CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LỊCH SỬ
Dạy học là một quá trình lao động, có
những đặc điểm khác với bất kì quá trình lao động nào. Việc tổ chức có khoa học
quy trình khoa học công nghệ dạy học và giáo dục là yếu tố cơ bản nhất của lao
động sư phạm. Việc dạy học ở trường phổ thông trải qua những khâu của quá trình
lao động giáo dục. Vì vậy khi dạy học một bài, cả khóa trình một môn học, giáo
viên đều phải nắm được quy trình công nghệ của lao động giáo dục, tức là phải
nắm được phương pháp và nghệ thuật sư phạm.
Một bài giảng tốt là bài giảng mà
trong đó người thầy sử dụng được những phương pháp dạy học một cách linh hoạt
vừa phù hợp với nội dung bài học, đảm bảo những kiến thức cơ bản cần truyền đạt
đến học sinh. Đồng thời, các phương pháp mà giáo viên sử dụng phải phù hợp với
trình độ nhận thức và đặc điểm tâm sinh lý của học sinh, sao cho việc truyền
đạt những tri thức lịch sử đến học sinh một cách có hiệu quả không chỉ là những
kiến thức vào khối óc học sinh mà cả vào trái tim các em. Điều này đã được các
nhà giáo dục lịch sử khẳng định “không phải ai biết lịch sử thì có thể giảng
dạy được lịch sử, cũng như không phải cứ biết nhạc là có thể dạy hát”. Qua đó,
cho thấy việc vận dụng những phương pháp dạy học vào một bài giảng lịch sử là
một nghệ thuật.
Chúng ta đã nhận thức vai trò, ý
nghĩa của phương pháp dạy học đối với việc nâng cao chất lượng giáo dục bộ môn.
Trong thực tế, việc đổi mới nội dung dạy học, việc trang bị các phương tiên dạy
học, về cơ bản đã được các cơ quan chức năng của Bộ Giáo dục và Đào tạo, các
nhà khoa học chuyên ngành và giáo dục học tìm hiểu, hướng dẫn thực hiện. Song,
phương pháp dạy học được tiến hành cụ thể trong quá trình giáo dục ở trường phổ
thông lại phụ thuộc rất nhiều vào trình độ, khả năng của giáo viên và những
điều kiện cụ thể của nhà trường và xã hội.
Tôi xin vận dụng các phương pháp đó vào một
bài giảng cụ thể ở chương trình bộ môn lịch sử ở trường phổ thông: Bài 20: Cuộc
kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết thúc 1953 – 1954, chương trình
lớp 12 – Ban cơ bản.
PHẦN NỘI DUNG
1. VẬN DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THPT
1.1. Hệ thống các phương pháp dạy học
lịch sử ở trường THPT
Xuất
phát từ những thành tựu của lý luận dạy học, đặc trưng của môn học và những căn
cứ trong nhận thức lịch sử nêu trên, chúng ta có thể xác định các phương pháp
dạy học lịch sử như sau:
Nhóm
phương pháp thông tin – tái hiện hình ảnh lịch sử là các phương pháp trình bày
tài liệu mới, cung cấp nguồn sử liệu, giúp học sinh khôi phục lại bức tranh
lịch sử đã qua. Sử dụng phương pháp này giáo viên trình bày các sự kiện một
cách chính xác được qui định trong chương trình và sách giáo khoa nhằm giúp học
sinh ghi nhớ sự kiện, quá trình lịch sử..... Học sinh nhận thức quá khứ xã hội
loài người và dân tộc bắt đầu từ việc nắm vũng sự kiện lịch sử. Chức năng chủ
yếu của nhóm các phương pháp thông tin – tái hiện lịch sử là cung cấp cho học
sinh những kiến thức cấn thiết, trên cơ sở đó tạo biểu tượng lịch sử, tức là
khôi phục lại hình ảnh của quá khứ như nó từng tồn tại. Nhóm các phương pháp
thông tin – tái hiện gồm các phương pháp sau: phương pháp tường thuật, phương
pháp miêu tả, phương pháp nêu đặc điểm của sự kiện, phương pháp giải thích sự
kiện, phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan.
Nhóm phương pháp phát triển năng lực
nhận thức gồm các phương pháp giúp học sinh đi sâu tìm hiểu những mối liên hệ
bản chất của hiện thực quá khứ khách quan về xã hội loài người, đưa nhận thức
của các em từ biết đến hiểu sâu sắc lịch sử trên cơ sở nắm vũng các sự kiện,
hiệ tượng, quá trình lịch sử một cách cụ thể, sinh động. Chức năng cơ bản của
nhóm các phương pháp nhận thức lịch sử nhằm giúp học sinh đi sâu vào bản chất
sự kiện lịch sử, hình thành khái niệm, nêu quy luật lịch sử, rút ra bài học
kinh nghiệm cho cuộc sống hiện tại. Trong dạy học lịch sử ở trường THPT, nhóm
phương pháp này có một vị trí vai trò quan trọng trong hệ thống các phương pháp
dạy học, được sử dụng trong tất cả các khâu của hoạt động học tập của học sinh,
đặc biệt là trong việc hình thành tri thức lịch sử cho học sinh. Nhóm phương
pháp nhận thức lịch sử bao gồm các phương pháp sau: phương pháp sử dụng sách
giáo khoa, phương pháp sử dụng tài liệu tham khảo (tài liệu lịch sử, tài liệu
văn học...), phương pháp sử dụng tài liệu trên mạng internet, phương pháp sử
dụng hệ thống câu hỏi trong dạy học lịch sử ở trường THPT, phương pháp trao
đổi, đàm thoại trong dạy học lịch sử.
Nhóm
phương pháp tìm tòi nghiên cứu nhằm nâng cao trình độ của học sinh trong việc
biến kiến thức lịch sử đã học thành kiến thức của mình, chủ động sử dụng những
tri thức có hiệu quả trong học tập và đời sống. Các phương pháp tìm tòi nghiên
cứu được tiến hành thông qua các hình thức từ thấp đến cao của những công việc
học tập, như sử dụng sách giáo khoa và tài liệu tham khảo để trả lời các câu
hỏi, hoàn thành các bài tập, thực hành, rèn luyện việc tìm tòi tùng phần và
bước đầu tập dợt nghiên cứu khoa học một số vấn đề lịch sử, phù hợp với trình
độ và yêu cầu học tập của học sinh.... Nhóm phương pháp tìm tòi – nghiên cứu
gồm các phương pháp sau: Dạy học liên môn, dạy học nêu vấn đề, thâm nhập thực
tế xã hội, tổ chức việc tự học cho học sinh.....
1.2. Mối quan hệ giữa các phương pháp
trong dạy học lịch sử ở trường THPT
Các
phương pháp dạy học lịch sử ở trường THPT kết hợp thành một hệ thống hoàn
chỉnh, hỗ trợ cho nhau. Trong quá trình dạy học, không thể sử dụng một phương
pháp đơn nhất, song ở mỗi khâu của quá trình dạy học lại có một phương pháp
trọng tâm kết hợp với các phương pháp khác. Ví dụ, khi trình bày bài mới,
phương pháp thông tin tái hiện lịch sử cần giữ vai trò chủ yếu và kết hợp
phương pháp nhận thức lịch sử, đồng thời tiến hành việc tiến hành nghiên cứu.
Mặt khác, mỗi một nhóm phương pháp là tổng hợp
của nhiều phương pháp khác nhau nhằm thực hiện chức năng của nó. Ví dụ, khi
tiến hành việc thông tin tái hiện lịch sử phải dùng lời nói để trình bày sự
kiện, kết hợp sử dụng sách giáo khoa, tài liệu tham khảo, các phương tiện dạy
học để tạo biểu tượng cho học sinh.
Việc phân loại hệ thống phương pháp
dạy học lịch sử dựa vào quy luật của sự nhận thức, lý luận dạy học và đặc điểm
của bộ môn. Theo đó, việc nhận thức quá khứ lịch sử phải bắt đầu từ việc nắm
vững các sự kiện cơ bản. Do đó, phương pháp thông tin – tái hiện lịch sử cung
cấp cho học sinh những kiến thức cần thiết để khôi phục lại bức tranh lịch sử,
bằng việc tạo nên các biểu tượng cụ thể, có hình ảnh. Có thể xem phương pháp
thông tin – tái hiện là phương pháp khởi đầu cho việc học tập lịch sử của học
sinh. Trên cơ sở các kiến thức ấy khôi phục lại bức tranh quá khứ đúng như nó
tồn tại, nhưng nó mới là biết sử, làm cơ sở cho việc hiểu lịch sử. Do vậy, tiếp
sau phương pháp thông tin – tái hiện là phương pháp nhận thức lịch sử. Phương
pháp này giúp học sinh đi sâu vào bản chất sự kiện, nhân vật lịch sử, rút ra
bài học kinh nghiệm lịch sử cho cuộc sống hiện tại, nó không chỉ dừng lại ở
việc nhớ sự kiện mà phải phân tích đánh giá, nêu ra các kết luận khái quát.
Việc sử dụng, kết hợp chặt chẽ phương
pháp thông tin – tái hiện lịch sử và nhận thức lịch sử đòi hỏi phải sử dụng
phương pháp tìm tòi – nghiên cứu trong dạy học lịch sử. Bản thân việc học tập
lịch sử của học sinh trường phổ thông cũng mang tính chất “phát hiện”, khám phá
của việc nhận thức lịch sử. Dĩ nhiên, tính chất và mức độ của việc nghiên cứu
sử học và học tập lịch sử cũng khác nhau. Cái mới đối với học sinh là cần tìm
tòi, nghiên cứu trong học tập lịch sử chứ không phải chủ yếu là phát hiện điều
chưa ai biết như trong nghiên cứu sử học. Ở đây học sinh phải nắm được những
kiến thức cơ bản, chính xác, đã được khoa học lịch sử xác định, mà các em chưa
biết và cần phải hiểu rõ theo trình độ và yêu cầu học tập của mình. Phương pháp
tìm tòi – nghiên cứu được tiến hành trong mọi hoạt động nhận thức lịch sử của
học sinh. Nó đan xen, hỗ trợ vào các phương pháp thông tin – tái hiện và nhận
thức lịch sử.
Điều này càng khẳng định tính hệ
thống của phương pháp dạy học lịch sử, mối quan hệ chặt chẽ giữa chúng và việc
sử dụng có kết quả các phương pháp này với những biện pháp sư phạm, tương ứng
với mỗi loại phương pháp và cả hệ thống phương pháp dạy học lịch sử ở trường
THPT.
2. PHÂN TÍCH MỐI QUAN
HỆ CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LỊCH SỬ ĐỂ DẠY HỌC BÀI 20: CUỘC KHÁNG CHIẾN TOÀN
QUỐC CHỐNG THỰC DÂN PHÁP KẾT THÚC (1953 -1954).
Bài 20
trong chương trình Lịch sử lớp 12 gồm 2 tiết – đây là bài học nói về sự kết
thúc cuộc chiến 9 năm của thực dân Pháp ở Việt Nam nói riêng và Đông Dương nói
chung. Vì nội dung của bài học quá nhiều nên trong bài này tôi xin phân tích
mối quan hệ giữa các phương pháp dạy học Lịch sử trong mục I: Âm mưu mới của
Pháp – Mĩ ở Đông Dương: Kế hoạch Nava và mục II – 2: Chiến dịch la Điện Biên
Phủ.
Mục I: Âm mưu của Pháp – Mĩ ở Đông Dương:
Kế hoạch Nava.
1.
Kiến thức cơ bản:
- Trải qua 8
năm kháng chiến và kiến quốc, lực lượng kháng chiến của ta lớn mạnh đáng kể.
- Sau 8 năm
tiến hành chiến tranh xâm lược ở Việt Nam , Pháp thiệt hại ngày càng to
lớn: bị loại khỏi vòng chiến đấu 39 vạn quân, ngày càng lâm vào thế bị động
trên chiến trường....
- Mĩ ngày càng can thiệp sâu vào cuộc chiến
tranh ở Đông Dương, Pháp của tướng Nava sang làm tổng chỉ huy quân đội Pháp ở
Đông Dương. Nava đề ra kế hoạch quân sự mới.
- Kế hoạch
Nava được chia thành hai bước:
+ Bước thứ nhất, trong thu – đông
1953 và xuân 1954, giữ thế phòng ngự chiến lược ở Bắc Bộ, tiến công chiến lược
để bình định Trung bộ và Nam Đông Dương, xây dựng đội quân cơ động chiến lược
mạnh.
+ Bước thứ hai, từ thu – đông 1954,
chuyển lực lượng ra chiến trường Bắc Bộ, thực hiện tiến công chiến lược, cố
gắng giành thắng lợi quân sự quyết định, buộc ta phải đàm phán với những điền
kiện có lợi cho chúng.
2.
Phân tích mối quan hệ giữa các phương pháp dạy học khi giảng mục này:
Trên cơ sở nội dung kiến thức cơ bản,
để truyền đạt đến học sinh những kiến thức đó, giáo viên phải lựa chọn những
biện pháp sư phạm cụ thể để góp phần nâng hiệu quả bài học và phát huy được
tính tích cực của học sinh.
Ví dụ, khi giảng về nội
dung kế hoạch Nava, giáo viên không thể bỏ qua nhân vật lịch sử này. Có rất
nhiều cách để giảng về nhân vật này nhưng cách tốt nhất là sử dụng tranh ảnh
kết hợp với tài liệu thành văn để tạo biểu tượng lịch sử cho học sinh. Tranh,
ảnh lịch sử là loại đồ dùng dạy học có giá trị trực quan cao trong DHLS. Bởi vì, đối với học sinh, việc quan sát hình ảnh cụ thể sẽ
mang lại nhận thức chính xác, sinh động về sự kiện, nhân vật; trên cơ sở đó tạo
cho các em những cảm xúc lịch sử mạnh mẽ, sâu sắc. Đó chính là con đường có
hiệu quả để tạo biểu tượng, hình thành khái niệm, nêu quy luật và rút bài học
lịch sử. Đồng thời, tài liệu thành văn và tranh ảnh được sử dụng để cụ thể hóa
các sự kiện nhân vật lịch sử nhằm tạo cho các em các biểu tượng rõ ràng, cụ
thể, có hình ảnh.
Dựa trên cơ sở lý luận
trên, giáo viên có thể sử dụng đoạn tư liệu thành văn sau: “Nava sinh năm 1898, tướng bốn sao – nguyên tham mưu trưởng lục quân
Pháp trong khối hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO), là một sĩ quan trẻ, có tài
vượt cấp nhanh. Ông ta được ca ngợi là một vị tướng “văn võ kiện toàn”, “có
nhãn quan chiến lược”, đầy tự tin và nghị lực, có khả năng chịu đựng những đòn
dữ dội và bất ngờ, có những đức tính riêng biệt của người chỉ huy chính trị,
không hề tha thứ cho bất cứ một trở lực nào để thực hiện ý định của mình”. [2]
Kết hợp với đoạn tư liệu
trên, giáo viên sử dụng bức ảnh của Tướng Nava sẽ hình thành trong đầu học sinh
biểu tượng về nhân vật Nava. Ông là một vị tướng rất tài giỏi, văn võ song toàn
nhưng cũng là một con người rất nham hiểm mà cả Pháp và Mĩ đưa đến chiến trường
Đông Dương nhằm tạo ra một chuyển biến quân sự có lợi cho chúng trên bàn ngoại
giao.
Hay khi nói về mục đích
của Pháp – Mĩ khi thực hiện Nava, giáo viên có thể sử dụng đồ dùng trực quan
qui uớc kết hợp với câu hỏi nhận thức nhằm phát huy tính cực của học sinh.
Bởi vì, dạy học nêu vấn
đề là xu hướng tất yếu nhằm đề cao vai trò tích cực của học sinh trong quá
trình học tập dưới sự hướng dẫn của giáo viên thông qua hệ thống câu hỏi gợi mở
để học sinh lĩnh hội kiến thức thông qua các thao tác tư duy độc lập như: phân
tích, tổng hợp, so sánh,...
Trước khi nói về nội dung
kế hoạch Nava giáo viên có thể đưa ra câu hỏi nhận thức như sau: Vì sao kế
hoạch Nava ngay từ khi ra đời đã chứa đựng những mâu thuẩn và lúng túng? Để trả
lời câu hỏi này, giáo viên phải đưa ra những câu hỏi gợi mở nhắc lại những kiến
thức cũ phần lịch sử thế giới như: Phạm vi ảnh hưởng của các nước phương Tây ở
khu vực Đông Nam Á được qui định như thế nào trong Hội nghị Ianta? Tình hình
nước Pháp lúc này như thế nào? Tình hình của Mĩ ra sao ở khu vực Đông Bắc Á?.
Khi học sinh trả lời được những nội dung kiến thức trên thì các em có thể tiếp
cận được mục đích của Pháp – Mĩ khi tiến hành kế hoạch Nava. Sau đó, giáo viên
cung cấp sơ đồ về mục đích của Pháp – Mĩ đề ra kế hoạch Nava:
Như vậy, việc sử dụng sơ đồ trực quan
qui ước kết hợp với câu hỏi nhận thức có vai trò quan trọng trong việc khắc sâu
kiến thức cho học sinh, đồng thời buộc học sinh phải suy nghĩ và liên kết kiến
thức giữa lịch sử thế giới và tình hình Pháp ở chiến trường Việt Nam để trả lời
được câu hỏi nhận thức trên.
Sau khi có biểu tượng về nhân vật
Nava và nhận thức được mục đích của Pháp – Mĩ khi đề ra kế hoạch Nava, giáo
viên chỉ cần sử dụng sơ đồ về nội dung kế hoạch này học sinh sẽ hiểu rõ về nội
dung mục I.
Mục II – 2: Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ (1954)
1. Kiến thức cơ bản
- Diễn biến: chiến dịch Điện Biên Phủ
được chia làm 3 đợt:
+ Đợt 1, từ ngày 13 – 3 đến17 – 3 –
1954; quân ta tiến công tiêu diệt cứ điểm Him Lam và toàn bộ phân khu Bắc.
+ Đợt 2, từ ngày 30 – 3 đến 26 – 4 –
1954; quân ta đồng loạt tiến công các cứ điểm phía Đông khu Trung tâm như E1,
D1, C1, A1, .... bao vây, chia cắt địch.
+ Đợt 3, từ ngày 1 – 5 đến ngày 7 – 5
– 1954; quân ta đồng loạt tiến công khu Trung tâm và phân khu Nam, chiều ngày 7
– 5 tướng Đờ Caxtơri cùng toàn bộ ban tham mưu của địch đầu hàng và bị bắt
sống.
- Kết quả:
Ta loại khỏi vòng chiến đấu 16.200
tên địch, trong đó có thiếu tướng, bắn rơi và phá hủy 62 máy bay các loại, thu
toàn bộ vũ khí, phương tiện chiến tranh.
-Ý
nghĩa: đập tan hoàn toàn kế hoạch Nava, giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược
của thực dân Pháp, làm xoay chuyển cục diện chiến tranh ở Đông Dương, tạo điều
kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh ngoại giao của ta giành thắng lợi.
2.
Phân tích mối quan hệ giữa các phương pháp dạy học khi giảng mực này:
Đây
được xem là phân nội dung cơ bản của bài 20, vì với thắng lợi của chiến dịch
lịch Điện Biên Phủ, Pháp buộc phải kí hiệp định Giơ – ne – vơ công nhận độc
lập, chủ quyền và nước ta có được một nửa nước được độc lập.
Do đó,
khi giảng mục II – 2: chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, giáo viên phải kết hợp
nhiều phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh,
đồng thời tạo ra được không khí sôi động trong lớp học vì đây là một mục nói về
chiến thắng quân sự, nên việc sử dụng các phương pháp về trình bày miệng và đồ
dùng trực quan qui ước (lược đồ chiến dịch Điên Biên Phủ) đóng vai trò chủ đạo.
Ví dụ
như khi nói về vị trí địa lí của Điện Biên Phủ, giáo viên có thể kết hợp đoạn
tài liệu thành văn miêu tả vị trí địa lí của Điên Biên Phủ “Điện Biên Phủ thuộc tỉnh Lai Châu, một thung
lũng rộng lớn nằm ở phía tây, cách Hà Nội khoảng 300 km đường chim bay, cách
Luông Pha Băng 190 km. Thung lũng Điện Biên (cánh đồng Mường Thanh) có chiều
rộng từ 6 – 8 km, chiều dài gần 20 km, nằm gần biên giới Việt – Lào, một ngã ba
của nhiều tuyến đường quan trọng. Xung quanh thung lũng là một vùng rrừng núi
trùng điệp bao bọc. Núi có độ cao trung bình 500m, có mỏm đột xuất cao 1.461 m.
Thung lũng Điện Biên là cánh đồng phẳng, đồng ruộng khô ráo, thỉnh thoảng nổi
lên những đồi cao hơn mặt ruộng 8 – 20 m, cá biệt có điểm cao tới 250m. Thung
lũng có sông Nậm Rốn chảy theo hướng Bắc Nam đổ xuống sông Nậm Hu và có sân bay
Mường Thanh được xây dựng từ năm 1899”[1, tr. 19] và sử dụng lược đồ chiến
dịch Điên Biên Phủ để tạo cho học sinh về biểu tượng địa điểm diễn ra sự kiện
lịch sử. Bởi vì, việc sử dụng tài liệu thành văn kết hợp đồ dùng trực quan qui
ước có tác dụng rất lớn trong việc tạo biểu tượng lịch sử cho học sinh, thông
qua lời giảng của giáo viên cùng với đồ dùng trực quan học sinh quan sát thì
khả năng khắc sâu kiến thức sẽ bền vững hơn.
Hay khi
giảng về diễn biến của chiến dịch Điện Biên Phủ, giáo viên phải sử dụng kết hợp
đồ dùng trực quan qui ước (lược đồ chiến dịch Điên Biên Phủ) với phương pháp
trình bày miệng. Muốn sử dụng đồ dùng trực quan qui ước đạt hiệu quả phát huy
tính tích cực và sáng tạo của học sinh, giáo viên phải kết hợp với phương pháp
trình bày miệng (ở mục này là phương pháp tường thuật về diễn biến chiến dịch
Điện Biên Phủ)… Lời nói sinh động, có hình tượng làm cho học sinh thu nhận hình
ảnh qua đồ dùng trực quan được sinh động, cụ thể hơn, hiểu khái niệm sâu sắc.
Nhờ sự phối hợp đồng bộ phương pháp dùng lời của giáo viên với sử dụng đồ dùng
trực quan qui ước mà giáo viên huy động tối đa khả năng làm việc của học sinh
như óc phân tích, so sánh, tổng hợp…Cụ thể khi dạy mục II -2: chiến dịch lịch
sử Điện Biên Phủ khi giảng bài 20: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân
Pháp kết thúc (1953 -1954), ngoài việc chuẩn bị sẵn đấy đủ nội dung lược đồ,
hướng dẫn học sinh “đọc” lược đồ, giáo viên nên chuẩn bị một số tài liệu tham
khảo có liên quan chặt chẽ với nội dung lược đồ để có thể tường thuật, miêu tả
diễn biến chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ:
“Đợt 1 (từ 13 đến 17/3): sau khi tiêu diệt
hai cụm cứ điểm Him Lam, Độc Lập, bức hang rào cụm cứ điểm Bản Kéo…
Đúng 18h30, bộ đội ta bắt đầu mở cửa trung đoàn 141 sử dụng
tiểu liên, đoàn 11 làm nhiệm vụ chủ công tiến công trên hướng Bắc tiêu diệt cứ
điểm 132. Tiểu đoàn 428 làm nhiệm vụ trợ công, tiến công trên hướng Đông Bắc
tiêu diệt cụm cứ điểm 101A…
Cuộc chiến đấu diễn ra hết sức ác liệt, nhất là trên hướng
chủ yếu khi tiến công cứ điểm 102. Đây chính là cụm cứ điểm rắn chắc nhất của
trung tâm Him Lam, đại đoàn phải tung lực lượng dự bị vào tham gia chiến đấu,
đồng thời muốn có một mũi tên của tiểu đoàn 128 đánh từ 101A sang phối hợp mới
đánh chiếm được cứ điểm cuối cùng này. Khoảng 23h30 phút trân đánh kết thúc,
trung tâm đề kháng Him Lam hoàn toàn bị tiêu diệt, hơn 200 tên địch chết, 270
bị bắt sống, tiểu đoàn Lê Dương số 3 bị loại khỏi còng chiến đấu.
Mất Him Lam, Bộ chỉ huy Pháp bàng hoàng và liên tục thúc
giục Đờ cát tung quân ra phản kích chiếm lại. Nhưng trong suốt 14 ngày, Đờ cát
không có cơ hội làm điều đó…
Đúng 13h30 phút, đồng chí chỉ huy Trương hạ lệnh tấn công
đồi Độc Lập. Một mũi thọc sâu đã tạo điều kiện cho trung đoàn nhanh chóng đánh
sâu vào cứ điểm, diệt khu thông tin, uy hiếp sở chỉ huy. Trên hướng thứ yếu,
trung đoàn 88 lúc đầu mở cửa chưa định hướng, phải định hướng lại, do đó vào
chiến đấu bên trong chậm hơn… 6h30 phút ngày 15, ta làm chủ trung tâm đề kháng
đồi Độc Lập, tiêu diệt 438 tên, bắt sống 200 tên…
Đợt 2 (từ 30/3 đến 30/4/1954): đánh chiếm các ngọn đồi phía Đông và sân
bay Mường Thanh, xiết chặt vòng vây tạo thế trận cho tổng công kích.
Nhiệm vụ chủ yếu nhất của chúng ta trong đợt 2 chiến dịch là đánh chiếm
khu vực then chốt trên các cứ điểm cao phía Động, mở cửa thọc sâu vào tập đoàn
cứ điểm.
… Đợt 2 chiến dịch kéo dài gần một tháng. Các đơn vị của ta đều bị thương
vong khá lớn. Thời tiết lúc này vào mùa mưa, bộ đội ta sống dưới chiến hào gặp
nhiều khó khăn.
Đợt 3 (từ 1/5 đến 7/5/1954): đánh những cao điểm cuối cùng ở phía Đông,
tiến hành tổng công kích tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ.
Ngày 1/5/1954, cuộc tiến công thứ ba bắt đầu. Ngay từ trưa, pháo cỡ lớn
của ta bắt đầu bắn mãnh liệt vào khu vực trận địa của địch. Trong đợt tấn công
này, hỏa tiễn 122 của ta lần đầu tiên xuất hiện làm cho binh lính địch càng
thêm hoảng sợ. Cụm pháo địch ở Hồng Cúm bị tiêu diệt hoàn toàn, một kho pháo
với trên 3000 viên đạn bị nổ tung, một kho lương thực, thực phẩm bốc cháy. Sau
đợt pháo kích kéo dài, bộ đội ta đồng loạt tổ chức tiến đánh nhiều vị trí.
Sau 55 ngày đêm chiến đấu liên tục, các lực lượng vũ trang nhân dân ta đã
tiêu diệt toàn bộ cứ điểm”.
Với biện pháp sử dụng phối hợp giữa đồ dừng
trực quan qui ước (lược đồ) kết hợp với tường thuật sẽ giúp học sinh hiểu bài
kĩ hơn và hứng thú hơn khi tiếp thu bài mới, hiểu rõ hơn diễn biến, kết quả của
chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ.
Ngoài những biện pháp sử dụng phối
hợp giữa các phương pháp trên trong mục này, giáo viên có thể sử dụng những
đoạn tư liệu thành văn như đoạn thơ của Tố Hữu đề tạo biểu tượng về hình ảnh
của các chiến sĩ Điện Biên dũng cảm, gian khổ như thế nào, những biểu tượng
lịch sử về chủ nghĩa anh hùng cách mạng như: Phan Đình Giót, Tô Vĩnh Diện… đặc
biệt là hình ảnh vị Tổng tư lệnh chiến dịch Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Tóm lại, các yếu tố trong quá trình
dạy học: Mục tiêu, Nội dung, Phương pháp, Kiểm tra - đánh giá có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau. Mục tiêu định hướng cho việc lựa chọn phương pháp và tổ chức
dạy học, phù hợp với nội dung được xác định và chuẩn bị cho việc kiểm tra, đánh
giá được tốt. Đồng thời phương pháp và tổ chức dạy học cũng không ngừng phát
triển theo trình độ của con người, xã hội. Chúng ta đang sống trong thời đại
của hai cuộc cách mạng: cách mạng khoa học – kỹ thuật và cách mạng xã hội.
Những cuộc cách mạng này đang phát triển như vũ bão với nhịp độ nhanh chưa từng
có trong lịch sử loài người, thúc đẩy tất cả các lĩnh vực và đang mở ra nhiều
triển vọng lớn lao. Đòi hỏi người giáo viên có phương pháp dạy thích hợp để giúp
học sinh tiếp thu được bài học trên lớp một cách tốt nhất và có khả năng tự học
ở nhà. Mỗi phương pháp dạy học có những ưu thế riêng. Vì vậy, trong dạy học giáo
viên không được tuyệt đối hoá hoặc tầm thường hoá bất cứ phương pháp nào, mà phải
kết hợp nhiều phương pháp với nhau để chúng hỗ trợ cho nhau. Song ở mỗi nội dung lại có một phương pháp
trọng tâm kết hợp với các phương pháp khác. Dạy
học vừa là khoa học vừa là nghệ thuật, người giáo viên không chỉ
giỏi về chuyên môn mà còn phải tinh thông về nghề nghiệp. Chính vì vậy, nó
đòi hỏi mỗi người giáo viên không chỉ luôn luôn học tập để nâng cao trình độ
chuyên môn, bồi dưỡng các kỹ năng, kỹ xảo mà còn bồi dưỡng cho mình những kiến
thức về lý luận dạy học bộ môn, đặc biệt là lý luận về hệ thống phương pháp dạy
học để đáp ứng với yêu cầu của công cuộc đổi mới dạy học hiện nay.