phần 1: 1919 - 1945
+ Lý luận về quan hệ quốc tế:
1. Định nghĩa:
+ Định nghĩa 1: Quan hệ quốc tế là mối quan hệ giữa các quốc gia có chủ quyền. Mọi quốc gia đều có quyền quyết định tối cao và tự do. Các quốc gia không ở dưới một uy quyền nào và đối nghịch với nhau, sử dụng quyền lực để thực hiện các mục tiêu và thỏa mãn các quyền lực của quốc gia mình. Quan hệ quốc tế có thể bao gồm nhiều vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội...
+ Định nghĩa 2: Quan hệ quốc tế: là môn học nghiên cứu về sự vận động của các chủ thể cấu thành một nền chính trị. Các chủ thể quan hệ quốc tế gồm:
- Các quốc gia, các dân tộc trên thế giới.
- Các tổ chức quốc tế.
- Các công ty xuyên quốc gia.
- Cách mạng khoa học - kỹ thuật.
Quan hệ quốc tế được xem là 1 môn khoa học tổng hợp về: sử học, chính trị, kinh tế... và là 1 bộ phận của quan hệ quốc tế thế giới.
+ Định nghĩa 3: Quan hệ quốc tế là một ngành của chính trị học, nghiên cứu về ngoại giao và các vấn đề toàn cầu giữa các nước thông qua những hệ thống quốc tế, bao gồm các quốc gia, tổ chức đa chính phủ (IGO), tổ chức phi chính phủ (NGO), và các công ty đa quốc gia (MNC). Bên cạnh chính trị học, quan hệ quốc tế còn quan tâm đến những lĩnh vực khác nhau như kinh tế, lịch sử, luật, triết học, địa lý, xã hội học, nhân loại học, tâm lý học, và văn hóa học. Ngành này liên quan đến những vấn đề đa dạng như toàn cầu hóa và những tác động đến xã hội và chủ quyền của các quốc gia, bảo vệ sinh thái, tăng trưởng hạt nhân, chủ nghĩa dân tộc, phát triển kinh tế, khủng bố, tội phạm có tổ chức, an ninh nhân loại, và nhân quyền. (theo Wikipedia Tiếng Việt)
+ Định nghĩa 4: “Quan hệ quốc tế là tổng thể những mối quan hệ về kinh tế, chính trị, tư tưởng, luật pháp, ngoại giao, quân sự…giữa những quốc gia & hệ thống quốc gia với nhau, giữa các giai cấp chính, các lực lượng tổ chức xã hội, kinh tế và chính trị chủ yếu hoạt động trên trường quốc tế” (QHQT sau CTTG II. Nxb CTQG, 1962, tr.26).
+ Định nghĩa 5: Quan hệ quốc tế là hiện tượng xã hội, song là loại quan hệ xã hội có đặc điểm riêng nảy sinh trong quá trình hoạt động của con người liên quan đến môi trường quốc tế. Quan hệ quốc tế này vượt khỏi biên giới quốc gia, có những thay đổi và trở nên vô cùng phức tạp, bởi trong môi trường quốc tế có các cơ chế hoạt động và luật chơi hoàn toàn khác với cơ chế trong nội bộ quốc gia (Vũ Dương Huân, Bản chất và đặc thù của quan hệ quốc tế, Nghiên cứu quốc tế, số 3, 9/2010).
+ Định nghĩa 6: Quan hệ quốc tế là tổng thể các mối quan hệ về chính trị, kinh tế, tư tưởng, luật pháp, ngoại giao..., và mối quan hệ giữa các quốc gia, các hệ thống quốc gia, các giai cấp cơ bản, các lực lượng xã hội, các tổ chức, phong trào xã hội.... (Inodensev, Liên Xô)
+ Định nghĩa 7: Quan hệ quốc tế là tất cả các loại hình trao đổi hoạt động, là đối tượng quan hệ giữa các quốc gia và giữa các trao đổi của cá nhân (Krapchenko, Liên Xô).
2. Bản chất, đặc điểm của quan hệ quốc tế:
+ Bản chất:
Khái niệm quan hệ quốc tế được xem là một phạm trù khoa học, lần đầu tiên được nhà triết học Anh Jeremy Bentham (1748 - 1832) đề ra vào thế kỷ XVIII. Quan hệ quốc tế mà ông nói tới là quan hệ giữa các chính phủ, các quốc gia. Sau ông, các nhà khoa học xem xét khái niệm này và tranh luận quyết liệt về vấn đề họ cho là nhức nhối, đáng quan tâm nhất: Liệu có thể tách quan hệ quốc tế một cách rành mạch với quan hệ xã hội được không ? R. Aaron, một nhà nghiên quốc tế người Pháp, khẳng định rằng không thể tách biệt hai quan hệ này được, và cho biết "bất cứ hiện tượng nào phát triển trong môi trường quốc tế đều là đặc thù mà không là bản chất". Thời hiện đại, các nhà bác học Liên Xô, Mỹ ra sức tìm hiểu kỹ vấn đề này. H. Spykman (Mỹ) đề ra khái niệm "quan hệ giữa các quốc gia" (quan hệ giữa các nhóm người, tộc người, đại diện các quốc gia). M. Merle (Pháp) cho rằng quan hệ quốc tế giữa các nước được giải quyết bằng liên lạc, thông tin đại chúng. Như vậy có nhiều cách để giải quyết quan hệ, song có 5 phương án sau (gọi là 5 bản chất của quan hệ quốc tế):
- Quan hệ quốc tế là tổng thể quan hệ giữa các diễn viên/người đại diện tham gia diễn đàn quốc tế, tổng thể về chính sách đối ngoại, quan hệ chính trị, kinh tế... giữa các nước trên thế giới.
- Quan hệ quốc tế là quyền lực được thể hiện bằng lợi ích quốc gia trong môi trường quốc tế, và nó do Trường phái chủ nghĩa hiện thực chính trị đề xuất. Quan hệ quốc tế là quan hệ đối đầu giữa các quốc gia, nhờ sức mạnh, quyền lực mà thể hiện được lợi ích của mình. Các nước nhờ thế, lực của mình nên nó nắm vai trò chủ động trong quan hệ quốc tế. Quan hệ quốc tế được thể hiện ở hai cấp độ: nước mạnh - nước yếu; giữa các đơn vị cơ sở quyền lực.
- Quan hệ quốc tế là quan hệ giữa các cá nhân có quyền lực thông qua các quyết định về đối ngoại, các cấu trúc mà họ quản lý. Các học giả như Snyder, Bruck và Sapin cho rằng, nếu muốn hiểu quan hệ quốc tế, trước hết phải nghiên cứu những người có "hành vi quốc gia", tức là những người đó sẽ biên soạn chính sách đối ngoại, hay đúng hơn là các quyết định được thông qua và đưa vào môi trường quốc tế và, chính điều đó đã làm thay đổi tình thế trong quan hệ quốc tế.
- Quan hệ quốc tế: Học thuyết Marx - Lenin cho rằng, quan hệ xã hội, trong đó có quan hệ quốc tế, là do quan hệ vật chất (đó là hình thức kinh tế - xã hội, hiện tượng xã hội) quyết định ra. Quan hệ quốc tế được tiếp tục trong phạm vi quốc tế, các mối quan hệ xã hội được tiếp tục trong phạm vị dân tộc, và chính sách đối ngoại của quốc gia là từ chính sách đối nội mà ra. Hiển nhiên, chính sách đối ngoại độc lập có tác động trở lại đến chính sách đối ngoại quốc gia (mục tiêu, chính sách) nhưng theo một mức độ nào đó mà thôi. Động lực chính khiến cho quan hệ quốc tế xuất hiện đó là cuộc đấu tranh giữa các giai cấp khác nhau, các quốc gia và các chế độ xã hội khác nhau để giải quyết mâu thuẫn đối kháng giữa họ với nhau. Tương quan lực lượng các giai cấp, các quốc gia, các tổ chức chính trị - xã hội khác nhau sẽ quyết định đến quan hệ quốc tế.
- Quan hệ quốc tế: GS người Nga Sygankov thì cho rằng, quan hệ quốc tế là loại quan hệ xã hội đặc biệt vượt ra ngoài quan hệ xã hội bên trong quốc gia. Để làm rõ vấn đề này, ông đề ra 2 tiêu chí: các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chiến lược đối nội - đối ngoại; vai trò của người tham gia của nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, đảng phái... Quan hệ quốc tế thực ra rất đa dạng, nhiều chiều và có sự tác động qua lại lẫn nhau. Chúng bao gồm các hoạt động thực tiễn của con người từ chính trị đến kinh tế, quân sự, thể thao..., do đó quan hệ quốc tế là loại quan hệ đặc biệt.
+ Đặc điểm của quan hệ quốc tế:
- Quan hệ quốc tế không có độc quyền. Quyền lực của chính quyền được luật quốc tế thừa nhận cho phép ràng buộc bất kỳ 1 quốc gia hay 1 tổ chức quốc tế nào, nghĩa là không có một siêu nhà nước nào có thể đứng ra quản lý các quốc gia như nhà nước trong nội bộ quốc gia. Ta lấy Liên Hiệp Quốc làm ví dụ. Trong tổ chức này (mặc định không gọi là siêu quốc gia), các nước được bình đẳng với nhau về chủ quyền, bầu cử Hội đồng Bảo an. Ngoài ra, các cường quốc lớn (Mỹ, Anh, Pháp, Liên Xô...) một thời gian đã chi phối quan hệ, thậm chí quyết định số phận các nước nhỏ yếu. Ngoài ra, yếu tố tự phát về chính trị ở quốc gia cũng chi phối nhiều đến quan hệ quốc tế. Nó diễn ra một cách tự nhiên, liên tục và rất khó dự đoán chính xác chiều hướng xảy ra của nó (vấn đề biển Đông, chiến tranh Ả rập - Israel). Quan hệ quốc tế cũng là hệ thống, bao gồm nhiều nhân tố tác động vào đó, và những cái đó kết hợp vào sẽ hình thành lợi ích quốc gia, sâu hơn nữa sẽ trở thành những liên minh chính trị mà các quốc gia hướng tới.
- Quan hệ quốc tế là hiện tượng xã hội phức tạp. Tính phức tạp đó gắn liên với các nhân vật trọng yếu trong quan hệ quốc tế, dẫn đến hình thành quá nhiều sự hoạt động tương tác phức tạp. Trên thế giới tồn tại nhiều loại diễn viên, nhân vật đa dạng về số lượng, chủng loại: 192/200 nước tham gia Liên Hiệp Quốc, hàng nghìn tổ chức phi chính phủ, tổ chức chính phủ, khu vực.... rất phức tạp, thậm chí còn đan xen, chồng chéo về chức năng, hoạt động lẫn nhau, rất phức tạp. Hơn nữa, quan hệ quốc tế vẫn có thật - giả đan xen rất phức tạp.
- Quan hệ quốc tế có tính hệ thống. Tính hệ thống của nó được quy định bởi quan hệ giữa các diễn viên với nhau và luôn trong tình trạng tương tác với môi trường quốc tế thì mới xảy ra được. Los Hovak cho rằng cũng giống như quan hệ xã hội khác, nó không hoạt động cố định mà luôn bị các nhân vật quan trọng tương tác lẫn nhau mà thành. Một khía cạnh là tính hệ thống đặc thù, hệ thống của các hệ thống, quan hệ tồn tại trong biên giới là quan hệ giữa các hệ thống, hệ thống qua lại giữa các hệ thống vĩ mô, vi mô trên toàn cầu.
- Quan hệ quốc tế có tính toàn cầu. Tất cả các quốc gia, các tổ chức và các nhóm xã hội đều tham gia vào quan hệ quốc tế. Hiện nay, quan hệ quốc tế bao gồm cả thế giới, gồm nhiều nước tham gia vào Liên Hiệp Quốc, các tổ chức quốc tế, các quá trình toàn cầu hóa, phát triển mạng thông tin toàn cầu... thành ngôi nhà chung nhất.
- Quan hệ quốc tế được thể hiện qua mối quan hệ tương tác lẫn nhau giữa quan hệ đối nội và quan hệ quốc tế. Từ xưa đến nay, nhiều nhà khoa học cho rằng quan hệ đối nội và đối ngoại luôn có quan hệ logic và mật thiết với nhau. Nhiều người cho rằng, đối ngoại quyết định đối nội, môi trường quốc tế sẽ quyết định môi trường nội tại. Chủ nghĩa Marx lại phản bác ngược lại, cho rằng đối nội sẽ quyết định đối ngoại. Đối nội là cái đầu tiên, cái quyết định cho đối ngoại, sức mạnh quốc gia sẽ quyết định chính sách đối ngoại, xác định khả năng và lợi ích của quốc gia.
- Quan hệ quốc tế xảy ra tất yếu sẽ phụ thuộc nhiều vào các quan hệ hình thành trong lĩnh vực kinh tế. Chủ nghĩa Marx hiện đại cho rằng, sự phụ thuộc của kinh tế từ lợi ích kinh tế của giai cấp thống trị là tất yếu, và xem quan hệ quốc tế là biểu hiện liên quan đến dân tộc khác, quốc gia khác mà thôi. Tuy nhiên, nhiều nhà hiện thực chủ nghĩa đã phản bác lại quan niệm trên. Họ chủ trương rằng lợi ích kinh tế là 1 bộ phận của lợi ích dân tộc mà quốc gia phải tính đến trong trường quốc tế. Bên cạnh đó cũng có ý kiến cho rằng, chính trị và kinh tế tác động qua lại lẫn nhau, kinh tế mạnh sẽ tạo tiềm lực, các phương tiện vật chất cho quốc gia, ngược lại chính trị thúc đẩy kinh tế phát triển.
- Quan hệ quốc tế có tính đa nguyên văn hóa. Thực vậy, thế giới chúng ta là thế giới đa dạng về văn hóa. Trong cuốn "Xung đột giữa các nền văn minh", S. Huntington ra danh sách 9 nền văn minh chủ yếu là văn minh phương Tây, văn minh Mỹ latinh, văn minh đạo Thiên Chúa, văn minh châu Phi, văn minh đạo Hồi, văn minh đạo Hindu, văn minh Phật giáo, văn minh Trung Quốc và văn minh Nhật Bản. Ông khi nghiên cứu các nền văn minh đã khẳng định sẽ có sự xung đột giữa chúng về tư tưởng, văn hóa mà nặng nhất về chính trị, song sự xung dột như thế nào, ảnh hưởng ra sao thì chưa biết rõ.
- Quan hệ quốc tế sẽ đưa ra các thông tin tương đối chính xác, phục vụ đắc lực cho các nhà hoạch định chính sách đối ngoại. Nếu có thông tin đúng thì họ sẽ hoạch định chính xác, còn sai thì dẫn đến những hậu quả nặng nề.
- Quan hệ quốc tế có tính hệ thống. Tính hệ thống của nó được quy định bởi quan hệ giữa các diễn viên với nhau và luôn trong tình trạng tương tác với môi trường quốc tế thì mới xảy ra được. Los Hovak cho rằng cũng giống như quan hệ xã hội khác, nó không hoạt động cố định mà luôn bị các nhân vật quan trọng tương tác lẫn nhau mà thành. Một khía cạnh là tính hệ thống đặc thù, hệ thống của các hệ thống, quan hệ tồn tại trong biên giới là quan hệ giữa các hệ thống, hệ thống qua lại giữa các hệ thống vĩ mô, vi mô trên toàn cầu.
- Quan hệ quốc tế có tính toàn cầu. Tất cả các quốc gia, các tổ chức và các nhóm xã hội đều tham gia vào quan hệ quốc tế. Hiện nay, quan hệ quốc tế bao gồm cả thế giới, gồm nhiều nước tham gia vào Liên Hiệp Quốc, các tổ chức quốc tế, các quá trình toàn cầu hóa, phát triển mạng thông tin toàn cầu... thành ngôi nhà chung nhất.
- Quan hệ quốc tế được thể hiện qua mối quan hệ tương tác lẫn nhau giữa quan hệ đối nội và quan hệ quốc tế. Từ xưa đến nay, nhiều nhà khoa học cho rằng quan hệ đối nội và đối ngoại luôn có quan hệ logic và mật thiết với nhau. Nhiều người cho rằng, đối ngoại quyết định đối nội, môi trường quốc tế sẽ quyết định môi trường nội tại. Chủ nghĩa Marx lại phản bác ngược lại, cho rằng đối nội sẽ quyết định đối ngoại. Đối nội là cái đầu tiên, cái quyết định cho đối ngoại, sức mạnh quốc gia sẽ quyết định chính sách đối ngoại, xác định khả năng và lợi ích của quốc gia.
- Quan hệ quốc tế xảy ra tất yếu sẽ phụ thuộc nhiều vào các quan hệ hình thành trong lĩnh vực kinh tế. Chủ nghĩa Marx hiện đại cho rằng, sự phụ thuộc của kinh tế từ lợi ích kinh tế của giai cấp thống trị là tất yếu, và xem quan hệ quốc tế là biểu hiện liên quan đến dân tộc khác, quốc gia khác mà thôi. Tuy nhiên, nhiều nhà hiện thực chủ nghĩa đã phản bác lại quan niệm trên. Họ chủ trương rằng lợi ích kinh tế là 1 bộ phận của lợi ích dân tộc mà quốc gia phải tính đến trong trường quốc tế. Bên cạnh đó cũng có ý kiến cho rằng, chính trị và kinh tế tác động qua lại lẫn nhau, kinh tế mạnh sẽ tạo tiềm lực, các phương tiện vật chất cho quốc gia, ngược lại chính trị thúc đẩy kinh tế phát triển.
- Quan hệ quốc tế có tính đa nguyên văn hóa. Thực vậy, thế giới chúng ta là thế giới đa dạng về văn hóa. Trong cuốn "Xung đột giữa các nền văn minh", S. Huntington ra danh sách 9 nền văn minh chủ yếu là văn minh phương Tây, văn minh Mỹ latinh, văn minh đạo Thiên Chúa, văn minh châu Phi, văn minh đạo Hồi, văn minh đạo Hindu, văn minh Phật giáo, văn minh Trung Quốc và văn minh Nhật Bản. Ông khi nghiên cứu các nền văn minh đã khẳng định sẽ có sự xung đột giữa chúng về tư tưởng, văn hóa mà nặng nhất về chính trị, song sự xung dột như thế nào, ảnh hưởng ra sao thì chưa biết rõ.
- Quan hệ quốc tế sẽ đưa ra các thông tin tương đối chính xác, phục vụ đắc lực cho các nhà hoạch định chính sách đối ngoại. Nếu có thông tin đúng thì họ sẽ hoạch định chính xác, còn sai thì dẫn đến những hậu quả nặng nề.
3. Chủ thể của quan hệ quốc tế
- Tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các chủ thể ngày càng lớn.
- Xuất hiện nhiều vấn đề vượt quá khả năng quốc gia.
- Hệ thống luật pháp quốc tế ngày càng mở rộng.
+ Thuyết hiện thực: quốc gia - dân tộc là chủ thể cơ bản nhất, quan trọng nhất bởi:
- Ưu thế về khả năng chính trị (Morghenthau).
- Môi trường xã hội chỉ quốc gia mới có (R.Aron).
- Tiềm lực kinh tế của nhà nước (G. Bertle).
+ Marxism: Giai cấp thống trị, quốc gia - dân tộc chỉ là cầu nối giữa các giai cấp thống trị
với hệ thống thế giới, với nền kinh tế thế giới.
Chủ thể quan hệ quốc tế là các lực lượng tạo nên hệ thống quan hệ quốc tế, tham gia vào các mối quan hệ quốc tế tạo ra các ảnh hưởng, tương tác khác nhau trong hệ thống quan hệ quốc tế.
Những lực lượng tạo chủ thể cho quan hệ quốc tế:
- Thuyết hiện thực: Những người theo thuyết này cho rằng các quốc gia – dân tộc là chủ thể duy nhất. Còn bên Tân hiện thực tuy có công nhận sự tồn tại của các dạng chủ thể khác. Song, số này luôn có tính thụ động.
- Thuyết tự do: Những người theo thuyết này cho rằng các lực lượng đó là các quốc gia, phi quốc gia.
- Thuyết Marxid bổ sung vào danh sách các vùng lãnh thổ (nếu họ có quyền tự trị nhất định) và các phong trào xã hội.
Nhưng trong đó, một số thuyết lại nhấn mạnh tính quan trọng, uy tín và triển vọng của chủ thể.
+ Thuyết tự do:Sự cân đối giữa các nhóm chủ thể QG và phi QG. Trong một số trường hợp, các chủ thể phi QG còn quan trọng hơn (R.Keohane, J.Nye, S.Krasner, v.v…) bởi:
4. Các học thuyết về quan hệ quốc tế
+ Chủ nghĩa hiện thực:
Nội dung tiêu biểu (thế kỷ XV - XX):
- Bản chất con nguời là xấu xa; nguồn gốc của xung đột và chiến tranh là do sự sợ hãi trước sự tăng cường sức mạnh của kẻ khác;
o- Cân bằng sức mạnh là công cụ bảo đảm lợi ích.
+ Chủ nghĩa hiện thực:
Nội dung tiêu biểu (thế kỷ XV - XX):
- Kẻ mạnh làm những gì họ muốn còn kẻ yếu thì chỉ làm được những gì họ được phép;
o- Chính trị là thống soái được hiểu là đấu tranh giành quyền lực; đạo đức và luật pháp chỉ là thứ yếu so với chính trị và mục tiêu chính trị biện minh cho mọi phương tiện;
o- Chiến tranh là sự tiếp diễn của chính trị; trong chính trị quốc tế quốc gia hành động một cách thống nhất và duy lý;
Đại diện là Thucydides, Grotius, Clauzewitz...
Nội dung tiêu biểu (1945 - nay): Đại diện: Morgenthau, Kissinger, Kennan...
o- Chính trị quốc tế cũng như bất kỳ chính trị nào khác, là cuộc đấu tranh vì quyền lực; đấu tranh vì quyền lực là quy luật khách quan và bất biến có nguồn gốc từ bản chất của con người;
o- Chỉ có quốc gia mới có đầy đủ nguồn lực để tiến hành cuộc đấu tranh này và vì vậy là diễn viên cơ bản trên trường quốc tế;
o- Trong chính trị quốc tế, quốc gia là chủ thể đơn nhất, hành động một cách duy lý, có nhiệm vụ hàng đầu là tăng cường sức mạnh, nhất là quân sự và ảnh hưởng đối với nền chính trị quốc tế;
o- Trong chính trị quốc tế, nguyên tắc đạo đức và luật pháp cũng như ý thức hệ chỉ là thứ yếu so với lợi ích dân tộc được hiểu là giành giật, tăng cường và khuếch trương sức mạnh - quyền lực.
+ Chủ nghĩa tự do: đại diện là Khổng Tử, J. Locke, A. Smith, E. Kant....
§- Chính trị và đạo đức là thống nhất; các quyền tự nhiên của con người là không thể tước bỏ được và việc bảo đảm các quyền này là ưu tiên hàng đầu;
- Bản chất con người là tốt đẹp và lợi ích giữa các cá nhân về cơ bản là hoà hợp với nhau;
- Trong xã hội tự do, nhà nước - quốc gia chỉ đóng vai trò tối thiểu, chủ yếu làm trọng tài phân xử các tranh chấp các nhân và duy trì các điều kiện để bảo đảm các quyền của cá nhân;
§- Không phủ nhận tình trạng vô chính phủ và xung đột, chiến tranh trong QHQT, nhưng cho rằng do bản chất tốt đẹp của con người, các quốc gia có thể tạo ra sự hoà hợp về lợi ích và đi đến thiết lập một nền hoà bình “vĩnh viễn”(perpeptual peace) bằng nhiều cách: thông qua thúc đẩy tự do thương mại, mở rộng chế độ dân chủ, cùng nhau xây dựng bộ luật và thể chế chung điều tiết lợi ích giữa các quốc gia.
Thời hiện đại, với sự xuất hiện của Học thuyết Wilson (1919), Công ước Briand - Kellog (1929) và Học thuyết Stimson (1933), chủ nghĩa tự do mới đã được hình thành với tư tưởng ban đầu: chiến tranh có thể được ngăn chặn và hoà bình có thể được kiến tạo thông qua việc áp dụng các nguyên tắc và thể chế dân chủ trong QHQT, trước hết là thành lập tổ chức quốc tế điều tiết mối quan hệ này, lập cơ chế ngăn chặn chiến tranh (Hội Quốc Liên). Sau năm 1973 bị phân thành 3 khuynh hướng chính là:
- Khuynh hướng quốc tế chủ nghĩa (đại diện là Muraychik, Fukuyama, Rasset...) nói rằng có 3 cái: hòa bình dân chủ, can thiệp nhân đạo, toàn cầu hóa nền dân chủ.
- Khuynh hướng lý tưởng mới (đại diện là Held, Bobbio, Archibugi...) cho rằng nên chia sẻ cùng những người quốc tế chủ nghĩa quan điểm coi trọng hình thức cai trị dân chủ và cho rằng sự tuỳ thuộc lẫn nhau sẽ thúc đẩy hoà bình; nhưng cho rằng hoà bình và công lý không phải là điều kiện tự nhiên mà là sản phẩm của kế hoạch hay thiết kế có chủ kiến; kêu gọi dân chủ hoá cả cấu trúc trong nước và quốc tế, ở cấp độ vi mô và vĩ mô; Nêu ra dự án thay hệ thống QHQT theo mô hình “Westphalian và Liên Hợp quốc” bằng “mô hình dân chủ toàn thế giới” (cosmopolitan model of democracy).
- Khuynh hướng thể chế luận mới (đại diện là Keohan, Martin, Oye...) nhận định chỉ quốc gia là thể chế duy nhất, không có phi quốc gia; thừa nhận tình trạng vô chính phủ nhưng cho rằng điều này không có nghĩa hợp tác giữa các nước là không có thể; các quy tắc và thể chế quốc tế có thể làm giảm nhẹ tình trạng này
o
6. Cơ sở của quan hệ quốc tế
Marx - Lenin trong quá trình nghiên cứu quan hệ quốc tế đã chỉ ra rằng, cơ sở của quan hệ quốc tế chính là:
+ Chế độ kinh tế của xã hội gắn liền với xã hội đó. Hệ thống quan hệ quốc tế quốc gia phụ thuộc vào các đặc điểm của thời đại được xác định bởi đặc điểm kinh tế - xã hội. Tiến trình phát triển xã hội phụ thuộc nhiều vào đấu tranh giai cấp, quá trình nội bộ về kinh tế - xã hội diễn ra ở từng quốc gia. Điểm giống nhau giữa quan hệ quốc tế - quan hệ quốc gia là tính giai cấp.
+ Nền chính trị bên trong của các giai cấp nhất định để thực hiện đường lối chính trị đối nội, ở ngoài biên giới thì người ta tiến hành chính sách đối ngoại phù hợp. Như trên đã nói, quan hệ quốc tế được hình thành do mâu thuẫn giữa các tầng lớp, đấu tranh giai cấp mà ra; song để quan hệ quốc tế hình thành, người nắm quyền chính là người quyết định chính sách đối nội tốt để dung hòa các mâu thuẫn trong nước, ra chính sách đối ngoại phù hợp để điều chỉnh các mối quan hệ giữa các quốc gia trong vùng, trong khu vực và trên thế giới.
Trước hết chúng
ta cần nắm được những nét khái quát về tình hình quốc tế sau chiến tranh thế
giới I. Chiến tranh thế
giới thứ nhất kết thúc đã mở ra một thời kỳ mới trong quan hệ quốc tế. Kết cục
của chiến tranh đã tác
động mạnh mẽ đến tình hình thế giới đặc biệt là đối với châu Âu.
- Chiến trường chính của cuộc chiến tranh diễn ra ở châu Âu, vì thế các cường quốc châu Âu đều bị suy yếu. Hai nước tư bản lâu đời Anh và Pháp tuy chiến thắng nhưng nền kinh tế bị kiệt quệ sau chiến tranh và trở thành con nợ của Mĩ. Italia, một đồng minh ốm yếu trong chiến tranh, bị xâu xé bởi cuộc đấu tranh gay gắt trong nước và khủng hoảng kinh tế. Ba đế quốc rộng lớn ở châu Âu là Nga, Đức, áo - Hung lần lượt sụp đổ. Đế quốc Đức và Áo - Hung bại trận, bị tàn phá nặng nề và những cuộc cách mạng bùng nổ đã đẩy các nước này vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng.
- Trong khi đó các cường quốc ở ngoài châu Âu như Mỹ và Nhật, không bị tàn phá bởi chiến tranh, đã vươn lên nhanh chóng, vượt qua nhiều nước tư bản ở châu Âu. Tương quan lực lượng giữa các cường quốc thay đổi rõ rệt, ngày càng bất lợi cho các nước tư bản châu Âu vốn chiếm vị trí trung tâm trong thế giới tư bản chủ nghĩa trước đây.
- Đồng thời thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 cũng tạo ra một chuyển biến căn bản của tình hình thế giới. Chủ nghĩa tư bản không còn tồn tại như một hệ thống duy nhất thống trị thế giới nữa. Sự tồn tại của Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới đã trở thành một thách thức to lớn đối với thế giới tư bản chủ nghĩa.
Trong bối cảnh đó, để giải quyết
những vấn đề do chiến tranh đặt ra, các hội nghị hoà bình được triệu tập. Hệ
thống hoà ước Versailles
và sau đó là Hệ thống hiệp ước Washington đã được ký kết nhằm tổ chức lại thế
giới sau chiến tranh, phù hợp với tương quan lực lượng mới.
I - HỆ THỐNG HIỆP ƯỚC VERSAILLES - WASHINGTON
1. Hệ thống
hòa ước Versailles :
Hai tháng sau khi chiến tranh kết
thúc, ngày 18 - 1 - 1919 các nước thắng trận đã họp Hội nghị hoà bình tại Versailles (ngoại ô thủ
đô Pari của Pháp). Tham dự hội nghị có đại biểu của 27 nước thắng trận. Năm
cường quốc tham gia điều khiển hội nghị là Mỹ, Anh, Pháp, Italia và Nhật Bản,
nhưng thực sự nắm quyền quyết định hội nghị là Tổng thống Mĩ Wilson, Thủ tướng
Anh Lloyd George và Thủ tướng Pháp Clemenceau. Đại biểu của các nước bại trận
cũng có mặt để kí vào các hoà ước do các nước thắng trận quyết định. Riêng nước Nga không được mời tham gia hội nghị. Vấn đề Nga không được đưa vào chương trình nghị sự nhưng nó là nỗi ám ảnh đối với các nước đế quốc. Ngay từ trước khi hội nghị bắt đầu, các nước đã thảo luận vấn đề Nga và đi đến thỏa thuận sẽ tăng cường can thiệp vũ trang và ủng hộ lực lượng phản động để chống lại chính quyền Xô viết.
Hội nghị Versailles kéo dài gần 2 năm và diễn ra hết sức gay go, quyết liệt vì các nước cường quốc thắng trận đều có những mưu đồ tham vọng riêng trong việc phân chia quyền lợi và thiết lập trật tự thế giới sau chiến tranh. Là nước đăng cai hội nghị, Pháp mong muốn làm suy kiệt hoàn toàn nước Đức cả về quân sự và kinh tế, nhằm đảm bảo an ninh và địa vị bá chủ của Pháp ở lục địa châu Âu. Nhưng Anh và nhất là Mĩ lại chủ trương phải duy trì một nước Đức tương đối mạnh để đối phó với phong trào cách mạng đang lên cao ở các nước châu Âu và âm mưu bá chủ châu Âu của Pháp. Đó là chính sách “cân bằng lực lượng” ở châu Âu mà Mĩ rất ủng hộ. Ngay từ đầu năm 1918, một năm trước khi chiến tranh kết thúc, Tổng thống Mĩ Wilson đã đưa ra Chương trình 14 điểm nhằm lập lại hoà bình và tổ chức lại thế giới sau chiến tranh theo quan điểm của Mĩ(1). Với những lời lẽ bóng bảy, bề ngoài đề cao hoà bình, dân chủ, Chương trình 14 điểm thể hiện mưu đồ xác lập địa vị bá chủ thế giới của Mĩ, làm suy yếu các đối thủ cạnh tranh Anh, Pháp và Nhật Bản, tạo cơ hội để Mĩ vượt khỏi sự biệt lập của châu Mĩ, vươn ra bên ngoài bằng sức mạnh kinh tế và ảnh hưởng chính trị chứ không phải bằng con đường bành trướng lãnh thổ như các cường quốc khác. Chương trình 14 điểm của Wilson được các nước coi là nguyên tắc để thảo luận tại Hội nghịVersailles .
Hội nghị Versailles kéo dài gần 2 năm và diễn ra hết sức gay go, quyết liệt vì các nước cường quốc thắng trận đều có những mưu đồ tham vọng riêng trong việc phân chia quyền lợi và thiết lập trật tự thế giới sau chiến tranh. Là nước đăng cai hội nghị, Pháp mong muốn làm suy kiệt hoàn toàn nước Đức cả về quân sự và kinh tế, nhằm đảm bảo an ninh và địa vị bá chủ của Pháp ở lục địa châu Âu. Nhưng Anh và nhất là Mĩ lại chủ trương phải duy trì một nước Đức tương đối mạnh để đối phó với phong trào cách mạng đang lên cao ở các nước châu Âu và âm mưu bá chủ châu Âu của Pháp. Đó là chính sách “cân bằng lực lượng” ở châu Âu mà Mĩ rất ủng hộ. Ngay từ đầu năm 1918, một năm trước khi chiến tranh kết thúc, Tổng thống Mĩ Wilson đã đưa ra Chương trình 14 điểm nhằm lập lại hoà bình và tổ chức lại thế giới sau chiến tranh theo quan điểm của Mĩ(1). Với những lời lẽ bóng bảy, bề ngoài đề cao hoà bình, dân chủ, Chương trình 14 điểm thể hiện mưu đồ xác lập địa vị bá chủ thế giới của Mĩ, làm suy yếu các đối thủ cạnh tranh Anh, Pháp và Nhật Bản, tạo cơ hội để Mĩ vượt khỏi sự biệt lập của châu Mĩ, vươn ra bên ngoài bằng sức mạnh kinh tế và ảnh hưởng chính trị chứ không phải bằng con đường bành trướng lãnh thổ như các cường quốc khác. Chương trình 14 điểm của Wilson được các nước coi là nguyên tắc để thảo luận tại Hội nghị
Các nước
Italia, Nhật Bản cũng đưa ra những tham vọng của họ. Nhật Bản đòi được thay thế
Đức nắm chủ quyền bán đảo Sơn Đông của Trung Quốc, dự định chiếm vùng viễn Đông
của nước Nga Xô Viết, mở rộng ảnh hưởng ở khu vực châu á - Thái Bình Dương.
Italia muốn mở rộng lãnh thổ xuống vùng Địa Trung Hải và vùng Balkan. Các nước
nhỏ như Ba Lan và Rumani cũng có những yêu cầu mở rộng lãnh thổ của mình.
Mâu thuẫn và cuộc đấu tranh giữa các nước tham dự Hội nghị Versailles, đặc biệt là giữa các cường quốc trở nên gay gắt, có tới 3 lần Hội nghị có nguy cơ tan vỡ. Đây là hòa ước có sự sắp đặt rất khắc khe của các cường quốc đối với 1 một nước Đức bại trận. Nó có thể được so sánh với Hiệp định Tilsit mà Hoàng đế Pháp Napoleon I ký với Nga để áp đặt nước Phổ năm 1807, hoặc là Hiệp ước Brest - Litopsk mà Đế chế Đức áp đặt vào nước Nga Xô viết vào năm 1918. Lenin đã bình luận hết sức mỉa mai về Hội nghị này: "Chúng muốn quyết định xem cho ai nhiều than hơn, thế là chúng cãi cọ trong suốt 5 tháng nay, chúng không còn kiềm chế được mình và bầy thú dữ đó cắn cấu nhau loạn xạ đến nỗi chỉ còn lại cái đuôi". Cuối cùng vào tháng 3/1919, các văn kiện của Hội nghị đã lần lượt được ký kết.
a. Sự thành lập hội Quốc liên (
Một trong những vấn đề cơ bản đầu
trên được các nước tham dự Hội nghị Versailles nhất trí là việc thành lập Hội Quốc
liên, được thành lập theo tinh thần và nội dung của Điểm 14 trong "Chương trình 14 điểm" của Wilson. Công ước thành lập Hội quốc liên là văn kiện đầu tiên được kí kết cùng
với Hiến chương của Hội. Theo đó, mục đích của Hội Quốc liên là “khuyến khích
sự hợp tác quốc tế, thực hiện nền hoà bình và an ninh thế giới”, và để thực
hiện mục đích đó người ta đề ra một số nguyên tắc như: không dùng chiến tranh
trong quan hệ giữa các nước, quan hệ quốc tế phải rành mạch và dựa trên đạo lí,
phải thi hành những cam kết quốc tế...
Ngày 10 - 1 - 1920, Hội Quốc liên chính thức thành lập với 44 nước kí vào công ước sáng lập, Hội quốc liên có 3 tổ chức chính: Đại hội đồng (gồm tất cả các nước thành viên, họp mỗi năm một lần vào tháng 9), Hội đồng thường trực (gồm 5 uỷ viên các cường quốc Anh, Pháp, Mĩ, Nhật, Italia - sau đó còn lại 4 vì Mĩ không tham gia, và một số uỷ viên có kì hạn, họp mỗi năm ba lần), Ban thư ký thường trực (do Tổng thư ký đứng đầu) thường trực như một nội các làm việc hành chính thường xuyên, đóng trụ sở ở Geneve. Các cơ quan chuyên môn của Hội Quốc liên gồm có Toà án quốc tế (có trụ sở thường trực ở La Hay) và các tổ chức khác như: Tổ chức lao động quốc tế (ILO), Tổ chức sức khoẻ (HO), uỷ ban người tị nạn (HCR) ... Nội dung hoạt động do Hội Quốc liên đề ra là giám sát việc giải trừ quân bị, tôn trọng và bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị, giải quyết các tranh chấp quốc tế, thực hiện “chế độ uỷ trị” đối với một số lãnh thổ “chưa đủ điều kiện tự quản”... Nước nào vi phạm công ước, gây chiến tranh sẽ bị xem là gây chiến với toàn thể hội viên và sẽ bị trừng phạt dưới hai hình thức: bằng biện pháp kinh tế và tài chính (do tất cả các nước hội viên bắt buộc phải thi hành) và bằng những biện pháp quân sự. Sự ra đời của Hội Quốc Liên, một tổ chức chính trị mang tính quốc tế đầu tiên, đã đánh dấu bước phát triển mới của quan hệ quốc tế thế kỷ XX. Về danh nghĩa, Hội Quốc Liên trở thành một tổ chức giám sát trật tự quốc tế mới, nhằm ngăn ngừa chiến tranh, bảo vệ hoà bình thế giới. Tuy nhiên, trên thực tế, những hoạt động của Hội quốc Liên là nhằm duy trì trật tự thế giới mới do các cường quốc chiến thắng áp đặt tại Hội nghị Vécxai. Với "chế độ uỷ trị", Anh, Pháp đã chia nhau hầu hết các thuộc địa của Đức và lãnh thổ của đế quốc Thổ Nhĩ Kì. Các biện pháp về giải trừ quân bị và sự trừng phạt chỉ mang ý nghĩa hình thức vì Hội Quốc liên không có sức mạnh thực tế để thực thi các quyết định của mình. Để Hội Quốc Liên có thể trở thành một công cụ có hiệu quả, tổ chức này phải có ý chí chính trị thống nhất và có khả năng quân sự cần thiết. Những sự kiện diễn ra sau này sẽ cho thấy sự bất lực của Hội Quốc Liên trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế. Hội Quốc Liên được thành lập theo sáng kiến của Tổng thống Mĩ Wilson nhưng Mĩ từ chối không tham gia do những tham vọng của Mĩ đã không được thực hiện trong Hội nghị Versailles. Điều đó cũng là một nhân tố ảnh hưởng đến uy tín và sức mạnh của tổ chức này.
b. Hoà ước
Hoà ước Versailles với Đức kí ngày
28 - 6 - 1919, văn kiện quan trọng nhất của hệ thống hoà ước Versailles, đã
quyết định số phận của nước Đức. Hoà ước khẳng định nước Đức bại trận phải chịu
trách nhiệm về “tội ác gây chiến tranh”, do đó phải trả lại cho Pháp hai tỉnh
Alsace-Lorraine (mà Pháp cắt nhượng cho Đức trong cuộc chiến tranh Pháp - Phổ 1870 - 1871); nhường cho Bỉ khu Eupen Malmedy và Moresnet; cắt cho Đan Mạch vùng Bắc Sleswig - tùy kết quả của cuộc trưng cầu ý dân - mà Thủ tướng Đức Bismarck chiếm được trong cuộc chiến tranh Đức - Đan Mạch 1864; cắt cho Ba Lan
vùng Pomerania và một “hành lang chạy ra biển”..., một số nơi khác tùy thuộc vào trưng cầu ý dân, mà Đức đã chiếm được trong cuộc phân chia Ba Lan vào thế kỷ XVIII. Đồng thời, thành phố cảng Dantzig (nay là Gdansk, Ba Lan) và đảo Hengôlan sẽ
do Hội quốc liên quản trị. Đây là một trong những điều khoảng khiến người dân Đức tức giận nhất, họ không chỉ bất mãn vì việc tách vùng Đông Phổ ra khỏi nước Đức bằng một "hành lang" cho Ba Lan thông ra biển, mà còn ghét bỏ người Ba Lan - người mà họ xem như "người hạ đẳng" - không hơn, không kém. Người Đức cũng giận dữ không kém khi thấy Hòa ước (điều 231) buộc tội họ là nước duy nhất phải chịu trách nhiệm chính là người gây ra cuộc chiến này, và đòi họ phải giao Wilhelm II (người phát động cuộc chiến) và khoảng 800 tội phạm chiến tranh khác cho các nước Hiệp ước để họ xét xử, còn các nước đế quốc khác thì dường như "vô tội" (!?) Ngoài ra, hạt Sarre của Đức cũng giao cho Hội Quốc liên quản
trị trong thời hạn 15 năm, các mỏ than ở đây thuộc về Pháp. Sau thời hạn này sẽ
tiến hành trưng cầu ý dân để quyết định hạt Sarre sẽ thuộc về nước nào (sau cuộc
trưng cầu ý dân năm 1935, hạt Sarre đã thuộc về nước Đức). Đồng thời toàn bộ hệ
thống thuộc địa của Đức đều trở thành đất uỷ trị của Hội Quốc liên và được giao
cho các cường quốc Anh, Pháp, Nhật, Bỉ... quản lí.
Nước Đức còn bị hạn chế vũ trang
đến mức thấp nhất: chỉ được giữ lại 100.000 bộ binh với vũ khí thông thường,
không có không quân, không có hạm đội tầu ngầm và thiết giáp hạm. Vùng tả ngạn
sông Ranh (gần biên giới Pháp) và 3 đầu cầu vùng hữu ngạn sẽ do quân đội Đồng
minh đóng trong vòng 15 năm và rút dần quân nếu Đức thi hành hoà ước. Vùng hữu
ngạn sông Ranh với chiều rộng 50 km sẽ trở thành khu phi quân sự. Nước Đức còn
phải bồi thường chiến tranh cho các nước thắng trận số tiền (do Hội nghị Luân
đôn tháng 4 - 1921 qui định) là 132 tỉ Mác vàng, trong đó trả cho Pháp: 52%
Anh 22%, Italia: 10%, Bỉ: 8%... Với hoà ước này, nước Đức mất 1/8 đất đai, gần
1/12 dân số, 1/3 mỏ sắt, gần 1/3 mỏ than, 2/5 sản lượng gang, gần 1/3 sản lượng
thép và gần 1/7 diện tích trồng trọt. Toàn bộ gánh nặng của hoà ước Vécxai đè
lên vai nhân dân Đức. Tuy thế, hoà ước Vécxai không thủ tiêu được tiềm lực
kinh tế chiến tranh của Đức. Sau này,
với sự trợ giúp của Mĩ, Anh, chỉ trong vòng một thời gian ngắn, nước Đức đã
khôi phục và trở thành một lò lửa chiến tranh nguy hiểm nhất ở châu Âu trong
thập niên 30.
Việc hòa ước Versailles được công bố vào ngày 7/5/1919 đã gây ra một sự phản ứng mạnh mẽ không chỉ trong chính phủ, quân đội, mà còn lan ra toàn thể người dân Đức. Chính phủ lâm thời chống đối mạnh mẽ việc chấp nhận nó và cho rằng nó là hòa ước "vô lý"; còn nhân dân Đức thì ủng hộ, hậu thuẫn chính phủ nhiệt tình trong cuộc đấu tranh này. Chính phủ hỏi ý kiến quân đội: Nếu từ chối ký vào hòa ước, liệu Quân đội có thể chống cự cuộc tấn công của Đồng minh hay không? Ngày 17/6, Thống chế Hindenburg cho rằng, nếu từ chối ký hòa ước, Đức sẽ có thể gây chiến tranh chiếm vùng Posen, nhưng sẽ rất khó khăn nếu Đồng minh tấn công kịch liệt và chúng ta sẽ thất bại. Chi bằng chúng ta thà thua trong danh dự còn hơn chấp nhận một nền hòa bình nhục nhã. Lời nói này của Hindenburg khiến người dân cảm thấy như là không thực sự trung thực cho lắm. Nhân dân Đức không biết Hindenburg đã nghĩ rằng nếu cố chống cự Đồng minh thì không những vô vọng, mà còn có thể khiến cho cấp chỉ huy quân đội quý giá bị tiêu diệt và từ đó nước Đức cũng bị hủy diệt theo. Vài ngày sau, khi bị Đồng minh bắt phải ra ngay quyết định cuối cùng, Chính phủ đã họp lại nội các và quân đội và 4 ngày sau, quốc hội Đức mới chính thức ký vào văn kiện Hòa ước Versailles. Việc ký kết hòa ước này gây sự phản ứng rất mạnh mẽ ở nhiều nơi. Ở Liên Xô, khi nghe tin hòa ước được ký kết, Lenin đã nhận xét: "Đấy là một thứ hòa ước kỳ quái, một thứ hòa ước ăn cướp, nó đẩy hàng chục triệu con người, trong đó có những con người văn minh nhất, rơi vào tình cảnh bị nô dịch. Đấy không phải là một hòa ước, đấy là những điều kiện mà bọn ăn cướp tay cầm dao buộc một nạn nhân không có gì tự vệ phải chấp nhận". Đồng thời ở Pháp, Thống chế Foch, viên tướng Pháp có nhiều công lao lớn trong Thế chiến I, đã không ngừng phản đối Clemenceau rất kịch liệt và không bằng lòng với những nội dung Hòa ước đã ký với Đức, ông ta cũng dự báo về những thất bại của Hòa ước đó. Ông ta từng chứng kiến quân Đức hủy hạm đội của mình để tránh rơi vào tay giặc, quân và dân Đức đốt cháy lá cờ Pháp ở nước Đức mà quân Đức cướp trong cuộc chiến 1870 - 1871, nhằm ngăn cản việc giao các lá cờ này cho Pháp... Ông viết thư cho vợ: "Bọn họ nhạo báng chúng ta. Toàn thể châu Âu là một đám nhốn nháo. Ấy là công trình của Clemenceau". Do đó, Foch từ chối làm lễ ký kết Hiệp ước này vào ngày 28 tháng 6 năm 1919 tại Versailles. Foch có lời tuyên bố, mà sau này càng trở nên đúng: "Đây không phải là một Hòa ước. Đây là một Thỏa ước ngừng bắn trong vòng 20 năm". Bất chấp sự nỗ lực lớn nhất của Clemenceau, Hòa ước này thất bại vì không thể thay đổi sự cân bằng chiến lược Đức - Pháp: Đức thì đông dân, có tiềm lực quân sự, chính trị mạnh nhưng trong khi đó quân đội Pháp lại quá yếu, ảnh hưởng rất nhỏ bé trong phe Hiệp ước nên rất khó đương đầu với Đức. Chính vì vậy, Thượng viện Hoa Kỳ từ chối phê chuẩn bản Hòa ước này vào tháng 1 năm 1920, và liên minh giữa Anh Quốc và Pháp bắt đầu suy sụp. Foch chán ghét một liên minh quân sự Pháp - Anh - Mỹ, cái mà Clemenceau đặt niềm tin to lớn. Thành thử không những chiến thắng của Pháp vào năm 1918 hoàn toàn là một chiến thắng mà Pháp đã thất bại trong việc thiết lập một nền hòa bình lâu dài.
c. Các hoà ước khác.
Cùng với hoà ước Versailles kí với Đức, những
hoà ước khác cũng lần lượt kí kết với các nước bại trận trong hai năm 1919 -
1920. Với hoà ước Saint - Germain kí với Áo ngày 10 - 9 - 1919 và Hoà ước Trianon kí với Hunggari ngày 4-6-1920, đế
quốc Áo - Hung trước kia không còn nữa mà bị tách thành hai nước nhỏ: Áo chỉ
còn 6,5 triệu dân với diện tích 84.000 km2, Hunggari cũng mất 1/3 lãnh thổ
trước kia, chỉ còn lại 92.000km2 với 8 triệu dân. Mỗi nước chỉ được quyền
có khoảng 30.000 quân và phải bồi thường chiến phí. trên lãnh thổ của đế quốc
áo - Hung cũ đã thành lập hai quốc gia mới là Tiệp Khắc và Nam Tư. Một số nước
được mở rộng thêm đất đai từ lãnh thổ của đế quốc áo - Hung: Rumani được thêm
vùng Bukovine và Transylvanie, Italia
được thêm vùng Trentin - Istrie, Ba Lan cũng được thành lập với vùng Galicia
thuộc áo và các vùng đất khác thuộc Đức và Nga. Ở bán đảo Ban căng, số phận hai
nước thua trận là Bungari và đế quốc ốttôman cũng được quyết định. Với hoà ước
--------------------------
(1) Chương trình 14 điểm của Wilson là:
1. Đưa ra những hiệp định rõ ràng, không bí mật. 2. Tự do thông thương của các đại dương. 3. Bãi bỏ các rào cản kinh tế. 4. Cắt giảm vũ khí. 5. Dàn xếp các yêu sách của thuộc địa theo quyền lợi của các dân tộc bị trị.
6. Quân Đức rút khỏi Nga, quyền tự do về chính sách quốc gia cho Nga.
7. Quân Đức rút khỏi Bỉ, Bỉ là nước độc lập. 8. Quân Đức rút khỏi Pháp, Alsace-Loraine thuộc về Pháp. 9. Điều chỉnh biên giới Italia. 10. Các dân tộc của đế quốc Áo có quyền tự quyết. 11. Quân Đức rời khỏi Rumani, Serbia và Montenegro, Serbia có một lối đi ra biển. 12. Các dân tộc của đế quốc Ottoman có quyền tự quyết, eo biển Dardanelless cho phép tàu của mọi quốc gia. 13. Ba Lan độc lâp, có một lối đi ra biển. 14. Thành lập một tổ chức quốc tế để giữ gìn hòa bình
2. Hệ thống Hiệp ước Washington:
4. Quan hệ quốc tế của nước Nga Xô viết sau Cách mạng tháng Mười
Trước hết, chúng ta cần nắm được những nét khái quát về tình hình quốc tế những năm cuối thập niên 20, đầu thập niên 30. Cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới (1929 - 1933) bùng nổ đã chấm dứt thời kì ổn định của chủ nghĩa tư bản cùng với ảo tưởng về một kỷ nguyên hoà bình của thế giới. Cuộc khủng hoảng bắt đầu từ nước Mĩ ngày 24 - 10 - 1929, đã nhanh chóng tràn sang châu Âu, bao trùm toàn bộ thế giới tư bản chủ nghĩa, để lại những hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, chính trị, xã hội. Hàng trăm triệu người (công nhân, nông dân và gia đình của họ) bị rơi vào vũng lầy đói khổ. Hàng ngàn cuộc biểu tình lôi cuốn trên 17 triệu công nhân ở các nước tư bản tham gia trong những năm 1929 - 1933. ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc cũng bùng lên mạnh mẽ. Những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản trở nên cực kì gay gắt. Trong bối cảnh đó đã hình thành những xu hướng khác biệt nhau trong việc tìm kiếm con đường phát triển giữa các nước tư bản chủ nghĩa. Các nước không có hoặc có ít thuộc địa gặp nhiều khó khăn về vốn, nguyên liệu và thị trường đã đi theo con đường phát xít hoá chế độ chính trị, thiết lập nền chuyên chính khủng bố công khai nhằm cứu vãn tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng của mình. Các nước Italia, Đức, Nhật Bản là điển hình cho xu hướng này. Trong những năm 1929 - 1936, giới cầm quyền các nước nói trên đã từng bước phá vỡ những điều khoản chính yếu của hệ thống Versailles - Washington và tích cực chuẩn bị cuộc chiến tranh để phân chia lại thế giới. Trong khi đó các nước Mỹ, Anh, Pháp... đã tìm cách thoát ra khỏi khủng hoảng bằng những cải cách kinh tế - xã hội , duy trì nền dân chủ tư sản đại nghị, đồng thời chủ trương duy trì nguyên trạng hệ thống Versailles - Washington. Quan hệ giữa các cường quốc tư bản trong thập niên 30 chuyển biến ngày càng phức tạp. Sự hình thành hai khối đối lập - một bên là Đức, Italia, Nhật Bản với một bên là Mĩ, Anh, Pháp và cuộc chạy đua vũ trang giữa hai khối đã phá vỡ hệ thống thoả hiệp tạm thời Versailles - Washington dẫn tới sự hình thành các lò lửa chiến tranh, báo hiệu một cuộc chiến tranh thế giới mới. 1. Sự hình thành 3 lò lửa chiến tranh thế giới a) Lò lửa chiến tranh ở Viễn Đông Nhật Bản là nước đầu tiên có tham vọng phá vỡ hệ thống Versailles - Washington bằng sức mạnh quân sự. Từ năm 1927 Thủ tướng Nhật Tanaka đã vạch một kế hoạch chiến tranh toàn cầu đệ trình lên Thiên hoàng dưới hình thức bản “tấu thỉnh”', trong đó khẳng định phải dùng chiến tranh để xoá bỏ những “bất công mà Nhật phải chấp nhận” trong các Hiệp ước Washington (1921 - 1922) và đề ra kế hoạch cụ thể xâm lược Trung Quốc, từ đó mở rộng xâm lược toàn thế giới. Sau hai lần thất bại trong việc xâm lược vùng Sơn Đông (Trung Quốc), ngày 18 - 9 - 1931 Nhật Bản dựng “Sự kiện đường sắt Nam Mãn Châu” để lấy cớ đánh chiếm vùng Đông Bắc Trung Quốc, nơi tập trung 77% tổng số vốn của Nhật ở Trung Quốc. Đây là bước đầu tiên trong kế hoạch xâm lược đại qui mô của Nhật. Sau khi chiếm vùng này, quân Nhật dựng lên cái gọi là “Nhà nước Mãn Châu độc lập” với chính phủ bù nhìn do Phổ Nghi đứng đầu, biến vùng Đông Bắc Trung Quốc thành thuộc địa và bàn đạp cho những cuộc phiêu lưu quân sự mới. Việc Nhật Bản xâm lược Đông Bắc Trung Quốc đã động chạm đến quyền lợi của các nước tư bản phương Tây, nhất là Mĩ. Tuy nhiên Mĩ cũng như Anh, Pháp đã nhân nhượng, dung túng cho hành động xâm lược của Nhật với tính toán rằng Nhật sẽ tiêu diệt phong trào cách mạng ở Trung Quốc và tiến hành chiến tranh xâm lược Liên Xô. Điều đó đã làm cho Nhật bỏ qua mọi phản đối của phái đoàn điều tra V. Lytton do Hội Quốc Liên cử đến Trung Quốc. Ngày 24 - 2 - 1933 Hội Quốc liên đã thông qua Báo cáo công nhận chủ quy ền của Trung Quốc ở Mãn Châu, không công nhận “nước Mãn Châu” do Bộ tham mưu Nhật dựng lên nhưng mặt khác lại đề nghị duy trì “những quyền lợi đặc biệt của Nhật” ở Trung Quốc. Như vậy, Hội Quốc liên đã không công khai tuyên bố “hành động của Nhật là xâm lược và không quyết định một hình phạt nào đối với Nhật. Trước sức mạnh quân sự, Hội Quốc liên đã sử dụng sức mạnh tinh thần. Phương pháp đó không đem lại kết quả nào”. Nhật Bản tiếp tục mở rộng xâm lược Trung Quốc, chiếm đóng hai tỉnh Nhiệt Hà và Hà Bắc. Để có thể tự do hành động, ngày 24 - 3 - 1933 Nhật Bản tuyên bố rút khỏi Hội Quốc liên. Hành động của Nhật đã phá tan nguyên trạng ở Đông á do Hiệp ước Washington năm 1922 qui định, đánh dấu sự tan vỡ bước đầu của Hệ thống Versailles - Washington. Không dừng lại ở đó, năm 1937 Nhật bắt đầu mở rộng chiến tranh trên toàn lãnh thổ Trung Quốc. b) Sự hình thành lò lửa chiến tranh nguy hiểm nhất ở châu Âu Trong lúc đó, lò lửa chiến tranh thế giới nguy hiểm nhất đã xuất hiện ở châu Âu với việc Hitle lên cầm quyền ở Đức tháng 1 - 1933. Có thể nói, lực lượng quân phiệt Đức đã nuôi chí phục thù ngay từ sau khi nước Đức bại trận và phải chấp nhận hoà ước Versailles. Bước vào thập niên 30, sự sụp đổ của chính phủ Hermann Muller - chính phủ cuối cùng của nền Cộng hoà Weimar - và việc Heinrich Bruning lên nắm chính quyền đầu năm 1930 đánh dấu một thời kì chuyển biến mới trong chính sách đối nội cũng như đối ngoại của Đức. Xu hướng thành lập một chính quyền ''mạnh'', một nền chuyên chính dân tộc chủ nghĩa cực đoan đã trở thành nhu cầu cấp thiết của giới quân phiệt ở Đức. Đảng Quốc xã được coi là lực lượng thực tế có thể đáp ứng được nhu cầu đó và Adolph Hitler được coi là “người hùng” có thể ngăn chặn được “tình trạng hỗn loạn và chủ nghĩa bônsêvích”. Ngày 30-1-1933 Tổng thống P. Hindenburg đã cử Hitler, lãnh tụ của Đảng Quốc xã thay Schleicher làm Thủ tướng, mở đầu một thời kỳ đen tối trong lịch sử nước Đức. Việc Hitler lên cầm quyền không chỉ là một sự kiện thuần tuý của nước Đức, mà còn “đánh dấu một bước ngoặt quyết định trong lịch sử quan hệ quốc tế”. Bởi lẽ, “đối mặt với Hitler, chủ nghĩa “xoa dịu” của Anh, sự trì trệ của Pháp và chủ nghĩa trung lập của Mỹ là những hiện tượng tiêu biểu nhất của thời kỳ tiếp theo” Quốc tế cộng sản đã chỉ ra rằng "chủ nghĩa phát xít - đó là nền chuyên chính khủng bố công khai của những phần tử phản động nhất, sôvanh nhất và đế quốc chủ nghĩa nhất của tư bản tài chính". Quả thật, ngay từ những năm 20, Hitler và Đảng Quốc xã đã công khai bày tỏ tham vọng bá chủ thế giới của mình. Trong tác phẩm "Cuộc chiến đấu của tôi" - tác phẩm lý luận chủ chốt của Đảng Quốc xã mà Hitler là tác giả, đã đề cập đến "Kế hoạch lục địa", theo đó Đức dự định là sẽ chinh phục châu Âu, trong đó chủ yếu là chiếm đoạt các vùng lãnh thổ ở phía đông châu Âu, trước hết là Nga và các vùng phụ cận Nga. Tuy nhiên, Hitler cũng không loại trừ một cuộc chiến tranh với phương Tây để xâm chiếm lãnh thổ phía tây mà trong đó nước Pháp được coi là “kẻ thù truyền thống”. Hitler còn đề ra kế hoạch Âu - Á (Eurasia) và Âu - Phi (Eurafrica) nhằm xâm chiếm lãnh thổ của các nước châu Phi, châu Á và châu Mĩ. Việc làm đầu tiên của Hitler sau khi lên nắm quyền là tái vũ trang nước Đức và thoát khỏi những ràng buộc quốc tế để chuẩn bị cho những hành động xâm lược. Tháng 10 - 1933 Chính phủ Đức quốc xã đã rời bỏ Hội nghị giải trừ quân bị ở Genova và sau đó tuyên bố rút khỏi Hội Quốc liên. Ngày 16 - 3 - 1935, Hitler công khai vi phạm Hoà ước Versailles, công bố đạo luật cưỡng bức tòng quân, thành lập 36 sư đoàn (trong lúc đó Pháp chỉ có 30 sư đoàn). Ba tháng sau, ngày 18 - 6 - 1935 Đức kí với Anh Hiệp định về hải quân, theo đó Đức được phép xây dựng hạm đội tàu nổi bằng 35% và Hạm đội tàu ngầm bằng 45% sức mạnh hải quân của Anh. Hiệp định này trực tiếp vi phạm Hiệp ước Versailles và tăng cường sức mạnh quân sự của nước Đức. Đồng thời, Hitler tìm cách bí mật thủ tiêu các chính khách phương Tây cản trở kế hoạch xâm lược của mình, như Thủ tướng Rumani I. Duca, Ngoại trưởng Pháp L. Barthou, nhà vua Nam Tư Alexandre I và thủ tướng Áo E. Dollfuss. Không dừng lại ở đó, ngày 7 - 3 - 1936 Hitler ra lệnh tái chiếm vùng Rheinanie, công khai xé bỏ Hoà ước Versailles, Hiệp ước Locarno và tiến sát biên giới nước Pháp. Lò lửa chiến tranh nguy hiểm nhất đã xuất hiện ở châu Âu. c) Lò lửa chiến tranh thứ hai ở châu Âu Mặc dù là nước thắng trận nhưng Italia không thoả mãn với việc phân chia thế giới theo Hoà ước Vecxai. Tham vọng của nước này là muốn mở rộng ảnh hưởng ở vùng Ban căng, chiếm đoạt các thuộc địa ở châu Phi, làm chủ vùng biển Địa Trung Hải... Để thoát ra khỏi cuộc đại khủng hoảng kinh tế 1929-1933 và xem xét lại Hệ thống Versailles - Washington có lợi cho mình, giới cầm quyền phát xít ở Italia chủ trương quân sự hoá nền kinh tế, tăng cường chạy đua vũ trang và thực hiện chính sách bành trướng xâm lược ra bên ngoài. Thất bại trong việc ký kết Hiệp ước tay tư (Italia - Anh - Đức - Pháp) nhằm xem xét lại đường biên giới đã qui định ở châu Âu trong khuôn khổ Hệ thống hoà ước Versailles tháng 6 - 1933, từ năm 1934 Mussolini ráo riết chuẩn bị kế hoạch xâm lược, thi hành đạo luật quân sự hoá đất nước. Lúc này quan hệ giữa Italia với Đức còn căng thẳng do mâu thuẫn về quyền lợi ở vùng Ban căng. Khi Đức đưa ra đạo luật cưỡng bách tòng quân (3 - 1935), Italia đã kí kết với Anh, Pháp bản Hiệp ước Stresa ngày 14 - 4 - 1935 nhằm thiết lập liên minh chống Đức. Nhưng liên minh này đã nhanh chóng tan vỡ bằng việc Anh kí với Đức một hiệp ước riêng rẽ về hạn chế lực lượng hải quân (6 - 1935) và sự kiện Italia chính thức xâm lược Êtiôpia ngày 3 - 10 - 1935. Bốn ngày sau sự kiện này, ngày 7 - 10 - 1935 Hội Quốc Liên ra tuyên bố lên án Italia và thông qua nghị quyết trừng phạt bằng những biện pháp kinh tế - tài chính. Tuy nhiên, “lệnh trừng phạt chỉ làm Italia bực mình chứ không thực sự ngăn cản họ tiếp tục các chiến dịch”. Những sự kiện trên đây đã khiến Mussolini rời bỏ liên minh Anh, Pháp, xích lại gần hơn với nước Đức phát xít. Trong khi đó, sự bất lực của Hội Quốc liên cùng với thái độ và hành động thoả hiệp của các nước Anh, Pháp, Mỹ đã khuyến khích hành động xâm lược của phát xít Italia. Sau khi chiếm được Êtiôpia, Italia đã ký với Đức Nghị định thư tháng 10 - 1936, đánh dấu sự hình thành trục Beclin - Rôma. Bắt đầu từ đây, Đức và Italia tìm cách phối hợp và củng cố liên minh trong cuộc đối đầu với Liên Xô cũng như các đối thủ khác ở châu Âu. Cả hai nước đều đưa quân đội can thiệp trực tiếp và công nhận chính quyền phát xít Franco trong cuộc nội chiến ở Tây Ban Nha (1936 - 1939). Hai lò lửa chiến tranh hình thành ở châu Âu bắt đầu có mối liên hệ với lò lửa chiến tranh ở Viễn Đông. Ngày 25 - 11 - 1936, Đức và Nhật đã kí kết Hiệp ước chống Quốc tế cộng sản với những cam kết phối hợp các hoạt động chính trị đối ngoại và các biện pháp cần thiết để chống Liên Xô và Quốc tế cộng sản, đồng thời còn nhằm chống cả Anh, Pháp và Mĩ. Italia tham gia Hiệp ước này ngày 6 - 11 - 1937. Sự kiện đó đánh dấu Trục phát xít Béclin - Rôma - Tôkiô chính thức hình thành. Việc Italia rút ra khỏi Hội Quốc Liên ngày 3 - 12 - 1937 đã hoàn tất quá trình chuẩn bị để các nước khối Trục được tự do hành động, thực hiện kế hoạch gây chiến tranh bành trướng lãnh thổ của mình. |
2. Con đường dẫn tới chiến tranh thế giới thứ hai
Vào
cuối những năm 30 quan hệ quốc tế trở nên vô cùng phức tạp và căng
thẳng. Sự chuyển hoá mâu thuẫn giữa các cường quốc tư bản chủ nghĩa đã
dẫn tới sự hình thành hai khối đế quốc đối địch nhau: một là, khối Trục
phát xít do Đức, Italia, Nhật Bản cầm đầu ; hai là, khối đế quốc do Anh,
Pháp, Mĩ cầm đầu. Trong khi khối Trục phát xít đã ráo riết chuẩn bị cho
kế hoạch chiến tranh từ đầu những năm 30 thì khối đế quốc Anh, Pháp, Mĩ
bắt đầu quá trình này vào những năm cuối của thập niên 30. Hai khối
đế quốc mâu thuẫn gay gắt với nhau về vấn đề thị trường và quyền lợi
nhưng đều thống nhất với nhau trong mục đích chống Liên Xô, tiêu diệt
Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới. Điều đó được thể hiện
trong chính sách thoả hiệp, dung túng của các cường quốc tư bản với chủ
nghĩa phát xít nhằm chống Liên Xô và đè bẹp phong trào cách mạng thế
giới. Như vậy trong quan hệ quốc tế đã diễn ra cuộc đấu tranh ngày càng
căng thẳng và chằng chéo giữa ba lực lượng: Liên Xô, Khối Trục phát
xít và Khối đế quốc Anh, Pháp, Mĩ. Các cuộc chiến tranh cục bộ đã lan
tràn khắp từ Âu sang Á, từ Thượng Hải đến Gibranta. Chiến tranh thế giới
ngày càng trở nên khó tránh khỏi.
a) Cuộc chiến tranh Tây Ban Nha
Cuộc chiến tranh Tây Ban Nha, bùng nổ ngày 17 - 7 - 1936, về hình
thức là cuộc nội chiến giữa Chính phủ cộng hoà Tây Ban Nha với lực lượng
phát xít Phrancô, nhưng về thực chất là một cuộc khủng hoảng mang tính
quốc tế. Vấn đề không chỉ giới hạn trong nội bộ nền chính trị Tây Ban
Nha. Đức và Italia đã trực tiếp can thiệp, đứng về phía phát xít Phrancô
chống lại Chính phủ Cộng hoà với mưu đồ biến Tây Ban Nha thành một bàn
đạp chiến lược cho kế hoạch bành trướng của mình ở châu Âu, châu Phi,
châu á và Đại Tây Dương. Trong bối cảnh đó, các chính phủ Anh, Pháp đã
thi hành chính sách “không can thiệp” tuyên bố cấm xuất khẩu vũ khí và
vật liệu chiến tranh sang Tây Ban Nha. Ngày 9 - 9 - 1936, “Uỷ ban về vấn
đề không can thiệp” được thành lập. Mĩ không chính thức tham gia vào Uỷ
ban này nhưng trên thực tế cũng duy trì lệnh cấm vận vũ khí đối với Tây
Ban Nha. Trong khi không áp dụng một biện pháp cần thiết nào để ngăn
chặn sự can thiệp trực tiếp của Đức và Italia ở Tây Ban Nha, chính sách “không can thiệp” của Anh, Pháp, Mĩ về thực chất là hành động thoả
hiệp với các lực lượng phát xít chống nước Cộng hoà Tây Ban Nha. Hơn
nữa, các công ti độc quyền của Anh, Pháp, Mĩ vẫn tiếp tục có quan hệ
thương mại và tài chính với lực lượng phát xít
Franco. Cuối cùng, các
chính phủ Anh, Pháp đã công khai ủng hộ quân phiến loạn
Franco, lực
lượng đã chiếm ưu thế rõ rệt ở Tây Ban Nha vào năm 1939.
b) Hội nghị Munich (9 - 1938)
Đến năm 1938 nước Đức phát xít về căn bản đã hoàn tất việc chuẩn
bị chiến tranh. Lúc này nước Đức không chỉ phục hồi mà đã trở thành một
cường quốc công nghiệp đứng đầu châu Âu, đồng thời còn là một cường quốc
quân sự. Tháng 3-1938, Đức tiến hành thôn tính áo và thông qua đạo luật
sáp nhập áo vào Đức, vi phạm trắng trợn Hệ thống Hoà ước Versailles. Hành
động ngang ngược của Hitler đã không gặp phải trở ngại nào đáng kể từ
phía các cường quốc tư bản phương Tây. Chính phủ Anh chỉ thị không
được khuyến khích Áo kháng cự, trong khi Pháp chỉ có những phản ứng yếu
ớt.
Sau khi chiếm áo, Đức chuẩn bị thôn tính Tiệp Khắc, một vị trí đặc
biệt quan trọng trong kế hoạch giành quyền thống trị lục địa châu Âu. Để
thôn tính Tiệp Khắc, Hitle đưa ra “vấn đề người Đức ở vùng Sudete" - vùng đất ở Tây Bắc Tiệp Khắc, có khoảng 3,2 triệu người Đức
cư trú. Sau những diễn biến phức tạp và căng thẳng, Hitle đưa ra yêu
sách về việc cắt vùng Xuyđét ra khỏi Tiệp Khắc và khẳng định đây là yêu
sách cuối cùng về lãnh thổ của y ở châu Âu. Tiếp tục chính sách thoả
hiệp, các cường quốc tư bản phương Tây đã gây áp lực thúc ép Tiệp
Khắc chấp nhận những yêu sách của Hitler. Điều này đã gây nên một làn
sóng phản đối trong dư luận quốc tế, kể cả ở anh, Pháp, Tiệp Khắc và
Liên Xô. Liên Xô đã nhiều lần khẳng định sẵn sàng giúp đỡ Tiệp Khắc và
đưa ra những biện pháp cụ thể trong Hội nghị liên tịch giữa Bộ tổng tham
mưu Liên Xô, Pháp và Tiệp Khắc. Đồng thời, Liên Xô đã tập trung quân ở
biên giới phía Tây và đặt quân đội trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu.
Liên Xô cũng đề nghị Hội Quốc Liên thảo luận những biện pháp để bảo
vệ Tiệp Khắc, nhưng tất cả những đề nghị đó đều bị các chính phủ Anh,
Pháp gạt bỏ.
Ngày 29 - 9 - 1938, những người đứng đầu các chính phủ Anh, Pháp, Đức và Italia đã tham dự Hội nghị Munich (Đức) để quyết định số phận của Tiệp Khắc. Đại biểu Tiệp Khắc không được mời tham dự, chỉ được triệu tập đến để nghe kết quả. Hiệp ước Munich qui định Tiệp Khắc phải cắt toàn bộ vùng Sudete (trong vòng 10 ngày) cho Đức và phải cắt cho Ba Lan, Hunggari những vùng lãnh thổ đã được xác định trước đó (trong thời hạn 3 tháng). Trước áp lực của Anh và Pháp, chính phủ Tiệp Khắc chấp nhận Hiệp ước Mu yních, theo đó, Tiệp Khắc mất đi khoảng 1/4 dân số, 1/5 lãnh thổ với nhiều công trình quân sự quan trọng. Để đổi lại, Hítle đã kí với Anh bản Tuyên bố không xâm lược lẫn nhau giữa Đức và Anh. Sau đó, ngày 6 - 12 - 1938, Hiệp định không xâm lược Pháp - Đức cũng được kí kết tại Pari. Hiệp ước Muyních là đỉnh cao nhất của chính sách thoả hiệp mà các cường quốc tư bản phương Tây thi hành trong nhiều năm nhằm tránh một cuộc chiến tranh với nước Đức phát xít và chĩa mũi nhọn chiến tranh về phía Liên Xô. “C hính sách Muyních” đã dẫn đến những hậu quả rất nặng nề đối với chính bản thân hai nước Anh và Pháp. Sự thoả hiệp đầu hàng của các nước này chỉ càng làm cho nước Đức phát xít đi xa hơn nữa trong chính sách mở rộng chiến tranh. Ngày 15 - 3 - 1939, Hítle công khai xé bỏ Hiệp ước Muyních chiếm đóng toàn bộ lãnh thổ Tiệp Khắc. Sau đó một tuần, ngày 21 - 3 Hítle đưa ra yêu sách đòi Ba Lan phải trao thành phố cảng Đăng dích cho Đức. Một ngày sau quân đội Đức tràn vào chiếm vùng lãnh thổ Mêmen của Litva. Đồ ng thời, kế hoạch xâm lược Ba Lan cũng được chuẩn bị ráo riết. 3. Quan hệ quốc tế của Liên Xô trong thập niên 30
Ngày 1 - 9 - 1939 phát xít Đức bất ngờ tấn công Ba Lan với một lực lượng quân sự hùng hậu, được chuẩn bị kỹ càng: 70 sư đoàn gồm khoảng 1,5 triệu quân (trong đó có 7 sư đoàn xe tăng, 6 sư đoàn cơ giới), trên 3000 máy bay chiến đấu. Ngày 3 - 9, chính phủ Anh, Pháp tuyên chiến với Đức. Chiến tranh thế giới bùng nổ. Với ưu thế tuyệt đối về quân sự và trang bị, quân Đức thực hiện chiến lược “chiến tranh chớp nhoáng”, dùng xe tăng, máy bay oanh tạc, phá vỡ phòng tuyến và tiến sâu vào lãnh thổ Ba Lan với tốc độ 50 - 60km một ngày. Chính phủ Ba Lan không cứu vãn được tình thế, phải lưu vong sang Anh, trong lúc quân dân Ba Lan chiến đấu ngoan cường chống trả quân Đức. Ngày 28 - 9, sau gần một tháng tấn công, quân Đức chiếm được Ba Lan. Trên thực tế, Ba Lan đã đơn độc chiến đấu chống trả quân Đức, không nhận được sự hỗ trợ từ bên ngoài. Với tư cách là đồng minh của Ba Lan, hai nước Anh, Pháp lúc bấy giờ có tới 110 sư đoàn dàn trận ở phía Bắc nước Pháp, dọc theo biên giới Đức. Nhưng quân Anh, Pháp không tấn công Đức và cũng không có bất kỳ một hành động quân sự nào hỗ trợ cho Ba Lan. Tình trạng đó kéo dài suốt 8 tháng (từ tháng 9 - 1939 đến tháng 4 - 1940) và được dư luận gọi là “cuộc chiến tranh kỳ quặc”. Sở dĩ có hiện tượng này là do giới cầm quyền Anh, Pháp vẫn nuôi ảo tưởng về một sự thoả hiệp với Hitler, tiếp tục chính sách Munich với hy vọng quân Đức sẽ chĩa mũi nhọn chiến tranh về phía Liên Xô. Đồng thời hiện tượng này còn được lí giải bằng việc Bộ tổng tư lệnh liên quân, đứng đầu là tướng Pháp Gamelin đã quyết định áp dụng chiến lược phòng ngự, dựa vào phòng tuyến Maginô kiên cố để đánh trả quân Đức. Lợi dụng tình hình đó, sau khi chiếm được Ba Lan và tăng gấp đôi lực lượng quân sự, phát xít Đức tập trung quân ở phía Tây để tấn công NaUy. Ngày 9 - 4 - 1940, quân Đức tràn vào Đan Mạch. Đan Mạch đầu hàng, không kháng cự. Cùng ngày, quân Đức đổ bộ vào Na Uy. Na Uy được quân viễn chinh Anh, Pháp hỗ trợ, đã chiến đấu trong hai tháng mới chịu khuất phục. Không cần chờ đợi chiến dịch Na Uy kết thúc, ngày 10 - 5 - 1940 quân Đức tràn vào Bỉ, Hà Lan, Lúcxembua và Pháp. Mặt trận phía Tây chính thức bắt đầu. Với chiến lược “chiến tranh chớp nhoáng”, quân Đức tập trung đánh vào cánh trái của liên quân Anh, Pháp (phòng tuyến Maginot ở cánh phải). Quân Đức tràn vào Hà Lan và Bỉ. Ngày 15 - 5, quân đội Hà Lan đầu hàng, chính phủ Hà Lan bỏ chạy sang Luân Đôn. Ngày 27 - 5, Bỉ đầu hàng vô điều kiện. Tàn quân Anh, Pháp gồm 34 vạn người bị dồn đuổi đến cảng Dunkerque ở Bắc Pháp, phải xuống tầu, tháo chạy về Anh. Mặt trận Pháp bị đập tan, quân Đức tiến về Pari như vũ bão. Chính phủ Pháp bỏ Pari, chạy về Bordeaux và đưa Thống chế Petain lên cầm quyền để xin đình chiến với Đức. Nước Pháp đã đầu hàng sau 6 tuần chiến đấu. Theo Hiệp định đình chiến ký ngày 22 - 6 - 1940, quân Đức chiếm đóng 2/3 lãnh thổ Pháp, trong đó có Pari và các trung tâm công nghiệp (nơi sản xuất 98% sản lượng gang và thép của Pháp), vùng Alsace và Lorrrain bị sáp nhập vào Đức, nước Pháp bị tước vũ trang và phải nuôi quân đội chiếm đóng. Chính phủ bù nhìn Pháp do Petain làm Quốc trưởng đóng tại thị trấn Visi, vùng không chiếm đóng ở phía Nam nước Pháp. 2. Phe Trục củng cố liên minh và xâm lược các nước Đông Nam Âu, Đông Á và Bắc Phi (9/1940 - 6/1941)
1. Phát xít Đức tấn công Liên Xô
2. Chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ
|
Cho mình hỏi, Chương I có
Trả lờiXóaI - HỆ THỐNG HIỆP ƯỚC VERSAILLES - WASHINGTON
rồi "nhảy" sang
III. Sự sụp đổ của trật tự Versailles - Washington và con đường dẫn tới chiến tranh thế giới thứ hai
Vậy phần II ở đâu ạ?
Cám ơn đã đăng bài viết rất hữu ích
Nhận xét này đã bị tác giả xóa.
Trả lờiXóachào bạn, cảm ơn phần đóng góp của bạn nhưng bài này mình đang sửa chữa, có gì mình sửa xong sẽ đăng lên sau. Thân chào
Trả lờiXóa