đồng thời yêu cầu tiếp tục đổi
mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác thông tin, cổ động. Ở nhiệm kỳ
khóa IX, tại Hội nghị lần thứ năm, Ban Chấp hành Trung ương đã ra Nghị quyết
16-NQ/TW ''Về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình
hình mới”, trong đó nhấn mạnh đến yêu cầu ''nâng cao chất lượng và hiệu quả
công tác tuyên truyền cổ động, báo chí - xuất bản, văn hóa - văn nghệ, thông
tin đối ngoại''. Bộ Chính trị, Ban Bí thư cũng ban hành một số chỉ thị, thông
báo nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với công
tác báo chí, trong đó có một số văn bản hết sức quan trọng: Thông báo kết luận
số 162-TB/TW, ngày l-12-2004 của Bộ Chính trị ''Về một số biện pháp tăng
cường quản lý báo chí trong tình hình mới”. Cuối năm 2006, Bộ Chính trị
(khóa X) ra Thông báo kết luận số 41-TB/TW (ngày 11-10-2006), nêu nhiệm vụ chủ
yếu của các cơ quan chỉ đạo, quản lý báo chí, các cơ quan chủ quản và cơ quan
báo chí. Ngày 30-3-2007, Bộ Chính trị ban hành Thông báo kết luận số 68-TB/TW
tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với báo
chí. Ngày 9-5-2007, Ban Bí thư ban hành Kế hoạch 03-KH/TW, nêu một số biện pháp
cụ thể nhằm thực hiện Thông báo kết luận 68-TB/TW. Hội nghị lần thứ năm (khóa
X), đã thảo luận và ra Nghị quyết ''Về công tác tư tưởng, lý luận,
báo chí trước yêu cầu mới”.
b) Đảng lãnh đạo báo chí thông qua đồng
thời nhiều kênh
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, sự lãnh đạo
của Đảng đối với các lĩnh vực đời sống xã hội chủ yếu được thông qua Nhà nước.
Ở lĩnh vực báo chí, đó là việc thể chế hóa, cụ thể hóa đường lối, quan điểm của
Đảng thành luật pháp, kế hoạch, chính sách về báo chí kiểm tra hoạt động của tổ
chức đảng và đảng viên trong các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí. Năm 1989,
Quốc hội thông qua Luật Báo chí, 10 năm sau, Quốc hội ban hành Luật số
12/1999-QH10 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí. Ngày 26-4-2002,
Chính phủ ban hành Nghị định số 51/2002/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật
Báo chí. Thực hiện Kế hoạch 03-KH/TW của Ban Bí thư (khóa X), với sự chủ trì
của Ban cán sự đảng Bộ Thông tin và Truyền thông, các cơ quan liên quan cùng
tham gia xây dựng các quy hoạch: Quy chế người phát ngôn và cung cấp thông tin
cho báo chí; Quy chế thu hồi ấn phẩm, đình bản tạm thời và thu hồi giấy phép
hoạt động báo chí; Quy chế cải chính trên báo chí; Quy chế khai thác và sử dụng
nguồn tin; Quy chế cấp phép hoạt động báo chí; Quy chế quản lý văn phòng đại
diện và phóng viên thường trú tại các địa phương; rà soát lại, bổ sung, chỉnh
sửa quy hoạch, kế hoạch phát triển báo chí của cả nước; đặc biệt chú ý đến việc
quy hoạch hệ thống các đài phát thanh, truyền hình từ trung ương đến địa phương
và báo chí điện tử trong điều kiện các loại hình truyền thông đa phương tiện đã
và đang phát triển mạnh mẽ; xây dựng, bổ sung và hoàn chỉnh hệ thống các chính
sách về báo chí, cụ thể là chính sách lương và phụ cấp của nhà báo, chính sách
đầu tư, chính sách thuế…
Đảng lãnh đạo báo chí thông qua các đoàn
thể nhân dân, đặc biệt là Hội Nhà báo. Hội Nhà báo Việt Nam là tổ chức chính
trị - xã hội - nghề nghiệp của những người làm báo Việt Nam, và thành viên của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, một bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị của đất
nước. Hội hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý của
Nhà nước, theo pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và điều lệ
hội.
Đảng lãnh đạo báo chí thông qua các tổ chức
đảng và đội ngũ cán bộ, đảng bên trong các cơ quan báo chí, trong các cấp Hội
Nhà báo. Đây là điều kiện để Đảng thực hiện sự lãnh đạo trực tiếp, sâu sát, kịp
thời của mình với báo chí. Coi trọng việc quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố
trí, sử dụng đội ngũ cán bộ, biên tập biên, nhất là tổng biên tập, phó tổng
biên tập, trưởng các ban chuyên môn, trưởng các chuyên trang, chuyên mục.
Đảng lãnh đạo trực tiếp các cơ quan báo chí
chủ lực của Đảng. Hệ thống báo chí của ta đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự
quản lý của Nhà nước. Bên cạnh sự lãnh đạo mang tính nguyên tắc đó, Đảng còn
lãnh đạo trực tiếp một số cơ quan báo chí của Đảng - những cơ quan báo chí quan
trọng, thể hiện rõ nhất đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước. Đó là báo Nhân dân, là Tạp chí Cộng sản, Thông
tấn xã Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam...
c) Đảng lãnh đạo thông qua công tác tổ
chức - cán bộ, qua việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo cơ quan báo
chí
Cán bộ là khâu đặc biệt quan trọng trong
bất cứ lĩnh vực nào trong đó, có lĩnh vực báo chí. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng
nhấn mạnh: Cán bộ là cái gốc của công việc... Mọi việc thành công hay thất bại
đều do cán bộ tốt hay kém mà nên. Sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí là tạo
dựng một đội ngũ cán bộ trung thành, tận tụy, vừa có đức, vừa có tài, những
người quyết định địa nghị quyết của Đảng đi vào cuộc sống, lan tỏa trong quần
chúng nhân dân. Chỉ thị 08-CT/TW ngày 31-3-1992 của Bộ Chính trị (Khóa VII) chỉ
rõ: ''Xây dựng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ báo chí, xuất bản đến năm
2000, bảo đảm đội ngũ này vững vàng về chính trị và tư tưởng, trong sạch về
phẩm chất đạo đức và tinh thông nghề nghiệp; chuẩn bị tốt đội ngũ cán bộ kế
cận… Chỉ thị 22-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) yêu cầu: Việc bổ nhiệm, đề
bạt, thay đổi tổng biên tập, phó tổng biên tập các báo, tạp chí, giám đốc, phó
giám đốc nhà xuất bản phải làm đúng quy trình và có sự thống nhất ý kiến bằng
văn bản giữa cơ quan tham mưu về tư tưởng - văn hóa của Đảng với cơ quan nhà
nước về văn hóa - thông tin. Các văn kiện quan trọng của Đảng như Thông báo kết
luận số 162-TB/TW của Bộ Chính trị (khóa X) về công tác báo chí, đặc biệt ra
Nghị quyết Trung ương 5 (khóa X) về ''Công tác tư tưởng, lý luận, báo chí
trước yêu cầu mới'' và Kết luận số 12-KL/TW ngày 24-9-2007 của Bộ Chính trị
về những công việc cần làm để triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 5
(khóa X) đều khẳng định tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ làm công tác tư tưởng nói chung, công tác báo chí nói riêng.
đ) Đảng kiểm tra nội dung chính trị tư
tưởng của báo chí; kiểm tra các tổ chức đảng và đảng viên thực hiện sự lãnh đạo
của Đảng trong các cơ quan báo chí
Với báo chí, Đảng lãnh đạo các tổ chức đảng
và cán bộ, đảng viên qua công tác kiểm tra tập trung vào các nội dung quan
trọng: kiểm tra việc thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước về báo chí; kiểm tra việc thực hiện công tác
tổ chức, cán bộ, công tác xây dựng Đảng trong các cơ quan báo chí; kiểm tra
việc thực hiện chế độ tài chính của cơ quan báo chí. Năm 2008, Bộ Chính trị,
Ban Bí thư đã có Chương trình kiểm tra số 67-KH/TW đối với tổ chức đảng trong cơ
quan báo chí việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật, chính
sách của Nhà nước trên các mặt vừa nêu. Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng
đối với báo chí được tiến hành đồng bộ với thanh tra của Nhà nước, tạo sự thống
nhất giữa lãnh đạo và quản lý, giữa định hướng chính trị và việc chấp hành các
quy định cụ thể.
Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung
ương (khóa IX), đã ra Nghị quyết 16-NQ/TW ''Về nhiệm vụ chủ yếu của công tác
tư tưởng, lý luận trong tình hình mới”, trong đó nhấn mạnh đến yêu cầu
''nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tuyên truyền cổ động, báo chí xuất
bản, văn hóa - văn nghệ, thông tin đối ngoại''. Bộ Chính trị, Ban Bí thư cũng
ban hành một số chỉ thị, thông báo nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự
quản lý của Nhà nước đối với công tác báo chí, trong đó, có một số văn bản hết
sức quan trọng: Thông báo kết luận số 162-TB/TW, ngày 1-12-2004 của Bộ Chính
trị ''Về một số biện pháp tăng cường quản lý báo chí trong tình hình mới''. Chỉ
thị 22-CT/TW và Thông báo kết luận 162-TB/TW chỉ rõ những yếu kém, khuyết điểm
của báo chí như xa rời tôn chỉ mục đích, sa vào giật gân, câu khách, chạy theo
lợi ích kinh tế thuần túy, sao nhãng biểu dương người tốt, việc tốt, nặng thông
tin mặt tiêu cực, mặt trái xã hội, làm ''nóng'' một số vấn đề kinh tế - xã hội
đất nước một cách không đáng có... Khi thực hiện nhiệm vụ thông tin, tuyên
truyền, cùng với tuân thủ quy định của pháp luật theo tiêu chí đúng sai, cơ
quan báo chí của ta còn có một tiêu chí khác không kém phần quan trọng là nên hay
không nên. Để thực hiện tiêu chí này, rất cần nhãn quan chính trị đúng đắn, sắc
sảo, sự nhạy cảm và tinh thần trách nhiệm cao của người làm báo, nhất là cán bộ
lãnh đạo cơ quan báo chí. Cũng trong năm 2005, Ban Bí thư (khóa IX) ra Chỉ thị
52-CT/TW về tăng cường quản lý báo chí điện tử - một loại hình báo chí hiện đại
mới xuất hiện ở nước ta từ năm 1997 nhưng đã có sự phát triển hết sức mạnh mẽ,
sôi động và có phần phức tạp. Việc lãnh đạo, quản lý báo chí điện tử cần một
cách nhìn mới, năng lực mới, và đương nhiên, cần có những quy định mới của Đảng
và pháp luật của Nhà nước. Chỉ thị 52-CT/TW nhấn mạnh: ''Đẩy mạnh công tác
tuyên truyền, giáo dục nhằm không ngừng nâng cao nhận thức của các cấp uỷ,
chính quyền, đoàn thể, cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là trong thanh niên,
thiếu niên về vị trí, tầm quan trọng và tính hai mặt của internet và báo điện
tử, để khai thác, sử dụng có hiệu quả mặt tích cực, đồng thời phòng ngừa, hạn
chế mặt tiêu cực. Tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với báo điện tử và các
mạng thông tin điện tử. Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các văn bản pháp luật, các
cơ chế, chính sách phát triển, quản lý báo điện tử và mạng internet''.
Sau gần ba năm lãnh đạo thực hiện Thông báo
kết luận 162-TB/TW, cuối năm 2006, Bộ Chính trị (khóa X) ra Thông báo kết luận
số 41-TB/TW (ngày 11-10-2006). Trong bản thông báo này, Bộ Chính trị đã chỉ rõ
những nhiệm vụ mà các cơ quan chỉ đạo, quản lý báo chí, các cơ quan chủ quản và
cơ quan báo chí phải thực hiện - một sự ''phân vai'' rõ ràng, khoa học. Thông
báo 41-TB/TW của Bộ Chính trị (khóa X) đặc biệt coi trọng chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của cấp uỷ, ban cán sự đảng, đảng đoàn và lãnh đạo cơ quan chủ quản
trong công tác quản lý, bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ báo chí, trực tiếp chịu
trách nhiệm về các sai phạm của cơ quan báo chí thuộc quyền. Nhấn mạnh công tác
xây dựng Đảng về nâng cao vai trò của tổ chức đảng, ý thức, trách nhiệm của cán
bộ, đảng viên trong các cơ quan báo chí; khẳng định nguyên tắc Đảng thống nhất
lãnh đạo, định hướng về chính trị, tư tưởng, về chủ trương, đường lối và chiến
lược phát triển, về công tác cán bộ. Mặt khác, đề cao việc quản lý hoạt động
báo chí theo pháp luật và chính sách của Nhà nước. Ngày 30-3-2007, Bộ Chính trị
(khóa X) ban hành Thông báo kết luận số 68-TB/TW tiếp tục tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với báo chí. Ngày 9-5-2007, Ban Bí
thư ban hành Kế hoạch 03-KH/TW, nêu một số biện pháp cụ thể nhằm thực hiện
Thông báo kết luận 68-TB/TW. Đây là một bước đi mang tính sâu sát, thể hiện
quyết tâm của Bộ Chính trị, Ban Bí thư trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác báo
chí.
Từ tinh thần chỉ đạo và kết quả thu được
qua việc thực hiện các chỉ thị, thông báo, kế hoạch đã nêu trên, tại Hội nghị
Trung ương 5 (khóa X) (từ ngày 5 đến ngày 14-7-2007) đã thảo luận và ra Nghị
quyết ''Về công tác tư tưởng, lý luận, báo chí trước yêu cầu mới''. Lần
đầu tiên, công tác báo chí, hoạt động báo chí được Trung ương đề cập một cách
toàn diện, đầy đủ, sâu sắc trong một nghị quyết hết sức quan trọng. Nghị quyết
chỉ rõ: ''Đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý của Nhà nước đối với hoạt động báo chí. Coi trọng, chăm lo công tác xây
dựng Đảng trong các cơ quan báo chí, đề cao trách nhiệm đảng viên của người làm
báo, nhất là người giữ cương vị lãnh đạo. Thường xuyên kiểm tra, giám sát các
tổ chức đảng, đảng viên ở các cơ quan báo chí, cơ quan chủ quản, cơ quan quản
lý báo chí về thi hành Điều lệ Đảng, các quy định của Đảng và Nhà nước đối với
hoạt động báo chí. Xây dựng quy chế để thuờng xuyên làm tốt việc định hướng và
cung cấp thông tin cho báo chí, nhất là đối với các vấn đề quan trọng, phức
tạp, nhạy cảm về đối nội, đối ngoại; nghiên cứu bổ sung, sửa đổi Luật Báo chí
và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan; quy định thẩm quyền, trách nhiệm,
cơ chế phối hợp giữa cơ quan chỉ đạo báo chí của Đảng, cơ quan quản lý báo chí
của Nhà nước, Hội Nhà báo và cơ quan chủ quản báo chí đối với cơ quan báo chí
và người làm báo; xây dựng chế tài đủ mạnh, xử lý dứt điểm, kịp thời,
nghiêm minh các sai phạm''.
Nhằm thể chế hóa, cụ thể hóa nghị quyết,
chỉ thị, thông báo kết luận của Đảng về lãnh đạo, quản lý công tác báo chí, Ban
cán sự đảng Chính phủ, Ban cán sự đảng Bộ Văn hóa - Thông tin, sau này là Bộ
Thông tin và Truyền thông và các ban, ngành liên quan để triển khai nhiều công
việc quan trọng. Thực hiện Đề án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo
chí (1989, 1999), xây dựng quyết định của Thủ tướng Chính phủ (Quyết định số
77-2007/QĐ-TTg ngày 28-5- 2007) ban hành quy chế phát ngôn và cung cấp thông
tin cho báo chí; Thông tư số 07-2007/TT-VHTT của Bộ Văn hóa - Thông tin hướng
dẫn cấp, đổi và thu hồi Thẻ nhà báo; Quyết định số 52-2008/QĐ-BTTTT ngày
2-12-2008 của Bộ Thông tin và Truyền thông về việc ban hành Quy chế xác định
nguồn tin trên báo chí; Thông tư số 13-2008/TT-BTTTT ngày 31-12-2008 của Bộ
Thông tin và Truyền thông hướng dẫn việc thành lập và hoạt động của cơ quan đại
diện, phóng viên thường trú trong nước của các cơ quan báo chí; Nghị định số
97-2008/NĐ-CP ngày 28-8-2008 của Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch
vụ internet và thông tin điện tử trên internet; Nghị định số 28-2009/NĐ-CP ngày
20-3-2009 quy định xử phạt hành chính trong quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ
internet và thông tin điện tử trên internet; Quy hoạch truyền dẫn, phát sóng,
phát thanh, truyền hình đến năm 2020; Thông tư số 15-2009/TT-BTTTT ngày
4-5-2009 của Bộ Thông tin và Truyền thông quy định về việc tổ chức liên hoan
phát thanh, truyền hình; Quyết định số 241-2009/QĐ-BTTTT ngày 24-2-2009 của Bộ
Thông tin và Truyền thông quy định về thi đua, khen thưởng trong lĩnh vực phát
thanh, truyền hình; Thông tư số 07-2008/TT-BTTTT ngày 18-12-2008 hướng dẫn một
số nội dung về hoạt động cung cấp thông tin trên trang điện tử cá nhân trong
Nghị định số 97-2008/NĐ-CP ngày 28-8-2008 của Chính phủ về quản lý, cung cấp,
sử dụng dịch vụ internet và thông tin điện tử trên internet; Quy hoạch hệ thống
báo in, tạp chí in đến năm 2020; Thông tư số 18-2009/TT-BTTTT, ngày 28-5-2009
quy định một số yêu cầu về quản lý hoạt động cung cấp dịch vụ truyền hình cáp
tương tự tại đầu cuối của người sử dụng dịch vụ; Thông tư số 19-2009/TT-BTTTT,
ngày 28-5-2009 quy định về việc liên kết trong hoạt động sản xuất chương trình
phát thanh, truyền hình;...
3. Tình hình hoạt động của báo chí thời
kỳ 2001 – 2010
Thời kỳ 2001 - 2010, báo chí Việt Nam tiếp
tục đổi mới mạnh mẽ, phát triển nhanh, toàn diện cả số lượng và chất lượng, cả
nội dung, hình thức, loại hình, số lượng chất lượng ấn phẩm, cả lượng phạm vi
phát hành, phủ sóng.
Tính đến đầu tháng 5-2009, cả nước có trên
710 cơ quan báo chí in, gồm 175 báo in (trung ương, các ban, bộ, ngành, đoàn
thể có 76 báo; các tỉnh, thành phố có 99 báo); trên 530 tạp chí (trung ương,
các ban, bộ, ngành, đoàn thể có 421 tạp chí; địa phương 114 tạp chí); 1 hãng
thông tấn quốc gia; 2 đài phát thanh, truyền hình quốc gia, đài truyền hình của
ngành, 63 đài phát thanh, truyền hình tỉnh, thành phố, trên 500 đài truyền
thanh, truyền hình cấp huyện, hàng nghìn trạm truyền thanh, truyền hình cấp xã;
5 tờ báo điện tử lớn, hàng chục trang báo điện tử là cánh tay nối dài của các
báo in, hàng trăm trang thông tin điện tử, hàng nghìn Website. Đài Tiếng nói
Việt Nam đã phủ sóng 97,5% diện tích lãnh thổ và phủ sóng qua vệ tinh đến nhiều
nước trên thế giới. Đài Truyền hình Việt Nam phủ sóng đến gần 90% số hộ gia
đình ở trong nước và phủ sóng qua vệ tinh đến nhiều khu vực ở ngoài nước.
Với gần 175 báo in phần lớn đều tăng trang,
kỹ thuật in hiện đại, hình thức đẹp, hấp dẫn; nhiều đơn vị báo in đã xuất bản
từ 3 đến 7 ấn phẩm và hàng chục tờ báo có in ra phát hành từ 100.000 bản -
500.000 bản/ngày.
- Báo nói với Đài Phát thanh quốc gia, 63
đài phát thanh tỉnh, thành, trên 600 đài phát thanh huyện và trên 10.000 đài
truyền thanh xã, phường với thời lượng phát sóng tăng hơn l0 lần, với nhiều
kênh, nhiều chương trình, với nhiều tiếng dân tộc và tiếng nước ngoài đã phủ
sóng cả nước và nước ngoài, đáp ứng nhu cầu thông tin ngày càng cao, càng phong
phú, đa dạng của nhân dân và thông tin đối ngoại. Khối báo truyền hình với 1
đài quốc gia, 1 đài của ngành, 63 đài tỉnh, thành, 500 đài truyền hình huyện
thị. Với công nghệ kỹ thuật số, cùng với hệ thống truyền hình cáp mở rộng chất
lượng thông tin ngày một nâng cao.
Cả nước có hơn 17.000 người làm báo chuyên
nghiệp được cấp thẻ nhà báo, hàng ngàn cán bộ, kỹ sư, nghệ sĩ, nhân viên làm
việc trong các cơ quan báo chí và hàng chục ngàn người khác là cộng tác viên,
nhân viên, lao động tham gia các công đoạn in ấn, tiếp thị, quảng cáo, phát
hành, sống chủ yếu bằng dịch vụ nghề báo. So với năm 1986 - thời điểm
đất nước ta bắt đầu tiến hành công cuộc đổi mới thì số lượng các cơ quan
báo chí, số lượng báo, đài, tạp chí và đội ngũ những người làm báo hiện nay
tăng từ 3 đến 4 lần; nếu so với năm 2001, các chỉ số này tăng 1,3 đến 1,5 lần,
Năm 1969, mạng thông tin toàn cầu (internet), một trong những phát minh lớn
nhất của loài người trong thế kỷ XX ra đời và gần 30 năm sau mới có mặt ở Việt
Nam, nhưng đến thời điểm này, số người sử dụng internet của Việt Nam gần bằng
25% số dân, một mức khá cao ở khu vực Đông Nam Á và châu Á. Sự ra đời và phát
triển vượt bậc của báo điện tử nối mạng internet cùng với khả năng tích hợp
nhiều loại hình báo chí trên một thiết bị truyền thông hiện đại tạo ra khả năng
to lớn cho việc truyền tải, thu nhận thông tin của các cơ quan báo chí, xuất bản
và công chúng của báo chí, xuất bản.
Nhìn trên tổng thể, báo chí, xuất bản nước
ta đã có bước phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ về nhiều mặt: tăng loại hình;
tăng số lượng cơ quan báo chí, xuất bản; tăng số đầu báo, tạp chí, đài phát
thanh, truyền hình, nhà xuất bản, nhà in sách báo, ấn phẩm, chương trình; tăng
chất lượng nội dung, hình thức, công nghệ in ấn, truyền tải thông tin; tăng số
lượng, phạm vi phát hành, phạm vi phủ sóng; tăng số lượng nhà báo, người làm
công tác xuất bản và đội ngũ những người làm việc trong các cơ quan báo chí,
xuất bản; tăng số lượng công chúng báo chí, xuất bản, đặc biệt là ở nước ngoài;
tăng nguồn lực tài chính, cơ sở vật chất, kỹ thuật1.
Các cơ quan báo chí đã giới thiệu với đông
đảo công chúng nhiều tác phẩm báo chí, văn học, nghệ thuật có giá trị về nội
dung tư tưởng và hình thức thể hiện ngày càng tốt hơn tôn chỉ, chức năng của
báo chí cách mạng: Tuyên truyền tập thể, hướng dẫn tổ chức tập thể, cổ vũ thực
hiện đường lối, chính sách pháp luật của Đảng, Nhà nước; thông tin nhanh chóng,
chính xác, đa dạng, phong phú, thực hiện quyền được thông tin của nhân dân và
trở thành người bạn gần gũi của nhân dân. Hệ thống truyền hình Việt Nam đã có
bước phát triển rất mạnh mẽ, trở thành một loại hình báo chí có vị trí rất quan
trọng ở Việt Nam.
Trong thời gian này có sự xuất hiện của báo
điện tử. Tuy xuất hiện muộn nhưng báo điện tử đã có bước phát triển mạnh mẽ.
Với gần 100 báo điện tử, trong đó có một số
báo điện tử lớn như Báo Điện tử Đảng Cộng sản việt Nam, Cổng thông tin điện tử
Chính phủ, Vietnamnet, Vn.Express... và hàng chục báo điện tử là các cánh tay
nối dài của các báo in, báo phát thanh, truyền hình lớn cùng hàng trăm trang
điện tử. Hàng nghìn Website đã phát huy mạnh mẽ các ưu thế của báo điện tử nên
đã sản xuất, khai thác, tổng hợp được khối lượng thông tin lớn nhất, truyền tải
nhanh nhất đến bạn đọc với nhiều hình thức hấp dẫn, do đó lượng bạn đọc báo
điện tử đã tăng lên rất nhanh chóng, chiếm tỷ lệ rất lớn, đặc biệt là bạn đọc
trẻ, trí thức, cán bộ công chức và bạn đọc quốc tế.
Nét nổi bật là trong thời gian này báo chí
phục vụ kịp thời các ngày lễ, các sự kiện lớn của đất nước và nhu cầu văn hóa
của nhân dân: các kỳ Đại hội toàn quốc của Đảng, các kỳ họp của Quốc hội, Hội
nghị APEC 14, Việt Nam gia nhập WTO, Việt Nam là Uỷ viên không thường trực của
Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc; tổng kết thành tựu 20 năm đổi mới đất nước...
Nhiều tác phẩm báo chí tiếp tục khai thác, phản ảnh đề tài chiến tranh cách
mạng, thu hút sự quan tâm của cả xã hội như Nhật ký Đặng Thùy Trâm, Mãi mãi
tuổi 20; các cuốn nhật ký chiến trường của Hoàng Thượng Lân, Nguyễn Văn
Goá, Hoàng Kim Giao...; tuyên truyền kỷ niệm Ngày thành lập Đảng, Ngày thành
lập nước, Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ,
Đại thắng mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước,
phục vụ cuộc vận động ''Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh'';
thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Các cơ quan báo chí tích cực tuyên truyền
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng,
pháp luật, chính sách của Nhà nước; phản ánh tâm tư, nguyện vọng chính đáng của
các tầng lớp nhân dân; phát hiện, cổ vũ nhân tố mới, điển hình tiên tiến, thành
quả của công cuộc đổi mới; tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, lãng phí, quan liêu, chống thông tin, quan điểm sai trái, âm mưu
''Diễn biến hòa bình'' của các thế lực phản động, thù địch; góp phần quan trọng
vào quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội, củng cố lòng tin của nhân dân đối
với sự nghiệp đổi mới; mở rộng giao lưu, hội nhập với bên ngoài. Nhiều cơ quan
báo chí xây dựng và kiên trì thực hiện những quy định mang tính nguyên tắc giữ
vững tôn chỉ, mục đích bảo đảm thông tin tích cực, lành mạnh luôn chiếm tỷ lệ
lớn; khuyến khích việc phát hiện và cổ vũ nhân tố mới, điển hình tiên tiến;
phát động và tổ chức nhiều phong trào hành động cách mạng, hoạt động xã hội,
nhân đạo, từ thiện có ý nghĩa, mang lại hiệu quả thiết thực.
Tóm lại trong 10 năm qua, báo chí Việt Nam
đã có bước đổi mới mạnh mẽ, trưởng thành, phát triển nhanh, đạt được
những thành tựu nổi bật sau:
- Phát triển đội ngũ, tăng số lượng, chất
lượng các ấn phẩm, các loại hình báo chí, báo viết, báo nói, báo hình, báo điện
tử, lượng phát hành, phủ sóng và số bạn đọc báo chí tăng cao.
- Phần lớn các cơ quan báo chí hoạt động
đúng tôn chỉ, mục đích và định hướng chính trị, tư tưởng thông tin, hoàn thành
tốt nhiệm vụ được giao.
- Công chúng báo chí có bước phát triển
mạnh về số lượng, trình độ, tham gia ngày càng tích cực vào quá trình truyền
thông.
- Tăng năng lực tài chính, đổi mới công
nghệ, máy móc, điều kiện làm việc, đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động báo chí.
- Tham gia tích cực vào hoạt động báo chí
thế giới và khu vực.
- Hội Nhà báo Việt Nam trong hai khóa VII,
VIII đã đổi mới mạnh mẽ hoạt động, tăng cường đoàn kết, tập hợp, đẩy mạnh tuyên
truyền giáo dục hội viên, nhất là giáo dục đạo đức nhà báo, tăng cường công tác
bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế và nhất là tổ chức
tốt giải báo chí quốc gia.
- Khuyết điểm, yếu kém:
Một số cơ quan báo chí thiếu nhạy bén chính
trị, chưa làm tốt chức năng tư tưởng, văn hóa, có biểu hiện xa rời sự lãnh đạo
của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, xa rời tôn chỉ, mục đích, thông tin không
trung thực, thiếu chính xác, phản ánh nhiều về tiêu cực và tệ nạn xã hội, ít
tuyên truyền các điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt, cổ vũ phong
trào thi đua yêu nước; khuynh hướng tư nhân hóa, thương mại hóa báo chí, tư
nhân núp bóng để ra báo, kinh doanh báo chí ngày càng tăng. Có một vấn đề đặt
ra cần giải quyết trong thời gian tới là: một số báo ngành, đoàn thể, địa
phương đã vượt ra khỏi phạm vi tôn chỉ, mục đích của mình để gần như trở thành
(hoặc muốn trở thành) một tờ báo chính trị - xã hội của mình (của ngành, đoàn
thể, địa phương mình); đề cập quá nhiều các vấn đề của các ngành, đoàn thể, địa
phương khác; nội dung thông tin trên báo chí thường giống nhau, bắt chước hoặc
sao chép nhau, nhất là khi có các vấn đề phức tạp, nhạy cảm, các vụ án, các vụ
việc giật gân, câu khách.
Các báo, đài chủ lực (được xác định tại
Thông báo kết luận 41-TB/TW, Thông báo kết luận 68-TB/TW của Bộ Chính trị và Kế
hoạch 03-KH/TW của Ban Bí thư) tuy thực hiện nghiêm tôn chỉ, mục đích, nhưng
lại thường bộc lộ một nhược điểm khá rõ và phổ biến là tư duy đổi mới báo chí
còn hạn chế, lúng túng; nội dung, hình thức thông tin kém phong phú, sinh động;
thiếu tính sắc bén, tính hấp dẫn; lượng phát hành không lớn, sự tác động, chi
phối thông tin đến công chúng không mạnh mẽ, do đó hiệu quả tuyên truyền không
cao.
Một số báo có xu hướng mở thêm ấn phẩm phụ
để tăng nguồn thu, tập trung nâng cao chất lượng ấn phẩm phụ (chủ yếu là về
hình thức, cách thiết kế, in ấn, quảng cáo, phát hành...) do đó thường không
quan tâm đúng mức đến việc nâng cao chất lượng nội dung, hình thức, hiệu quả
thông tin của ấn phẩm chính. Việc cấp phép cho ra nhiều các ấn phẩm phụ như
hiện nay cũng tạo nên tình trạng nhiều ấn phẩm phụ giống nhau về nội dung, đối
tượng bạn đọc, địa bàn phát hành... gây trùng lặp, lãng phí, tốn kém.
Việc xây dựng và thực hiện quy hoạch phát
triển hệ thống các đài phát thanh, truyền hình còn nhiều lúng túng, bất cập,
gây lãng phí, tốn kém. Nhiều đài truyền hình, do muốn cạnh tranh công chúng
(nhằm mục đích chính là tăng nguồn thu quảng cáo) nên mở thêm nhiều kênh, khai
thác, biên dịch và phát sóng quá nhiều ấn phẩm nước ngoài, một số phim nhạt
nhẽo về nội dung, thậm chí lệch lạc về tư tưởng chính trị; lạm dụng khai thác
chương trình truyền hình nước ngoài phát trên mạng truyền hình cáp; còn dễ dãi,
sơ hở khi thực hiện ''xã hội hóa'' sản xuất, phát sóng các chương trình truyền
hình; đưa quảng cáo quá nhiều, nhất là trên chương trình thời sự - tổng hợp gây
bức xúc cho người xem.
Mục tiêu có 50% phim Việt Nam trong chương
trình. Phim truyện của Đài Truyền hình Việt Nam và các đài truyền hình lớn sau
nhiều năm phấn đấu vẫn chưa đạt được (mới chỉ đạt 30 - 35%), phần còn lại khai
thác từ nước ngoài, chủ yếu là phim Trung Quốc và Hàn Quốc. Việc xã hội hóa,
liên kết trong sản xuất, phát sóng các chương trình truyền hình đang đặt ra
nhiều vấn đề cần nghiên cứu và cần có giải pháp thỏa đáng trong thời gian tới.
Có một thực tế đáng quan tâm là, những yếu
kém, khuyết điểm vừa nêu thường chỉ bộc lộ ở một số cơ quan báo chí nhất định,
được cơ quan chỉ đạo, quản lý báo chí của Đảng và Nhà nước đề cập, nhắc nhở,
phê bình nhiều lần, nhất là trong các cuộc giao ban báo chí hàng tuần, nhưng
chậm khắc phục. Tình trạng một số cán bộ, phóng viên các cơ quan báo chí, văn
phòng đại diện cơ quan báo chí ở các địa phương thiếu rèn luyện đạo đức, phẩm
chất, vi phạm đạo đức nghề nghiệp, thậm chí vi phạm pháp luật đang có chiều
hướng gia tăng. Vai trò của cấp uỷ, tổ chức đảng chuyên môn, công đoàn, đoàn
thanh niên, hội nhà báo trong cơ quan báo chí chưa được đặt đúng vị trí, tác dụng
hạn chế, giảm sút sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo.
Việc xử lý các sai phạm trong hoạt động báo
chí chưa được thực hiện nghiêm túc, chưa có những chế tài đủ mạnh. Một số cơ
quan chủ quản và cơ quan báo chí còn tiến hành công việc này một cách hình thức,
chiếu lệ, không kiên quyết và triệt để.
Tình trạng tư nhân núp bóng nhà nước để ra
báo, kinh doanh, dịch vụ truyền thông ngày càng tăng. Một số tờ báo, tạp chí,
phụ san, chuyên san, mạng truyền hình cáp…bị cơ quan chủ quản hay cơ quan báo
chí, xuất bản, bị tư nhân ''mua sóng”, chi phối hoặc thao túng. Thông tin không
trung thực, áp đặt vô lối, suy diễn chủ quan, viết ẩu, viết sai có xu hướng gia
tăng, kể cả những sai sót nghiêm trọng. Việc cải chính thông tin sai trên báo
chí chưa nghiêm túc, đúng luật. Số nhà báo, người làm công tác trong lĩnh vực
báo chí yếu kém đạo đức, lợi dụng nghề báo để thực hiện hành vi vụ lợi không
còn là điều cá biệt. Đã xuất hiện ''câu lạc bộ'' hoặc nhóm nhà báo kết hợp với
nhau để làm ăn, tung hô người này, ''hạ bệ'' người khác, ''đánh hội đồng'' các
doanh nghiệp, cơ quan hay cá nhân nào đó vì ác ý hoặc vì vụ lợi.
- Nguyên nhân của những yếu kém, khuyết
điểm:
Thứ nhất, phương thức, năng lực lãnh
đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước đối với báo chí chậm đổi mới, có mặt còn lúng
túng, bất cập. Chưa có những quyết sách cơ bản, lâu dài; còn có biểu hiện
vừa buông lỏng, hữu khuynh, vừa áp đặt, thiếu sức thuyết phục. Việc cung cấp
thông tin cho báo chí, thực hiện cơ chế người phát ngôn của các ngành, địa
phương, đơn vị còn nhiều yếu kém, sơ hở. Sự phân công, phối hợp giữa cơ quan
chỉ đạo, quản lý báo chí và cơ quan chủ quan chưa chặt chẽ, rõ ràng. Nhận thức
một số vấn đề cơ bản trong hoạt động báo chí chưa thống nhất. Luật Báo chí
(1989) được bổ sung, sửa đổi năm 1999 mới được ban hành chưa lâu đến nay
đã bộc lộ những bất cập, hạn chế, khó điều chỉnh các hoạt động vốn sinh động,
phức tạp của báo chí, xuất bản, nhất là với loại hình báo chí điện tử, sách
điện tử.
Thứ hai, năng lực, bản lĩnh, trách nhiệm
cho đội ngũ những người làm báo, nhất là người đứng đầu cơ quan báo chí còn bất
cập, hạn chế. Ban biên tập, tổng biên tập cơ quan báo, đài có vai trò hết
sức quan trọng trong việc tổ chức và điều hành bộ máy, nhìn nhận hiện thực đời
sống, chọn lọc, xử lý để đưa thông tin, nhất là những thông tin quan trọng,
phức tạp, nhạy cảm. Tuy vậy, việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, luân chuyển cán bộ lãnh
đạo trong cơ quan báo chí thực hiện chưa tốt, thậm chí còn bộc lộ những sơ hở,
non kém. Một số cán bộ lãnh đạo cơ quan báo chí (tổng biên tập, phó tổng biên
tập, giám đốc, phó giám đốc) sau khi được đề bạt, bổ nhiệm vẫn tỏ ra non yếu về
bản lĩnh chính trị, năng lực chuyên môn, năng lực quản lý, không hoàn thành
nhiệm vụ được giao. Công tác quản lý cán bộ, phóng viên trong cơ quan báo chí
còn nhiều yếu kém. Ở những nơi thường xảy ra sai phạm đều có nguyên nhân tổng
biên tập, ban biên tập đề cao quyền hạn mà chưa coi trọng trách nhiệm chính
trị; xa rời tôn chỉ, mục đích, đối tượng phục vụ, chạy theo lợi ích cục bộ;
không tôn trọng tổ chức đảng, đoàn thể cơ quan, sự chỉ đạo của cơ quan quản lý
báo chí và cơ quan chủ quản.
Thứ ba, công tác đào tạo, giáo dục, sử
dụng cán bộ, phóng viên, nhân viên ở một số cơ quan báo chí chưa tốt. Báo
chí là một nghề đặc thù. Người làm báo phải có những phẩm chất tương đối
cao về nhận thức chính trị, năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp. Pháp luật
ta không cho phép có báo chí tư nhân. Tuy nhiên, việc tuyển sinh vào các cơ sở
đào tạo báo chí hiện nay được tiến hành cũng giống như bất cứ ngành học nào
khác. Ngoài hệ thống chính quy, hệ tại chức, còn có cả hệ mở rộng, có cả khoa
đào tạo báo chí ở trường đại học dân lập. Cả nước có 3 cơ sở đào tạo phóng viên
báo chí ở trình độ đại học, trên đại học, nhưng chưa có cơ sở đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cơ quan báo chí. Công tác đào
tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, bố trí đội ngũ cán bộ lãnh đạo; tuyển chọn, giáo
dục, sử dụng phóng viên, nhân viên ở một số cơ quan báo chí chưa tốt2.
Việc tiếp nhận, sử dụng cán bộ, phóng viên,
nhân viên ở nhiều cơ quan báo chí chưa đảm bảo nguyên tắc, quy trình. Có nhà
báo bị kỷ luật, bị sa thải ở cơ quan báo chí này lại được cơ quan báo chí khác
tiếp nhận, sử dụng; bị báo địa phương đưa ra khỏi bộ máy vì yếu kém về đạo đức,
tư cách lại được báo các bộ, ngành, đoàn thể ở trung ương hoặc địa phương khác
tiếp nhận, được bố trí vào chỗ làm việc có thu nhập cao hơn, thậm chí vào vị
trí quản lý, lãnh đạo.
Thứ tư, công tác tổng kết thực tiễn,
nghiên cứu lý luận về báo chí không theo kịp sự phát triển của báo chí. Nhận
thức một số khái niệm, vấn đề trong hoạt động báo chí chưa thống nhất. Các
khái niệm về quyền tự do báo chí; quyền tự do ngôn luận trên báo chí; thông tin
trung thực về mọi mặt của tình hình đất nước và thế giới, việc xâm phạm lợi ích
của Nhà nước, tập thể và công dân chưa được làm rõ, đôi lúc còn mơ hồ dẫn đến
tình trạng lạm quyền, không đề cao trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân của
người làm báo.
Các vấn đề ''thương mại hóa'' hoạt động báo
chí; xây dựng các tập đoàn truyền thông; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu của tổ chức cơ sở đảng trong cơ quan báo chí; chính sách tài chính, thuế,
tiền lương, tiền thưởng, quỹ phúc lợi, quảng cáo, kinh doanh trong hoạt động
báo chí; phương pháp lãnh đạo, quản lý báo chí; kể cả việc xem xét để bổ sung,
sửa đổi Luật Báo chí và văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực này
chưa được quan tâm đúng mức, không theo kịp bước phát triển phong phú, sôi
động, có phần phức tạp của báo chí.
Mâu thuẫn giữa chức năng tư tưởng, văn hóa
với hoạt động kinh tế; giữa thông tin, tuyên truyền và thương mại của
báo chí ngày càng gia tăng, tính chất ''hàng hóa đặc biệt'' của báo chí không
phải lúc nào cũng được hiểu đúng, dẫn đến tình trạng vận dụng và thực hiện tùy
tiện...
Thứ năm, chiến lược thông tin quốc gia
công tác quy hoạch phát triển báo chí chưa theo kịp bước phát triển của ngành. Hệ
thống báo chí của ta hiện nay còn nhiều điểm bất hợp lý, cồng kềnh, trùng
lặp về nội dung, nặng về bao cấp, gây lãng phí, tốn kém...
Thứ sáu, công tác xây dựng Đảng, vai trò
của tổ chức đảng, các đoàn thể chính trị - xã hội ở một số cơ quan báo chí chưa
được coi trọng đúng mức. Một số tổng biên tập, ban biên tập báo, đài, tạp
chí chưa thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao, chưa tuân thủ nghiêm túc
sự chỉ đạo của cơ quan chủ quản và các cơ quan làm công tác quản lý báo chí.
Thứ bảy, tác động tiêu cực từ bên ngoài.
Một nguyên nhân nữa, không thể xem nhẹ là những tác động tiêu cực từ bên
ngoài, khi ngấm ngầm, lúc lộ liễu. Các thế lực cơ hội, thù địch rất quan tâm
đến việc lợi dụng báo chí và một số nhà báo không vững vàng về bản lĩnh chính
trị để xâm nhập, tác động, thực hiện âm mưu ''Diễn biến hòa bình'' trong lĩnh
vực thông tin, báo chí. Một số tổ chức nước ngoài lôi kéo, lợi dụng các nhà báo
thông qua các lớp đào tạo, bồi dưỡng, tham quan, hội thảo, nghiên cứu về báo
chí, về các vấn đề khác.
II- TƯ TƯỞNG CHỈ ĐẠO,
NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ CÔNG TÁC LÃNH ĐẠO,
QUẢN LÝ BÁO CHÍ NHỮNG
NĂM SẮP TỚI
l. Tư tưởng chỉ đạo
Trước hết, cần xác định một số quan điểm
mang tính nguyên tắc, đã được Nghị quyết Trung ương 5 (khóa X) về công tác tư
tưởng, lý luận, báo chí trước yêu cầu mới khẳng định: Báo chí nước ta đặt dưới
sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, vừa là tiếng nói của Đảng, Nhà nước,
các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp, vừa là diễn đàn của nhân dân; tích
cực tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cổ vũ toàn Đảng,
toàn dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Luôn kiên trì bản chất của nền báo
chí cách mạng, vừa nỗ lực vươn lên để theo kịp trình độ phát triển của báo chí
khu vực và thế giới: hiện đại về mô hình, tổ chức, phương thức hoạt động, không
ngừng nâng cao chất lượng chính trị, chuyên môn, kỹ thuật, công nghệ. Tiếp tục
phát triển sự nghiệp báo chí đi đôi với tăng cường lãnh đạo, quản lý công tác
báo chí đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra trong tình hình mới.
2. Nhiệm vụ, giải pháp
a) Bám sát những nhiệm vụ trọng tâm của
công tác tư tưởng nói chung, của báo chí nói riêng
Tích cực tuyên truyền, cổ vũ thành tựu công
cuộc đổi mới; phát hiện, biểu dương các nhân tố mới, điển hình tiên tiến; đấu
tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, các tiêu cực và tệ nạn xã hội; kế
thừa và phát huy các giá trị quý báu của tinh hoa văn hóa nước nhà; tiếp nhận,
phát huy tinh hoa văn hóa nhân loại; phản bác thông tin, quan điểm sai trái,
phản động, thù địch, phi văn hóa.
b) Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiện
quả công tác lãnh đạo của Đảng đối với báo chí
- Đổi mới tư duy và phong cách lãnh đạo
báo chí:
Trong điều kiện hoạt động mới, nhất là
những tác động tiêu cực của mặt trái kinh tế thị trường đối với hoạt động báo
chí, vấn đề Đảng lãnh đạo báo chí càng cần phải được thấm nhuần một cách tự
giác, sâu sắc và điều chỉnh phương cách lãnh đạo, quản lý một cách sát hợp. Nếu
không tỉnh táo, bản lĩnh, báo chí rất dễ tự phát thành những khuynh hướng, xu
hướng tiêu cực, nhất là khuynh hướng ''thương mại hóa''; ''xa rời tôn chỉ, mục
đích''... Đó là chưa kể mối đe dọa thường trực của các thế lực thù địch với
nhiều thủ đoạn thâm độc, lợi dụng sơ hở để tiến công Đảng qua báo chí, thậm chí
nắm báo chí khi có cơ hội, biến báo chí thành vũ khí tiến công Đảng, Nhà nước
và chế độ. Cùng với đổi mới tư duy về báo chí, rất cần đổi mới tư duy lãnh đạo
báo chí bao gồm cả nội dung, phương thức, phương châm lãnh đạo. Các cơ quan chỉ
đạo công tác báo chí phải chủ động trong việc định hướng chính trị, nhất là đối
với những vấn đề quan trọng, phức tạp, nhạy cảm. Về phương thức: bên cạnh nhiều
chỉ thị, quy định quan trọng đã có, Đảng cần tiếp tục xây dựng, bổ sung hệ
thống các nghị quyết, chỉ thị, quy định có tính đồng bộ, đầy đủ, kịp thời hơn,
tạo cơ sở chính trị cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo báo chí. Mặt khác, cần nhanh
chóng thể chế hóa sự lãnh đạo của Đảng bằng chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Về mặt phương tiện: Công tác lãnh đạo, chỉ đạo cần kịp thời nhưng phải đảm bảo
tính thuyết phục, tránh áp đặt, mệnh lệnh nhằm đạt tới sự tuân thủ một cách tự
giác, triệt để của các cơ quan báo chí. Cần tập trung khắc phục tình trạng cơ
quan lãnh đạo, chỉ đạo ''cầm tay chỉ việc''; hạn chế hoặc chưa quan tâm đúng
mức đến công tác dự báo tình huống để chủ động chỉ đạo, định hướng thông tin,
tuyên truyền; chậm cung cấp thông tin cho báo chí; quan niệm một cách đơn giản
về tính trung thực của báo chí; quan niệm xơ cứng về ''tôn chỉ, mục đích'';
thiếu nhất quán trong chỉ đạo, định hướng thông tin.
- Tăng cường trách nhiệm, năng lực của
cơ quan chủ quản và người đứng đầu cơ quan báo chí:
Bố trí những người có đủ phẩm chất, năng
lực, uy tín, trách nhiệm vào các vị trí quan trọng như tổng biên tập, phó tổng
biên tập (báo, tạp chí); giám đốc, phó giám đốc (các đài phát thanh, truyền
hình), cán bộ đại diện cơ quan chủ quản chỉ đạo cơ quan báo chí thuộc quyền;
cán bộ là tổng thư ký, thư ký tòa soạn, trưởng ban, trưởng phòng, trưởng chuyên
trang, chuyên mục. Đề cao quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan chủ quản, nhất là
trong công tác quản lý cán bộ, việc bổ nhiệm miễn nhiệm cán bộ lãnh đạo cơ quan
báo chí; việc xử lý cán bộ sai phạm.
- Chăm lo công tác xây dựng Đảng, nâng
cao vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng trong cơ quan báo chí:
Đề cao trách nhiệm cán bộ, đảng viên, nhất
là người giữ cương vị lãnh đạo. Thường xuyên kiểm tra, giám sát các tổ chức
đảng, đảng viên ở các cơ quan báo chí, cơ quan chủ quản, cơ quan chỉ đạo, quản
lý báo chí về thi hành Điều lệ Đảng, các quy định của Đảng trong hoạt động báo
chí, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 5 (khóa X) về công tác tư tưởng, lý
luận, báo chí trước yêu cầu mới.
- Thực hiện nghiêm túc chế độ cung cấp
thông tin cho báo chí:
Thực hiện quy chế người phát ngôn của các
bộ, ban, ngành, địa phương, đơn vị. Xác lập cơ chế cung cấp, chỉ đạo, định
hướng thông tin đầy đủ, kịp thời trước một số vấn đề quan trọng, phức tạp nhạy
cảm để tránh bị báo chí nước ngoài thông tin sai, thông tin với dụng ý ấu;
tránh các thế lực thù địch xuyên tạc, kích động dư luận.
- Tăng cường lãnh đạo, nâng cao vị trí,
vai trò, chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội Nhà báo Việt Nam theo tinh thần
Chỉ thị 37-CT/TW của Ban Bí thư là một giải pháp rất quan trọng nhằm nâng
cao vai trò 1ãnh đạo của Đảng với báo chí.
- Coi trọng công tác quy hoạch, đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác báo chí:
Hàng năm, cơ quan chủ quản và cơ quan báo
chí cần rà soát, đánh giá công tác quy hoạch cán bộ; việc đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ nguồn; chuẩn bị đội ngũ kế cận các chức danh chủ chốt; bố trí
cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín vào các vị trí quan trọng, nhất là ở
khâu nội dung.
- Đầu tư thỏa đáng cho hoạt động thông
tin đối ngoại:
Tiếp tục mở rộng sóng phát thanh, truyền
hình ra các nước, các khu vực; đưa sách, báo có nội dung tốt trong nước phục vụ
công chúng, nhất là đồng bào ta ở nước ngoài. Tăng cường giao lưu hợp tác với
các tổ chức báo chí trong khu vực và trên thế giới; coi trọng tuyên truyền, quảng
bá hình ảnh đất nước, con người, sự nghiệp đổi mới của Việt Nam đến nhiều nước
trên thế giới.
c) Nâng cao chất lượng, hiệu quả công
tác quản lý của Nhà nước đối với báo chí
- Hoàn thiện và phát huy hiệu lực hệ
thống pháp lý trong công tác quản lý nhà nước về báo chí.
- Xây dựng và thực hiện tốt quy hoạch hệ
thống báo chí.
- Hoàn thiện hệ thống đào tạo cán bộ báo
chí đại học và trên đại học, tham gia xây dựng ngành khoa học báo chí học,
đào tạo đội ngũ nhà báo và những người hoạt động trong lĩnh vực báo
chí có phẩm chất chính trị vững vàng, chuyên môn cao, đáp ứng yêu cầu
nhân lực của báo chí nước nhà.
- Tăng cường kiểm tra, giám sát, xử lý
vi phạm, khen thưởng, động viên kịp thời hoạt động báo chí. Bổ sung, hoàn
thiện quy chế hoạt động của từng cơ quan báo chí. Coi trọng quy trình
thẩm định, xử lý thông tin trước khi đưa lên trang báo, sóng phát
thanh, truyền hình; cẩn trọng, sáng suốt trước các sự kiện, vấn đề nhạy
cảm, phức tạp về đối nội, đối ngoại.
- Tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt
động của các văn phòng đại diện, phóng viên thường trú của cơ quan báo chí tới
địa phương. Ban biên tập cơ quan báo chí cần phối hợp chặt chẽ với
cấp uỷ chính quyền, nhất là ban tuyên giáo, sở thông tin và truyền thông các
địa phương nhằm động viên, giúp đỡ các văn phòng, các phóng viên thường
trú hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; xử lý kịp thời, nghiêm minh các
hành vi vi phạm pháp luật hoặc đạo đức nghề nghiệp.
- Nâng cao năng lực quản lý tài chính
của cơ quan báo chí, nhất là các vấn đề dễ xảy ra sơ suất, sai phạm như khai
thác, quản lý nguồn tiền quảng cáo, tiền tài trợ, lập dự toán và quản
lý xây dựng cơ bản, mua sắm vật tư, máy móc, văn phòng phẩm, việc
trích quỹ nhuận bút, việc chi lương, thưởng, làm thêm giờ...
__________
1. Năm 1992, cả nước có 350 cơ quan
báo chí (136 báo, 214 tạp chí). Năm 1997, có 153 báo, 337 tạp chí. Năm 2001 có
486 cơ quan báo chí (154 báo, 334 tạp chí, hơn 11.000 nhà báo được cấp Thẻ nhà
báo).
Thụy Điển có hơn 150 tờ báo định kỳ, trên
3.000 ấn phẩm, 3 hãng phát thanh và truyền hình công, 25 đài phát thanh địa
phương. 1 người dân Thuỵ Điển trung bình dành 6 giờ/ngày để tìm kiếm thông tin
bổ ích trên báo, đài.
Nước Anh có 10 tờ báo hàng ngày, 9 tờ báo
chủ nhật cấp quốc gia, l.400 tờ báo địa phương, 6.500 tạp chí; hệ thống phát
thanh, truyền hình của nhà nước mạnh, phát thanh, truyền hình thương mại yếu
hơn.
Pháp có 81 báo ngày, trong đó có 10 tờ báo
quốc gia chuyên đưa tin chính trị, tổng hợp; 10 tờ chuyên về thương mại, thể
thao, còn lại là báo địa phương và hàng nghìn tạp chí.
Malaixia có 63 báo in (41 tờ báo ngày), 32
đài phát thanh (28 đài của Chính phủ), 5 đài truyền hình (2 đài của Chính phủ),
nhiều tạp chí.
Thái Lan có 52 tờ báo ngày (50 tiếng Thái,
2 tiếng Anh). Tờ Thai Rath in l.015.000 bản/kỳ, tờ Daily News 800.000/kỳ; 496
đài phát thanh (l/2 do quân đội quản lý); 6 đài truyền hình quốc gia…
Mỹ có 770 tờ nhật báo, 610 tờ báo chủ nhật,
hàng trăm tờ báo khác; không có đài phát thanh - truyền hình quốc gia, hệ thống
đài phát thanh, truyền hình thương mại nhiều và mạnh nhất thế giới.
2. Theo số liệu điều tra gần đây ở 147 cơ
quan báo chí trong cả nước, trong số 13.475 cán bộ, phóng viên, biên tập viên,
nhân viên, có 34,48% người là đảng viên (các cơ quan báo chí của Đảng, Nhà nước
ở trung ương, địa phương đạt gần 40%; các báo ngành, đoàn thể chỉ đạt khoảng 15
– 20%).
Về chuyên môn: 73,17% có trình độ đại học,
cao đẳng; trên 3,22% sau đại học; 15,11% trung cấp; 8,2% chưa có bằng
chuyên môn. Có 28,95% trong số nêu trên đã được đào tạo chuyên ngành báo chí,
số còn lại từ chuyên ngành khác chuyển sang.
Về trình độ lý luận chính trị: sơ cấp
16,71%; trung cấp 29,84%; cao cấp 32,89%. Có 20,30% chưa được học tập, bồi
dưỡng.
Về độ tuổi: 18-30 tuổi chiếm 27,26%; 31 -
40% chiếm 32,83%; 41 - 50 chiếm 25,52%; 51 – 60 chiếm 13,70%; trên 60 tuổi
chiếm 0,66%. Như vậy, độ tuổi dưới 40 chiếm 50%.
Về đội ngũ cán bộ lãnh đạo: cấp trưởng 100%
là đảng viên; đại học, cao đẳng 68,70%; trên đại học 24,48%; trung cấp 3,40%; 5
người chưa có bằng chuyên môn. Trình độ lý luận chính trị: cao cấp 87,07%;
trung cấp 8,16%, sơ cấp 4.76%. Cấp phó: 99,18% là đảng viên; đại học, cao đẳng
82,44%; trên đại học 13,46%; trung cấp 2,85%, 58% cán bộ cấp phó có bằng chuyên
ngành báo chí; trình độ lý luận chính trị: sơ cấp 2,44%; trung cấp 14,69%; cao
cấp 82,44%.
KẾT LUẬN
I-
NHẬN ĐỊNH VÀ KẾT LUẬN
1. Báo chí cách
mạng Việt Nam ra đời trong một bối cảnh đặc biệt, đó là khi xã hội Việt Nam
phải sống trong môi trường thuộc địa. Trong bối cảnh chủ nghĩa tư bản thực dân
đang ở thời kỳ hoàng kim với việc bóc lột sức lao động, khai thác tài nguyên,
sự hình thành những cơ cấu xã hội giai cấp mới và đồng thời cũng là lúc cách
mạng giải phóng dân tộc nước ta đang chuyển giai đoạn theo hướng chủ nghĩa xã
hội, theo xu hướng cách mạng vô sản mà người đứng đầu là lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc, đồng thời lại là một nhà báo lớn, đã kinh qua những kinh nghiệm báo chí ở
châu Âu. Thanh niên, tờ báo cách mạng của tổ chức tiền thân quan trọng
nhất có xu hướng mácxít ở Việt Nam, đã xuất hiện ngày 21-6-1925 ở nước ngoài
(Quảng Châu, Trung Quốc) đã hội tụ đủ các tiêu chí một tờ báo cách mạng đầu
tiên của giai cấp vô sản và nhân dân Việt Nam. Và ngay từ đầu, tờ báo này đã
hoạt động theo phương thức mácxít về báo chí. Tờ báo không chỉ là người tuyên
truyền tập thể, cổ động tập thể mà còn là người tổ chức tập thể.
Báo Thanh niên
là dấu son cho cả một dòng báo chí mới, báo chí cách mạng của Đảng ta,
trang bị một thế giới quan và phương pháp cách mạng mới, là hơi thở, là sự phản
ánh, sự ra đời và phát triển của khuynh hướng dân tộc xã hội chủ nghĩa ở nước
ta. Thanh niên trở thành người mở đường cho nền báo chí cách mạng của
nước Việt Nam mới.
2. Báo chí cách
mạng Việt Nam bắt nguồn trước hết từ khuynh hướng yêu nước, dân chủ trong báo
chí hợp pháp, đặc biệt từ khi báo chí quốc văn ra khỏi giai đoạn phôi thai,
nặng chất công báo để dần dần trở thành một hệ thống báo chí mới đầy đủ những
đặc trưng của các cơ quan thông tin ngôn luận, như xuất bản định kỳ, lưu hành
rộng rãi, có độc giả ổn định, có đội ngũ người làm báo chuyên nghiệp. Tuy nhà
cầm quyền luôn tìm cách đối phó, ngăn ngừa, đàn áp, nhưng tiếng nói yêu cầu,
dân chủ, tiến bộ phản ánh ý chí quật cường của dân tộc ta không vì thế bị dập
tắt mà ngược lại, vẫn tiếp tục vang lên ngày càng rõ ràng hơn, dõng dạc hơn
dưới nhiều hình thức.
Cùng với tư tưởng
yêu nước, chống thực dân và bè lũ phong kiến tay sai trên báo chí công khai,
những tác phẩm báo chí, thơ văn yêu nước và cách mạng hoặc được công bố qua các
phương tiện thông tin, hoặc lưu truyền trong nhân dân qua nhiều kênh khác, đều
là những cội nguồn trực tiếp và nội tại của báo chí cách mạng Việt Nam.
Báo chí cách mạng
Việt Nam đã tiếp thét và kế thừa di sản báo chí cách mạng, dân chủ và tiến bộ
trên thế giới. Nó học tập và chịu ảnh hưởng khá sâu đậm của nền báo chí ấy,
nhưng trước sau vẫn giữ được đậm đà tính cách dân tộc của mình.
Báo chí cách mạng
Việt Nam là sản phẩm tất yếu của quá trình đấu tranh lâu dài, gian khổ của nhân
dân Việt Nam. Là đội quân đi đầu trong công tác chính trị - tư tưởng - văn hóa,
với chức năng tuyên truyền, cổ động, tổ chức nhân dân đứng lên làm cách mạng vì
độc lập, tự do, gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, báo chí Việt Nam
là con đẻ của cách mạng Việt Nam đồng thời cũng là vũ khí cách mạng vô cùng lợi
hại, góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc,
tiến lên chủ nghĩa xã hội, đổi mới, chấn hưng đất nước như ngày nay.
3. Báo chí cách
mạng Việt Nam là báo chí kiểu mới, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng chính trị tư tưởng, lấy
việc phục vụ nhân dân làm mục tiêu cao cả của mình. Lý tưởng, mục tiêu, tôn chỉ
cao nhất của báo chí cách mạng là góp phần vào sự nghiệp đấu tranh lật đổ ách
thống trị của thực dân, phong kiến, xóa bỏ các hình thức bóc lột; giành độc lập
dân tộc, mang lại tự do hạnh phúc cho nhân dân; xây dựng, bảo vệ và phát triển
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Do tính chất và
mục tiêu, tôn chỉ của nó, trải qua bao sóng gió, trước những thủ đoạn tinh vi
cũng như sự đàn áp khốc liệt của các thế lực thù địch, báo chí cách mạng Việt
Nam vẫn vượt qua được mọi tình huống hiểm nghèo để tồn tại và phát triển.
4. Báo chí cách
mạng Việt Nam ngày nay là một hệ thống các cơ quan thông tin đại chúng gồm đủ
các loại hình, phát triển từ trung ương đến cơ sở, do nhiều tổ chức, cơ quan
khác nhau làm chủ quản, được thực hiện bằng tiếng Việt, tiếng các dân tộc thiểu
số và bằng ngoại ngữ, với những chức năng, nhiệm vụ cụ thể hết sức đa dạng,
nhằm vào nhiều loại đối tượng và dùng nhiều công nghệ khác nhau, xuất bản và
lưu hành ở trong nước và ở ngoài nước.
Nó trở thành một
nền báo chí lớn, phát triển toàn diện, đang từng bước tiến lên hiện đại, rộng
khắp cả nước và vươn ra mở rộng giao lưu, hợp tác với nước ngoài. Báo chí đang
được sắp xếp lại theo quy hoạch tổng thể, phù hợp với chiến lược phát triển
kinh tế xã hội trong vài thập niên đầu của thế kỷ XXI. Cơ sở kỹ thuật và công
nghệ của báo chí ngày càng lớn mạnh, khai thác cấu trúc hạ tầng chung của đất
nước về thông tin, viễn thông, lại có một số cơ sở riêng của báo chí, nhằm
tranh thủ tiếp thu sử dụng công nghệ thông tin hiện đại nhất trên thế giới vào
tác nghiệp hằng ngày. Làm việc trong ngành báo chí hiện nay có một đội ngũ đông
đảo nhà báo chuyên nghiệp, không chuyên, nhà văn, nghệ sĩ, cán bộ quản lý, cán
bộ và công nhân kỹ thuật, những người chuyên làm công việc quảng bá, phát hành,
dịch vụ, v.v. đáp ứng nhu cầu thông tin ngày càng cao của công chúng vì sự phát
triển của đất nước, vì lợi ích lâu dài của dân tộc Việt Nam, vì sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
5. Điểm đặc sắc
mà báo chí Việt Nam đang thể hiện và không ngừng phát huy là ở vai trò diễn đàn
nhân dân của nó.
Báo chí ta thực
hiện chức năng làm diễn đàn của nhân dân không chỉ thể hiện ở chỗ thường xuyên
đăng tải nhiều ý kiến độc giả, ý kiến bạn nghe và xem đài, truy cập báo mạng.
Quan trọng hơn, thực chất hơn là báo chí phải thể hiện được ý chí, trí tuệ, tâm
tư, tình cảm, nguyện vọng đa dạng của các tầng lớp nhân dân trong nước cũng như
của người Việt Nam ở nước ngoài, góp phần xây dựng đường lối, chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nước; thu hút nhân tài cống hiến tri thức và trí tuệ
cũng như bày tỏ tâm huyết của mình vì lợi ích của Tổ quốc Việt Nam; tham gia
đấu tranh chống các âm mưu, thủ đoạn, luận điệu sai trái của các thế lực thù
địch, đẩy lùi và bài trừ các tệ nạn tham nhũng, lãng phí, ma túy, mại dâm, mê
tín, hủ tục...; đặc biệt qua diễn đàn báo chí, nhân dân thực hiện quyền giám
sát tối cao đối với mọi công việc của đất nước, thực hiện quyền làm chủ của
mình.
6. Nhiệm vụ tổng
quát của báo chí ngày nay là phục vụ mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa
xã hội, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Báo
chí cần đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu thông tin của nhân dân, góp phần nâng
cao dân trí, thúc đẩy phát triển xã hội, mở rộng giao lưu quốc tế.
Sự nghiệp phát
triển của đất nước, bối cảnh quốc tế cũng như
sự phát triển của bản thân báo chí đặt ra yêu cầu báo chí cần phát huy ưu điểm, sửa chữa thiếu sót, khuyết điểm để
tiếp tục phát triển. Nhà nước cần sớm hoàn
thiện chiến lược thông tin, hoàn thiện hệ
thống pháp lý, kiện toàn các cơ quan quản lý báo
chí, quy hoạch hệ thống cơ quan báo chí, xây dựng kế hoạch đào tạo cơ bản, lâu dài, có hệ thống đội ngũ người làm báo
có tài năng, đủ kiến thức và đức độ đáp ứng
những yêu cầu ngày càng cao của báo chí đương
đại.
Qua ba phần tư
thế kỷ làm đội quân xung kích trong công tác
tư tưởng, phục vụ tiến trình đấu tranh cách mạng của dân tộc, báo chí Việt Nam hòa nhập vào cuộc đấu tranh ấy và trở
thành một bộ phận quan trọng của cuộc đấu tranh ấy.
Trong thế kỷ XXI,
chắc chắn xã hội loài người sẽ có nhiều biến
đổi lớn, khó lường. Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã đề ra mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội vài
chục năm đầu của thế kỷ là, trong mười năm
(2001 - 2010) đưa nước ta ra khỏi tình trạng
kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại. Những năm tới, tuy khó khăn còn
nhiều, nhưng đất nước ta có cơ hội lớn để tiến
lên. Đòi hỏi bức bách của toàn dân tộc ta lúc
này là phải tranh thủ cơ hội, vượt qua thách thức, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ hơn, phát
triển với tốc độ nhanh hơn và bền vững hơn.
Cũng như mọi ngành hoạt động khác, báo chí
đang đứng trước cơ hội lớn và thách thức lớn. Trên cơ sở một nền kinh tế ngày càng phát triển, dân trí ngày
càng cao, nhu cầu văn hóa, tinh thần của nhân
dân chắc chắn sẽ có những bước phát triển mạnh
mẽ. Từ những thành tựu và kinh nghiệm thu được
qua 85 năm tồn tại và phát triển trong những điều
kiện cực kỳ đa dạng trước đây, nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức, báo chí Việt Nam chắc chắn sẽ ngày càng phát
triển nhịp nhàng và vững chắc hơn.
II-
KIẾN NGHỊ - GIẢI PHÁP
l. Những ưu
điểm và hạn chế
Nói đến lịch sử
báo chí cách mạng Việt Nam, cần quan tâm đặc biệt đến sự phát triển mạnh mẽ của
báo chí trong thờ kỳ đổi mới. Đây là thời kỳ báo chí đã phát triển nhanh chóng
cả về số lượng, chất lượng, trình độ kỹ thuật, đạt được nhiều thành tựu lớn và
cơ bản, đồng thời cũng nảy sinh nhiều yếu kém, khuyết điểm trong quá trình phát
triển. Một số thành tích, ưu điểm nổi bật là:
l. Tuyệt đối
trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta, kiên định lý tưởng
của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định và nhiệt tình ủng
hộ sự nghiệp đổi mới.
Báo chí tích cực
tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; thông tin sinh động về công cuộc
đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; phản ánh trung thực tâm tư, nguyện vọng
chính đáng của nhân dân; góp phần tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận; cổ
vũ, động viên phong trào thi đua yêu nước, phát hiện, biểu dương các nhân tố
mới, điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt; tích cực đấu tranh chống
tham nhũng, tiêu cực, lãng phí, chống ''diễn biến hòa bình''; góp phần giữ vững
ổn định chính trị, thúc đẩy công cuộc đổi mới và dân chủ hóa đời sống xã hội,
củng cố lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Thành
tích, công lao của báo chí đối với sự nghiệp đổi mới đất nước trong hơn 20 năm
qua là to lớn, có nghĩa quan trọng.
2. Báo chí đã có
đóng góp to lớn trong công tác giáo dục nhất là các hình thức giáo dục từ xa;
nâng cao dân trí; tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, bảo vệ và xây dựng nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; hình thành con người Việt Nam hiện
đại. Báo chí còn đóng vai trò ngày càng quan trọng trong việc thỏa mãn nhu cầu
thông tin, văn hóa, giải trí của nhân dân.
3. Có sự phát
triển mạnh mẽ về chất lượng, số lượng, trình độ kỹ thuật và loại hình báo chí.
Ngoài báo viết, báo nói, báo hình, báo điện tử đã khẳng định vị trí của mình và
đang phát triển nhanh chóng.
Tính đến thời
điểm tháng 7-2006, cả nước có gần 620 cơ quan báo chí, hơn 803 ấn phẩm, sản
phẩm báo chí; năm 2009 có 710 cơ quan báo chí. Trong thời gian qua, báo điện tử
ra đời và phát triển mạnh mẽ, trở thành công cụ có nhiều ưu thế trong việc tiếp
nhận, chuyển tải nhanh, sinh động, nội dung thông tin lớn phục vụ tuyên truyền
đối nội, đối ngoại có hiệu quả. Đến nay, cả nước có 88 báo điện tử và khoảng
2.000 bản tin cùng hàng ngàn trang điện tử (website) có tính chất, cách thức
hoạt động gần giống như trang báo hoặc tạp chí điện tử.
Về đội ngũ, đến
nay đã có hơn 13.000 người đã được cấp thẻ nhà báo, hàng trăm người đang trong
diện xét cấp thẻ, hàng ngàn cán bộ, nhân viên kỹ thuật, hành chính làm việc
trong các cơ quan báo chí. Ngoài ra, còn có hàng chục ngàn cộng tác viên, nhân
viên, lao động gắn bó với nghề báo hoặc sống chủ yếu dựa vào dịch vụ cho nghề
báo.
Chất lượng kỹ
thuật bao gồm chất lượng tiếp nhận và phát thông tin; chất lượng xử lý thông
tin; chất lượng in ấn, phương thức và phạm vi phát hành, phạm vi phủ sóng; dịch
vụ internet... tăng lên nhanh chóng, nhiều mặt ngang trình độ tiên tiến của thế
giới.
4 Năng lực tài
chính được tăng cường tạo điều kiện cho việc đổi mới công nghệ, cải
thiện đời sống và điều kiện làm việc cho người lao động làm nghề báo, đẩy mạnh
các hoạt động xã hội.
Sau nhiều năm tự
chủ về tài chính, phá thế ràng buộc của cơ chế bao cấp, chủ động, sáng tạo
trong xuất bản... cả nước hiện có trên 100 cơ quan báo chí tạo được nguồn thu
tài chính khá ổn định, tự cân đối được nhu cầu thu - chi, trong đó có hơn 50
đơn vị hoạt động có lãi, có nguồn thu mỗi năm lên tới hàng chục tỷ đồng, thậm
chí hàng trăm tỷ đồng. Nhờ đó, một số cơ quan báo, đài có điều kiện nâng cấp
máy móc, thiết bị, đổi mới công nghệ làm báo, đầu tư nhiều hơn cho hoạt động
nghiệp vụ, cải thiện và nâng cao đời sống cán bộ, phóng viên, nhân viên.
Các cơ quan báo
chí cũng đã có công rất lớn trong việc huy động hàng trăm tỷ đồng từ các nguồn
lực xã hội để mở rộng các hoạt động nhân đạo, từ thiện như xây dựng quỹ đền ơn
đáp nghĩa, quỹ vì người nghèo, quỹ hỗ trợ nạn nhân chất độc da cam điôxin, quỹ
khuyến khích tài năng, quỹ học bổng, góp tiền xây dựng trạm y tế, trường học,
cầu đường, công trình phúc lợi, giúp trẻ em mồ côi, tàn tật v.v..
Một số cơ quan
báo chí còn có sáng kiến tổ chức hoặc bảo trợ các sinh hoạt văn hóa, nghệ thuật
nhất là ca nhạc, lễ hội, xuất bản hoặc các giải thể thao có uy tín, góp phần
nâng cao đời sống văn hóa, cải thiện đời sống tinh thần của nhân dân.
5. Công chúng báo
chí phát triển về số lượng, trình độ được nâng cao, tham gia ngày càng tích cực
vào quá trình truyền thông.
Số lượng người
đọc báo, nghe đài, xem truyền hình, truy cập mạng internet tăng nhanh so với
trước. Riêng số người sử dụng internet chiếm 16,5% dân số, đạt mức cao của khu
vực Đông Nam Á. Nhờ những đổi thay lớn lao trong đời sống chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội của đất nước, quá trình dân chủ hóa thông tin được tăng cường.
Công chúng từ chỗ tiếp nhận thụ động chuyển dần sang chủ động, bình đẳng trong
thu nhận, trao đổi thông tin. Chức năng ''diễn đàn'' của các tầng lớp nhân dân
trên báo chí ngày càng được thể hiện rõ nét và sinh động. Số lượng đồng bào ta
ở xa Tổ quốc được trực tiếp nghe, xem chương trình của 2 đài phát thanh, truyền
hình quốc gia, đọc báo qua mạng điện tử và báo in chuyển từ trong nước tăng
mạnh.
6. Tham gia tích
cực các hoạt động báo chí thế giới và khu vực.
Báo chí nước ta
đã chủ động, tích cực hội nhập với báo chí thế giới trên cơ sở giữ vững bản sắc
dân tộc và những nguyên tắc cơ bản của nền báo chí cách mạng. Hội Nhà báo Việt
Nam là thành viên của Tổ chức quốc tế các nhà báo (OIJ), Liên đoàn Báo chí
ASEAN (CAJ). Hội và các cơ quan báo chí trong nước đẩy mạnh giao lưu, hợp tác
với các tổ chức, cơ quan báo chí của Lào, Trung Quốc, Thái Lan, Hàn Quốc, Pháp,
Thụy Điển và các nước khác trong ASEAN... Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền
hình Việt Nam mở rộng phạm vi phủ sóng phát thanh, truyền hình ra nhiều khu vực
trên thế giới, nhất là khu vực Bắc Mỹ, châu Á, châu Âu, Thông tấn xã Việt Nam,
Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, báo Nhân dân, Báo Điện
tử Đảng Cộng sản Việt Nam và một số báo, đài khác đã mở văn phòng đại diện,
cử phóng viên thường trú ở các địa bàn quan trọng, cử phóng viên đến các điểm
nóng trên thế giới, tham gia phản ánh kịp thời các sự kiện đối ngoại của nước
ta và các sự kiện chính trị, kinh tế, xã hội nổi bật của khu vực và thế giới.
Các cuộc giao
lưu, trao đổi nghiệp vụ được tăng cường. Một số dự án hợp tác về nghiệp vụ báo
chí duy trì được nhiều năm và có hiệu quả. Qua các cuộc trao đổi, học tập kinh
nghiệm và do nhu cầu phát triển nội tại, một số phương thức quản lý báo chí
mới, mô hình tập đoàn báo chí đã bắt đầu hình thành và phát triển.
7. Công tác đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ báo chí đã có nhiều cố gắng, thu được thành tích đáng kể.
Đến nay, Học viện Báo chí và Tuyên truyền đã được củng cố và hoàn thiện một
bước về tổ chức, mở rộng thêm ngành đào tạo, tăng cường cán bộ và cơ sở vật
chất, kỹ thuật. Khoa Báo chí, Đại học khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội và
thành phố Hồ Chí Minh đã hoàn chỉnh các cấp đào tạo, chất lượng đào tạo được
nâng lên.
Công tác bồi
dưỡng nghiệp vụ của Hội Nhà báo, Bộ Thông tin và Truyền thông có sự phối hợp
với các tổ chức nước ngoài và công tác tự đào tạo của nhiều cơ quan, trong đó
có nhiều cơ quan lớn như Thông tấn xã Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài
Tiếng nói Việt Nam... đã góp phần không nhỏ vào công tác đào tạo, bồi dưỡng
chung.
Trong số khoảng
l.300 cán bộ báo chí đang hành nghề hiện nay, 7l% có trình độ đại học, trong đó
95% các phóng viên, biên tập viên thẻ có từ l bằng đại học trở lên.
8. Công tác chỉ
đạo, quản lý báo chí được tăng cường một bước.
Ban Tư tưởng -
Văn hóa Trung ương (nay là Ban Tuyên giáo Trung ương), Bộ Văn hóa - Thông tin
(nay là Bộ Thông tin và Truyền thông), Hội Nhà báo Việt Nam và các đơn vị hữu
quan đã tăng cường phối hợp, đổi mới một bước nội dung, phương thức công tác,
hoàn thành tương đối tốt nhiệm vụ được giao. Trong hai năm qua, Ban, Bộ, Hội
tiếp tục tham mưu với Trung ương Đảng và Chính phủ ban hành một số văn bản lãnh
đạo quản lý báo chí. Một số cơ quan chủ quản báo chí như Bộ Quốc phòng, Bộ Công
an, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Bộ Ngoại giao,
thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh... đã có những cố gắng đáng ghi nhận
nhằm tăng cường sự lãnh đạo, quản lý các cơ quan báo chí trực thuộc.
Công tác tổ chức
nhân sự, khen thưởng, kỷ luật, thanh tra, kiểm tra có tiến bộ.
Cùng với ưu điểm
và thành tích nêu trên, hoạt động báo chí còn có những khuyết điểm, yếu kém,
trong đó có những yếu kém chậm được khắc phục. Nổi lên một số yếu kém, khuyết
điểm sau:
1. Một số nhà
báo, cơ quan báo chí còn thiếu nhạy bén chính trị, chưa làm tốt chức năng tư
tưởng, văn hóa của báo chí cách mạng, thậm chí có biểu hiện xa rời tôn chỉ, mục
đích; né tránh sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước.
Một bộ phận không
nhỏ người làm báo, kể cả một số cán bộ lãnh đạo cơ quan báo chí chưa quán triệt
đầy đủ, sâu sắc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan báo chí và của những người làm báo;
chưa thường xuyên coi trọng rèn luyện bản lĩnh chính trị, năng lực chuyên môn,
đạo đức nghề nghiệp.
Đã xuất hiện trên
một số tờ báo, tạp chí những ý kiến, bài viết vô tình hay cố ý đi chệch định
hướng chính trị; hoài nghi, phê phán thiếu căn cứ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; đòi xem xét lại một số vấn đề lịch sử đã được kết luận...
2. Sa đà vào
những thông tin tiêu cực, yếu kém, mặt trái xã hội; xem nhẹ việc phát hiện,
biểu dương nhân tố mới, điển hình tiên tiến, người tốt, việc tốt. Thông tin
thiếu trung thực, thiếu chính xác, suy diễn chủ quan, áp đặt. Giật gân, câu
khách, xâm phạm đời tư của công dân.
Một số tờ báo sa
đà khi phản ánh các vụ án, mặt tiêu cực, mặt trái và những yếu kém của xã hội,
thậm chí tiết lộ bí mật quốc gia, để các thế lực thù địch lợi dụng vu cáo, đả
kích ta. Làm ''nóng'' một cách giả tạo các vấn đề kinh tế - xã hội của đất
nước, của địa phương vì mục đích câu khách, bán được nhiều báo. Thiếu trách
nhiệm, không nắm chắc vấn đề, sự việc dẫn đến viết ẩu, viết sai, thậm chí có
những sai sót nghiêm trọng. Khi bị cơ quan chức năng phát hiện, nhắc nhở; bị tổ
chức, cá nhân phản đối, khiếu nại không tiếp thu, cải chính nghiêm túc, đúng
luật. Một số nhà báo suy thoái về đạo đức, lợi dụng nghề báo để thực hiện hành
vi vụ lợi.
3. Khuynh hướng
tư nhân hóa báo chí, tư nhân hóa kinh doanh, dịch vụ truyền thông tăng lên.
Do những yếu kém,
sơ hở trong công tác quản lý, do tác động của cơ chế thị trường, đã xuất hiện
tình trạng một số tờ báo, tạp chí, phụ san, chuyên san. mạng truyền hình cáp...
bị chi phối hoặc thao túng. Các công ty trách nhiệm hữu hạn và cổ phần đăng ký
hoạt động trong lĩnh vực truyền thông xuất hiện ngày càng nhiều. Tình hình này
càng biểu hiện rõ và phức tạp hơn trong thời gian gần đây.
4. Một số báo,
đài phát thanh, truyền hình, tạp chí chậm đổi mới, thiếu quy hoạch, chất lượng
thấp, lãng phí.
Phần lớn các báo,
đài phát thanh, truyền hình, tạp chí ở trung ương và địa phương hoạt động có
hiệu quả, bên cạnh đó như nhận định của Bộ Chính trị trong Thông báo 162 còn có
“một số tờ báo ở trung ương, địa phương, bộ, ngành thiếu năng động, chậm đổi mới,
nội dung và hình thức chưa hấp dẫn, thiếu sức thuyết phục người đọc, chất lượng
và hiệu quả tuyên truyền, giáo dục không cao''. Nhiều báo, tạp chí có lượng
phát hành thấp, sức vươn để chiếm lĩnh thị trường báo chí còn yếu; một số đài
phát thanh, truyền hình chưa đủ sức lôi cuốn người nghe, người xem, do đó, khả
năng tác động, chi phối thông tin đối với công chúng hạn chế, đời sống và điều
kiện làm việc của người lao động rất khó khăn.
Do hệ quả của
nhiều năm phát triển thiếu quy hoạch, kế hoạch, đầu tư tràn lan, hệ thống báo
chí nước ta, nhất là phát thanh truyền hình mất cân đối, gây chồng chéo, cạnh
tranh, lãng phí nghiêm trọng. Báo chí không bảo đảm tỷ lệ cân đối theo ngành và
theo lãnh thổ. Có ngành nhiều báo, tạp chí, có ngành không có báo. Thành phố
quá nhiều báo trong khi nông thôn thiếu báo. Phát thanh, truyền hình dày đặc,
nhiễu sóng lẫn nhau ở thành phố và đồng bằng nhưng lại thưa thớt, chất
lượng sóng kém ở vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo. Sự bung ra khá nhanh của
dịch vụ internet, games show, truyền hình trả tiền... mang lại những khó khăn
mới trong quản lý nội dung.
5. Công tác đào
tạo, bồi dưỡng, đào tạo lại cán bộ báo chí còn nhiều bất cập. Hệ thống đào tạo
chưa phù hợp, thiếu cân đối giữa các loại hình báo chí, vùng lãnh thổ. Chương
trình giảng dạy chưa thống nhất trong các trường. Cán bộ giảng dạy thiếu và
chất lượng chưa cao, đãi ngộ chưa hợp lý. Cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy
thiếu thốn. Chỉ tiêu đào tạo, sức ép của xã hội, bệnh thành tích trong giáo dục
và nhiều tiêu cực khác chi phối chất lượng giảng dạy.
6. Hệ thống pháp
luật, các văn bản pháp lý còn thiếu, lạc hậu, chồng chéo gây không ít khó khăn
cho công tác quản lý. Còn nhiều lúng túng, chưa hợp lý, thiếu rõ ràng trong
phân định chức năng, nhiệm vụ, phạm vi công tác giữa các cơ quan lãnh đạo quản
lý. Công tác đảng, đoàn thể quần chúng trong các cơ quan còn yếu, nhiều nơi bị
buông lỏng. Công tác cán bộ còn thiếu những cơ chế cụ thể, nhiều trường hợp
chưa nghiêm, chưa sát thực tế. Không ít cơ quan chủ quản không đủ năng lực hoặc
cục bộ, buông lỏng quản lý, hữu khuynh trong hướng dẫn, kiểm tra, giám sát hoạt
động của các cơ quan báo chí dưới quyền.
Nguyên nhân của
những yếu kém, khuyết điểm trên là do việc quán triệt, thực hiện các nghị
quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về báo chí chưa
nghiêm túc; công tác đảng trong các cơ quan báo chí chậm đổi mới, ít hiệu quả;
công tác phát hiện, đào tạo, bổ nhiệm, miễn nhiệm, sắp xếp cán bộ theo hướng
''vừa hồng vừa chuyên'' chưa được quán triệt và thực hiện thường xuyên, nghiêm
túc; cơ chế thị trường, tự do cạnh tranh và những tiêu cực trong đời sống xã
hội đã tác động đến báo chí; một số cán bộ báo chí thiếu tu dưỡng, rèn luyện,
suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; hệ thống pháp luật thiếu
đồng bộ, nhiều mặt còn lạc hậu; quy hoạch báo chí theo chiến lược thông tin còn
bị buông lỏng; công tác lãnh đạo, quản lý báo chí chưa đáp ứng được yêu cầu.
Báo chí nước ta
đang đứng trước thời cơ, vận hội mới, đồng thời phải đối mặt với những khó
khăn, thách thức không nhỏ trong quá trình phát triển, phục vụ sự nghiệp đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, mở cửa, hội nhập quốc tế, trong
tình hình các thế lực cơ hội, thù địch ráo riết triển khai chiến lược ''diễn
biến hòa bình'' trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa. Nghị quyết Đại hội X của
Đảng, khi đề cập đến nhiệm vụ công tác tư tưởng, lý luận và báo chí đã nhấn
mạnh: ''Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giảng dạy và học tập lý
luận, công tác thông tin, tuyên truyền, cổ động, báo chí, xuất bản, văn hóa
nghệ thuật, nắm bắt và định hướng dư luận xã hội; tăng cường tuyên truyền đối
ngoại, đặc biệt là những vấn đề chính trị nhạy cảm như dân tộc, tôn giáo, nhân
quyền... Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức
trong các cơ quan báo chí. Khắc phục những biểu hiện lệch lạc trong hoạt động
báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ, nhất là xa rời tôn chỉ, mục đích, chạy
theo thị hiếu thấp kém, vì lợi ích vật chất cá nhân, cục bộ''.
2. Mấy kiến
nghị cụ thể
Để đáp ứng được
nhu cầu cuộc sống và nhu cầu của thời đại, báo chí đang đứng trước thời cơ mới,
dự báo sẽ có sức mạnh phát triển mang tính đột phá cả về số lượng và chất
lượng. Trong khuôn khổ cuốn sách này xin đưa ra một số kiến nghị cụ thể như
sau:
1. Tăng cường hơn
nữa sự lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với công tác báo
chí, phát huy truyền thống báo chí, là vũ khí sắc bén của Đảng và Nhà nước ta
trong sự nghiệp giải phóng, bảo vệ độc lập dân tộc và đổi mới. Báo chí phấn đấu
vươn lên toàn diện, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động báo chí cần làm
tốt một số nội dung công tác:
- Định hướng phát
triển, định hướng thông tin; nắm chắc công tác tổ chức - cán bộ, tăng cường
kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các chủ trương, chính sách trên cơ sở Điều lệ
của Đảng và sự chỉ đạo của Trung ương. Coi trọng việc xây dựng tổ chức đảng
trong cơ quan báo chí vững mạnh về mọi mặt; đề cao vai trò đảng viên của người
làm báo, nhất là người giữ cương vị lãnh đạo; trên cơ sở đó nâng cao năng lực
lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng hoạt động theo đúng tôn chỉ, mục đích, chức năng,
nhiệm vụ của cơ quan báo chí và nhà báo.
- Nâng cao chất
lượng tư tưởng, chính trị, văn hóa, khoa học của cán bộ, đảng viên trong các cơ
quan báo chí, để thông qua họ, báo chí thực sự là tiếng nói của Đảng và Nhà
nước; các tổ chức chính trị - xã hội và là diễn đàn tin cậy của nhân dân.
- Các cấp uỷ
đảng, chính quyền, cơ quan chủ quản tăng cường lãnh đạo, quản lý hệ thống báo
chí của ngành, địa phương, đơn vị mình. Xây dựng, hoàn thiện quy chế quản lý,
quy chế phối hợp, chế độ trách nhiệm giữa cơ quan chủ quản và cơ quan báo chí
dưới quyền, nhất là trong các vấn đề nội dung, nhân sự, tài chính.
- Phối hợp thường
xuyên, chặt chẽ trên cơ sở phân công trách nhiệm rõ ràng giữa các cấp uỷ đảng
với các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí. Xây dựng và thực hiện quy chế phối
hợp giữa cơ quan báo chí trung ương, các bộ, ngành, đoàn thể ở trung ương với
ban tuyên giáo, sở văn hóa - thông tin, hội nhà báo các địa phương trong việc
quản lý, giám sát hoạt động báo chí ở ngành, địa phương và trên phạm vi cả
nước.
2. Tăng cường vai
trò quản lý nhà nước đối với báo chí:
Các cơ quan quản
lý nhà nước về báo chí bao gồm Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Thông tin và
Truyền thông) và hệ thống cấp dưới theo ngành dọc; Văn phòng Chính phủ và các
cơ quan giúp việc của Thủ tướng về báo chí; các ngành, bộ có liên quan như Bộ
Bưu chính - Viễn thông, Bộ Tài chính, Bộ Công an... cần quán triệt chủ trương
của Đảng và Nhà nước, phối hợp chặt chẽ để thực hiện:
- Rà soát, bổ
sung, hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp quy liên quan đến báo chí, xuất bản
như quản lý tần số, quản lý tài chính, an ninh mạng và các chế tài, văn bản
hướng dẫn khác về báo chí, xuất bản. Đề xuất chủ trương tiến hành sửa đổi Luật
Báo chí cho phù hợp với tình hình mới. Bổ sung một số nội dung mới của Chiến
lược thông tin quốc gia đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2020; hoàn chỉnh quy
hoạch, kế hoạch và triển khai sắp xếp, quy hoạch lại hệ thống báo chí hiện nay.
- Xây dựng, hoàn
thiện, thực hiện Quy chế người phát ngôn và chế độ cung cấp thông tin cho báo
chí; thực hiện nghiêm túc, đúng pháp luật việc thanh tra, kiểm tra, thưởng
phạt, kỷ luật, khen thưởng với nhà báo và cơ quan báo chí.
3. Hệ thống báo chí
nước ta hiện nay như chiếc áo đã chật, không có khả năng ôm lấy một cơ thể
cường tráng đang phát triển. Thực tiễn phát triển mới của báo chí cùng những
hạn chế, bất cập của nó đang báo hiệu một sự chuyển đổi tất yếu trong tương lai
gần, báo chí phải được hoạt động trong mô hình mới. Đó là từng bước xây dựng
các tập đoàn báo chí.
Trong bản hoạch
định “Mục tiêu chiến lược phát triển thông tin Việt Nam đến năm 2010'' đã
ghi rõ: ''Từng bước thực hiện xã hội hóa một số khâu và công đoạn thuộc các
lĩnh vực và hình thức thông tin, trước mắt là các khâu chế bản, in ấn, phát
hành của báo in, quảng cáo thương mại của phát thanh, truyền hình, báo in... và
sản xuất các chương trình nghe - nhìn thời sự của truyền hình; nghiên cứu xây
dựng cơ chế chính sách để cơ quan thông tin có điều kiện tự chủ về tài chính..
Nghiên cứu để sớm có chính sách cụ thể về hợp tác, liên doanh, liên kết với
nước ngoài trên lĩnh vực thông tin nhằm thu hút vốn đầu tư, kinh nghiện quản
lý, kỹ năng, kỹ xảo và công nghệ hiện đại của nước ngoài, nhất là trong khâu
quảng bá, phát hành ra nước ngoài và thông tin đối ngoại''.
Kiện toàn hệ
thống báo chí theo hướng hiện đại, hội nhập trên cơ sở phù hợp với yêu cầu
nhiệm vụ thông tin đại chúng của Đảng và Nhà nước vẫn là một đòi hỏi cấp bách.
4. Đổi mới, nâng
cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, bố trí đội ngũ cán bộ
báo chí. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy, chương trình đào tạo,
chỉ tiêu đào tạo và sử dụng cán bộ sau đào tạo. Xem xét, sắp xếp hợp lý và hiệu
quả các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng báo chí. Xây dựng tiêu chuẩn chức danh cán bộ
báo chí cho phù hợp với thực tế. Thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao phẩm chất
chính trị, trình độ nghiệp vụ, năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp cho đội
ngũ những người làm báo. Mở rộng nghiên cứu trao đổi kinh nghiệm phát triển và
quản lý báo chí với các nước trong khu vực và trên thế giới.
5. Đầu tư thỏa
đáng, tạo điều kiện thuận lợi về cơ chế, tài chính, kỹ thuật, con người nhằm
phát triển và nâng cao chất lượng hiện đại hóa thông tin, chủ động tích cực hội
nhập trên cơ sở giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản chất cách mạng của
báo chí Việt Nam .
Tăng cường trao đổi thông tin, đẩy mạnh hợp tác tiếp thu thành tựu, bài học tốt
của báo chí các nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. SÁCH TIẾNG VIỆT
l. Báo chí và
chính quyền tại Việt Nam ,
Viện Đại học Đà Lạt, 1973.
2. Bảo tàng Cách
mạng Việt Nam : Báo Việt Nam độc lập
1941 - 1945, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2000.
3. Bảo tàng Cách
mạng Việt Nam :
Báo Dân chúng 1930 – 1939 (3 tập), Nxb. Lao động, Hà Nội, 2000.
4. Bằng Giang: Mảnh
vụn văn học sử, Sài Gòn, 1974.
5. Bằng Giang: Văn
học quốc ngữ ở Nam
Kỳ 1865 - 1930, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1992.
6. Bộ Văn hóa -
Thông tin: Niên giám báo chí Việt Nam 2002 - 2003, Nxb. Thông tấn, 2003.
7. Diệp Văn Kỳ: Chế
độ báo giới Nam
Kỳ, Sài Gòn, 1938.
8. Đỗ Mười: Báo
chí văn nghệ trong sự nghiệp đổi mới, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1989.
9. Đông Tùng: Bút
chiến đấu, Hội Khổng học Việt Nam , Sài Gòn, 1957.
10. Đỗ Quang Hưng
(chủ biên): Lịch sử báo chí Việt Nam 1896 - 1945, Nxb. Đại học
Quốc gia, Hà Nội, 2000.
11. Hà Minh Đức
(chủ biên): Thời gian và nhân chứng, tập 1 (1994), tập 2 (1997), tập 3
(2001), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Hà Minh Đức
(chủ biên): Báo chí - những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Đại học
Quốc gia, Hà Nội, 1997.
13. Hồ Chí
Minh về văn hóa văn nghệ, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1989.
14. Hội Nhà báo
thành phố Hà Nội: Báo chí Hà Nội - một chặng đường lịch sử 1954 - 1993,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
15. Hội Nhà báo
Việt Nam : Chân dung các
nhà báo liệt sĩ, Hội Nhà báo Việt Nam xuất bản, 1996.
16. Hồ Hữu Tường:
41 năm làm báo, Sài Gòn, 1968.
17. Hồng Chương: 120
năm báo chí Việt Nam ,
thành phố Hồ Chí Minh, 1985.
18. Hồng Chương: Tìm
hiểu lịch sử báo chí Việt Nam ,
Nxb, Sự thật, Hà Nội, 1992.
19. Huỳnh Văn
Tòng: Lịch sử báo Việt Nam
từ khởi thuỷ đến 1930, Trí Đăng, Sài Gòn, 1973.
20. Lê Ngọc Trụ: Một
trăm năm báo chí Việt Nam ,
Sài Gòn, 1965.
21. Lê Thanh
Bình: Quản lý và phát triển báo chí - xuất bản, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2004.
22. Lê Thanh Bình:
Báo chí truyền thông và kinh tế, văn hóa - xã hội, Nxb. Văn hóa thông
tin, 2005.
23. Lưu Quý Kỳ: Báo
chí kiểu Mỹ dưới chế độ Diệm, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1961.
24. Một số văn
kiện của Đảng Lao động Việt Nam
về công tác báo chí, tập 1 (1930 - 1945), Hội Nhà báo Việt Nam , 1970.
25. Ngọc Đán: Báo
chí với sự nghiệp đổi mới, Nxb. Lao động, 1995.
26. Nguyễn Khắc
Xuyên: Mục lục, phân tích Tạp chí Nam Phong, Sài Gòn, 1968.
27. Nguyễn Khắc
Xuyên: Mục lục, phân tích Tạp chí Tri Tân, Hội Sử học xuất bản, Hà Nội,
1998.
28. Nguyễn Kỳ
Nam: Hồi ký 1925 - 1954, Sài Gòn, 1965.
29. Nguyễn Khánh
Đàm: Lịch trình tiến hóa sách báo quốc ngữ, Sài Gòn, 1942.
30. Nguyễn Vạn
An: Tự do báo chí, Sài Gòn, 1958.
31. Nguyễn Văn
Đính: Nghề làm báo, Sài Gòn, 1938.
32. Nguyễn Thành:
Báo chí cách mạng Việt Nam 1925 - 1945, Hà Nội, 1984.
33. Nguyễn Viết
Chước: Lược sử báo chí Việt Nam, Nam Sơn, Sài Gòn, 1974.
34. Nguyễn Vỹ: Văn
thi sĩ tiền chiến, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội, 1994.
35. Nhiều tác
giả: Nửa thế kỷ Đài Tiếng nói Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1995.
36. Phan Quang: Về
diện mạo báo chí Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
37. Phân viện Báo
chí và Tuyên truyền: 80 năm báo chí cách mạng Việt Nam - Những bài học lịch
sử và định hướng phát triển, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
38. Sự nghiệp
báo chí của Hồ Chủ tịch, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1988.
39. Sơ thảo
lịch sử báo Đảng bộ các tỉnh, thành phố, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2000.
40. Sơ thảo
lịch sử 50 năm báo Nhân dân 1951 – 2001, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2001.
41. Tạ Ngọc Tấn: Từ
lý luận đến thực tiễn báo chí, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1999.
42. Tô Huy Rứa: Thư
tịch báo chí Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998.
43. Tổng cục
Chính trị: Lịch sử báo Quân đội nhân dân 1950 - 2000, Nxb. Quân đội nhân
dân, 2000.
44. Thông tấn
xã Việt Nam - 50 năm một chặng đường, Nxb. Thông tấn, 1995.
45. Thiếu Sơn: Phê
bình và cảo luận, Nxb. Nam Ký, Hà Nội, 1933.
46. Trường Chinh:
Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam, Hà Nội, 1974.
47. Viện Sử học: Việt
Nam - Những sự kiện lịch sử 1945 – 1975, Nxb. Giáo dục, 2003.
48. Vũ Đình Hòe: Hồi
ký Thanh Nghị, Nxb.Văn học, Hà Nội, 1998.
49. Vũ Bằng: Bốn
mươi năm nói láo, Sài Gòn, 1968.
50. Vũ Bội Liên: Những
sự gặp gỡ Đông phương và Tây phương trong ngôn ngữ văn chương, Nxb. Văn
học, Hà Nội, 1999.
51. Đào Duy Quát:
Công tác tư tưởng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
II- SÁCH NƯỚC
NGOÀI
l. Đoàn Thị Đỗ: Le
Journalisme au Vietnam et les périodiques Vietnamiens de 1865 à 1944, Paris,
1958.
2. Henry Litolff:
Le régime de la Presse en Indochine, Hà Nội, 1939.
3. Charles Ledré:
Histoire de la Presse, Paris, 1958.
4. M.M Durand
Nguyễn Trần Huân: Introduction à la littérature Vietnamienne, Paris,
1969.
5. A Masson: Notes
bibliographiques sur les débults de la Presse en l’Indochine, Hà Nội, 1927.
6. G.J Kasza: The
State and the MASS MEDIA in Japan 1918 - 1945, University of California
Press, 1988.
7. Qua Công Chấn:
Lịch sử báo chí Trung Quốc (tiếng Trung Quốc), Thượng Hải, 1967, Bản
dịch khoa học lịch sử, Đại học Tổng hợp, Hà Nội.
III- CÁC BÀI BÁO
1. Ái Lan: Làng
báo miền Nam 40 năm trước, Tạp chí Bách khoa, Sài Gòn, 1961.
2. Khuông Việt: Lịch
trình báo chí Việt Nam, Tạp chí Tri Tân, số 56 (28-7-1942).
3. Hoa Bằng: Từ
lối in mộc bản xa đến kỹ thuật in hoạt bản bây giờ, Tạp chí Tri Tân, số
44 (3-6-1942).
4. Nghề làm
báo (Hồng Nhân biên dịch), Tạp chí Nam Phong, số 48 (6-1932).
5. Lược khảo về nghề làm báo, Đại
Nam Đồng Văn Nhật báo, số 213 (24-11-1895).
6. Hoa Bằng: Thủ
tục làm thành tờ báo ở xứ ta, Tạp chí Tri Tân, số 332 (6-1942).
7. Liste des
périodiques disparus eu 1939, xem trong Journal officiel de l'Indochine
francaise, 13 avril 1940.
Vui lòng cung cấp thông tin tác giả tài liệu này.Vì cần trích dẫn. Xin cảm ơn. Mail: nguyendangvu261@gmail.com
Trả lờiXóaVui lòng cung cấp thông tin tác giả tài liệu này.Vì cần trích dẫn. Xin cảm ơn. Mail: nguyendangvu261@gmail.com
Trả lờiXóa