Thứ Tư, 21 tháng 12, 2011

130 năm thăng trầm chữ Việt

130 năm thăng trầm chữ Việt


Ngày 1-1-1882, cách nay gần 130 năm, là ngày chính quyền thực dân Pháp đã buộc người Việt ở Nam kỳ “phải dùng chữ quốc ngữ”. Nội dung quan trọng này nằm trong nghị định ra ngày 6-4-1878 “về việc dùng tiếng An Nam bằng mẫu tự Latin” do thống đốc Nam kỳ Lafont ký.


Kỳ 1: Hai thế kỷ và một quyết định



Nghị định trên ra đời sau 20 năm Pháp xâm chiếm nước ta và sau thế kỷ ra đời và phát triển của chữ Việt.
Trang đầu quyển Từ điển Việt - Bồ - La của Alexandre de Rhodes
Vì sao người Pháp ra nghị định 6-4-1878?
Điều này được nói rõ trong nội dung nghị định. Nguyên văn như sau:
“Xét rằng chữ viết của tiếng An Nam bằng mẫu tự Latin ngày nay đã khá phổ thông trong các tỉnh Nam kỳ, là thứ chữ dễ học hơn chữ Nho và tiện lợi nhiều so với chữ Nho trong việc làm cho những giao dịch giữa các quan cai trị với dân bản xứ được trực tiếp hơn. Xét rằng việc dùng hợp pháp thứ chữ đó chỉ làm cho dân chúng dễ đồng hóa với chính quyền ta, và vì thế thật là một đường lối chính trị tốt nếu bắt buộc dùng nó trong các giao dịch chính thức. Tuy nhiên, xét rằng một cải cách quan trọng như thế không thể thực hiện được ngay tức khắc, và để thực hiện nó cần có sự cộng tác của những tầng lớp lãnh đạo trong dân chúng. Chiếu đề nghị của quyền giám đốc nội vụ, sau khi hội đồng tư vấn đã được hội ý kiến, nay ra nghị định:
Điều 1: kể từ ngày 1-1-1882 tất cả những văn kiện chính thức, nghị định, quyết định, sắc lệnh, phán quyết, chỉ thị...sẽ được viết, ký và công bố bằng chữ mẫu tự Latin.
Điều 2: kể từ ngày trên, không một tuyển dụng nào được thi hành, không một thăng trật nào được cho phép, trong ngạch phủ, huyện, tổng đối với bất cứ ai không ở trong tình trạng viết được chữ quốc ngữ. (Nguyễn Văn Trung - Chữ, văn quốc ngữ thời kỳ đầu Pháp thuộc)
Đến đầu năm 1881, thống đốc Nam kỳ lúc đó là Le Myre de Vilers đã ký quyết định “nhắc lại” việc dùng chữ quốc ngữ trong hệ thống hành chính. “Vì lời nghị ngày mồng 6 tháng 4-1878, từ ngày mồng 1 janvier 1882, về các tờ giấy làm việc quan buộc phải viết ra bằng quốc âm chữ Langsa; Xét vì lời nghị nầy phải thi hành lần lần, vì trong lúc người ta biết chữ quốc âm Langsa đủ dùng trong các tổng” (Gia Định Báo ngày 21-2-1881). Và ngày 24-10-1881 cũng trên tờ Gia Định Báo phần tạp vụ, văn phòng Nha nội vụ đã đăng thông báo “nhắc lại”. “Ông directeur de l’interieur (giám đốc Nha nội vụ, người đương thời gọi là quan lại bộ thượng thơ), làm lời rao cho ai nấy đặng hay, lời nghị ngày mồng 6 avril 1878, buộc từ ngày mồng 1 janvier 1882 trong những giấy lá việc quan mà viết theo tiếng An Nam đều phải dùng chữ Langsa mà thôi”.
Và ngày 30-1-1882, thống đốc Nam kỳ Le Myre de Vilers ra nghị định nhắc lại lần cuối cùng: “kể từ ngày hôm nay, việc chỉ dùng những mẫu tự Pháp trở thành bắt buộc trên toàn cõi Nam kỳ thuộc Pháp, trong những giấy tờ chính thức viết bằng tiếng An Nam”. (Nguyễn Văn Trung - Chữ, văn quốc ngữ thời kỳ đầu Pháp thuộc).
Có thể nói, kể từ ngày 1-1-1882, người Việt bắt đầu chính thức sử dụng thứ chữ viết từng được gọi là “chữ quốc ngữ, quốc ngữ hay tiếng An Nam dùng chữ Langsa”, thứ chữ viết hôm nay người Việt dù sống ở đâu, trên đất nước VN hay nơi nào đó trên thế giới đều xem là văn tự chính thống của người Việt.
Để có được điều đó, chữ Việt đã trải qua nhiều thăng trầm.
Ngược dòng chữ Việt
Chúng ta đều biết chữ Việt do những giáo sĩ phương Tây tới Việt Nam truyền đạo sáng tạo vào thế kỷ 17. Và người được vinh danh nhiều nhất chính là giáo sĩ Alexandre de Rhodes.
Ngoài bức tượng nhỏ của ông dựng trong khuôn viên 161 Lý Chính Thắng (quận 3), ông còn có tên đường ở ngay trung tâm TP.HCM. Thực tế có phải Alexandre de Rhodes là người duy nhất sáng tạo chữ Việt? Không hoàn toàn như vậy.
Sáng tạo ra chữ Việt là công trình của nhiều người với mục đích ban đầu chỉ để truyền đạo. Theo Giáo sĩ Đắc Lộ và tác phẩm quốc ngữ đầu tiên của Nguyễn Khắc Xuyên, chữ Việt manh nha xuất hiện từ năm 1625-1626 trong một bức thư của giáo sĩ F. Buzomi, người Ý. Năm 1627, giáo sĩ Baldinotti đã xuất bản một bản Điều trần về xứ Đàng Ngoài có ghi một vài chữ quốc ngữ. Năm 1631, trong quyển Điều trần về xứ Đàng Trong của giáo sĩ Cristoforo Borri, người Ý, đã xuất hiện nhiều câu quốc ngữ như scin (xin), ciàm (chẳng), gnoo (nhỏ), chiam (chăng), tlom (trong), bua (vua)...
Tuy nhiên, công lớn lại thuộc về các giáo sĩ Bồ Đào Nha. Giáo sĩ được đương thời coi là “thầy tiếng Việt” là Francesco de Pina. Hai “học trò” của Pina được thừa nhận có công lớn là giáo sĩ Gaspar d’Amaral và Antonio Barbosa. Hai giáo sĩ này là người đầu tiên viết từ điển Việt - Bồ và Bồ - Việt. Hai ông sau khi rời Hội An, định cư ở Macau gần 10 năm. Không may Gaspar d’Amaral tử nạn trên biển Macau vào tháng 2-1646 khi trên đường đến VN. Antonio Barbosa cũng mất một năm sau đó.
Trước khi mất họ để lại trong nhà thờ San Pauli ở Macau những quyển từ điển Việt - Bồ - Latin mà họ đã sáng tạo. Và giáo sĩ Alexandre de Rhodes là người mang từ điển đó về châu Âu (Phạm Văn Hường - Đi tìm nguồn gốc chữ quốc ngữ). Đến năm 1651, quyển Từ điển Việt - Bồ - La ra đời dưới cái tên tác giả Alexandre de Rhodes. Và đây là cuốn từ điển tiếng Việt đầu tiên xuất hiện trên thế giới và ông Đắc Lộ (tên tiếng Việt của Alexandre de Rhodes) được công nhận là người có công trong việc sáng tạo chữ Việt.
Những sáng tạo của các giáo sĩ phương Tây không thể không có sự góp phần của người bản xứ. Nhiều tài liệu đã nhắc tới “những người thầy không tên” của các giáo sĩ. Theo xơ Jean Berchmans Minh Nguyệt trong tập san MISS của Vatican, giáo sĩ Đắc Lộ đã học tiếng Việt với “một người thầy trạc 10-12 tuổi”, người sau này trở thành thầy giảng đạo giúp việc cho các giáo sĩ.
Giáo sĩ Đắc Lộ đã nói về “thầy” của mình: “Chỉ trong vòng ba tuần lễ, chú bé đã dạy tôi học biết tất cả các cung giọng khác nhau của tiếng Việt và cách thức phát âm của từng chữ”.
Những tài liệu khác cũng cho biết “thầy” của các giáo sĩ Amaral và Barbosa có tới 14 người. Những cái tên như Trâm, Văn Triều, Sang, Văn Tang, Cai, Văn Nhất... xuất hiện trong một tài liệu của Dòng Tên mang tên “Chung quanh mô thức rửa tội bằng thổ ngữ An Nam” (Huỳnh Ái Tông - Nguồn gốc chữ quốc ngữ).
Chữ Việt thời kỳ đầu khác xa với chữ Việt hôm nay, thậm chí hôm qua. Những từ “oũ” (ông), “kẻ hằii” (kẻ hầu), “bên đoũ đa” (bên Đống Đa)... vẫn còn nhiều âm hưởng nước ngoài đối với người Việt. Tới khi xuất hiện trong Từ điển Việt - Bồ - La năm 1651 cũng còn những khoảng cách xa với chữ Việt mà chúng ta đang dùng: “bao nheo” (bao nhiêu), “tôi blả bấy nheo” (tôi trả bấy nhiêu), “muấn” (muốn), “đức chúa Blời” (đức Chúa Trời), “iêo” (yêu), “khoăn đã nao” (khoan đã nào), “nếo” (nếu)...
Không chỉ có Từ điển Việt - Bồ - La, giáo sĩ Đắc Lộ còn được ghi nhận là có công đầu trong việc sáng tạo chữ Việt từ quyển Phép giảng tám ngày (1651) và phần “tiểu lược về tiếng An Nam hay tiếng Bắc kỳ” còn gọi là cuốn văn phạm VN đầu tiên (in chung với cuốn từ điển). Nếu Phép giảng tám ngày là cuốn sách chuyên về đạo đầu tiên của quốc ngữ thì cuốn văn phạm là sự sáng tạo không còn nghi ngờ gì nữa và là của riêng ông.
“Tất cả tinh thần của tiếng nói là ở các dấu lên xuống” - giáo sĩ Đắc Lộ nhận xét. Có thể chính nhờ cuốn văn phạm này mà các giáo sĩ, người học chữ Việt đời sau cảm thấy dễ dàng hơn.
TRẦN NHẬT VY




Kỳ 2: Ai học chữ Việt đầu tiên?

Giáo sĩ Bá Đa Lộc


Những người Việt trong nhà thờ
Theo Đỗ Quang Chính ghi nhận trong văn khố Dòng Tên ở Roma có “một bức thư của thầy Igesco Văn Tín gửi cho linh mục Marini, viết ngày 12-9-1659” và “một tập lược sử nước Annam và một lá thư viết ngày 25-10-1659 của thầy Bento Thiện gửi linh mục Marini” hoàn toàn bằng chữ Việt (tập Lịch sử nước Annam).
Những chữ Việt trong các tài liệu này tuy khác xa với chữ viết hôm nay nhưng tiếng Việt thời này đã thành một hệ thống đủ để thông tin và ghi chép. Thầy Văn Tín viết “ơn Thài xưa dạy dõ tôy nhèu đàng cho nên thàn mà ráp cậi thày cho nen chãng hai bai giờ vứang thày tôy càng buồn hơn nữa mà ướoc au cho được thai mạt Thài như con tlon mẹ vè cho được bú bại...” (ơn thầy xưa dạy dỗ tôi nhiều đàng cho nên thánh mà ráp cậy thầy cho nên chẳng hay bây giờ vắng thầy tôi càng buồn hơn nữa mà ước ao cho được thấy mặt thầy như con trông mẹ về cho được bú vậy).
Thứ hai là bức thư của thầy giảng Biển Đức Thiện (Bento Thiện) viết tại Đàng Ngoài (ở Thăng Long) ngày 25-10-1659 cũng gửi cho linh mục G.F.de Marini cùng một thời gian với thư của thầy Văn Tín nên chữ viết tương tự. Đáng chú ý là tập Lịch sử Annam bằng tiếng Việt. Chỉ dài có 12 trang chữ nhỏ li ti khổ 19x28 (trang cuối khổ 12x6 và chỉ có chín dòng chữ) nhưng chứa đựng khá nhiều thông tin về lịch sử nước Việt ở các lĩnh vực chính trị, xã hội, thi cử, hành chính từ thời Lạc Long Quân cho đến thời Trịnh Nguyễn. Có thể coi đây là bản sơ thảo về lịch sử Việt Nam đầu tiên viết bằng chữ Việt sau khi quyển từ điển tiếng Việt đầu tiên ra đời năm 1651.
Còn Thanh Lãng trong Biểu nhất lãm văn học cận đại phát hiện Filiphé Bỉnh (1759-1832), một linh mục Dòng Tên người Việt, là người viết chữ Việt, hơn 100 năm sau đó. Filiphé Bỉnh có thể rời Việt Nam năm 1794 và cư ngụ tại Bồ Đào Nha 30 năm. Thanh Lãng chưa tìm thấy tiểu sử của Filiphé Bỉnh nhưng tìm thấy khá nhiều tài liệu bằng chữ Việt của ông lưu trữ tại Lisbon, Bồ Đào Nha.
Tới thành Macao thơ có lẽ là bài thơ bằng tiếng Việt đầu tiên do Filiphé Bỉnh sáng tác vào ngày 4 tháng chạp năm 1794. “Tôi đang gưỡi gắp (gửi gắm) chốn Ma cao. Hai chữ thanh nhàn xiết kễ bao. Hôm sớm phần hồn dầu mặc sức. Tháng ngày việc chác chẳng tơ hào. Xây dần (xoay vần) ám tiết hằng no ấm. Đáp đổi tứ mùa khỏi khát khao. Gần chợ gần soũ (sông) gần núi bể. Trăm mùi khôn chút vẻ tanh tao”.
Vào thế kỷ 18 mà chữ nghĩa của Filiphé Bỉnh đã tiến gần với chữ Việt ngày nay cho thấy sự phát triển của chữ Việt khá mạnh mẽ trong suốt 100 năm trước đó.
Sau Filiphé Bỉnh là những ai đã học chữ Việt? Ít nhất chúng ta biết được một người, đó là linh mục Phillipe Phan Văn Minh, người đã góp sức cùng giáo sĩ Taberd viết cuốn Tư vị Taberd tại Ấn Độ và cũng là người mang cuốn sách này về Việt Nam. Linh mục Phan Văn Minh (1815-1853) đồng hương với Trương Vĩnh Ký ở Cái Mơn, xã Vĩnh Thành, huyện Tân Minh, tỉnh Vĩnh Long (nay là Bến Tre).
Linh mục đã góp phần viết Khái luận về tiểu từ và đại từ (Tractatus de variis particulus et pronominibus), Cách đếm (Nomina numeralia, 10 trang), Thực vật chí Đàng Trong (Hortus Floridus Cocincinœ), Lược bày niêm luật làm văn làm thơ (Compendium versificationis anamiticœ)... Ông còn để lại một số tác phẩm bằng quốc ngữ như Nước trời ca, Phi năng thi tập...
Sau linh mục Phan Văn Minh là ai nữa? Chưa biết. Nhưng chúng ta biết chắc rằng chữ Việt đã được gieo, nảy mầm và lớn lên trong lòng người Việt.
Theo bước Đắc Lộ
Hơn 100 năm sau, giám mục D’Adran tức giáo sĩ người Pháp Pierre Pigneaux de Béhaine còn được gọi là Bá Đa Lộc hay đức Cha cả (sinh năm 1741 tại Pháp, mất năm 1799 tại Sài Gòn), người từng giúp Nguyễn Ánh chống lại Tây Sơn, là người phương Tây học chữ Việt tiếp theo mà chúng ta biết. Ông đã biên soạn bộ tự vị Việt - La tại Sài Gòn từ tháng 9-1772 đến tháng 6-1773, với sự giúp đỡ của một số giáo sĩ người Việt và Pháp. Phần chính văn 662 trang là từ điển song ngữ, tiếng Việt được ghi theo hai lối viết (Nôm và quốc ngữ) xếp theo vần a, b, c, được giải nghĩa bằng tiếng Latin.
Điểm đáng lưu ý là chữ quốc ngữ trong bộ tự vị này gần như hoàn toàn giống với chữ quốc ngữ hôm nay, các phụ âm đôi như bl, ml... của tiếng Việt thế kỷ 17 đã biến mất hẳn. “Điều thú vị là tuy biên soạn cách đây hơn 200 năm nhưng khi lật lại cuốn từ điển này, chúng ta không chỉ thấy được diện mạo của tiếng Việt thế kỷ 18, không chỉ phần nào hiểu được bối cảnh lịch sử, văn hóa, xã hội, chính trị nước ta vào thời kỳ đó mà còn thấy được từ ngữ cơ bản trong tiếng Việt hiện đại” (Võ Thị Minh Hà - tạp chí Ngôn Ngữ và Đời Sống số 7/2006).
“Cái mới của tự vị Bá Đa Lộc là loại hẳn cách viết của Đắc Lộ và không còn thấy những nhóm phụ âm đầu mnhầm, mlầm. Nhóm bl như trong blái cũng không còn. Nhóm tl chỉ còn một từ tla. Sách có “lầm” mà không có “nhầm”, có “lanh” mà không có “nhanh”, có “lời” mà không có “nhời”. Có “nhơn” mà không có “nhân”; có “ơn” mà không có “ân”; nhưng vừa có “mần” vừa có “làm”...(Mien Ngoc - sachxưa.net).
Sau Bá Đa Lộc, “học trò chữ Việt” là giáo sĩ Taberd. Ông này đã soạn bộ Nam Việt dương hiệp tự vị, thường được gọi là Tự điển Taberd, in năm 1838 tại Ấn Độ. Từ điển Taberd gồm ba phần. Phần mở đầu có 46 trang văn phạm, nghiên cứu âm vị tiếng Việt, mô tả tiếng Việt, nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt, mô tả cấu trúc lời nói, câu văn tiếng Việt và chỉ dẫn cách làm thơ.
Phần thứ hai: chính văn gồm 620 trang, mỗi trang hai cột, thu thập 4.959 mục tự theo vần a, b, c, mỗi mục xếp theo trật tự Nôm - quốc ngữ và dịch nghĩa bằng tiếng Latin, tiếp theo là dẫn ra các từ ghép có chứa từ mục tự (từ đơn) nêu trên, ví dụ: mục tự “dương” được dẫn ra các từ ghép như: “thới dương, khí dương, dương gian, dương thế...”.
Phần ba: có 39 trang phụ lục về tên gọi các loại cây cỏ, hoa trái miền Nam và công dụng của nó trong y thuật và 135 trang phụ lục ghi các từ Hán Việt thông dụng. “Một lần nữa người làm từ điển muốn điển chế hóa tiếng nói và chữ viết Việt Nam (ở phía Nam, ở Sài Gòn).
Mọi từ tiếng Việt trong từ điển đều ghi bằng hai thứ chữ Nôm và quốc ngữ, được phân bố theo thứ tự a, b, c và được dịch nghĩa tương đương sang tiếng Latin... Chữ Nôm của Taberd cũng như của De Béhaine vẫn được phân bố lệ thuộc theo âm quốc ngữ chứ không được phân bố theo số nét và các bộ chữ Hán” (Trần Văn Giàu, Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt - Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh tập II, NXB Thành Phố Hồ Chí Minh 1988).
Nét đặc biệt của Tự vị Taberd là “dạy làm thơ, hò vè, phú...” điều mà hầu như chưa có từ điển nào làm.
Thế nhưng suốt 200 năm, kể từ 1651-1861, do chính quyền cấm đạo, do giới trí thức nho học bỏ qua hoặc không để ý tới, do bị nghi kỵ thứ “chữ của người nước ngoài”, chữ Việt vẫn chìm trong “bí mật” và chỉ phát triển quanh quẩn trong các nhà thờ, các xứ đạo Thiên Chúa giáo. Trong thời gian này, chữ Việt dần hoàn thiện. Những học trò chữ Việt sau đó như Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Trương Minh Ký đã góp phần làm cho chữ Việt hoàn chỉnh một bước nữa. Và đến khi chữ Việt được xuất hiện công khai trên tờ Gia Định báo năm 1865 thì đã tiến gần sát với chữ Việt ngày nay.



Những người Việt trong nhà thờ
Theo Đỗ Quang Chính ghi nhận trong văn khố Dòng Tên ở Roma có “một bức thư của thầy Igesco Văn Tín gửi cho linh mục Marini, viết ngày 12-9-1659” và “một tập lược sử nước Annam và một lá thư viết ngày 25-10-1659 của thầy Bento Thiện gửi linh mục Marini” hoàn toàn bằng chữ Việt (tập Lịch sử nước Annam).
Những chữ Việt trong các tài liệu này tuy khác xa với chữ viết hôm nay nhưng tiếng Việt thời này đã thành một hệ thống đủ để thông tin và ghi chép. Thầy Văn Tín viết “ơn Thài xưa dạy dõ tôy nhèu đàng cho nên thàn mà ráp cậi thày cho nen chãng hai bai giờ vứang thày tôy càng buồn hơn nữa mà ướoc au cho được thai mạt Thài như con tlon mẹ vè cho được bú bại...” (ơn thầy xưa dạy dỗ tôi nhiều đàng cho nên thánh mà ráp cậy thầy cho nên chẳng hay bây giờ vắng thầy tôi càng buồn hơn nữa mà ước ao cho được thấy mặt thầy như con trông mẹ về cho được bú vậy).
Thứ hai là bức thư của thầy giảng Biển Đức Thiện (Bento Thiện) viết tại Đàng Ngoài (ở Thăng Long) ngày 25-10-1659 cũng gửi cho linh mục G.F.de Marini cùng một thời gian với thư của thầy Văn Tín nên chữ viết tương tự. Đáng chú ý là tập Lịch sử Annam bằng tiếng Việt. Chỉ dài có 12 trang chữ nhỏ li ti khổ 19x28 (trang cuối khổ 12x6 và chỉ có chín dòng chữ) nhưng chứa đựng khá nhiều thông tin về lịch sử nước Việt ở các lĩnh vực chính trị, xã hội, thi cử, hành chính từ thời Lạc Long Quân cho đến thời Trịnh Nguyễn. Có thể coi đây là bản sơ thảo về lịch sử Việt Nam đầu tiên viết bằng chữ Việt sau khi quyển từ điển tiếng Việt đầu tiên ra đời năm 1651.
Còn Thanh Lãng trong Biểu nhất lãm văn học cận đại phát hiện Filiphé Bỉnh (1759-1832), một linh mục Dòng Tên người Việt, là người viết chữ Việt, hơn 100 năm sau đó. Filiphé Bỉnh có thể rời Việt Nam năm 1794 và cư ngụ tại Bồ Đào Nha 30 năm. Thanh Lãng chưa tìm thấy tiểu sử của Filiphé Bỉnh nhưng tìm thấy khá nhiều tài liệu bằng chữ Việt của ông lưu trữ tại Lisbon, Bồ Đào Nha.
Tới thành Macao thơ có lẽ là bài thơ bằng tiếng Việt đầu tiên do Filiphé Bỉnh sáng tác vào ngày 4 tháng chạp năm 1794. “Tôi đang gưỡi gắp (gửi gắm) chốn Ma cao. Hai chữ thanh nhàn xiết kễ bao. Hôm sớm phần hồn dầu mặc sức. Tháng ngày việc chác chẳng tơ hào. Xây dần (xoay vần) ám tiết hằng no ấm. Đáp đổi tứ mùa khỏi khát khao. Gần chợ gần soũ (sông) gần núi bể. Trăm mùi khôn chút vẻ tanh tao”.
Vào thế kỷ 18 mà chữ nghĩa của Filiphé Bỉnh đã tiến gần với chữ Việt ngày nay cho thấy sự phát triển của chữ Việt khá mạnh mẽ trong suốt 100 năm trước đó.
Sau Filiphé Bỉnh là những ai đã học chữ Việt? Ít nhất chúng ta biết được một người, đó là linh mục Phillipe Phan Văn Minh, người đã góp sức cùng giáo sĩ Taberd viết cuốn Tư vị Taberd tại Ấn Độ và cũng là người mang cuốn sách này về Việt Nam. Linh mục Phan Văn Minh (1815-1853) đồng hương với Trương Vĩnh Ký ở Cái Mơn, xã Vĩnh Thành, huyện Tân Minh, tỉnh Vĩnh Long (nay là Bến Tre).
Linh mục đã góp phần viết Khái luận về tiểu từ và đại từ (Tractatus de variis particulus et pronominibus), Cách đếm (Nomina numeralia, 10 trang), Thực vật chí Đàng Trong (Hortus Floridus Cocincinœ), Lược bày niêm luật làm văn làm thơ (Compendium versificationis anamiticœ)... Ông còn để lại một số tác phẩm bằng quốc ngữ như Nước trời ca, Phi năng thi tập...
Sau linh mục Phan Văn Minh là ai nữa? Chưa biết. Nhưng chúng ta biết chắc rằng chữ Việt đã được gieo, nảy mầm và lớn lên trong lòng người Việt.
Theo bước Đắc Lộ
Hơn 100 năm sau, giám mục D’Adran tức giáo sĩ người Pháp Pierre Pigneaux de Béhaine còn được gọi là Bá Đa Lộc hay đức Cha cả (sinh năm 1741 tại Pháp, mất năm 1799 tại Sài Gòn), người từng giúp Nguyễn Ánh chống lại Tây Sơn, là người phương Tây học chữ Việt tiếp theo mà chúng ta biết. Ông đã biên soạn bộ tự vị Việt - La tại Sài Gòn từ tháng 9-1772 đến tháng 6-1773, với sự giúp đỡ của một số giáo sĩ người Việt và Pháp. Phần chính văn 662 trang là từ điển song ngữ, tiếng Việt được ghi theo hai lối viết (Nôm và quốc ngữ) xếp theo vần a, b, c, được giải nghĩa bằng tiếng Latin.
Điểm đáng lưu ý là chữ quốc ngữ trong bộ tự vị này gần như hoàn toàn giống với chữ quốc ngữ hôm nay, các phụ âm đôi như bl, ml... của tiếng Việt thế kỷ 17 đã biến mất hẳn. “Điều thú vị là tuy biên soạn cách đây hơn 200 năm nhưng khi lật lại cuốn từ điển này, chúng ta không chỉ thấy được diện mạo của tiếng Việt thế kỷ 18, không chỉ phần nào hiểu được bối cảnh lịch sử, văn hóa, xã hội, chính trị nước ta vào thời kỳ đó mà còn thấy được từ ngữ cơ bản trong tiếng Việt hiện đại” (Võ Thị Minh Hà - tạp chí Ngôn Ngữ và Đời Sống số 7/2006).
“Cái mới của tự vị Bá Đa Lộc là loại hẳn cách viết của Đắc Lộ và không còn thấy những nhóm phụ âm đầu mnhầm, mlầm. Nhóm bl như trong blái cũng không còn. Nhóm tl chỉ còn một từ tla. Sách có “lầm” mà không có “nhầm”, có “lanh” mà không có “nhanh”, có “lời” mà không có “nhời”. Có “nhơn” mà không có “nhân”; có “ơn” mà không có “ân”; nhưng vừa có “mần” vừa có “làm”...(Mien Ngoc - sachxưa.net).
Sau Bá Đa Lộc, “học trò chữ Việt” là giáo sĩ Taberd. Ông này đã soạn bộ Nam Việt dương hiệp tự vị, thường được gọi là Tự điển Taberd, in năm 1838 tại Ấn Độ. Từ điển Taberd gồm ba phần. Phần mở đầu có 46 trang văn phạm, nghiên cứu âm vị tiếng Việt, mô tả tiếng Việt, nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt, mô tả cấu trúc lời nói, câu văn tiếng Việt và chỉ dẫn cách làm thơ.
Phần thứ hai: chính văn gồm 620 trang, mỗi trang hai cột, thu thập 4.959 mục tự theo vần a, b, c, mỗi mục xếp theo trật tự Nôm - quốc ngữ và dịch nghĩa bằng tiếng Latin, tiếp theo là dẫn ra các từ ghép có chứa từ mục tự (từ đơn) nêu trên, ví dụ: mục tự “dương” được dẫn ra các từ ghép như: “thới dương, khí dương, dương gian, dương thế...”.
Phần ba: có 39 trang phụ lục về tên gọi các loại cây cỏ, hoa trái miền Nam và công dụng của nó trong y thuật và 135 trang phụ lục ghi các từ Hán Việt thông dụng. “Một lần nữa người làm từ điển muốn điển chế hóa tiếng nói và chữ viết Việt Nam (ở phía Nam, ở Sài Gòn).
Mọi từ tiếng Việt trong từ điển đều ghi bằng hai thứ chữ Nôm và quốc ngữ, được phân bố theo thứ tự a, b, c và được dịch nghĩa tương đương sang tiếng Latin... Chữ Nôm của Taberd cũng như của De Béhaine vẫn được phân bố lệ thuộc theo âm quốc ngữ chứ không được phân bố theo số nét và các bộ chữ Hán” (Trần Văn Giàu, Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt - Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh tập II, NXB Thành Phố Hồ Chí Minh 1988).
Nét đặc biệt của Tự vị Taberd là “dạy làm thơ, hò vè, phú...” điều mà hầu như chưa có từ điển nào làm.
Thế nhưng suốt 200 năm, kể từ 1651-1861, do chính quyền cấm đạo, do giới trí thức nho học bỏ qua hoặc không để ý tới, do bị nghi kỵ thứ “chữ của người nước ngoài”, chữ Việt vẫn chìm trong “bí mật” và chỉ phát triển quanh quẩn trong các nhà thờ, các xứ đạo Thiên Chúa giáo. Trong thời gian này, chữ Việt dần hoàn thiện. Những học trò chữ Việt sau đó như Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Trương Minh Ký đã góp phần làm cho chữ Việt hoàn chỉnh một bước nữa. Và đến khi chữ Việt được xuất hiện công khai trên tờ Gia Định báo năm 1865 thì đã tiến gần sát với chữ Việt ngày nay.


Kỳ 3: Cưỡng bách và phản kháng
Một tờ khai sinh năm 1938 ở miền Bắc có đến bốn dạng chữ: chữ Nôm, chữ quốc ngữ, dấu triện bằng tiếng Pháp và vài chữ Hán - Ảnh: Wikipedia 

Thế nhưng đâu là nguyên nhân chính? Bởi đã là người chiến thắng, Pháp có nhiều hơn một trong việc lựa chọn ngôn ngữ để cai trị, ngoài chữ nho. Trong đó tiếng Pháp cũng là một lựa chọn.
Thế nhưng người Pháp đã chọn chữ quốc ngữ.
Vì sao người Pháp chọn quốc ngữ?
Đây là phần “tối” nhất trong nhiều nghiên cứu về quốc ngữ trong văn học sử của nước ta. Có không nhiều nghiên cứu nêu rõ nguyên nhân, lý do thực dân Pháp “quyết liệt” ép người Nam kỳ học quốc ngữ thay vì tiếng Pháp. Chúng tôi tìm thấy trong nghiên cứu của Nguyễn Văn Trung vấn đề này.
“Ở đây cần để ý một điều là trước khi người Pháp xâm chiếm nước ta, các nhà truyền giáo thuộc nhiều quốc tịch châu Âu đã theo đường lối “tôn trọng thích nghi văn hóa, phong tục những nước bị truyền giáo (nhất là các nhà truyền giáo thuộc Dòng Tên)”. Chính trong tinh thần đó mà họ sáng chế ra chữ quốc ngữ. Đến thời Pháp xâm lược, các nhà truyền giáo Dòng Tên phải nhường chỗ cho Hội thừa sai Paris và những người này đều là người Pháp, theo một đường lối truyền giáo cứng rắn chủ trương xóa bỏ, tiêu diệt tất cả những gì là phong tục, văn hóa, tư tưởng của các nước bị truyền giáo không hợp với giáo lý Thiên Chúa. Hơn nữa, họ còn đồng hóa quyền lợi nước Pháp với quyền lợi của đạo nên họ đã tích cực góp phần vào việc thiết lập chế độ thực dân”. (Nguyễn Văn Trung - Chữ, văn quốc ngữ thời đầu Pháp thuộc).
Với tinh thần đó, các giáo sĩ đã thúc ép chính quyền Pháp chọn chữ quốc ngữ thay vì chữ Pháp.
Không chỉ thúc ép đội quân viễn chinh Pháp trong việc bắt buộc triều đình nhà Nguyễn chấp nhận điều khoản mà cả triều đình lẫn giới sĩ phu lúc bấy giờ không chịu chấp nhận là “tự do truyền đạo”, mà các thừa sai còn thúc ép Pháp phải buộc người Việt “sử dụng chữ quốc ngữ”.
Theo Nguyễn Văn Trung, Lanessan đã ghi: “Tôi còn giữ trong tay một thư của giám mục Puginier, trong đó ngài trình bày mục đích việc phiên âm bằng chữ Latin một cách thật rõ rệt. Ngài nói khi thay thế chữ nho bằng chữ quốc ngữ, Hội thừa sai nhằm mục đích cô lập các giáo hữu. Những người này sẽ không còn có thể đọc được những tác phẩm dễ đọc nhất của Trung Hoa và sẽ không thể thư từ gì được với bất cứ một sĩ phu Tàu hay ta nào”.
Đó là nhận định của người Việt và giới giáo sĩ. Còn quan điểm của chính quyền Pháp? Có không nhiều tài liệu để thẩm tra vấn đề này. Có lẽ thông tư ngày 10-4-1878 của giám đốc Nha nội vụ Béliard thể hiện rõ nhất quan điểm của Pháp: “Chúng ta sẽ rất lợi cả về mặt chính trị lẫn thực tế, nếu làm tiêu tan dần dần chữ nho mà việc dùng thứ chữ đó chỉ có thể có một ảnh hưởng tai hại đối với công trình đồng hóa mà chính phủ đang dồn mọi nỗ lực thực hiện”.
Tháng 9-1864, đô đốc Lagrandière đã báo cáo: “Tôi có mọi lý do để hi vọng, nếu việc theo học các trường của chúng ta tiếp tục, chúng ta sẽ có ít nhất, trong chưa đầy một năm, một nghìn thanh niên An Nam biết đọc và biết viết ngôn ngữ của họ bằng mẫu tự Latin; nhờ đó chúng ta sẽ tống một cú đánh chết người vào chế độ quan lại, và chúng ta sẽ tự mình gỡ bỏ được lớp văn thân là các kẻ luôn luôn có khuynh hướng gây xáo trộn” (Milton E. Osborne - Giáo dục và chữ quốc ngữ - sự phát triển một trật tự mới 1859-1905 do Ngô Bắc dịch).
Chính vì vậy, ngay sau khi Hòa ước Nhâm Tuất ký chưa ráo mực, khi ba tỉnh miền Tây còn nằm trong tầm ngắm và đang lăm le đánh chiếm thì Pháp đã cho ra đời tờ báo tiếng Việt ở Sài Gòn. Đó là tờ Gia Định báo. Tờ báo này do E. Potteaux, thông ngôn tiếng Việt hạng nhất của đô đốc, làm “tổng tài” (tổng biên tập).
Sự phản kháng
Song việc “quốc ngữ hóa” Nam kỳ diễn ra không hoàn toàn thuận buồm xuôi gió. Phía những người theo Pháp và những người được coi là giàu có không phải ai cũng dễ dàng cho con em đi học chữ quốc ngữ.
Có thể do những lời đồn thổi về việc “người Công giáo không thờ cúng ông bà” xuất phát từ chuyện Đông cung Cảnh, học trò của Bá Đa Lộc, sau khi từ Pháp về theo đạo Công giáo và “từ chối đến tông miếu” (thực lục nhà Nguyễn) nên nhiều người Nam kỳ sợ con cháu mất gốc mà trốn tránh việc đi học chữ quốc ngữ, còn vì đó là chữ của đạo Công giáo, những người đi theo Pháp ngay khi Pháp tới Nam kỳ.
Chưa kể người có liêm sỉ thì khó thể chấp nhận bất cứ điều gì của quân cướp nước đề ra ngay trong lúc nhục mất nước còn nóng hôi hổi!
Do vậy, việc đi học rất ư là hành chính. Thực dân ra lệnh tận làng xã “bắt trẻ con đi học chữ quốc ngữ như bắt lính”. Còn hương chức hội tề thì “khuyến dụ, cưỡng ép trẻ con đi học” để được thăng thưởng. Rất nhiều người đã mướn hoặc bắt đầy tớ trong nhà đi học thay con em mình. Câu ca dao chống việc học chữ quốc ngữ phổ biến khá rộng ở miền Nam có thể xuất phát từ thời bấy giờ: Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ. Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu. Anh về đi học chữ nhu. Chín trăng em đợi mười thu em chờ.Phải học chữ nhu (chữ nho) thì em mới chờ còn không thì sẽ...
Eliacin Luro, thanh tra bản xứ vụ trong chính quyền Pháp mới đặt ở Nam kỳ, tác giả giáo trình về hành chính Việt Nam dùng cho trường các viên chức tập sự Pháp, đã thừa nhận trong bài giáo dục số 38 về Giáo dục quốc dân viết năm 1873: “Rồi chúng ta bắt mỗi làng phải gửi một số học sinh quy định đến trường... 
Hậu quả là các làng mộ học sinh cho các trường quốc ngữ của chúng ta kiểu như họ mộ lính, bằng cách trả tiền cho gia đình của học sinh và công cuộc bắt buộc giáo dục của chúng ta tính như một thứ thuế đánh thêm vào dân” (Nguyễn Phú Phong - tranh luận về việc áp dụng chữ quốc ngữ). Gia Định báo số ra ngày 8-3-1874 ghi “các ông ấy cũng biết nhà trường lập ra đây để cho các học trò Annam học thì có nhiều điều ngăn trở kể chẳng xiết”., thanh tra bản xứ vụ trong chính quyền Pháp mới đặt ở Nam kỳ, tác giả giáo trình về hành chính Việt Nam dùng cho trường các viên chức tập sự Pháp, đã thừa nhận trong bài giáo dục số 38 về Giáo dục quốc dân viết năm 1873: “Rồi chúng ta bắt mỗi làng phải gửi một số học sinh quy định đến trường...
Phía các sĩ phu, sự chống đối diễn ra dữ dội hơn. Năm 1885, một số thân hào nhân sĩ đã gửi thư thỉnh nguyện đến Hội đồng quản hạt Nam kỳ “đề nghị bãi bỏ chữ quốc ngữ”. “...Theo thiển ý chúng tôi, hiện nay chỉ có hai thứ tiếng có thể được ở Nam kỳ, tiếng Pháp mà chúng tôi muốn học và tiếng Annam nôm na mà chúng tôi đều biết viết bằng chữ Nôm... Quý vị hãy đoán xem chúng tôi lúng túng thế nào mỗi khi chúng tôi nhận được những lệnh viết bằng thứ chữ (quốc ngữ) trên, chúng tôi phải chạy kiếm hàng chục người thông ngôn mà chúng tôi phải trả tiền, để rồi rốt cục họ đã làm chúng tôi hiểu hoàn toàn ngược lại với những gì người ta muốn truyền lệnh cho chúng tôi”.
Nổi bật trong thời kỳ này là nhà thơ Phan Văn Trị với cuộc bút chiến giữa ông và Tôn Thọ Tường, một trí thức Hán học đi theo thực dân Pháp. Cuộc bút chiến diễn ra khá gay gắt của hai phe trở thành giai thoại trong làng văn ở Nam kỳ.
Với Phan Văn Trị và các đồng chí của ông như Huỳnh Mẫn Đạt, Lê Quang Chiểu, Bùi Hữu Nghĩa...việc theo Pháp của người trí thức là không thể chấp nhận được.

Kỳ 4: Bước ra khỏi giáo hội

Chủ Nhật, 18 tháng 12, 2011

Cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa (1873)


Cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa (1873)
 
Sơn Nam (trích trong Nói về miền Nam).
 
Giáo hệ Bửu Sơn Kỳ Hương nêu những nguyên tắc thiết thực gắn liền đời và đạo, cá nhân và gia đình, gia đình với đồng bào nhân loại và đặc biệt là với Tổ quốc (ân đất nước). Người tu hành tham gia sản xuất, cày cấy như bao nhiêu người khác. Khi người sáng lập viên tịch, Bửu Sơn Kỳ Hương đã có sinh lực mạnh, lý thuyết và thực hành đi đôi nhau. Thực dân Pháp đến, chiếm trọn Nam Kỳ Lục Tỉnh. Những sự xáo trộn về chánh trị, kinh tế, xã hội diễn ra. Dưới mắt người nông dân miền Nam thuở ấy, rõ ràng là thực trạng nhân tâm ly tán của thời Mạt pháp: “Hạ ngươn giáp Tý đầu tiên. Gẫm trong thiên hạ không yên chỗ nào:. Giáp Tý tức là 1864, hai năm sau khi miền Đông Nam Kỳ chánh thức nhương cho Pháp. Theo truyền thuyết của giáo hệ, Bửu sơn tức là núi quí báu, tức là Thất Sơn mà đỉnh linh thiêng nhứt là núi Cấm; Kỳ Hương tức là mùi thơm lạ. Hội Long Hoa sau thời Mạt pháp sẽ thành lập tại đó.

Người tín đồ tin tưởng rằng; cõi Tiên, cõi Thiên đường sẽ hiện ra tại thế gian này, trong thời rất gần trên lãnh thổ của tỉnh An Giang gần biên giới. Một đệ tử của Phật Thầy Tây an là Trần Văn Thành (về sau được tôn xưng là đức Cố Quản) tích cực vận động tín đồ và đồng bào khởi nghĩa với qui mô khá lớn và liên tục. Ông là quản cơ đời Tự Đức, từng đóng vai trò tích cực trong cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Trung Trực ở Rạch Giá năm 1868. Thoạt tiên, ông chiếm cứ, đóng đồn ở chung quanh đồng Láng Linh. Năm 1871, lần đầu tiên thực dân cho tên đốc phủ Trần Bá Lộc truy nã. Sau đó, ông bố trí những cơ sở phòng thủ hiểm trở hơn. Bọn do thám cho biết hình dáng ông Trần Văn Thành: “Vóc to lớn, mạnh khỏ, gương mặt nghiêm nghị, nhìn thấy làp hải kính trọng và ngưỡng mộ, hăng hoạt động, rất thông minh. Ông lập ra một đạo gọi là đạo Lành. Trong hầu hết các tỉnh ở đất Gia định đều có tín đồ. Tín đồ từ các nơi vì tôn kính ông nên tới mật khu, mang theo nào lúa gạo, sắt (để rèn khí giới). . .
 
 
Tranh Trần Văn Thành được treo tại đền thờ ông.
 
. . .Dân ở làng lân cận bảo vệ ông bằng cách giữ bí mật và không ai đi lọt vào vùng cấm địa” Tháng 2 dương lịch 1872, một môn đệ của ông đi trong tỉnh (Long Xuyên) để phát bùa và một thêm tín đồ. Tháng 4 năm 1872, chủ tỉnh Long Xuyên ra lịnh cho cai tổng Lý Mul (người Miên, làm việc cho Pháp) theo dõi những người tới lui câu cá hoặc đặt lờ đặt lọp ở ngọn Mạc Cần Dung, rồi chín tên chủ tỉnh này phối kiểm các tin tức, ra lịnh bí mật, tránh những hành động quá non có thể làm cho đối phương đề phòng trước. Nhưng cai tổng Lý Mul không được yên tâm, hắn sợ tình thế trở nên rối rắm vì ở mật khu xảy ra quá nhiều cuộc tụ họp đông đảo mà bọn do thám của hắn không tài nào len lỏi vào được. Ở Bảy Thưa, ngày như đêm, để đối phó, lo rèn khí giới, ây đặp đồn lũy, dự trữ thêm nào gạo muối, lương thực. Tri huyện Trần Bá Tường nóng lòng muốn lập công, nên đích thân len lỏi đến gần mật khu rồi báo cáo là đồn lũy đã xây đắp khá kiên cố, tuy nhiên chỉ cần vài người lính mã tà đi với ông ta là có thể dẹp được. Nhưng cai tổng Lý Mul lại can gián.

Chủ tỉnh Long Xuyên là Emile Puech lo bố trí cuộc tảo thanh. Hắn xin quân tiếp viện thêm 40 người từ Cần Thơ, dưới tay hắn đã có chừng 60 lính mã tà. Ngày 19-3-1873, bọn lính mã tà lên đường, mỗi đưa mang theo bốn ngày lương thực và 40 viên đạn. Tên chủ tỉnh chia lính ra từng toán nhỏ, tiếp tay với hắn có đại uý Guyon. Trần Bá Tường lãnh một cánh quân, phó quản Hiếm (phó quản lính mã tà) cũng lãnh một cánh. Hiếm trước kia từng chiến đấu bên cạnh ông Trần Văn Thành thời đàng cựu, rồi đầu thú bọn Pháp.

Khoảng 6 giờ sáng ngày 20-3-1973, bọn Pháp đến cách đồn chánh của mật khu Bảy Thưa chừng hai cây số ngàn, lính mã tà nạp đạn sẵn và được lịnh không nổ súng vô cớ, trừ khi nào đối phương chống cự. Trong đồn, nghĩa quân đã sẵn sàng chờ đợi, tiếng tù và vang lên và nghĩa quân bắn trước. Đến sát đồn, tên chủ tịch tỉnh Puech mới giựt mình vì đối phương quá đông và chiến đấu với phong độ cao. Để đề phòng sự thất bại, chủ tỉn hra lịnh cho hai cánh quân nhỏ (trong đó có huyện Trần Bá Tường) phải tập trung lại. Trần Bá Tường thú nhận là đối phương có khí giới tương đối đầy đủ. Theo lịnh của chủ tỉnh, phải tiết kiệm đạn dược, chờ dịp tốt hãy xung phong.

Ông Trần Văn Thàn vẫn bình tĩnh đối phó, tuy đang bị vây. Ông đứng sau phòng tuyến làm bằng ván với những bao gạo chồng chất. Ông thách thức bọn Pháp, dùng ống loa mà chửi rủa thậm tệ. Đồng thời ông day về phía quân sĩ của mình mà khích động tinh thần; quân sĩ hò reo vang rân, chửi rủa bọn Pháp, trống đánh liên hồi. Ông Trần Văn Thành cắt từng lọn tóc nhỏ của mình mà phân phát cho các tín đồ.

Bọn Pháp được lịnh đánh tràn vào. Ông Trần Văn Thành mặc áo màu đo sậm, đốc thúc chiến sĩ, ra hiệu lịnh, bên ạnh ông là đứa con ruột đang tiếp tay và đích thân ông bắn súng.

Chừng hai giờ sau (9 giờ sáng), cuộc chiến như kết thúc, quân Pháp chiếm đồn. Viên cai tổng Lý Mul, huyện Trần Bá Tường bấy lậu đã từng ra trận vẫn kinh ngạc trước sự gan lì của đối phương và giải thích: đó là ảnh hưởng tinh thần của ông Trần Văn Thành đối với tín đồ.

Bọn Pháp thấy tại trận 10 xác chết của nghĩa quân , 5 người bị thương và bắt sống được 2 người, tịch thâu khá nhiều súng, gươm giáo, lúa gạo, ghe xuồng.

Chúng ước lượng lực lượng nghĩa quân chừng 400 hoặc 500 và than phiền là không thắng trận hoàn toàn. Nghĩa quân chạy thoát quá nhiều vì cánh quân tiếp viện của tỉnh Châu Đốc không chịu tới kịp thời.

Một chi tiết đáng chú ý là phó quản Hiếm và bọn mã tà của y bắt thêm được 13 nghĩa quân: tất cả những người này đều là dân từ Bến Trẻ, từ Trà Vinh đến hưởng ứng chánh nghĩa của ông Trần Văn Thành.

Bọn pháp còn tịch thâu một số giấy tờ, xác phận rằng ông có liên lạc với nhiều tỉnh ở Nam Kỳ để khởi nghĩa, ông đã từng ở Rạch Giá (vụ Nguyễn Trung Trực) và ở Vũng Liêm (có lẽ vụ giết chết tên chủ tỉnh Salicetti).

Rõ ràng là khi người Pháp đến, giáo hệ Bửu Sơn Kỳ Hương đã gây được sự tin cậy của đồng bào và trở thành nơi nương tựa tinh thần cho nghĩa quân từ các nơi muốn tiếp tục chiến đấu chống ngoại xâm.

Tháng sau, ngày 22-4-1873, một nghị định được ban hành do đô đốc Dupré nghiêm cấm không cho dân chúng được theo đạo Lành vì đạo này xúi giục dân đi lạc khỏi đường ngay nẻo chánh. Nghị định nói trên cũng cho biết còn nhiều người đi truyền giảng đạo này ở toàn Nam Kỳ, hàng giáo phẩm của đạo cũng như tín đồ sẽ bị phạt theo luật đàng cựu, xem như là gian đạo sĩ, phiến loạn.
 
 
Cây bảy thưa.
Tại sao gọi Bửu Sơn Kỳ Hương là đạo Lành?
Vài tài liệu của Pháp dịch là đạo dạy việc làm lành (làm lành lánh dữ). Có người cho là đạo của ông Trần Văn Thành nhưng người Pháp nói trại ra đọc theo giọng Pháp? Nhưng chúng tôi đã thấy nhiều công văn của Pháp lúc sau cũng ghi là đạo Lành. Nên nhớ lúc bấy giờ người Pháp đã mua chuộc được một số nho sĩ thân hào để làm cố vấn cho họ trong việc nội trị, lẽ nào người Việt lại lầm lẫn? Theo thiển ý chúng tôi, đương thời ông Trần Văn Thành được gọi là ông quản Thảnh. Có lẽ đồng bào lúc bấy giờ gọi trại ra, vì cử tên ông nên Thành đổi ra Lành. Hoặc đó là danh xưng riêng mà người trong đạo cố ý đặt ra để che mắt nhà cầm quyền, khiến chúng khó có lý do đàn áp hoặc ngăn cấm; vô đạo chỉ là để làm điều lành thôi, chớ không phải để chống Pháp như ông Trần Văn Thành của phải Bửu Sơn Kỳ Hương.

Cuộc tấn công của quân Xiêm vào Nam Kỳ năm 1783 những điều mà sử sách Việt Nam chưa nói đến


Cuộc tấn công của quân Xiêm vào Nam Kỳ năm 1783 những điều mà sử sách Việt Nam chưa nói đến 
 
Quan hệ giữa hai nước Thái Lan và Việt Nam trong lịch sử không có lúc nào mật thiết như thời chúa Nguyễn Phúc Ánh. Sự kiện được các Biên niên sử Thái Lan và chính sử Việt Nam, bộ Đại Nam thực lục ghi chép khá tỉ mỉ. Nhưng có một sự kiện mà chính sử nhà Nguyễn không nói đến: đó là chuyện Phráya Nakhon Sạvẳn tướng Xiêm La năm 1783 đã được lệnh vua Xiêm mang quân sang đánh Tây Sơn giúp Chúa Nguyễn Phúc Ánh đánh thắng Tây Sơn chiếm được chiến thuyền, tù binh và vũ khí nhưng đã giao trả lại cho Tây Sơn, làm cho vua Xiêm giận phải gọi về bắt xử tử hình và bâu đầu tất cả 12 tướng lĩnh. Sự kiện này xảy ra năm 1783 trước trận Rạch Gầm - Xoài Mút một năm.
 
Khi đọc lại bộ Đại Nam thực lục và so sánh, đối chiếu với Biên niên sử Xiêm La thì nhận thấy rằng chính sử Việt Nam ghi năm chúa Nguyễn Phúc Ánh qua Xiêm là năm 1784 sau năm trong Biên niên sử Xiêm La 2 năm (Biên niên sử XiêmLa ghi 1782) và đã bỏ qua không khi chép việc vua Xiêm cho quân đi đánh giúp chuyến thứ nhất năm 1783 do Phráya Nokhon Sạvẳn chỉ huy. Quân Xiêm mang 300 chiến thuyền và hai vạn quân qua Gia Định và bị Nguyễn Huệ đánh tan ở Rạch Gầm theo Biên niên sử Xiêm là chuyến thứ hai năm 1784.
Đại Nam thực lục (bản dịch) tập 2, trang 54 ghi:
…Tháng 3 (năm Giáp Thìn, năm thứ 5 (1784) Lê Cảnh Hưng năm thứ 45, Thanh Càn Long năm thứ 49) Vua đến thành Vọng các…”.
…“Mùa hạ tháng 6 Vua từ nước Xiêm đem quân về Gia Định. Vua Xiêm sai cháu là Chiêu Tăng và Chiêu Sương đem 2 vạn thuỷ quân và 300 chiến thuyền để giúp…”.
Điểm đáng hoài nghi là Đại Nam thực lục ghi rằng Nguyễn Phúc Ánh qua Xiêm tháng 3 năm 1784, đến tháng 6 đã mang quân Xiêm trở về thì có lẽ quá nhanh nếu ta nghĩ đến thời gian thương thuyết và chuẩn bị mọi mặt.
Rama I
Trái lại, Biên niên sử Xiêm La ghi rằng Chúa Nguyễn Phúc Ánh qua Xiêm năm 1782, năm sau tức năm 1783 Vua Xiêm ra lệnh cho Phráya Nakhon Sạvẳn mang quân qua đánh Tây Sơn giúp Nguyễn Phúc Ánh lấy lại Sài Gòn và năm sau nữa 1784 lại một lần nữa cho thêm hai vạn quân và 300 chiến thuyền cùng đi với chúa Nguyễn Ánh trở về, nhưng bị Nguyễn Huệ đánh tan ở Rạch Gầm - Xoài Mút. Tư liệu của Biên niên xử Xiêm nghe chừng đáng tin hơn.
Hoàng tử Krôm Phráya Đămrông Ratxanúpháp trong quyển Biên niên sử triều Rắttanacôxỉn, Vua thứ hai, in năm 1762 tập 1 trang 66 đã khẳng định:
“Từ lúc Ông Txiêng Xử qua cầu viện thì Hoàng thượng Phrá Phút thá Yót Phá Chụlalôốk đã ra lệnh cho quân đội Xiêm và quân đội Chân Lạp đi đánh Sài Gòn giúp Ông Txiêng xử một lần hồi năm Mão, can thứ 5 tức năm 2326 Phật lịch (năm 1783 dương lịch - người dịch) và một lần nữa vào năm Thìn, can thứ 6 tức năm 2327 Phật lịch (năm 1784 dương lịch - người dịch). Nguyên nhân sự không thành công cả hai lần là vì Băng Cốc đang có chiến tranh với Miến Điện không có thể mang cả lực lượng đi đánh nước Yuon được…”.
Và ở trang 67 đã nhắc lại rằng:
…“Vua ta đã có lòng tốt nuôi nấng (Ông Txiêng Xử) và đã cho quân đội giúp đi đánh lấy lại đất nước đến 2 lần nhưng không thành vì Vua ta đang vướng chiến tranh với Diến Điện…”.
Cháu Phráya Thiphaconvông trong sách Biên niên sử Hoàng gia triều Rắttanacôxỉn, thời Vua thứ nhất, trang 30, dưới đề mục “Ông Txiêng Xử đến xin cầu viện” đã viết:
…“Phráya Txônburi đã dẫn Ông Txiêng Xử vào đến Krung thếp vào đầu tháng 4 năm Dần, can thứ 4, tiểu nguyên 1144 (1782 dương lịch - người dịch). Lúc vào đến đại kinh đô Krung thếp thì Ông Txiêng Xử được 33 tuổi. Hoàng thượng bèn cho Ông Txiêng Xử và gia quyến xây dựng nhà cửa ở phía Nam Làng Tốn Xẳm Rôông nơi mà về sau Vua ban cho Tổng lãnh sự Bồ Đào Nha…”.
Và ở đề mục “Quân đội Phráya Nakhon Sạvẳn đi đánh Sài Gòn” trang 43 đã viết:
“Trong năm Mão, can thứ 5, tiểu nguyên 1145 ấy (năm 1783 dương lịch - người dịch) Hoàng thượng đã có thiện ý sai Phráya Nakhon Sạvẳn mang quân đi xứ Campuchia bắt lính Cao Mên thêm vào rồi mang đi đánh Yuon lấy thành Sài Gòn lại cho Ông Txiêng Xử người đã vào nhờ sự che chở của Hoàng thượng. Phráya Nakhon Sạvẳn vào lạy từ giã Vua rồi mang quân đi nước Campuchia theo lệnh Vua. Khi đến nước Campuchia thì bắt lính người Campuchia thêm vào quân đội rồi mang thuỷ quân xuống nước Yuon. Phía Ông Tịnh Vương chậu mường Sài Gòn báo tin lên là quân đội Xiêm lấn biên thuỳ vào, rồi sai thuỷ quân và đình thần thành Sài Gòn đi giữ thành Sađéc, đã chiến đấu rất mãnh liệt. Phraya Nakhon có tài đánh trận và có sức, đã đánh nhau với Yuon nhiều trận, bắt được chiến thuyền, tù binh kể cả vũ khí, đại bác cả to lẫn nhỏ khá nhiều, rồi giao trả lại cho quân đội Yuon. Phráya Vixítnarông và nhiều tướng sĩ khác thấy rằng Phráya Nakhon Sạvẳn làm sai có ý phiến loạn muốn theo phe quân thù nên đã gửi cáo trạng vào Băng Cốc để tâu Vua và Hoàng đế rõ. Hoàng thượng biết tin rất giận, cho đình thần mang biểu gọi Phráya Nakhon Sạvẳn trở về Băng Cốc lập tức, và sai các đại thần kiểm tra xét xử, được sự thật như báo cáo, bèn cho mang Phráya Nakhon Sạvẳn và các tướng sĩ đồng phạm tất cả 12 người mang đi xử tử ở Nghĩa trang Chùa Phôtharam ở phía Đông kinh đô”.
Bộ Biên niên sử Hoàng gia bản có chữ viết của nhà Vua lại còn thêm chi tiết là sau khi xử tử hình, lại còn đem đầu của tội phạm bêu ở nơi công cộng.
Như ta đã thấy, bộ Đại Nam thực lục bỏ qua sự kiện xảy ra 2 năm đầu khi chúa Nguyễn Phúc Ánh vào Băng Cốc (1782 và 1783) mà chỉ ghi lại là Chúa Nguyễn Phúc Anh vào Băng Cốc năm 1784, đến nơi được 3 tháng là mang quân đội Xiêm trở về ngay.
Ở Băng Cốc mới đây có phát hành quyển Lời (Vua thứ 5) bình phẩm về hồi ký Bà Chị Vua thứ nhất trong đó ở trang 199 có đoạn viết về sự kiện này:
…“Việc hai lần mang quân đi giúp Ông Txiêng Xử, lần đầu năm Mão can thứ 5, tiểu nguyên 1145 (1783 dương lịch - người dịch) Hoàng thượng sai Phráya Nakhon Sạvẳn mang bộ binh đi phía trước Campuchia và sai bắt lính Campuchia thêm vào quân đội mang xuống đánh thành Sài Gòn. Thời ấy thành Sài Gòn thuộc về bọn Tây Sơn. Ông Tinh Vương cai trị thành Sài Gòn. Quân Xiêm đã đánh nhau với Yuon nhiều trận. Phráya Nakhon Sạvẳn có tài và có sức đã thắng. Nhưng không hiểu vì lý do gì, Phráya Vitxítnárông và quan thần trong quân đội ấy đã dâng cáo trạng rằng Phráya Nakhon Sạvẳn khi được thuyền và tù binh Yuon, lại giao trả lại cho tướng Yuon, các tướng sĩ tình nghi là theo quân địch, dâng cáo trạng lên. Vua thấy rằng trong quân đội mất thuận hoà với nhau khó chiến đấu thành công nên cho gọi quân đội trở về. Phráya Nakhon Sạvẳn bị xử tử hình. Việc này cả biên niên sử Hoàng gia và Biên niên sử triều Rắttanacôxỉn đều ghi chép như nhau nhưng Biên niên sử Yuon không nói đến (sách Phông xảvađan Yuon của ông Yoỏng - người dịch).
Vua Xiêm thứ 5 đã chú ý thấy rằng chính sử Việt Nam ở sách của Ông Yoỏng không nói đến chiến dịch 1783 của Phráya Nakhon Sạvẳn nên đã góp ý kiến về lý do tại sao chính sử Việt Nam không ghi chép chuyện này rằng:
…“Có lẽ vì chính sử Việt Nam có mục tiêu chỉ nói về một mình Ông Txiêng Xử. Người viết sách gọi là Biên niên sử nhưng chỉ viết về hành động và sự kiện về Ông Txiêng Xử, thành ra chỉ là tiểu sử của Ông Txiêng Xử, không phải là Biên niên sử. Sở dĩ không chép sự kiện này lý do có thể là vì Ông Txiêng Xử không cùng đi trong quân đội nên không ghi trong tiểu sử Ông Txiêng Xử.
Trái lại khi Krômmaluổng Thếp-hạrịrắc mang quân đi năm Thìn can thứ 6, tiểu nguyên 1146 (1784 dương lịch - người dịch) thì có Ông Txiêng Xử cùng đi trong quân đội nên Biên niên sử Yuon ghi lại…”.
Tư liệu của các biên niên sử và sách sử học Thái Lan giúp ta thêm chi tiết để ta có thể so sánh, đối chiếu tìm ra tư liệu chính xác về lịch sử nước nhà.
Nguồn: Xưa & Nay, số 259, 5/2006, tr 33 - 35

Chủ tỉnh Pháp ở Nam Bộ thời thuộc Pháp

A. Chủ tỉnh Long Xuyên (1868 - 1923):

  1. C. Alexandre : tháng 5/1868 - tháng 1/1869
  2. A. Paulinier:  tháng 1/1869 - tháng 11/1869
  3. C. Lucas: tháng 11/8169 - tháng 6/1870
  4. C. Eymard Rapin: tháng 6/1870 - tháng 9/1870
  5. A. Gay de Taradel: tháng 9/1870 - tháng 1/1871
  6. E. Villard: tháng /1871 - tháng 5/1871
  7. Durand Saint Amand:  tháng 5/1871 - tháng 6/1871
  8. J. Puech: tháng 6/1871 - tháng 4/1873
  9. E. Villard: tháng 4/1873 - tháng 1/1874
  10. A. Henry: tháng 1/1874 - tháng 2/1875
  11. A. Huynh de Verneville: tháng 2/1875 - tháng 1/1876
  12. E. Briere: tháng 1/1876 - tháng 7/1878
  13. A. Henry: tháng 7/1878 - tháng 4/1882
  14. G. Bertin:  tháng 4/1882 - tháng 9/1883
  15. V. Chenieux:  tháng 9/1883 - tháng 2/1884
  16. V. Bes d'Albaret: tháng 2/1884 - tháng 7/1884
  17. O. Caffort:  tháng 7/1884 - tháng 4/1885
  18. E. Bertin d'Avesnes:  tháng 4/1885 - tháng 1/1886
  19. E. Chenieux:  tháng 1/1886 - tháng 8/1886
  20. Laffont:  tháng 8/1886 - tháng 1/1887
  21. Gaillard: tháng 1/1887 - tháng 3/1887
  22. E. Bertin d'Avesnes:  tháng 3/1887 - tháng 1/1890
  23. Bos: tháng 1/1890 - tháng 9/1890
  24. Henry:  tháng 9/1890 - tháng 1/1894
  25. Doceul: tháng 1/1894 - tháng 9/1894
  26. Crestien: tháng 9/1894 - tháng 8/1896
  27. Brathouil de Taillac:  tháng 8/1896 - tháng 6/1903
  28. Cabanne de Laprade: tháng 6/1903 - tháng 11/1905
  29. Moreau: tháng 11/1905 - tháng 8/1907
  30. Valentin: tháng 8/1907 - tháng 4/1909
  31. O'Connell: tháng 4/1909 - tháng 8/1912
  32. Cabanne de Laprade: tháng 8/1912 - tháng 9/1913
  33. Renault:  tháng 9/1913 - tháng 11/1913
  34. Davoine: tháng 11/1913 - tháng 11/1914
  35. Hubert Delisle: tháng 11/1914 - tháng 12/1915
  36. Le Bret:  tháng 12/1915 - tháng 5/1920
  37. Leon Mossy:  tháng 5/1920 - tháng 4/1923
  38. Henry Pommez: tháng 6/1923 ...
DANH SÁCH ĐỐC LÝ VÀ THỊ TRƯỞNG CỦA THÀNH PHỐ HÀ NỘI TỪ 1885 ĐẾN 1954
Tên và họ
Thời gian giữ chức
SALLE XAVIER Léandre
Từ 6-10-1885 đến 5-9-1886
LEPROUX Charles
Từ 6-9-1886 đến 5-10-1886
HALAIS Charles
Từ 6-10-1886 đến 18-7-1888
TIRANT Gilbert
Từ 19-7-1888 đến 7-6-1889
LANDES Charles
Từ 8-6-1889 đến 15-1-1890
DEFRENEL Paul
Từ 16-1-1890 đến 23-4-1890
TIRANT Gilbert
Từ 24-4-1890 đến 22-6-1891
BEAUCHAMP Laurent
Từ 23-6-1891 đến 10-5-1893
BAILLE Frédéric
Từ 11-5-1893 đến 27-11-1894
MOREL Jules
Từ 28-11-1894 đến 11-6-1897
LACAZE Antoine
Từ 12-6-1897 đến 1-9-1898
MOREL Jules
Từ 2-9-1898 đến 1-3-1899
LACAZE Antoine
Từ 2-3-1899 đến 5-4-1899
BAILLE Frédéric
Từ 6-4-1899 đến 17-3-1901
PRETRE Charles
Từ 18-3-1901 đến 1-6-1901
METTETAL Frédéric
Từ 1-6-1901 đến 31-7-1901
PRETRE Charles
Từ 1-8-1901 đến 21-11-1901
BAILLE Frédéric
Từ 22-11-1901 đến 31-3-1903
DOUMERGUE Eugène
Từ 1-4-1903 đến 6-10-1904
METTETAL  Frédéric
Từ 7-10-1904 đến 24-11-1904
GAUTRET
Từ 25-11-1904 đến 7-1905
HAUSER
Từ 7-1905 đến 2-1906
LOGEROT
Từ 2-1906 đến 2-1907
HAUSER
Từ 2-1907 đến 23-4-1908
DE BOISADAM
Từ 24-4-1908 đến 4-8-1908
LOGEROT
Từ 5-8-1908 đến 28-1-1911
DE BOISADAM
Từ 28-1-1911 đến 9-1-1912
LOGEROT
Từ 9-1-1912 đến 24-2-1915
PASQUIER Pierre
Từ 24-2-1915 đến 15-1-1917
FRUTEAU
Từ 15-1-1917 đến 7-2-1917
JABOUILLE Edmond
Từ 8-2-1917 đến 24-5-1919
SZIMANSKI
Từ 26-5-1919 đến 18-7-1921
PECH Louis
Từ 18-7-1921 đến 26-10-1921
MOUROUX Maticu Joseph
Từ 26-10-1921 đến 31-3-1924
ECKERT Louis Frédéric
Từ 1-4-1924 đến 8-6-1925
DUPUY Paul
Từ 9-6-1925 đến 30-8-1927
THOLANCE Auguste
Từ 31-8-1927 đến 8-5-1929
DELSALLE Pierre Abel
Từ 8-5-1929 đến 24-3-1930
THOLANCE Auguste
Từ 25-3-1930 đến 2-12-1930
GUILLEMAIN Eugène
Từ 3-12-1930 đến 28-3-1933
ECKERT Louis Frédéric
Từ 29-3-1933 đến 1-1-1934
VIRGITTI Henri
Từ 1-1-1934 đến 10-11-1938
HOULIE
Từ 11-11-1938 đến 20-11-1938
GALLOIS-MONTBRUN
Từ 21-11-1938 đến 21-7-1939
Edouard DELSALLE
Từ 24-8-1939 đến 7-3-1941
Camille CHAPOULART
Từ 8-3-1941 đến 29-9-1942
Guiriec HYACINTHE
Từ 30-9-1942 đến 30-9-1943
De PEREYRA
Từ 1-10-1943 đến 9-3-1945
Maruyama
Từ 10-3-1945 đến 20-7-1945
Trần Văn Lai
Từ 21-7-1945 đến 19-8-1945
Trần Duy Hưng
Từ 30-8-1945 đến 12-1946
Bùi Văn Quý
Từ 10-3-1948 đến 12-1948
Phan Xuân Đài
Từ 1-1949 đến 27-2-1950
Thẩm Hoàng Tín
Từ 27-2-1950 đến 8-8-1952
Đỗ Quang Giai
Từ 8-8-1952 đến 10-1954