Thứ Bảy, 21 tháng 4, 2012

Lịch sử quan hệ quốc tế (1919 - 2005), phần 1

Lịch sử quan hệ quốc tế (1919 - 2005)

phần 1: 1919 - 1945
+ Lý luận về quan hệ quốc tế:
   1. Định nghĩa:
+ Định nghĩa 1: Quan hệ quốc tế là mối quan hệ giữa các quốc gia có chủ quyền. Mọi quốc gia đều có quyền quyết định tối cao và tự do. Các quốc gia không ở dưới một uy quyền nào và đối nghịch với nhau, sử dụng quyền lực để thực hiện các mục tiêu và thỏa mãn các quyền lực của quốc gia mình.  Quan hệ quốc tế có thể bao gồm nhiều vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội...
+ Định nghĩa 2: Quan hệ quốc tế: là môn học nghiên cứu về sự vận động của các chủ thể cấu thành một nền chính trị. Các chủ thể quan hệ quốc tế gồm:
  - Các quốc gia, các dân tộc trên thế giới.
  - Các tổ chức quốc tế.
  - Các công ty xuyên quốc gia.
  - Cách mạng khoa học - kỹ thuật.
  Quan hệ quốc tế được xem là 1 môn khoa học tổng hợp về: sử học, chính trị, kinh tế... và là 1 bộ phận của quan hệ quốc tế thế giới.
+ Định nghĩa 3: Quan hệ quốc tế là một ngành của chính trị học, nghiên cứu về ngoại giao và các vấn đề toàn cầu giữa các nước thông qua những hệ thống quốc tế, bao gồm các quốc giatổ chức đa chính phủ (IGO), tổ chức phi chính phủ (NGO), và các công ty đa quốc gia (MNC). Bên cạnh chính trị học, quan hệ quốc tế còn quan tâm đến những lĩnh vực khác nhau như kinh tếlịch sửluậttriết họcđịa lýxã hội họcnhân loại họctâm lý học, và văn hóa học. Ngành này liên quan đến những vấn đề đa dạng như toàn cầu hóa và những tác động đến xã hội và chủ quyền của các quốc giabảo vệ sinh tháităng trưởng hạt nhânchủ nghĩa dân tộcphát triển kinh tếkhủng bốtội phạm có tổ chứcan ninh nhân loại, và nhân quyền. (theo Wikipedia Tiếng Việt)
+ Định nghĩa 4: “Quan hệ quốc tế là tổng thể những mối quan hệ về kinh tế, chính trị, tư tưởng, luật pháp, ngoại giao, quân sự…giữa những quốc gia & hệ thống quốc gia với nhau, giữa các giai cấp chính, các lực lượng tổ chức xã hội, kinh tế và chính trị chủ yếu hoạt động trên trường quốc tế” (QHQT sau CTTG II. Nxb CTQG, 1962, tr.26).
+ Định nghĩa 5: Quan hệ quốc tế là hiện tượng xã hội, song là loại quan hệ xã hội có đặc điểm riêng nảy sinh trong quá trình hoạt động của con người liên quan đến môi trường quốc tế. Quan hệ quốc tế này vượt khỏi biên giới quốc gia, có những thay đổi và trở nên vô cùng phức tạp, bởi trong môi trường quốc tế có các cơ chế hoạt động và luật chơi hoàn toàn khác với cơ chế trong nội bộ quốc gia (Vũ Dương Huân, Bản chất và đặc thù của quan hệ quốc tế, Nghiên cứu quốc tế, số 3, 9/2010).
+ Định nghĩa 6: Quan hệ quốc tế là tổng thể các mối quan hệ về chính trị, kinh tế, tư tưởng, luật pháp, ngoại giao..., và mối quan hệ giữa các quốc gia, các hệ thống quốc gia, các giai cấp cơ bản, các lực lượng xã hội, các tổ chức, phong trào xã hội.... (Inodensev, Liên Xô)
+ Định nghĩa 7: Quan hệ quốc tế là tất cả các loại hình trao đổi hoạt động, là đối tượng quan hệ giữa các quốc gia và giữa các trao đổi của cá nhân (Krapchenko, Liên Xô).

  2. Bản chất, đặc điểm của quan hệ quốc tế:
   + Bản chất:
   Khái niệm quan hệ quốc tế được xem là một phạm trù khoa học, lần đầu tiên được nhà triết học Anh Jeremy Bentham (1748 - 1832) đề ra vào thế kỷ XVIII. Quan hệ quốc tế mà ông nói tới là quan hệ giữa các chính phủ, các quốc gia. Sau ông, các nhà khoa học xem xét khái niệm này và tranh luận quyết liệt về vấn đề họ cho là nhức nhối, đáng quan tâm nhất: Liệu có thể tách quan hệ quốc tế một cách rành mạch với quan hệ xã hội được không ? R. Aaron, một nhà nghiên quốc tế người Pháp, khẳng định rằng không thể tách biệt hai quan hệ này được, và cho biết "bất cứ hiện tượng nào phát triển trong môi trường quốc tế đều là đặc thù mà không là bản chất". Thời hiện đại, các nhà bác học Liên Xô, Mỹ ra sức tìm hiểu kỹ vấn đề này. H. Spykman (Mỹ) đề ra khái niệm "quan hệ giữa các quốc gia" (quan hệ giữa các nhóm người, tộc người, đại diện các quốc gia). M. Merle (Pháp) cho rằng quan hệ quốc tế giữa các nước được giải quyết bằng liên lạc, thông tin đại chúng. Như vậy có nhiều cách để giải quyết quan hệ, song có 5 phương án sau (gọi là 5 bản chất của quan hệ quốc tế):
  - Quan hệ quốc tế là tổng thể quan hệ giữa các diễn viên/người đại diện tham gia diễn đàn quốc tế, tổng thể về chính sách đối ngoại, quan hệ chính trị, kinh tế... giữa các nước trên thế giới.
  - Quan hệ quốc tế là quyền lực được thể hiện bằng lợi ích quốc gia trong môi trường quốc tế, và nó do Trường phái chủ nghĩa hiện thực chính trị đề xuất. Quan hệ quốc tế là quan hệ đối đầu giữa các quốc gia, nhờ sức mạnh, quyền lực mà thể hiện được lợi ích của mình. Các nước nhờ thế, lực của mình nên nó nắm vai trò chủ động trong quan hệ quốc tế. Quan hệ quốc tế được thể hiện ở hai cấp độ: nước mạnh - nước yếu; giữa các đơn vị cơ sở quyền lực.
  - Quan hệ quốc tế là quan hệ giữa các cá nhân có quyền lực thông qua các quyết định về đối ngoại, các cấu trúc mà họ quản lý. Các học giả như Snyder, Bruck và Sapin cho rằng, nếu muốn hiểu quan hệ quốc tế, trước hết phải nghiên cứu những người có "hành vi quốc gia", tức là những người đó sẽ biên soạn chính sách đối ngoại, hay đúng hơn là các quyết định được thông qua và đưa vào môi trường quốc tế và, chính điều đó đã làm thay đổi tình thế trong quan hệ quốc tế.
  - Quan hệ quốc tế: Học thuyết Marx - Lenin cho rằng, quan hệ xã hội, trong đó có quan hệ quốc tế, là do quan hệ vật chất (đó là hình thức kinh tế - xã hội, hiện tượng xã hội) quyết định ra. Quan hệ quốc tế được tiếp tục trong phạm vi quốc tế, các mối quan hệ xã hội được tiếp tục trong phạm vị dân tộc, và chính sách đối ngoại của quốc gia là từ chính sách đối nội mà ra. Hiển nhiên, chính sách đối ngoại độc lập có tác động trở lại đến chính sách đối ngoại quốc gia (mục tiêu, chính sách) nhưng theo một mức độ nào đó mà thôi. Động lực chính khiến cho quan hệ quốc tế xuất hiện đó là cuộc đấu tranh giữa các giai cấp khác nhau, các quốc gia và các chế độ xã hội khác nhau để giải quyết mâu thuẫn đối kháng giữa họ với nhau. Tương quan lực lượng các giai cấp, các quốc gia, các tổ chức chính trị - xã hội khác nhau sẽ quyết định đến quan hệ quốc tế.
   - Quan hệ quốc tế: GS người Nga Sygankov thì cho rằng, quan hệ quốc tế là loại quan hệ xã hội đặc biệt vượt ra ngoài quan hệ xã hội bên trong quốc gia. Để làm rõ vấn đề này, ông đề ra 2 tiêu chí: các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chiến lược đối nội - đối ngoại; vai trò của người tham gia của nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, đảng phái... Quan hệ quốc tế  thực ra rất đa dạng, nhiều chiều và có sự tác động qua lại lẫn nhau. Chúng bao gồm các hoạt động thực tiễn của con người từ chính trị đến kinh tế, quân sự, thể thao..., do đó quan hệ quốc tế là loại quan hệ đặc biệt.
   + Đặc điểm của quan hệ quốc tế:
    - Quan hệ quốc tế không có độc quyền. Quyền lực của chính quyền được luật quốc tế thừa nhận cho phép ràng buộc bất kỳ 1 quốc gia hay 1 tổ chức quốc tế nào, nghĩa là không có một siêu nhà nước nào có thể đứng ra quản lý các quốc gia như nhà nước trong nội bộ quốc gia. Ta lấy Liên Hiệp Quốc làm ví dụ. Trong tổ chức này (mặc định không gọi là siêu quốc gia), các nước được bình đẳng với nhau về chủ quyền, bầu cử Hội đồng Bảo an. Ngoài ra, các cường quốc lớn (Mỹ, Anh, Pháp, Liên Xô...) một thời gian đã chi phối quan hệ, thậm chí quyết định số phận các nước nhỏ yếu. Ngoài ra, yếu tố tự phát về chính trị ở quốc gia cũng chi phối nhiều đến quan hệ quốc tế. Nó diễn ra một cách tự nhiên, liên tục và rất khó dự đoán chính xác chiều hướng xảy ra của nó (vấn đề biển Đông, chiến tranh Ả rập - Israel). Quan hệ quốc tế cũng là hệ thống, bao gồm nhiều nhân tố tác động vào đó, và những cái đó kết hợp vào sẽ hình thành lợi ích quốc gia, sâu hơn nữa sẽ trở thành những liên minh chính trị mà các quốc gia hướng tới.  
    - Quan hệ quốc tế là hiện tượng xã hội phức tạp. Tính phức tạp đó gắn liên với các nhân vật trọng yếu trong quan hệ quốc tế, dẫn đến hình thành quá nhiều sự hoạt động tương tác phức tạp. Trên thế giới tồn tại nhiều loại diễn viên, nhân vật đa dạng về số lượng, chủng loại: 192/200 nước tham gia Liên Hiệp Quốc, hàng nghìn tổ chức phi chính phủ, tổ chức chính phủ, khu vực.... rất phức tạp, thậm chí còn đan xen, chồng chéo về chức năng, hoạt động lẫn nhau, rất phức tạp. Hơn nữa, quan hệ quốc tế vẫn có thật - giả đan xen rất phức tạp.
     - Quan hệ quốc tế có tính hệ thống. Tính hệ thống của nó được quy định bởi quan hệ giữa các diễn viên với nhau và luôn trong tình trạng tương tác với môi trường quốc tế thì mới xảy ra được. Los Hovak cho rằng cũng giống như quan hệ xã hội khác, nó không hoạt động cố định mà luôn bị các nhân vật quan trọng tương tác lẫn nhau mà thành. Một khía cạnh là tính hệ thống đặc thù, hệ thống của các hệ thống, quan hệ tồn tại trong biên giới là quan hệ giữa các hệ thống, hệ thống qua lại giữa các hệ thống vĩ mô, vi mô trên toàn cầu.
     - Quan hệ quốc tế có tính toàn cầu. Tất cả các quốc gia, các tổ chức và các nhóm xã hội đều tham gia vào quan hệ quốc tế. Hiện nay, quan hệ quốc tế bao gồm cả thế giới, gồm nhiều nước tham gia vào Liên Hiệp Quốc, các tổ chức quốc tế, các quá trình toàn cầu hóa, phát triển mạng thông tin toàn cầu... thành ngôi nhà chung nhất. 
     - Quan hệ quốc tế được thể hiện qua mối quan hệ tương tác lẫn nhau giữa quan hệ đối nội và quan hệ quốc tế. Từ xưa đến nay, nhiều nhà khoa học cho rằng quan hệ đối nội và đối ngoại luôn có quan hệ logic và mật thiết với nhau. Nhiều người cho rằng, đối ngoại quyết định đối nội, môi trường quốc tế sẽ quyết định môi trường nội tại. Chủ nghĩa Marx lại phản bác ngược lại, cho rằng đối nội sẽ quyết định đối ngoại. Đối nội là cái đầu tiên, cái quyết định cho đối ngoại, sức mạnh quốc gia sẽ quyết định chính sách đối ngoại, xác định khả năng và lợi ích của quốc gia.
     - Quan hệ quốc tế xảy ra tất yếu sẽ phụ thuộc nhiều vào các quan hệ hình thành trong lĩnh vực kinh tế. Chủ nghĩa Marx hiện đại cho rằng, sự phụ thuộc của kinh tế từ lợi ích kinh tế của giai cấp thống trị là tất yếu, và xem quan hệ quốc tế là biểu hiện liên quan đến dân tộc khác, quốc gia khác mà thôi. Tuy nhiên, nhiều nhà hiện thực chủ nghĩa đã phản bác lại quan niệm trên. Họ chủ trương rằng lợi ích kinh tế là 1 bộ phận của lợi ích dân tộc mà quốc gia phải tính đến trong trường quốc tế. Bên cạnh đó cũng có ý kiến cho rằng, chính trị và kinh tế tác động qua lại lẫn nhau, kinh tế mạnh sẽ tạo tiềm lực, các phương tiện vật chất cho quốc gia, ngược lại chính trị thúc đẩy kinh tế phát triển.
      - Quan hệ quốc tế có tính đa nguyên văn hóa. Thực vậy, thế giới chúng ta là thế giới đa dạng về văn hóa. Trong cuốn "Xung đột giữa các nền văn minh", S. Huntington ra danh sách 9 nền văn minh chủ yếu là văn minh phương Tây, văn minh Mỹ latinh, văn minh đạo Thiên Chúa, văn minh châu Phi, văn minh đạo Hồi, văn minh đạo Hindu, văn minh Phật giáo, văn minh Trung Quốc và văn minh Nhật Bản. Ông khi nghiên cứu các nền văn minh đã khẳng định sẽ có sự xung đột giữa chúng về tư tưởng, văn hóa mà nặng nhất về chính trị, song sự xung dột như thế nào, ảnh hưởng ra sao thì chưa biết rõ.
      - Quan hệ quốc tế sẽ đưa ra các thông tin tương đối chính xác, phục vụ đắc lực cho các nhà hoạch định chính sách đối ngoại. Nếu có thông tin đúng thì họ sẽ hoạch định chính xác, còn sai thì dẫn đến những hậu quả nặng nề.

  3. Chủ thể của quan hệ quốc tế

   Chủ thể quan hệ quốc tế là các lực lượng tạo nên hệ thống quan hệ quốc tế, tham gia vào các mối quan hệ quốc tế tạo ra các ảnh hưởng, tương tác khác nhau trong hệ thống quan hệ quốc tế.
    Những lực lượng tạo chủ thể cho quan hệ quốc tế:
   - Thuyết hiện thực: Những người theo thuyết này cho rằng các quốc gia – dân tộc là chủ thể duy nhất. Còn bên Tân hiện thực tuy có công nhận sự tồn tại của các dạng chủ thể khác. Song, số này luôn có tính thụ động. 
   - Thuyết tự do: Những người theo thuyết này cho rằng các lực lượng đó là các quốc gia, phi quốc gia.
    - Thuyết Marxid bổ sung vào danh sách các vùng lãnh thổ (nếu họ có quyền tự trị nhất định) và các phong trào xã hội.
    Nhưng trong đó, một số thuyết lại nhấn mạnh tính quan trọng, uy tín và triển vọng của chủ thể.
  + Thuyết tự do:Sự cân đối giữa các nhóm chủ thể QG và phi QG. Trong một số trường hợp, các chủ thể phi QG còn quan trọng hơn (R.Keohane, J.Nye, S.Krasner, v.v…) bởi: 

Tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các chủ thể ngày càng lớn.
- Xuất hiện nhiều vấn đề vượt quá khả năng quốc gia. 
- Hệ thống luật pháp quốc tế ngày càng mở rộng.


  + Thuyết hiện thực: quốc gia - dân tộc là chủ thể cơ bản nhất, quan trọng nhất bởi:

- Ưu thế về khả năng chính trị (Morghenthau).
- Môi trường xã hội chỉ quốc gia mới có (R.Aron).
- Tiềm lực kinh tế của nhà nước (G. Bertle).

  + Marxism: Giai cấp thống trị, quốc gia - dân tộc chỉ là cầu nối giữa các giai cấp thống trị 
với hệ thống thế giới, với nền kinh tế thế giới.
  4. Các học thuyết về quan hệ quốc tế
+ Chủ nghĩa hiện thực: 
Nội dung tiêu biểu (thế kỷ XV - XX):

Bản chất con nguời là xấu xa; nguồn gốc của xung đột và chiến tranh là do sự sợ hãi trước sự tăng cường sức mạnh của kẻ khác; 

- Kẻ mạnh làm những gì họ muốn còn kẻ yếu thì chỉ làm được những gì họ được phép;


o- Chính trị là thống soái được hiểu là đấu tranh giành quyền lực; đạo đức và luật pháp chỉ là thứ yếu so với chính trị và mục tiêu chính trị biện minh cho mọi phương tiện;
o- Chiến tranh là sự tiếp diễn của chính trị; trong chính trị quốc tế quốc gia hành động một cách thống nhất và duy lý;
o- Cân bằng sức mạnh là công cụ bảo đảm lợi ích.
   Đại diện là Thucydides, Grotius, Clauzewitz...
Nội dung tiêu biểu (1945 - nay): Đại diện: Morgenthau, Kissinger, Kennan...


o- Chính trị quốc tế cũng như bất kỳ chính trị nào khác, là cuộc đấu tranh vì quyền lực; đấu tranh vì quyền lực là quy luật khách quan và bất biến có nguồn gốc từ bản chất của con người;
o- Chỉ có quốc gia mới có đầy đủ nguồn lực để tiến hành cuộc đấu tranh này và vì vậy là diễn viên cơ bản trên trường quốc tế; 

o- Trong chính trị quốc tế, quốc gia là chủ thể đơn nhất, hành động một cách duy lý, có nhiệm vụ hàng đầu là tăng cường sức mạnh, nhất là quân sự  và ảnh hưởng đối với nền chính trị quốc tế;
o- Trong chính trị quốc tế, nguyên tắc đạo đức và luật pháp cũng như ý thức hệ chỉ là thứ yếu so với lợi ích dân tộc được hiểu là giành giật, tăng cường và khuếch trương sức mạnh - quyền lực.
+ Chủ nghĩa tự do: đại diện là Khổng Tử, J. Locke, A. Smith, E. Kant.... 

§- Chính trị và đạo đức là thống nhất; các quyền tự nhiên của con người là không thể tước bỏ được và việc bảo đảm các quyền này là ưu tiên hàng đầu;
§Bản chất con người là tốt đẹp và lợi ích giữa các cá nhân về cơ bản là hoà hợp với nhau;  
- Trong xã hội tự do, nhà nước - quốc gia chỉ đóng vai trò tối thiểu, chủ yếu làm trọng tài phân xử các tranh chấp các nhân và duy trì các điều kiện để bảo đảm các quyền của cá nhân; 

§- Không phủ nhận tình trạng vô chính phủ và xung đột, chiến tranh trong QHQT, nhưng cho rằng do bản chất tốt đẹp của con người, các quốc gia có thể tạo ra sự hoà hợp về lợi ích và đi đến thiết lập một nền hoà bình “vĩnh viễn”(perpeptual peace) bằng nhiều cách: thông qua thúc đẩy tự do thương mại, mở rộng chế độ dân chủ, cùng nhau xây dựng bộ luật và thể chế chung điều tiết  lợi ích giữa các quốc gia.
§  Thời hiện đại, với sự xuất hiện của Học thuyết Wilson (1919), Công ước Briand - Kellog (1929) và Học thuyết Stimson (1933), chủ nghĩa tự do mới đã được hình thành với tư tưởng ban đầu: chiến tranh có thể được ngăn chặn và hoà bình có thể được kiến tạo thông qua việc áp dụng các nguyên tắc và thể chế dân chủ trong QHQT, trước hết là thành lập tổ chức quốc tế điều tiết mối quan hệ này, lập cơ chế ngăn chặn chiến tranh (Hội Quốc Liên). Sau năm 1973 bị phân thành 3 khuynh hướng chính là: 
 - Khuynh hướng quốc tế chủ nghĩa (đại diện là Muraychik, Fukuyama, Rasset...) nói rằng có 3 cái: hòa bình dân chủ, can thiệp nhân đạo, toàn cầu hóa nền dân chủ.
 - Khuynh hướng lý tưởng mới (đại diện là Held, Bobbio, Archibugi...) cho rằng nên chia sẻ cùng những người quốc tế chủ nghĩa quan điểm coi trọng hình thức cai trị dân chủ và cho rằng sự tuỳ thuộc lẫn nhau sẽ thúc đẩy hoà bình; nhưng cho rằng hoà bình và công lý không phải là điều kiện tự nhiên mà là sản phẩm của kế hoạch hay thiết kế có chủ kiến; kêu gọi dân chủ hoá cả cấu trúc trong nước và quốc tế, ở cấp độ vi mô và vĩ mô; Nêu ra dự án thay hệ thống QHQT theo mô hình “Westphalian và Liên Hợp quốc” bằng “mô hình dân chủ toàn thế giới” (cosmopolitan model of democracy).
 - Khuynh hướng thể chế luận mới (đại diện là Keohan, Martin, Oye...) nhận định chỉ quốc gia là thể chế duy nhất, không có phi quốc gia; thừa nhận tình trạng vô chính phủ nhưng cho rằng điều này không có nghĩa hợp tác giữa các nước là không có thể; các quy tắc và thể chế quốc tế có thể làm giảm nhẹ tình trạng này


o
  6. Cơ sở của quan hệ quốc tế
   Marx - Lenin trong quá trình nghiên cứu quan hệ quốc tế đã chỉ ra rằng, cơ sở của quan hệ quốc tế chính là:
  + Chế độ kinh tế của xã hội gắn liền với xã hội đó. Hệ thống quan hệ quốc tế quốc gia phụ thuộc vào các đặc điểm của thời đại được xác định bởi đặc điểm kinh tế - xã hội. Tiến trình phát triển xã hội phụ thuộc nhiều vào đấu tranh giai cấp, quá trình nội bộ về kinh tế - xã hội diễn ra ở từng quốc gia. Điểm giống nhau giữa quan hệ quốc tế - quan hệ quốc gia là tính giai cấp.
  + Nền chính trị bên trong của các giai cấp nhất định để thực hiện đường lối chính trị đối nội, ở ngoài biên giới thì người ta tiến hành chính sách đối ngoại phù hợp. Như trên đã nói, quan hệ quốc tế được hình thành do mâu thuẫn giữa các tầng lớp, đấu tranh giai cấp mà ra; song để quan hệ quốc tế hình thành, người nắm quyền chính là người quyết định chính sách đối nội tốt để dung hòa các mâu thuẫn trong nước, ra chính sách đối ngoại phù hợp để điều chỉnh các mối quan hệ giữa các quốc gia trong vùng, trong khu vực và trên thế giới.

  Chương I:  Sự hình thành trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế giới thứ nhất

   Trước hết chúng ta cần nắm được những nét khái quát về tình hình quốc tế sau chiến tranh thế giới I. Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc đã mở ra một thời kỳ mới trong quan hệ quốc tế. Kết cục của chiến tranh đã tác động mạnh mẽ đến tình hình thế giới đặc biệt là đối với châu Âu.
  • Chiến trường chính của cuộc chiến tranh diễn ra ở châu Âu, vì thế các cường quốc châu Âu đều bị suy yếu. Hai nước tư bản lâu đời Anh và Pháp tuy chiến thắng nhưng nền kinh tế bị kiệt quệ sau chiến tranh và trở thành con nợ của Mĩ. Italia, một đồng minh ốm yếu trong chiến tranh, bị xâu xé bởi cuộc đấu tranh gay gắt trong nước và khủng hoảng kinh tế. Ba đế quốc rộng lớn ở châu Âu là Nga, Đức, áo - Hung lần lượt sụp đổ. Đế quốc Đức và Áo - Hung bại trận, bị tàn phá nặng nề và những cuộc cách mạng bùng nổ đã đẩy các nước này vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng.
  • Trong khi đó các cường quốc ở ngoài châu Âu như Mỹ và Nhật, không bị tàn phá bởi chiến tranh, đã vươn lên nhanh chóng, vượt qua nhiều nước tư bản ở châu Âu. Tương quan lực lượng giữa các cường quốc thay đổi rõ rệt, ngày càng bất lợi cho các nước tư bản châu Âu vốn chiếm vị trí trung tâm trong thế giới tư bản chủ nghĩa trước đây.
  • Đồng thời thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 cũng tạo ra một chuyển biến căn bản của tình hình thế giới. Chủ nghĩa tư bản không còn tồn tại như một hệ thống duy nhất thống trị thế giới nữa. Sự tồn tại của Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới đã trở thành một thách thức to lớn đối với thế giới tư bản chủ nghĩa.
     Trong bối cảnh đó, để giải quyết những vấn đề do chiến tranh đặt ra, các hội nghị hoà bình được triệu tập. Hệ thống hoà ước Versailles và sau đó là Hệ thống hiệp ước Washington đã được ký kết nhằm tổ chức lại thế giới sau chiến tranh, phù hợp với tương quan lực lượng mới.

I - HỆ THỐNG HIỆP ƯỚC VERSAILLES - WASHINGTON

     1. Hệ thống hòa ước Versailles:
      Hai tháng sau khi chiến tranh kết thúc, ngày 18 - 1 - 1919 các nước thắng trận đã họp Hội nghị hoà bình tại Versailles (ngoại ô thủ đô Pari của Pháp). Tham dự hội nghị có đại biểu của 27 nước thắng trận. Năm cường quốc tham gia điều khiển hội nghị là Mỹ, Anh, Pháp, Italia và Nhật Bản, nhưng thực sự nắm quyền quyết định hội nghị là Tổng thống Mĩ Wilson, Thủ tướng Anh Lloyd George và Thủ tướng Pháp Clemenceau. Đại biểu của các nước bại trận cũng có mặt để kí vào các hoà ước do các nước thắng trận quyết định. Riêng nước Nga không được mời tham gia hội nghị. Vấn đề Nga không được đưa vào chương trình nghị sự nhưng nó là nỗi ám ảnh đối với các nước đế quốc. Ngay từ trước khi hội nghị bắt đầu, các nước đã thảo luận vấn đề Nga và đi đến thỏa thuận sẽ tăng cường can thiệp vũ trang và ủng hộ lực lượng phản động để chống lại chính quyền Xô viết.
      Hội nghị Versailles kéo dài gần 2 năm và diễn ra hết sức gay go, quyết liệt vì các nước cường quốc thắng trận đều có những mưu đồ tham vọng riêng trong việc phân chia quyền lợi và thiết lập trật tự thế giới sau chiến tranh. Là nước đăng cai hội nghị, Pháp mong muốn làm suy kiệt hoàn toàn nước Đức cả về quân sự và kinh tế, nhằm đảm bảo an ninh và địa vị bá chủ của Pháp ở lục địa châu Âu. Nhưng Anh và nhất là Mĩ lại chủ trương phải duy trì một nước Đức tương đối mạnh để đối phó với phong trào cách mạng đang lên cao ở các nước châu Âu và âm mưu bá chủ châu Âu của Pháp. Đó là chính sách “cân bằng lực lượng” ở châu Âu mà Mĩ rất ủng hộ. Ngay từ đầu năm 1918, một năm trước khi chiến tranh kết thúc, Tổng thống Mĩ Wilson đã đưa ra Chương trình 14 điểm nhằm lập lại hoà bình và tổ chức lại thế giới sau chiến tranh theo quan điểm của Mĩ(1). Với những lời lẽ bóng bảy, bề ngoài đề cao hoà bình, dân chủ, Chương trình 14 điểm thể hiện mưu đồ xác lập địa vị bá chủ thế giới của Mĩ, làm suy yếu các đối thủ cạnh tranh Anh, Pháp và Nhật Bản, tạo cơ hội để Mĩ vượt khỏi sự biệt lập của châu Mĩ, vươn ra bên ngoài bằng sức mạnh kinh tế và  ảnh hưởng chính trị chứ không phải bằng con đường bành trướng lãnh thổ như các cường quốc khác. Chương trình 14 điểm của Wilson được các nước coi là nguyên tắc để thảo luận tại Hội nghị Versailles.
    Các nước Italia, Nhật Bản cũng đưa ra những tham vọng của họ. Nhật Bản đòi được thay thế Đức nắm chủ quyền bán đảo Sơn Đông của Trung Quốc, dự định chiếm vùng viễn Đông của nước Nga Xô Viết, mở rộng ảnh hưởng ở khu vực châu á - Thái Bình Dương. Italia muốn mở rộng lãnh thổ xuống vùng Địa Trung Hải và vùng Balkan. Các nước nhỏ như Ba Lan và Rumani cũng có những yêu cầu mở rộng lãnh thổ của mình.
    Mâu thuẫn và cuộc đấu tranh giữa các nước tham dự Hội nghị Versailles, đặc biệt là giữa các cường quốc trở nên gay gắt, có tới 3 lần Hội nghị có nguy cơ tan vỡ. Đây là hòa ước có sự sắp đặt rất khắc khe của các cường quốc đối với 1 một nước Đức bại trận. Nó có thể được so sánh với Hiệp định Tilsit mà Hoàng đế Pháp Napoleon I ký với Nga để áp đặt nước Phổ năm 1807, hoặc là Hiệp ước Brest - Litopsk mà Đế chế Đức áp đặt vào nước Nga Xô viết vào năm 1918. Lenin đã bình luận hết sức mỉa mai về Hội nghị này: "Chúng muốn quyết định xem cho ai nhiều than hơn, thế là chúng cãi cọ trong suốt 5 tháng nay, chúng không còn kiềm chế được mình và bầy thú dữ đó cắn cấu nhau loạn xạ đến nỗi chỉ còn lại cái đuôi". Cuối cùng vào tháng 3/1919, các văn kiện của Hội nghị đã lần lượt được ký kết.
      a. Sự thành lập hội Quốc liên (League of Nations).
     Một trong những vấn đề cơ bản đầu trên được các nước tham dự Hội nghị Versailles nhất trí là việc thành lập Hội Quốc liên, được thành lập theo tinh thần và nội dung của Điểm 14 trong "Chương trình 14 điểm" của Wilson. Công ước thành lập Hội quốc liên là văn kiện đầu tiên được kí kết cùng với Hiến chương của Hội. Theo đó, mục đích của Hội Quốc liên là “khuyến khích sự hợp tác quốc tế, thực hiện nền hoà bình và an ninh thế giới”, và để thực hiện mục đích đó người ta đề ra một số nguyên tắc như: không dùng chiến tranh trong quan hệ giữa các nước, quan hệ quốc tế phải rành mạch và dựa trên đạo lí, phải thi hành những cam kết quốc tế... 
    Ngày 10 - 1 - 1920, Hội Quốc liên chính thức thành lập với 44 nước kí vào công ước sáng lập, Hội quốc liên có 3 tổ chức chính: Đại hội đồng (gồm tất cả các nước thành viên, họp mỗi năm một lần vào tháng 9), Hội đồng thường trực (gồm 5 uỷ viên các cường quốc Anh, Pháp, Mĩ, Nhật, Italia - sau đó còn lại 4 vì Mĩ không tham gia, và một số uỷ viên có kì hạn, họp mỗi năm ba lần), Ban thư ký thường trực (do Tổng thư ký đứng đầu) thường trực như một nội các làm việc hành chính thường xuyên, đóng trụ sở ở Geneve. Các cơ quan chuyên môn của Hội Quốc liên gồm có Toà án quốc tế (có trụ sở thường trực ở La Hay) và các tổ chức khác như: Tổ chức lao động quốc tế (ILO), Tổ chức sức khoẻ (HO), uỷ ban người tị nạn (HCR) ... 
    Nội dung hoạt động do Hội Quốc liên đề ra là giám sát việc giải trừ quân bị, tôn trọng và bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị, giải quyết các tranh chấp quốc tế, thực hiện “chế độ uỷ trị” đối với một số lãnh thổ “chưa đủ điều kiện tự quản”... Nước nào vi phạm công ước, gây chiến tranh sẽ bị xem là gây chiến với toàn thể hội viên và sẽ bị trừng phạt dưới hai hình thức: bằng biện pháp kinh tế và tài chính (do tất cả các nước hội viên bắt buộc phải thi hành) và bằng những biện pháp quân sự. 
    Sự ra đời của Hội Quốc Liên, một tổ chức chính trị mang tính quốc tế đầu tiên, đã đánh dấu bước phát triển mới của quan hệ quốc tế thế kỷ XX. Về danh nghĩa, Hội Quốc Liên trở thành một tổ chức giám sát trật tự quốc tế mới, nhằm ngăn ngừa chiến tranh, bảo vệ hoà bình thế giới. Tuy nhiên, trên thực tế, những hoạt động của Hội quốc Liên là nhằm duy trì trật tự thế giới mới do các cường quốc chiến thắng áp đặt tại Hội nghị Vécxai. Với "chế độ uỷ trị", Anh, Pháp đã chia nhau hầu hết các thuộc địa của Đức và lãnh thổ của đế quốc Thổ Nhĩ Kì. Các biện pháp về giải trừ quân bị và sự trừng phạt chỉ mang ý nghĩa hình thức vì Hội Quốc liên không có sức mạnh thực tế để thực thi các quyết định của mình. Để Hội Quốc Liên có thể trở thành một công cụ có hiệu quả, tổ chức này phải có ý chí chính trị thống nhất và có khả năng quân sự cần thiết. Những sự kiện diễn ra sau này sẽ cho thấy sự bất lực của Hội Quốc Liên trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế. Hội Quốc Liên được thành lập theo sáng kiến của Tổng thống Mĩ Wilson nhưng Mĩ từ chối không tham gia do những tham vọng của Mĩ đã không được thực hiện trong Hội nghị Versailles. Điều đó cũng là một nhân tố ảnh hưởng đến uy tín và sức mạnh của tổ chức này.
      b. Hoà ước Versailles với Đức.
    Hoà ước Versailles với Đức kí ngày 28 - 6 - 1919, văn kiện quan trọng nhất của hệ thống hoà ước Versailles, đã quyết định số phận của nước Đức. Hoà ước khẳng định nước Đức bại trận phải chịu trách nhiệm về “tội ác gây chiến tranh”, do đó phải trả lại cho Pháp hai tỉnh Alsace-Lorraine (mà Pháp cắt nhượng cho Đức trong cuộc chiến tranh Pháp - Phổ 1870 - 1871); nhường cho Bỉ khu Eupen Malmedy và Moresnet; cắt cho Đan Mạch vùng Bắc Sleswig - tùy kết quả của cuộc trưng cầu ý dân - mà Thủ tướng Đức Bismarck chiếm được trong cuộc chiến tranh Đức - Đan Mạch 1864; cắt cho Ba Lan vùng Pomerania và một “hành lang chạy ra biển”..., một số nơi khác tùy thuộc vào trưng cầu ý dân, mà Đức đã chiếm được trong cuộc phân chia Ba Lan vào thế kỷ XVIII. Đồng thời, thành phố cảng Dantzig (nay là Gdansk, Ba Lan) và đảo Hengôlan sẽ do Hội quốc liên quản trị. Đây là một trong những điều khoảng khiến người dân Đức tức giận nhất, họ không chỉ bất mãn vì việc tách vùng Đông Phổ ra khỏi nước Đức bằng một "hành lang" cho Ba Lan thông ra biển, mà còn ghét bỏ người Ba Lan - người mà họ xem như "người hạ đẳng" - không hơn, không kém. Người Đức cũng giận dữ không kém khi thấy Hòa ước (điều 231) buộc tội họ là nước duy nhất phải chịu trách nhiệm chính là người gây ra cuộc chiến này, và đòi họ phải giao Wilhelm II (người phát động cuộc chiến) và khoảng 800 tội phạm chiến tranh khác cho các nước Hiệp ước để họ xét xử, còn các nước đế quốc khác thì dường như "vô tội" (!?) Ngoài ra, hạt Sarre của Đức cũng giao cho Hội Quốc liên quản trị trong thời hạn 15 năm, các mỏ than ở đây thuộc về Pháp. Sau thời hạn này sẽ tiến hành trưng cầu ý dân để quyết định hạt Sarre sẽ thuộc về nước nào (sau cuộc trưng cầu ý dân năm 1935, hạt Sarre đã thuộc về nước Đức). Đồng thời toàn bộ hệ thống thuộc địa của Đức đều trở thành đất uỷ trị của Hội Quốc liên và được giao cho các cường quốc Anh, Pháp, Nhật, Bỉ... quản lí.
    Nước Đức còn bị hạn chế vũ trang đến mức thấp nhất: chỉ được giữ lại 100.000 bộ binh với vũ khí thông thường, không có không quân, không có hạm đội tầu ngầm và thiết giáp hạm. Vùng tả ngạn sông Ranh (gần biên giới Pháp) và 3 đầu cầu vùng hữu ngạn sẽ do quân đội Đồng minh đóng trong vòng 15 năm và rút dần quân nếu Đức thi hành hoà ước. Vùng hữu ngạn sông Ranh với chiều rộng 50 km sẽ trở thành khu phi quân sự. Nước Đức còn phải bồi thường chiến tranh cho các nước thắng trận số tiền (do Hội nghị Luân đôn tháng 4 - 1921 qui định) là 132 tỉ Mác vàng, trong đó trả cho Pháp: 52% Anh 22%, Italia: 10%, Bỉ: 8%... Với hoà ước này, nước Đức mất 1/8 đất đai, gần 1/12 dân số, 1/3 mỏ sắt, gần 1/3 mỏ than, 2/5 sản lượng gang, gần 1/3 sản lượng thép và gần 1/7 diện tích trồng trọt. Toàn bộ gánh nặng của hoà ước Vécxai đè lên vai nhân dân Đức. Tuy thế, hoà ước Vécxai không thủ tiêu được tiềm lực kinh tế chiến tranh của Đức. Sau này, với sự trợ giúp của Mĩ, Anh, chỉ trong vòng một thời gian ngắn, nước Đức đã khôi phục và trở thành một lò lửa chiến tranh nguy hiểm nhất ở châu Âu trong thập niên 30.
     Việc hòa ước Versailles được công bố vào ngày 7/5/1919 đã gây ra một sự phản ứng mạnh mẽ không chỉ trong chính phủ, quân đội, mà còn lan ra toàn thể người dân Đức. Chính phủ lâm thời chống đối mạnh mẽ việc chấp nhận nó và cho rằng nó là hòa ước "vô lý"; còn nhân dân Đức thì ủng hộ, hậu thuẫn chính phủ nhiệt tình trong cuộc đấu tranh này. Chính phủ hỏi ý kiến quân đội: Nếu từ chối ký vào hòa ước, liệu Quân đội có thể chống cự cuộc tấn công của Đồng minh hay không? Ngày 17/6, Thống chế Hindenburg cho rằng, nếu từ chối ký hòa ước, Đức sẽ có thể gây chiến tranh chiếm vùng Posen, nhưng sẽ rất khó khăn nếu Đồng minh tấn công kịch liệt và chúng ta sẽ thất bại. Chi bằng chúng ta thà thua trong danh dự còn hơn chấp nhận một nền hòa bình nhục nhã. Lời nói này của Hindenburg khiến người dân cảm thấy như là không thực sự trung thực cho lắm. Nhân dân Đức không biết Hindenburg đã nghĩ rằng nếu cố chống cự Đồng minh thì không những vô vọng, mà còn có thể khiến cho cấp chỉ huy quân đội quý giá bị tiêu diệt và từ đó nước Đức cũng bị hủy diệt theo. Vài ngày sau, khi bị Đồng minh bắt phải ra ngay quyết định cuối cùng, Chính phủ đã họp lại nội các và quân đội và 4 ngày sau, quốc hội Đức mới chính thức ký vào văn kiện Hòa ước Versailles.
    Việc ký kết hòa ước này gây sự phản ứng rất mạnh mẽ ở nhiều nơi. Ở Liên Xô, khi nghe tin hòa ước được ký kết, Lenin đã nhận xét: "Đấy là một thứ hòa ước kỳ quái, một thứ hòa ước ăn cướp, nó đẩy hàng chục triệu con người, trong đó có những con người văn minh nhất, rơi vào tình cảnh bị nô dịch. Đấy không phải là một hòa ước, đấy là những điều kiện mà bọn ăn cướp tay cầm dao buộc một nạn nhân không có gì tự vệ phải chấp nhận". Đồng thời ở Pháp, Thống chế Foch, viên tướng Pháp có nhiều công lao lớn trong Thế chiến I, đã không ngừng phản đối Clemenceau rất kịch liệt và không bằng lòng với những nội dung Hòa ước đã ký với Đức, ông ta cũng dự báo về những thất bại của Hòa ước đó. Ông ta từng chứng kiến quân Đức hủy hạm đội của mình để tránh rơi vào tay giặc, quân và dân Đức đốt cháy lá cờ Pháp ở nước Đức mà quân Đức cướp trong cuộc chiến 1870 - 1871, nhằm ngăn cản việc giao các lá cờ này cho Pháp... Ông viết thư cho vợ: "Bọn họ nhạo báng chúng ta. Toàn thể châu Âu là một đám nhốn nháo. Ấy là công trình của Clemenceau". Do đó, Foch từ chối làm lễ ký kết Hiệp ước này vào ngày 28 tháng 6 năm 1919 tại Versailles. Foch có lời tuyên bố, mà sau này càng trở nên đúng: "Đây không phải là một Hòa ước. Đây là một Thỏa ước ngừng bắn trong vòng 20 năm". Bất chấp sự nỗ lực lớn nhất của Clemenceau, Hòa ước này thất bại vì không thể thay đổi sự cân bằng chiến lược Đức - Pháp: Đức thì đông dân, có tiềm lực quân sự, chính trị mạnh nhưng trong khi đó quân đội Pháp lại quá yếu, ảnh hưởng rất nhỏ bé trong phe Hiệp ước nên rất khó đương đầu với Đức. Chính vì vậy, Thượng viện Hoa Kỳ từ chối phê chuẩn bản Hòa ước này vào tháng 1 năm 1920, và liên minh giữa Anh Quốc và Pháp bắt đầu suy sụp. Foch chán ghét một liên minh quân sự Pháp - Anh - Mỹ, cái mà Clemenceau đặt niềm tin to lớn. Thành thử không những chiến thắng của Pháp vào năm 1918 hoàn toàn là một chiến thắng mà Pháp đã thất bại trong việc thiết lập một nền hòa bình lâu dài.
      c. Các hoà ước khác.
    Cùng với hoà ước Versailles kí với Đức, những hoà ước khác cũng lần lượt kí kết với các nước bại trận trong hai năm 1919 - 1920. Với hoà ước Saint - Germain kí với Áo ngày 10 - 9 - 1919 và Hoà ước Trianon kí với Hunggari ngày 4-6-1920, đế quốc Áo - Hung trước kia không còn nữa mà bị tách thành hai nước nhỏ: Áo chỉ còn 6,5 triệu dân với diện tích 84.000 km2, Hunggari cũng mất 1/3 lãnh thổ trước kia, chỉ còn lại 92.000km2 với 8 triệu dân. Mỗi nước chỉ được quyền có khoảng 30.000 quân và phải bồi thường chiến phí. trên lãnh thổ của đế quốc áo - Hung cũ đã thành lập hai quốc gia mới là Tiệp Khắc và Nam Tư. Một số nước được mở rộng thêm đất đai từ lãnh thổ của đế quốc áo - Hung: Rumani được thêm vùng Bukovine và Transylvanie, Italia được thêm vùng Trentin - Istrie, Ba Lan cũng được thành lập với vùng Galicia thuộc áo và các vùng đất khác thuộc Đức và Nga. Ở bán đảo Ban căng, số phận hai nước thua trận là Bungari và đế quốc ốttôman cũng được quyết định. Với hoà ước Neuilly kí với Bungari ngày 27-11-1919, lãnh thổ Bungari bị thu hẹp lại so với trước kia do phải cắt một số đất đai ở biên giới phía Tây cho Nam Tư, cắt vùng  Thrace cho Hi Lạp (do vậy bị mất cảng Dédéagatch và lối ra biển Egée và cắt tỉnh Dobroudja cho Rumani. Ngoài ra, Bungari phải bồi thường chiến phí là 2,25 tỉ phơ răng, phải nộp cho các nước láng giềng trong phe chiến thắng (Nam Tư, Hi lạp, Rumani) 37.000 gia súc lớn, 33.000 gia súc nhỏ, đồng thời phải hạn chế lực lượng vũ trang xuống còn không quá 20.000 người. Hoà ước Sevres với Thổ Nhĩ Kì kí ngày 11 - 8 - 1920 đã chính thức xoá bỏ sự tồn tại của đế quốc Ottoman. Syria, Libăng, Palextin và Irắc tách khỏi thổ Nhĩ Kì và đặt dưới quyền “bảo hộ” của Anh và Pháp. Ai Cập chịu sự “bảo hộ” của Anh, bán đảo Aráp được coi là thuộc “phạm vi thế lực” của Anh. Phần đất châu Âu của Thổ Nhĩ Kì phải cắt cho Hi Lạp (trừ Istambul và vùng ngoại ô). Các eo biển của Thổ Nhĩ Kì được đặt dưới quyền kiểm soát của một uỷ ban gồm các đại biểu của Anh, Pháp, Italia, Nhật Bản. Toàn bộ những hoà ước nói trên hợp thành Hệ thống hoà ước Versailles. Đây là văn bản chính thức đầu tiên xác định việc phân chia thế giới của chủ nghĩa đế quốc. Trật tự mới này đem lại lợi ích cho các cường quốc thắng trận, nhất là Anh. Anh chẳng những mở rộng hệ thống thuộc địa đồng thời quyền bá chủ mặt biển vẫn được giữ vững. Pháp và Nhật cũng giành được khá nhiều quyền lợi. Tuy nhiên, những điều khoản khắt khe của Hệ thống hoà ước Versailles đối với các nước chiến bại, nhất là Đức, trên thực tế chẳng những đã không thể thực hiện được mà còn làm tăng thêm tâm lý phục thù của các nước này. Đó là mâu thuẫn nảy sinh ngay từ khi hệ thống này mới được hình thành. Đồng thời, tham vọng lãnh đạo thế giới của giới cầm quyền Mĩ cũng chưa được thực hiện. Chính vì thế các nước đế quốc đã phải tiếp tục giải quyết những bất đồng về quyền lợi tại một hội nghị tiếp theo ở Washington.
--------------------------
 (1) Chương trình 14 điểm của Wilson là:
1. Đưa ra những hiệp định rõ ràng, không bí mật.
2. Tự do thông thương của các đại dương.
3. Bãi bỏ các rào cản kinh tế.
4. Cắt giảm vũ khí.
5. Dàn xếp các yêu sách của thuộc địa theo quyền lợi của các dân tộc bị trị.
6. Quân Đức rút khỏi Nga, quyền tự do về chính sách quốc gia cho Nga.
7. Quân Đức rút khỏi Bỉ, Bỉ là nước độc lập.
8. Quân Đức rút khỏi Pháp, Alsace-Loraine thuộc về Pháp.
9. Điều chỉnh biên giới Italia.
10. Các dân tộc của đế quốc Áo có quyền tự quyết.
11. Quân Đức rời khỏi Rumani, Serbia và Montenegro, Serbia có một lối đi ra biển.
12. Các dân tộc của đế quốc Ottoman có quyền tự quyết, eo biển Dardanelless cho phép tàu của mọi quốc gia.
13. Ba Lan độc lâp, có một lối đi ra biển.
14. Thành lập một tổ chức quốc tế để giữ gìn hòa bình


    2. Hệ thống Hiệp ước Washington:
   Hội nghị Versailles kết thúc nhưng những mâu thuẫn mới lại nảy sinh giữa các cường quốc thắng trận đặc biệt là mâu thuẫn trong quan hệ Anh - Mĩ và Mĩ - Nhật. Các nguyên nhân dẫn đến việc ký hòa ước này là:
- Hòa ước Versailles không giải quyết được mâu thuẫn giữa các nước đế quốc, ngay cả trong nội bộ các nước đế quốc. Trên thực tế, Anh là nước có nhiều quyền lợi hơn cả, được giữ vững hệ thống thuộc địa và không cho một đế quốc nào khác mạnh hơn và qua mặt mình. Pháp và Nhật cũng giành được nhiều quyền lợi qua Hệ thống hòa ước Versailles. Còn Mỹ chưa giành được quyền lợi nào đáng kể. Cụ thể, Mỹ rất bất bình trước việc Anh, Pháp làm cho Đức quá suy yếu. Về bồi thường chiến tranh, trong khi Anh, Pháp đòi Đức bồi thường 480 - 600 tỉ mac, Đức chấp nhận 100 tỉ mac, thì Mỹ chỉ chấp nhận có 200 tỉ mac mà thôi. Chính giới Mỹ cũng bất bình khi Hiệp ước Versailles quyết định trao Sơn Đông cho Nhật, là đối thủ cạnh tranh nguy hiểm của Mỹ ở Viễn Đông.
- Sự thất bại của Wilson. Đúng vậy, Wilson chưa có những hành động tích cực bảo vệ quyền lợi của Mỹ trong Hệ thống hòa ước Versailles. Trong các hòa ước Versailles, ông đã không thể đưa vào nguyên tắc "tự do về biển", đồng thời khi Hội Quốc Liên được thành lập theo sáng kiến của ông thì cũng bị đa số Đảng Cộng Hòa chiếm ưu thế trong Thượng viện đánh giá một cách tiêu cực, vì họ cho rằng Anh và Pháp đang là kẻ chi phối chính trong tổ chức này, chứ không phải Mỹ.
   Do tất cả những điều đó mà khi Wilson ký vào Hòa ước trên, Thượng viện Mỹ đã lập tức không phê chuẩn nó và rút ra khỏi Hội Quốc Liên. Hậu quả là, trong cuộc bầu cử năm 1920, đảng Dân chủ của ông bị thất cử với số phiếu chênh lệch: 60,36% (Cộng hòa) và 34,19% (Dân chủ). Tân tổng thống của đảng Cộng hòa mới lên nhậm chức là Harding đã vin vào cái gọi là "chủ nghĩa biệt lập", để không bị lệ thuộc vào hòa ước trên và theo đuổi một ý đồ khác nhằm thiết lập địa vị cho người Mỹ.
- Mâu thuẫn Anh - Mỹ về "Two Power Standard" ("nguyên tắc sức mạnh gấp đôi"), liên minh Anh - Nhật và sức ép của Mỹ với liên minh này. Như đã biết, Anh có ưu thế từ lâu trên Viễn Đông, nhất là Trung Quốc, nơi người Mỹ thèm khát muốn xâm nhập vào, nhưng lúc nào cũng bị Anh chặn lại. Hơn thế, với Hòa ước 1919, Anh bảo toàn được địa vị của mình ở Viễn Đông, điều này khiến Mỹ rất bất bình. Để giải quyết, Mỹ sử dụng sức mạnh tài chính (buộc Anh trả khoảng nợ 850 tỉ bảng cho mình), vấn đề Ireland và đe dọa mối quan hệ Nhật - Anh. Đồng thời, Mỹ nhận thấy lúc đó lực lượng Hải quân của Anh rất mạnh, có mặt hầu như khắp nơi trên thế giới. Năm 1914, chính phủ Anh đề ra nguyên tắc "sức mạnh gấp đôi" quy định lực lượng quân Anh bằng 2 lần lực lượng hai đế quốc cộng lại, và điều đó khiến người Mỹ bất bình và muốn thay đổi, xóa bỏ cái gọi là "nguyên tắc sức mạnh gấp đôi" này. 
- Mâu thuẫn Mỹ - Nhật về vấn đề Viễn Đông. Việc xây dựng kênh đào Panama để thông thương đã làm cho mâu thuẫn Nhật - Mỹ, vốn có từ lâu trước Thế chiến 1, bùng lên. Ngoài ra, Nhật cũng có lợi thế ở Viễn Đông nhiều hơn Mỹ, đó là Nhật có xây dựng các căn cứ Hải quân ở Đài Loan, quần đảo Lưu Cầu, đảo Sakhalin, các quần đảo Kuril, Mariana, Marshall.... rất thuận lợi cho Nhật có thể tự do di chuyển, phòng ngừa các cuộc tấn công xảy ra bên ngoài Nhật Bản. Trong khi đó, Mỹ mới có đặt chân vào vùng Thái Bình Dương từ hồi năm 1899 và đang xây dựng lực lượng, thế nhưng với sự tăng trưởng không ngừng của Nhật về Hải quân đã làm Mỹ xem xét lại và quyết định sẽ tăng cường hải quân vào khu vực này, trong khi đó Mỹ cũng lo ngại vùng Thái Bình Dương rộng lớn sẽ gây khó khăn cho nó khi có chiến tranh, do đó Mỹ cũng đem quân, xây dựng các căn cứ ở Guam, Philippines. Căng thẳng Nhật - Mỹ còn liên quan đến vấn đề Cộng hòa Viễn Đông. Trong khi Nhật muốn bóp chết chính quyền Viễn Đông thì Mỹ cũng lo ngại về hành động của Nhật ở đây, và cho các công ty của mình vào nước này khai khoáng, nhưng Nhật đã phản đối quyết liệt.
     Ngày 12 - 11 - 1921, Hội nghị Washington được khai mạc với sự tham gia của 9 nước: Anh, Pháp, Mĩ, Italia, Nhật, Bỉ, Hà Lan, Bồ Đào Nha và Trung Quốc. Nước Nga Xô viết - một nước lớn ở khu vực đã không được mời tham dự hội nghị. Quyền lãnh đạo hội nghị nằm trong tay bốn nước: Anh, Pháp, Mĩ, Nhật, nhưng quyền quyết định thuộc về Mĩ. Những nghị quyết quan trọng nhất của Hội nghị Washington được thể hiện trong ba hiệp ước: Hiệp ước 4 nước (Anh, Pháp, Mĩ, Nhật) , Hiệp ước 9 nước (Anh, Pháp, Mĩ, Nhật, Italia, Bỉ, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Trung Quốc) và Hiệp ước 5 nước (Anh, Pháp, Mĩ, nhật, Italia).

     a) Hiệp ước 4 nước:
     Được gọi là Hiệp ước “không xâm lược ở Thái Bình Dương” kí ngày 13-12-1921 và có giá trị trong 10 năm. Các bên thoả thuận “tôn trọng quyền của nhau về các đảo ở vùng Thái Bình Dương” thực ra là cùng nhau bảo vệ các thuộc địa ở khu vực rộng lớn này. Đồng thời cũng nhân dịp này Mĩ gây áp lực với Anh để liên minh Anh - Nhật (được kí kết từ năm 1902) không còn hiệu lực nữa (điều 4). Với Hiệp ước này, Mĩ không chỉ thủ tiêu được liên minh Anh - Nhật mà còn trở thành nước đóng vai trò chủ đạo trong bốn cường quốc ở khu vực Thái Bình Dương. (xem toàn văn: http://avalon.law.yale.edu/20th_century/tr1921.asp)
    b) Hiệp ước 9 nước kí ngày 6 - 2 - 1922, gồm 9 điều, công nhận nguyên tắc “hoàn chỉnh về lãnh thổ và tôn trọng chủ quyền của Trung Quốc” đồng thời nêu nguyên tắc “mở cửa” và “khả năng đồng đều” cho các nước trong các hoạt động thương mại và công nghiệp trên toàn lãnh thổ Trung Quốc. Ngoài ra, một công ước đặc biệt được ký kết thống nhất thuế hải quan của Trung Quốc với tỉ lệ bằng 5% giá trị hàng hóa, và Trung Quốc không được tăng thuế lên mức 12,5%. Tóm lại với hiệp ước này, Trung Quốc đã trở thành một thị trường chung của các cường quốc phương Tây và Nhật Bản. Đặc biệt là Mĩ đã hợp pháp hoá sự bành trướng của mình vào Trung Quốc. (xem: toàn văn hiệp ước 9 nước  (tiếng Anh)
     c) Hiệp ước 5 nước kí kết cùng ngày 6-2-1922, được gọi là “Hiệp ước hạn chế vũ trang và hải quân” nhằm qui định trọng tải tàu chiến của các nước ở khu vực Thái Bình Dương theo tỉ lệ: 5 - 5 - 3 - 1,75 - 1,75 (cụ thể: Mĩ và Anh bằng nhau: 525.000 tấn, Nhật: 315.000 tấn, Pháp và Italia bằng nhau: 175.000 tấn). Đồng thời các nước này cũng qui định tỉ lệ về hai loại tàu chở máy bay và tầu tuần dương hạm. Với hiệp ước này, Mỹ giành được quyền bình đẳng hải quân với Anh với nguyên tắc "sức mạnh gấp đôi" bị phá vỡ, Nhật cũng giành được thắng lợi quan trong khi 5 nước tuyên bố không xây dựng các căn cứ quân sự ở Thái Bình Dương, giúp nó nắm ưu thế trên vùng biển rộng lớn này.(xem: toàn văn Hiệp ước 5 nước  (tiếng Anh) 
     Hội nghị Washington hoàn toàn có lợi cho Mĩ, trong khi nước Anh phải chấp nhận nhượng bộ: từ bỏ nguyên tắc “sức mạnh quân sự gấp đôi” đã có từ năm 1914, theo đó hải quân Anh phải có hạm đội bằng hai hạm đội mạnh nhất thế giới cộng lại, đồng thời phải huỷ bỏ liên minh Anh - Nhật. Từ đây hải quân Mĩ ngang hàng với Anh và vượt qua Nhật. Mĩ còn thực hiện được việc xâm nhập vào thị trường viễn Đông và Trung Quốc thông qua chính sách “mở cửa”. Với hệ thống Hiệp ước Washington, Mĩ đã giải quyết quyền lợi của mình bằng cách thiết lập một khuôn khổ trật tự mới ở Châu Á - Thái Bình Dương do Mĩ chi phối. Kết hợp với hệ thống Hoà ước Versailles, các hiệp ước của Hội nghị  Washington đã tạo nên Hệ thống Versailles - Washington. Đó là trật tự thế giới mới mà chủ nghĩa đế quốc xác lập, trong đó ba cường quốc Anh, Pháp, Mĩ giành được nhiều ưu thế nhất và “7/10 dân cư thế giới trong tình trạng bị nô dịch” theo cách nói của Lenin. Nội bộ phe đế quốc cũng bị phân chia thành những nước thoả mãn và những nước bất mãn với hệ thống này, tạo nên mầm mống của những cuộc xung đột quốc tế trong tương lai. Như thế, sau cuộc chiến tranh thế giới kéo dài bốn năm (1914 - 1918) với những tổn thất nặng nề cho toàn nhân loại, hoà bình đã được lập lại trong một thế giới chứa đựng nhiều mâu thuẫn và bất ổn.

    3. Trật tự thế giới trong thập niên 20


       a) Các hội nghị quốc tế về hoà bình, an ninh tập thể và giải trừ quân bị

    Bước vào thập niên 20, nhìn chung các nước tư bản đều bước vào thời kì ổn định và đạt được sự phát triển nhanh chóng về kinh tế. Sự ổn định về kinh tế và chính trị của chủ nghĩa tư bản đã tác động không nhỏ đến chiều hướng phát triển của quan hệ quốc tế. Sau Hội nghị Versailles - Washington, hàng loạt các hội nghị quốc tế về các vấn đề hoà bình, an ninh tập thể, giải trừ quân bị... đã diễn ra trong khuôn khổ hệ thống Versailles - Washington. Một trong những hội nghị quốc tế lớn nhất kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918) đến lúc bấy giờ là hội nghị quốc tế Genova (Italia) diễn ra từ 4 -10 đến 19 - 5 - 1922 với sự tham gia của đại biểu 29 nước trên thế giới (Mĩ không chính thức tham gia mà chỉ cử quan sát viên tham dự). Nước Nga Xô viết lần đầu tiên chính thức được mời tham dự. Hội nghị bàn về những vấn đề kinh tế - tài chính của tất cả các nước Châu Âu sau chiến tranh, trong đó “vấn đề Nga” là vấn đề gây tranh cãi nhiều nhất. Do những bất đồng về việc giải quyết những khoản nợ của Nga hoàng và chính phủ lâm thời tư sản Nga (các nước đế quốc đòi Nga bồi thường đến 18 tỉ rúp vàng là khoảng nợ của Sa hoàng và chính phủ lâm thời Nga đã nợ mình), cùng với vấn đề bồi thường chiến tranh cho nước Nga xô viết (Nga Xô viết tính toán, đưa ra con số mà đế quốc phải bồi thường là 39.450.000 rúp vàng, nhưng bị Anh bác bỏ), Hội nghị Genova hầu như không đạt được kết quả đáng kể nào. Trong khi đó, bên lề hội nghị Genova, hai nước Đức và Nga đã kí kết Hiệp ước Rapallo (16 - 4 - 1922) nhằm khôi phục lại các quan hệ ngoại giao, cam kết từ bỏ các khoản nợ và bồi thường chiến tranh (điều 116 của hòa ước Versailles), quốc hữu hóa các tài sản sở hữu nhà nước, đồng thời áp dụng chính sách tối huệ quốc cho các quan hệ kinh tế - thương mại giữa hai nước. Hiệp ước này như một quả bom nổ tung bên cạnh hội nghị Genova đang diễn ra, và là một thắng lợi lớn của nền ngoại giao Nga Xô viết lúc đó. Chail - quan sát viên của Mỹ tại hội nghị Genova đã đánh giá hiệp ước Rapallo "đã làm rung chuyển toàn thế giới và giáng một đòn chí mạng vào Hội nghị Genova". Và quả thật, đúng như Duroselle khi đó đã viết: "Hiệp ước Rapallo làm các đồng minh hốt hoảng", và mặc dù bị đồng minh phản đối kịch liệt, nhưng Đức vẫn quyết tâm thực hiện vì chỉ có nó mới giúp Đức tồn tại, đứng vững và tạo đà phát triển mạnh về sau này.
     Cuối năm 1922, trước những chuyển biến quan trọng của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc ở Thổ Nhĩ Kì, các nước tư bản phương Tây triệu tập một Hội nghị quốc tế ở Lausanne (Thuỵ sĩ) để bàn về việc kí kết một hiệp ước hoà bình mới với Thổ Nhĩ Kì và những vấn đề khác liên quan đến các eo biển ở vùng biển Hắc Hải. Hội nghị Lausanne, khai mạc ngày 20 - 11 - 1922 với sự tham gia của các quốc gia có liên quan đến những vấn đề khác nhau của hội nghị. Liên quan đến vấn đề kí hoà ước mới với Thổ Nhĩ Kì có sự tham gia của các nước Anh, Pháp, ý, Nhật, Rumani, Hi Lạp, Nam Tư và Thổ Nhĩ Kì. Là một cường quốc ở vùng biển Hắc Hải, nước Nga xô viết (do Ngoại trưởng Chicherin dẫn đầu) đã chủ trương phải đảm bảo an ninh chung, cấm tất cả các tàu thuyền các nước không được qua lại thường xuyên ở 2 eo biển Dandanelles và Bosporus trong thời chiến lẫn thời bình, nhưng tự do hóa cho các tàu buôn. Dưới sự chi phối của các nước Anh, Pháp, Ý, Hiệp ước về eo biển Dandanelles và Bosporus ở vùng biển Hắc Hải đã được ký kết, theo đó vùng eo biển sẽ được phi quân sự hoá và các loại tàu thuyền được tự do qua lại. Hiệp ước này trên thực tế đã ảnh hưởng đến an ninh của các nước vùng biển Hắc Hải nói chung và nước Nga xô viết nói riêng. Còn về vấn đề ký hòa ước với Thổ Nhĩ Kì, do các bất đồng sâu sắc giữa các nước nên hội nghị phải ngưng lại. Đến tháng 4 thì hội nghị lại diễn ra, nhưng lần này là Nga Xô viết không được tham gia do các đế quốc lấy cớ vấn đề eo biển không còn trong chương trình hội nghị nữa. Thái độ chống Nga Xô viết của các đế quốc diễn ra đến mức thô bạo, khi họ tước bỏ quyền miễn trừ ngoại giao của Vatslav V. Vorovsky (1871 - 1923), đại diện của Nga ở Lausanne, tạo điều kiện cho 1 tên Bạch vệ lưu vong là Conradi ám sát chết vào năm 1923. Sau sự kiện đó, mặc dù cuối cùng các hiệp ước về Thổ Nhĩ Kì được ký kết, và các Hòa ước đó đã xác định lãnh thổ của nước này bao gồm vùng Tiểu Á và vùng Đông Thessaly ở phần châu Âu, nhưng Liên Xô đã phủ quyết hòa ước này. Hòa ước hoàn toàn mất hiệu lực.



      Để xây dựng một nền an ninh tập thể ở châu Âu trong khuôn khổ hệ thống Versailles - Washington, một hội nghị quốc tế giữa các nước tư bản châu Âu đã được triệu tập ở Locarno (Thụy Sĩ) từ ngày 5 đến 16 - 10 - 1925. Hội nghị đã đến kí kết hệ thống hiệp ước Locarno (143 điều), bao gồm: Hiệp ước đảm bảo chung (còn gọi là hiệp ước đảm bảo Rhenanie) giữa Anh, Pháp, Đức, Italia và Bỉ, các hiệp ước Pháp - Đức, Đức - Bỉ, Đức - Tiệp, Đức - Ba Lan về trọng tài và các hiệp ước đảm bảo Pháp - Ba Lan và Pháp - Tiệp. Các hiệp ước nói trên là sự cam kết đảm bảo đường biên giới giữa các nước có liên quan; phi quân sự hóa vùng Rhenanie theo những điều khoản của Hệ thống Versailles. Trong trường hợp Đức xâm chiếm vùng phi quân sự này, các nước ký hiệp ước có toàn quyền, kể cả dùng vũ lực để chống lại (điều 2). Đồng thời, cũng tại hội nghị này các nước đã đi đến thoả thuận đồng ý để nước Đức tham gia Hội Quốc Liên (tuy nhiên phải đến tháng 9 - 1926 Đức mới trở thành viên chính thức của Hội Quốc Liên). Tất cả các hiệp ước trên đây hợp thành Hệ thống Hiệp ước Locarno được tổ chức ký chính thức ở London vào ngày 1 - 12 - 1925.
       Với việc kí kết hệ thống hiệp ước Locarno và việc nước Đức tham gia Hội Quốc Liên, mâu thuẫn giữa các cường quốc phương Tây dường như dịu đi và các chính khách tư sản, các nhà báo đã tán tụng nó và họ đã "mơ" về nền hòa bình mà châu Âu chờ đợi từ lâu (!). Hiệp ước trên đã giáng cho các liên minh của Pháp những thất bại nặng nề và Pháp cũng từ đó mất hết hy vọng làm suy yếu Đức sau hiệp ước Versailles. Với việc ký hiệp ước trên, Đức đã thoát dần ra khỏi vị trí là nước bại trận, vươn lên bình đẳng về chính trị - kinh tế với các nước và "hợp pháp hóa" địa vị trên trường quốc tế. Còn Anh và Mỹ thì tỏ ra hài lòng về Hệ thống hiệp ước này, bởi một mặt, hệ thống này khống chế được Pháp, buộc Đức ràng buộc vào các cam kết nhất định đối với các cường quốc phương Tây, mặc khác nó tạo điều kiện để sử dụng Đức trong các ý đồ chống Liên Xô. Trong bối cảnh đó, về phía mình, Liên Xô không thể ngồi yên nhìn toàn thế giới bị chi phối bởi các cường quốc, nhất là Đức, một nước vừa "nổi lên" sau hòa ước Locarno. Tháng 10 - 1925, Liên Xô và Đức bắt đầu ký các hiệp ước hợp tác về kinh tế (đường sắt, hàng hải...). Song, mục tiêu lớn nhất của Liên Xô là phải đạt một hiệp ước trung lập và không tấn công lẫn nhau với Đức. Tháng 3 - 1926, Đức đề nghị gia nhập vào Hội Quốc Liên và do nhiều trục trặc khác nhau trong đàm phán, Đức đã dần xích về Liên Xô. Ngày 24 - 4 - 1926, hai nước đã ký với nhau hiệp ước về trung lập và không tấn công nhau Xô - Đức tại Berlin (Đức), khẳng định quan hệ hai nước sẽ tuân thủ theo hiệp ước Rapallo, cam kết theo nguyên tắc trung lập trong trường hợp bên kia bị một nhóm nước hay nước thứ ba tấn công, nếu các bên một nhóm nước hay nước thứ ba tẩy chay, bao vây, thì bên kia sẽ không tham gia các hoạt động chống lại bên đã ký hiệp ước. Phía Đức còn thông báo là sẽ không bị ràng buộc bởi các quyết định của Hội để chống Liên Xô. Hiệp ước Xô - Đức là một thắng lợi lớn của nền ngoại giao Nga Xô viết khi đó. Sau đó, Liên Xô có ký kết các hiệp ước với một loạt các nước khác nhau để khẳng định, củng cố vị thế lúc đó. 
     Như vậy, sự kiện các hiệp ước Xô - Đức, Locarno, Thổ Nhĩ Kì và Đức gia nhập Hội Quốc Liên...đã làm sáng lên những tia hy vọng về một nền hòa bình có cơ may được xác lập ở châu Âu và trên toàn thế giới. Trong bối cảnh lòng tin vào an ninh tập thể lên đến đỉnh cao mà tháng 4 - 1927, Ngoại trưởng Pháp Aristide Briand đề nghị với Ngoại trưởng Mĩ Frank B. Kellogg về việc Pháp và Mỹ ký một hiệp ước "hữu nghị vĩnh viễn, theo đó hai nước cam kết từ bỏ việc chiến tranh như là một phương tiện chính trị quốc gia". Ngoại trưởng Mĩ đồng ý, nhưng sẽ mở rộng hiệp ước cho nhiều nước cùng tham gia. Sau nhiều cuộc đàm phán liên tục, ngày 27 - 8 - 1928 tại Pari đã diễn ra lễ ký kết Hiệp ước từ bỏ chiến tranh nói chung, còn được gọi là Hiệp ước Briand - Kellogg. Hiệp ước này đã được nhiều nước trên thế giới hưởng ứng và có tới 57 quốc gia kí kết tham gia, trong đó có Liên Xô. Liên Xô là một trong những quốc gia đầu tiên phê chuẩn Hiệp ước và mong muốn Hiệp ước này sớm có hiệu lực. Một năm sau, nhằm thúc đẩy việc vận dụng vào thực tế hiệp ước này, theo sáng kiến của Thứ trưởng Ngoại giao Liên Xô Maxim Litvinov (1876 - 1951), 8 nước (Liên Xô, Rumania, Latvia...) đã cùng nhau ký "Nghị định thư Litvinov" (9 - 2 - 1929) kêu gọi hiện thực hóa hiệp ước Briand - Kellogg vào thực tiễn mà không chờ đợi cho đến khi nó được các nước khác phê chuẩn.
     Mặc dù Hiệp ước Briand - Kellogg được đánh giá là “đánh dấu đỉnh cao của làn sóng hoà bình trong thập niên 20,” nhưng thực tế cho thấy việc đặt niềm tin vào hiệp ước này là “một ảo tưởng nguy hiểm” bởi lẽ chỉ vài ngày sau khi kí kết hiệp ước Briand - Kellogg, Anh và Pháp đã tiến hành kí kết ngay một thoả hiệp riêng rẽ vấn đề vũ khí Hòa bình và an ninh tập thể trong khuôn khổ trật tự Versailles - Washington, Hội Quốc Liên là rất mong manh, xa vời. Những diễn biến tiếp theo trong quan hệ quốc tế thập niên 30 sẽ tiếp tục chứng minh điều đó.



     b) Vấn đề thực hiện Hoà ước Versailles kí với Đức.
     Việc thực hiện các điều khoản của Hoà ước Versailles kí với Đức chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong quan hệ quốc tế những năm 20. Về vấn đề bồi thường chiến tranh, Hội nghị Luân Đôn ngày 30 - 4 - 1921 đã qui định số tiền bồi thường của Đức là 132 tỉ mác vàng và Đức bắt đầu phải trả từ mùa hè năm 1921. Tuy nhiên, tình trạng khủng hoảng kinh tế - tài chính trầm trọng diễn ra ở Đức đã khiến cho nước này không có khả năng thực tế để trả món nợ đó. Sau việc liên quân Pháp - Bỉ chiếm đóng vùng Ruhr (11 - 1 - 1923), nơi sản xuất 90% sản lượng than và 70% sản lượng gang của nước Đức, không mang lại hiệu quả trong vấn đề bồi thường của Đức, một Hội nghị quốc tế đã được triệu tập ở Luân đôn để xem xét lại vấn đề này. Hội nghị Luân đôn khai mạc ngày 16 - 7 - 1924 với sự tham gia của các đại diện Anh (MacDonald), Pháp (Herriot), Italia (Stefani), Nhật (Hayashi), Bỉ (Teinic), Bồ Đào Nha, Hy Lạp, Rumani, và Mĩ (Kellogg) (về danh nghĩa Mĩ chỉ tham gia với một số quyền hạn chế nhưng trên thực tế Mĩ có ảnh hưởng lớn trong Hội nghị). Hội nghị Luân Đôn đã thông qua kế hoạch Dawes có giá trị trong vòng 5 năm với nội dung chủ yếu là Mĩ và Anh sẽ giúp đỡ Đức trong việc phục hồi và phát triển kinh tế - tài chính để nước này có khả năng trả được các khoản bồi thường chiến tranh theo lịch trình được Uỷ ban 5 nước Anh, Pháp Mĩ, Italia qui định như sau:
  • Năm thứ nhất trả 1 tỉ mác vàng
  • Năm thứ hai: 1,22 tỉ mác vàng
  • Năm thứ 3: 1,2 tỉ mác vàng
  • Năm thứ tư: 1,75 tỉ mác vàng
  • Từ năm thứ năm: mỗi năm 2,5 tỉ mác vàng.
      Với kế hoạch Dawes, Pháp đã phải có những nhượng bộ quan trọng: Pháp phải rút khỏi vùng Ruhr (năm 1925) việc giải quyết vấn đề bồi thường chiến tranh đã tuột khỏi tay Pháp chuyển sang tay người Mĩ. Mĩ và Anh có điều kiện mở rộng ảnh hưởng về kinh tế - tài chính vào nước Đức. Kế hoạch Dawes đã góp phần quan trọng vào việc phục hồi và phát triển kinh tế Đức. Những trận “mưa đô la” từ Mĩ và Anh qua kế hoạch này đã tạo điều kiện trang bị những kĩ thuật hiện đại và nâng cao năng lực sản xuất của nền kinh tế Đức. Trong năm đầu thực hiện kế hoạch Dawes, khi số tiền Đức cho vay được ấn định là 800 triệu mac, thì trên thực tế Đức nhận được đến 921 triệu mac (461 triệu của Mỹ, 227 triệu của Anh). Từ đó đến năm 1929, Đức đã nhận viện trợ của Mĩ, Anh để vay, tín dụng và đầu tư vào công nghiệp khoảng 20 - 25 tỉ mac vàng. Số tiền viện trợ đó không những đủ để trả nợ cho các đế quốc thắng trận (Đức trả lại cho họ tới 11 tỉ mac) mà còn đủ để phát triển kinh tế của mình. Năm 1929, tổng sản lượng công nghiệp Đức đạt 113% mức trước chiến tranh, vượt qua Anh, Pháp. Cũng trong năm 1929, kế hoạch Dawes lại được điều chỉnh theo hướng giảm bớt gánh nặng bồi thường chiến tranh cho Đức. Sau một thời gian dài thảo luận, tháng 8 - 1929, Hội nghị quốc tế của 12 nước tư bản họp ở La Hay đã chính thức thông qua kế hoạch Young. Theo đó số tiền bồi thường của Đức giảm xuống còn 113,9 tỉ mác vàng và được trả trong thời hạn kéo dài tới 60 năm, đồng thời quân đội chiếm đóng của Pháp, Bỉ sẽ phải rút khỏi vùng Rhenanie trước ngày 30 - 6 - 1930. Đến đây, uỷ ban bồi thường đã chấm dứt hoạt động, thay vào đó Ngân hàng thanh toán quốc tế sẽ chịu trách nhiệm theo dõi việc trả tiền bồi thường chiến tranh của Đức. Như vậy, nhờ sự hà hơi tiếp sức của Anh và Mĩ với ý đồ sử dụng Đức như một con đập ngăn làn sóng cách mạng có khả năng tràn sang phía Tây từ Liên Xô, chỉ trong một thời gian ngắn nước Đức chẳng những đã phục hồi nhanh chóng mà còn tăng cường tiềm lực kinh tế - quân sự của mình.
        4. Quan hệ quốc tế của nước Nga Xô viết sau Cách mạng tháng Mười
          Ngay từ khi mới ra đời, Nhà nước Xô viết non trẻ đã tuyên bố với thế giới một chính sách đối ngoại hoà bình trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ giữa các quốc gia. Ngay trong đêm 26 - 10 - 1917, vào lúc 23 giờ, tại phiên họp thứ hai Đại hội II các Xô viết toàn Nga, Sắc lệnh hoà bình đã được thông qua. Với Sắc lệnh này, Nhà nước Xô viết tuyên bố “Chiến tranh đế quốc là tội ác lớn nhất chống lại loài người” và “đề nghị nhân dân tất cả các nước tham chiến và các chính phủ của họ tiến hành ngay những cuộc đàm phán về một hoà ước dân chủ và công bằng mà tuyệt đại đa số quần chúng công nhân, các giai cấp cần lao bị chiến tranh làm cho kiệt quệ, khốn đốn và vô cùng đau khổ trong các nước tham chiến, đang khao khát”. Đồng thời, trong công hàm gửi tới Đại sứ của các nước Đồng minh ở Nga ngày 8 - 11 - 1917, Chính phủ Xô viết “một lần nữa khẳng định về đề nghị ngừng bắn và ký kết một hoà ước dân chủ, không có thôn tính và bồi thường trên cơ sở quyền tự quyết của các dân tộc”. Tuy nhiên, các Chính phủ Anh, Pháp, Mĩ đã bác bỏ đề nghị hoà bình và quyết định không quan hệ với chính quyền Xô viết. Mong muốn tiến hành các cuộc thương lượng chung và kí một hoà ước chung không được thực hiện, ngày 20 - 11 - 1917 phái đoàn hoà bình của Chính phủ Xô viết đã kí kết Hiệp định đình chiến với đoàn đại biểu khối Áo - Đức với thoả thuận ngừng bắn trong 10 ngày. Ngay sau đó Bộ dân uỷ ngoại giao Xô viết đã gửi lời kêu gọi tới các nước Đồng minh và Mĩ nêu rõ, “cuộc ngừng bắn tạo cơ hội cuối cùng cho các nước đồng minh tham gia các cuộc đàm phán tiếp tục và do đó tránh được mọi hậu quả của một hoà ước riêng rẽ giữa nước Nga với các nước đối địch”. Nhưng lời kêu gọi đó không được đáp ứng. Trong bối cảnh đó, Lênin chủ trương phải kí ngay hoà ước, nhưng L. Trosky - trưởng phái đoàn đàm phán của Nga tại Brest - Litovsk đã không tán thành chủ trương của Lenin. Cuộc đàm phán tan vỡ và quân Đức lại bắt đầu các cuộc tấn công quân sự, đặt nước Nga Xô viết vào một tình thế cực kì khó khăn. Sau những diễn biến căng thẳng và phức tạp của tình hình chiến sự, ngày 3 - 3 - 1918 Hoà ước Brest - Litopsk đã được kí kết với những điều kiện hết sức nặng nề đối với nước Nga. Theo đó, nước Nga phải cắt đi một bộ phận lãnh thổ rộng lớn (diện tích 750.000 km2 với hơn 50 triệu dân, bao gồm Ba Lan, Latvia, Litva, Estonia, Belarus, Ucraina, Phần Lan) và phải trả khoản tiền bồi thường 6 tỉ mác cho Đức. Lênin gọi đây là “một hoà ước bất hạnh”, nhưng nhờ đó mà nước Nga đã rút ra khỏi cuộc chiến tranh đế quốc để đương đầu với những thử thách ác liệt nhằm bảo vệ chính quyền Xô viết non trẻ. Sau này do kết quả của cuộc Cách mạng tháng 11 - 1918 và sự sụp đổ của chính quyền quân chủ ở Đức, nước Nga Xô viết đã tuyên bố xoá bỏ Hoà ước Brest - Litopsk, đúng như những dự đoán của Lenin.


      Cũng trong thời gian này, các nước đế quốc đã tập hợp lực lượng, phối hợp hành động với mưu đồ bóp chết nước Nga Xô viết. Cuối tháng 11 - 1917 đại diện của các nước đế quốc, trong đó bốn nước Mĩ, Anh, Pháp, Nhật giữ vai trò chủ yếu, đã họp tại Pari để bàn bạc về biện pháp thực hiện mưu đồ đó. Một tháng sau, ngày 22 - 12 - 1917 cũng lại diễn ra một hội nghị kiểu như vậy tại Pari. Đại diện các nước tư bản đã thông qua nghị quyết không công nhận nước Nga Xô viết, thoả thuận về việc ủng hộ cho các lực lượng phản cách mạng ở Nga và phân chia nước Nga thành các khu vực ảnh hưởng của mình. Theo đó, Anh sẽ nắm quyền kiểm soát vùng Kavkaz, Armenia, Gruzia và vùng sông Đông; Pháp chiếm Bessarabia, Crưm và Ucraina; Mĩ và Nhật nắm khu vực Xibia và Viễn Đông... Tháng 12 - 1917, quân đội Rumani (được Pháp hỗ trợ) đã chiếm Bessarabia. Đầu năm 1918, quân đội Anh, Pháp, Mĩ đổ bộ lên hải cảng Murmansk ; quân đội Nhật, sau đó là Mĩ chiếm Vladivostok ; quân Anh kéo đến Tusmenistan và Ngoại Kavkaz... Bộ chỉ huy tối cao các nước Hiệp ước còn sử dụng 60 ngàn binh lính của Quân đoàn Tiệp Khắc để chống phá nước Nga Xô viết. Tháng 5 - 1918, Quân đoàn Tiệp Khắc cùng với các thế lực phản cách mạng nổi loạn, chiếm được toàn bộ vùng Sibir rộng lớn và nhiều thành phố dọc sông Vônga như Samara, Simbier, Kazan... Tình hình lại càng khó khăn hơn do việc quân Đức chiếm đóng vùng lãnh thổ rộng lớn chiếm tới hơn 90% sản lượng than, 70% sản lượng sắt và 1/3 chiều dài đường sắt của cả nước (theo các điều khoản của Hoà ước Brest - Litopsk). Với việc cung cấp vũ khí cho các đội quân Bạch vệ, quân Đức đã cùng các nước đế quốc tham gia chống phá nước Nga. Từ năm 1919, sau khi chiến tranh thế giới kết thúc, các nước đế quốc tăng cường can thiệp và giúp đỡ các lực lượng phản cách mạng ở Nga. Tính đến tháng 2 - 1919 quân đội can thiệp có mặt ở Nga đã lên đến con số 300.000 (trong đó ở miền Nam: 130.000, Viễn Đông: 150.000, miền Bắc: 20.000). Trải qua ba năm chiến đấu cực kì gian khổ và khốc liệt, quân đội và nhân dân Xô viết đã lần lượt đánh bại các lực lượng thù trong, giặc ngoài, giữ vững nền độc lập, tự chủ của đất nước. Cũng trong thời gian này, trung thành với những nguyên tắc của Tuyên ngôn về quyền của các dân tộc ở Nga (công bố ngày 2 - 11 - 1917), Nhà nước Xô viết đã công nhận quyền tách ra của Ucraina, công nhận độc lập của Phần Lan, Ba Lan ; xoá bỏ mọi hiệp ước bất bình đẳng của Chính phủ Nga hoàng trước đây đối với Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kì, Ba Tư (Iran) và nhiều nước khác. Trong quan hệ quốc tế, Chính phủ Xô viết đã phản đối gay gắt tính chất nô dịch của các hoà ước, nhất là Hoà ước Versailles. Lênin cho rằng: “Đấy không phải là hoà ước, đấy là những điều kiện mà bọn ăn cướp tay cầm dao, buộc nạn nhân không có gì tự vệ phải chấp nhận”. Trong lúc các cường quốc phương Tây thi hành chính sách thù địch, bác bỏ sự tham dự của nước Nga Xô viết tại hai Hội nghị Versailles và Washington, ngày 28 - 11 - 1921, Chính phủ Xô viết đã gửi công hàm tới các chính phủ Anh, Pháp, Mĩ, Ý, Nhật nêu rõ những nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình của nước Nga với phần còn lại của thế giới. Năm 1922 lần đầu tiên được mời chính thức tham dự Hội nghị quốc tế Genova, đoàn đại biểu Xô viết đã đưa ra đề nghị về việc thiết lập các quan hệ ngoại giao và kinh tế, thực hiện chung sống hoà bình và tiến hành giải trừ quân bị. Nước Nga Xô viết sẵn sàng bình thường hoá quan hệ với tất cả các nước trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, hợp tác cùng có lợi và cùng tồn tại hoà bình. Hội nghị Genova thất bại, tuy vậy việc Nga và Đức ký kết Hiệp ước Rapallo đã giáng một đòn chí mạng vào âm mưu bao vây, cô lập nước Nga của các cường quốc phương Tây, đồng thời đánh dấu một thắng lợi ngoại giao cực kỳ quan trọng của Nhà nước Xô viết. Đức trở thành nước phương Tây đầu tiên thiết lập quan hệ ngoại giao với nước Nga. Những năm tiếp theo, nước Nga Xô viết (từ tháng 12 - 1922 là Liên Xô) đã từng bước phá vỡ chính sách cô lập của các nước phương Tây và khẳng định vị trí quốc tế của mình. Sau Đức, Anh là nước tư bản thứ hai ở châu Âu thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với Liên Xô ngày 2 - 2 - 1924, sau gần một năm chống phá quyết liệt với Liên Xô qua cái gọi là "Tối hậu thư Curzon". Sau Anh 5 ngày, Thủ tướng Mussolini của Italia tuyên bố công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với Liên Xô (7 - 2 - 1924). Tháng 10 - 1924, sau khi vượt qua không ít những bất đồng trong nội bộ, chính phủ Pháp cuối cùng cũng chính thức công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên Xô. Cũng trong năm 1924, nhiều nước khác cũng công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên Xô: Nauy (13 - 2), Áo (25 - 2), Hi Lạp (8 - 3), Đan Mạch (18 - 6), Anbani (6 - 7), Hunggari (5-9)...
      Ở châu Á, ngày 31-5-1924, đại diện chính phủ Liên Xô là Kharakhan và chính phủ Bắc Kinh là Wellington Woo đã chính thức kí kết Hiệp ước Xô - Trung, theo đó Trung Quốc công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên Xô. Đồng thời Liên Xô cũng tuyên bố từ bỏ tất cả những đặc quyền mà chính phủ Nga hoàng trước đây đã buộc Trung Quốc phải kí kết. Sau Trung Quốc, ngày 25 - 1 - 1925, Nhật Bản - một cường quốc ở châu Á - đã chính thức bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Liên Xô. Như vậy, trải qua hơn 7 năm tồn tại và khẳng định vị thế của mình, Liên Xô đã được hơn 20 quốc gia trên thế giới, trong đó có các cường quốc Anh, Pháp, Italia, Nhật chính thức công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao. Mặc dù mối quan hệ này còn phải trải qua nhiều bước thăng trầm đầy khó khăn, căng thẳng nhưng thực tế đã khẳng định vai trò, uy tín ngày càng cao của Liên Xô và những thắng lợi to lớn của nền ngoại giao Xô viết non trẻ.
-----------------------------------------------------------
(1) Từ 30 - 12 - 1922 là Liên bang CHXHCN Xô viết (Liên Xô)


III. Sự sụp đổ của trật tự Versailles - Washington và con đường dẫn tới chiến tranh thế giới thứ hai
     Trước hết, chúng ta cần nắm được những nét khái quát về tình hình quốc tế những năm cuối thập niên 20, đầu thập niên 30. Cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới (1929 - 1933) bùng nổ đã chấm dứt thời kì ổn định của chủ nghĩa tư bản cùng với ảo tưởng về một kỷ nguyên hoà bình của thế giới. Cuộc khủng hoảng bắt đầu từ nước Mĩ ngày 24 - 10 - 1929, đã nhanh chóng tràn sang châu Âu, bao trùm toàn bộ thế giới tư bản chủ nghĩa, để lại những hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, chính trị, xã hội. Hàng trăm triệu người (công nhân, nông dân và gia đình của họ) bị rơi vào vũng lầy đói khổ. Hàng ngàn cuộc biểu tình lôi cuốn trên 17 triệu công nhân ở các nước tư bản tham gia trong những năm 1929 - 1933. ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc cũng bùng lên mạnh mẽ. Những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản trở nên cực kì gay gắt. Trong bối cảnh đó đã hình thành những xu hướng khác biệt nhau trong việc tìm kiếm con đường phát triển giữa các nước tư bản chủ nghĩa. Các nước không có hoặc có ít thuộc địa gặp nhiều khó khăn về vốn, nguyên liệu và thị trường đã đi theo con đường phát xít hoá chế độ chính trị, thiết lập nền chuyên chính khủng bố công khai nhằm cứu vãn tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng của mình. Các nước Italia, Đức, Nhật Bản là điển hình cho xu hướng này. Trong những năm 1929 - 1936, giới cầm quyền các nước nói trên đã từng bước phá vỡ những điều khoản chính yếu của hệ thống Versailles - Washington và tích cực chuẩn bị cuộc chiến tranh để phân chia lại thế giới. Trong khi đó các nước Mỹ, Anh, Pháp... đã tìm cách thoát ra khỏi khủng hoảng bằng những cải cách kinh tế - xã hội , duy trì nền dân chủ tư sản đại nghị, đồng thời chủ trương duy trì nguyên trạng hệ thống  Versailles - Washington. Quan hệ giữa các cường quốc tư bản trong thập niên 30 chuyển biến ngày càng phức tạp. Sự hình thành hai khối đối lập - một bên là Đức, Italia, Nhật Bản với một bên là Mĩ, Anh, Pháp và cuộc chạy đua vũ trang giữa hai khối đã phá vỡ hệ thống thoả hiệp tạm thời Versailles - Washington dẫn tới sự hình thành các lò lửa chiến tranh, báo hiệu một cuộc chiến tranh thế giới mới.
   1. Sự hình thành 3 lò lửa chiến tranh thế giới
      a) Lò lửa chiến tranh ở Viễn Đông
      Nhật Bản là nước đầu tiên có tham vọng phá vỡ hệ thống Versailles - Washington bằng sức mạnh quân sự. Từ năm 1927 Thủ tướng Nhật Tanaka đã vạch một kế hoạch chiến tranh toàn cầu đệ trình lên Thiên hoàng dưới hình thức bản “tấu thỉnh”', trong đó khẳng định phải dùng chiến tranh để xoá bỏ những “bất công mà Nhật phải chấp nhận” trong các Hiệp ước Washington (1921 - 1922) và đề ra kế hoạch cụ thể xâm lược Trung Quốc, từ đó mở rộng xâm lược toàn thế giới. Sau hai lần thất bại trong việc xâm lược vùng Sơn Đông (Trung Quốc), ngày 18 - 9 - 1931 Nhật Bản dựng “Sự kiện đường sắt Nam Mãn Châu” để lấy cớ đánh chiếm vùng Đông Bắc Trung Quốc, nơi tập trung 77% tổng số vốn của Nhật ở Trung Quốc. Đây là bước đầu tiên trong kế hoạch xâm lược đại qui mô của Nhật. Sau khi chiếm vùng này, quân Nhật dựng lên cái gọi là “Nhà nước Mãn Châu độc lập” với chính phủ bù nhìn do Phổ Nghi đứng đầu, biến vùng Đông Bắc Trung Quốc thành thuộc địa và bàn đạp cho những cuộc phiêu lưu quân sự mới.
      Việc Nhật Bản xâm lược Đông Bắc Trung Quốc đã động chạm đến quyền lợi của các nước tư bản phương Tây, nhất là Mĩ. Tuy nhiên Mĩ cũng như Anh, Pháp đã nhân nhượng, dung túng cho hành động xâm lược của Nhật với tính toán rằng Nhật sẽ tiêu diệt phong trào cách mạng ở Trung Quốc và tiến hành chiến tranh xâm lược Liên Xô. Điều đó đã làm cho Nhật bỏ qua mọi phản đối của phái đoàn điều tra V. Lytton do Hội Quốc Liên cử đến Trung Quốc. Ngày 24 - 2 - 1933 Hội Quốc liên đã thông qua Báo cáo công nhận chủ quy ền của Trung Quốc ở Mãn Châu, không công nhận “nước Mãn Châu” do Bộ tham mưu Nhật dựng lên nhưng mặt khác lại đề nghị duy trì “những quyền lợi đặc biệt của Nhật” ở Trung Quốc. Như vậy, Hội Quốc liên đã không công khai tuyên bố “hành động của Nhật là xâm lược và không quyết định một hình phạt nào đối với Nhật. Trước sức mạnh quân sự, Hội Quốc liên đã sử dụng sức mạnh tinh thần. Phương pháp đó không đem lại kết quả nào”. Nhật Bản tiếp tục mở rộng xâm lược Trung Quốc, chiếm đóng hai tỉnh Nhiệt Hà và Hà Bắc. Để có thể tự do hành động, ngày 24 - 3 - 1933 Nhật Bản tuyên bố rút khỏi Hội Quốc liên. Hành động của Nhật đã phá tan nguyên trạng ở Đông á do Hiệp ước Washington năm 1922 qui định, đánh dấu sự tan vỡ bước đầu của Hệ thống Versailles - Washington. Không dừng lại ở đó, năm 1937 Nhật bắt đầu mở rộng chiến tranh trên toàn lãnh thổ Trung Quốc.
     b) Sự hình thành lò lửa chiến tranh nguy hiểm nhất ở châu Âu
     Trong lúc đó, lò lửa chiến tranh thế giới nguy hiểm nhất đã xuất hiện ở châu Âu với việc Hitle lên cầm quyền ở Đức tháng 1 - 1933. Có thể nói, lực lượng quân phiệt Đức đã nuôi chí phục thù ngay từ sau khi nước Đức bại trận và phải chấp nhận hoà ước Versailles. Bước vào thập niên 30, sự sụp đổ của chính phủ Hermann Muller - chính phủ cuối cùng của nền Cộng hoà Weimar - và việc Heinrich Bruning lên nắm chính quyền đầu năm 1930 đánh dấu một thời kì chuyển biến mới trong chính sách đối nội cũng như đối ngoại của Đức. Xu hướng thành lập một chính quyền ''mạnh'', một nền chuyên chính dân tộc chủ nghĩa cực đoan đã trở thành nhu cầu cấp thiết của giới quân phiệt ở Đức. Đảng Quốc xã được coi là lực lượng thực tế có thể đáp ứng được nhu cầu đó và Adolph Hitler được coi là “người hùng” có thể ngăn chặn được “tình trạng hỗn loạn và chủ nghĩa bônsêvích”. Ngày 30-1-1933 Tổng thống P. Hindenburg đã cử Hitler, lãnh tụ của Đảng Quốc xã thay Schleicher làm Thủ tướng, mở đầu một thời kỳ đen tối trong lịch sử nước Đức.
    Việc Hitler lên cầm quyền không chỉ là một sự kiện thuần tuý của nước Đức, mà còn “đánh dấu một bước ngoặt quyết định trong lịch sử quan hệ quốc tế”. Bởi lẽ, “đối mặt với Hitler, chủ nghĩa “xoa dịu” của Anh, sự trì trệ của Pháp và chủ nghĩa trung lập của Mỹ là những hiện tượng tiêu biểu nhất của thời kỳ tiếp theo” Quốc tế cộng sản đã chỉ ra rằng "chủ nghĩa phát xít - đó là nền chuyên chính khủng bố công khai của những phần tử phản động nhất, sôvanh nhất và đế quốc chủ nghĩa nhất của tư bản tài chính".
    Quả thật, ngay từ những năm 20, Hitler và Đảng Quốc xã đã công khai bày tỏ tham vọng bá chủ thế giới của mình. Trong tác phẩm "Cuộc chiến đấu của tôi" - tác phẩm lý luận chủ chốt của Đảng Quốc xã mà Hitler là tác giả, đã đề cập đến "Kế hoạch lục địa", theo đó Đức dự định là sẽ chinh phục châu Âu, trong đó chủ yếu là chiếm đoạt các vùng lãnh thổ ở phía đông châu Âu, trước hết là Nga và các vùng phụ cận Nga. Tuy nhiên, Hitler cũng không loại trừ một cuộc chiến tranh với phương Tây để xâm chiếm lãnh thổ phía tây mà trong đó nước Pháp được coi là “kẻ thù truyền thống”. Hitler còn đề ra kế hoạch Âu - Á (Eurasia) và Âu - Phi (Eurafrica) nhằm xâm chiếm lãnh thổ của các nước châu Phi, châu Á và châu Mĩ. Việc làm đầu tiên của Hitler sau khi lên nắm quyền là tái vũ trang nước Đức và thoát khỏi những ràng buộc quốc tế để chuẩn bị cho những hành động xâm lược. Tháng 10 - 1933 Chính phủ Đức quốc xã đã rời bỏ Hội nghị giải trừ quân bị ở Genova và sau đó tuyên bố rút khỏi Hội Quốc liên. Ngày 16 - 3 - 1935, Hitler công khai vi phạm Hoà ước Versailles, công bố đạo luật cưỡng bức tòng quân, thành lập 36 sư đoàn (trong lúc đó Pháp chỉ có 30 sư đoàn). Ba tháng sau, ngày 18 - 6 - 1935 Đức kí với Anh Hiệp định về hải quân, theo đó Đức được phép xây dựng hạm đội tàu nổi bằng 35% và Hạm đội tàu ngầm bằng 45% sức mạnh hải quân của Anh. Hiệp định này trực tiếp vi phạm Hiệp ước Versailles và tăng cường sức mạnh quân sự của nước Đức. Đồng thời, Hitler tìm cách bí mật thủ tiêu các chính khách phương Tây cản trở kế hoạch xâm lược của mình, như Thủ tướng Rumani I. Duca, Ngoại trưởng Pháp L. Barthou, nhà vua Nam Tư Alexandre I và thủ tướng Áo E. Dollfuss. Không dừng lại ở đó, ngày 7 - 3 - 1936 Hitler ra lệnh tái chiếm vùng Rheinanie, công khai xé bỏ Hoà ước Versailles, Hiệp ước Locarno và tiến sát biên giới nước Pháp. Lò lửa chiến tranh nguy hiểm nhất đã xuất hiện ở châu Âu.
     c) Lò lửa chiến tranh thứ hai ở châu Âu
      Mặc dù là nước thắng trận nhưng Italia không thoả mãn với việc phân chia thế giới theo Hoà ước Vecxai. Tham vọng của nước này là muốn mở rộng ảnh hưởng ở vùng Ban căng, chiếm đoạt các thuộc địa ở châu Phi, làm chủ vùng biển Địa Trung Hải... Để thoát ra khỏi cuộc đại khủng hoảng kinh tế 1929-1933 và xem xét lại Hệ thống Versailles - Washington có lợi cho mình, giới cầm quyền phát xít ở Italia chủ trương quân sự hoá nền kinh tế, tăng cường chạy đua vũ trang và thực hiện chính sách bành trướng xâm lược ra bên ngoài. Thất bại trong việc ký kết Hiệp ước tay tư (Italia - Anh - Đức - Pháp) nhằm xem xét lại đường biên giới đã qui định ở châu Âu trong khuôn khổ Hệ thống hoà ước Versailles tháng 6 - 1933, từ năm 1934 Mussolini ráo riết chuẩn bị kế hoạch xâm lược, thi hành đạo luật quân sự hoá đất nước. Lúc này quan hệ giữa Italia với Đức còn căng thẳng do mâu thuẫn về quyền lợi ở vùng Ban căng. Khi Đức đưa ra đạo luật cưỡng bách tòng quân (3 - 1935), Italia đã kí kết với Anh, Pháp bản Hiệp ước Stresa ngày 14 - 4 - 1935 nhằm thiết lập liên minh chống Đức. Nhưng liên minh này đã nhanh chóng tan vỡ bằng việc Anh kí với Đức một hiệp ước riêng rẽ về hạn chế lực lượng hải quân (6 - 1935) và sự kiện Italia chính thức xâm lược Êtiôpia ngày 3 - 10 - 1935. Bốn ngày sau sự kiện này, ngày 7 - 10 - 1935 Hội Quốc Liên ra tuyên bố lên án Italia và thông qua nghị quyết trừng phạt bằng những biện pháp kinh tế - tài chính. Tuy nhiên, “lệnh trừng phạt chỉ làm Italia bực mình chứ không thực sự ngăn cản họ tiếp tục các chiến dịch”. Những sự kiện trên đây đã khiến Mussolini rời bỏ liên minh Anh, Pháp, xích lại gần hơn với nước Đức phát xít. Trong khi đó, sự bất lực của Hội Quốc liên cùng với thái độ và hành động thoả hiệp của các nước Anh, Pháp, Mỹ đã khuyến khích hành động xâm lược của phát xít Italia. Sau khi chiếm được Êtiôpia, Italia đã ký với Đức Nghị định thư tháng 10 - 1936, đánh dấu sự hình thành trục Beclin - Rôma. Bắt đầu từ đây, Đức và Italia tìm cách phối hợp và củng cố liên minh trong cuộc đối đầu với Liên Xô cũng như các đối thủ khác ở châu Âu. Cả hai nước đều đưa quân đội can thiệp trực tiếp và công nhận chính quyền phát xít Franco trong cuộc nội chiến ở Tây Ban Nha (1936 - 1939).
     Hai lò lửa chiến tranh hình thành ở châu Âu bắt đầu có mối liên hệ với lò lửa chiến tranh ở Viễn Đông. Ngày 25 - 11 - 1936, Đức và Nhật đã kí kết Hiệp ước chống Quốc tế cộng sản với những cam kết phối hợp các hoạt động chính trị đối ngoại và các biện pháp cần thiết để chống Liên Xô và Quốc tế cộng sản, đồng thời còn nhằm chống cả Anh, Pháp và Mĩ. Italia tham gia Hiệp ước này ngày 6 - 11 - 1937. Sự kiện đó đánh dấu Trục phát xít Béclin - Rôma - Tôkiô chính thức hình thành. Việc Italia rút ra khỏi Hội Quốc Liên ngày 3 - 12 - 1937 đã hoàn tất quá trình chuẩn bị để các nước khối Trục được tự do hành động, thực hiện kế hoạch gây chiến tranh bành trướng lãnh thổ của mình.


   2. Con đường dẫn tới chiến tranh thế giới thứ hai
     Vào cuối những năm 30 quan hệ quốc tế trở nên vô cùng phức tạp và căng thẳng. Sự chuyển hoá mâu thuẫn giữa các cường quốc tư bản chủ nghĩa đã dẫn tới sự hình thành hai khối đế quốc đối địch nhau: một là, khối Trục phát xít do Đức, Italia, Nhật Bản cầm đầu ; hai là, khối đế quốc do Anh, Pháp, Mĩ cầm đầu. Trong khi khối Trục phát xít đã ráo riết chuẩn bị cho kế hoạch chiến tranh từ đầu những năm 30 thì khối đế quốc Anh, Pháp, Mĩ bắt đầu quá trình này vào những năm cuối của thập niên 30. Hai khối đế quốc mâu thuẫn gay gắt với nhau về vấn đề thị trường và quyền lợi nhưng đều thống nhất với nhau trong mục đích chống Liên Xô, tiêu diệt Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới. Điều đó được thể hiện trong chính sách thoả hiệp, dung túng của các cường quốc tư bản với chủ nghĩa phát xít nhằm chống Liên Xô và đè bẹp phong trào cách mạng thế giới. Như vậy trong quan hệ quốc tế đã diễn ra cuộc đấu tranh ngày càng căng thẳng và chằng chéo giữa ba lực lượng: Liên Xô, Khối Trục phát xít và Khối đế quốc Anh, Pháp, Mĩ. Các cuộc chiến tranh cục bộ đã lan tràn khắp từ Âu sang Á, từ Thượng Hải đến Gibranta. Chiến tranh thế giới ngày càng trở nên khó tránh khỏi.
        a) Cuộc chiến tranh Tây Ban Nha
       Cuộc chiến tranh Tây Ban Nha, bùng nổ ngày 17 - 7 - 1936, về hình thức là cuộc nội chiến giữa Chính phủ cộng hoà Tây Ban Nha với lực lượng phát xít Phrancô, nhưng về thực chất là một cuộc khủng hoảng mang tính quốc tế. Vấn đề không chỉ giới hạn trong nội bộ nền chính trị Tây Ban Nha. Đức và Italia đã trực tiếp can thiệp, đứng về phía phát xít Phrancô chống lại Chính phủ Cộng hoà với mưu đồ biến Tây Ban Nha thành một bàn đạp chiến lược cho kế hoạch bành trướng của mình ở châu Âu, châu Phi, châu á và Đại Tây Dương. Trong bối cảnh đó, các chính phủ Anh, Pháp đã thi hành chính sách “không can thiệp” tuyên bố cấm xuất khẩu vũ khí và vật liệu chiến tranh sang Tây Ban Nha. Ngày 9 - 9 - 1936, “Uỷ ban về vấn đề không can thiệp” được thành lập. Mĩ không chính thức tham gia vào Uỷ ban này nhưng trên thực tế cũng duy trì lệnh cấm vận vũ khí đối với Tây Ban Nha. Trong khi không áp dụng một biện pháp cần thiết nào để ngăn chặn sự can thiệp trực tiếp của Đức và Italia ở Tây Ban Nha, chính sách “không can thiệp” của Anh, Pháp, Mĩ về thực chất là hành động thoả hiệp với các lực lượng phát xít chống nước Cộng hoà Tây Ban Nha. Hơn nữa, các công ti độc quyền của Anh, Pháp, Mĩ vẫn tiếp tục có quan hệ thương mại và tài chính với lực lượng phát xít  Franco. Cuối cùng, các chính phủ Anh, Pháp đã công khai ủng hộ quân phiến loạn  Franco, lực lượng đã chiếm ưu thế rõ rệt ở Tây Ban Nha vào năm 1939.

      Ngày 10 - 2 - 1939, hải quân Anh đã hỗ trợ cho lực lượng phiến loạn chiếm đảo Minorca nằm trong quần đảo Balearic. Ngay sau đó, chính phủ Pháp đã gửi tối hậu thư cho Chính phủ Cộng hoà Tây Ban Nha với yêu cầu giao nộp Madrid và các vùng lãnh thổ khác cho lực lượng Phrancô. Ngày 27 - 2 - 1939, Anh và Pháp đồng thời cắt đứt quan hệ ngoại giao với Chính phủ cộng hoà Tây Ban Nha và tuyên bố công nhận chính quyền Franco. Liên Xô là nước đứng về phía nước Cộng hoà Tây Ban Nha trong cuộc đấu tranh chống phát xít. Mặc dù lúc đầu Liên Xô đã tham gia Uỷ ban về các vấn đề không can thiệp, nhưng sự can thiệp quân sự của Đức và Italia đã khiến Liên Xô phải hành động. Cả đất nước Xô viết tham gia phong trào ủng hộ nước Cộng hoà Tây Ban Nha: số tiền quyên góp đã lên tới 47 triệu rúp. Đồng thời, Liên Xô còn tham gia trong lực lượng tình nguyện quốc tế chiến đấu bảo vệ nước Cộng hoà đến từ 53 nước trên thế giới. Tuy vậy, do so sánh lực lượng quá chênh lệch, cuộc chiến tranh Tây Ban Nha kết thúc với thất bại của Chính phủ Cộng hoà. Ngày 28 - 3 - 1939, lực lượng  Franco với sự hỗ trợ của quân đội Italia đã chiếm thủ đô Madrid. Sự sụp đổ của nền Cộng hoà Tây Ban Nha cho thấy mối đe doạ đối với nền hoà bình ở châu Âu ngày càng trở nên trầm trọng hơn.
     b) Hội nghị Munich (9 - 1938)
      Đến năm 1938 nước Đức phát xít về căn bản đã hoàn tất việc chuẩn bị chiến tranh. Lúc này nước Đức không chỉ phục hồi mà đã trở thành một cường quốc công nghiệp đứng đầu châu Âu, đồng thời còn là một cường quốc quân sự. Tháng 3-1938, Đức tiến hành thôn tính áo và thông qua đạo luật sáp nhập áo vào Đức, vi phạm trắng trợn Hệ thống Hoà ước Versailles. Hành động ngang ngược của Hitler đã không gặp phải trở ngại nào đáng kể từ phía các cường quốc tư bản phương Tây. Chính phủ Anh chỉ thị không được khuyến khích Áo kháng cự, trong khi Pháp chỉ có những phản ứng yếu ớt. Sau khi chiếm áo, Đức chuẩn bị thôn tính Tiệp Khắc, một vị trí đặc biệt quan trọng trong kế hoạch giành quyền thống trị lục địa châu Âu. Để thôn tính Tiệp Khắc, Hitle đưa ra “vấn đề người Đức ở vùng Sudete" - vùng đất ở Tây Bắc Tiệp Khắc, có khoảng 3,2 triệu người Đức cư trú. Sau những diễn biến phức tạp và căng thẳng, Hitle đưa ra yêu sách về việc cắt vùng Xuyđét ra khỏi Tiệp Khắc và khẳng định đây là yêu sách cuối cùng về lãnh thổ của y ở châu Âu. Tiếp tục chính sách thoả hiệp, các cường quốc tư bản phương Tây đã gây áp lực thúc ép Tiệp Khắc chấp nhận những yêu sách của Hitler. Điều này đã gây nên một làn sóng phản đối trong dư luận quốc tế, kể cả ở anh, Pháp, Tiệp Khắc và Liên Xô. Liên Xô đã nhiều lần khẳng định sẵn sàng giúp đỡ Tiệp Khắc và đưa ra những biện pháp cụ thể trong Hội nghị liên tịch giữa Bộ tổng tham mưu Liên Xô, Pháp và Tiệp Khắc. Đồng thời, Liên Xô đã tập trung quân ở biên giới phía Tây và đặt quân đội trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu. Liên Xô cũng đề nghị Hội Quốc Liên thảo luận những biện pháp để bảo vệ Tiệp Khắc, nhưng tất cả những đề nghị đó đều bị các chính phủ Anh, Pháp gạt bỏ.
    Ngày 29 - 9 - 1938, những người đứng đầu các chính phủ Anh, Pháp, Đức và Italia đã tham dự Hội nghị Munich (Đức) để quyết định số phận của Tiệp Khắc. Đại biểu Tiệp Khắc không được mời tham dự, chỉ được triệu tập đến để nghe kết quả. Hiệp ước Munich qui định Tiệp Khắc phải cắt toàn bộ vùng Sudete (trong vòng 10 ngày) cho Đức và phải cắt cho Ba Lan, Hunggari những vùng lãnh thổ đã được xác định trước đó (trong thời hạn 3 tháng). Trước áp lực của Anh và Pháp, chính phủ Tiệp Khắc chấp nhận Hiệp ước Mu yních, theo đó, Tiệp Khắc mất đi khoảng 1/4 dân số, 1/5 lãnh thổ với nhiều công trình quân sự quan trọng. Để đổi lại, Hítle đã kí với Anh bản Tuyên bố không xâm lược lẫn nhau giữa Đức và Anh. Sau đó, ngày 6 - 12 - 1938, Hiệp định không xâm lược Pháp - Đức cũng được kí kết tại Pari. Hiệp ước Muyních là đỉnh cao nhất của chính sách thoả hiệp mà các cường quốc tư bản phương Tây thi hành trong nhiều năm nhằm tránh một cuộc chiến tranh với nước Đức phát xít và chĩa mũi nhọn chiến tranh về phía Liên Xô. “C hính sách Muyních” đã dẫn đến những hậu quả rất nặng nề đối với chính bản thân hai nước Anh và Pháp. Sự thoả hiệp đầu hàng của các nước này chỉ càng làm cho nước Đức phát xít đi xa hơn nữa trong chính sách mở rộng chiến tranh. Ngày 15 - 3 - 1939, Hítle công khai xé bỏ Hiệp ước Muyních chiếm đóng toàn bộ lãnh thổ Tiệp Khắc. Sau đó một tuần, ngày 21 - 3 Hítle đưa ra yêu sách đòi Ba Lan phải trao thành phố cảng Đăng dích cho Đức. Một ngày sau quân đội Đức tràn vào chiếm vùng lãnh thổ Mêmen của Litva. Đồ ng thời, kế hoạch xâm lược Ba Lan cũng được chuẩn bị ráo riết.


      Trong lúc này phát xít Italia cũng tăng cường hành động. Tháng 4 - 1939 Mussolini cho quân xâm lược Anbani. Liên minh phát xít Đức - Italia được mở rộng tới mức tối đa với việc kí kết hiệp ước mới Đức - Italia (thường được gọi là Hiệp ước Thép) theo đó nếu một bên có chiến tranh với một nước hoặc một nhóm nước khác thì bên kia sẽ tiến hành giúp đỡ ngay lập tức bằng các lực lượng hải, lục và không quân. Nguy cơ bùng nổ chiến tranh thế giới chỉ còn là gang tấc, tuy nhiên các cường quốc phương Tây vẫn tìm mọi cách để hướng cuộc chiến tranh về phía Liên Xô.   

     3. Quan hệ quốc tế của Liên Xô trong thập niên 30

      Bước vào thập niên 30 Liên Xô tiếp tục cuộc đấu tranh trong quan hệ quốc tế nhằm củng cố vị trí quốc tế của mình, đồng thời kiên trì lập trường thiết lập nền an ninh tập thể ở châu Âu và bảo vệ hoà bình thế giới.
     a) Cuộc đấu tranh củng cố vị trí quốc tế và nền an ninh tập thể
      Trong những năm 1929-1932, một chiến dịch chống Liên Xô được phát động trong các nước tư bản phương Tây. Âm mưu đánh bom cơ quan Tổng đại diện Liên Xô tại Warsaw (1930), chiến dịch chống Liên Xô ở Phần Lan (1931), kế hoạch mưu sát Đại sứ Nhật Bản K. Hirota tại Moscow (1931), việc tên bạch vệ Gorgulov ám sát Tổng thống Pháp Paul Doumer (1932)... Tất cả những vụ khiêu khích đó nhằm tạo ra quan hệ quốc tế căng thẳng dẫn tới việc các nước cắt đứt quan hệ ngoại giao với Liên Xô. Tháng 2 - 1930, Giáo hoàng Pius XI đã kêu gọi tổ chức một cuộc “thập tự chinh” chống chủ nghĩa cộng sản, tập hợp các tín đồ trên thế giới “hành động tập thể” chống Liên Xô. Đồng thời các nước tư bản phương Tây đã lấy cớ Liên Xô "cưỡng bức lao động", "bán phá giá', khởi xướng việc bao vây kinh tế chống Liên Xô. Đặc biệt là dự án thành lập Liên bang châu Âu do ngoại trưởng Pháp Briand đề xướng (5 - 1930) mang tính bài Xô rõ rệt. Dự án đề xuất việc thành lập một Liên minh châu Âu bao gồm đại diện của tất cả 26 quốc gia châu Âu thành viên của Hội Quốc liên, loại trừ Liên Xô - quốc gia lớn nhất ở châu Âu. Đồng thời, tháng 10 - 1930, chính phủ Pháp ra sắc lệnh hạn chế nhập khẩu hàng hóa vào Liên Xô. Sau đó, Nam Tư, Rumania, Hunggaria, Bỉ và Lurxembourg cũng đã ra các sắc lệnh tương tự. Nhưng Liên Xô đã phản ứng rất kiên quyết. Thời gian này, Liên Xô thực hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1928 - 1933) với những thành tựu quan trọng, tăng cường sức mạnh kinh tế và quốc phòng của đất nước. Đồng thời, các âm mưu thù địch chống Liên Xô đều bị phá vỡ. Liên Xô đã kí kết những hiệp ước không xâm lược với phần đông các nước láng giềng và một số nước tư bản châu Âu: Phần Lan, Latvia, Extônia, Ba Lan (1932), Italia (1933) ; đồng thời đạt được thoả thuận gia hạn các Hiệp ước không xâm lược đã kí với Thổ Nhĩ Kì, Đức, Iran, Litva, Apganixtan. 
      Ngày 2 - 2 - 1932, Liên Xô đã tham gia vào Hội nghị giải trừ quân bị ở Genova khai mạc ngày  (với sự có mặt của đại diện 63 quốc gia), tuy nhiên, lập trường các bên rất khác biệt nhau. Đức thì yêu cầu mình phải "bình đẳng" lực lượng với các nước khác, trong khi đó Pháp phản đối và đề nghi thành lập "quân đội quốc tế", kiểm soát vũ khí tấn công hạng nặng, cùng với hình thức trọng tài - chế tài quốc tế (kế hoạch Tardieu), chấp nhận cho Đức tái vũ trang trở lại; còn Anh thì đề nghị khôi phục sự 'bình đẳng" về vũ trang của Đức, với số quân 4 nước Pháp, Đức, Ý và Ba Lan mỗi nước 20 vạn người (kế hoạch MacDonald), Mỹ thì lại cho cắt giảm Lục quân, trọng tải của hạm đội Hải quân xuống một mối tương quan với nhau. Riêng Liên Xô đã đưa ra một chương trình giải trừ quân bị hoàn toàn, nêu rõ quan điểm loại trừ chiến tranh như một vũ khí của chính sách dân tộc, tuy nhiên các đề nghị trên đều bị các cường quốc bác bỏ. Tuy vậy, năm 1933, Liên Xô đã cử đại diện là Litvinov tiến hành đàm phán và kí kết ba công ước về xác định khái niệm xâm lược với các nước Extônia, Latvia, Ba Lan, Rumani, Thổ Nhĩ Kì, Iran, Apganixtan, Rumani, Tiệp Khắc, Nam Tư và Lítva. 
     Tháng 9 - 1934 Liên Xô tham gia Hội Quốc Liên và trở thành Uỷ viên thường trực Hội đồng Hội Quốc Liên. Điều đó cho thấy vị thế ngày càng được khẳng định của Liên Xô trong các vấn đề quốc tế. Tuy nhiên khi gia nhập tổ chức này Liên Xô nêu rõ quan điểm của mình trong việc không đồng ý với những quyết định trước đây cũng như một số điều khoản vi phạm chủ quyền các dân tộc của Hội Quốc Liên. Đồng thời Liên Xô đã tranh thủ điều kiện để đấu tranh cho hoà bình và nền an ninh toàn thể, ngăn ngừa nguy cơ chi ến tranh thế giới. Tháng 5 - 1935, Hiệp ước tương trợ song phương Xô - Pháp và Xô-Tiệp đã được kí kết, thể hiện những cố gắng quan trọng của Liên Xô trong việc xây nền an ninh toàn thể ở châu âu. ở khu vực châu á, Hiệp ước tương trợ lẫn nhau với Mông cổ (1936) và Hiệp ước không xâm lược với Trung Quốc (1937) cũng được Liên Xô kí kết nhằm tạo dựng mối quan hệ cùng tồn tại hoà bình giữa các quốc gia, đảm bảo an ninh cho vùng Viễn Đông. Khi Nhật mở rộng chiến tranh ra toàn lãnh thổ Trung Quốc (1937), Liên Xô đứng về phía Đảng cộng sản và nhân dân Trung Quốc, giúp đỡ về tinh thần và vật chất cho Trung Quốc trong cuộc kháng chiến chống Nhật (cho Trung Quốc vay 100 triệu USD năm 1938, 150 triệu USD năm 1939, nhiều phi công Liên Xô tình nguyện tham gia chiến đấu chống Nhật ở Trung Quốc). Trong thập niên 30, Liên Xô cũng giành được thắng lợi trong việc bình thường hoá quan hệ Xô - Mĩ. Gần một thập kỉ sau khi bình thường hoá quan hệ với hầu hết các nước tư bản chủ yếu, tháng 11 - 1933 Liên Xô đã đạt được thoả thuận về việc bình thường hoá quan hệ với Mĩ. Mặc dù quan hệ Xô - Mĩ còn gặp nhiều trở ngại, nhưng việc bình thường hoá quan hệ với Mĩ đánh dấu một thắng lợi lớn của nền ngoại giao Xô viết. Từ chỗ là một đế quốc tích cực và ngoan cố trong liên minh chống phá nước Nga Xô viết, cuối cù ng Mĩ đã phải thoả thuận và thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên Xô.
      b) Hiệp ước Xô - Đức không xâm lược nhau
    Sau khi Hítle xé bỏ hiệp ước Muyních, thôn tính toàn bộ Tiệp Khắc, Liên Xô đã đề nghị triệu tập một hội nghị để bàn về vấn đề bảo vệ an ninh châu Âu, ngăn chặn chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa phát xít. Trước áp lực mạnh mẽ của dư luận trong và ngoài nước, chính phủ Anh, Pháp đã bắt đầu các cuộc đàm phán với Liên Xô từ giữa tháng 4 -1939 tại Matxcơva. Do thái độ thiếu thiện chí và chủ trương "bắt cá hai tay'' của Anh, Pháp, cuộc đàm phán không đạt được kết quả và hoàn toàn bế t ắc. Trong khi đó, từ tháng 6 - 1939, cuộc đàm phán bí mật Anh - Đức đã được tiến hành ở Luân Đôn để thảo luận về việc hợp tác Anh - Đức chống Liên Xô, Trung Quốc và phân chia khu vực ảnh hưởng ở đây. 
      Lúc này ở Viễn Đông, sau khi gây ra cuộc xung đột quân sự chống Liên Xô ở khu vực hồ Khaxan bị thất bại, ngày 12 - 5 - 1939 phát xít Nhật mở cuộc tấn công vào khu vực sông Khalkhin-Gol thuộc địa phận Mông Cổ, nhằm uy hiếp con đường huyết mạch của Liên Xô ở Viễn Đông và chuẩn bị cho việc mở rộng cuộc chiến chống Liên Xô sau này. Mặc dù kế hoạch của Nhật ở Khankhin - Gôn thất bại nhưng toàn bộ những sự kiện diễn ra ở Viễn Đông làm cho giới cầm quyền Anh và Pháp vẫn hy vọng về một cuộc chiến tranh chống Liên xô từ phía Nhật. Chính trong lúc này Đại sứ Anh ở Tôkiô Robert Craigie (1937 -1941) đã kí với Ngoại trưởng Nhật Hachiro Arita một hiệp ước (7 - 1939), theo đó Anh thừa nhận cuộc chiến tranh của Nhật ở Trung Quốc và tuyên bố không can thiệp vào công việc của Nhật ở đây. 
     Tình hình phức tạp nói trên ở cả phương Tây và phương Đông khiến cho mọi cố gắng kiên trì của Liên Xô nhằm đạt tới một thoả thuận với Anh và Pháp trong cuộc đấu tranh chống sự xâm lược của chủ nghĩa phát xít đều thất bại. Trong bối cảnh đó, Liên Xô buộc phải có những giải pháp kiên quyết để tự bảo vệ nền an ninh quốc gia. Ngay từ tháng 5 - 1939 với ý đồ kéo dài thời gian để xâm lược châu Âu trước, Chính quyền Đức đã thăm dò Liên Xô về khả năng kí kết một hiệp ước không xâm lược nhau Xô - Đức. Lúc đầ u Liên Xô đã bác bỏ đề nghị đó, nhưng sự tan vỡ không thể cứu vãn nổi của cuộc đàm phán Xô - Anh - Pháp đã khiến Liên Xô thay đổi ý định và tiếp nhận đề nghị của Đức. Ngày 23 - 8 - 1939, Hiệp ước không xâm lược nhau Xô - Đức đã được kí kết, theo đó Liên Xô và Đức cam kết không tấn công nhau, không gia nhập một liên minh nào thù địch với một trong hai nước kí hiệp ước, không giúp đỡ một nước thứ ba nào chống lại nước kia... Sau đó một ngày, Liên Xô và Đức còn kí thêm một Nghị định thư bí mật phân chia ph ạm vi ảnh hưởng ở Đông Âu. 
     Việc kí kết Hiệp ước Xô - Đức không xâm lược nhau đã làm thất bại chính sách hai mặt của các nước phương Tây, phá tan âm mưu thành lập mặt trận thống nhất chống Liên Xô do các nước đế quốc dựng lên ở Muyních. Đồng thời sự kiện này cũng phá vỡ âm mưu của Nhật muốn dựa vào sự ủng hộ của Đức để xâm lược Liên Xô. 
     Một tuần sau đó, đêm 30 rạng ngày 31 - 8 - 1939, Đức gửi tới Ba Lan một bản tối hậu thư về vấn đề Đăng dích và hành lang Ba Lan. Chính phủ Ba Lan bác bỏ những yêu sách của Đức. Rạng sáng ngày 1 - 9 - 1939, phát xít Đức tấn công Ba Lan. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ.
  • Từ những sự kiện đã nêu ở trên, có thể đi đến những tổng kết sau đây:
    • Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ trước hết là do những mâu thuẫn về quyền lợi, về lãnh thổ hết sức gay gắt giữa các nước đế quốc với nhau. Sự phân chia thế giới theo Hệ thống Vécxai - Oasinhtơn chứa đựng những mâu thuẫn không thể dung hoà được giữa các nước đế quốc. Những mâu thuẫn đó đã dẫn tới một cuộc chiến tranh mới giữa các nước đế quốc để phân chia lại thế giới.
    • Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 - 1933 đã làm sâu sắc thêm những mâu thuẫn của chủ nghĩa đế quốc, dẫn tới việc lên cầm quyền của các thế lực phát xít ở Đức, Italia và Nhật Bản. Chủ nghĩa phát xít ở ba nước nêu trên là thủ phạm gây ra Chiến tranh thế giới thứ hai.
    • Tuy nhiên, chính sách hai mặt của các cường quốc phương Tây đã tạo điều kiện cho phe phát xít gây chiến. Do vậy, khác với Chiến tranh thế giới thứ nhất, Chiến tranh thế giới thứ hai còn gắn liền với mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc với chủ nghĩa xã hội và âm mưu tiêu diệt nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới. Khối các nước đế quốc mặc dù có mâu thuẫn với khối phát xít nhưng đều thống nhất với nhau trong âm mưu chống Liên Xô và phong trào cách mạng thế giới.
    • Chiến tranh được bắt đầu từ cuộc chiến giữa hai khối đế quốc nhằm tranh giành lãnh thổ và quyền thống trị thế giới. Tuy vậy, từ tháng 6 - 1941, khi phát xít Đức tập trung lực lượng tấn công Liên Xô, nhằm tiêu diệt chế độ xã hội chủ nghĩa, thực hiện tham vọng chinh phục toàn cầu, tính chất của cuộc chiến tranh đã thay đổi căn bản. Đó là cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của Liên Xô và các dân tộc yêu chuộng hoà bình trên thế giới nhằm tiêu diệt chủ nghĩa phát xít, giải phóng nhân loại khỏi những thảm hoạ của chế độ phát xít man rợ.
Câu hỏi ôn tập chương 1:
Câu 1. Phân tích những nội dung chính của hệ thống hòa ước Véc xai.
Câu 2. Nước Mĩ đã giành được những thắng lợi nào qua hệ thống hòa ước Oasinh tơn.
Câu 3. Đánh giá, nhận xét về hệ thống Véc xai – OaSinh tơn (tính bền vững, những mâu thuẫn nảy sinh …).
Câu 4. Những nét chính trong quan hệ quốc tế của nhà nước Xô Viết những năm 1917-1939.
Câu 5. Ba lò lửa chiến tranh thế giới đã hình thành như thế nào? Vì sao các hoạt động xâm lược của Đức, Italia và Nhật không bị ngăn chặn
Câu 6. Bằng những sự kiện lịch sử có chọn lọc, phân tích con đường dẫn đến chiến tranh thế giới thứ hai.

Chương II: Chiến tranh thế giới thứ hai và quan hệ quốc tế trong chiến tranh

   I. Giai đoạn 1 (9/1939 - 6/1941): phe phát xít xâm chiếm châu Âu, mở rộng chiến tranh ở Đông Nam Á, Bắc Phi

    1. Phát xít Đức tấn công Ba Lan và xâm chiếm các nước Bắc Âu - Tây Âu
      Ngày 1 - 9 - 1939 phát xít Đức bất ngờ tấn công Ba Lan với một lực lượng quân sự hùng hậu, được chuẩn bị kỹ càng: 70 sư đoàn gồm khoảng 1,5 triệu quân (trong đó có 7 sư đoàn xe tăng, 6 sư đoàn cơ giới), trên 3000 máy bay chiến đấu. Ngày 3 - 9, chính phủ Anh, Pháp tuyên chiến với Đức. Chiến tranh thế giới bùng nổ. Với ưu thế tuyệt đối về quân sự và trang bị, quân Đức thực hiện chiến lược “chiến tranh chớp nhoáng”, dùng xe tăng, máy bay oanh tạc, phá vỡ phòng tuyến và tiến sâu vào lãnh thổ Ba Lan với tốc độ 50 - 60km một ngày. Chính phủ Ba Lan không cứu vãn được tình thế, phải lưu vong sang Anh, trong lúc quân dân Ba Lan chiến đấu ngoan cường chống trả quân Đức. Ngày 28 - 9, sau gần một tháng tấn công, quân Đức chiếm được Ba Lan. Trên thực tế, Ba Lan đã đơn độc chiến đấu chống trả quân Đức, không nhận được sự hỗ trợ từ bên ngoài. Với tư cách là đồng minh của Ba Lan, hai nước Anh, Pháp lúc bấy giờ có tới 110 sư đoàn dàn trận ở phía Bắc nước Pháp, dọc theo biên giới Đức. Nhưng quân Anh, Pháp không tấn công Đức và cũng không có bất kỳ một hành động quân sự nào hỗ trợ cho Ba Lan. Tình trạng đó kéo dài suốt 8 tháng (từ tháng 9 - 1939 đến tháng 4 - 1940) và được dư luận gọi là “cuộc chiến tranh kỳ quặc”. Sở dĩ có hiện tượng này là do giới cầm quyền Anh, Pháp vẫn nuôi ảo tưởng về một sự thoả hiệp với Hitler, tiếp tục chính sách Munich với hy vọng quân Đức sẽ chĩa mũi nhọn chiến tranh về phía Liên Xô. Đồng thời hiện tượng này còn được lí giải bằng việc Bộ tổng tư lệnh liên quân, đứng đầu là tướng Pháp Gamelin đã quyết định áp dụng chiến lược phòng ngự, dựa vào phòng tuyến Maginô kiên cố để đánh trả quân Đức. Lợi dụng tình hình đó, sau khi chiếm được Ba Lan và tăng gấp đôi lực lượng quân sự, phát xít Đức tập trung quân ở phía Tây để tấn công NaUy. Ngày 9 - 4 - 1940, quân Đức tràn vào Đan Mạch. Đan Mạch đầu hàng, không kháng cự. Cùng ngày, quân Đức đổ bộ vào Na Uy. Na Uy được quân viễn chinh Anh, Pháp hỗ trợ, đã chiến đấu trong hai tháng mới chịu khuất phục.
     Không cần chờ đợi chiến dịch Na Uy kết thúc, ngày 10 - 5 - 1940 quân Đức tràn vào Bỉ, Hà Lan, Lúcxembua và Pháp. Mặt trận phía Tây chính thức bắt đầu. Với chiến lược “chiến tranh chớp nhoáng”, quân Đức tập trung đánh vào cánh trái của liên quân Anh, Pháp (phòng tuyến Maginot ở cánh phải). Quân Đức tràn vào Hà Lan và Bỉ. Ngày 15 - 5, quân đội Hà Lan đầu hàng, chính phủ Hà Lan bỏ chạy sang Luân Đôn. Ngày 27 - 5, Bỉ đầu hàng vô điều kiện. Tàn quân Anh, Pháp gồm 34 vạn người bị dồn đuổi đến cảng Dunkerque ở Bắc Pháp, phải xuống tầu, tháo chạy về Anh. Mặt trận Pháp bị đập tan, quân Đức tiến về Pari như vũ bão. Chính phủ Pháp bỏ Pari, chạy về Bordeaux và đưa Thống chế Petain lên cầm quyền để xin đình chiến với Đức. Nước Pháp đã đầu hàng sau 6 tuần chiến đấu. Theo Hiệp định đình chiến ký ngày 22 - 6 - 1940, quân Đức chiếm đóng 2/3 lãnh thổ Pháp, trong đó có Pari và các trung tâm công nghiệp (nơi sản xuất 98% sản lượng gang và thép của Pháp), vùng Alsace và Lorrrain bị sáp nhập vào Đức, nước Pháp bị tước vũ trang và phải nuôi quân đội chiếm đóng. Chính phủ bù nhìn Pháp do Petain làm Quốc trưởng đóng tại thị trấn Visi, vùng không chiếm đóng ở phía Nam nước Pháp.


      Sau tấn thảm kịch của nước Pháp, nước Anh đơn độc kháng cự với kế hoạch đổ bộ “Sư tử biển” của quân Đức, bắt đầu từ tháng 7 - 1940. Sau đó, Hitler thay đổi kế hoạch và quyết định tiến hành chiến dịch “Tia điện không trung” tàn phá nước Anh. Cuộc oanh tạc bằng không quân Đức đã tàn phá nặng nề các thành phố lớn của Anh như Luân Đôn, Coventry, Liverpool… Chỉ trong vòng 3 tháng đầu, quân Đức đã giội 10.000 tấn bom xuống lãnh thổ của Anh. Nước Anh quyết chiến đấu chống trả quân Đức và đã giành được ưu thế trong các trận không chiến và hải chiến. Từ tháng 9 - 1940, Mĩ bắt đầu viện trợ cho Anh. Những “cuộc chiến chớp nhoáng trên không” của Đức suy yếu dần. Từ giữa tháng 10 - 1940, quân Đức rút dần lực lượng khỏi khu vực này. Kế hoạch đổ bộ và chiếm đóng nước Anh đã không bao giờ thực hiện được.

     2. Phe Trục củng cố liên minh và xâm lược các nước Đông Nam Âu, Đông Á và Bắc Phi (9/1940 - 6/1941)


     Ngày 27 - 9 - 1940, Đức, Italia và Nhật đã ký kết hiệp ước đồng minh quân sự và chính trị ở Béclin, được gọi là Hiệp ước Tay ba. Hiệp ước thừa nhận sự thống trị của Đức, Italia ở châu Âu và của Nhật ở khu vực Đại Đông á. Hiệp ước quy định, nếu một trong ba nước bị kẻ thù mới tấn công thì hai nước kia phải lập tức trợ giúp về mọi mặt. Khối liên minh phát xít đã được củng cố và xiết chặt thông qua hiệp ước này. 



     Từ cuối năm 1940, để xây dựng bàn đạp chiến lược ở Đông Nam Âu - chuẩn bị cho kế hoạch tấn công Liên Xô, Hítle dùng những thủ đoạn chính trị kết hợp với sức ép quân sự để lôi kéo Rumani, Hunggari và Bungari gia nhập Hiệp ước Tay ba, đồng thời đưa quân tiến vào ba nước này. Tháng 10 - 1940, Italia tấn công Hi Lạp và dự định chiếm được đất nước này một cách nhanh chóng. Nhưng quân xâm lược đã vấp phải sự chống trả quyết liệt của Hi Lạp. Được Anh trợ giúp, Hi Lạp phản công, quét sạch quân Italia và chiếm luôn Anbani (thuộc Italia). Trước tình hình khó khăn của Italia, tháng 4 - 1941, quân Đức tấn công Nam Tư và Hi Lạp. Chính phủ Nam Tư bỏ chạy ra nước ngoài. Quân đội Anh đang tham chiến ở Hi Lạp cũng bị đánh bại. Nam Tư và Hi Lạp bị chiếm đóng. Quân Đức thiết lập chính quyền bù nhìn và cắt một phần lãnh thổ của hai nước này chia cho Italia, Hunggari và Bungari. Như vậy, tới mùa hè năm 1941, hầu như tất cả các nước châu Âu đều bị chiếm đóng hoặc lệ thuộc nặng nề vào phát xít Đức và Italia. Trên thực tế chỉ còn nước Anh chưa bị chiếm đóng nhưng đang nằm trong sự phong toả của quân Đức. Ngoài ra, ba quốc gia khác còn nằm ngoài vòng cương toả của chủ nghĩa phát xít là Thuỵ Sĩ, Thuỵ Điển và Airơlen. Chỉ trong vòng chưa đầy hai năm kể từ khi châm ngòi lửa chiến tranh, nước Đức phát xít đã hoàn tất những chiến lược quân sự quan trọng và chuẩn bị đầy đủ điều kiện để tấn công Liên Xô. 
    Ở Đông Á, khi chiến tranh bùng nổ ở châu Âu (9 - 1939), Nhật Bản đã tiếp tục mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược Trung Quốc và Viễn Đông. Tháng 6 - 1940, Chính phủ Nhật công bố chính sách xây dựng “Khu vực thịnh vượng chung Đại Đông á”, thể hiện rõ tham vọng bành trướng của mình. Tháng 9 - 1940, Nhật gửi tối hậu thư cho Chính phủ Pêtanh, yêu cầu phải cho Nhật đóng quân và xây dựng các căn cứ quân sự ở Bắc Kỳ (Đông Dương thuộc Pháp) để phục vụ cho cuộc chiến ở Trung Quốc. Chính phủ Pháp buộc phải chấp nhận yêu sách của Nhật. Tháng 9 - 1940 quân Nhật vào Bắc Kỳ và coi đó như một chiếc cầu nối để chuẩn bị xâm lược khu vực Đông Nam Á Ở Bắc Phi, tháng 9 - 1940, quân Italia từ Libi (thuộc Italia) tấn công Ai Cập (thuộc Anh). Cuối năm 1940, quân Anh phản công tiến vào Libi. Quân Đức phải đưa “Quân đoàn châu Phi” của tướng Rômmen sang cứu viện cho Italia. Liên quân Đức - Italia phản công, đẩy lùi quân Anh về biên giới Ai Cập. Nhìn chung, trong giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh, với ưu thế áp đảo về quân sự, phe phát xít giành được quyền chủ động tấn công trên mặt trận Tây Âu, Bắc Phi và áp đặt sự thống trị của mình trên đại bộ phận lãnh thổ Tây và Trung Âu.

      3. Quan hệ của Liên Xô với một số nước Đông Âu (1939 - 1940)

    Thắng lợi nhanh chóng của quân Đức trên chiến trường châu Âu đã đặt Liên Xô đứng trước một tình thế ngày càng nghiêm trọng: phải đối mặt với phát xít Đức ở phía Tây và phát xít Nhật ở phía Đông. Trong bối cảnh đó, việc tăng cường lực lượng quốc phòng và đảm bảo an ninh quốc gia là vấn đề hết sức cấp bách và phải thực hiện bằng bất cứ giá nào. Đó là nguyên nhân lý giải việc Liên Xô tiến quân vào miền Đông Ba Lan ngày 17 - 9 -  1939 thu hồi vùng lãnh thổ Tây Ucraina và Tây Belarus nhằm củn g cố biên giới phía Tây của mình. Điều này cũng phù hợp với những thoả thuận trong Nghị định thư bí mật ký kèm với Hiệp ước không xâm lược Xô - Đức (23 - 8 - 1939)Sau đó, ngày 28 - 9 - 1939 tại Matxcơva, Liên Xô và Đức đã ký kết Hiệp ước “Hữu nghị và biên giới” kèm Nghị định thư bí mật, theo đó Lítva sẽ thuộc phạm vi ảnh hưởng của Liên Xô, còn khu vực Lublin và một phần Vacxava thuộc phạm vi ảnh hưởng của Đức(1). Hai tháng sau, tháng 11 - 1939 vùng Tây Ucraina được sáp nhập vào nước Cộng hoà Xô viết U craina và vùng Bêlarút sáp nhập vào nước Cộng hoà Xô viết Belarus thuộc Liên Xô.   
     Đối với các nước ven biển Bantích, Liên Xô cũng thực hiện hàng loạt biện pháp để tăng cường phòng thủ an ninh quốc gia trong bối cảnh chiến tranh đang lan rộng ở châu Âu. Trải qua những cuộc thương lượng căng thẳng, ba nước Bantích đã lần lượt ký các Hiệp ước tương trợ lẫn nhau với Liên Xô: Extônia (28 - 9 - 1939), Látvia (5 - 10), Lítva (10 - 10). Trước những diễn biến nhanh chóng của tình hình chiến sự ở châu Âu, tháng 6 - 1940, dưới áp lực quân sự của Liên Xô, các chính phủ ở ba nước Bantích đều phải từ chức, nhường chỗ cho các chính phủ mới thành lập. Trong tháng 7 - 1940 đã diễn ra các cuộc bầu cử Quốc hội ở các nước này. Quốc hội ba nước đã thông qua đề nghị gia nhập vào Liên Xô. Tháng 8 - 1940, Xô viết tối cao đã chấp nhận và thông qua đạo luật về việc ba nước vùng Bantích gia nhập Liên Xô. Các chính phủ Anh, Mĩ đã quyết định không công nhận và thi hành chính sách thù địch với chính quyền mới, trong khi đó vẫn tiếp tục duy trì quan hệ với các chính phủ cũ đã bị lật đổ ở các nước này. Nhằm mục đích phòng thủ biên giới phía Tây Bắc, tháng 10 - 1939 Liên Xô đã tiến hành đàm phán với chính phủ Phần Lan về việc ký kết Hiệp ước tương trợ lẫn nhau nhưng Phần Lan đã không chấp nhận những đề nghị của Liên Xô. Sau những diễn biến căng thẳng trong quan hệ song phương, Liên Xô cắt đứt quan hệ ngoại giao với Phần Lan. Tháng 11 - 1939, Chiến tranh  Xô - Phần bùng nổ và tiếp diễn trong suốt mùa đông (11 - 1939 đến 3 - 1940) với thất bại quân sự của Phần Lan.

  II. Giai đoạn 2 (6/1941 - 11/1942): chiến tarnh lan rộng toàn thế giới và sự hình thành Đồng minh chống phát xít

     1. Phát xít Đức tấn công Liên Xô


    Sau khi hoàn thành việc đánh chiếm châu Âu, phát xít Đức đã chuẩn bị đầy đủ điều kiện để tấn công Liên Xô. Ngay từ tháng 8 - 1940, kế hoạch tấn công Liên Xô đã bắt đầu được soạn thảo. Tháng 12 - 1940, Hítle phê chuẩn kế hoạch tấn công Liên Xô, mang mật danh “Kế hoạch Barbarossa”(1). Rạng sáng ngày 22 - 6 - 1941, không hề tuyên chiến và không nêu bất cứ lý do nào, phát xít Đức bất ngờ tấn công Liên Xô. Với một lực lượng quân sự khổng lồ: 5,5 triệu quân, gồm 190 sư đoàn (153 sư đoàn Đức và các sư đoàn của Italia, Rumani, Phần Lan, Hunggari…) trong đó có 17 sư đoàn xe tăng (hơn 4000 chiếc) và trên 5000 máy bay, quân Đức áp dụng chiến lược “chiến tranh chớp nhoáng” nhằm “đánh quỵ nước Nga” trong vòng từ một tháng rưỡi đến hai tháng. Ba đạo quân Đức đặt dưới quyền tổng chỉ huy của thống chế H. von Brauchitsch (1881 - 1948) đồng loạt tấn công, phá vỡ các tuyến phòng thủ biên giới, đánh thiệt hại nặng quân đội Xô viết và tiến sâu vào lãnh thổ Liên Xô. Cuối tháng 9 - 1941, đạo quân phía Bắc (do thống chế W. von Leeb cầm đầu) đã bao vây Leningrad, đạo quân Trung Tâm (do thống chế F. Von Bock chỉ đạo) đã tiến sát thủ đô Moscow và đạo quân phía Nam (do thống chế G. von Rundstedt chỉ huy) đã chiếm Kiép và phần lớn Ucraina. Chiến tuyến ngày càng mở rộng, quân Đức ngày càng gặp khó khăn và bị tổn thất hơn rất nhiều lần so với các mặt trận khác.
    Tháng 10 - 1941, quân Đức tập trung lực lượng mở cuộc tấn công mãnh liệt vào Matxcơva với hy vọng thắng lợi ở đây sẽ quyết định kết cục của chiến tranh. Với 80 sư đoàn, trong đó có 23 sư đoàn xe tăng và cơ giới (khoảng 1 triệu quân), gần 1000 máy bay, chiếm ưu thế áp đảo với Hồng quân Liên Xô, quân đội phát xít ào ạt mở hai đợt tấn công đại quy mô vào Moscow trong tháng 10 và tháng 11 - 1941. Trong giờ phút nguy kịch đó, Hồng quân và nhân dân Liên Xô kiên quyết chiến đấu đến cùng bảo vệ Matxcơva. Sáng ngày 7 - 11, lễ kỷ niệm lần thứ 24 Cách mạng tháng Mười đã diễn ra một cuộc duyệt binh đặc biệt. Các đơn vị Hồng quân diễu binh qua Hồng trường đã tiến thẳng ra mặt trận chiến đấu với quân thù. Ngày 6 - 12 - 1941, Hồng quân chuyển sang phản công ở Matxcơva và sau hai tháng chiến đấu đã đẩy lùi quân Đức ra khỏi thủ đô, có nơi đến 400 km. Kế hoạch đánh chiếm Matxcơva của Hítle sụp đổ tan tành. Đạo quân Trung tâm của Đức bị tiêu diệt tổng cộng hơn 500.000 quân, 1.300 xe tăng, 2.500 đại bác và nhiều phương tiện kỹ thuật khác. Chiến thắng  Moscow đã làm phá sản hoàn toàn “chiến lược chiến tranh chớp nhoáng” của đội quân “trước đây được coi là không thể đánh bại”. Đây là thắng lợi lớn đầu tiên của L iên Xô và thất bại lớn đầu tiên của Đức kể từ khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Thắng lợi này đã cổ vũ niềm tin vào chiến thắng của nhân dân thế giới đối với chủ nghĩa phát xít và thúc đẩy sự ra đời của Mặt trận Đồng minh chống phát xít trên toàn thế giới. 
     Sau thất bại ở Moscow, mùa hè năm 1942 quân Đức lại một lần nữa dốc toàn lực lượng vào mặt trận Xô - Đức, chuyển trọng tâm tấn công xuống phía Nam, nhằm đánh chiếm vùng dầu lửa chiến lược, vựa lúa mì lớn nhất của Liên Xô ở khu vực sông Vonga và Cápcadơ, để rồi sau đó sẽ đánh chiếm Moscow từ phía sau. Mục tiêu chủ yếu của cuộc tấn công là chiếm bằng được Stalingrad (nay là Volgagrad). Nhờ ưu thế hơn hẳn về lực lượng, lúc đầu là 240 sư đoàn, sau tăng lên 260 sư đoàn, đến giữa tháng 8 - 1942, quân Đức đã tiến vào khu vực thành phố Stalingrad. Cuộc chiến đấu ác liệt diễn ra ngay trong thành phố. Stalingrad lúc này đã trở thành “nút sống” của Liên Xô. Với quyết tâm “không lùi một bước”, “thề chết bảo vệ thành phố” các chiến sĩ Hồng quân kiên quyết chiến đấu bằng bất cứ giá nào, đẩy lùi từng đợt tấn công của địch. Mỗi ngày đêm, Hồng quân đã chống trả từ 12 đến 15 đợt tấn công của quân Đức. Trải qua 4 tháng chiến đấu, Stalingrad vẫn đứng vững, đồng thời Hồng quân còn tiêu diệt được một bộ phận lớn sinh lực địch và chuẩn bị điều kiện cho bước ngoặt phản công quân Đức ở thành phố anh hùng này. 





    Nhìn chung, ở mặt trận Xô - Đức đến cuối năm 1942, quân Đức đã chiếm được khoảng 2 triệu km2 lãnh thổ Liên Xô (bao gồm 47% diện tích đất trồng trọt, 33% sản lượng công nghiệp, 45% dân số cả nước). Tuy nhiên, quân Đức đã vấp phải những thất bại đầu tiên, không chiếm được Moscow và kế hoạch “chiến tranh chớp nhoáng” đã hoàn toàn bị phá vỡ.

----------------------------------------------------------------
(1) Barbarossa có nghĩa là Râu hung, biệt hiệu của Hoàng đế Frederick I (1152 - 1190) của Đức thời Trung cổ.

     2. Chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ
     Trong lúc chiến tranh diễn ra ác liệt ở châu Âu, Nhật Bản tìm cách thực hiện kế hoạch xâm chiếm và bành trướng lãnh thổ ở châu á. Nhưng kế hoạch của Nhật đã vấp phải sự phản đối của Mĩ, quan hệ Nhật - Mĩ trở nên căng thẳng. Tháng 9 - 1940, khi Nhật đổ bộ vào Bắc Kỳ, Mĩ bắt đầu viện trợ cho Trung Quốc kháng Nhật, đồng thời thực hiện chính sách cấm vận dầu lửa, sắt, thép cho phe Trục phát xít. Tháng 7 - 1941, chính quyền Nhật buộc Petain, cho Nhật đóng quân ở miền Nam Đông Dương. Petain phải chấp nhận, nhưng Mĩ kiên quyết phản đối âm mưu bành trướng của Nhật ở Đông Nam Á. Tổng thống Mĩ Roosevelt ra lệnh phong toả tài sản của Nhật ở Mĩ, đồng thời yêu cầu Nhật rút quân khỏi Đông Dương. Sau những cuộc đàm phán kéo dài không có kết quả, mâu thuẫn Mĩ - Nhật đã lên đến đỉnh cao và Thủ tướng Nhật Tojo quyết định tiến hành chiến tranh với Mĩ.


      Ngày 7 - 12 - 1941, vào lúc 7 giờ 55 phút giờ địa phương, không quân và hải quân Nhật, dưới sự chỉ huy của đô đốc Nagumo đã mở cuộc tấn công bất ngờ vào Hạm đội Thái Bình Dương của Mĩ ở Trân Châu Cảng. Chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ. Cuộc tập kích bất ngờ và dữ dội của quân đội Nhật đã gây cho hạm đội Mĩ những tổn thất nặng nề chưa từng có trong lịch sử hải quân Mĩ: 18 hạm tàu và trên 300 máy bay bị phá huỷ, hơn 3.000 binh lính và sĩ quan Mĩ thiệt mạng. Cùng lúc đó, quân Nhật đổ bộ vào miền Bắc Mã Lai (thuộc Anh). Trận Trân Châu Cảng đã khiến Mĩ, Anh phải tuyên chiến với Nhật ngày 8 - 12. Ba ngày sau, ngày 11 - 12, Đức và Italia tuyên chiến với Mĩ. Chiến tranh lan rộng trên toàn thế giới.   
     Từ cuối năm 1941 đến tháng 5 - 1942, Nhật Bản phát động cuộc tán công toàn diện ở Đông Nam á và Thái Bình Dương, đánh chiếm các thuộc địa của Mĩ, Anh, Pháp, Hà Lan… ở khu vực này. Đạo quân phương Nam của nguyên soái Terauchi đặt Bộ tư lệnh ở Sài Gòn để chỉ huy chiến dịch đánh chiếm Đông Nam á. Ngày 8 - 12, quân Nhật chiếm Thái Lan, ký kết Liên minh Nhật - Thái. Thái Lan trở thành chư hầu của Nhật và tuyên chiến với Mĩ - Anh ngày 24 - 12. Quân đội Nhật lần lượt đánh chiếm các thuộc địa của Anh như Mã Lai (1 - 1942), Xingapo (2 - 1942) và Miến Điện (5 - 1942). Hải quân Nhật đánh tan hạm đội của liên quân Hà Lan - Anh - Mĩ - ôxtrâylia trong trận hải chiến trên biển Giava (27 - 2 - 1942) và chiếm toàn bộ Inđônêxia (3 - 1942). Đồng thời với cuộc đổ bộ vào Mã Lai, Nhật cũng tiến hành đánh chiếm quần đảo Philíppin. Cuộc chiến ác liệt diễn ra giữa quân Nhật và quân đội Mĩ kéo dài đến tháng 5 - 1942, cuối cùng Nhật đã chiếm được toàn bộ Philíppin. Đồng thời với việc đánh chiếm Đông Nam á, quân Nhật mở rộng xâm lược ở Thái Bình Dương, chiếm các đảo Guam, Uâycơ của Mĩ. Tháng 4 - 1941, Nhật chiếm phần lớn đảo Tân Ghinê, trực tiếp uy hiếp ôxtrâylia. Quân Mĩ đã ngăn chặn được quân Nhật trong trận hải chiến ở vùng biển Sanhô (Corail) tháng 5 - 1942. Tiếp đó, tại vùng biển quần đảo Mít uây, hải quân Nhật gặp phải một thất bại lớn trong trận hải chiến với liên quân Mĩ - Anh tháng 6 - 1942. Tháng 7 - 1942, Nhật tiến đánh quần đảo Salômông nhưng bị quân Mĩ chặn đánh quyết liệt tại Guađanacan. Như vậy, chỉ trong vòng nửa năm sau khi chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ, quân Nhật đã chiếm được toàn bộ khu vực Đông Nam Á, các đảo ở Nam Thái Bình Dương… tổng cộng vào khoảng gần 4 triệu km2 với số dân 150 triệu người. Nếu tính cả phần lãnh thổ đã chiếm của Trung Quốc, Nhật đã làm chủ một vùng đất rộng 7 triệu km2 với 500 triệu dân. Tuy nhiên, cũng từ mùa hè năm 1942, quân Nhật đã mất dần ưu thế quân sự ban đầu và không còn khả năng tấn công được nữa. Thất bại của hạm đội Nhật ở vùng San hô và quần đảo Mítuây đã làm các mũi tấn công của Nhật chững lại. Mặc dù vậy, liên quân Anh - Mĩ cũng chưa tiến hành cuộc phản công thực sự để đánh bại quân Nhật ở Thái Bình Dương.
 

    3. Sự hình thành Mặt trận Đồng Minh chống phát xít

     Sau khi phát xít Đức tấn công Liên Xô và chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ, hầu hết các nước trên thế giới đã bị lôi cuốn vào vòng chiến. Việc thành lập một liên minh quốc tế chống phát xít đã trở thành đòi hỏi bức thiết của các lực lượng dân chủ và yêu chuộng hoà bình trên thế giới. Cuộc chiến tranh vệ quốc của nhân dân Liên Xô đã làm thay đổi cục diện chính trị và quân sự của chiến tranh. Đó là cuộc chiến tranh chính nghĩa không chỉ nhằm bảo vệ Liên Xô mà còn nhằm chống lại cuộc chiế n tranh tàn khốc của chủ nghĩa phát xít ở châu Âu. Điều đó đã thúc đẩy nhân dân Mỹ, Anh đấu tranh đòi các chính phủ của họ phải thay đổi thái độ và liên minh với Liên Xô trong cuộc chiến tranh chống phát xít. Việc ký kết Hiệp ước Xô - Anh về hành động chung trong cuộc chiến tranh chống Đức (12 - 7 - 1941), sự ra đời của bản Tuyên bố chung giữa Mỹ và Anh - thường được gọi là Hiến chương Đại Tây Dương (14 - 8 - 1941) - và việc Liên Xô tham gia Hiến chương này (24 - 9 - 1941) đã tạo ra những điều kiện cần thiết để thành lập một Mặt trận Đồng minh chống phát xít. Tháng 10 - 1941, Nghị định thư Xô - Anh - Mỹ đã được ký kết tại Moscow, theo đó Mỹ - Anh sẽ viện trợ vũ khí cho Liên Xô. Liên Xô cam kết đền bù lại b ằng nguyên vật liệu cho ngành công nghiệp quân sự. Cuối năm 1941, việc thành một một Mặt trận Đồng minh chống phát xít ngày càng trở nên cấp thiết và những điều kiện để thành lập mặt trận đã đầy đủ. Sự xích lại gần nhau giữa ba cường quốc Xô - Anh - Mĩ đã tạo nền tảng quan trọng cho sự hình thành Mặt trận Đồng minh chống phát xít. Ngày 1 - 1 - 1942 tại Washington đại diện cho 26 nước, đứng đầu là Liên Xô, Mỹ, Anh ký kết vào bản Tuyên bố Liên hiệp quốc “cam kết dốc toàn bộ sức mạnh quân sự và kinh tế của đ ất nước vào cuộc chiến tranh chống phát xít và tay sai của chúng”, đồng thời hợp tác chặt chẽ với nhau, không ký kết hiệp định đình chiến hay hoà ước riêng rẽ với các nước thù địch. Tuyên bố Liên hiệp quốc đánh dấu sự hình thành Mặt trận Đồng minh chống phát xít trên phạm vi toàn thế giới. Mặc dù mục đích của các bên tham gia có nhiều điểm khác nhau, nhưng sự hình thành lần đầu tiên trong Lịch sử thế giới một Mặt trận bao gồm các quốc gia có chế độ xã hội khác nhau cùng phối hợp chiến đấu chống kẻ thù ch ung là một nhân tố quan trọng đảm bảo thắng lợi của cuộc chiến tranh chống phát xít và tạo cơ sở cho việc hình thành tổ chức Liên Hiệp Quốc sau này.
    Một số đặc điểm cơ bản của Mặt trận Đồng minh chống phát xít:
- Vào cuối những năm 30 của thế kỷ XX, tình hình châu Âu và thế giới ngày càng căng thẳng, các nước, các cường quốc luôn bị đặt trong tình trạng đe dọa nghiêm trọng. Năm 1939, Thế chiến II bùng nổ. Năm 1939 - 1940, phát xít Đức sau khi đánh chiếm gần hết châu Âu đã mở cuộc tấn công vào Liên Xô. Mặc dù Hồng quân đã chống cự rất anh dũng, nhưng quân Đức vẫn thọc sâu vào nước Nga làm tình hình châu Âu rơi vào thế nghiêm trọng. Ở châu Á, phát xít Nhật bất ngờ tấn công Trân Châu cảng, làm hạm đội Mỹ ở đây bị thiệt hại nặng nề. Trước những nguy cơ đầy hiểm họa đó, các quốc gia, dân tộc, trước hết là 3 nước Xô - Mỹ - Anh đã nhanh chóng gạt bỏ những quá khứ thù địch và tự động kết với nhau tạo thành đồng minh lớn đủ sức chống phát xít. Ngày 23/6/1941, một ngày sau khi Liên Xô bị tấn công, Thủ tướng Anh Churchill bày tỏ sự đoàn kết với người Nga, cho rằng nguy cơ là của chung 3 nước, người Nga cần chiến đấu để bảo vệ chính nghĩa không chỉ cho họ mà cho toàn thế giới, và hứa sẽ viện trợ vũ khí, lương thực cho người Nga. Ngày 24/6, Tổng thống Mỹ Roosevelt cũng tuyên bố sẽ giúp người Nga chống phát xít. Ngay sau các lời tuyên bố đó, đại diện 3 nước đã gặp nhau, hội bàn mà khởi đầu là tháng 8/1941, Mỹ - Anh ký "Hiến chương Đại Tây Dương", đi tới đỉnh cao là tháng 1/1942, 26 quốc gia cùng ký kết "Tuyên bố Washington" cam kết sẽ giúp đỡ, hợp tác cùng nhau để chống phát xít, tăng cường vị thế và mở rộng ảnh hưởng của mình ra toàn thế giới. Về sau, những sự kiện như mở mặt trận thứ hai ở Tây Âu (1944) có sự khác nhau giữa Liên Xô và Mỹ, quyết định số phận nước Đức sau cuộc chiến....
- Là một liên minh lớn nhưng khối Đồng minh này lại không hề có một tổ chức chung nào hết. Cấp cao nhất của nó thường là các hội nghị - thực chất là cuộc gặp của nguyên thủ 3 cường quốc, dưới nữa là hội nghị Ngoại trưởng 3 cường quốc. Tại các cuộc họp cấp cao không chủ trì,, Tổng thống Roosevelt là người phát biểu đầu tiên vì ông ít tuổi hơn so với 2 lãnh đạo còn lại. Riêng ở hội nghị Posdam, sau khi Roosevelt mất, Truman lên thay và tiếp tục chủ trì cuộc gặp này. Cả 3 hội nghị này đều không có biên bản chung, mỗi đoàn tự ghi 1 biên bản, chỉ có tuyên bố và thông cáo chung thì mới đứng tên 3 nguyên thủ. Trong cuộc họp, hội đàm, các nguyên thủ đều tranh luận, bàn bạc một cách thẳng thắn và cuối cùng đi tới những thỏa thuận chung. Việc bàn bạc theo hướng dân chủ này là phù hợp với hoàn cảnh quốc tế bấy giờ, đánh dấu tính hiệu quả của sự hợp tác giữa các nước khác chế độ chính trị với nhau, mặc khác giúp các nguyên thủ hiểu rõ quan điểm của nhau, thắc chặt quan hệ cá nhân để cùng nhau chống phát xít đến thắng lợi cuối cùng.

    4. Phong trào kháng chiến của nhân dân các nước bị phát xít chiếm đóng
    Cuộc chiến tranh xâm lược của phát xít Đức, Italia và Nhật Bản đã đẩy nhân dân các nước bị chiếm đóng vào một thời kỳ đen tối. Phát xít Đức thiết lập chế độ thống trị bằng bạo lực, khủng bố và xây dựng cái gọi là “Trật tự mới” ở châu Âu. Chính quyền phát xít ra sức vơ vét nhân lực, của cải của châu Âu để phục vụ cho bộ máy chiến tranh khổng lồ của chúng. Hơn 7 triệu người dân các nước châu Âu đã bị đưa sang Đức làm lao động khổ sai. Những đoàn tàu đêm ngày chuyên chở nguyên vật liệu, của cải của châu Âu về Đức để phục vụ chiến tranh. Sản lượng công nghiệp quân sự của Đức năm 1944 tăng gấp 5 lần so với năm 1939. Chính quyền Hitler còn thi hành chính sách phân biệt chủng tộc cực kỳ dã man, tàn bạo đối với người Do Thái, người Nga, người Ba Lan… Tính đến năm 1945, hơn 5 triệu người Do Thái (chiếm 70% số người Do Thái ở châu Âu và 40% số người Do Thái trên toàn thế giới) đã bị tàn sát. Các trại tập trung, lò thiêu người, giá treo cổ… là hình ảnh tiêu biểu cho “Trật tự mới” của phát xít Đức ở châu Âu. Trong số hơn 7 triệu người bị giam giữ trong các trại tập trung, 6 triệu người đã bị giết hại hoặc bị chết vì suy kiệt.

      Ở châu Á, quân đội Nhật tuyên bố giúp đỡ “những người anh em da vàng” đánh đổ ách thống trị của thực dân da trắng để xây dựng “Khu vực thịnh vượng chung Đại Đông á”. Nhưng trên thực tế, quân Nhật đã thiết lập ách thống trị tàn bạo của lực lượng chiếm đóng ở Đông Á. Quân Nhật vơ vét lúa gạo đến mức cao nhất để nuôi sống guồng máy chiến tranh với đội quân khổng lồ hàng triệu người. Các công ty Nhật có mặt ở khắp mọi nơi để khai thác tài nguyên, vơ vét bóc lột thậm tệ các nước bị chiếm đóng. Nạn đói diễn ra ở nhiều nước Đông á trong thời gian chiến tranh (ở Việt Nam, hơn 2 triệu người chết đói trong năm 1945). Đồng thời, quân đội Nhật còn lập ra các chính phủ bù nhìn bản xứ để phục vụ chính sách thống trị của mình như Chính phủ Uông Tinh Vệ ở Trung Quốc (1940), Chính phủ Trần Trọng Kim ở Việt Nam (1945), Chính phủ tự trị ở Miến Điện và Philíppin (1943)… ách thống trị tàn bạo của chủ nghĩa phát xít đã làm bùng nổ phong trào kháng chiến chống phát xít của nhân dân các nước bị chiếm đóng. ở châu Âu, những đội du kích đầu tiên được thành lập ở Ba Lan từ năm 1939. Tháng 1 - 1942, Đảng cộng sản Ba Lan đã tổ chức lực lượng “Quân đội vũ trang nhân dân”. Lực lượng trung thành với chính phủ lưu vong cũng lập ra “Quân đội trong nước” để tổ chức các hoạt động chống phát xít Đức. Tại Pháp, Đảng cộng sản và các lực lượng yêu nước đã gương con ngọn cờ kháng chiến, tổ chức các hoạt động du kích chống Đức. Tướng de Gaulle sang Luân Đôn tổ chức lực lượng vũ trang “Nước Pháp tự do” và tiến hành các hoạt động ở hải ngoại đấu tranh chống phát xít. Tháng 3 - 1941, các lực lượng vũ trang chống phát xít đã thống nhất lực lượng, phát triển đội ngũ để phối hợp với quân Đồng minh giải phóng nước Pháp. ở các nước châu Âu khác như Nam Tư, Hi Lạp, Anbani, Italia… phong trào chống phát xít phát triển mạnh mẽ, các đảng cộng sản đã tổ chức lực lượng vũ trang phối hợp với các tổ chức yêu nước khác, tiến hành các hoạt động du kích, kiên cường chiến đấu trong lòng địch. Đặc biệt là tại các vùng bị chiếm đóng ở Liên Xô, chiến tranh du kích diễn ra trong suốt những năm chiến tranh, góp phần quan trọng vào thắng lợi của Hồng quân Liên Xô trên các mặt trận. ở khu vực Đông Á, cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Quốc là một bộ phận quan trọng trong cuộc kháng chiến chống phát xít của nhân dân thế giới. Nhân dân Trung Quốc đã bền bỉ, kiên cường chiến đấu chống trả lực lượng chủ lực của quân phiệt Nhật, góp phần tiêu hao sinh lực địch, kiềm chế trên 1 triệu quân Nhật trên đất Trung Quốc. Tại Đông Nam Á, các đảng cộng sản đã lãnh đạo phong trào kháng Nhật, tập hợp các lực lượng yêu nước trong Mặt trận dân tộc thống nhất, xây dựng lực lượng vũ trang, góp phần tiêu diệt quân phiệt Nhật.

    III. Giai đoạn 3 (11/1942 - 12/1943)" bước ngoặt, quân Đồng minh chuyển sang phản công
       1. Chiến thắng Stalingrad và bước ngoặt của chiến tranh


    Sau một thời gian khẩn trương chuẩn bị về mọi mặt, Hồng quân Liên Xô quyết định chuyển sang phản công, thực hiện, chiến dịch “Sao Thiên Vương”, tiêu diệt quân chủ lực của phát xít Đức ở Stalingrad. Ngày 19 - 11 - 1942, phương diện quân Tây Nam và phương tiện quân Sông Đông mở cuộc tấn công như vũ bão tại phía Bắc  Stalingrad, tiến về phía Đông Nam. Hồng quân nhanh chóng phá vỡ phòng tuyến của quân địch, tạo thế tấn công gọng kìm. Các phương diện quân ở phía Nam và phía Bắc cũng đồng loạt tấn công. Hồng quân nhanh chóng khép kín vòng vây 33 vạn quân tinh nhuệ của Đức ở  Stalingrad. Cuộc chiến đấu ác liệt diễn ra suốt từ ngày 23 - 11 đến cuối tháng 12 - 1942. Đạo quân tiếp viện của Thống chế Manstein do Hitler cử đến bị đánh bật ra khỏi Stalingrad và tổn thất nặng nề. Từ ngày 1 - 1 - 1943, Hồng quân mở đợt tấn công mới, tiêu diệt lực lượng quân Đức trong vòng vây: 2/3 đạo quân tinh nhuệ bị tiêu diệt, 1/3 bị bắt sống, trong đó có tư lệnh Paulus và 24 viên tướng. 
    Cuộc phản công kéo dài gần 3 tháng (19 - 11 - 1942 đến 2 - 2 - 1943) đã đi vào lịch sử như một trận đánh lớn và tiêu biểu về nghệ thuật quân sự cũng như ý nghĩa chiến lược của nó trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Chiến thắng Stalingrad đã tạo nên bước ngoặt xoay chuyển tình thế của cục diện chiến tranh thế giới: phe Đồng minh chuyển sang phản công, phe phát xít không thể phục hồi lực lượng, phải chuyển từ tấn công sang phòng ngự. 
    Sau thất bại ở Stalingrad, nhằm giành lại thế chủ động trên chiến trường Xô - Đức, quân Đức mở rộng cuộc tấn công đại quy mô vào mùa hè năm, 1943. Trận đánh bắt đầu với cuộc tấn công của 50 sư đoàn Đức (trong đó có 16 sư đoàn xe tăng và cơ giới) vào khu vực “vòng cung Kursk”, với ý đồ tiêu diệt phương diện quân chủ lực của Hồng quân ở đây. Hồng quân đã nhanh chóng bẻ gãy cuộc tấn công của địch, chuyển sang phản công, đánh tan 30 sư đoàn (trong đó có 7 sư đoàn xe tăng), loại khỏi vòng chiến 50 vạn quân Đức. Chiến thắng Kursk đã đập tan ý đồ giành lại thế chủ động của quân Đức. Từ đây, Hồng quân Liên Xô liên tục tấn công trên một mặt trận rộng lớn từ Leningrad đến biển Azov, giải phóng 1/2 lãnh thổ bị chiếm đóng, trong đó có các thành phố lớn như: Kharkov, Bengorod, Vorosilovgrad, Kiev…

     2. Quân Đồng minh phản công ở Bắc Phi, Italia và Thái Bình Dương
     Ở Bắc Phi, ngày 23 - 10 - 1942 quân Anh bắt đầu tấn công liên quân Đức - Italia ở En Alamen, tiêu diệt và bắt sống 55 ngàn quân địch. Thắng lợi này tạo ra khả năng phản công cho quân Anh trên chiến trường Bắc Phi. Lợi dụng lúc quân Đức đang bị sa lầy ở Stalingrad và bị thua ở El Alamen, quân Mĩ đổ bộ lên Bắc Phi ngày 8 - 11 - 1942. Quân Anh (từ phía Đông), quân Mĩ (từ phía Tây), phối hợp dồn địch chạy về Tuynidi. Trong tình thế tuyệt vọng, ngày 12 - 5 - 1943, toàn bộ liên quân Đức - Italia phải đầu hàng . Chiến sự ở Bắc Phi chấm dứt với thắng lợi của quân Đồng minh. Sau khi chấm dứt chiến sự ở Bắc Phi, ngày 10 - 7 - 1943, quân Đồng minh từ Bắc Phi tấn công vào Italia, mở đầu bằng cuộc đổ bộ đánh chiếm đảo Xixilia. Tinh thần chiến đấu của quân đội Italia rất bạc nhược, chỉ còn một bộ phận quân Đức rút chạy về phía Nam Italia. Xixilia hoàn toàn thất thủ. Chính quyền phát xít tan rã Mussolini bị tống giam. Thống chế Pietro Badoglio lập chính phủ mới, ký kết đầu hàng Đồng minh ngày 8 - 9 - 1943 và tuyên chiến với Đức. Quân đội đồng minh tiến vào khu vực phía Nam Italia. Lợi d ụng sự tiến quân chậm chạp của quân Đồng minh, Hítle cho quân chiếm đóng miền Bắc Italia, và giải thoát cho Mussolini. Được quân Đức hỗ trợ, Mussolini thành lập chính phủ phát xít ở miền Bắc. Italia bị chia làm hai miền: miền Bắc do quân đội Đức chiếm đóng với chính phủ bù nhìn Mussolini, miền Nam thuộc chính phủ Badoglio do Anh - Mĩ bảo trợ. Quân Đức còn tiếp tục cầm cự ở Italia cho tới khi chiến tranh kết thúc ở châu Âu, tháng 5 - 1945. Ở Thái Bình Dương, từ tháng 8 - 1942 quân Mĩ bắt đầu phản công q uân Nhật ở đảo Guađanacan và giành được thắng lợi vào tháng 1 - 1943. Sau chiến thắng ở Guađanacan, quân đội Mĩ đã giành được quyền chủ động, chuyển sang phản công trên toàn chiến trường Thái Bình Dương và vấn đề mở Mặt trận thứ hai ở Tây Âu.
    3. Hội nghị cấp cao Teheran (1943)


      Lần đầu tiên kể từ khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, từ ngày 28 - 11 đến 1 - 12 - 1943, Hội nghị Thượng đỉnh Tam cường Xô - Mĩ - Anh đã được tổ chức tại Têhêran (Iran), với sự tham gia của đích thân Xtalin, Rudơven và Sớcsin. Hội nghị đã thảo luận nhiều vấn đề quan trọng về việc phối hợp hành động chống Đức cho đến thắng lợi cuối cùng, về tương lai nước Đức sau chiến tranh, đặc biệt là vấn đề mở Mặt trận thứ hai ở Tây Âu - vấn đề quan trọng nhất của Hội nghị. 
    Ngay từ tháng 7 - 1941 Liên Xô đã đưa ra đề nghị về việc mở Mặt trận thứ hai ở Tây Âu để có thể đánh bại kẻ thù nguy hiểm nhất là phát xít Đức. Tuy nhiên, Mĩ và Anh tìm mọi cách để trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ Đồng minh của mình trong vấn đề mở Mặt trận thứ hai ở Tây Âu, đồng thời không thực hiện đúng những cam kết về chi viện cho Liên Xô. Thái độ trì hoãn có tính toán của Anh, Mĩ là âm mưu làm Liên Xô suy yếu, kiệt quệ trong chiến tranh và ý đồ không muốn có một cuộc chiến thực sự với quân chủ lực Đ ức còn đang sung sức ở châu Âu. Dư luận tiến bộ trên thế giới, đặc biệt là ở Liên Xô và Mĩ đã lên án gay gắt chính sách hai mặt này. Sau nhiều lần trì hoãn, tại Hội nghị Têhêran, Thủ tướng Anh Churchill đưa ra ý đồ mở Mặt trận thứ hai bằng việc đổ bộ quân ở khu vực lòng chảo Địa Trung Hải, nhưng cả Liên Xô và Mĩ đều không tán đồng. Cuối cùng, Hội nghị đã đạt được thoả thuận về việc Anh - Mĩ sẽ mở Mặt trận thứ hai bằng cuộc đổ bộ lên đất Pháp trong tháng 5 - 1944. Những người đứng đầu ba nước Xô - Mĩ - Anh c ũng thoả thuận về sự hợp tác sau chiến tranh giữa các nước Đồng minh vì một nền hoà bình lâu dài, khẳng định quyết tâm thành lập tổ chức Liên hiệp quốc để gìn giữ hoà bình và an ninh quốc tế sau chiến tranh. Hội nghị quyết định thành lập Hội đồng tư vấn châu Âu để giải quyết vấn đề Đức sau chiến tranh, thông qua tuyên bố xác nhận chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Iran, xác nhận biên giới phía Đông và phía Tây của Ba Lan… Hội nghị Teheran đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc củng cố, phát triển Mặt trận Đồng minh chống phát xít. Những quyết định của Hội nghị có ý nghĩa quốc tế to lớn, thúc đẩy sự hợp tác giữa ba cường quốc trong việc tiêu diệt chủ nghĩa phát xít. Âm mưu kí kết hoà ước riêng rẽ với các nước Mĩ, Anh để tránh khỏi phải đầu hàng các nước phát xít đã thất bại hoàn toàn.
    IV. Giai đoạn 4 (12/1943 - 8/1945): quân Đồng minh tổng phản công tiêu diệt quân phát xít Đức, Italia, Nhật. Chiến tranh kết thúc
       1. Liên Xô tổng phản công
Từ ngày 24 - 12 - 1943, Liên Xô bắt đầu cuộc tổng tấn công đồng loạt trên các mặt trận từ Lêningrát đến Crưm. ở mặt trận phía Bắc, tháng 1 - 1944, Hồng quân mở cuộc tấn công giải phóng Lêningrát, thành phố anh hùng đã ngoan cường chiến đấu suốt 900 ngày đêm với quân Đức trong những điều kiện vô cùng gian khổ, khắc nghiệt. Sau chiến thắng Lêningrát, Hồng quân tiến vào giải phóng các nước vùng Bantích, đuổi quân Phần Lan ra khỏi biên giới Xô - Phần. ở mặt trận Ucraina, Hồng quân mở 10 đợt tấn công tiêu diệt quân Đức trong năm 1944. Cuộc chiến đấu diễn ra hết sức ác liệt, vì phần lớn lực lượng quân Đức tập trung ở đây. Sau khi đánh tan 66 sư đoàn Đức, Hồng quân giải phóng hoàn toàn Ucraina. Từ tháng 3 đến tháng 5 - 1944, quân đội Xô viết giải phóng Odessa và Crưm. Chiến dịch giải phóng Belarus bắt đầu tháng 6 - 1944 đã đánh tan đạo quân Trung tâm mạnh nhất của Đức, tiêu diệt 77 sư đoàn địch. Quân đội Liên Xô tiến vào giải phóng ba nước vùng Ban tích (tháng 9 và 10 - 1944), hoàn thành việc giải phóng Liên Xô. Sau khi quét sạch quân Đức ra khỏi lãnh thổ Liên Xô, Hồng quân tiến vào giải phóng các nước Trung, Đông Âu. Hồng quân tiến vào Ba Lan (7 - 1944), giải phóng Rumani (8 - 1944), Bungari (9 - 1944), Slovakia (9 - 1944), phối hợp với quân của Thống chế Titô giải phóng Nam Tư (10 - 1944), giải phóng phần lớn Hunggari và giao tranh quyết liệt với địch ở thủ đô Buđapét. Cuộc tổng tấn công của quân đội Liên Xô đã tiêu diệt 138 sư đoàn địch, gồm khoảng 1,6 triệu quân, 6.700 xe tăng, 28.000 đại bác và súng cối, 12.000 máy bay, giải phóng hoàn toàn lãnh thổ Liên Xô và các nước Trung, Đông Âu. Hồng quân tiến quân như vũ bão đến biên giới nước Đức.
   2. Mỹ, Anh mở mặt trận thứ hai ở Tây Âu (6/1944)
      Sau Hội nghị Teheran, Mĩ - Anh quyết định cử tướng Mĩ Eisenhower làm Tổng tư lệnh quân đội viễn chinh ở châu Âu của Đồng minh để thực thi kế hoạch mở mặt trận thứ hai. Sau một thời gian chuẩn bị và nhiều lần trì hoãn, cuối cùng Mặt trận thứ hai được mở bằng cuộc đổ bộ tại Normandy (Bắc Pháp) ngày 6 - 6 - 1944. Cuộc đổ bộ lớn nhất trong lịch sử chiến tranh thế giới với 3,5 triệu quân diễn ra thành công và hoàn toàn bất ngờ khiến quân Đức không kịp trở tay. Hơn 4.000 hạm tàu, 13.000 máy bay yểm trợ cho quân Đồng minh đổ bộ tại khu vực dài 80km, rộng từ 13 đến 19 km. Từ Noócmăngđi, quân Đồng minh chia làm hai mũi, mũi phía Bắc đánh vào nước Đức, mũi phía Tây - Nam đánh vào nước Pháp. Với việc mở Mặt trận thứ hai, lần đầu tiên kể từ ngày bắt đầu chiến tranh, nước Đức phát xít bị lâm vào tình thế phải đối phó cùng một lúc với hai mặt trận Đông - Tây (phía Đông chống Liên Xô, phía Tây chống Anh - Mĩ.
      Quân đổ bộ tiến vào giải phóng nước Pháp. Phong trào khởi nghĩa vũ trang do Đảng Cộng sản Pháp lãnh đạo lan rộng khắp trong nước. Quần chúng nhân dân đã giải phóng nhiều vùng rộng lớn trước khi quân Đồng minh đến. Ngày 19 - 8 - 1944, khởi nghĩa vũ trang bùng nổ ở Pari, nhân dân làm chủ thành phố. Ngày 25 - 8, quân đội Đồng minh tiến vào Pari. Chính phủ lâm thời của nước Pháp do Đờ Gôn đứng đầu, được thành lập. Sau khi nước Pháp được giải phóng, quân Đồng minh tiếp tục giải phóng các nước Tây Âu khác như Bỉ, Hà Lan, Lucxembua, Italia và chuẩn bị tấn công nước Đức phát xít. Quân đội Mĩ - Anh gặp Hồng quân Liên Xô tại Toócgâu trên bờ sông Enbơ ngày 26 - 4 - 1945.


    3. Hội nghị thượng đỉnh Yalta và Postdam
     Trong bối cảnh sự thất bại của chủ nghĩa phát xít đang đến gần, Hội nghị thượng đỉnh Yalta (Crưm) được tổ chức với sự tham dự của những người đứng đầu ba nước Liên Xô, Anh, Mỹ là Stalin, Churchill và Roosevelt, từ ngày 4 đến 12 - 2 - 1945. Hội nghị đã đạt được những thoả thuận quan trọng về vấn đề phối hợp hành động để chống Trục phát xít trong giai đoạn kết thúc chiến tranh, về việc tiêu diệt hoàn toàn chủ nghĩa phát xít Đức và xây dựng những bảo đảm thật sự để nước Đức không còn khả năng gây chiến tranh một lần nữa. Về các vấn đề có liên quan đến châu Âu, Hội nghị thông qua “Tuyên ngôn giải phóng châu Âu” nêu rõ những chính sách và hành động chung nhằm giải quyết những vấn đề chính trị - kinh tế của châu Âu sau chiến tranh phù hơp với những nguyên tắc dân chủ. Về vấn đề Viễn Đông, các nước đã bí mật thoả thuận về việc Liên Xô sẽ tham gia vào cuộc chiến tranh Thái Bình Dương sau hai đến ba tháng sau khi Đức đầu hàng và chiến tranh kết thúc ở châu Âu. Hội nghị còn khẳng định về việc thành lập tổ chức Liên Hiệp Quốc với nguyên tắc cơ bản là sự nhất trì hoàn toàn giữa năm nước lớn: Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp và Trung Quốc sau chiến tranh. Cuối cùng, cũng tại hội nghị này, các nước lớn đã đạt được thoả thuận về việc phân chia phạm vi ảnh hưởng, đặt cơ sở cho việc hình thành một trật tự thế giới mới sau khi chiến tranh kết thúc. Sau khi phát xít Đức đầu hàng Đồng minh vô điều kiện, chiến tranh kết thúc ở châu Âu, Hội nghị Thượng đỉnh tam cường được tiến hành tại Postdam (Đức) từ ngày 17 - 7 đến 2 - 8 - 1945. Ngay trước thềm Hội nghị, ngày 16 - 7, Mỹ đã thử thành công bom nguyên tử và mong muốn qua sự kiện này gây áp lực với Liên Xô. Hội nghị tập trung vào giải quyết vấn đề Đức trên cơ sở những thoả thuận của Hội nghị Ianta, nhằm tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa quân phiệt, chủ nghĩa phát xít Đức, thực hiện giải giáp quân đội, biến nư ớc Đức thành một nước dân chủ, hoà bình và không thể một lần nữa trở thành mối đe doạ đối với an ninh toàn thế giới. Hội nghị quyết định phải thủ tiêu tất cả những tổ chức quân sự, nửa quân sự, cũng như các ngành công nghiệp quân sự và xoá bỏ các tập đoàn tư bản lũng đoạn Đức - lực lượng chủ đạo của chủ nghĩa quân phiệt Đức. Đồng thời nước Đức phải trả những khoản bồi thường chiến tranh cho các nước Đồng minh. Hội nghị đã thành lập “Hội đồng ngoại trưởng” gồm đại biểu năm nước Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp, Tru ng Quốc có nhiệm vụ chuẩn bị những hoà ước ký với các nước bại trận trong phe Đức (Italia, Rumani, Hunggari, Phần Lan) và Đức. Hội nghị đã xác định đường biên giới mới giữa Ba Lan và Đức theo tuyến Oder - Neisse, khu vực Konigsberg chuyển giao cho Liên Xô. Đối với việc tiêu diệt phát xít Nhật ở Viễn Đông, Liên Xô tiếp tục bí mật cam kết sẽ tham gia chiến tranh chống Nhật. Những quyết định của ba nước Xô - Mĩ - Anh trong Hội nghị Ianta và Postdam chẳng những có ảnh hưởng quyết địn h đối với việc giải quyết vấn đề Đức, vấn đề Nhật và hàng loạt các vấn đề khác, mà còn đặt cơ sở cho một trật tự thế giới mới sau chiến tranh - trật tự hai cực Yalta
    4. Phát xít Đức bị tiêu diệt. Quân phiệt Nhật đầu hàng. Chiến tranh kết thúc
    Mùa xuân năm 1945, nước Đức phát xít đã bị kẹp giữa hai gọng kìm: phía Đông là 5 đạo quân của Liên Xô, phía Tây là 3 đạo quân của Mĩ - Anh và các nước Đồng minh. Trong bước đường cùng, Hítle dốc toàn lực quyết tâm phòng thủ Béclin bằng mọi giá.
     Ngày 16 - 4 - 1945, Liên Xô bắt đầu tấn công vào Béclin, sào huyệt cuối cùng của nước Đức Quốc xã. Trên đường vào Béclin, Hítle bố trí hơn 90 sư đoàn (trong đó có 14 sư đoàn xe tăng và cơ giới) gồm trên 1 triệu quân, 10.000 pháo và súng cối, 1.500 xe tăng và pháo tự hành, 3.000 máy bay chiến đấu, cùng với đội dân quân phòng vệ 20 vạn người. Hồng quân Liên Xô huy động lực lượng của hai phương diện quân gồm 2,5 triệu người, 6.250 xe tăng, 7.500 máy bay, 42.000 đại bác và pháo, hoàn toàn chiếm ưu thế để ti êu diệt kẻ thù. Từ ngày 16 - 4, cuộc chiến đấu quyết liệt diễn ra ở ngoại ô Béclin. Bắt đầu từ ngày 23 - 4, cuộc chiến đấu diễn ra trong thành phố. Vòng vây của quân đội Liên Xô ngày càng khép chặt. Ngày 30 - 4, Hồng quân chiếm được nhà Quốc hội Đức, Hítle tự sát dưới hầm chỉ huy. Ngày 2 - 5, Hồng quân chiếm được toàn bộ thủ đô Béclin, quân Đức (còn lại khoảng hơn 7 vạn người) đầu hàng vô điều kiện. Ngày 9 - 5 - 1945, Tổng tư lệnh quân đội Đức, thống chế Keitel đã kí vào văn bản đầu hàng. Cuộc chiến tran h khốc liệt ở châu Âu đã kết thúc với thất bại của phát xít Đức.
    Ở mặt trận châu Á - Thái Bình Dương, sau thắng lợi ở các đảo Thái Bình Dương, chiếm lại đảo Salômông (tháng 1 đến tháng 11 - 1943), quần đảo Ginbe (11 - 1943), quần đảo Mácsan (2 - 1944), quân đảo Marian (6 - 1944), quân đội Mĩ đã chiếm lại Tân Ghinê (7 - 1944). Tại Đông Nam á, cuộc chiến giành lại quần đảo Philippin diễn ra rất quyết liệt. Tháng 10 - 1944 quân Mĩ đổ bộ vào đảo Lâytơ (miền Trung Philíppin) đánh bại hải quân Nhật và chiếm lại hòn đảo này vào tháng 12 - 1944. Tháng 1 - 1945, sau những trận chiến đấu ác liệt, Mĩ giành được đảo Luđông. Đến tháng 3 - 1945, quân Mĩ chiếm lại toàn bộ Philíppin. ở Miến Điện, liên quân Anh - ấn và Mĩ - Trung Quốc bắt đầu triển khai những đợt tấn công từ tháng 10 - 1944. Cuối năm 1944, liên quân giành được miền Bắc Miến Điện. Đầu năm 1945, liên quân tiến vào miền Nam, giải phóng thủ đô Rănggun (5 - 1945). Lực lượng vũ trang yêu nước dưới sự lãnh đạo của Liên minh tự do nhân dân chống phát xít đã tích cực phối hợp với quân Đồng minh giải phóng đất nước. Những trận đánh cuối cùng của Mĩ ở Thái Bình Dương là trận đánh chiếm đảo Ivôgima (tháng 2 đến tháng 3 - 1945) và đảo Ôkinaoa (3 - 1945) nằm ở cửa ngõ đi vào Nhật Bản. Qua 3 tháng chiến đấu ác liệt, đến tháng 6 - 1945, quân Mĩ mới chiếm được hai hòn đảo này.
     Đồng thời, từ mùa thu năm 1944, máy bay Mĩ tiến hành giội bom xuống 70 thành phố ở Nhật. Các thành như Ôsaka, Nagôgu, Yôkômaha… nhất là thủ đô Tôkiô bị tàn phá nặng nề. Nước Nhật đã kiệt quệ nhưng lực lượng quân phiệt vẫn quyết chiến đến cùng. Ngày 26 - 7, ba nước Mĩ - Anh - Trung Quốc gửi “Tuyên cáo Pốt xđam” kêu gọi Nhật đầu hàng. Tuy nhiên, Nhật đã bác bỏ tuyên cáo này. Tổng thống Mỹ Truman quyết định thả bom nguyên tử xuống đất Nhật. Ngày 6 - 8, quả bom nguyên tử đầu tiên ném xuống thành phố Hirôsima làm 14 vạn người dân thiệt mạng.

   5. Kết cục của chiến tranh, tác động của nó đến quan hệ quốc tế trên thế giới
      a. Kết cục:
    Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc với thất bại hoàn toàn của phát xít Đức - Italia và Nhật Bản. Trong thời gian đầu của cuộc chiến tranh (từ 9 - 1939 đến 11 - 1942), phe phát xít tạm thời chiếm thế chủ động trên chiến trường. Nhưng trong thời gian sau (từ 11 - 1942 đến 8 - 1945), phe Đồng minh bắt đầu phản công trên các mặt trận và tiêu diệt hoàn toàn các thế lực phát xít. Chiến tranh thế giới thứ hai là cuộc chiến tranh lớn nhất, khốc liệt nhất, tàn phá nặng nề nhất trong lịch sử nhân loại. Khác với Chiến tranh thế giới thứ nhất chủ yếu diễn ra ở châu Âu, Chiến tranh thế giới thứ hai diễn ra ở cả châu Âu, châu á, châu Phi, châu Đại Dương và trên khắp các đại dương. Những tổn thất do chiến tranh gây ra là vô cùng thảm khốc: 76 nước bị đưa vào vòng chiến, 60 triệu người chết, khoảng 90 triệu người bị tàn phế, thiệt hại về vật chất ước tính khoảng 4.000 tỉ đô la Mĩ (tính theo giá đương thời). Nền văn minh vật chất và tinh thần của nhân loại bị tàn phá nặng nề. Thắng lợi của chiến tranh thuộc về các nước Đồng minh và nhân dân các nước trên thế giới đã kiên cường chiến đấu chống trả các thế lực phát xít. Chiến trường Xô - Đức là một trong những chiến trường chính của chiến tranh, Liên Xô là lực lượng chủ lực trong việc tiêu diệt phát xít Đức ở châu Âu. Để giành được chiến thắng, 26.550.000 người Xô viết đã thiệt mạng, trong đó có 8.600.000 chiến sĩ Hồng quân. Thiệt hại về vật chất mà Liên Xô phải gánh chịu là 679 tỉ Rúp (tính theo thời giá năm 1941), chiếm 41% t ổng số thiệt hại của các nước tham chiến. Mĩ, Anh là hai thành viên chủ chốt trong khối Đồng minh chống phát xít và có những đóng góp quan trọng trong thắng lợi của chiến tranh. Trong thời gian chiến tranh, Mĩ đã viện trợ và cho thuê, mượn (theo Đạo luật thuê - mượn “Lend - lease”, thực hiện từ tháng 3 - 1941) đối với 38 quốc gia tham chiến trong phe Đồng minh, với tổng trị giá hơn 50 tỉ đô la Mĩ. Số quân nhân Mĩ chết trong chiến tranh là 298.000 người. Riêng nước Anh, tổng số người chết trong chiến tranh là 395.000 người, trong đó có 245.000 quân nhân. 
    b. Ý nghĩa lịch sử, tác động của chiến tranh đến quan hệ quốc tế thế giới:
   Thắng lợi của cuộc chiến tranh chống phát xít có ý nghĩa lịch sử trọng đại, tạo nên chuyển biến căn bản của tình hình thế giới sau chiến tranh. Các nước xã hội chủ nghĩa ra đời ở Đông Âu và châu á, Liên Xô ngày càng lớn mạnh và trở thành siêu cường đứng đầu hệ thống xã hội chủ nghĩa. Chiến tranh đã làm thay đổi tương quan lực lượng giữa các nước tư bản chủ nghĩa. Các nước phát xít bị tiêu diệt, Anh và Pháp đều suy yếu. Riêng nước Mĩ ngày càng vượt trội về mọi mặt và đứng đầu hệ thống tư bản chủ nghĩa. Ch iến tranh đã tạo điều kiện thuận lợi cho phong trào giải phóng dân tộc phát triển, làm sụp đổ hoàn toàn hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, đưa hàng trăm nước thuộc địa và phụ thuộc trở thành các quốc gia độc lập. 
    Đến đây đã kết thúc một thời kì đấu tranh căng thẳng, phức tạp trong quan hệ quốc tế và cái giá phải trả là cuộc chiến tranh khốc liệt nhất, tàn phá nặng nề nhất trong lịch sử nhân loại. Thời kì 1918-1945 đã chứng kiến cuộc đấu tranh gay gắt giữa các cường quốc tư bản phương Tây nhằm tranh giành thế lực, phạm vi ảnh hưởng và thiết lập một trật tự thế giới mới có lợi cho mình. Nhưng bao trùm lên tất cả là cuộc đấu tranh quyết liệt giữa một bên là Liên Xô xã hội chủ nghĩa, các dân tộc bị áp bức, nhân dân lao động các nước và toàn thể loài người tiến bộ với một bên là chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa quân phiệt và các thế lực phản động nhằm thiết lập một trật tự thế giới công bằng, bình đẳng, hòa bình và dân chủ. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc đã mở ra một thời kì mới trong lịch sử quan hệ quốc tế.
     Ngày 8 - 8, Liên Xô tuyên chiến với Nhật. Ngày 9 - 8, với 1,5 triệu quân (3 phương diện quân), 5.500 xe tăng, 3.900 máy bay, 2.600 pháo và hạm đội Thái Bình Dương, Hồng quân tấn công như vũ bão, tiêu diệt đạo quân Quan Đông (gồm 70 vạn quân Nhật và 30 vạn quân nguỵ ở Mãn Châu).
      Ngày 9 - 8, Mĩ thả quả bom nguyên tử thứ hai xuống thành phố Nagadaki của Nhật, giết hại 7 vạn người dân vô tội. Ngày 10 - 8, Chính phủ Nhật chấp nhận “Tuyên cáo Pốtxđam” và ngày 15 - 8 tuyên bố đầu hàng. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Tuy nhiên, Hồng quân Liên Xô vẫn phải tiếp tục chiến đấu đến cuối tháng 8 - 1945 để đánh bại hoàn toàn đạo quân Quan Đông của Nhật. Ngày 2 - 9 - 1945, Nhật Bản chính thức ký văn bản đầu hàng vô điều kiện trên chiến hạm Mítxuri của Mĩ ở vịnh Tôkiô.

Câu hỏi ôn tập


Câu 1. Trình bày ngắn gọn quá trình phát xít Đức đánh chiếm châu Âu. Nêu nhận xét về "cuộc chiến tranh kỳ quặc".
Câu 2. Vì sao trong giai đoạn thứ nhất và thứ hai của chiến tranh, ưu thế thuộc về phe phát xít?
Câu 3. Quá trình hình thành đồng minh chống phát xít và ý nghĩa của sự kiện này?
Câu 4. Chiến thắng Xtalingrát và những thắng lợi tiêu biểu của Hồng quân Liên Xô trên mặt trận Xô - Đức trong năm 1943-1944
Câu 5. Trình bày những thắng lợi quân sự tiêu biểu của Mỹ-Anh ở mặt trận Bắc Phi, Châu Á - Thái Bình Dương.
Câu 6. Qua toàn bộ diễn biến chiến tranh, nên nhận xét về vai trò của Liên Xô, của Mĩ-Anh trong sự nghiệp tiêu diệt chủ nghĩa phát xít.
Câu 7. Kết cục của chiến tranh thế giới thứ hai?
Tài liệu tham khảo chung phần 1: 1919 - 1945
1. Nguyễn Anh Thái (chủ biên), Lịch sử thế giới hiện đại (1917 - 1995). Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2000.
2. Lê Văn Quang, Lịch sử quan hệ quốc tế 1917-1945. NXB Giáo dục, Hà Nội, 2001.
3. Phạm Giảng, Lịch sử quan hệ quốc tế 1939-1952. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2005.
4. Duroselle J.B. , Lịch sử ngoại giao (từ 1919 đến nay). Học viện quan hệ quốc tế, Hà Nội, 2004.
5. Nenarokov, A.P. , Lịch sử cách mạng XHCN tháng Mười vĩ đại, Nxb Tiến bộ, M, 1987.
6. Lênin toàn tập, T.31, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1996.
7. Hồi ký của W. Churchill. Về Chiến tranh thế giới thứ hai, NXB Văn hóa thông tin Hà Nội, 2002, tập 1.
8. Teheran, Yalta, Posdam. Tuyển tập văn kiện. NXB Quan hệ quốc tế Moscow, 1970.
9. Nguyễn Quốc Hùng - Hoàng Khắc Nam, Quan hệ quốc tế - những khía cạnh lý thuyết và vấn đề, NXB Chính trị quốc gia, 2006.
10. Manukin, A.C. , Chủ nghĩa biệt lập và sự hình thành đường lối đối ngoại của Hoa Kỳ (1923 - 1929), M.1980.
11. Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô, Lịch sử thế giới, T.8, M.1961.



3 nhận xét:

  1. Cho mình hỏi, Chương I có
    I - HỆ THỐNG HIỆP ƯỚC VERSAILLES - WASHINGTON
    rồi "nhảy" sang
    III. Sự sụp đổ của trật tự Versailles - Washington và con đường dẫn tới chiến tranh thế giới thứ hai
    Vậy phần II ở đâu ạ?
    Cám ơn đã đăng bài viết rất hữu ích

    Trả lờiXóa
  2. Nhận xét này đã bị tác giả xóa.

    Trả lờiXóa
  3. chào bạn, cảm ơn phần đóng góp của bạn nhưng bài này mình đang sửa chữa, có gì mình sửa xong sẽ đăng lên sau. Thân chào

    Trả lờiXóa