phần 2: 1945 - 2005
Chương III: QUAN HỆ QUỐC TẾ SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI ĐẾN NĂM 2005
Mục tiêu:
|
I. Sự hình thành trật tự hai cực Yalta và cuộc chiến tranh giữa Xô - Mỹ và hai khối Đông - Tây
1. Sự hình thành trật tự hai cực Yalta
1.1. Khái quát tình hình thế giới sau chiến tranh
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc đã dẫn tới những chuyển biến
căn bản của tình hình quốc tế. Chiến tranh đã làm thay đổi hoàn toàn so
sánh lực lượng trên phạm vi thế giới. Châu Âu, với địa vị trung tâm của
thế giới kể từ khi chủ nghĩa tư bản ra đời, bị suy yếu nghiêm trọng. Các
nước tư bản đứng đầu châu Âu như Anh, Pháp đều bị chiến tranh tàn phá.
Dù là nước thắng trận nhưng Anh, Pháp đều không thể mở rộng phạm vi ảnh
hưởng của mình như thời kì sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, hơn thế
nữa, ngay cả sự thống trị đối với những vùng đất thực dân cũ cũng bị
đe doạ. Các nước phát xít, kẻ thù chung của nhân loại đã bị tiêu diệt và
hoàn toàn kiệt quệ. Châu Âu bị tách thành hai khối Đông và Tây. Trong
lúc đó, nước Mĩ đã vươn lên hết sức nhanh chóng về thế và lực, trở thành
một siêu cường khống chế toàn bộ thế giới tư bản chủ nghĩa. Khi chiến
tranh kết thúc, nước Mĩ chiếm gần 60% tổng sản lượng công nghiệp, 3/4
trữ lượng vàng của thế giới tư bản và là chủ nợ lớn nhất trên thế giới.
Về quân sự, Mĩ đứng
đầu thế giới tư bản về lục quân, hải quân, không quân và nắm độc
quyền về bom nguyên tử trong thời gian đầu sau chiến tranh. Các nước tư
bản châu Âu và Nhật đều phải dựa vào sự giúp đỡ của Mĩ để phục hồi kinh
tế. Đây chính là cơ hội có một không hai để Mĩ vươn lên nắm quyền lãnh
đạo trong hệ thống tư bản chủ nghĩa và thực hiện mưu đồ bá chủ thế giới.
Chiến thắng vĩ đại của Liên Xô trong sự nghiệp tiêu diệt chủ nghĩa
phát xít đã dẫn tới những thay đổi về so sánh lực lượng có lợi cho Liên
Xô và các lực lượng cách mạng trên thế giới. Vị trí quốc tế và ảnh hưởng
của Liên Xô ngày càng được mở rộng. Liên Xô trở thành một cường quốc
quân sự, một nhân tố không thể thiếu trong việc giải quyết các vấn đề
quốc tế. Liên Xô cũng không còn là nước xã hội chủ nghĩa duy nhất bị cô
lập trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc. Hàng loạt nước xã hội chủ
nghĩa ở Đông Âu
ra đời sau khi chiến tranh kết thúc, cùng với Liên Xô đã tạo thành
hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới. Đồng thời, phong trào giải phóng dân
tộc ngày càng phát triển mạnh mẽ và lan rộng ở khắp các châu lục trên
thế giới. Ngay trong chiến tranh, các nước châu á, châu Phi đã sát cánh
cùng các lực lượng Đồng minh chống phát xít trong những điều kiện khó
khăn, gian khổ, góp phần không nhỏ vào sự nghiệp chiến thắng phát xít,
đồng thời chuẩn bị điều kiện cho cách mạng giải phóng dân tộc sau khi
chiến tranh kế tthúc. Cao trào cách mạng giải phóng dân tộc sau Chiến
tranh thế giới thứ hai đã phá vỡ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế
quốc buộc các nước đế quốc phải thừa nhận nền độc lập của các dân tộc.
Trong bối cảnh đó, Mặt trận đồng minh chống phát xít, hình thành
trong chiến tranh, đứng trước nguy cơ tan rã. Những mâu thuẫn trong nội
bộ các lực lượng chống phát xít, vốn tạm thời dịu đi trong chiến tranh,
nay ngày càng bộc lộ công khai.
Ngay trong giai đoạn cuối của chiến tranh, Mĩ đã nhìn nhận Liên Xô
như một lực lượng chính, có khả năng cản trở âm mưu bá chủ thế giới của
mình. Khi thất bại của phe phát xít chỉ còn là vấn đề thời gian, cũng là
lúc Mĩ bắt đầu triển khai chính sách kiềm chế Liên Xô. Quá trình tập
hợp lực lượng mới sau chiến tranh dựa trên cơ sở ý thức hệ và lợi ích
quốc gia được bắt đầu từ Hội nghị Ianta (2 - 1945), khi chiến tranh còn
chưa đi đến hồi kết.
1.2. Sự hình thành Trật tự hai cực Yalta
Như trên đã nói, từ ngày 4 đến 12 - 2 - 1945, tại thành phố Ianta
(Crưm) đã diễn ra Hội nghị thượng đỉnh Tam cường Xô - Mĩ - Anh,
với sự tham gia của nguyên thủ quốc gia ba nước Liên Xô, Mĩ, Anh
là Stalin, Roosevelt và Churchill. Thực chất nội dung hội nghị là sự
tranh giành và phân chia thành quả thắng lợi của chiến tranh giữa
các lực lượng tham chiến, có tác động quyết định đến trật tự thế
giới sau chiến tranh. Sau những thảo luận và tranh cãi quyết liệt, Hội nghị
đã đi đến quyết định về việc kết thúc chiến tranh, việc tiêu diệt
tận gốc chủ nghĩa phát xít Đức và quân phiệt Nhật, việc thành lập
tổ chức Liên Hợp Quốc. Tuy nhiên, quan trọng hơn cả là việc Tam
cường Xô - Mĩ - Anh đã đi đến thoả thuận về việc phân chia phạm
vi ảnh hưởng ở châu Âu và châu á sau chiến tranh. Theo đó, ở châu
Âu, các nước Trung và Đông Âu thuộc phạm vi ảnh hưởng của Liên Xô.
Các nước Tây và Nam Âu sẽ thuộc phạm vi ảnh hưởng của Anh, Mĩ. Về
vấn đề Đức, Liên Xô sẽ chiếm đóng phần Đông Đức và Đông Béclin.
Quân đội Mĩ, Anh, Pháp chiếm đóng phần Tây Đức và Tây Béclin. Riêng Áo và Phần Lan sẽ được hưởng quy chế trung lập.
Những quyết định của Hội nghị Ianta về những vấn đề quan trọng nhất của
thế giới sau chiến tranh đã trở thành nền tảng cơ sở cho việc thiết
lập một trật tự thế giới mới, thường được gọi là Trật tự hai cực
Ianta. Hai nước đứng đầu hai cực, Liên Xô và Mĩ, về cơ bản đã đạt
được những mục tiêu mà mình theo đuổi. Đối với Liên Xô, lúc này
là thời điểm mà vị thế quốc tế của Liên Xô đạt tới đỉnh cao nhất
kể từ sau Cách mạng tháng Mười. Liên Xô trở thành nước duy nhất
có thể tạo ra thế cân bằng với Mĩ, đồng thời là lực lượng có khả
năng đưa chủ nghĩa xã hội vượt ra khỏi phạm vi một nước, trở thành
một hệ thống thế giới. Tổng thống Mĩ cũng nhận thức rõ điều đó và
chấp nhận những thoả thuận với Liên Xô - để cùng sắp xếp trật tự
thế giới mới sau chiến tranh. Chính vì vậy, Trật tự hai cực Ianta
là sự phản ánh một hiện thực mới của thế giới sau chiến tranh:
sự cân bằng quyền lực giữa hai nước lớn - Liên Xô và Mĩ trong quan
hệ quốc tế.
1.3. Tổ chức Liên Hợp Quốc (United Nations)
Ngay từ những năm tháng chiến tranh thế giới diễn ra ác liệt, các nước
trong phe Đồng minh đều đã nhận thức được sự cần thiết phải thành lập
một tổ chức quốc tế mới rộng lớn hơn, hiệu quả hơn để thay thế cho Hội
Quốc Liên trong sứ mệnh gìn giữ hoà bình, an ninh quốc tế, ngăn ngừa
chiến tranh thế giới, thúc đẩy sự hợp tác giữa các dân tộc. Hội nghị
Thượng đỉnh Teheran với sự tham gia của những người đứng đầu ba nước Xô -
Mĩ - Anh đã chuẩn y và khẳng định việc thành lập Liên Hợp Quốc. Sau Hội
nghị Teheran, một nhóm chuyên gia ở Washington được giao nhiệm vụ
chuẩn bị cho việc thành lập tổ chức quốc tế lớn nhất thế giới này. Những
thoả thuận cụ thể liên quan đến việc thành lập Liên Hợp Quốc đã được
thông qua tại Hội nghị ở Dumbarton Oak - ngoại ô Washington tháng
9 - 1944 và được khẳng định ở Hội nghị Thượng đỉnh Ianta tháng 2 -
1945.
Trên cơ sở đó, ngày 25 - 4 - 1945 tại Xan Phranxicô (Mĩ) đại diện của 50 quốc gia (sau này Ba Lan được mời kí vào Hiến chương, nâng tổng số nước sáng lập lên 51 nước) đã tiến hành Hội nghị thành lập Liên Hợp Quốc. Sau hai tháng làm việc, Hội nghị đã thông qua Hiến chương Liên Hợp Quốc và thành lập tổ chức Liên Hợp Quốc. Hiến chương gồm 19 chương với 111 điều khoản, là văn kiện nền tảng cơ bản xác định mục đích, nguyên tắc và các phương thức tổ chức, hoạt động của Liên Hợp Quốc. Hiến chương quy định mục đích cao nhất của Liên Hợp Quốc là nhằm duy trì hoà bình, an ninh thế giới, thúc đẩy quan hệ hữu nghị hợp tác giữa các nước trên cơ sở tôn trọng quyền bình đẳng giữa các quốc gia và nguyên tắc dân tộc tự quyết. Để thực hiện mục đích nêu trên, Hiến chương quy định những nguyên tắc cơ bản của Liên Hợp Quốc gồm: quyền bình đẳng giữa các quốc gia và quyền dân tộc tự quyết, tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị của tất cả các nước không can thiệp vào công việc nội bộ của bất kì quốc gia nào, giải quyết hoà bình các tranh chấp quốc tế, chung sống hoà bình và nguyên tắc nhất trí giữa 5 nước lớn: Liên Xô (nay là Liên bang Nga), Mĩ, Anh, Pháp, Trung Quốc.
Ngoài ra, Liên Hợp Quốc còn có các cơ quan chuyên trách như Hội
đồng quản thác và các tổ chức trực thuộc khác. Trụ sở của Liên Hợp Quốc
đặt tại New York (Mĩ).
Liên Hợp Quốc được thành lập vào lúc Chiến tranh thế giới thứ hai
chuẩn bị kết thúc và ngay sau đó là sự bắt đầu cuộc chiến tranh lạnh
giữa hai khối Đông - Tây. Những mâu thuẫn gay gắt giữa hai cường quốc Xô
- Mĩ trong chiến tranh lạnh đã ảnh hưởng sâu sắc đến những hoạt động
của tổ chức quốc tế lớn nhất thế giới này. Bước vào thập niên 60 của thế
kỷ XX, từ thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc, hàng loạt nước
mới giành được độc lập và trở thành thành viên của Liên Hợp Quốc. Với số
lượng thành viên đông đảo hơn, trong thành phần Liên Hợp Quốc đã hình
thành ba lực lượng: các nước xã hội chủ nghĩa, các nước tư bản chủ
nghĩa và các nước mới giành được độc lập. Điều đó đòi hỏi các nghị quyết
của Liên Hợp Quốc phải tính đến lợi ích của cả ba lực lượng này.
Trong 60 năm tồn tại, Liên Hợp Quốc đã chứng tỏ vai trò to lớn của mình trong đời sống chính trị quốc tế. So với Hội Quốc Liên, Liên Hợp Quốc thể hiện rõ tính chất toàn cầu: thành phần bao gồm hầu hết các quốc gia độc lập trên tất cả các châu lục và đặc biệt là tính toàn diện: chương trình nghị sự không chỉ tập trung vào vấn đề duy trì hoà bình, an ninh mà bao gồm cả các hoạt động nhằm thủ tiêu hoàn toàn chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, thúc đẩy sự hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hoá, khoa học - kĩ thuật… Với tư cách là một tổ chức đa phương toàn cầu lớn nhất với sự tham gia của hầu hết các quốc gia trên thế giới, Liên Hợp Quốc là diễn đàn toàn cầu duy nhất để thúc đẩy đối thoại, hiểu biết chung giữa các nước và là tổ chức không thể thiếu được trong đời sống chính trị quốc tế. Tuy nhiên, với sự thay đổi của tình hình thế giới, số lượng thành viên của Liên Hợp Quốc đã tăng lên khoảng 4 lần (từ 51 nước năm 1945 lên 191 nước năm 2002), trong đó đa số là các nước đang phát triển với ý chí độc lập, tự chủ ngày càng mạnh mẽ. Điều đó đòi hỏi Liên Hợp Quốc phải đổi mới bộ máy và phương thức làm việc để thực sự trở thành một tổ chức quốc tế đại diện cho lợi ích chân chính của tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Nhận xét những hoạt động của Liên Hiệp Quốc đối với việc giải quyết các vấn đề hòa bình trên thế giới: + Vấn đề người Do Thái: đây là nhiệm vụ đầu tiên và cũng là nhiệm vụ quan trọng của Liên Hiệp Quốc trong thời kỳ đầu hoạt động trên thế giới. Người Do Thái là một bộ tộc sinh sống ở vùng đất Israel - Palestine từ lâu đời. Sau khi mất nước, họ phải tha phương nhưng vẫn luôn mong muốn được trở về quê hương có từ lâu đời của mình, và tư tưởng "phục quốc Do Thái" (chủ nghĩa Sion) ra đời từ đó. Sau khi Thế chiến II kết thúc, người Do Thái đã lập tức thành lập quốc gia Do Thái Israel làm các nước Ả rập rất tức giận, và họ phát động tấn công. Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc đã phái một phái đoàn do bá tước Bernadotte dẫn đầu sang hòa giải và bước đầu thành công. Việc này của Liên Hiệp quốc thể hiện hai vấn đề sau. Thứ nhất, các nước sẽ chấp nhận dừng xung đột một khi Liên Hiệp Quốc hòa giải sự việc này một cách tốt nhất. Thứ hai, Liên Hiệp Quốc là tổ chức của nhiều quốc gia, nhưng không quốc gia nào sẵn lòng hy sinh quyền lợi của mình vì quyền lợi chung. Tổ chức này cho phép các nước lớn được trình bày quan điểm của mình và buộc các nước nhỏ phải theo quan điểm của mình + Vấn đề Indonesia: Hà Lan muốn làm chủ lại thuộc địa này trong khi nhân dân xứ này tuyên bố độc lập trước khi Nhật lui quân. Khi Hà Lan quay trở lại chiếm vùng này, Liên Hiệp Quốc đã đạt ủy ban điều đình nhưng bất thành, biết được điều đó, Mỹ còn dọa cắt ngân khoản của Hà Lan... kết quả là Hà Lan chấp nhận cho Liên Hiệp Quốc can thiệp và Indonesia độc lập. Nguyên nhân chính để Hà Lan cho Liên Hiệp quốc can thiệp đó là Hà Lan không chống nổi cuộc đấu tranh của nhân dân Indonesia.
1.4. Việc giải quyết vấn đề các nước phát xít bại trận sau chiến tranh
Việc giải quyết vấn đề các nước phát xít chiến bại, tiến tới bình
thường hoá quan hệ giữa các nước thắng trận với các nước bại trận, có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thiết lập trật tự thế giới mới sau
chiến tranh và giữ gìn hoà bình, an ninh cho thế giới.
Trước hết là vấn đề Đức, vấn đề trung tâm của châu Âu sau chiến tranh.
Hội nghị Pốtxđam (17 - 7 - 1945 đến 2 - 8 - 1945) đã xác định những
nguyên tắc cơ bản về việc phi quân sự hoá nước Đức, tiêu diệt tận gốc
chủ nghĩa phát xít, thủ tiêu nền công nghiệp quân sự - chiến tranh, thực
hiện các quyền tự do, dân chủ, đưa nước Đức trở thành một quốc gia
thống nhất, hoà bình và dân chủ. Hội nghị Pốtxđam đồng thời cũng khẳng
định rằng, lực lượng Đồng minh không hề có ý định tiêu diệt hay biến
nhân dân - dân tộc
Đức thành nô lệ, như điều đã từng xảy ra sau Chiến tranh thế giới thứ
nhất (1914 - 1918). Theo quyết định của Hội nghị Pốtxđam, bốn nước Liên
Xô, Mĩ, Anh và Pháp sẽ tạm thời chiếm đóng nước Đức: Liên Xô ở khu vực
phía Đông, ba nước Mĩ, Anh, Pháp ở khu vực phía Tây. Để xét xử tội phạm
chiến tranh, Toà án quốc tế Nuyrembe đã tổ chức trên 400 phiên họp kéo
dài từ tháng 10 - 1945 đến 8 - 1946. Các nước đồng minh được nhận những
khoản bồi thường chiến tranh ở các khu vực chiếm đóng và từ các nguồn
đầu tư của Đức ở nước ngoài.
Về vấn đề Nhật Bản, Tuyên bố Pốtxđam đã quy định những
nguyên tắc cơ bản trong việc giải quyết vấn đề Nhật Bản sau chiến tranh
như: Nhật Bản phải đầu hàng Đồng minh vô điều kiện, quân đội Đồng minh
sẽ chiếm đóng lãnh thổ Nhật, chủ quyền của Nhật được giới hạn trong 4
đảo chính (Hốccaiđô, Hônsư, Kiusiu và Xicôcư) và một số đảo phụ cận,
quân đội Nhật bị giải giáp, dân chủ hoá nước Nhật và thủ tiêu hoàn toàn
chủ nghĩa quân phiệt, giải tán các tập đoàn kinh tế công nghiệp quân
sự, xét xử các tội phạm chiến
tranh, nước Nhật phải chịu trách nhiệm bồi thường chiến tranh… Sau khi
Nhật Bản đầu hàng, lấy danh nghĩa quân Đồng minh, quân đội Mĩ đã chiếm
đóng toàn bộ Nhật Bản. Liên Xô phản đối quyết liệt hành động độc chiếm
Nhật Bản của Mĩ và yêu cầu thành lập một Uỷ ban quản chế Nhật Bản. Hội
nghị ngoại trưởng 5 cường quốc (Liên Xô, Mĩ, Anh, Pháp, Trung Quốc)
tháng 12 - 1945 ở Mátxcơva đã đi đến thoả thuận cho phép các nước Đồng
minh chủ yếu tham gia hoạch định và kiểm tra việc thực hiện chính sách
đối với Nhật. Uỷ ban Viễn Đông được thành lập ở Oasinhtơn, sau đó Uỷ
ban đồng minh về Nhật Bản cũng được thành lập ở Tôkiô. Tuy nhiên, cả hai
uỷ ban này đều bị Mĩ khống chế.
Tháng 10 - 1950, Chính phủ Mĩ đưa ra dự thảo về Hoà ước kí với Nhật do
Mĩ đơn phương soạn thảo. Hành động của Mĩ đã bị Liên Xô, Trung Quốc, các
nước xã hội chủ nghĩa và dư luận tiến bộ trên thế giới kịch liệt phản
đối. Sau đó, Mĩ tổ chức Hội nghị hoà bình ở Xan Phranxicô (9 - 1951) để
kí kết hoà ước với Nhật. Hoà ước Xan Phranxicô là một hoà ước riêng rẽ,
không bao gồm chữ kí của tất cả các nước tham chiến, vi phạm thô bạo
quyền lợi của các nước tham gia chống Nhật mà không được mời tham dự Hội
nghị hoặc không kí vào Hoà ước (Liên Xô, Ba Lan, Tiệp Khắc). Hoà ước
là văn kiện dọn đường cho Mĩ tiếp tục chiếm đóng nước Nhật và hình thành
liên minh Mĩ - Nhật, phục vụ cho chính sách thù địch của Mĩ đối với các
nước xã hội chủ nghĩa.
Về việc kí kết hoà ước với các nước bại trận khác
(Italia, Bungari, Hunggari, Rumani và Phần Lan), sau nhiều năm đấu tranh
gay gắt, cuối cùng các hoà ước đã được kí kết tại Hội hoà bình Pari
ngày 10 - 2 - 1947. Khác với Hoà ước Vécxai năm 1919, sự tham dự và vai
trò của Liên Xô đã làm thay đổi nội dung và tính chất của các hoà ước.
Nội dung các hoà ước về cơ bản đã đáp ứng được lợi ích của nhân dân các
nước chiến thắng, đồng thời cũng không quá khắt khe, nặng nề với nhân
dân các nước bại trận.
Như vậy, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, một trật tự thế giới mới đã
hình thành theo khuôn khổ thoả thuận Ianta với hai cực, đứng đầu là Liên
Xô và Mĩ. Trật tự hai cực Ianta được các cường quốc thắng trận thiết
lập sau Chiến tranh thế giới thứ hai nhằm đảm bảo những lợi ích chính
trị, kinh tế của mình. Tuy nhiên, nếu so với Hệ thống Versailles - Washington, được thiết lập sau Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 -
1918), Trật tự hai cực Ianta có những nét khác biệt cơ bản. Trước hết,
đó là sự đối lập về hệ tư tưởng giữa hai cực, một bên là Liên Xô, một
nước xã hội chủ nghĩa, lực lượng hậu thuẫn cho phong trào cách mạng thế
giới, với một bên là Mĩ, nước đứng đầu thế giới tư bản với vai trò hậu
thuẫn cho các lực lượng phản cách mạng và âm mưu vươn lên vị trí thống
trị thế giới. Cuộc đối đầu giữa hai cực diễn ra gay gắt, quyết liệt, kéo
dài hơn 4 thập kỉ, kéo theo sự đối đầu giữa hai khối Đông - Tây và cuốn
hút nhiều quốc gia, khu vực vào vòng xoáy căng thẳng, phức tạp của nó.
Tuy nhiên, về cơ cấu tổ chức, với
việc thanh toán chiến tranh, duy trì hoà bình, an ninh sau chiến tranh,
việc kí kết hoà ước với các nước chiến bại… Trật tự hai cực Ianta thể
hiện sự tiến bộ và tích cực hơn so với Hệ thống Vécxai - Oasinhtơn. Đặc
biệt, vai trò, tính ưu việt của Liên Hợp Quốc so với Hội Quốc Liên trong
việc giám sát, duy trì hoà bình, an ninh thế giới, phát triển sự hợp
tác về mọi mặt giữa các quốc gia… đã thể hiện một bước tiến mới của nhân
loại trong quan hệ quốc tế nửa sau thế kỉ XX.
Ảnh hưởng của trật tự hai cực Yalta đối với các mối quan hệ toàn cầu + Trước hết, đây là lần đầu tiên kể từ khi thế giới có trật tự, quan hệ quốc tế được phân tuyến, tổ chức theo hai hệ thống chính trị - xã hội đối lập, trong đó lần đầu tiên chủ nghĩa tư bản mất quyền đơn phương định đoạt các vấn đề toàn cầu bởi sự xuất hiện một đối trọng mới, một chủ thể chính trị - xã hội được xem là tiên tiến nhất: chủ nghĩa xã hội. Và cũng là lần đầu tiên, chủ nghĩa xã hội đã tham gia quyết định chiều hướng phát triển của lịch sử nhân loại. + Hai là, trật tự hai cực đã làm xuất hiện một kiểu quan hệ quốc tế mới dựa trên những nguyên tắc hoàn toàn mới mẻ. Những nguyên tắc đó phụ thuộc vào sự biến chuyển trong các cặp quan hệ giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội; giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội đối với các nước thuộc Thế giới thứ ba; giữa nội bộ chủ nghĩa tư bản trên thế giới và giữa nội bộ các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa. + Ba là, trong hơn 40 năm tồn tại trật tự thế giới hai cực do Liên Xô và Mĩ làm đại diện, các thế lực phản động thế giới đứng đầu là đế quốc Mĩ đã gây ra cuộc chạy đua vũ trang khốc liệt, đã tiến hành các cuộc chiến tranh cục bộ đẫm máu… Nhưng thế giới vẫn có những chuyển biến sâu sắc theo hướng tích cực:
- Thứ nhất, với sự sụp đổ của chủ nghĩa
thực dân cùng với sự ra đời và lớn mạnh của hàng trăm quốc gia độc lập trẻ
tuổi, nhân loại đã chuyển từ kỷ nguyên dân tộc bị thực dân thống trị sang kỷ
nguyên độc lập dân tộc. Sức mạnh của các cường quốc đế quốc ngày nay không thể
đè bẹp được ý chí độc lập của các dân tộc. Vai trò của các nước đang phát triển
ngày càng tăng trên thế giới. Với sự giải phóng các dân tộc thuộc địa, một bộ phận
rất to lớn của lực lượng lao động thế giới được giải phóng trở thành động lực
quan trọng thúc đẩy sự phát triển của kinh tế thế giới.
- Thứ hai, với sự hình thành và phát triển của hệ
thống xã hội chủ nghĩa – một đối trọng của hệ thống tư bản chủ nghĩa, đã có tác
dụng ngăn chặn sự áp bức bóc lột và nô dịch của chủ nghĩa tư bản trên một bộ
phận rất lớn của thế giới (điều mà trước đây không hề có); tạo điều kiện cho
cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc dân chủ và tiến bộ xã hội của các
dân tộc phát triển mạnh mẽ.
- Thứ ba, hơn 40 năm qua với sự tồn tại trật tự hai
cực, đã không diễn ra chiến tranh thế giới, hòa bình thế giới về cơ bản vẫn
được giữ vững. Đó là cuộc đấu tranh mạnh mẽ của toàn thể nhân dân tiến bộ trên
thế giới chống chiến tranh xâm lược và nguy cơ chiến tranh hạt nhân hủy diệt và
bảo vệ hòa bình. Nhưng mặt khác là do sự cân bằng về quân sự - chiến lược giữa
Liên Xô và Mĩ, buộc cả hai phải tránh đụng đầu trực tiếp về quân sự, vì nếu
chiến tranh thế giới nổ ra chắc chắn sẽ không có kẻ chiến thắng trong cuộc đụng
đầu vũ khí hạt nhân hủy diệt này.
- Thứ tư, hơn 40 năm qua, nền kinh tế thế giới đang
vượt ra khỏi phạm vi quốc gia và các ngăn cách khu vực để trở thành một thị
trường có tính toàn cầu, bao trùm thế giới. Từ đây, lực lượng sản xuất thế giới
sẽ được giải phóng mạnh mẽ để tiến tới những bước đột phá trong phát triển kinh
tế thế giới trong những năm tới.
Sự khác biệt trật tự hai cực Yalta với trật tự trước đó: trật tự Versailles - Washington Như đã nói ở phần trước, khi một trật tự cũ không còn phù hợp với tình hình quốc tế thì nó ngay lập tức sẽ bị xóa bỏ và thay vào đó là một trật tự mới hoàn thiện hơn, phù hợp với lợi ích của một số cường quốc muốn làm bá chủ thế giới thời đó. Năm 1945, theo thỏa thuận của Hội nghị Yalta (2/1945), một trật tự mới đã ra đời thay thế cho trật tự lạc hậu, lỗi thời, đó là trật tự hai cực Yalta. So với trật tự đầu tiên, trật tự lần này có nhiều sự khác biệt cơ bản: + Đó là sự phân chia khu vực ảnh hưởng, chủ yếu là của hai siêu cường Xô - Mỹ, những lực lượng chủ lực đánh bại chủ nghĩa phát xít quốc tế. Với bản chất chế độ chính trị khác nhau, hai nước đã nhanh chóng từ liên minh chống phát xít trở thành đối địch nhau, mỗi nước tập hợp chung quanh mình nhiều đồng minh, lập thành 2 phe tư bản - cộng sản. Đó là trật tự hai cực Yalta, và cũng là lần đầu tiên trong lịch sử,các trật tự quốc tế, thế giới lại được phân đôi với hai siêu cường hùng mạnh đến thế. + Nếu trong trật tự Versailles - Washington, quyền lực chi phối thuộc về các cường quốc tư bản Anh, Pháp, Mỹ thì trong trật tự Yalta tình hình đã thay đổi. Liên Xô - nhà nước XHCN đứng đầu một cực đối trọng với Mỹ - siêu cường cực kia. Liên Xô trở thành thành trì của cách mạng thế giới, làm hậu thuẫn cho phong trào xã hội chủ nghĩa, cách mạng giải phóng dân tộc vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội. Các nước đế quốc không còn có thể hoàn toàn thao túng các quan hệ quốc tế, quyết định số phận của các dân tộc như trong trật tự Versailles - Washington trước kia. + Sự đối đầu giữa hai siêu cường và hai phe TBCN và XHCN. Thế giới phân đôi với cuộc "Chiến tranh lạnh" căng thẳng, chạy đua vũ trang ráo riết và các khối liên minh chính trị - quân sự liên tiếp ra đời. Thế giới như luôn bên bờ vực của cuộc chiến tranh hủy diệt và đã diễn ra các cuộc chiến tranh cục bộ mà thực chất là sự đối đầu giữa hai phe, như cuộc chiến tranh giữa hai miền Triều Tiên (1950 - 1953), cuộc chiến tranh của nhân dân 3 nước Đông Dương chống đế quốc Mỹ là cuộc chiến tranh cục bộ lớn nhất giữa hai phe. + Tuy đối đầu quyết liệt như vậy, nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau (chạy đua vũ khí hạt nhân, chạy đua kinh tế dưới tác động của khoa học kỹ thuật) mà hai siêu cường Xô - Mỹ thực hiện chiến lược phòng ngự, các nước lớn như Trung Quốc, Anh, Pháp, Liên Xô đều hết sức tránh nguy cơ phải đụng đầu trực tiếp với các nước lớn hơn. Do đó, thế giới trong trật tự này diễn ra nhiều xu hướng: đối đầu, hòa hoãn, đấu tranh và hợp tác. Liên Hiệp Quốc ra đời vào giai đoạn sau Thế chiến II với những tham khảo kinh nghiệm của Hội Quốc Liên trước kia, đã trở thành một diễn đàn thế giới vừa đấu tranh vừa hợp tác, đặc biệt chính nguyên tắc nhất trí giữa 5 nước ủy viên của tổ chức này đã trở thành 1 nguyên tắc thực tiễn lớn đảm bảo cho chung sống hòa bình, vừa đấu tranh vừa hợp tác đó, đồng thời nguyên tắc này còn nhằm ngăn chặn không để một cường quốc nào khống chế được LHQ vào mục đích bá quyền của mình.
2. Cuộc chiến tranh lạnh
2.1. Chủ nghĩa Truman và sự bắt đầu chiến tranh lạnh
|
- Năm 1991, sau khi Liên Xô sụp đổ, trật tự thế giới
tồn tại gần nửa thế kỷ đã bị phá vỡ, cục diện thế giới và quan hệ chính trị
quốc tế thay đổi về cơ bản, dẫn đến hình thành trật tự thế giới mới và tập hợp
lực lượng mới. Trước hết, đó là sự điều chỉnh chiến lược đối ngoại của các nước
lớn nhằm giành vị trí xứng đáng trong quan hệ quốc tế. Tất cả các nước khác
cũng đều tìm cách tác động một cách có lợi nhất cho mình vào quá trình thiết
lập trật tự thế giới mới. Từ sự đa dạng về lợi ích của các chủ thể quan hệ quốc
tế đã hình thành nhiều mối quan hệ song phương và đa phương, làm cho tình hình
thế giới càng thêm phức tạp.
- Trong số các cường quốc, thời kỳ này thực lực giữa
ba trung tâm của chủ nghĩa tư bản là Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản đã nhích lại gần
nhau, không còn quá chênh lệch như trước đây. Mỹ không còn quá mạnh để áp đặt
các nước, nhưng vẫn muốn xác lập vai trò lãnh đạo thế giới. Tuy nhiên, các đồng
minh Nhật Bản và Tây Âu lại muốn khẳng định vai trò của mình, không chấp nhận
trật tự thế giới một cực do Mỹ chi phối. Trung Quốc, Nga, Ấn Độ là những nước
tuy còn có những mặt yếu, nhưng cũng đang trên đà phát triển và đều ủng hộ một
trật tự thế giới đa cực. Trung Quốc sau gần 30 năm cải cách mở cửa đã đạt được
nhiều thành tựu, có uy tín và vị thế quan trọng trong quan hệ quốc tế. Nga vẫn
là cường quốc hạt nhân, sau một thời gian dài khủng hoảng, đã và đang khôi phục
địa vị cường quốc của mình. Ấn Độ tuy là nước đang phát triển, nhưng đã trở
thành một trong mười nước có hạt nhân và đang có ảnh hưởng lớn trong thế giới
thứ ba. Xu hướng liên kết tam giác Nga -
Trung - Ấn đã bộc lộ khá rõ nét trong thời kỳ Sau Chiến tranh lạnh.- Hiện nay, hầu hết các nước trên thế giới đều ủng hộ một thế giới đa cực, có nhiều trung tâm, cân bằng lực lượng giữa các bên, vì chỉ có trên cơ sở đó mới có thể giải quyết mọi tranh chấp, bất đồng quốc tế bằng con đường đàm phán dân chủ, hòa bình.
2. Đặc điểm chủ yếu của tình hình thế giới:
Thế giới thời kỳ sau Chiến tranh lạnh có 5 đặc điểm nổi bật sau đây:
- Thứ nhất, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, chủ nghĩa xã hội hiện thực lâm vào thoái trào, so sánh lực lượng trên thế giới thay đổi bất lợi cho phong trào cách mạng và hòa bình, nhưng tính chất thời đại vẫn không thay đổi, loài người vẫn ở thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới vẫn tồn tại và phát triển sâu sắc với những hình thức biểu hiện mới.
- Thứ hai, nguy cơ chiến tranh thế giới hủy diệt bị đẩy lùi, hòa bình thế giới được giữ vững, nhưng xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ, xung đột sắc tộc, dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, các hoạt động can thiệp lật đổ, khủng bố quốc tế vẫn xảy ra nhiều nơi.
- Thứ ba, cách mạng khoa học và công nghệ với nội dung cơ bản là cách mạng về công nghệ thông tin, sinh học, năng lương, vật liệu mới phát triển với trình độ cao, làm tăng nhanh lực lượng sản xuất, đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hóa nền kinh tế và đời sống xã hội. Các quốc gia đang đứng trước những cơ hội để phát triển, nhưng cũng chịu những thách thức lớn. Cuộc cạnh tranh kinh tế - thương mại và khoa học công nghệ đang diễn ra gay gắt.
- Thứ tư, cộng đồng thế giới đang đứng trước những vấn đề toàn cầu cấp bách như khủng bố quốc tế, bảo vệ môi trường, hạn chế bùng nổ dân số, tình trạng đói nghèo, phòng ngừa và đẩy lùi những bệnh tật hiểm nghèo… mà không một quốc gia riêng rẽ nào có thể giải quyết được. Điều đó đòi hỏi sự hợp tác đa phương, sự phối hợp giữa các quốc gia.
- Thứ năm, khu vực châu Á – Thái Bình Dương đang trở thành khu vực phát triển năng động và tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Xu thế tự do hóa thương mại, liên kết hợp tác kinh tế diễn ra phong phú và có hiệu quả. Các nước lớn, các trung tâm kinh tế trên thế giới đều điều chỉnh chiến lược, chuyển hướng mạnh vào châu Á – Thái Bình Dương, vừa tạo thời cơ cho các nước phát triển, nhưng cũng chứa đựng những nhân tố tiềm ẩn gây mất ổn định ở khu vực.
3. Đặc điểm quan hệ các nước lớn hiện nay
Hiện nay, do thay đổi trong môi trường chính trị quốc tế và những điều chỉnh chiến lược tương ứng, mối quan hệ giữa các nước lớn vẫn đang trong quá trình vận động, điều chỉnh và chưa ổn định. Tuy nhiên có thể khái quát thành 4 đặc điểm chủ yếu:
- Thứ nhất, tính chất chủ đạo trong quan hệ đã chuyển từ đối kháng sang quan hệ đối tác. Bên cạnh các quan hệ chiến lược cũ (Mỹ - Nhật, Mỹ - Tây Âu), ngày càng tăng cường mở rộng quan hệ đối tác chiến lược mới (Tây Âu - Nga, Nga - Trung - Ấn, Mỹ - Nga, Mỹ - Trung, Mỹ - Ấn). Tuy nhiên, bên cạnh mặt hợp tác, quan hệ giữa các nước lớn vẫn ẩn chứa cả mặt cạnh tranh và kiềm chế.
- Thứ hai, tính không chắc chắn, không ổn định trong quan hệ giữa các cường quốc. Điều này xuất phát từ 6 nguyên nhân chủ yếu: 1) Sự thay đổi trong tương quan sức mạnh giữa các nước: ưu thế vượt trội của Mỹ, sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc, phần nào là Ấn Độ, sự suy yếu của Nga, sự trì trệ kéo dài của kinh tế Nhật Bản; 2) Vẫn còn tồn tại những nghi kỵ lịch sử sâu sắc (Tây Âu - Nga, Nhật - Trung, Trung - Ấn, Nga - Trung); 3) Sự tồn tại nhiều tranh chấp lãnh thổ chưa được giải quyết: quần đảo Curin giữa Nga và Nhật, đảo Senkaku (Ngư Điếu) giữa Trung Quốc và Nhật, vấn đề biên giới Trung - Ấn…; 4) Sự thiếu vắng một cơ chế hợp tác đa phương ở châu Á - Thái Bình Dương (như Tổ chức an ninh và hợp tác ở châu Âu); 5) Do lợi ích của các nước lớn vừa đan xen, song trùng trên một số lĩnh vực, nhưng lại mâu thuẫn trên một số lĩnh vực khác nên các nước có xu hướng tập hợp trên từng vấn đề; 6) Trong quan hệ giữa các cường quốc đang tồn tại mâu thuẫn chiến lược giữa chủ trương thế giới một cực và chủ trương thế giới đa cực.
- Thứ ba, quan hệ giữa các nước lớn hiện đang ẩn chứa nhiều yếu tố: vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa đấu tranh vì lợi ích của mình. Các nước tăng cường quan hệ với các nước khác nhằm tăng thế mặc cả trong quan hệ, đặc biệt là với Mỹ. Trung Quốc và Nga xích lại gần nhau nhằm đối trọng với xu thế bá quyền của Mỹ, Ấn Độ cũng tăng cường hạt nhân và quan hệ với Mỹ, Nhật và Ôxtrâylia nhằm cân bằng với Trung Quốc. Mỹ lôi kéo Ấn Độ về mình, ngăn không cho trục Nga - Trung - Ấn hình thành và kiềm chế Trung Quốc; Mỹ và Trung Quốc tăng cường hợp tác về kinh tế, về không phổ biến vũ khí hạt nhân và về bán đảo Triều Tiên.
- Thứ tư, trục đấu tranh chính trong quan hệ giữa các nước lớn đã chuyển từ Mỹ - Liên Xô sang quan hệ Mỹ - Trung. Trước đây, Mỹ quan hệ với Trung Quốc để ngăn chặn Liên Xô, nay kết cấu chiến lược đó không còn ý nghĩa. Sự lớn mạnh của Trung Quốc lại thách thức dài hạn đối với Mỹ, biến mối quan hệ Mỹ - Trung lên tầm cao mới, thành trục chính và quan trọng nhất. Nếu Mỹ - Trung đối đầu, khả năng phân cực sẽ diễn ra giữa Mỹ - Nhật một bên, Nga - Trung (có thể cả Ấn Độ) một bên. Nếu quan hệ Trung - Mỹ ổn định, sự phân cực giữa các nước lớn sẽ không xảy ra.
4. Mâu thuẫn trong quan hệ quốc tế sau chiến tranh lạnh
Chiến tranh lạnh kết thúc, trật tự hai cực Ianta giải thể với sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu. So sánh lực lượng trên bình diện toàn cầu từ chỗ cân bằng giữa hai hệ thống chính trị - xã hội đối lập nay chuyển sang trạng thái mất cân bằng theo hướng có lợi cho Mĩ và phương Tây. Tuy nhiên, tình hình quốc tế đã không phát triển một cách hoà bình, ổn định như người ta mong đợi. Sự đối đầu Đông - Tây về hệ tư tưởng, chính trị, quân sự, kinh tế… đã từng chi phối đời sống quốc tế trong suốt thời kì chiến tranh lạnh, nay được chuyển hoá dưới những hình thức khác, bên cạnh sự nổi lên của những mâu thuẫn mới. Sự vận động của các mâu thuẫn này sẽ quyết định diện mạo của trật tự thế giới và xu hướng phát triển của quan hệ quốc tế sau chiến tranh lạnh.
Trước hết, đó là mâu thuẫn giữa các nước lớn xung quanh việc thiết lập một trật tự thế giới mới. Khác với các trật tự thế giới trước đây thường được thiết lập ngay sau khi chiến tranh kết thúc, trật tự thế giới mới đã không thể ra đời ngay sau khi Liên Xô tan rã. Mặc dù Tổng thống Mĩ Busơ (cha) năm 1991 đã tuyên bố về một trật tự thế giới đơn cực do Mĩ chi phối, nhưng thực tế lịch sử đã không diễn ra theo ý muốn của Mĩ. Liên Xô tan rã nhưng Liên bang Nga vẫn tiếp tục tồn tại với tiềm lực quân sự kế thừa Liên Xô cũ và không phải là một cường quốc bại trận để chấp nhận một trật tự thế giới do Mĩ áp đặt. Các trung tâm kinh tế, các cường quốc khu vực như Tây Âu, Nhật Bản, Trung Quốc… không ngừng lớn mạnh và cố gắng tạo cho mình một vị thế đáng kể để chia sẻ quyền lực chi phối đời sống chính trị quốc tế. Trong lúc các cường quốc đang nổi lên thì Mĩ vẫn là một siêu cường, một cường quốc vượt trội và là cường quốc duy nhất có ảnh hưởng ở cấp độ toàn cầu. Nước Mĩ vừa trải qua một chu kì tăng trưởng dài nhất trong lịch sử nước này (1992 - 2001), với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao (từ 3 đến 4%), chỉ số thất nghiệp thấp, mức lạm phát thấp. Với số dân chỉ bằng 4,7% dân số thế giới, nhưng nước Mĩ chiếm trên 30% GDP toàn cầu, với khoảng 10.000 tỉ đôla hàng năm, bằng GDP của tất cả các nước thành viên Liên minh châu Âu (EU) cộng lại. Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, sức mạnh tổng hợp của Mĩ (gồm 7 lĩnh vực: kinh tế, quân sự, khoa học công nghệ, tài nguyên thiên nhiên, chính trị, xã hội, ảnh hưởng trên trường quốc tế) lớn hơn hai lần Nhật Bản và hơn bốn lần Trung Quốc(1). Với sự giải thể Liên bang Xô viết, Mĩ không còn đối thủ cạnh tranh và có mưu đồ thiết lập trật tự thế giới một cực. Nhằm đạt được mục tiêu chiến lược ngăn chặn không cho cường quốc nào, dù là đồng minh hay đối thủ vươn lên thách thức vai trò siêu cường của mình, Mĩ thực hiện chính sách đối ngoại đơn phương, chà đạp lên các nguyên tắc của luật pháp quốc tế, coi thường các tổ chức quốc tế, kể cả Liên Hợp Quốc và chỉ lợi dụng các tổ chức này khi cần thiết vì lợi ích của Mĩ. Mĩ cho triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa chống tên lửa (NMD), rút ra khỏi hiệp ước ABM, từ chối không phê chuẩn Hiệp ước cấm thử vũ khí hạt nhân… Chiến lược xây dựng một thế giới đơn cực do Mĩ chi phối được bắt đầu ngay sau chiến tranh lạnh và được thể hiện bằng những biện pháp cứng rắn, công khai hơn trong thời kì cầm quyền của Tổng thống Bush (con).
Trong bối cảnh đó, sự kiện nước Mĩ bị tấn công khủng bố ngày 11 - 9 - 2001 là một đòn choáng váng thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa âm mưu thiết lập trật tự đơn cực của Mĩ. Sau khi mất ngọn cờ “chống cộng” để tập hợp lực lượng trong chiến tranh lạnh, Mĩ đưa ra chiêu bài thành lập liên minh chống khủng bố quốc tế để tập hợp lực lượng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành một trật tự thế giới mới do Mĩ chi phối. Sự kiện 11 - 9 - 2001 được dùng để biện minh cho quyết định sử dụng lực lượng quân sự phát động cuộc chiến tranh chớp nhoáng ở ápganixtan (10 - 2001) và cuộc chiến tranh Irắc (3 - 2003) của Mĩ, bất chấp sự phản đối của dư luận quốc tế. Mĩ đã lợi dụng cuộc chiến chống khủng bố để tăng cường sức mạnh và thực hiện mục tiêu chiến lược lâu dài bá chủ thế giới của mình. Chủ nghĩa đơn phương, ý đồ thiết lập trật tự thế giới đơn cực của Mĩ đã vấp phải sự chống đối không những của các nước lớn như Pháp, Đức, Nga, Trung Quốc… mà còn của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Phong trào chống chiến tranh, chống chính sách hiếu chiến của Mĩ ở Irắc lan rộng khắp thế giới. Mâu thuẫn giữa chủ trương xây dựng thế giới đơn cực do Mĩ chi phối với yêu cầu thiết lập một trật tự đa cực của các nước lớn và cộng đồng quốc tế là một trong những mâu thuẫn cơ bản trong quan hệ quốc tế thời kì sau Chiến tranh lạnh.
Thứ ba là mâu thuẫn về sắc tộc, tôn giáo. Đây là mâu thuẫn đã từng tồn tại từ lâu đời trong lịch sử nhân loại. Xung đột sắc tộc, tôn giáo vốn được biết đến như những hậu quả của chính sách “chia để trị” của chủ nghĩa thực dân, đồng thời còn bắt nguồn từ sự bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, văn hoá, việc tranh giành ảnh hưởng quyền lực giữa các nhóm sắc tộc, sự xúi giục, kích động của một số thế lực bên ngoài… Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, trong xu thế dân chủ, đa nguyên, đa đảng, các cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo bùng nổ, lan rộng và diễn ra ngày càng quyết liệt ở các khu vực khác nhau trên thế giới. Trong đó, chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan có điều kiện tăng cường hoạt động và trở thành nguồn gốc của chủ nghĩa khủng bố quốc tế hiện nay. Xu hướng chính của chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan là chống Mỹ và các nước phương Tây thân Mĩ, nhưng lấy thủ đoạn khủng bố làm vũ khí. Chính sách đối ngoại hiếu chiến của chính quyền Mĩ đã khiến cho Mĩ trở thành đối tượng của chủ nghĩa khủng bố ở khắp mọi nơi trên thế giới. Khủng bố quốc tế có tác động mạnh mẽ đến quan hệ quốc tế, gây bất ổn định trong nội bộ quốc gia, đồng thời tác động đến hoà bình, an ninh khu vực nói riêng và trên thế giới nói chung. Tình hình sẽ trở nên đặc biệt phức tạp khi khủng bố và chống khủng bố trở thành công cụ của nhà nước này chống lại nhà nước khác, làm căng thẳng quan hệ quốc tế.
Thứ tư là mâu thuẫn về hệ tư tưởng. Đã hơn 10 năm trôi qua sau khi chiến tranh lạnh kết thúc. Liên Xô tan rã, nhưng mâu thuẫn về ý thức hệ không vì thế mà mất đi. Trên bình diện quốc tế, các nước tư bản chủ nghĩa đứng đầu là Mĩ vẫn chưa từ bỏ ý đồ thực hiện “diễn biến hoà bình” với các nước xã hội chủ nghĩa còn lại như Trung Quốc, Việt Nam, Cuba, Bắc Triều Tiên… Biên giới của thời kỳ chiến tranh lạnh vẫn còn ở bán đảo Triều Tiên, eo biển Đài Loan. Để chống các nước xã hội chủ nghĩa, các nước tư bản không chỉ dùng diễn biến hoà bình mà còn dùng biện pháp bao vây, cấm vận, sự trừng phạt về kinh tế, đe doạ về quân sự, sử dụng chiêu bài bảo vệ dân chủ, nhân quyền… Tuy nhiên, sự tồn tại của mâu thuẫn về ý thức hệ không thể cản trở quá trình hợp tác kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay giữa các nước có hệ thống chính trị xã hội đối lập nhau. Trong tình hình đó, mâu thuẫn giữa các nước xã hội chủ nghĩa với Mĩ và các nước tư bản chủ nghĩa khác vẫn là đối kháng về ý thức hệ song sự đối kháng đó không phải là nhân tố chủ đạo chi phối quan hệ quốc tế như trong thời kỳ chiến tranh lạnh trước đây. Mâu thuẫn về ý thức hệ giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội được thể hiện chủ yếu thông qua “diễn biến hoà bình” và “chống diễn biến hoà bình”. Cuộc đấu tranh này diễn ra trên nhiều phương diện và là một quá trình đấu tranh lâu dài.
Thứ năm, mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển với các nước đang phát triển (mâu thuẫn Bắc - Nam) tiếp tục diễn ra gay gắt, khoảng cách giữa các nước giầu với các nước nghèo ngày càng lớn. Theo báo cáo của Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP), tổng thu nhập kinh tế thế giới những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, vào khoảng 25.000 tỉ đôla Mĩ, trong đó các nước phát triển Mĩ, EU và Nhật chiếm tới 88%. Phần còn lại là của trên 100 nước đang phát triển. Sự cách biệt giàu nghèo ngày càng lớn đã, đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự ổn định, an ninh và sự thịnh vượng chung của thế giới. Tình trạng nghèo khổ, bất bình đẳng, mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo bùng lên đã khiến cho quy mô của chủ nghĩa khủng bố lan tràn trên khắp các lục địa, với những hình thức hết sức đa dạng. Mâu thuẫn về khoảng cách giàu nghèo còn diễn ra trong nội bộ từng nước, đặc biệt là trong các nước tư bản phát triển. Cuộc đấu tranh đòi dân chủ, nâng cao chất lượng cuộc sống, chống thất nghiệp, tệ nạn xã hội… ở các nước tư bản diễn ra ngày càng mạnh mẽ.
Nhìn chung có thể thấy, các mâu thuẫn cơ bản của thời đại vẫn còn tồn tại, song sự vận động của chúng có những biểu hiện mới, không giống như thời kỳ chiến tranh lạnh. Điều đó có tác động quyết định đến chiều hướng phát triển của quan hệ quốc tế sau chiến tranh lạnh.
5. Xu thế phát triển của quan hệ quốc tế sau chiến tranh lạnh
a. Xu hướng chung:
Thứ nhất, thế giới đang chuyển tiếp sang một trật tự thế giới mới. Thời kỳ quá độ sau chiến tranh lạnh hiện nay được các nhà nghiên cứu gọi là trạng thái “nhất siêu, nhiều cường”. Trong trạng thái này, Mĩ nổi lên là siêu cường mạnh nhất so với các cường quốc khác, với ưu thế vượt trội trên tất cả các lĩnh vực then chốt của sức mạnh. Do tương quan lực lượng giữa các nước lớn hiện nay đang có lợi cho Mĩ, cùng với những thắng lợi quân sự nhanh chóng tại ápganixtan và Irắc, nên Mĩ có chủ trương xây dựng một trật tự thế giới đơn cực do Mĩ chi phối. Tuy nhiên ảnh hưởng của Mĩ bị cạnh tranh mạnh mẽ bởi sự vươn lên của các cường quốc khác như Nhật Bản, Tây Âu, Nga, Trung Quốc… Xu thế phát triển của trật tự thế giới trong tương lai là tiến tới một hệ thống đa cực, bởi lẽ nhìn trên bình diện toàn cầu, một quốc gia, dù là siêu cường duy nhất cũng không có khả năng kiểm soát thực tế toàn bộ các lĩnh vực của đời sống quốc tế. Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia trong kỷ nguyên toàn cầu hoá khiến cho Mĩ không thể và không đủ khả năng thiết lập một trật tự đơn cực mà phải dựa vào các cường quốc khác và các tổ chức quốc tế, trong đó quan trọng nhất là Liên Hợp Quốc. Việc tái thiết Irắc sau chiến tranh đã cho thấy thực tế đó. Bên cạnh đó, đặc điểm chủ yếu trong quan hệ giữa các nước trong trạng thái “nhất siêu nhiều cường” hiện nay vẫn tiếp tục là hợp tác, cạnh tranh và kiềm chế lẫn nhau. Quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước đã tạo ra tình thế buộc các nước phải vừa hợp tác, vừa cạnh tranh nhưng tránh đối đầu, xung đột và chiến tranh.
Thứ hai, kinh tế trở thành nhân tố quyết định trong sức mạnh tổng hợp của các quốc gia và trở thành động lực chính của xu thế khu vực hoà và toàn cầu hoá. Trong bối cảnh sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học - công nghệ, các quốc gia đều nhận thấy vấn đề cấp bách hàng đầu là phải ra sức tận dụng mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài để phát triển kinh tế. Cách đặt vấn đề về an ninh, quốc phòng và kinh tế về cơ bản đã khác so với thời kỳ chiến tranh lạnh. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia không còn tuỳ thuộc vào sức mạnh quân sự, chính trị mà sức mạnh kinh tế nổi lên hàng đầu và trở thành trọng điểm. Đồng thời, làn sóng tập hợp các quốc gia trong các tổ chức khu vực địa lý, từ tiểu khu vực đến đại khu vực thành những khu vực mậu dịch tự do đang diễn ra dồn dập ở hầu khắp các châu lục, thậm chí liên châu lục. Trào lưu nhất thể hoá khu vực phát triển mạnh trong thập niên 90, sẽ tiếp tục gia tăng cả về lượng và về chất trong những năm đầu thế kỷ XXI, cùng với quá trình toàn cầu hoá sẽ ảnh hưởng sâu sắc đến các lĩnh vực của đời sống quốc tế.
Thứ ba, quan hệ quốc tế phát triển theo xu hướng hoà dịu nhưng năng động và phức tạp hơn. Trước những đòi hỏi của tình hình thế giới, tất cả các quốc gia từ lớn đến nhỏ đều phải điều chỉnh chiến lược đối nội và đối ngoại nhằm tạo cho mình một vị thế có lợi nhất trong quan hệ quốc tế. Xu thế hoà bình, hợp tác trở thành xu thế chủ đạo trong chính sách đối ngoại của các quốc gia. An ninh của mỗi quốc gia ngày nay được đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với phát triển nhằm tăng cường sức mạnh quốc gia trong hội nhập quốc tế. Tất cả các quốc gia đều linh hoạt, mềm dẻo, tăng cường hợp tác, tránh đối đầu và chiến tranh, giải quyết mọi vấn đề bằng thương lượng hoà bình.
Mặc khác ở nhiều khu vực trên thế giới, xung đột cục bộ và tình trạng bất ổn vẫn tiếp tục diễn ra. Tuy nhiên, những xung đột này khó có khả năng lan rộng, lôi cuốn sự đối đầu trực tiếp của các nước lớn, chủ yếu là do các nước lớn hiện nay đều có lợi ích lâu dài và cơ bản trong việc duy trì hoà bình để phát triển kinh tế. Trong bối cảnh đó, chủ nghĩa khủng bố quốc tế trở thành mối đe doạ tiềm tàng đối với an ninh chung của thế giới. Những biến đổi của tình hình quốc tế như đã nêu ở trên làm cho xu thế đa dạng hoá trong quan hệ quốc tế trở thành xu thế phổ biến của các quốc gia. Do đời sống kinh tế quốc gia đã và đang được quốc tế hoá cao độ, do nhu cầu phát triển kinh tế, các quốc gia đều phải năng động, linh hoạt thực hiện đa dạng hoá, đa phương hoá trong quan hệ quốc tế nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia một cách hiệu quả nhất. Những xu thế trên tác động qua lại lẫn nhau, tạo nên những động lực cộng hưởng làm thay đổi sâu sắc nền kinh tế và diện mạo của quan hệ quốc tế sau chiến tranh lạnh. Tình hình đó đặt ra cho mỗi quốc gia trên thế giới phải có cách nhận thức đúng và kịp thời để hoạch định một chính sách đối ngoại phù hợp với trào lưu chung của thế giới, đồng thời nâng cao vị thế của mình trên trường quốc tế.
b. Xu hướng quan hệ giữa các nước lớn:
Trong những năm tới, mục tiêu của Mỹ vẫn không thay đổi, là xác lập một trật tự thế giới một cực dưới sự lãnh đạo của Mỹ. Mục tiêu của các nước lớn Tây Âu (trước hết là Pháp và Đức) là từng bước giảm dần sự lệ thuộc vào Mỹ về mặt an ninh, những vẫn ra sức củng cố, mở rộng NATO và EU để xây dựng một châu Âu không chia cắt, dân chủ, hòa bình, ổn định và vững mạnh cả về kinh tế lẫn chính trị - an ninh. Mục tiêu của Nga là xác lập lại vị thế cường quốc, phục hồi ảnh hưởng quốc tế đã từng có và phát triển kinh tế ổn định, vững chắc, bảo đảm an ninh và toàn vẹn lãnh thổ đất nước. Mục tiêu của Nhật Bản là trở thành cường quốc chính trị cho tương xứng với vị thế cường quốc kinh tế - tài chính vốn có, tức là tạo dựng được ảnh hưởng quốc tế lớn hơn. Mục tiêu của Trung Quốc là khẳng định vị thế cường quốc trên thế giới, cố gắng thống nhất đất nước bằng con đường hòa bình. Mục tiêu của Ấn Độ là khẳng định vị thế cường quốc khu vực châu Á, trở thành thành viên thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc.
Chính do tác động của những nhân tố chủ quan và khách quan kể trên mà cục diện quan hệ giữa các nước lớn những năm đầu thế kỷ XXI có những nét mới rất khác so với thời kỳ trước đó.
- Quan hệ Mỹ - Trung: Do Trung Quốc đang mạnh dần lên về kinh tế, Mỹ hy vọng Trung Quốc tiếp tục chuyển hướng kinh tế thị trường, thay đổi hệ tư tưởng và hệ thống chính trị theo mô hình phương Tây. Để khuyến khích khuynh hướng ấy, Mỹ giảm áp lực đối với Trung Quốc về vấn đề tự do, dân chủ, quyền con người, không gắn những vấn đề đó với vấn đề kinh tế - thương mại, tạo điều kiện cho Trung Quốc gia nhập WTO và tăng cường hợp tác kinh tế.
Quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc đang có những phức tạp do mâu thuẫn về địa chính trị, trong đó hai vấn đề nổi cộm, nhạy cảm nhất là vấn đề Tây Tạng và Đài Loan. Hai nước đã tỏ ra thông cảm và thân thiện, nhưng vẫn còn nhiều điểm chưa thống nhất. Tuy nhiên, Mỹ không muốn đẩy quan hệ hai nước đến đổ vỡ để Trung Quốc tìm đến sự bảo trợ của Nga. Về phía mình, Trung Quốc chọn sách lược xoa dịu các mâu thuẫn, không muốn làm tăng sự đối đầu với Mỹ, ngay cả khi đã liên minh với Nga. Trong thời gian tới, quan hệ Mỹ - Trung còn phụ thuộc vào các nhân tố: mức độ tiến hành cuộc chiến chống khủng bố; nhận thức của chính quyền Mỹ về vấn đề dân chủ, nhân quyền ở Trung Quốc, coi Trung Quốc là đối tác hay đối thủ trong cạnh tranh chiến lược; quan hệ Trung Quốc – Đài Loan… Dù còn nhiều bất đồng nhưng quan hệ hợp tác Mỹ - Trung vẫn tiếp tục phát triển.
- Quan hệ Nga – Mỹ: Quan hệ giữa hai nước phát triển hay căng thẳng chính do lợi ích chiến lược của mỗi nước quy định. Tuy đạt được nhiều thỏa thuận, cam kết, nhưng giữa hai nước vẫn còn tồn tại những mâu thuẫn mang tính chiến lược như “đa cực hay đơn cực” và những mâu thuẫn cụ thể như thái độ đối với Irắc, Iran, Côsôvô, mở rộng NATO… Trên thực tế, Mỹ vẫn không từ bỏ chính sách kiềm chế Nga, vì nếu Nga phục hồi sẽ đe dọa sự lãnh đạo thế giới của Mỹ. Không thể chi phối Nga như dưới thời B.Enxin, hiện nay Mỹ tiếp tục chính sách vừa hợp tác vừa khống chế Nga, bằng mọi cách ngăn chặn nguy cơ quay lại chủ nghĩa cộng sản ở Nga. Về phần mình, Nga muốn hòa nhập với phương Tây, giảm căng thẳng bất đồng với Mỹ để tạo môi trường hòa bình phát triển kinh tế, giải quyết những bất đồng nội bộ, không nhấn mạnh việc khôi phục vị trí nước lớn. Đầu năm 2007, tiếp theo sự thành công trong việc mở rộng NATO, EU về phía đông, Mỹ tiến thêm một bước khi lên kế hoạch triển khai 10 hầm tên lửa đánh chặn ở Ba Lan và hệ thống cảnh báo rađa ở Séc, áp sát nước Nga. Tổng thống Nga đã phản đối quyết liệt và tuyên bố xây dựng học thuyết quân sự mới, trong đó đẩy mạnh nghiên cứu và phát triển các loại vũ khí hiện đại đủ khả năng bảo vệ nước Nga, dọa sẽ rút khỏi Hiệp ước tên lửa hạt nhân tầm trung (ký năm 1987) nếu Mỹ không từ bỏ tham vọng lá chắn phòng thủ tên lửa ở châu Âu. Tóm lại, mặc dù quan hệ Nga – Mỹ đã được cải thiện nhưng vẫn còn tồn tại nhiều trở ngại.
- Quan hệ Mỹ - EU: Vấn đề Trung Đông (Irắc, Iran, Palextin – Ixraen), đặc biệt là cuộc chiến Irắc, không tạo thành lợi ích hạt nhân trong quan hệ giữa các nước lớn, kể cả quan hệ Mỹ - EU. Các cường quốc sẽ không thể xảy ra đối kháng về thực chất vì vấn đề này. Những bất đồng giữa Mỹ và EU xoay quanh vấn đề Irắc đã dịu đi. Do lợi ích trong hợp tác phát triển, các bên đã nhanh chóng cải thiện quan hệ và liên minh Mỹ - EU tiếp tục được củng cố. Vấn đề căn bản hiện nay là sức mạnh của EU vẫn chưa đủ, chưa thể tự bảo vệ được mình, nếu xảy ra chiến tranh (như Nam Tư trước đây) thì vẫn phải dựa vào Mỹ. Tuy nhiên, quan hệ hai bên sẽ diễn tiến theo xu hướng “vừa hợp tác vừa cạnh tranh”. Mỹ tiếp tục tìm cách khẳng định vai trò bá chủ của mình tiến tới xây dựng thế giới đơn cực dưới sự lãnh đạo của Mỹ, còn EU sẽ tham gia nhiều hơn vào giải quyết các vấn đề khu vực và quốc tế, nâng cao uy tín chính trị, phấn đấu cho một thế giới.
Trong thời kỳ hiện nay, Mỹ, các nước chủ chốt EU và Nhật Bản lợi dụng ưu thế nhiều mặt, ráo riết thực hiện các chiến lược toàn cầu phản cách mạng. Về bản chất, chủ nghĩa tư bản không có sự đoàn kết thống nhất, nhưng trong điều kiện nhất định, các cường quốc tư bản vẫn có khả năng tạo lập sự hợp tác, phối hợp, đồng thuận và tìm kiếm tiếng nói chung trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, an ninh và phát triển. Tuy nhiên, họ không thể che giấu nổi những mâu thuẫn cố hữu.
Hiện nay, mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển hiện trên ba vấn đề lớn: xác lập trật tự thế giới, phân chia thị trường toàn cầu và cạnh trạnh ưu thế phát triển. Các mâu thuẫn tuy vẫn gay gắt, phức tạp, nhưng được khống chế trong giới hạn nhất định. Một số mâu thuẫn, bất đồng được tháo gỡ thông qua thương lượng, thỏa hiệp. Quan hệ giữa các cường quốc tư bản hiện nay là mối quan hệ vừa hợp tác vừa cạnh tranh, vừa hướng tâm vừa ly tâm, vừa phối hợp vừa chế ước nhau. Những véctơ thuận - nghịch đa chiều này tạo ra mâu thuẫn biện chứng ngay trong lòng mối quan hệ nội bộ của chủ nghĩa tư bản hiện đại.
- Trong những năm tới, các cặp quan hệ Mỹ - Nhật, Trung - Nhật và Nga - Nhật có lẽ là những mối quan hệ ít thay đổi nhất. Quan hệ Mỹ - Nhật vẫn là quan hệ đồng minh, liên minh chặt chẽ, nước này luôn coi nước kia là hòn đá tảng trong chiến lược đối ngoại và an ninh của mình, và tính chất này nhìn chung không thay đổi trước những thăng trầm của lịch sử thế giới. Sau sự kiện 11 – 9, Mỹ tăng cường sự hiện diện quân sự ở một số nước châu Á – Thái Bình Dương, nhưng các căn cứ trên đất Nhật Bản vẫn là những mắt khâu chính yếu và quan trọng nhất để Mỹ triển khai chiến lược an ninh ở khu vực này. Trên thực tế, trong quan hệ song phương và trên trường quốc tế, Mỹ đang lợi dụng Nhật hơn là hợp tác bình đẳng với Nhật. Nhật vẫn bị Mỹ coi là đồng minh đàn em, và không hiếm khi Mỹ qua mặt Nhật trong các vấn đề quốc tế và trong quan hệ với những nước lớn khác.Về phần mình, do vẫn là “người khổng lồ một chân” nên Nhật Bản phải tiếp tục dựa vào Mỹ để bảo đảm an ninh và xử lý các mối quan hệ song phương, đa phương khác. Song, Nhật Bản cũng đang điều chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng cân bằng, đề cao tính độc lập tự chủ hơn trong quan hệ với Mỹ. Để trở thành cường quốc chính trị thế giới, Nhật Bản cho rằng cần phải thay đổi hình ảnh của mình trong con mắt của cộng đồng quốc tế (tức là hình ảnh một cái bóng luôn đi theo Mỹ), rằng Nhật Bản phải phát huy vai trò quốc tế không chỉ ở lĩnh vực kinh tế - tài chính, mà cả ở lĩnh vực chính trị - an ninh quốc tế.
Trong quan hệ với Trung Quốc, Nhật Bản là nước cung cấp nguồn viện trợ ODA lớn nhất, là đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc. Nhật Bản không thể không coi trọng một Trung Quốc đang có sức mạnh quốc gia tổng hợp và ảnh hưởng quốc tế ngày càng tăng. Nhưng giữa hai nước cũng đang tồn tại nhiều bất đồng nên quan hệ Nhật – Trung vừa có sự hợp tác tích cực, vừa có sự nghi kỵ, dè chừng, kiềm chế lẫn nhau. Trung Quốc vừa muốn thúc đẩy quan hệ với Mỹ để kiềm chế Nhật Bản, đẩy lùi nguy cơ Mỹ - Nhật câu kết với nhau gây áp lực với Trung Quốc, vừa muốn cải thiện quan hệ với Nhật để tận dụng tối đa thế mạnh kinh tế - tài chính, khoa học - công nghệ của nước này.
Quan hệ Nga –Nhật nhìn chung chưa có tiến triển gì đáng kể trong cục diện những năm gần đây. Hai nước vẫn chưa ký được Hiệp ước hòa bình, vấn đề quần đảo Curin vẫn là nhân tố chủ yếu cản trở quan hệ bình thường giữa họ. Có thể nói, đây là cặp yếu nhất trong tứ giác chiến lược Mỹ - Trung - Nga - Nhật sau Chiến tranh lạnh.
- Trong quan hệ Nga - Trung - Ấn, mặc dù cả ba nước đều có những thế mạnh riêng, nhưng đều bị chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan quá khích đe dọa an ninh với với mức độ khác nhau (Nga với vấn đề Chécnhia, Ấn Độ với vấn đề Casơmia, Trung Quốc với vấn đề Tân Cương). Chính vì vậy, ba nước có những quan điểm khá tương đồng trong vấn đề chống khủng bố quốc tế, và điều rất đáng chú ý là quan hệ giữa họ không còn bị nhân tố Pakixtan gây xung khắc, chia rẽ ở mức độ lớn như thời kỳ Chiến tranh lạnh. Hơn nữa, cũng như Trung Quốc, Ấn Độ là nước chủ yếu nhập vũ khí từ Nga, còn Nga rất quan tâm hợp tác với Ấn Độ - cường quốc phần mềm máy tính toàn cầu đang nổi lên. Cả ba nước (lúc đầu là Nga và Trung Quốc, muộn hơn là Ấn Độ) đều chủ trương cải thiện quan hệ với Mỹ và ủng hộ Mỹ trong cuộc chiến chống khủng bố quốc tế. Nhưng đồng thời, họ cũng cảnh giác với ý đồ chiến lược của Mỹ là xác lập chỗ đứng lâu dài ở vành đai địa – chiến lược quan trọng đối với cả ba nước, là vành đai kéo dài từ Trung Đông qua Trung Á tới Đông Bắc Á. Đối với Mỹ, lợi ích địa – chính trị, địa – kinh tế ở khu vực này không kém phần quan trọng so với lợi ích an ninh. Vì vậy, cả ba nước Nga, Trung Quốc, Ấn Độ đều có nhu cầu hợp tác với nhau để hạn chế chính sách cường quyền, bành trướng của Mỹ. Mặc dù quan hệ giữa Ấn Độ với Nga và với Trung Quốc chưa thể tiến tới mức độ hợp tác, hiểu biết và tin cậy như giữa Nga và Trung Quốc, nhưng vì những lý do trên mà được cải thiện rõ rệt. Biểu hiện gần đây nhất là Ấn Độ tỏ ý muốn gia nhập Tổ chức hợp tác Thượng Hải (SCO) do Nga và Trung Quốc sáng lập năm 2000. Tuy nhiên, quan hệ liên kết Nga - Trung - Ấn chưa có dấu hiện chứng tỏ là một “tam giác chiến lược”. Và dù có hình thành thì “tam giác” đó cũng không phải là một khối liên minh quân sự - chính trị, mà sẽ là một trục các quan hệ đối tác mềm dẻo để đối phó hiệu quả hơn với các vấn đề toàn cầu, từ khủng bố quốc tế cực đoan đến xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra sâu rộng trên phạm vi toàn thế giới.
Như vậy, có nhiều nhân tố chủ quan và khách quan thúc đẩy sự hợp tác, liên kết giữa các nước lớn những năm đầu thế kỷ XXI, nhưng trong sâu xa quan hệ giữa họ vẫn chứa đầy mâu thuẫn, xung đột. Có thể quy lại ở mâu thuẫn giữa đơn cực và đa cực, giữa Mỹ và các nước lớn khác trong việc vẽ lại bản đồ chính trị - an ninh – kinh tế thế giới. Quan hệ giữa các nước lớn còn tiếp tục diễn biến phức tạp, cục diện quan hệ giữa họ còn tiếp tục thay đổi khó lường. Hơn nữa, trong thời điểm hiện nay, khi tình hình Irắc sau chiến tranh, vấn đề hạt nhân ở Iran và Bắc Triều Tiên, quan hệ Palextin – Ixraen … còn diễn biến phức tạp, lại liên quan trực tiếp đến lợi ích của các nước lớn (nên chắc chắn họ có sự mặc cả với nhau để dàn xếp lợi ích), thì cục diện đó càng khó đoán định. Với cục diện quan hệ giữa các nước lớn như vậy, trật tự thế giới mới khó có thể được xác lập trong tương lai gần.
6. Vai trò của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế
Thứ nhất, mặc dù còn có rất nhiều khó khăn, thách thức, nhưng các nước xã hội chủ nghĩa còn lại đã vượt qua được cơn chấn động chính trị do sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô, kiên cường đấu tranh để trụ vững và phát triển.
Thứ hai, rút kinh nghiệm từ những bài học thành công và thất bại của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu và những kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước mình, các đảng cộng sản cầm quyền đang tích cực tìm tòi sáng tạo, cả về lý luận và thực tiễn, mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước mình nhằm khắc phục những khuyết tật của mô hình Xôviết trước đây; khai phá con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh nước mình, dân tộc mình, phù hợp với những biến đổi diễn ra trên thế giới.
Thứ ba, thế và lực của chủ nghĩa xã hội hiện thực đã khác so với thời kỳ những năm 90 của thế kỷ XX và đang có chiều hướng tăng lên. Ở các khu vực khác trên thế giới, tình hình các đảng còn nhiều khó khăn, thể hiện trên hai mặt chủ yếu sau:
Trong thời kỳ hiện nay, Mỹ, các nước chủ chốt EU và Nhật Bản lợi dụng ưu thế nhiều mặt, ráo riết thực hiện các chiến lược toàn cầu phản cách mạng. Về bản chất, chủ nghĩa tư bản không có sự đoàn kết thống nhất, nhưng trong điều kiện nhất định, các cường quốc tư bản vẫn có khả năng tạo lập sự hợp tác, phối hợp, đồng thuận và tìm kiếm tiếng nói chung trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, an ninh và phát triển. Tuy nhiên, họ không thể che giấu nổi những mâu thuẫn cố hữu.
Hiện nay, mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển hiện trên ba vấn đề lớn: xác lập trật tự thế giới, phân chia thị trường toàn cầu và cạnh trạnh ưu thế phát triển. Các mâu thuẫn tuy vẫn gay gắt, phức tạp, nhưng được khống chế trong giới hạn nhất định. Một số mâu thuẫn, bất đồng được tháo gỡ thông qua thương lượng, thỏa hiệp. Quan hệ giữa các cường quốc tư bản hiện nay là mối quan hệ vừa hợp tác vừa cạnh tranh, vừa hướng tâm vừa ly tâm, vừa phối hợp vừa chế ước nhau. Những véctơ thuận - nghịch đa chiều này tạo ra mâu thuẫn biện chứng ngay trong lòng mối quan hệ nội bộ của chủ nghĩa tư bản hiện đại.
- Trong những năm tới, các cặp quan hệ Mỹ - Nhật, Trung - Nhật và Nga - Nhật có lẽ là những mối quan hệ ít thay đổi nhất. Quan hệ Mỹ - Nhật vẫn là quan hệ đồng minh, liên minh chặt chẽ, nước này luôn coi nước kia là hòn đá tảng trong chiến lược đối ngoại và an ninh của mình, và tính chất này nhìn chung không thay đổi trước những thăng trầm của lịch sử thế giới. Sau sự kiện 11 – 9, Mỹ tăng cường sự hiện diện quân sự ở một số nước châu Á – Thái Bình Dương, nhưng các căn cứ trên đất Nhật Bản vẫn là những mắt khâu chính yếu và quan trọng nhất để Mỹ triển khai chiến lược an ninh ở khu vực này. Trên thực tế, trong quan hệ song phương và trên trường quốc tế, Mỹ đang lợi dụng Nhật hơn là hợp tác bình đẳng với Nhật. Nhật vẫn bị Mỹ coi là đồng minh đàn em, và không hiếm khi Mỹ qua mặt Nhật trong các vấn đề quốc tế và trong quan hệ với những nước lớn khác.Về phần mình, do vẫn là “người khổng lồ một chân” nên Nhật Bản phải tiếp tục dựa vào Mỹ để bảo đảm an ninh và xử lý các mối quan hệ song phương, đa phương khác. Song, Nhật Bản cũng đang điều chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng cân bằng, đề cao tính độc lập tự chủ hơn trong quan hệ với Mỹ. Để trở thành cường quốc chính trị thế giới, Nhật Bản cho rằng cần phải thay đổi hình ảnh của mình trong con mắt của cộng đồng quốc tế (tức là hình ảnh một cái bóng luôn đi theo Mỹ), rằng Nhật Bản phải phát huy vai trò quốc tế không chỉ ở lĩnh vực kinh tế - tài chính, mà cả ở lĩnh vực chính trị - an ninh quốc tế.
Trong quan hệ với Trung Quốc, Nhật Bản là nước cung cấp nguồn viện trợ ODA lớn nhất, là đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc. Nhật Bản không thể không coi trọng một Trung Quốc đang có sức mạnh quốc gia tổng hợp và ảnh hưởng quốc tế ngày càng tăng. Nhưng giữa hai nước cũng đang tồn tại nhiều bất đồng nên quan hệ Nhật – Trung vừa có sự hợp tác tích cực, vừa có sự nghi kỵ, dè chừng, kiềm chế lẫn nhau. Trung Quốc vừa muốn thúc đẩy quan hệ với Mỹ để kiềm chế Nhật Bản, đẩy lùi nguy cơ Mỹ - Nhật câu kết với nhau gây áp lực với Trung Quốc, vừa muốn cải thiện quan hệ với Nhật để tận dụng tối đa thế mạnh kinh tế - tài chính, khoa học - công nghệ của nước này.
Quan hệ Nga –Nhật nhìn chung chưa có tiến triển gì đáng kể trong cục diện những năm gần đây. Hai nước vẫn chưa ký được Hiệp ước hòa bình, vấn đề quần đảo Curin vẫn là nhân tố chủ yếu cản trở quan hệ bình thường giữa họ. Có thể nói, đây là cặp yếu nhất trong tứ giác chiến lược Mỹ - Trung - Nga - Nhật sau Chiến tranh lạnh.
- Trong quan hệ Nga - Trung - Ấn, mặc dù cả ba nước đều có những thế mạnh riêng, nhưng đều bị chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan quá khích đe dọa an ninh với với mức độ khác nhau (Nga với vấn đề Chécnhia, Ấn Độ với vấn đề Casơmia, Trung Quốc với vấn đề Tân Cương). Chính vì vậy, ba nước có những quan điểm khá tương đồng trong vấn đề chống khủng bố quốc tế, và điều rất đáng chú ý là quan hệ giữa họ không còn bị nhân tố Pakixtan gây xung khắc, chia rẽ ở mức độ lớn như thời kỳ Chiến tranh lạnh. Hơn nữa, cũng như Trung Quốc, Ấn Độ là nước chủ yếu nhập vũ khí từ Nga, còn Nga rất quan tâm hợp tác với Ấn Độ - cường quốc phần mềm máy tính toàn cầu đang nổi lên. Cả ba nước (lúc đầu là Nga và Trung Quốc, muộn hơn là Ấn Độ) đều chủ trương cải thiện quan hệ với Mỹ và ủng hộ Mỹ trong cuộc chiến chống khủng bố quốc tế. Nhưng đồng thời, họ cũng cảnh giác với ý đồ chiến lược của Mỹ là xác lập chỗ đứng lâu dài ở vành đai địa – chiến lược quan trọng đối với cả ba nước, là vành đai kéo dài từ Trung Đông qua Trung Á tới Đông Bắc Á. Đối với Mỹ, lợi ích địa – chính trị, địa – kinh tế ở khu vực này không kém phần quan trọng so với lợi ích an ninh. Vì vậy, cả ba nước Nga, Trung Quốc, Ấn Độ đều có nhu cầu hợp tác với nhau để hạn chế chính sách cường quyền, bành trướng của Mỹ. Mặc dù quan hệ giữa Ấn Độ với Nga và với Trung Quốc chưa thể tiến tới mức độ hợp tác, hiểu biết và tin cậy như giữa Nga và Trung Quốc, nhưng vì những lý do trên mà được cải thiện rõ rệt. Biểu hiện gần đây nhất là Ấn Độ tỏ ý muốn gia nhập Tổ chức hợp tác Thượng Hải (SCO) do Nga và Trung Quốc sáng lập năm 2000. Tuy nhiên, quan hệ liên kết Nga - Trung - Ấn chưa có dấu hiện chứng tỏ là một “tam giác chiến lược”. Và dù có hình thành thì “tam giác” đó cũng không phải là một khối liên minh quân sự - chính trị, mà sẽ là một trục các quan hệ đối tác mềm dẻo để đối phó hiệu quả hơn với các vấn đề toàn cầu, từ khủng bố quốc tế cực đoan đến xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra sâu rộng trên phạm vi toàn thế giới.
Như vậy, có nhiều nhân tố chủ quan và khách quan thúc đẩy sự hợp tác, liên kết giữa các nước lớn những năm đầu thế kỷ XXI, nhưng trong sâu xa quan hệ giữa họ vẫn chứa đầy mâu thuẫn, xung đột. Có thể quy lại ở mâu thuẫn giữa đơn cực và đa cực, giữa Mỹ và các nước lớn khác trong việc vẽ lại bản đồ chính trị - an ninh – kinh tế thế giới. Quan hệ giữa các nước lớn còn tiếp tục diễn biến phức tạp, cục diện quan hệ giữa họ còn tiếp tục thay đổi khó lường. Hơn nữa, trong thời điểm hiện nay, khi tình hình Irắc sau chiến tranh, vấn đề hạt nhân ở Iran và Bắc Triều Tiên, quan hệ Palextin – Ixraen … còn diễn biến phức tạp, lại liên quan trực tiếp đến lợi ích của các nước lớn (nên chắc chắn họ có sự mặc cả với nhau để dàn xếp lợi ích), thì cục diện đó càng khó đoán định. Với cục diện quan hệ giữa các nước lớn như vậy, trật tự thế giới mới khó có thể được xác lập trong tương lai gần.
6. Vai trò của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế
Thứ nhất, mặc dù còn có rất nhiều khó khăn, thách thức, nhưng các nước xã hội chủ nghĩa còn lại đã vượt qua được cơn chấn động chính trị do sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô, kiên cường đấu tranh để trụ vững và phát triển.
Thứ hai, rút kinh nghiệm từ những bài học thành công và thất bại của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu và những kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước mình, các đảng cộng sản cầm quyền đang tích cực tìm tòi sáng tạo, cả về lý luận và thực tiễn, mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước mình nhằm khắc phục những khuyết tật của mô hình Xôviết trước đây; khai phá con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh nước mình, dân tộc mình, phù hợp với những biến đổi diễn ra trên thế giới.
Thứ ba, thế và lực của chủ nghĩa xã hội hiện thực đã khác so với thời kỳ những năm 90 của thế kỷ XX và đang có chiều hướng tăng lên. Ở các khu vực khác trên thế giới, tình hình các đảng còn nhiều khó khăn, thể hiện trên hai mặt chủ yếu sau:
|