Thứ Năm, 7 tháng 11, 2013

Hé lộ bí mật về cái chết của Lý Tiểu Long

Hé lộ bí mật về cái chết của Lý Tiểu Long

(Văn hóa) - Những giả thiết được đưa ra về cái chết của “vua kungfu” Lý Tiểu Long được hé lộ bằng những chứng cứ đanh thép.
Ngày 20/7/1973, bậc thầy võ thuật đối kháng huyền thoại, ngôi sao Hollywood Lý Tiểu Long qua đời. Báo chí phong tặng ông là người Trung Quốc nổi tiếng nhất hành tinh. Chỉ trong vài năm, ông đã làm chấn động mọi nền tảng của Hollywood và tạo nên một thể loại phim điện ảnh hoàn toàn mới. Những bộ phim với sự tham gia của ông hoàn toàn không giống với những gì có trước đó. Thế nhưng, ông đột ngột qua đời khi đang ở trên đỉnh vinh quang. Đã hơn 30 năm trôi qua nhưng câu chuyện về huyền thoại này vẫn còn nóng hổi.
Báo chí trung ương Hong Kong luôn dành những vị trí quan trọng để đăng tải về cái chết Lý Tiểu Long
Lý Tiểu Long qua đời, tin tức này lan đi trên các báo trung ương của Hong Kong ngày 21/7/1973. Nhiều độc giả cho rằng, đó chỉ là cách nói đùa của các nhà báo, là cách truyền thông đề cập đến các bộ phim mới của ông. Sau đó sự ngạc nhiên ban đầu chuyển thành sự đau đớn và tiếc thương khi tin về đám tang của ngôi sao này được phát đi trên truyền hình.
Những tờ tin về việc bậc thầy kungfu, diễn viên, nhà sản xuất phim Hollywood Lý Tiểu Long qua đời ở tuổi 32 nhanh chóng được bán hết. Sang ngày hôm sau, cái chết bí ẩn của ông lập tức trở thành điểm nóng gây tò mò, tranh cãi. Người ta không tin rằng Lý Tiểu Long chết vì chứng phù não như kết luận pháp y.
Ông vua tuyệt kỹ kungfu qua đời khiến nhiều người bàng hoàng
Những diễn biến tiếp theo của sự kiện chỉ khẳng định sự hoài nghi của dư luận. Trình tự mọi việc như sau: Buổi chiều ngày 20/7/1973, Lý Tiểu Long cảm thấy đau đầu. Như bất kỳ ai trong tình huống này, ông uống hết một liều thuốc giảm đau và nằm xuống giường nghỉ ngơi. Tuy nhiên, thay vì chìm vào giấc ngủ, ông lại rơi vào trạng thái hôn mê, khó thở và mạch yếu. Lý Tiểu Long được đưa đến bệnh viện Queen’s Elizabeth nằm khá xa quận Kowloon Tong (Cửu Long) nơi ông sinh sống. Tại đó các bác sĩ làm mọi biện pháp để cứu chữa cho bệnh nhân nổi tiếng.
Sang ngày hôm sau, không ai trong số những người ở cạnh thi hài Lý Tiểu Long có thể trả lời một cách rành rọt cho câu hỏi: “Tại sao Lý Tiểu Long lại được đưa tới bệnh viện này chứ không phải bệnh viện lân cận?”.
Không ai quanh thi hài Lý Tiểu Long có thể trả lời vì sao ông lại được đưa tới bệnh viện Elizabeth.
Nơi đây chỉ gần như một nhà thương. Tình trạng ông ngày một xấu đi, nhưng các bác sĩ cố gắng để cứu ngôi sao kungfu sống lại. Suốt mấy tiếng người ta cố gắng hết sức giúp ông thoát khỏi tình trạng hôn mê, cho thở oxi, mát xa tim. Đến 23h23, các phóng viên túc trực tại cửa bệnh viện được thông báo, Lý Tiểu Long đã qua đời. Giả thuyết về cái chết của vua tuyệt kỹ kungfu là chứng phù não cấp tính do dị ứng với thuốc giảm đau.
Tại Hong Kong, các bác sĩ kết luận ông bị phù não, nhưng không ai muốn tin điều đó. Nghi vấn phát sinh từ chữ “có thể” cũng như từ việc các bác sĩ không thể xác minh nguyên nhân dẫn đến chứng phù não. Một yếu tố nữa là việc khám nghiệm tử thi chỉ được thực hiện 36 tiếng sau khi Lý Tiểu Long qua đời. Biên bản pháp y sau đó bị mất. Khi tin đồn Lý Tiểu Long bị ám sát bắt đầu rộ lên, báo chí, phát thanh truyền hình đồng loạt đưa ra những giả thuyết có thể xảy ra. Song cho đến nay, không giả thuyết nào bị bác bỏ, vì thế chúng đều có quyền tồn tại.
Hình ảnh đám tang của Lý Tiểu Long ở Hong Kong.
Lãnh đạo câu lạc bộ võ thuật Kondzio, ông Viacheslav Bolonov, nói thêm về cái chết bí ẩn của Lý Tiểu Long cho biết: “Cái chết của bất kỳ người nổi tiếng nào, luôn luôn gắn với những câu chuyện, luôn là huyền thoại. Là điều đáng quan tâm đến bất kỳ bậc thầy môn võ đối kháng nào, không chỉ đối với bậc thầy võ lâm Trung Hoa là không đơn giản họ qua đời khi đang nghỉ ngơi trên giường, hoàn toàn bình thản”. Ông Bolonov hoài nghi về cái chết đột ngột của Lý khi cho rằng, những người tập luyện võ phương Đông thường rất ít khi bị bệnh tật.
25.000 người Hong Kong xuất hiện tại đám tang Lý Tiểu Long
Còn Venhiamin Dzitlovskij, thạc sĩ y học, PGS Đại học Y quốc gia Nga chia sẻ thêm: “Trước khi anh qua đời đã xảy ra một vài trường hợp tương tự, anh đã bị chấn động. Các bác sĩ chẩn đoán, anh có thể bị chứng phù não, ó là dấu hiệu của bệnh động kinh, vì vậy, họ đã kê cho anh thuốc chống động kinh”. Ý kiến của đạo diễn dàn dựng kỹ xảo Aleksandr Malusev lại cho hay: “Sự kết hợp giữa căng thẳng tâm lý và thể chất, đồng thời không có sự bố trí tổng thể cho toàn bộ quá trình làm việc đã dẫn đến sự việc. Ngoài ra theo báo chí, anh không tuân theo chế độ tập luyện thể thao, vẫn sử dụng ma túy trong một vài lần tập luyện.
Búa rìu dư luận nghiêng sang giả thuyết Đinh Bội chính là người ám sát Lý Tiểu Long
Đối với anh, mọi việc đã kết thúc quá nhanh”. Kết luận ban đầu về cái chết của Lý Tiểu Long do chứng phù não hoàn toàn hợp lý, bởi các sự việc xảy ra hôm 20/7 rất giống với những gì xảy ra trước đó 2 tháng. Ngày 10/5/1973, Lý Tiểu Long vẫn hoàn toàn khỏe mạnh, bỗng nhiên cảm thấy bất ổn trong quá trình lồng tiếng cho bộ phim Long tranh hổ đấu. Ông bị ngất đi và nửa tiếng sau mới hồi tỉnh. Các bác sĩ cho Lý Tiểu Long biết ông có thể mắc triệu chứng của bệnh động kinh. Vì vậy, những cơn đau tương tự có thể xảy ra do chấn động tâm lý. Rượu và căng thẳng thần kinh, đặc biệt đối với những người bị chấn động thần kinh như Lý Tiểu Long sẽ khiến gia tăng căn bệnh.
Không một ai muốn tin, ông vua tuyệt kỹ kungfu lại chết trên giường của một cô gái chưa chồng.
Trong khi nghề nghiệp của ông không giống với bất kỳ những nghề thông thường nào, do đó đã gây ra các chấn động như vậy. Bác sĩ đã kê thuốc động kinh cho ông kèm lời, khuyên nên giảm bớt cường độ vận động, nghỉ ngơi nhiều hơn và tránh nổi cáu. Nhưng với Lý Tiểu Long, những khuyên này không thể thực hiện được do nghề nghiệp và tình yêu với võ thuật.
Trong thời gian này, tờ Star của Hong Kong đăng tải một tin giật gân: Lý Tiểu Long được xe cứu thương chở đến bệnh viện không phải từ nhà riêng của ông mà từ nhà một người phụ nữ tên là Đinh Bội. Những người hành xóm của nữ nghệ sĩ trẻ đã thông tin cho báo chí tin này. Khi được phỏng vấn, Đinh Bội cho biết, đã vài tháng bà không gặp Lý Tiểu Long. Hơn nữa, ngày 20/7 bà hầu như không ở nhà.
Bạn bè, đồng nghiệp và anh trai của Lý Tiểu Long là Lý Trung Sâm phủ nhận địa điểm ông qua đời là nhà Đinh Bội. Điều này không có gì ngạc nhiên, bởi tất cả họ đều muốn che giấu về nơi huyền thoại võ thuật Lý Tiểu Long qua đời. Sẽ thật khó tin khi một ngôi sao thần tượng của hàng triệu khán giả, một người cha mẫu mực, một người chồng chung thủy lại qua đời trên giường của một phụ nữ khác. Tuy nhiên, hàng xóm và các nhân viên cấp cứu đã khẳng định, địa chỉ họ cấp cứu cho Lý Tiểu Long chính là ở ngôi nhà số 67 đường Beacon Hill Road, nơi ở nữ diễn viên Đinh Bội. Hình ảnh của siêu sao Lý Tiểu Long đã được định hình trên màn ảnh dần dần biến mất.
Giám đốc công ty Gia Hòa là Trâu Văn Hoài trả lời báo chí, phủ nhận Lý Tiểu Long chết tại nhà Đinh Bội.
Số lượng các ấn phẩm, chương trình truyền hình điều tra cái chết của Lý Tiểu Long vượt qua mọi số lượng người ta có thể hình dung. Các phóng viên phải làm sao cho những giả thuyết về cái chết của Lý Tiểu Long trở nên hoang đường hơn. Chỉ có vậy mới đủ sức cạnh tranh với các tờ báo và kênh truyền hình khác. Vài năm sau khi Lý Tiểu Long qua đời, cuốn sách Huyền thoại Lý Tiểu Long được xuất bản tại Mỹ, khẳng định rằng những năm cuối đời, lối sống của ngôi sao Hollywood đã không còn “thuần phác”.
Ông đã bị đầu độc bởi một loại chất độc bí mật. Không một chứng cứ nào trong cuốn sách được chứng minh. Tác giả lập luận cho những tìm kiếm của mình, bởi khi xét nghiệm máu không phát hiện ra những loại chất độc thông thường. Do đó, tác giả đưa ra kết luận duy nhất. Điều đó có nghĩa, chất độc là một loại bất thường, thậm chí không xem xét đến trường hợp, không có chất độc nào là nguyên nhân dẫn đến cái chết của huyền thoại.
(Khám Phá)

Đề xuất chính sách đào tạo đội ngũ hoạt động trên lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật Khmer, trong đó có loại hình nghệ thuật sân khấu Dù Kê

Đề xuất chính sách đào tạo đội ngũ hoạt động trên lĩnh vực văn  hóa, nghệ thuật Khmer, trong đó có loại hình nghệ thuật sân khấu Dù Kê
Lý Sóc Kha - Phó trưởng ban dân tộc tỉnh Sóc Trăng, phát biểu tham luận tại Hội thảo: “NGHỆ THUẬT SÂN KHẤU DÙ KÊ KHMER NAM BỘ, DI SẢN VĂN HÓA DÂN TỘC”
Đồng bào Khmer Nam Bộ có một kho tàng nghệ thuật dân tộc được lưu truyền từ xưa đến nay rất độc đáo, phong phú và đa dạng. Với nhiều loại hình khác nhau như: Nghệ thuật ca, múa, nhạc, nghệ thuật tạo hình… Đặc biệt là đã sáng tạo ra 2 loại hình sân khấu mang bản sắc riêng của người Khmer Nam Bộ mà người Khmer ở Campuchia không có; đó là nghệ thuật sân khấu Rô Băm và Dù Kê. Đó là di sản vô giá do các thế hệ tiền nhân sáng tạo được lưu truyền cho hậu thế đến hôm nay.
Nhờ có ngọn đuốc bởi đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng Cộng sản Việt Nam nền văn hóa, văn nghệ của người Khmer Nam Bộ trong đó có nghệ thuật sân khấu Dù Kê luôn được giữ gìn và phát triển từng bước, ngay trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ; sau 30/4/1975 loại hình nghệ thuật sân khấu này luôn được các nhà nghiên cứu văn hóa dân tộc quan tâm và đã có nhiều công trình nghiên cứu, hội thảo khoa học nhằm bảo tồn và phát huy bản sắc độc đáo của loại hình nghệ thuật sân khấu nói chung, sân khấu Dù Kê nói riêng.
Hôm nay, được tham dự buổi Hội thảo này, dưới gốc độ người lãnh đạo, quản lý nhà nước trên lĩnh vực công tác dân tộc ở tỉnh, một tỉnh được xem là loại hình sân khấu Dù kê ra đời sớm khoảng năm 1921*. Trong buổi Hội thảo này tôi xin tham gia phát biểu xung quanh chuyên đề mà Ban tổ chức đã gợi ý.
Kính thưa quý đại biểu!
Hiện nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước chúng ta đang xây dựng “Nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”. Đường lối văn hóa, văn nghệ Đảng và Nhà nước đã làm chuyển biến về nhận thức và hành động, nên chúng ta đã đạt được kết quả bước đầu đáng khả quan tạo tiền đề cho những bước đi tiếp theo thuận lợi hơn. Nhưng hiện nay đang có nhiều vấn đề đặt ra đòi hỏi chúng ta phải tiếp cận, tìm hiểu để có những giải pháp cụ thể, nhằm bảo tồn và phát huy di sản văn hóa của người Khmer Nam Bộ chúng ta.
Trong xu hướng giao lưu quốc tế ngày càng mở rộng, trong cộng sinh văn hóa nhân loại làm thế nào không để đánh mất giá trị nhân bản văn hóa truyền thống của mình?. Đó là điều cần quan tâm nhất; song những vấn đề như sưu tầm các tài liệu, vỡ diễn; về nguồn gốc lịch sử phát triển; về những yếu tố truyền thống và hiện đại; về những sự giao thoa tiếp biến; về những giải pháp bảo tồn và phát triển nghệ thuật sân khấu Dù Kê di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc Việt Nam. Tôi nhận thức rằng việc đưa ra chính sách cụ thể đào tạo nguồn nhân lực hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật nói chung và chính sách quan tâm đến nhân lực tham gia hoạt động trong loại hình nghệ thuật Dù Kê Khmer Nam Bộ cũng không kém phần quan trọng.
Như thực trạng ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay, ngoài đoàn nghệ thuật Khmer của tỉnh hoạt động chuyên nghiệp, số Đoàn Dù Kê tư nhân còn lại như Đoàn: Ánh Bình Minh (xã Tham Đôn); Ron Ron (xã Phú Tân), Đờ Đập (xã Viên An), với phương thức biễu diễn bán vé doanh thu, hoạt động dưới dạng hợp tan; nội dung, hình thức biễu diễn chưa đi vào bài bản, nề nếp, chất lượng nghệ thuật và phục vụ nhiệm vụ chính trị chưa cao; do nhiều nguyên nhân như: chưa được thông qua trường lớp đào tạo, nhất là diễn viên khi diễn chủ yếu là nhớ tuồng, nhưng lời ca tiếng hát vẫn còn theo kiểu ngẫu hứng, hát cương, thậm chí không có kịch bản.
Bởi vì, xưa nay các Đoàn Dù Kê nghiệp dư chủ yếu truyền dạy theo kiểu cha truyền con nối, lớp trẻ có năng khiếu học theo lớp người đi trước từ cách diễn xuất đến bài hát… với cách làm ấy các thế hệ kế tiếp đã giữ gìn và phát huy được truyền thống di sản của dân tộc mình.
Nghệ sĩ ưu tú, nhạc sĩ Sơn Lương Phó Chủ tịch Hội Văn hóa Nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam nhận xét “Sân khấu Dù Kê Khmer Nam Bộ ra đời vào khoảng 1920 – 1921, khi mới ra đời sân khấu Dù Kê đã sớm có ảnh hưởng và chiếm được vị thế trong lòng công chúng người dân tộc”. Xem Dù Kê người ta cảm nhận: các nghệ nhân Dù Kê Khmer hầu hết đều có năng khiếu nghệ thuật bẩm sinh chẳng khác nào là người có học thức sâu rộng. Trên thực tế trình độ văn hóa dân tộc của các nghệ nhân Dù Kê còn rất hạn chế, thậm chí có người hoàn toàn không biết chữ, vậy mà khi diễn cương (không kịch bản) họ đã thể hiện ứng xử, đối đáp trên sân khấu, thông minh, bao giờ cũng mang đậm chất văn thơ, làm cho khán giả cứ nghĩ rằng: người nào cũng rất giỏi về ngôn ngữ văn học Khmer sự tài tình ấy, chẳng những làm cho khán giả thán phục mà còn nhanh chóng chinh phục được tình cảm, thị hiếu của đông đảo công chúng người dân tộc Khmer.
Một vấn đề nữa: Do khó khăn về đời sống, kinh tế. Hiện nay đa số các nghệ nhân Dù Kê từ bầu gánh hát đến diễn viên, nhạc công, phục vụ tất cả đều là nông dân, thậm chí có người không có một tất đất sản xuất chuyên đi làm thuê, làm mướn, lao động phổ thông, khi đến mùa khô là thời điểm thuận lợi cho việc lưu diễn họ mới tập hợp nhau lại tập dợt tuồng và đi diễn. Có thể nói hoạt động của Đoàn Dù Kê này hoàn toàn do có tinh thần yêu nghề, việc bán vé doanh thu chỉ mang tính chất bồi dưỡng tiền son phấn mà thôi.
Đối với Đoàn nghệ thuật Khmer tỉnh Sóc Trăng là Đoàn hoạt động chuyên nghiệp trực thuộc Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh, hiện nay cũng gặp khó khăn không ít, mặc dù có sự hỗ trợ 100% của Nhà nước, nhất là trong giải quyết chính sách cho đội ngũ đã hết tuổi nghề. Như chúng ta đã biết, bất cứ loại hình sân khấu nào những người diễn viên bao giờ cũng đòi hỏi phải trẻ, đẹp mới thu hút được nhiều người xem; nhưng trên thực tế nếu tuyển thêm diễn viên trẻ, diễn viên lớn tuổi phải giải quyết như thế nào?, trong khi kinh phí, biên chế chỉ có bao nhiêu?. Một mặt nữa, các nghệ nhân, diễn viên hiện tại của Đoàn đa số cư trú nhà tập thể của Đoàn, khi đến tuổi hưu trí họ phải rời nhà tập thể, vậy họ đi đâu?, về đâu?, khi trở về quê nhà khi người thân của họ chỉ mới lo được cái ăn, cái ở của riêng mình. Từ thực tế này, nó dẫn đến hụt hẩng về đội ngũ nghệ nhân, diễn viên… chỉ trừ những người đam mê, yêu nghề họ mới tìm đến nghề này mà không đòi hỏi bất cứ điều kiện gì.
Trong phạm vi bài tham luận này, tôi không có kỳ vọng cầu toàn là giải quyết được tất cả những nội dung đặt ra chỉ xin dẫn chứng mang tính chất tham khảo, từ đó đưa ra những đề xuất chính sách đào tạo đội ngũ hoạt động trên lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật Khmer, trong đó có loại hình nghệ thuật sân khấu Dù Kê.
Kính thưa quý đại biểu!
Trước hết chúng ta cần khẳng định, nghệ thuật sân khấu Dù Kê Khmer Nam Bộ là một bộ phận cấu thành trong nền văn hóa truyền thống của đống bào Khmer Nam Bộ và là một bộ phận nghệ thuật Việt Nam nói riêng và của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc nói chung.
Sân khấu Dù Kê là một sản phẩm văn hóa phi vật thể của đồng bào Khmer Nam Bộ cần được quan tâm đúng mức trong việc đề ra chính sách bảo tồn và phát huy đầy đủ các chuẩn mực của loại hình nghệ thuật này. Từ đó, tạo hướng đi cho sự phát triển đúng đắn, tạo được vị trí xứng đáng trong nghệ thuật sân khấu Việt Nam hôm nay và mai sau.
Chúng ta biết khó khăn lớn nhất của đống bào Khmer Nam Bộ đó là nguồn nhân lực. Hiện nay nguồn nhân lực trong đồng bào Khmer còn rất thiếu, đặc biệt là đội ngũ cán bộ hiểu biết về văn hóa dân tộc nói riêng rất ít, cán bộ hoạt động trên lĩnh vực văn hóa nghệ thuật nói chung không nhiều. Do đó, Nhà nước cần đưa ra giải pháp đột phá về tào tạo cán bộ, có chính sách cụ thể đối với cán bộ là người Khmer hoạt động trên lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật các cấp.
Tôi rất hoan nghênh Trường Đại học Trà Vinh có thành lập Khoa ngôn ngữ - văn hóa - nghệ thuật Khmer Nam Bộ, có nhiệm vụ trọng điểm Quốc gia chuyên đào tạo nguồn nhân lực cho vùng đồng bào Khmer Nam Bộ, trong đó có bộ môn nghệ thuật Khmer. Tôi có nhận thức rằng, nghệ thuật sân khấu Dù Kê Khmer Nam Bộ cũng giống như loại hình nghệ thuật sân khấu khác, đó là nghệ thuật tổng hợp bao gồm kịch bản, đạo diễn, mỹ thuật, vũ đạo, nhạc công, diễn viên… Nhưng sân khầu Dù Kê nó là một loại hình sân khấu mang tính đặc thù của đồng bào Khmer Nam Bộ. Do vậy, muốn bảo tồn và phát huy, trước hết phải có nguồn nhân lực. Hiện nay ở các tỉnh trong vùng đều có Trường Trung cấp Văn hóa, Nghệ thuật; ngoài chương trình đào tạo chung cần có bộ phận chuyên sâu đào tạo về văn hóa, nghệ thuật sân khấu Dù Kê. Về lâu dài, tôi rất mong Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ đề xuất với Chính phủ thành lập Trường Văn hóa, Nghệ thuật Khmer cho cả khu vực để đào tạo đội ngũ cán bộ hoạt động trên lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật nói chung và nghệ thuật sân khấu Dù Kê nói riêng.
Trước mắt, cần phải đào tạo, bồi dưỡng ngay đội ngũ biên kịch, diễn viên… để Đoàn Dù Kê không chuyên trong khu vực hoạt động đúng định hướng, đáp ứng kịp thời nhu cầu hưởng thụ của đồng bào và phục vụ nhiệm vụ chính trị tại địa phương.
Đối với Đoàn Dù Kê không chuyên ở các tỉnh mặc dù do tư nhân quản lý, nhưng cần có sự hỗ trợ của Nhà nước về khâu tào tạo, bồi dưỡng nghề nghiệp kể cả quản lý, sáng tạo, dàn dựng… và hướng dẫn họ hoạt động cũng như diễn xuất đi vào bài bản có nề nếp. Đồng thời, hỗ trợ một phần kinh phí mua sắm, sưu tầm nhạc cụ truyền thống đưa vào diễn xuất.
Đối với Đoàn Dù Kê chuyên nghiệp, nên có sự ưu tiên đầu tư nhiều hơn nhằm giữ gìn và phát huy các loại hình nghệ thuật truyền thống của dân tộc. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu đề ra một số chính sách đặc thù, ưu tiên, khuyến khích, huy động nhân lực, vật lực trong đồng bào Khmer tham gia sáng tạo và hoạt động nghệ thuật dân tộc theo phương thức xã hội hóa.
Sân khấu Dù Kê Khmer Nam Bộ mang bản sắc văn hóa độc đáo của đồng bào Khmer cần được đầu tư thỏa đáng để nâng cao phát triển bản sắc đặc thù của sân khấu Dù Kê lên tầm cao mới, đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần của đồng bào Khmer Nam Bộ. Góp phần làm giàu thêm nền văn hóa, nghệ thuật Việt Nam phong phú đa dạng./.

*Ghi chú: tìm hiểu nghệ thuật sân khấu Dù Kê Khmer Nam Bộ trên địa bàn Sóc Trăng do nghệ sĩ ưu tú Sơn Lương biên soạn – Hội Văn hóa Nghệ thuật Sóc Trăng xuất bản.

Thứ Tư, 6 tháng 11, 2013

Những bài học kinh nghiệm Cách mạng Tháng Mười Nga được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc vận dụng ở Việt Nam

Những bài học kinh nghiệm Cách mạng Tháng Mười Nga được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc vận dụng ở Việt Nam

  1. 1. Cách mạng Tháng Mười vĩ đại soi sáng con đường cách mạng Việt Nam
Ngày 07-11-1917, tức ngày 25-10 lịch Nga, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản (B) Nga đứng đầu là V.I. Lênin, giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga đã nhất loạt khởi nghĩa, lật đổ chính quyền của giai cấp tư sản và phản cách mạng, lập nên Nhà nước Xô-viết. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà Cách mạng Tháng Mười mở ra đã làm thay đổi cục diện thế giới, đó là sự thể nghiệm thắng lợi chủ nghĩa Mác-Lênin trong thực tiễn, đã để lại những phương pháp cũng như những bài học kinh nghiệm vô giá cho các quốc gia, dân  tộc trong cuộc đấu tranh cách mạng vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội:
Một là, "trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi" (1) . Đảng đó là Đảng Cộng sản, "Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động..."(2). "Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy, Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bản chỉ nam" (3). Hai là, liên minh công nông và trí thức là sự bảo đảm chắc chắn nhất cho thắng lợi của cách mạng. Ba là, sử dụng bạo lực cách mạng chống bạo lực phản cách mạng, giành chính quyền và bảo vệ chính quyền.Bốn là, nghệ thuật chọn đúng thời cơ khởi nghĩa còn hết sức quan trọng vì thời cơ đó có thể qua đi rất mau. Lê-nin trong buổi chiều 24/10/1917 đã viểt rõ: “Rõ ràng hơn ban ngày là hiện nay nếu khởi nghĩa thì thật là xuống hố… lịch sử sẽ không tha thứ cho các nhà cách mạng nếu chậm trễ, họ có thể thắng ngày hôm nay (và nhất định sẽ thắng ngày hôm nay) nếu chậm đến ngày mai thì sẽ mất nhiều và có thể mất hết”. Tháng 6 -1923, Nguyễn Ái Quốc đến Liên Xô tận mắt chứng kiến những thành tựu vĩ đại do Cách mạng Tháng Mười mang lại trên đất nước Xôviết. Người đã rút ra kết luận: Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mạng Nga là đã thành công và đã thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật; không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam. Cách mạng Nga đã đuổi được vua, tư bản, địa chủ rồi lại ra sức cho công, nông các nước và dân bị áp bức các thuộc địa làm cách mệnh để đập đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa và tư bản trong thế giới. Bởi vậy, muốn cách mạng thành công thì phải đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga. Nguyễn Ái Quốc coi Cách mạng Tháng Mười Nga, coi chủ nghĩa Mác-Lênin, là “cẩm nang thần kỳ” nhưng không phải theo nghĩa đơn giản rằng trong đó đã chứa sẵn những công thức, những khuôn mẫu, những ''đơn thuốc'' kê sẵn... mà phải biết vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước: “Mác đã xây dựng một học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử. Nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà Châu Âu là gì? Đó chưa phải toàn thể nhân loại…Xem lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông”(4).
2. Nguyễn Ái Quốc vận dụng những bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Mười Nga vào cuộc đấu tranh giành chính quyền ở Việt Nam (8-1945)
- Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo
Nguyễn Ái Quốc khẳng định, muốn giải phóng dân tộc thành công phải có: “… sự lãnh đạo của đảng cách mạng chân chính của giai cấp công nhân toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân”(5). Vai trò lãnh đạo của Đảng đã được Mác, Ăng ghen, Lê-nin khẳng định và trong Cách mạng Tháng Mười Nga Lênin đã vận dụng rất thành công. Nhận thức về vấn đề này, ngay từ tác phẩm “Đường cách mệnh” (1927), Người đã chỉ rõ: “Trước hết phải có đảng cách mệnh để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với vô sản giai cấp và bị áp bức dân tộc mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”(6). Rời nước Nga, ngày 11-11-1924, Hồ Chí Minh về đến Quảng Châu (Trung Quốc), mang theo những khát vọng về giải phóng, về độc lập, tự do, hạnh phúc, về tình đoàn kết quốc tế của Lê-nin vĩ đại để thực hiện ở Việt Nam. Từ Quảng Châu - trung tâm cách mạng của Châu Á, Hồ Chí Minh bắt đầu xây dựng những cơ sở ban đầu cho sự ra đời của một chính Đảng kiểu mới ở Việt Nam theo nguyên tắc Mácxít Lê-nin nít. Người đã gặp tại đây “vài ba nhà cách mạng quốc gia An Nam, trong số này có một người đã xa rời xứ sở từ ba mươi năm nay... Ông không hiểu chính trị, và lại càng không hiểu việc tổ chức quần chúng”(7).Trước tình hình đó, Nguyễn Ái Quốc cho rằng để xây dựng Đảng Cộng sản, trước hết phải giải quyết tốt vấn đề nhận thức tư tưởng chính trị và phương pháp tổ chức cho những người yêu nước; phải giác ngộ chủ nghĩa yêu nước truyền thống, chủ nghĩa dân tộc Việt Nam theo lập trường cách mạng vô sản… Trong quá trình huấn luyện cán bộ cho cách mạng Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc không chỉ truyền bá lý luận Mác-Lênin vào công nhân mà còn truyền bá vào các tầng lớp trí thức yêu nước. Cuối những năm 20 của thế kỷ XX, các tổ chức cộng sản lần lượt được thành lập: Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập ở Bắc Kỳ, An Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở Nam Kỳ, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được thành lập ở Trung Kỳ.Tuy nhiên, sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia là nguy cơ dẫn đến chia rẽ trong phong trào công nhân, phong trào cách mạng giải phóng dân tộc. Yêu cầu bức thiết lúc đó là thống nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng cộng sản duy nhất để lãnh đạo phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam. Thay mặt cho Quốc tế Cộng sản, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã bằng uy tín và kinh nghiệm của mình, đưa đến thành công của Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam đầu năm 30 của thế kỷ XX. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời phản ánh sự kết hợp giữa cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc ở nước ta trong những năm đầu thế kỷ XX. Sự ra đời của Đảng chứng tỏ sự sáng tạo của Người trong việc kết hợp 3 nhân tố: Phong trào yêu nước, phong trào công nhân, chủ nghĩa Mác - Lênin. Nó chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối yêu nước và là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam.
- Tập hợp, huy động lực lượng toàn dân tham gia vào sự nghiệp cách mạng
Tiếp thu tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin và bài học kinh nghiệm từ Cách mạng tháng Mười Nga: “ Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”, Nguyễn Ái Quốc cho rằng cần vận động tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân Việt Nam đang bị mất nước. Thành lập mặt trận dân tộc thống nhất, để huy động sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân. Công nông là gốc, liên minh với các giai tầng khác phải chú ý đến lợi ích của giai cấp công - nông và của dân tộc. Chủ trương tập hợp lực lượng của Nguyễn Ái Quốc phản ánh tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Người. Năm 1942, Người chủ trương già, trẻ, gái, trai, dân, lính đều tham gia đánh giặc. Năm 1944, Người viết: “Cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến toàn dân, vũ trang toàn dân”. Thực hiện đường lối đoàn kết dân tộc với việc thành lập Mặt trận dân tộc mà thời kì trước đó đã tiến hành với nội dung hình thức thích hợp, Nguyễn Ái Quốc đã đóng góp lớn vào việc quyết định và thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) thay cho “Mặt trận dân tộc thống nhất Phản đế Đông Dương”, nhằm đoàn kết và phát huy sức mạnh của các tầng lớp nhân dân, đánh đuổi Pháp, Nhật.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ VIII và lời Kính cáo đồng bào của Nguyễn Ái Quốc, ngày 6.6.1941, đã làm dấy lên phong trào cách mạng trong cả nước. Mọi người ra sức thực hiện Nghị quyết của Đảng và lời kêu gọi của Người: “Giờ giải phóng đã đến. Hãy phất cao cờ độc lập, lãnh đạo toàn dân đánh tan thù chung. Tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc đương vang dội bên tai các đồng chí! Máu nóng các bậc anh hùng đương sục sôi trong lòng các đồng chí! Chí phấn đấu của quốc dân đương chờ đợi sự lãnh đạo của các đồng chí!”(8).
- Tự chủ và sáng tạo, tranh thủ những điều kiện và thời cơ thuận lợi do tình hình quốc tế đem lại.
Sau khi phát xít Đức đầu hàng 9.5.1945, quân Đồng minh tiến hành phản công trên mặt trận Châu Á - Thái Bình Dương. Ngày 8.8.1945, Liên Xô tuyên chiến với Nhật Bản. Ngày 6.8 và 9.8, Mĩ ném bom nguyên tử xuống thành phố Hirôsima và Nagasaki; cũng trong ngày, Hồng quân Liên Xô mở cuộc tổng công kích vào đạo quân Quan Đông của Nhật ở Đông Bắc Trung Quốc. Ngày 14.8.1945, Nhật Bản tuyên bố đầu hàng trên đài phát thanh. Tin Nhật đầu hàng đã nhanh chóng lan truyền trong nhân dân. Khắp nơi trên đất nước ta, Việt Minh tổ chức những cuộc mít tinh, biểu tình thị uy vũ trang, có tới hàng nghìn quân tham gia. Hàng triệu quần chúng sẵn sàng đứng lên giành chính quyền. Các tầng lớp trung gian đã ngả hẳn về phía cách mạng. Nhiều lính trong quân đội phát xít và lính bảo an, cảnh sát, các công chức trong chính quyền bù nhìn ủng hộ Việt Minh giành độc lập.
Nắm vững nghệ thuật chọn đúng thời cơ để khởi nghĩa
Trước tình hình như vậy, mặc dù đang ốm nặng Hồ Chí Minh vẫn quyết định: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hi sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”(9). Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi to lớn, cách mạng cũng đứng trước những khó khăn không nhỏ. Mặc dù chính phủ Nhật đã đầu hàng Đồng minh nhưng mãi đến 21.8 quân Nhật ở Đông Dương mới được lệnh ngừng bắn. Vì thế quân Nhật ở Hà Nội vẫn đi tuần, canh gác nghiêm ngặt. Ngay 16.8, Nhật tuyên bố trao trả Nam Kỳ cho chính phủ bù nhìn vào ngày 18.8, bày trò “trao trả độc lập cho Việt Nam”. Các tổ chức phản động cũng tìm cách phá phong trào cách mạng của nhân dân ta. Trong khi đó các nước lớn như Mĩ, Anh, Pháp, Trung Hoa Quốc dân Đảng cũng có mưu đồ riêng đối với Đông Dương. Chính phủ Trùng Khánh của Tưởng Giới Thạch ráo riết chuẩn bị “Hoa quân nhập Việt” và ngày 9.8.1945 đã ra thông báo sẽ đưa quân vào giải giáp quân đội Nhật ở Bắc Đông dương theo thỏa thuận giữa các nước Đồng minh chống phát xít. Trước những chuyển biến mau lẹ của tình hình thế giới và trong nước, ngày 12.8.1945, Ủy ban chỉ huy lâm thời khu giải phóng ra lệnh khởi nghĩa. Ngày 13.8, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh đã thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc. Vào 23 giờ cùng ngày, Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc đã ban bố Quân lệnh số 1, chính thức phát lệnh khởi nghĩa toàn quốc. Cách mạng Tháng Tám 1945 ở Việt Nam đã thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, trên cơ sở chọn lọc những yếu tố tích cực của mô hình tổ chức nhà nước Xôviết và các nhà nước dân chủ khác, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Một quan điểm có ý nghĩa phương pháp luận mang tính chỉ đạo lâu dài đối với Đảng và nhân dân ta được Hồ Chí Minh chỉ ra là: “Đi theo con đường do Lênin vĩ đại vạch ra, con đường của Cách mạng Tháng Mười, nhân dân Việt Nam đã giành được những thắng lợi rất to lớn. Chính vì vậy mà mối tình gắn bó và lòng biết ơn của nhân dân Việt Nam đối với Cách mạng Tháng Mười vẻ vang, đối với Lê-nin vĩ đại … là vô cùng sâu sắc”(10).
Ngày nay, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục soi sáng con đường chúng ta đi. Dưới sự lãnh đạo đúng đắn và sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, toàn dân ta đang tiếp tục chiến đấu để bảo vệ, xây dựng và phát huy những thành quả tốt đẹp và vô cùng quý báu do Cách mạng Tháng 10 và Tháng 8 mang lại. Đường đi tuy vẫn còn không ít chông gai nhưng không có gì có thể cản lại sự phát triển tất yếu của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Có nhiều sự kiện lịch sử, khoa học, có nhiều dấu hiệu cho thấy Chủ nghĩa xã hội nhân đạo, ưu việt sẽ chiến thắng.
____________________

(1) Hồ Chí Minh Toàn tập, NXBCTQG, Hà Nội, 1995, T 2, tr 267-268
(2) Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, T 6, tr175
(3) Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, T 2, tr268
(4) Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, T 1, tr465
(5) Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, T 12, tr303
(6) Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, T 12, tr267-268
(7) Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, T 2, tr8
(8) Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, T 3, tr198
(9) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, tr. 421-422.
(10) Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, T12, tr309

Sáng mãi lý tưởng Cách mạng Tháng 10

Sáng mãi lý tưởng Cách mạng Tháng 10

Vũ Trung Kiên - báo Đồng Nai
Năm 1917, nhà văn người Mỹ John Reed có mặt ở nước Nga, được chứng kiến toàn bộ cuộc cách mạng vĩ đại trong lịch sử nhân loại - Cách mạng Tháng 10 Nga. Từ những trải nghiệm của người trong cuộc và tài liệu thu thập được, về Mỹ, ông đã viết tác phẩm nổi tiếng Mười ngày rung chuyển thế giới.
 V.I. Lênin, lãnh tụ Cách mạng Tháng 10 vĩ đại.
V.I. Lênin, lãnh tụ Cách mạng Tháng 10 vĩ đại.
Trong lời tựa của cuốn sách, nhà văn viết: “Quyển sách này kể lại một giai đoạn lịch sử quyết liệt đã diễn biến dưới mắt tôi. Trong quá trình của cuộc chiến đấu, tôi không phải là kẻ bàng quan”.
* Xóa bỏ triệt để chế độ người bóc lột người
Dưới sự lãnh đạo của lãnh tụ thiên tài, bằng lý luận sắc bén của một hệ tư tưởng tiến bộ, với việc nắm chắc quy luật khách quan và thời cơ cách mạng, những người lao động nước Nga 96 năm trước đã làm nên cuộc cách mạng vĩ đại - Cách mạng Tháng 10 Nga. Thế giới cho tới khi Cách mạng Tháng 10 Nga nổ ra cũng từng diễn ra biết bao cuộc cách mạng, trong đó cũng không phải không có những cuộc cách mạng long trời, lở đất. Song, cái mà các cuộc cách mạng ấy đem lại không phải là những thành quả ấm no, hạnh phúc cho nhân dân lao động, mà nó chỉ thay thế chế độ bóc lột này bằng chế độ bóc lột khác. Chỉ đến Cách mạng Tháng 10 Nga, quần chúng nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã chính thức lật đổ quyền lực thống trị của giai cấp tư sản; xóa bỏ tận gốc chế độ người bóc lột người; giành chính quyền về tay nhân dân; xây dựng một nhà nước kiểu mới vì hạnh phúc của đại bộ phận nhân dân lao động. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử của nhân loại, những người lao động đã vươn lên làm chủ cuộc đời, vận mệnh của mình.
Cách mạng Tháng 10 Nga đã làm biến chuyển cục diện thế giới, làm cho chủ nghĩa đế quốc phải tự điều chỉnh những hành vi dã man mà trước đó nó đã gieo rắc đau thương trên khắp địa cầu.
* Chỗ dựa vững chắc cho cách mạng thế giới
Cho đến đầu thế kỷ XX, nhu cầu giải phóng dân tộc, nhất là tại các thuộc địa ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latinh đã trở nên bức thiết hơn bao giờ hết. Bằng sự thắng lợi của Cách mạng Tháng 10 Nga, các dân tộc bị áp bức trên thế giới đã tìm thấy ở đây nguồn cổ vũ động viên to lớn và chỗ dựa vững chắc. Trong đó, người cộng sản vĩ đại Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy ở Cách mạng Tháng 10 Nga con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam.
Dưới ảnh hưởng của Cách mạng Tháng 10 và sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn của Liên Xô, phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới đã phát triển mạnh mẽ, trở thành dòng thác cách mạng của thời đại, xóa bỏ chủ nghĩa thực dân cũ, làm thất bại chủ nghĩa thực dân mới, cổ vũ các dân tộc bị áp bức vùng lên giành độc lập dân tộc. Nhà nước Liên Xô ra đời sau Cách mạng Tháng 10 Nga đã trở thành thành trì vững chắc đóng vai trò quan trọng và quyết định trong việc đập tan chủ nghĩa phát xít, cứu loài người khỏi họa diệt chủng do chủ nghĩa phát xít gây ra.
* Sáng mãi lý tưởng Cách mạng Tháng 10 Nga
Sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, đã xuất hiện những lời buộc tội đối với Cách mạng Tháng 10 Nga. Ngày kỷ niệm Cách mạng Tháng 10 Nga trên quê hương của Cách mạng Tháng 10 đã được đổi sang “Ngày hòa hợp dân tộc”. Thế nhưng, nhân dân lao động trên toàn thế giới vẫn dành cho Cách mạng Tháng 10 Nga tình cảm trân trọng và biết ơn sâu sắc.
Cách mạng Tháng 10 Nga thành công nhờ sức mạnh vĩ đại của đông đảo quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Bài học mà Cách mạng Tháng 10 Nga để lại là trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng không được xa rời quần chúng nhân dân, bởi đây là động lực cơ bản của các cuộc cách mạng và cải biến xã hội. Bài học này đã được Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng một cách trung thành và sáng tạo những năm qua.
Hơn 20 năm sau ngày Liên Xô sụp đổ, giới chính khách và học giả trên thế giới đã có những đánh giá, nhìn nhận lại khách quan hơn về thành quả mà cuộc cách mạng vĩ đại này đem lại. Tổng thống Nga Putin từng phát biểu: “Những ai muốn phủ nhận hoàn toàn những thành quả của chế độ Xô-viết, người ấy không có trái tim”. Ngày 11-4-2009, Tổng thống Nga Medvedev đã ký đạo luật Liên bang khôi phục ngày kỷ niệm Cách mạng Tháng 10 Nga. Theo đó, bắt đầu từ năm 2010, Ngày kỷ niệm Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng 10 trên quê hương của Cách mạng Tháng 10 sẽ được kỷ niệm như những thập kỷ trước đây. A. Dinoviep, một người từng chống đối Nhà nước Xô-viết, bị ngồi tù dưới thời Liên Xô, sống lưu vong tại Mỹ đã viết: “Những thành tựu của chủ nghĩa cộng sản Xô-viết do Lênin mở đầu đã thấm vào máu thịt của loài người... Nếu không có Lênin, không có Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng 10 và sau đó là Liên bang Xô-viết thì trong lịch sử không thể xuất hiện cả một tuyến tiến hóa có quy mô ngang với tuyến mà đại diện là thế giới tư bản phương Tây. Tuyến tiến hóa đó có ảnh hưởng to lớn đến toàn bộ sự phát triển tiếp theo của nhân loại... Nhờ có cuộc cách mạng vô sản đó mà nhân loại đã được cứu thoát khỏi sự thụt lùi đáng sợ nhất, thoát khỏi sự suy tàn, thoái hóa”

Đề cương tuyên truyền Kỷ niệm 95 năm Cách mạng Tháng Mười Nga (7/11/1917 - 7/11/2012) và 165 năm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” (24/2/1848 - 24/2/2013)

Đề cương tuyên truyền Kỷ niệm 95 năm Cách mạng Tháng Mười Nga (7/11/1917 - 7/11/2012) và 165 năm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” (24/2/1848 - 24/2/2013)

I. CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI NGA THỂ HIỆN SỰ VẬN DỤNG SÁNG TẠO NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN NÊU TRONG “TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN”
1. Những giá trị bền vững và ý nghĩa thời đại của “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”:
- “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” đã phân tích, làm rõ quá trình ra đời và sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản ra đời và phát triển là một tất yếu lịch sử, giai cấp tư sản đã từng đóng vai trò là giai cấp tiến bộ của thời đại và thống trị xã hội, đã “tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại”1. Nhưng chính sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã tạo ra mâu thuẫn không thể điều hòa giữa giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô sản. Đây là nguyên nhân cơ bản dẫn chế độ tư bản đến chỗ sụp đổ. Giai cấp vô sản, đại diện cho lực lượng sản xuất mới, là giai cấp tiến bộ của thời đại sẽ giành quyền thống trị xã hội.
- “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” chỉ rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản, người “đào huyệt” chôn chủ nghĩa tư bản, xây dựng xã hội mới; chỉ rõ Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định hàng đầu để giai cấp vô sản và nhân dân lao động hoàn thành sứ mệnh lịch sử thủ tiêu chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, tiến tới cộng sản chủ nghĩa. Giai cấp vô sản là lực lượng tiêu biểu cho sức sản xuất xã hội mới, là đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến của thời đại, là đại biểu chân chính duy nhất cho lợi ích của toàn xã hội, là một giai cấp cách mạng và duy nhất chỉ có giai cấp vô sản mới có tính triệt để cách mạng, tự giải phóng cho mình và giải phóng cho toàn xã hội loài người. Đảng Cộng sản là bộ phận tự giác nhất và không thể tách rời của giai cấp vô sản, luôn đại biểu cho giai cấp vô sản về lợi ích và do đó, đại biểu cho quyền lợi của nhân dân lao động. Để hoàn thành sứ mệnh vẻ vang đó, Đảng Cộng sản phải không ngừng nâng cao trình độ lý luận và nắm bắt thực tiễn, đủ khả năng lãnh đạo giai cấp vô sản và toàn thể nhân dân lao động đấu tranh thắng lợi trong công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Mục đích của Đảng Cộng sản là thực hiện chủ nghĩa cộng sản, gồm hai giai đoạn: thứ nhất, Đảng Cộng sản lãnh đạo giai cấp vô sản và nhân dân lao động giành chính quyền “bằng cách lật đổ giai cấp tư sản bằng bạo lực”2; thứ hai, Đảng Cộng sản lãnh đạo giai cấp vô sản và nhân dân lao động sử dụng công cụ chính quyền để cải tạo xã hội cũ, xây dựng chính quyền mới. Nguyên lý cơ bản trên đây về sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô sản và vai trò của Đảng Cộng sản đã được Đảng Bôn-sê-vích Nga và Vla-đi-mia I-lich Lênin vĩ đại vận dụng thành công trong Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917.
- “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” đã chỉ ra những vấn đề trọng yếu về chiến lược, sách lược của cách mạng vô sản; khái quát những nguyên lý cơ bản về con đường giải phóng giai cấp vô sản và xây dựng xã hội tương lai cộng sản chủ nghĩa. Tuyên ngôn khẳng định tinh thần cách mạng không ngừng và triệt để của cách mạng vô sản; trình bày tư tưởng về hai cuộc cách mạng; về sự chuyển biến từ cuộc cách mạng thứ nhất sang cuộc cách mạng thứ hai. Do đó Tuyên ngôn có ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn to lớn đối với các cuộc cách mạng vô sản. Tuyên ngôn vừa khẳng định tính tất yếu phải tiến hành cách mạng vô sản, nhưng không nhất thiết phải sử dụng các biện pháp như nhau và tiến hành nhất loạt ở tất cả các nước. Tuyên ngôn cũng phác họa mô hình xã hội cộng sản trong tương lai.
- “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” đã vạch trần thực chất phản động, bảo thủ, lỗi thời của các trào lưu tư tưởng phi mác-xít, trá hình dưới chiêu bài khác nhau về chủ nghĩa xã hội để chống chủ nghĩa xã hội.
Qua 165 năm lịch sử thế giới đón nhận tác phẩm bất hủ “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” của Các-Mác và Ăng-ghen, vượt qua bao thử thách của những biến cố lịch sử, những thăng trầm của phong trào cộng sản và công nhân thế giới đã khảo nghiệm và minh chứng cho những giá trị bền vững vượt thời đại của những nguyên lý cơ bản trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”. Đối với giai đoạn hiện nay và đối với công cuộc đổi mới ở Việt Nam, tư tưởng của Các-Mác và Ăng-ghen trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” và kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Mười Nga vẫn nguyên giá trị chỉ lối, soi đường trong thế kỷ XXI đối với giai cấp vô sản và nhân dân lao động toàn thế giới, trong đó có Việt Nam.
2. Cách mạng Tháng Mười Nga thành công là bước phát triển tất yếu của lịch sử nhân loại, là sự vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản nêu trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”:
- Vào những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản thế giới chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, tăng cường bóc lột nhân dân lao động chính quốc, biến các nước Á, Phi và Mỹ La tinh thành thuộc địa và phụ thuộc, gây chiến tranh để phân chia lại thế giới. Những mâu thuẫn cơ bản trên thế giới giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản, mâu thuẫn giữa các nước thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc, mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với nhau, ngày càng tăng lên. Thế giới xuất hiện những điều kiện khách quan làm bùng nổ cách mạng xã hội.
- Nước Nga bước vào giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, mâu thuẫn giai cấp và mâu thuẫn dân tộc ở nước Nga ngày càng gay gắt. Giai cấp công nhân Nga trưởng thành, có chính đảng lãnh đạo là Đảng Công nhân Xã hội dân chủ Nga. Nước Nga tham gia đại chiến thế giới I (năm 1914 - 1918) và chịu thất bại về quân sự, suy sụp về kinh tế, làm cho đời sống nhân dân ngày càng cực khổ, sự bất đồng xã hội ngày càng gay gắt. Nước Nga trở thành nơi tập trung tất cả các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới, là khâu yếu nhất của chủ nghĩa đế quốc, tạo ra tình thế cách mạng trực tiếp.
- Đảng Công nhân Xã hội dân chủ Bôn-sê-vich Nga đã được chuẩn bị đầy đủ về tư tưởng và tổ chức lãnh đạo cuộc cách mạng vô sản. Được thành lập tháng 8 năm 1903, Đảng Công nhân Xã hội dân chủ Bôn-sê-vích Nga trung thành với học thuyết Mác - Ăng-ghen, xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, có tổ chức chặt chẽ, chủ trương đấu tranh cách mạng giành chính quyền, thiết lập chuyên chính vô sản. Đảng Công nhân Xã hội dân chủ Bôn-sê-vích Nga qua đấu tranh cách mạng đã trưởng thành toàn diện, đủ sức lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân lao động tiến hành sự nghiệp cách mạng vĩ đại nhằm thực hiện mục tiêu cao cả của cuộc cách mạng vô sản.
- Lênin, lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân và nhân dân lao động đã phân tích sâu sắc thực tiễn nước Nga, chỉ rõ nước Nga đã bước vào giai đoạn đế quốc chủ nghĩa và nhiệm vụ của những người cộng sản Nga là lãnh đạo nhân dân làm cách mạng tư sản kiểu mới, lật đổ ách thống trị của Nga hoàng và giai cấp tư sản, tiến tới cách mạng xã hội chủ nghĩa. Lênin phân tích sâu sắc tình hình chủ nghĩa đế quốc, đã phát hiện ra quy luật phát triển không đều của chủ nghĩa đế quốc và rút ra kết luận quan trọng: “ Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, cách mạng vô sản có thể thắng lợi trong một số ít nước, thậm chí trong một nước, không phải là nước phát triển nhất, nhưng là khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền của chủ nghĩa tư bản”3. Kết luận của Lênin về khả năng thắng lợi của cách mạng vô sản đã cổ vũ những người cộng sản, giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga và thế giới kiên trì mục tiêu cách mạng. Trong tác phẩm “Làm gì”, Lênin đã thể hiện sự chuẩn bị về tư tưởng, tổ chức, đề ra nguyên lý xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp công nhân và các vấn đề về phương pháp tiến hành cuộc cách mạng vô sản nước Nga.
- Phong trào cách mạng và kinh nghiệm đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động châu Âu và thế giới, nhất là cuộc đấu tranh tư tưởng lý luận của những người cộng sản chống các trào lưu xét lại, cải lương, cơ hội… nhằm bảo vệ và phát triển Học thuyết Mác cũng là cơ sở rất quan trọng tạo điều kiện thuận lợi cho Cách mạng Tháng Mười Nga.
- Cuộc cách mạng tư sản Nga Tháng Hai năm 1917 do giai cấp công nhân lãnh đạo giành thắng lợi, chế độ phong kiến Sa hoàng sụp đổ, chính quyền được trao vào tay giai cấp tư sản. Từ tháng 02 đến tháng 7 năm 1917, ở Nga có hai chính quyền song song tồn tại. Chính phủ lâm thời trong tay giai cấp tư sản, các Xô viết đại biểu công nhân và binh lính thuộc về nhân dân. Tình thế giành chính quyền bằng biện pháp hòa bình kết thúc ngày 04 tháng 7 năm 1917 khi Chính phủ lâm thời tư sản đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân. Tình thế cách mạng Nga chuyển hướng hành động, chuẩn bị tích cực cho khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.
- Ngày 25 tháng 10 năm 1917 (ngày 07 tháng 11 dương lịch), Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, chính quyền đã thuộc về nhân dân. Đại hội II - Xô viết toàn Nga ban bố Sắc lệnh về hòa bình kêu gọi các nước ngừng chiến tranh để đàm phán; Sắc lệnh về ruộng đất cho nông dân; Tuyên bố về chính quyền của các dân tộc Nga, thừa nhận quyền phát triển tự do và quyền bình đẳng của các dân tộc sống trên lãnh thổ Nga. Những Sắc lệnh và Tuyên bố nêu trên thể hiện bản chất của Chính quyền Xô viết là chính quyền của nhân dân, bảo đảm quyền lợi của nhân dân, đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng, chính đáng của toàn thể nhân dân lao động.
- Sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, nước Nga phải đương đầu với cuộc chiến tranh can thiệp của 14 nước đế quốc câu kết với các lực lượng phản cách mạng trong nước. Cuộc chiến tranh can thiệp của chủ nghĩa đế quốc vào Nga thất bại, nội chiến kết thúc. Chính quyền Xô viết được bảo vệ. Ngày 30 tháng 12 tháng 1922, Đai hội các Xô viết toàn liên bang lần thứ nhất đã ký tuyên bố thành lập Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết, gọi tắt là Liên Xô. Trong 69 năm tồn tại, Liên Xô đã trở thành cường quốc trên thế giới, đóng góp to lớn vào phong trào cách mạng vô sản toàn thế giới vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ.
3. Ý nghĩa lịch sử và thời đại của Cách mạng Tháng Mười:
Cách mạng Tháng Mười Nga có ý nghĩa lịch sử và thời đại to lớn, là sự kiện vĩ đại nhất của thế kỷ XX, đánh dấu một mốc mới trong lịch sử phát triển của nhân loại, báo hiệu sự sụp đổ của chế độ người bóc lột người đã tồn tại hàng ngàn năm và mở ra một thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Cách mạng Tháng Mười Nga đã thức tỉnh các giai cấp, các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới và đã vạch ra con đường giải phóng cho các giai cấp, các dân tộc bị áp bức trên hành tinh.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga đã làm nổi bật tinh thần cách mạng triệt để và tính khoa học sâu sắc là bản chất và nguồn sức mạnh vô địch của Chủ nghĩa Mác - Lênin. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát biểu trong dịp Kỷ niệm 50 năm Cách mạng Tháng Mười Nga: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người, chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”4.
- Cách mạng Tháng Mười Nga phá vỡ khâu yếu nhất của dây chuyền chủ nghĩa đế quốc, xây dựng và bảo vệ thành công nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên. Từ đây, trên thế giới dần hình thành hai hệ thống chế độ xã hội: xã hội xã hội chủ nghĩa và xã hội tư bản chủ nghĩa, chấm dứt thời kỳ độc quyền thống trị của chủ nghĩa tư bản và chế độ phong kiến. Tiếp sau Liên Xô, nhiều nước châu Âu, châu Á, châu Mỹ La tinh đã lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa cho sự phát triển, hình thành hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới.
- Cách mạng Tháng Mười Nga đã mở ra con đường giải phóng dân tộc cho các dân tộc thuộc địa trên toàn thế giới. Vào đầu thế kỷ XX, cuộc đấu tranh giải phóng các dân tộc khỏi ách nô dịch, bóc lột của các nước đế quốc là nhu cầu cấp thiết của các quốc gia, dân tộc trên toàn thế giới. Cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga và quan điểm của Lênin trong “Luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa” đã chỉ cho các dân tộc bị áp bức con đường đấu tranh để đạt các mục tiêu của dân tộc. Dưới ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga và sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn của Liên Xô vĩ đại, phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới đã phát triển mạnh mẽ, trở thành dòng thác cách mạng của thời đại, xóa bỏ chủ nghĩa thực dân cũ, làm thất bại chủ nghĩa thực dân mới, cổ vũ các dân tộc bị áp bức vùng lên giành độc lập dân tộc, hướng tới chủ nghĩa xã hội.
- Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, sự ra đời Nhà nước Xô viết và bước phát triển to lớn của Liên Xô sau cách mạng, thể hiện đầy đủ sức mạnh và tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội. Cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga thành công và sự ra đời Nhà nước Xô viết đầu tiên trên thế giới. Liên Xô đã là thành trì của chủ nghĩa xã hội, là chỗ dựa vững chắc của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào đấu tranh vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội. Sức mạnh toàn diện và tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô bắt đầu từ Cách mạng Tháng Mười đã tác động lớn đến sự phát triển của các phong trào cách mạng trên thế giới trong thế kỷ XX. Trải qua 95 năm, chủ nghĩa xã hội hiện thực đã có những cống hiến vô giá cho nhân loại, giải phóng 1,5 tỷ người thoát khỏi chế độ áp bức, bóc lột; tiêu diệt chủ nghĩa phát xít, cứu nhân loại khỏi họa diệt chủng; đánh bại chủ nghĩa thực dân kiểu cũ, giải phóng hàng chục quốc gia thoát khỏi cảnh nô lệ và buộc chủ nghĩa tư bản phải điều chỉnh; là chỗ dựa vững chắc, là lực lượng tiên phong đẩy mạnh cuộc đấu tranh vì hòa bình, hợp tác và phát triển, giúp các dân tộc, quốc gia ngăn chặn các thế lực phản động quốc tế gây chiến tranh xâm lược, tạo thêm tiền đề cho các quốc gia, dân tộc tăng cường xây dựng mối quan hệ theo hướng bình đẳng, hợp tác, phát triển.
- Cách mạng Tháng Mười Nga thành công và sự ra đời Nhà nước Xô viết là sự kết hợp giữa những nguyên lý cơ bản của học thuyết Mác - Lênin với việc vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nước Nga, đã cung cấp cho các cuộc cách mạng sau đó những bài học kinh nghiệm quý báu. Cách mạng Tháng Mười Nga thành công là sự thể nghiệm thắng lợi Chủ nghĩa Mác - Lênin trong thực tiễn, đã cung cấp những bài học lịch sử vô giá cho các cuộc cách mạng vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của các quốc gia, dân tộc. Đó là những bài học về xây dựng đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo cách mạng, tổ chức lực lượng cách mạng, nắm vững thời cơ cách mạng, phát động khởi nghĩa vũ trang, giành chính quyền thật sự về tay nhân dân; bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ, chống thù trong, giặc ngoài; thiết lập hình thái kinh tế - xã hội mới.
II. CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI NGA VÀ CÁCH MẠNG VIỆT NAM
1. Cách mạng Tháng Mười Nga đã chỉ ra con đường giải phóng dân tộc Việt Nam:
- Đầu thế kỷ XX, giữa lúc phong trào yêu nước Việt Nam đang khủng hoảng sâu sắc về đường lối thì ánh sáng của Cách mạng Tháng Mười Nga rọi chiếu đến nước ta. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sau khi đọc “Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin đã nhận ra chân lý: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không còn con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”5; “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các giai cấp bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”6 và “Mãi mãi đi theo con đường của Lênin vĩ đại”. Từ đó, Chủ nghĩa Mác - Lênin truyền vào Việt Nam, kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, đưa đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, mở ra bước ngoặt quyết định cho cách mạng Việt Nam.
- Sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930 cùng với phong trào cách mạng đã đưa đến thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tiếp đó, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi năm 1954, chống đế quốc Mỹ thắng lợi năm 1975, thống nhất đất nước, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội và ngày nay đang đẩy mạnh công cuộc đổi mới để xây dựng, bảo vệ, phát triển đất nước. Đó là những cột mốc quan trọng thể hiện cách mạng Việt Nam đã kế tục vẻ vang sự nghiệp Cách mạng Tháng Mười Nga. Nhân dân Việt Nam rất tự hào tiếp tục giương cao ngọn cờ của Cách mạng Tháng Mười Nga. Là một dân tộc tiên phong trên tuyến đầu chống chủ nghĩa đế quốc, Việt Nam đã trở thành tấm gương sáng cho các dân tộc đang đấu tranh vì độc lập dân tộc trên toàn thế giới noi theo.
2. Cách mạng Tháng Mười Nga khởi đầu sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn và toàn diện của Đảng, Nhà nước và nhân dân Liên Xô đối với cách mạng Việt Nam:
- Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, nhân dân ta đã nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ nhiều mặt của Liên Xô. Tình đoàn kết, hữu nghị đặc biệt Việt Nam - Liên Xô được nảy nở từ Cách mạng Tháng Mười Nga, không ngừng được củng cố và phát triển.
- Cách mạng Tháng Mười và Nhà nước Xô viết đã ảnh hưởng rất sâu sắc tới lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, những người cộng sản và toàn thể dân tộc Việt Nam. Đồng chí Tôn Đức Thắng là người Việt Nam đầu tiên kéo cờ đỏ trên chiến hạm của Pháp để ủng hộ Cách mạng Tháng Mười. Quốc tế Cộng sản và Liên Xô đã giúp Việt Nam đào tạo nhiều nhà lãnh đạo cách mạng tiền bối như Đồng chí Trần Phú, Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai… Thắng lợi quân sự của Hồng quân Liên Xô trước chủ nghĩa phát xít tạo điều kiện vô cùng thuận lợi cho Cách mạng Tháng Tám ở Việt Nam thành công.
- Đảng, Nhà nước và nhân dân Liên Xô luôn đi đầu, cùng với các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào giải phóng dân tộc, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới đã dành cho cách mạng Việt Nam sự cổ vũ to lớn, trực tiếp, hiệu quả trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, Liên Xô đã dành cho Việt Nam sự giúp đỡ to lớn về chính trị, quân sự, ngoại giao, góp phần quan trọng vào chiến thắng đế quốc Mỹ. Cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam trên tuyến đầu chống chủ nghĩa thực dân Pháp và đế quốc Mỹ thắng lợi đã góp phần mở đường cho phong trào độc lập dân tộc, tạo điều kiện thuận lợi để Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em xây dựng và phát triển đất nước, tạo ra cân bằng về chiến lược quân sự với các nước tư bản chủ nghĩa, ngăn chặn âm mưu gây chiến tranh của chủ nghĩa đế quốc, góp phần quan trọng vào sự nghiệp bảo vệ hòa bình thế giới.
- Đảng, Nhà nước và nhân dân Liên Xô đi đầu trong việc giúp đỡ Việt Nam khắc phục hậu quả chiến tranh, cải tạo, xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội: Viện trợ nhiều hàng hóa, vật tư, thiết bị; cử nhiều đoàn chuyên gia giúp phát triển các lĩnh vực kinh tế quan trọng; đào tạo các thế hệ cán bộ, xây dựng nhiều công trình kinh tế - xã hội quan trọng.
- Tình đoàn kết, hữu nghị, hợp tác, phát triển Việt Nam - Liên Xô trong nhiều thập kỷ đã là mẫu mực của quan hệ quốc tế theo chủ nghĩa quốc tế vô sản giữa hai dân tộc cùng chung lý tưởng, trong sáng, thủy chung. Mỗi bước đường thắng lợi của cách mạng Việt Nam đều ghi lại dấu ấn quan trọng sự đóng góp nhiều mặt của nhân dân Liên Xô anh em. Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam mãi mãi ghi nhớ, tôn vinh, biết ơn sâu sắc sự ủng hộ, giúp đỡ chí tình, to lớn, toàn diện, hiệu quả của Liên Xô. Quan hệ Việt Nam - Liên Xô đã được lý tưởng Cách mạng Tháng Mười và tư tưởng Lênin vĩ đại soi sáng; được Đảng, Nhà nước và nhân dân hai nước dày công xây dựng, vun đắp trở thành truyền thống quý báu, có tác dụng thiết thực đối với các bước đường phát triển của cách mạng Việt Nam.
III. KIÊN ĐỊNH, VẬN DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN SÁNG TẠO NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA “TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN”; TRUNG THÀNH VỚI LÝ TƯỞNG CỦA CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI NGA, TĂNG CƯỜNG CUỘC ĐẤU TRANH BẢO VỆ, PHÁT TRIỂN CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN TRONG THỜI KỲ MỚI
- Sau năm 1991, tình hình quốc tế có những biến đổi to lớn và sâu sắc có lợi cho chủ nghĩa tư bản. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại diễn ra mạnh mẽ, cuốn hút tất cả các nước ở những mức độ khác nhau. Xu thế toàn cầu hóa vừa tạo thời cơ hội nhập và phát triển nhanh cho các nước, vừa đặt ra những thách thức gay gắt, nhất là đối với những nước đang và kém phát triển. Hiện tại, chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển, nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bốc lột và bất công. Những mâu thuẫn cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội vẫn tiếp tục xảy ra. Chính sự vận động của những mâu thuẫn nội tại đó và cuộc đấu tranh của nhân dân lao động sẽ quyết định vận mệnh của chủ nghĩa tư bản. Trong giai đoạn hiện nay, cuộc đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp, chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố, tranh chấp lãnh thổ, biển, đảo, tài nguyên và cạnh tranh quyết liệt về lợi ích kinh tế tiếp tục diễn ra phức tạp. Chủ nghĩa xã hội đứng trước nhiều khó khăn, thử thách. Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co, song loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội. Đó là quy luật tiến hóa phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử. Xu thế hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển là khát vọng của nhân loại và là nhân tố quyết định làm thất bại làm mọi âm mưu, thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc.
- Sau năm 1991 là thời kỳ các nước xã hội chủ nghĩa còn lại và phong trào cộng sản quốc tế khắc phục khủng hoảng, thoái trào để tiếp tục phục hồi và phát triển trên một trình độ mới thông qua cải cách, đổi mới để phát triển. Chủ nghĩa xã hội trên thế giới, từ những bài học thành công và thất bại cũng như từ khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc, có điều kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới. Với tư tưởng gắn cải cách, đổi mới với sự nghiệp giải phóng, sáng tạo và phát triển của các nước xã hội chủ nghĩa; Việt Nam, đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin phù hợp với tình hình đất nước, đề ra các biện pháp đột phá để giải quyết các vấn đề của mình trên cơ sở kiên định mục tiêu, lý tưởng, con đường xã hội chủ nghĩa. Những thành tựu to lớn của Việt Nam và một số nước trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; sự phục hồi của các đảng cộng sản, đảng cánh tả ở khắp nơi trên thế giới, nhất là ở khu vực châu Âu; xu hướng cánh tả và hướng theo chủ nghĩa xã hội của nhiều nước châu Mỹ La tinh… đã khẳng định sức sống mãnh liệt của chủ nghĩa Mác - Lênin, của Cách mạng Tháng Mười; khẳng định sức sáng tạo và tương lai tươi sáng của chủ nghĩa xã hội.
- Từ năm 1991 đến nay, chủ nghĩa Mác - Lênin đứng trước những thử thách mới nghiêm trọng. Hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa đang bị tiến công, xuyên tạc, bôi nhọ từ nhiều phía. Lý tưởng cộng sản và Đảng Cộng sản đang bị công kích thô bạo, bỉ ổi từ các thế lực chống cộng cuồng tín, hận thù. Hiện nay, chủ nghĩa đế quốc và các lực lượng phản động quốc tế đang dấy lên chiến dịch kết tội chủ nghĩa cộng sản. Với Việt Nam, chúng gây sức ép về dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, dân tộc; đồng thời cấu kết với các phần tử cơ hội chính trị trong nước lợi dụng việc chống tham nhũng và dân khiếu kiện để chống phá chế độ ta. Trong bối cảnh đó, việc Kỷ niệm 95 năm Cách mạng Tháng Mười Nga và 165 năm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” là việc làm hết sức thiết thực, có ý nghĩa nhiều mặt. Chúng ta đã nhận thức rõ rằng: Thắng lợi của cách mạng Tháng Mười Nga là cội nguồn sâu xa dẫn tới thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam, thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước hiện nay. Những thành tựu vĩ đại của chủ nghĩa xã hội hiện thực trong 95 năm qua, nhất là thành tựu cải cách, đổi mới ở các nước xã hội chủ nghĩa và Việt Nam thể hiện bản chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, sức sáng tạo, năng lực tự đổi mới và những đóng góp của các nước xã hội chủ nghĩa cho hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, văn minh và tiến bộ xã hội. Công cuộc đổi mới nước ta trong hơn 26 năm qua là minh chứng sinh động về sự trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, những nguyên lý cơ bản trong Tuyên ngôn, những bài học lịch sử của Cách mạng Tháng Mười Nga, những kinh nghiệm từ sự thành công và thất bại của chủ nghĩa xã hội hiện thực vào thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Kỷ niệm 95 năm Cách mạng Tháng Mười Nga và 165 năm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” cũng là dịp để chúng ta triển khai mạnh mẽ cuộc đấu tranh ý thức hệ nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho hành động của cách mạng Việt Nam là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên quyết bác bỏ các luận điệu xuyên tạc, phủ nhận đi tới xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin; vạch trần các âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch chống phá cách mạng của Đảng và nhân dân ta là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; củng cố lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng, tạo ra động lực mới trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng./.

BAN TUYÊN GIÁO THÀNH ỦY BÌNH TÂN - TP. HỒ CHÍ MINH
___________________________________________
1: Mác-Ăngghen, Tuyển tập, T1, NXB Sự Thật, Hà Nội, 1980, trang 547.
2. Mác-Ăngghen, Tuyển tập, T1, NXB Sự Thật, Hà Nội, 1980, trang 555.
3. V.I Lênin: Chủ nghĩa đế quốc - giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản.
4. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 12, trang 300.
5. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 9, trang 314.

6. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 10, trang 128.