Chiến tranh Triều Tiên
1. Triều Tiên từ 1910_1945:
Trước chiến tranh,Triều Tiên là thuộc địa của Nhật (29/8/1910) và trở thành một căn cứquan trọng trong chiến tranh thế giới thứ hai. Theo các tài liệu lịch sử, trong cuộc chiến tranh Thái Bình Dương, Nhật đã huy động 6 triệungười dân Triều Tiên tham gia chiến đấu bên quân Nhật, và đã có 440.000 người chết, 1,6 triệu người bị thương. Dưới ách thống trị tàn bạo củaNhật, nhân dân Triều Tiên nhiều lần khởi nghĩa giành độc lập và họgiành nhiều thắng lợi lớn. Đến cuối chiến tranh thế giới thứ hai, cácnước đế quốc họp Hội nghị Cairo, Yanta và Postdam để bàn về vấn đề độclập của Triều Tiên. Tại Hội nghị Cairo (23-25/11/1943), Mỹ, Anh và Trung Quốc (Tưởng Giới Thạch) đã họp và ra thông báo chung đề ngày 1/12/1943 bày tỏ: "sự lưu tâm đối với tình cảnh nô dịch của người dân Triều Tiên và quyết tâm rằng Triều Tiên sẽ được tự do và độc lập vào lúc thích hợp".
ba nguyên thủ quốc gia ở Hội nghị Cairo tháng 11/1943. Từ trái qua: Thống chế Trung Hoa Dân Quốc Tưởng Giới Thạch, Tổng thống Mỹ Roosevelt và Thủ tướng Anh Churchill
Lúc thích hợp đó là lúc nào ? Các đế quốc vẫn đang loay hoay tìm ra câu trả lời thích hợp cho vấn đềnày. Đến Hội nghị Yalta, Tổng thống Mỹ Roosevelt đã nói với Thống chế Liên Xô Stalin về "khả năng" thiết lập ở Triều Tiên một chế độ "giám hộ" mà Mỹ, Anh và Trung quốc sẽ đảm trách. Ông xác định rõ ràng đầy tuyệt nhiên không phải là chế độ "bảo hộ" và nói rằng những nước được giao nhiệm vụ bảo trợ vừa nên có nhiệm vụ giúp đỡ người dân Triều Tiên để sau khoảng thời gian từ 20_30 năm, họ có thể tự cai quản đất nướcmình. Còn tuyên cáo Postdam đề ngày 26/7/1945 đã khẳng định lại nội dung của Tuyên bố Cairo về quyết tâm của các nước thắng trận là sẽ "trao trả độc lập" cho Triều Tiên.
2. Triều Tiên 1945-1950
Theo quy định của Hội nghị Postdam, quân Liên Xô sẽ tiến vào Bắc Triều Tiên và Mỹ sẽ tiến vào Nam Triều Tiên.
bản đồ Triều Tiên sau Hội nghị Postdam
_ Ở Bắc Triều Tiên, quân Liên Xô cùng với hồng quân gồm những người cộng sản Triều Tiên (do Kim Nhật Thành chỉ huy) tiến ngay vào vùng đất này trong chiến dịch tấn công đạo quân Quan Đông của Nhật. Với sự giúpđỡ của Liên Xô, Đảng Cộng sản Triều Tiên được khôi phục, những người cộng sản bắt đầu thành lập ngay các ủy ban cách mạng để nắm quyền quảnlý hành chính cả hai miền Nam_Bắc, trước khi quân Mỹ đến. Ngày 6/9, các đại biểu cộng sản họp ở Seoul (Hán Thành) để thành lập một chính phủgồm các đại biểu cộng sản, các tổ chức từng tham gia kháng Nhật trở về,với thẩm quyền bao trùm khắp nước, và chính phủ này khi thành lập đãđược toàn dân chào đón nhiệt liệt.
_ Ở Nam Triều Tiên, quân Mỹ bắt đầu đổ bộ vào. Tư lệnh Mỹ là Hodge tuyên bố không thừa nhận chínhphủ mới do người Triều Tiên thành lập và bắt phải giải tán, thay vàođó, quân Mỹ sẽ lập một chính quyền quân sự Mỹ ở Triều Tiên (USAMIGIK),với sự tham gia của các viên quan cai trị người Nhật cũ ở Triều Tiên. Chính quyền này dĩ nhiên chỉ có quyền lực ở miền Nam và bị nhân dânTriều Tiên căm ghét.
Thực ra, việc chia cắt Triều Tiên này chỉ là một phần trong cuộc chiến tranh toàn cầu mà Mỹ dự định sẽ thực hiện để thôn tính Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, nhằm loại chủ nghĩa xã hội ra khỏi thế giới này. Tháng 9/1945, khi tướng Mỹ MacArthur kéo quân Mỹ đổ bộ thẳng vào Nam Triều Tiên mà không đổ một giọt máu nào, hắn ngang nhiên tuyên bố rằng: quân Mỹ sẽ thực hiện quyền "quân sự" của mình tại Triều Tiên, buộc nhân dân ở đó phải phục tùng Mỹ, nếu không sẽ bị trừng phạt.
Đúng như vậy, Mỹ ngay từ đầu đã có kế hoạch đặt chế độ ủy trị lâu dài, âm mưu ngăn cản độc lập của Triều Tiên. Trong bản tuyên bố ngày 18/9/1945, Tổng thống Mỹ Truman bội ước và công khai phản đối Triều Tiên giành độc lập. Ngày 20/10, Vụ trưởng Vụ Viễn Đông Mỹ là Vincent tuyên bố: " Triều Tiên không thể trực tiếp đi tới tự trị. Cho nên, Hợp chúng quốc Mỹ tán thành việc quy định thời gian ủy trị để chuẩn bị cho Triều Tiên được độc lập" (New York Times, 20/10/1945).
Đến tháng 12/1945, khi quyết nghị của Hội nghị Ngoại trưởng Tam cường ở Moscow (gọi tắt là quyết nghị Moskva) bàn về việc thực hiện chế độ ủy trị của 3 cường quốc là Liên Xô, Mỹ và Trung quốc trong 5 năm với Triều Tiên được công bố,người dân Triều Tiên hết sức bất bình. Nhiều chính đảng tiến hành cáccuộc biểu tình phản đối quyết nghị, nhưng Đảng Cộng sản Triều Tiên lại đồng ý nó.
Thực hiện quyết nghị Moskva, một ủy ban liên hợp Xô_Mỹ được tổ chức đểbàn về việc tiếp xúc với các đảng phái, các tổ chức chính trị ở TriềuTiên, lập ra chính phủ lâm thời chung cho cả hai miền (do các đế quốc quản lý). Ủy ban này đã họp tổng cộng 24 lần. từ 20/3 đến 6/5/1946. Vềviệc tiếp xúc các tổ chức, các chính đảng ở Triều Tiên, Liên Xô đề nghị nên tham khảo ý kiến riêng của những đảng nảo tám thành quyết nghị Moskva, nhưng Mỹ cho rằng cần phải tham khảo hết các chính đảng nào không tổ chức biểu tình chống lại ủy ban liên hợp. Và thực tế là như vậy. Chính Mỹ ngang nhiên phá hoại ủy ban liên hợp, gạt bỏ ý nghĩ là phải lập chính phủ thống nhất nhu Hội nghị Tứ cường quy định.
Về chính sách đối với Triều Tiên thì hai bên Xô, Mỹ luôn tranh cãi, bất đồng với nhau và không có ý kiến thống nhất.
Về thành lập chính phủ:
_ Mỹ: họ cho rằng nên tiến hành bầu cử tự do ở mỗi miền để thành lậpcác quốc hội lâm thời, và các quốc hội này sẽ tổ chức bầu cử chính phủchung cho toàn quốc.
_ Liên Xô: thành lập "Hội nghị nhân dân" duy nhất cho cả nước, bao gồm các đảng phái và các tổ chức tánthành quyết nghị Moskva, số lượng thành viên tham gia ở hai miền ngangnhau, đề cử ra chính phủ lâm thời.
Và thực tế là đúng như vậy. Ở miền Bắc, vào tháng 2/1946, Liên Xô đã thiết lập một chính quyền do Đảng Lao động (do Đảng cộng sản Triều Tiên đổi tên từ 10/10/1945) làm nòng cốt với người đứng đầu là Kim Il Sung (Kim Nhật Thành). Vào tháng 3/1946, chính quyền này tiến hành cải cách ruộng đất.Chính quyền đã tiến hành chia ruộng đất cho nông dân và kết quả là có khoảng 725.000 nông dân không có ruộng được nhận phân nửa số ruộng đất. Cuộc cải cách đạt nhiều thành công. Ngoài ra, việc quốc hữu hóa công nghiệp cũng được chính phủ chú ý. Thời Kim Nhật Thành, tổng sản lượng công nghiệp tăng 126% so với 1946, kế hoạch kinh tế quốc dân (1948) cũng hoàn thành thắng lợi
Kim Nhật Thành (Kim Il Sung)
Ở miền Nam, ngày 14/2/1946,người Mỹ đỡ đầu cho việc thành lập "Hội đồng đại diện dân chủ Triều Tiên", với thành phần tham gia Hội đồng này là các địa chủ, tư sản và các phần tử bảo thủ, còn những người theo xu hướng tự do từ chối tham gia. Đứng đầu Hội đồng này là Lý Thừa Vãn (Syngman Rhee)_một chínhkhách độc đoán, bảo thủ, 70 tuổi, từng sống 37 năm trên đất Mỹ. Ông ta và tướng Hodge khá hợp nhau về tính cách, và họ không làm được gì đểgiúp đỡ người dân Nam Triều Tiên cả. Hội đồng này chỉ là cơ quan tưpháp tuân theo mệnh lệnh của Mỹ. Mặc dù nhiều lần Mỹ muốn tiến hành cải cách ở Nam Triều Tiên, nhưng đều bị Lý Thừa Vãn từ chối. Hai bên đã phải "đàm phán kịch liệt" để rồi cuối cùng Lý mới chịu cho Mỹ cải cách.Năm 1948, tức là hai năm sau cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc, Mỹ mới đem 29 vạn ha ruộng đất trước đây thuộc quyền sở hữu của Nhật đem chia cho tá điền. Và cuộc cải cách dừng lại ở đây.
Trở lại về chính sách của Xô, Mỹ về vấn đề Triều Tiên, thì sau Hội nghị Tam cường, hai bên đã tranh cãi kịch liệt mà không đi đến quyết định thống nhất nào. Điều này xuất phát từ lập trường của hai bên về vấn đềnày. Trong chiến tranh lạnh, hai bên cạnh tranh, đối đầu nhau kịch liệt ở các nước trên thế giới, trong đó có Triều Tiên. Liên Xô muốn thành lập chính phủ chung để thống nhất hai miền làm một, xây dựngnó thành một nước xã hội chủ nghĩa tiếp sau mình, làm "bệ phóng" chochế độ xã hội chủ nghĩa phát triển lan sang các nước khác trên thếgiới, giúp đỡ phong trào giai phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụthuộc phát triển để từng bước làm tan rã dần hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc trên thế giới. Nhưng Mỹ lại khác Liên Xô. Mỹ muốn thành lập hai chính phủ riêng biệt ở hai miền, với chế độ chính trị,kinh tế, xã hội khác nhau nhằm chia cắt, tách biệt hai miền ra, mỗimiền có chế độ khác nhau để nhằm mục đích ngăn cản sự thống nhất, chống Liên Xô, xây dựng chế độ tư bản chủ nghĩa ở miền Nam là để chốngchế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, và âm mưu thiết lập ở miền Nam một "thuộc địa kiểu mới" làm bàn đạp tấn công các nước xã hội chủ nghĩakhác, trong đó có Việt Nam.
Một lý do khác cũng khiến Mỹ quyết tâm chia cắt Triều Tiên, đó là để hợp pháp hóa cho hành động phi nghĩa này, Mỹ quyết định đưa vấn đề Triều Tiên ra Liên Hiệp Quốc, nâng đỡ chính phủ bù nhìn Nam Triều Tiên, cự tuyệt mọi yêu cầu cố thống nhất của nhân dân Triều Tiên.
Để khai thông thế bế tắt trong việc giải quyết vấn đề Triều Tiên, Mỹ đã đưa vấn đề này ra Liên Hiệp Quốc. Mặc dù bị Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác phản đối, Mỹ vẫn cứ tiến hành và đến ngày10.10.1947 thông qua quyết nghị về vấn đề Triều Tiên. Quyết nghị có các nội dung chính sau:
_ Tổ chức tổng tuyển cử trước ngày 31/3/1948 để bầu Quốc hội và thành lập chính phủ chung cho cả nước.
_ Thành lập "Ủy ban lâm thời của LHQ về vấn đề Triều Tiên gồm 9 nước là Úc, Pháp, Ấn Độ, Trung Quốc, El Salvador, Syria và Ukraina. Ủy ban nàycó nhiệm vụ xúc tiến và kiểm soát cuộc tổng tuyển cử và việc thành lập chính phủ trên cơ sở hiến pháp dân chủ, thúc đẩy việc rút quân độichiếm đóng ra khỏi Triều Tiên.
_ Quân đội Mỹ và quân đội Liên Xô sẽ đóng ở Triều Tiên 90 ngày sau khi chính phủ được thành lập, cólực lượng cảnh sát giữ gìn trật tự trị an.
Ngày 14/11, Ủy ban lâm thời được thành lập và đi vào hoạt động, nhưng nó chỉ hoạt động ở Nam Triều Tiên vì ở miền Bắc, Liên Xô và chính phủ Bắc Triều Tiên cấm nó hoạt động. Ngày 10/5/1948, Ủy ban đã tổchức tổng tuyển cử bầu quốc hội (ở miền Nam). Đảng cánh hữu của Lý ThừaVãn chiếm đại đa số và đứng ra thành lập chính phủ. Ngày 12/7, Hiến pháp của Cộng hòa Triều Tiên ( tức Đại Hàn dân quốc, gọi tắt là Hàn Quốc) được thông qua và Lý trở thành tổng thống đầu tiên của nước cộng hòa. Chính phủ Hàn Quốc đóng ở Seoul (Hán Thành), cai trị trên lãnh thổ rộng 98.400 km2, dân số 25 triệu người.
Ngày 12/12, Liên Hiệp Quốc công nhận chính phủ Lý Thừa Vãn, đến 1/1/1949, Mỹ chính thức công nhận chính phủ này.
Tổng thống Lý Thừa Vãn nhờ Tướng Douglas MacArthur chống quân cộng sản miền Bắc
Quốc kỳ Nam Triều Tiên
bản đồ Nam Triều Tiên
Tại miền Bắc, vào ngày 25/8/1948 đã diễn ra cuộc bầu cử vào"Hội đồng nhân dân Triều Tiên" tức Quốc hội Bắc Triều Tiên. Trong Quốchội có 212 người miền bắc, 300 người miền nam. Ngày 9/9, Quốc hội tuyênbố thành lập chính phủ mới do Kim Nhật Thành (Kim Il Sung) đứng đầu, vàđặt tên nước là Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên (CHDCND Triều Tiên), đóng đô ở Bình Nhưỡng (Pyongyang), cai trị trên lãnh thổ có diện tích 122.400 km2, dân số 11 triệu người. Ngày 12/10, Liên Xô công nhận CHDCND Triều Tiên và tiếp sau đó các nước XHCN Đông Âu cũng thừa nhận nhà nước này.
Ở Bắc Triều Tiên, Đảng Lao động nắm toàn quyền lãnh đạo đất nước về các mặt:kinh tế, chính trị, xã hội. Về kinh tế, chính phủ tiến hành kế hoạch "kinh tế quốc dân" trong hai năm 1949-1950, và đạt nhiều thành tựu lớn. So với 1946, tổng sản lượng công nghiệp năm 1949 tăng 237%, ngũ cốc tăng 40 %, cơ sở vật chất kỹ thuật cũng được xúc tiến phát triển mạnh mẽ. Chính phủ tổ chức quân đội vững mạnh, thấm nhuần chủ nghĩa Marx_Lenin, trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, có tình thân ái vời đồng bào, được rèn luyện lâu dài trong quân ngũ và có tính kỷ luật cao. Về chính trị, Bắc Triều Tiên cũng có sự chuyển biến tích cực. Trong lúc quân đội Liên Xô rút hết về nước trao quyền tự quản cho mình, chính phủ đã liên hợp với 72 chính đảng và đoàn thế xã hội của hai miền đã tồi chức thành lập Mặt trận dân chủ Thống nhất Triều Tiên, ra "tuyên ngôn" kêu gọi: quân đội nước ngoài phải rút hết khỏi Triều Tiên, cho nhân dân được thực hiện quyền tự quyết của mình, nêu rõ nguyện vọng nhất trí hòa bình và nguyên tắc thực hiện nó.
Kim Nhật Thành tuyên bố thành lập Cộng hào Dân chủ Nhân dân Triều Tiên (1948)
bản đồ Bắc Triều Tiên (CHDCND Triều Tiên)
Quốc kỳ Bắc Triều Tiên | quốc huy Bắc Triều Tiên |
thủ đô Bình Nhưỡng của Bắc Triều Tiên.
Vài tháng sau, Ủy ban lâm thời lại đề nghị kết nạp hai nước Triều Tiên vào Liên Hiệp Quốc, nhưng do hai siêu cường chống đối nhau kịch liệt nên cả hai nước đều không được vàoLiên Hiệp Quốc. Tháng 12/1948, Ủy ban lâm thời đổi tên thành Ủy ban thường trực về vấn đề Triều Tiên , với nhiệm vụ thúc đẩy nỗ lực thống nhất hai miềm thành một nước thống nhất dưới sự lãnh đạo của một chínhphủ chung
Tháng 12/1948, sau khi trang bị đầy đủ cho quân và du kích Triều Tiên, Liên Xô rút quân về nước. Nối gót Liên Xô, Mỹ cũng rút quân về nước sau khi để lai một phái đoàn quân sự 500 người giúp đỡ quân Hàn.
Tóm lại, giống như hai nước Đức, sự thành lập hai nước Triều Tiên là kết quả của hai đường lối trái ngược nhau giữa Mỹ và Liên Xô sau chiến tranh. Điều đó cho thấy sự nhất trí giữa các nước Đồng minh không còn nữa, thay vào đó là sự đối đầu của thế giới "hai cực" mà Triều Tiên là một điểm nóng.
Một ý nữa cũng cần nêu ra ra đây, đó là đồng thời với việc đưa Triều Tiên ra Liên Hiệp Quốc, Mỹ còn đặt ra kế hoạch xây dựng căn cứ lâu dài ở àải ngoại và bỏ vào Nam Triều Tiên một số tiền lớn.
Sau khi đổ bộ lên Nam Triều Tiên, Mỹ xúc tiến mở rộng con đường Kinh_Nhân (Hán Thành_Nhân Xuyên). Từ tháng 10/1946_tháng 6/1947, chúng chi một số tiền lớn và dùng 85 vạn nhân công để sửa chữa đoạn Hán Thành _Phủ Sơn,đoạn Kinh_Nhân đi qua sân bay Kim Phố, mở rộng các sân bay (sân bay Mộ Sắc Phố làm trung tâm), sửa sang các hải cảng như Phố Hạng, Nhân Xuyên, Phủ Sơn, Trấn Hải, Lệ Thủy; các căn cứ hải quân như Mộc Phố, Quần Sơn và Mặc Hồ.
Song song với làm các cơ sở vật chất, Mỹ tăng cưởng sử dụng quân Lý Thừa Vãn làm bia đỡ đạn cho mình, lập các sở chỉ huy như "Bộ Tư lệnh Quốc phòng" (11/1945) sau đổi là "Bộ Thống vệ"; lập "trường quân sự tiếng Anh" để đào tạo, huấn luyện quân ngụy; lập thêm "Đội Cảnh bị Quốc phòng" , "Đội Cảnh bị bờ biển" gồm thành phần là những tên phản động trong chính quyền Nhật cũ, thân phương Tây, phản bội dân tộc; dùng thủ đoạn lừa bịp và cưỡng bức dân Triều Tiên đi lính và huấn luyện quân sự theo kiểu Mỹ. Mỹ còn viết tài liệu, tuyên truyền hò hét chiến tranh, như "Triều Tiên là kho thuốc nổ", "là địa điểm nguy hiểm", tung tin vịt rằng "Liên Xô tấn công Triều Tiên", "có nguy cơ xảy ra nội chiến".
Năm 1947, trung tướng Mỹ là Wedemeyer đến Nam Triều Tiên để điều tra tình hình quân bị ở đây. Đồng thời với điều tra quân bị, nó còn đề ra sách lược cho quân Mỹ đánh Bắc Triều Tiên, lập ra thêm các tổ chức như "Hộ quốc quân", hiện đại hóa tổ chức này.
3. Chiến tranh Triều Tiên
+ Nguyên nhân:
Chủ yếu là: việc thành lập hai đất nước riêng với hai chế độ khác nhau là nguyên nhân chính dẫn đến cuộc chiến. Chung chung là như vậy, nhưng nguyên nhân này nó sẽ khác nhau ở mỗi nước.
_ Nam Triều Tiên:
Đối nội: sự cai trị tàn bạo của Lý Thừa Vãn đã biến ông ta thành một người thất nhân tâm. Ông ta ngăn cấm các hoạt động chính trị, xã hội, bắt giam đối với các đối thủ chính trị chống lại mình. Từ năm 1948_1950, ông ta đã dùng quyền của mình để bắt giam 14.000 người, trong đó có 14 đại biểu Quốc hội; kinh tế sa sút, nạn lạm phát xảy ra liên tục nhưng không được chính phủ để tâm đến. Tuy nhiên, cái gì cũng có quy luật của nó: Một đường lối đối nội phản động thì chắc chắn đường lối đối ngoại sẽ là hiếu chiến, thích đi xâm lược nước khác.
Về đối ngoại, Lý mưu toan giảm bớt sự chống đối trong nước bằng đường lối đối ngoại hiếu chiến. Ngày 11/6, ông ta tuyên bố sẽ mở cuộc tấn công vào Đảng Lao động Triều Tiên, điều 41.000 quân tới sát vĩ tuyến 38. Tuy nhiên, Mỹ cũng thừa biết chính sách đối ngoại phản động của Lý nên hạn chế việc cung cấp vũ khí nặng đề phòng quân Nam Triều Tiên tấn công lên miền Bắc.
Tuy nhiên, trong tình hình lúc đó, Mỹ cũng ít nhiều viện trợ quân sự cho Nam Triều Tiên. Năm 1949 (trước chiến tranh 1 năm), Mỹ đã viện trợ cho Lý Thừa Vãn một số vũ khí trị giá tới 190 triệu dollar, trong đó có: 105.000 súng trường Mỹ; 40.000 súng trường Nhật; hơn 2.000 súng bazoka chống xe tăng và 40.000 viên đạn, nhiều đại bác 105 ly, pháo chống xe tăng 37 ly và 57 ly, nhiều súng cối 60 ly, 81 ly với 70.000 viên đạn, nhiều quả mìn và hơn 4.900 xe vận tải khác.
Ngân sách của chính phủ bù nhìn lúc đó đang chi nhiều về quân sự (50 % ngân sách). Năm 1949, tổng số tiền trong ngân sách là 91,11 tỷ won (đơn vị tiền tệ Nam Triều Tiên lúc đó), gần gấp 3 lần năm 1948.
_ Bắc Triều Tiên: Trước tình hình bị Nam Triều Tiên đe doạ tấn công, Bắc Triều Tiên sẽ xử lý như thế nào ? Người ta chỉ có thể đoán rằng Bắc Triều Tiên sẽ giải quyết vấn đề hoà bình, và điều này thực tế là đúng. Nhiều tài liệu mới của nước Nga công bố về vấn đề Triều Tiên cho thấy: từ tháng 3/1949, sau chuyến viếng thăm của Kim Nhật Thành, Liên Xô đồng ý viện trợ quân sự cho Bắc Triều Tiên. Nhờ thế mà chỉ trong thời gian ngắn, lực lượng của Bắc Triều Tiên phát triển nhanh: năm 1950, Bắc Triều Tiên có 13,5 vạn binh lính, một số lính bảo an, có xe tăng T_34, 150 chiến đấu cơ (tiêm kích Yak và oanh tạc Ilyushin), pháo hạng nặng. Kim đánh giá khá lạc quan: "Nếu tình hình quốc tế cho phép thì Bắc Triều Tiên có thể chiếm Nam Triều Tiên trong vòng từ hai tuần đến hai tháng". Về sau, trước khi chiến tranh bùng nổ vài ngày, Kim bí mật dẫn đầu một phái đoàn sang Liên Xô xin viện trợ. Trong Hồi ký, Khrushev cho rằng, chính thái độ lấp lửng của Stalin đã làm Kim phải hành động. Điều này ý nói, Stalin từ chối giúp đỡ vì e ngại lực lượng Bắc Triều Tiên thiếu chuẩn bị và vì Mỹ có thể tham chiến. Gần đây, một số tài liệu mới của Nga về Triều Tiên nói rằng: Liên Xô khuyên Kim rằng vào thời điểm hiện nay, bất luận là cục diện bên trong nước hay quốc tế có nảy sinh những thay đổi quan trọng nào đi chăng nữa, chủ nghĩa đế quốc cũng không can thiệp trực tiếp vào Triều Tiên, vì thế việc thống nhất hai miền trong hoà bình chắc chắn được, và trước khi làm, nên báo trước cho Mao Trạch Đông.
Nghe theo Stalin, Kim Nhật Thành sang Trung Quốc để xin sự viện trợ. Trong buổi tiếp kiến với Mao Trạch Đông, Kim Nhật Thành bày tỏ mong muốn được thống nhất hai miền thành một, dự đoán khả năng ít có đế quốc nào như Mỹ và Nhật can dự vào việc này, và khẩn thiết xin Trung Quốc viện trợ cho mình. Mao lập tức đồng và hứa ủng hộ hết mình vì sự thống nhất của hai miền Triều Tiên. Mao nói: "Nếu quân Mỹ tham gia, Trung Quốc sẽ phái quân sang ủng hộ Bắc Triều Tiên. Nếu chúng vượt vĩ tuyến 38, chúng tôi sẽ dứt khoát tham gia chiến đấu".
Vì sao Stalin và Kim Nhật Thành lại có sự khẳng định chắc chắn như vậy ? Câu hỏi này không khó, nhưng khi trả lời thì sẽ nảy sinh nhiều luồng ý kiến khác nhau. Một trong những ý kiến chiếm thế đa số đó là vấn đề Đài Loan. Vốn là, sau khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập và Mao sang thăm Liên Xô, Mỹ mới công bố chính sách của mình với vấn đề Đài Loan là: không tìm kiếm các quyền lợi, thiết lập căn cứ, thậm chí sử dụng lực lượng quân sự vào Đài Loan lúc này , không viện trợ cho chính phủ Đài Loan của Tưởng Giới Thạch. Từ "vào lúc này" thể hiển một sự thay đổi mới trong chính sách của Mỹ với Đài Loan, là Mỹ có toàn quyền tự do hành động để bảo vệ mình, thành lập tuyến phòng thủ phía tây Thái Bình Dương để ngăn chặn sự "đe dọa của cộng sản" (theo Ngoại trưởng Acheson), và Mỹ cũng không nên can thiệp vào vấn đề Triều Tiên.
Tuy nhiên có một sự kiện mà Liên Xô, Trung Quốc, hai nước Triều Tiên đều không biết, đó là ngày 25/4/1950, Hội đồng An ninh Quốc gia Hoa Kỳ đã thông qua một văn kiện tuyệt mật mang ký hiệu: NSC_68. Nôi dung chủ yếu của văn kiện này là nước Mỹ được giao nhiệm vụ là trợ giúp các quốc gia đồng minh ở bất kỳ nơi nào trên thế giới đang bị Liên Xô đe doạ (do lo ngại Liên Xô và phe xã hội chủ nghĩa thống trị thế giới). Điều đó đã phản ánh phần nào chính sách "ngăn chặn" của Truman, nhằm ngăn chặn ảnh hưởng của Liên Xô ra bên ngoài thế giới. Nhưng sau khi cuộc Chiến tranh Triều Tiên nổ ra, Truman đã miễn cưỡng phê chuẩn văn kiện này. Hoa Kỳ tiếp tục tăng chi tiêu cho quốc phòng một cách mạnh mẽ chưa từng có.
Ngoại trưởng Mỹ D. Acheson
Tổng thống Mỹ Truman.
_ Nói thêm một chi tiết nữa: Nguyên nhân của cuộc chiến còn do ý đồ của Mỹ ở vùng đất này. Năm 1948, nền kinh tế Mỹ bị khủng hoảng nghiêm trọng. So với 1948, năm 1949 sản lượng công nghiệp bị sụt giảm 15%, lợi nhuận của bọn tư bản lũng đoạn giảm 16%. Mức sản xuất của Mỹ sụt xuống khá mạnh (nếu lấy chỉ số sản xuất những năm 1935_1939 là 100 thì đến tháng 10/1948 đã tăng lên 180, và tháng 10/1949 là 160).Cũng trong thời gian đó số người thất nghiệp ngày càng tăng lên, nhiều công ty, xí nghiệp bị phá sản hoặc ngừng hoạt động.
Trước tình hình này, tiếng còi báo hiệu khủng hoảng đã vang lên khắp nước Mỹ. Nhưng bọn tư bản độc quyền đã chọn con đường "thà chiến tranh hơn là khủng hoảng", hướng sản xuất vào mục tiêu phục vụ chiến tranh. Việc này đã được nhà kinh tế học, J.Hirsch xác nhận rằng vào cuối 1949 đã có 6,5 triệu người tham gia trực tiếp hay gián tiếp trong chiến tranh. Ngày 21/4/1950, một tờ báo Mỹ, U.S.News and World and World Report, có viết một bài báo loan rằng những chi phí quân sự gần đây sẽ tăng lên gấp bội (theo Henri Claude, Menaces de Crices et menaces de guerre (Khủng hoảng và các mối đe dọa của các mối đe dọa chiến tranh), Edition Sociales, Pari, 1954, tr. 26_27). Và sau khi chiến tranh xảy ra, tờ báo lại viết: "Chính trong lúc người ta tưởng rằng việc "phát triển" kinh tế đã chấm dứt chiến tranh Triều Tiên đã mở một giai đoạn "phát triển" mới... Những biến cố ở Triều Tiên đã chôn lấp cái thây ma khủng hoảng kinh tế luôn luôn ám ảnh những nhà tư bản Mỹ từ sau chiến tranh đến nay".
Mặc khác, sự ra đời của nhà nước XHCN Trung Quốc đã đánh một vố rất đau vào hệ thống tư bản chủ nghĩa do Mỹ đứng đầu, nên Mỹ coi Triều Tiên là phương tiện tốt nhất để ngăn ngừa khủng hoảng, và Mỹ đã "sử dụng" Triều Tiên làm bàn đạp tấn công phe xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu. Trước khi cuộc chiến bắt đầu, Mỹ đã nhiều lần đem quân vào Nam Triều Tiên để "củng cố" hậu phương của chúng, đồng thời thi hành chính sách tàn sát dã man, , bắt bớ hàng loạt và giết hại những người Nam Triều Tiên yêu chuộng hòa bình. Từ tháng 7 đến tháng 12/1947, Mỹ và chính phủ Lý Thừa Vãn đã giết hại hơn 62.000 người yêu nước. Từ tháng 9/1949 đến tháng 2/1950, với danh nghĩa "trừng phạt", chúng đã đuổi trên 135.000 nông hộ và đốt phá nhà cửa của họ. Ở vĩ tuyến 38, chúng tăng cường các hoạt động khiêu khích, tập kích (năm 1949, chúng tiến hành 1.836 cuộc tập kích vào vùng này), phao tin vịt về cái gọi là "nguy cơ Bắc Triều Tiên xâm phạm Nam Triều Tiên", âm mưu là rối loạn trị an để dễ xâm lược Bắc Triều Tiên. Tháng 7/1949, chúng đem quân tấn công, xâm phạm Bắc Triều Tiên nhưng bị thất bại nặng phải rút lui.
Trong lãnh thổ Nam Triều Tiên, chúng thi hành chính sách "quân dịch" động viên thanh niên 17_28 tuổi đi lính, bắt chính phủ bản xứ chi thêm phí về quân sự và hò hét tìm kiếm "lý do chính đáng" để tiến hành "Bắc phạt" xâm lược Bắc Triều Tiên mà không ảnh hưởng ra toàn quốc tế. Tháng 1/1950, Mỹ ký với Hàn Quốc "Hiệp ước phòng thủ chung", buộc quân Nam phải do Mỹ lãnh đạo. Tháng 2/1950, Mỹ cùng Hàn Quốc hoạch định kế hoạch đánh Bắc Triều Tiên, đồng thời Mỹ cũng tăng cường viện trợ quân sự cho quân Nam. Năm 1949-1950, Mỹ chi viện 79 khu trục hạm, tăng số quân ngụy lên 15 vạn chia thành nhiều sư đoàn khác nhau như Sư đoàn 8, Sư đoàn 7, Sư đoàn bộ binh 2, 3, 5... thêm nhiều đặt vụ, phần tử phản động để cài vào phá hoại Bắc Triều Tiên. Cuộc chiến tranh Triều Tiên sẽ bùng nổ bất cứ lúc nào.
+ Diễn biến:
bản đồ chiến tranh Triều Tiên (1950_1953)
bản đồ Chiến sự ở Triều Tiên
a) Giai đoạn 1: Bắc Triều Tiên tấn công (25/6_15/9/1950):
Khuya ngày 25/6, Mỹ "kêu gọi" Lý Thừa Vãn là sáng 25/6 sẽ đưa quân đội đồng loạt bất ngờ tiến đánh Bắc Triều Tiên. Mục tiêu của chúng là:
1. Đánh chiếm nước CHDCND Triều Tiên, bóp chết chế độ dân chủ nhân dân, thi hành rộng rãi một chính sách phản động ở Bắc Triều Tiên, biến nhân dân Bắc Triều Tiên làm nô lệ và biến vùng đất này thành thuộc địa của Mỹ.
2. Sau khi chiếm đóng toàn bộ Bắc Triều Tiên, chúng sẽ dùng vùng này làm bàn đạp tấn công CHND Trung Hoa, gây đại chiến thế giới thứ ba.
3. Thực hiện việc quân sự hóa toàn diện nền kinh tế Mỹ, bảo đảm lợi nhuận tối đa cho bọn tư bản lũng đoạn, xúc tiến chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa quân phiệt ở Mỹ.
4. Dùng vũ lực để uy hiếp phong trào giải phóng dân tộc ngày càng lớn mạnh của nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc, tiến một bước tăng cường sự nô dịch của Mỹ đối với các nước đó.
Mờ sáng, quân Mỹ_Hàn tiến công chiếm một số vùng ở Bắc Triều Tiên. Được tin đó, Bắc Triều Tiên đánh trả lại chúng. Bình minh ngày chủ nhật 25/6/1950, các đơn vị quân đội nhân dân Triều Tiên vượt vĩ tuyến 38 sau khi đuổi quân xâm lược, đã mở cuộc tấn công vào nam, mở đầu cho cuộc nội chiến giữa hai nước Triều Tiên kéo dài từ 1950_1953, giữa quân đội của hai nước Triều Tiên, Chí nguyện quân Trung Quốc và Mỹ.
Được trang bị tốt với 135.438 binh sĩ và 242 xe tăng bao gồm 150 xe tăng T-34 của Liên Xô chế tạo, quân đội Bắc Triều Tiên bắt đầu cuộc chiến với 211 phi cơ, khoảng 180 máy bay, gồm có 40 máy bay tiêm kích YAK và 70 máy bay ném bom tấn công. Tuy vậy, lực lượng Hải quân vẫn còn khá thô sơ (so với hải quân Hoa Kỳ gần đó). Điểm yếu trầm trọng nhất của Bắc Triều Tiên là thiếu một hệ thống tiếp vận đáng tin cậy để di chuyển đồ tiếp liệu về miền Nam khi quân đội của họ tiến lên về phía trước, nhưng lực lượng Nam Triều Tiên còn yếu hơn và thiếu thốn rất nhiều trang bị nếu đem so với Bắc Triều Tiên. Hàng ngàn người dân Triều Tiên chạy loạn về miền nam bị bắt buộc xách tay đồ tiếp liệu. Rất nhiều người sau đó mất mạng vì các cuộc không kích của Bắc Triều Tiên.
Về chiến thuật tiến hành chiến tranh, một tài liệu nói rằng Bắc Triều Tiên đã tính sai 3 điều quan trọng khi tiến hành chiến tranh, đó là:
+ khả năng quân Mỹ, LHQ không can thiệp.
+ nếu họ tiếp quản Seoul thì chính phủ Nam Triều Tiên sẽ đầu hàng và chiến tranh kết thúc.
+ khoảng 500.000 đảng viên của Đảng Cộng sản Nam Triều Tiên sẽ bí mật cộng tác với Bắc Triều Tiên để lật đổ chính phủ hiện tại sẽ diễn ra.
Và dĩ nhiên, 3 điều kiện này rất khó xảy ra nhưng chúng ta hãy chờ xem, hai bên sẽ làm gì nhau trong cuộc chiến này...
Quân đội Nam Triều Tiên có 64.697 binh sĩ được 500 cố vấn quân đội Mỹ huấn luyện và trang bị nhưng chỉ gồm các vũ khí hạng nhẹ, không có xe tăng và rất thiếu xe bọc thép và pháo binh. Quân đội Nam Triều Tiên cũng không có máy bay tiêm kích, hoặc bất cứ vũ khí chống tăng nào. Không có đơn vị chiến đấu nào của ngoại quốc hiện diện tại đất nước khi chiến tranh bắt đầu, nhưng có nhiều lực lượng Hoa Kỳ đóng quân ở Nhật Bản gần đó.
Cuộc tấn công được miền bắc hoạch định tốt với khoảng 135.000 quân đạt được những thành công chớp nhoáng và bất ngờ. Trải qua 5 chiến dịch lớn (25-29/6; 30/6-5/7; 7/7-20/7; 21/7-20/8; 31/8-15/9), quân Bắc Triều Tiên tấn công một số nơi quan trọng gồm có Kaesŏng (Khai Thành), Chuncheon, Uijeongbu (Nghị Chính Phủ) và Ongjin (Phụng Kim). Quân Nam Triều Tiên do thua sút về quân số và vũ khí và thường mơ hồ về lòng trung thành với chính thể miền nam nên từ từ rút lui dần về chiến tuyến Lạc Đông Giang (sông Naktong), một số tháo chạy ra miền Bắc. Quân Bắc Triều Tiên chiếm ưu thế và tiếp tục tấn công, trên không, không quân Bắc Triều Tiên tiến hành oanh tạc Phi trường Kimpo gần Seoul. Các lực lượng Bắc Triều Tiên chiếm được Seoul trưa ngày 28 tháng 6. Đến 13/9/1950, quân Bắc Triều Tiên đã giải phóng 108 quận, 1.168 diện (huyện), 13.654 lý (tương đương với xã), 9 đạo ở Nam Triều Tiên.
Ngay sau khi vừa giải phóng tạm thời toàn bộ Triều Tiên, chính phủ Bắc Triều Tiên tiến hành xây dựng các chính quyền mới ở vùng giải phóng, thực hiện cải cách dân chủ, thành lập chính phủ nhân dân. Trong cuộc tổng tuyển cử tháng 9/1950, có 98% số đại biểu tham gia và 975 đã trúng cử. Nhiều ủy ban nhân dân được thành lập ở toàn đất nước. Ngay sau đó, các chính phủ nhân tiến hành cải cách ruộng đất (như Trung quốc) vào 4/7/1950 ở Nam Triều Tiên. Chính phủ đã chia không 573.000 mẫu (chú thích: một mẫu Triều Tiên (jungbo) = 15 mẫu Trung Quốc, gần bằng 1 hecta) cho nông dân cày cấy. Ngày 19/8/1950, chính phủ ra quyết định thi hành luật lao động cho công nhân, xóa bỏ tận gốc kiểu bóc lột của chế độ thực dân, và thi hành bình đẳng với Bắc Triều Tiên. Ngoài ra, chính phủ thi hành chính sách giáo dục tiến bộ, xóa mù chữ cho người dân, ổn định đời sống cho dân. Những chính sách đó đã góp phần đập tan luận điệu phản động của chính phủ Lý Thừa Vãn, củng cố sự tin tưởng của nhân dân vào Đảng và Nhà nước Bắc Triều Tiên.
Trong cuộc chiến, nhân dân Nam Triều Tiên hiến tất cả sức lực của mình cho thắng lợi của tiền tuyến. Họ xông pha đi sửa đường sá, cầu cống bị phá hoại, vận chuyển vũ khí, đạn dược, lập các đội quân do kích, nghĩa dũng... cho họ. Chỉ trong vòng mấy tuần lễ, trên 40 vạn thanh niên Nam Triều Tiên xung phong gia nhập quân đội cùng chính phủ bảo vệ Tổ quốc.
b) Giai đoạn 2: Phản ứng của phương tây, phe XHCN và sự can thiệp của Mỹ vào Triều Tiên
Việc Bắc Triều Tiên tấn công đã làm xôn xao các nước đang quan hệ tốt đẹp với Triều Tiên như Liên Xô, Trong Quốc. Ngay khi nghe tin Bắc Triều Tiên tấn công, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai trình lên Chủ tịch Mao Trạch Đông về tình hình Bình Nhưỡng: "Cái gọi là quân quốc phòng của chính phủ ngụy quyền Triều Tiên, sáng sớm 25 tháng Sáu, từ khu vực giới tuyến 38 đã bất ngở tấn công lên phía Bắc giới tuyến khu vực 38...". Bộ Nội vụ nước CHDCND Triều Tiên đã ra lệnh cho quân cảnh bị đánh trả luôn toàn bộ quân địch xâm nhập phía Bắc giới tuyến 38... Hiện nay quân cảnh bị đang chiến đấu phòng ngự, quyết liệt chống lại quân địch xâm nhập vào giới tuyến 38...". Đồng thời, Trung Quốc cũng ra tuyên bố lên án Mỹ xâm lược Triều Tiên, phản đối thái độ làm ngơ của LHQ, đồng thời cũng muốn "dựa hơi" Mỹ để khôi phục chỗ đứng ở LHQ đang bị lung lay do cuộc chiến gây ra.
Về phía Liên Xô, cuộc chiến tranh này đã gây quan hệ "đáng ngại" cho Triều_Xô. Tuy nhiên, do Liên Xô cùng phe XHCN với CHDCND Triều Tiên nên nó chống Mỹ quyết liệt ngay từ sau chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc đến 1950. Chính phủ Liên Xô ra tuyên bố vạch trần, lên án "hành động xâm lược" trước đó của Mỹ_Hàn. Bản tuyên bố nêu rõ: "Chính phủ Mỹ đã phá hoại hòa bình. Điều đó chứng tỏ chính phủ Mỹ không những không muốn củng cố hòa bình mà ngược lại đã trở thành kẻ thù của hòa bình". Chính phủ Liên Xô đòi Mỹ dừng ngay âm mưu xâm lược này và giải quyết vấn đề Triều Tiên bằng phương pháp hòa bình. Liên Xô cũng ra tuyên bố phản đối nghị quyết của LHQ là không hiệu lực, đề nghị LHQ tổ chức lại cuộc họp Đại Hội đồng trong đó có CHND Trung Hoa để giải quyết vấn đề hòa bình cho Triều Tiên.
Về phía Mỹ, chính phủ Mỹ và Hàn cho rằng chiến tranh xâm lược là lẽ hiển nhiên và nói chính Bắc Triều Tiên xâm lược. Trong tuyên bố ngày 12/1/1950 của ngoại trưởng Mỹ Acheson thì vùng Triều Tiên là bị đặt ra khỏi sự bảo vệ của Mỹ, và nếu chiến tranh xảy ra, Mỹ sẽ không phản đối quân sự mà chỉ phản đối ngoại giao. Dựa trên tình hình Bắc Triều Tiên tấn công Nam Triều Tiên, Mỹ cho rằng cuộc tấn công này là đã có chuẩn bị từ trước, quy mô của nó sẽ rất rộng lớn. J.B.Duroselle trong sách "Lịch sử ngoại giao từ 1919 đến nay", trang 254 có viết: "Ngày 25 tháng Sáu, các lực lượng Bắc Triều Tiên vược vĩ tuyến 38 dọc theo cả chiều dài và, mặc dù Liên Xô tuyên bố rằng Cộng hòa Triều Tiên xâm lược, quy mô của những trận đánh do Bắc Triều Tiên tiến hành chứng tỏ chắc chắn rằng Bắc Triều Tiên có tính toán trước và chuẩn bị rất chu đáo".
Nửa thế kỷ sau khi cuộc chiến này bùng nổ, báo "Nhân đạo" (L'Humanité, 14/6/2000) viết: "Cuộc xung đột nổ ra ngày 25 tháng Sáu 1950 với việc cac lực lượng Bắc Triều Tiên vượt vĩ tuyến 38 để chống trả những khiêu khích lập đi lập lại của Seoul". trên thực tế, cuộc đối đầu giữa hai miền diễn ra rất căng thẳng, mang tính chất nội bộ và không có sự can thiệp bên ngoài nào vào đây.
Mỹ tìm cách vận động ngoại giao, quân sự vào LHQ và vấn đề Triều Tiên. Ngay trong ngày Bắc Triều Tiên tấn công, Liên Hiệp Quốc (bị Mỹ xúi giục) đã họp khẩn cấp và thông qua Nghị quyết số 82 (nghị quyết đầu tiên về vấn đề Triều Tiên) kêu gọi:
- Chấm dứt Tất cả các hoạt động thù địch và Bắc Triều Tiên rút lui về Vĩ tuyến 38;
- Thành lập một Ủy ban Đặc trách về Triều Tiên của Liên Hiệp quốc để giám sát tình hình và báo cáo lại cho Hội đồng Bảo an;
- Yêu cầu tất cả các thành viên của Liên Hiệp quốc ủng hộ nghị quyết này của Liên Hiệp quốc, và tự kiềm chế không giúp đỡ cho chính phủ Bắc Triều Tiên.
Giải pháp được thông qua dễ dàng do không có mặt Liên Xô trong cuộc thảo luận này đã tạo điều kiện cho Mỹ và đồng minh trực tiếp nhúng tay vào vấn đề Triều Tiên dưới danh nghĩa Liên Hiệp Quốc. Ngày 25/6, Liên Hiệp Quốc đã thiết lập Bộ Chỉ huy của Liên Hiệp Quốc ở Triều Tiên do McArthur đứng đầu, cho phép quân Mỹ và quân của 15 nước đồng minh của Mỹ là: Canada, Úc, New Zealand, Anh, Pháp, Nam Phi, Thổ Nhĩ Kỳ, Thái Lan, Hy Lạp, Hà Lan, Ethiopia, Colombia, Philippines, Bỉ, và Luxembourg. Tuy nhiên, Mỹ góp 50% lực lượng bộ binh (Nam Triều Tiên phần còn lại), 86% lực lượng hải quân, và 93% không quân.
Song song với cuộc vận động ngoại giao, Mỹ ra lệnh cho tướng McArthur, tham mưu trưởng của quân đội Mỹ ở Thái Bình Dương, tiếp viện vũ khí cho Nam Triều Tiên và đồng thời đưa không quân, hải quân vào tham chiến ở Triều Tiên.
Ngày 27/6, để hợp pháp hóa hành động vũ trang của Mỹ, LHQ ra quyết nghị thứ hai kêu gọi các nước đồng minh "giúp đỡ" về quân sự cho Nam Triều Tiên, "cho phép" Mỹ đánh phá lãnh thổ Bắc Triều Tiên.
Ngày 7/7, LHQ đã thông qua nghị quyết cho thành lập Bộ Chỉ huy quân sự LHQ về vấn đề Triều Tiên, do tướng Mỹ McArthur đứng đầu. Chính phủ Nam Triều Tiên cũng đặt các lực lượng vũ trang dưới quyền chỉ huy của LHQ.
Các nước hội viên giúp đỡ quân sự cho Triều Tiên như sau:
_ Lục quân: Australia, Bỉ, Canada, Colombia, Cuba, Ethiopia, Pháp, New Zealand, Hy Lạp, Lurxembour, Hà Lan, Philippines, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Anh và Mỹ.
_ Hải quân: Australia, Canada, Colombia, Pháp, New Zealand, Thái Lan, Anh và Mỹ.
_ Không quân: Australia, Canada, Nam Phi, Thụy Điển, Anh và Mỹ
_ Quân y: Đan Mạch, Ấn Độ, Ý, Nauy, Thụy Điển, Anh và Mỹ
Các nước có trợ giúp khác là Costa Rica, Panama. Còn Trung Hoa Dân quốc, Costa Rica, El Salvador và Panama trợ giúp quân sự nhưng được hoãn lại.
Qua các nghị quyết trên người ta thấy nổi lên vấn đề sau đây: Mỹ âm mưu dùng LHQ làm cơ sở che đậy cho âm mư đen tối của nó là dung chiến tranh xâm lược Triều Tiên.
Thực ra, ba nghị quyết trên được thông qua trái với luật quốc tế, thông qua rất chớp nhoáng, bất hợp pháp khi Liên Xô và Trung Quốc vắng mặt. Theo điều 27 của Hiến chương LHQ thì những nghị quyết về vấn đề chiến tranh hay hòa bình, nhất là việc dùng quân đội để bảo vệ hòa bình, an ninh thế giới, nhất thiết phải được bảy nước thành viên thông qua mà Mỹ lại ngang nhiên qua mặt.
Mặc khác, cuộc chiến tranh Triều Tiên chỉ là cuộc xung đột nội bộ hai miền, chứ không phải là cuộc chiến giữa nước này với nước khác. Theo điều 2, khoản 7 của Hiến chương thì LHQ không được can thiệp vào các vấn đề thuộc thẩm quyền quốc gia của một nước. Hơn nữa, Hội đồng Bảo an không tôn trong thủ tục điều tra, nghiên cứu rồi mới quyết định, mà dưới sự thúc ép của Mỹ, nó hoạt động một cách vội vàng, phiến diện, chỉ nghe báo cao của một số nước phe Mỹ, không chịu mời đại biểu Liên Xô, Trung Quốc lên thảo luận, lấy ý kiến họ, rồi mới quyết định.
Cách giải quyết thiên vị này của LHQ làm nó bị mất uy tín trên trường quốc tế. LHQ được lập ra là để duy trì hòa bình thế giới, nhưng nó đã bị Mỹ lợi dụng và phá hoại nghiêm trọng, mất vai trò của nó trong quốc tế.
Nhiều nước trung lập, đứng đầu là Ấn Độ, tích cực tham gia để góp phần cứu vãn hòa bình. Ngày 13/7/1950, Thủ tướng Ấn Độ J.Nehru lần lược gửi công hàm cho Chính phủ Liên Xô, chính phủ Mỹ đề nghị giải quyết hòa bình ở Triều Tiên, có Trung Quốc tham gia, điều đó đồng nghĩa với việc Trung Quốc sẽ khôi phục được địa vị của nó ở LHQ. Chính phủ LX phúc đáp tỏ ra tán thành đề nghị này, nhưng Mỹ thì không tán thành, vẫn muốn dùng vũ lực giải quyết vấn đề này.
Trong lúc quân Bắc Triều Tiên đang kiểm soát toàn miền Nam (trừ cảng Pusan), chỉ huy lực lượng LHQ - tướng Douglas MacArthur - toan tính đảo ngược tình thế chiến tranh. Ông quyết định tấn công vào cảng Incheon nhằm mục đích cắt đứt hậu cần, lên lạc của Bắc Triều Tiên, làm họ bị kẹt giữa Incheon và Pusan. Ngày 15/9/1950, quân Mỹ gồm hơn 7 vạn lính do tướng Almond chỉ huy bất thần đổ bộ vào cảng Incheon (Nhân Xuyên) và mở chiến dịch Chromite phản công lại mãnh liệt, lần lượt chiếm trọn Chongjin (Thanh Tân), sông Áp Lục, các vùng Hyesanjin (Huệ Sơn trấn), Sochon (Tuyên Xuyên). Quân Bắc Triều Tiên bị đẩy lui mau chóng, ngày 25/9, quân Mỹ chiếm lại Seoul và ngày 1/10 đã tiến sát tới vĩ tuyến 38. Lúc này, quân Bắc đang bị bao vây và Chính phủ đã phải gủi thư sang Trung Quốc và Liên Xô yêu cầu viện trợ quân sự.
Về phía Mỹ thì ngay sau khi chiếm lại được Seoul thì một bộ phận trong giới lãnh đạo Mỹ nảy sinh ý định chiếm Bắc Triều Tiên, khi quân đội nước này chưa có sự viện trợ của Trung Quốc và Liên Xô. Điều này được thực hiện bằng cách trình lên Liên Hiệp Quốc vấn đề thống nhất Triều Tiên, việc đó sẽ tạo cớ cho Mỹ vượt vĩ tuyến 38 tấn công miền Bắc. Kết quả, điều kiện của Mỹ được Liên Hiệp Quốc đồng ý và ngay hôm sau, quân Mỹ vượt vĩ tuyến 38 kéo ra Bắc. Trong cuộc tấn công ra miền Bắc, quân Mỹ và Nam Triều Tiên liên tiếp giành thắng lợi. Họ chiếm Bình Nhưỡng vào ngày 19/10 . Đến cuối tháng 10, quân đội Bắc Triều Tiên tan rã nhanh chóng, và quân Liên Hiệp Quốc bắt được 135.000 tù binh.
Sau khi chiếm đóng Bắc Triều Tiên, Mỹ_chính phủ bản xứ thi hành chính sách cai trị tàn bạo. Chúng xóa bỏ các cải cách dân chủ, lập các đội quân phản động để đàn áp nhân dân Bắc Triều Tiên. Theo một thống kê chưa đầy đủ, chỉ riêng đạo Hoàng Hải, có 120.000 người bị giết. Từ tháng 10_13, chúng giết hơn 35.000 người, trong đó có hơn 16.000 phụ nữ. Ở Vân Phong Lý thuộc quận Tín Xuyên, hơn 600 người dân vô tội bị giết, trong đó có hơn 10 trẻ dưới 5 tuổi, hơn 150 thiếu niên, thiếu nữ (10-15 tuổi), hơn 80 cụ già trên 50 tuổi. Điển hình, vụ thảm sát lớn ở Tín Xuyên do tên Harrison chỉ đạo ngày 18/10 với 30 tên lính đã giết một lúc hơn 900 người vô tội... Chúng phá hàng ngàn cơ sở vật chất, kỹ thuật ở Bắc Triều Tiên, bắt đi hơn 64.000 con trâu, 14.000 tấn lương thực....
Ngoài việc chiếm đóng Bắc Triều Tiên, giặc ra sức "gây sự" với Trung Quốc. Từ 27/8_29/10/1950, đã có 151 lần máy bay ném bom vào vùng trời Đông Bắc Trung Quốc, phá hoại nhiều công trình xây dựng, xâm phạm vùng biển Trung Quốc. Việc đó làm Trung Quốc rất tức giận, bèn gửi quân chí nguyện sang giúp Bắc Triều Tiên chống Mỹ.
c) Giai đoạn 3: Trung Quốc tham chiến:
Quân Trung Quốc tiến vào bán đảo Triều Tiên - |
Như đã nói ở phần trước, khi Kim Nhật Thành sang Trung Quốc xin viện trợ thì Trung Quốc lập tức đồng ý và theo kế hoạch đã định, Trung Quốc sẽ đưa chí nguyện quân , cùng với các thiết bị quân sự viện trợ từ Liên Xô, bí mật xâm nhập lãnh thổ Triều Tiên. Ngày 16/10, 250.000 quân Trung Quốc (về sau thì khoảng 1,5 triệu nữa sẽ tới vùng này) vượt qua sông Áp Lục (Yalu) tiến vào Triều Tiên. Cho rằng đây là "một trong những hành động hoàn toàn trái ngược với công pháp quốc tế", tướng McArthur dự tính đem quân đội phản công lại, cả đến khả năng sử dụng bom nguyên tử, nhưng bị phản đối kịch liệt. Ngoại trưởng Marshall thì chỉ muốn đưa quân đánh phá vùng gần bờ biển Triều Tiên , còn Tổng thống Truman thì không muốn chiến tranh này lan rộng vì nó sẽ ảnh hưởng ra thế giới. Sau nhiều cuộc tranh cãi khá dữ dội, cuối cùng Mỹ mới quyết định ra trấn an Trung Quốc và khuyên McArthur không nên hành động quá lỗ mãn.
Khi quân đội Mỹ đến gần biên giới Trung_Xô, quân đội hai nước đã cản lại. N.N.Yakolev trong Lịch sử đối ngoại Liên Xô 1945-1980 viết: " Trong những ngày nghiêm trong này, theo yêu cầu của chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Chính phủ Liên Xô đã đưa nhiều sư đoàn không quân đến các tỉnh Đông Bắc Trung Quốc. Trong các trận không chiến, phi công Liên Xô đã ạh hàng chục máy bay Mỹ và bảo vệ vững chắc miền Đông Bắc Trung quốc, chống không quân Mỹ đánh phá. Nhiều phi công Liên Xô có kinh nghiệm tham gia chiến đấu. Nếu tình hình xấu đi, Liên Xô chuẩn bị gửi 5 sư đoàn đến giúp Công hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên".
Trên mặt trận, các bên vẫn tiếp tục tấn công nhau. Cuối tháng 11, Trung Quốc đánh vào phía tây, dọc theo sông Chongchon, hoàn toàn áp đảo một số sư đoàn của Nam Triều Tiên và đánh một đòn chí tử vào sườn các lực lượng còn lại của Liên Hiệp Quốc. Tại trận hồ nước Chosin, quân Trung Quốc bất ngờ tấn công một đơn vị 30.000 người của Sư đoàn Bộ binh số 7 Mỹ chưa chuẩn bị kịp làm chúng bị thất bại nặng nề, mặc dù cuối cùng họ phá được vòng vây nhưng bị thương vong 15.000 người. Ngày 26/12, quân Trung Quốc vượt vĩ tuyến 38 và đến 4/1/1951 thì chiếm Seoul. Trong báo cáo tổng kết ngày 15/8/1951 tại Hội nghị TW Đảng Lao động Triều Tiên, Kim Nhật Thành thống kê được: quân LHQ chết và bị thương, bắt sống là 598.000 người; tịch thu, phá hoại hơn 146.000 súng các loại; 68.038 pháo; 9.415 xe Camgnon các loại, 1.997 xe tăng; bắn rơi, thu được 1.730 máy bay, đánh chìm 122 tàu chiến....
+ Chính sách "cộng sản thời chiến" của chính phủ Bắc Triều Tiên (1951_1952):
_Chính trị: chính phủ họp 4 hội nghị Đảng để bàn về vấn đề tổ chức, lãnh đạo Đảng. Đến hội nghị lần IV (11/1951) Đảng đã đặt lại vấn đề tổ chức, lãnh đạo của các tổ chức Đảng, phê bình các quan điểm sai lầm của một số tổ chức, cá nhân phản Đảng và đề ra nhiệm vụ phải quét sạch tàn dư phong kiến, thực dân; làm trong sạch các tổ chức, cá nhân Đảng, đẩy mạnh tăng gia sản xuất, chống tham ô, lãng phí...
_ Kinh tế: chính phủ tiếp tục thi hành chính sách kinh tế quốc dân, đặc biệt là trong thời chiến (1952). Kế hoạch nêu rõ: động viên hết thảy mọi lực lượng tiềm tàng, khôi phục nhanh chóng nền công nghiệp bị phá hoại. phát triển kinh tế nông thôn và ổn định đời sống nhân dân trong thời chiến. Đồng thời, Đảng còn nghĩ đến phải khôi phục ngay kinh tế sau chiến tranh. Các công việc Đảng làm trong thời chiến:
+ vận động toàn dân tiết kiệm lương thực, tài chính, phân bố đồng đều sức lao động trong sản xuất; mở lại hàng chục nhà máy, xí nghiệp lớn nhỏ, công nghiệp quân nhu
+ củng cố các hợp tác xã hóa trong kinh tế. Trong chiến tranh, nền kinh tế bị phá hoại nặng nề, sản xuất sút kém, nên hiện nay (1952) Đảng thực hiện hợp tác hóa lôi kéo người sản xuất nhỏ vào làm đề làm tăng năng suất lao động, về sau lan rộng ra khắp nước (nông thôn, thành thị, vùng biển)
+ tăng cường công tác tổ chức chính trị Đảng ở nông thôn để phát triển kinh tế, củng cố hậu phương ở nông thôn, khuyến khích nông dân áp dụng phương pháp canh tác tiên tiến cho nông nghiệp lúa nước phát triển.
+ thành lập các phong trào "tổ tương trợ"; "tổ đổi công cày chung trâu bò" huy động sức lực chung của quần chúng cùng làm kinh tế (giải quyết vấn đề thiếu sức lao động nông thôn hiện nay (1951)).
+ mở các trạm cho thuê máy móc, mua phân bón hóa học, đầu tư khôi phục hệ thống giao thông vận tải... cho dân.
Nhờ các chính sách tích cực đó, nền công-nông từng bước phục hồi và phát triển mạnh và vượt mức kế hoạch đề ra. Năm 1952, tổng sản lượng công nghiệp đạt 119%, khối lượng hàng hóa vận chuyển bằng xe lửa và xe hơi, lương thực đạt 113%.
+ Sự viện trợ của nhân dân quốc tế cho Bắc Triều Tiên:
Ngay từ ngày đầu cuộc chiến tranh bắt đầu, nhân dân thế giới yên chuộng hòa bình đã ủng hộ về chính trị, kinh tế, xã hội. Khi chiến tranh đã lên tới đỉnh cao, sự viện trợ này cũng tăng mạnh.
_ Liên Xô: ngay từ đầu, LX và các nước xã hội chủ nghĩa khác đấu tranh buộc Mỹ phải kết thúc chiến tranh Triều Tiên. Trong Đại hội đồng LHQ, LX nhiều lần đấu tranh với Mỹ đòi chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình cho Triều Tiên, nhưng lần nào Mỹ cũng bác bỏ.
Khi chiến tranh lên đến đỉnh điểm, nhân dân LX nghe theo tiếng gọi vô sản quốc tế đã liên tiếp gửi cho nhân dân Triều Tiên nhiều lương thực, quần áo, thuốc men, văn hóa phẩm... Giữa năm 1952, nhân dân LX đã gửi 50.000 tấn lương thực, hàng vạn tấn phân hóa học, hơn 400 máy kéo, nhiều máy móc, xe hơi khác... không hoàn lại
_ Trung Quốc: cùng với LX, nhân dân Trung Quốc cũng không ngừng viện trợ, lên tiếng ủng hộ Bắc Triều Tiên chống xâm lược. Những người con yêu quý của nhân dân Trung Quốc_cán bộ, chiến sĩ chí nguyện quân Trung Quốc_từ ngày đầu vào đất Triều Tiên, đã chung tay sát cánh cùng quân dân Bắc Triều Tiên chống Mỹ xâm lược. Không những thế, họ còn giúp nhân dân Bắc Triều Tiên tiết kiệm quân lương cấp phát cho người bị nạn trong cuộc chiến, giúp đỡ nông dân cày cấy, sửa chữa đê điều, thủy lợi.... Câu chuyện La Thịnh Giáo, một chiến sĩ vô sản quốc tế hi sinh để cứu một em bé Triều Tiên đã thể hiện rõ tình yêu thương nhân dân Triều Tiên của toàn thể cán bộ, chiến sĩ Trung Quốc.
Trong vòng 2 năm (1950_1952), Trung Quốc đã viện trợ nhiều vật tư như 192 toa xe lương thực, 110.000 cái chăn, hơn 300.000 bộ quần áo cùng nhiều vật dụng hàng ngày khác. Ngoài ra, Trung Quốc còn cử các đoàn cán bộ y tế đến động viên ý chí nhân dân Bắc Triều Tiên, nuôi nâng nhiều trẻ em mồ côi, biểu thị sự ủng hộ nhiệt liệt đối với nhân dân Triều Tiên.
_ Nhân dân các nước anh em khác như Ba Lan, Tiệp Khắc, Rumani, Cộng hòa Dân chủ Đức, Mông Cổ... gửi rất nhiều vải, quần áo, lương thực, thuốc men. Trong lúc nhân dân Bắc Triều Tiên gặp khó khăn, nhân dân Mông Cổ nhiều lần gửi súc vật cày cấy, nhân dân các nước XHCN khác như Rumani, Hungari, Mông Cổ, Việt Nam... nhiều lần cử người đi chữa bệnh, nuôi nấng trẻ em mồ côi, động viên nhân dân Bắc
Triều Tiên đấu tranh giành thắng lợi.
_ Nhân dân các nước tư bản chủ nghĩa, thuộc địa và phụ thuộc cũng phản đối đế quốc Mỹ xâm lược và tăng cường ủng hộ viện trợ cho Bắc Triều Tiên. Ở các nước đó, phong trào ủng hộ Triều Tiên bảo vệ hòa bình thế giới nổ ra liên tục. Khẩu hiệu: "Đế quốc Mỹ cút khỏi Triều Tiên ! " được hô vang ở khắp mọi nơi trên thế giới.
Từ ngày 25/1 đến ngày 31/3/1951, quân Liên Hiệp Quốc đã dồn sức đánh bật quân Bắc, và kết quả là họ đã đuổi quân Trung Quốc ra khỏi vĩ tuyến 38, đưa cuộc chiến trở về vạch xuất phát ban đầu.
Tuy nhiên, khi chiến sự vẫn còn xảy ra thì nội bộ nước Mỹ bắt đầu có mâu thuẫn mới. Có hai giải pháp mới xảy ra: giải quyết trong hòa bình và tiếp tục chiến tranh. Giải pháp đầu thì chiếm đại đa số, tiêu biểu nhất là tổng thống Truman, thủ tướng Anh Attlee. Truman biện minh rằng: " ...giả định bây giờ, Tổng tư lệnh lui bước trước các tướng lĩnh của minh với tâm tính hạn hẹp của họ và, trong phần lớn trường hợp, tầm nhin của họ sẽ bị hạn chế. Cái gì sẽ xảy đến ? Các tướng lĩnh nói rằng: vài quả bom thả xuống các phi trường Mãn Châu đủ để giành thắng lợi trên mặt trân Yalu. Nhưng để đạt được những kết quả dự tính, người ta phải phá hủy Bắc Kinh, Thượng Hải, Quảng Đông, Mukden, Đại Liên Vladivostok và Trung Siberia, từ Ulanude dến hồ Bai kan. Việc này Mỹ phải một mình đảm nhiệm. Nhưng trong trường hợp đó, từ biên giớ châu Âu cuỷa đế chế Xô viết, ,Nga sẽ tiến đến Bắc Hải, biển Manche... sẽ không thể ngăn chặn họ lại được. Ở phương Dộng, chung ta sẽ xóa nhiều thành phố Trung Quốc trên lục địa và tiệu diệt 25 triệu đàn bà, trẻ con, thường dân vô tội. Chúng ta sẽ gánh cuộc chiến tarnh thế giới thứ ba trên vai không có đồng minh. Trái lại, tất cả Trung Âu và, có thể Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, Italia và Bắc Phi cũng như nhiều vùng giàu có về dầu mỏ ở Cận Đông, sẽ rơi vào sự kiểm soát của người Nga... Rất đơn giản, tôi không bắt đầu cuộc Chiến tranh thế giới thứ ba. Tôi biệt là tôi có lý" (theo Off the Record, the private paper of Harry S. Truman, tr. 303_304, Yakolev trích dẫn trong : Lịch sử đối ngoại Liên Xô 1945_1980) . Thủ tướng Anh cũng khuyên Mỹ nên tiến hành một chính sách dè dặt, thận trọng hơn cho vấn đề này. Nhưng mặc khác, giải pháp kia thì cũng có người đồng tình, tiêu biểu nhất là McArthur. Ông ta nói: "cộng sản quyết định dốc hết toàn lực để chinh phục thế giới" và "không có gì có thể thay thế được chiến thắng" và âm mưu định đem bom nguyên tử thả xuống vùng
Mãn Châu (Trung Quốc). Do bất đồng quan điểm với tổng thống, McArthur bị giáng chức và Ridgway lên thay.
Ngày 19/5, tờ Pravda đăng lại bài đề nghị của thượng nghị sĩ L. Johnson về việc ngừng bắn và cả hai bên đều rút khỏi vĩ tuyến 38. Ngày 7/6, Mỹ tuyên bố ngừng bắn. Ngày 22/6, đại diện của Liên Xô ở Liên Hiệp Quốc chính thức đề nghị các bên tham chiến thương lượng đình chiến mà không kèm một điều kiện nào khác.
lính nước ngoài sau cuộc chiến.
+ Cuộc đàm phán đình chiến ở Bàn Môn Điếm:
Tháng 7.1953, tướng Nam Il - trưởng phái đoàn đàm phán của CHDCND Triều Tiên - trao hiệp định đình chiến cho Thủ tướng Kim Il-sung (Kim Nhật Thành) ký - Ảnh: B.Alexander |
Lễ ký thỏa thuận ngừng bắn tại Bàn Môn Điếm vào ngày 27.7.1953 - Ảnh: AFP |
+ Kết quả:
Cuối cùng ngày 10/7/1951, dù chưa đạt một thỏa thuận nào về ngừng bắn, đại diện của Mỹ, Trung Quốc và hai nước Triều Tiên vẫn gặp nhau ở Khai Thành. Ngày 10/10, cuộc đàm phán được dời về Bàn Môn Điếm (Panmunjon) nằm bên vĩ tuyến 38.Các cuộc thương thuyết hòa bình kéo dài rất chậm chạp trong hai năm (760 cuộc), với một vấn đế chính yếu trong các cuộc thương thuyết là việc trao trả tù binh chiến tranh. Phía miền Bắc đồng ý trao trả theo tự nguyện của tù binh nhưng với điều kiện là đa số tù binh sẽ trở về Trung Quốc hoặc Bắc Triều. Nhưng vì có quá nhiều tù binh từ chối được trao trả về Trung Quốc và Bắc Triều Tiên, chiến tranh vẫn tiếp tục cho đến khi phía cộng sản sau đó từ bỏ điều kiện này.
Có một chi tiết nữa cần lưu ý, đó là vấn đề xác định đường ranh giới hai miền Triều Tiên. Lúc đầu khi chưa xảy ra cuộc chiến, Mỹ chấp nhận đề nghị của Jakov Malik (LX) yêu cầu quân đội hai nước rút khỏi Triều Tiên. Nhưng đến cuộc đàm phán Khai Thành (Kaesong), đại biểu của quân LHQ lại phản đối đề nghị đó, yêu cầu đặc đường ranh giới quân sự cách vĩ tuyến 38 là 80 km chạy dài từ động Tung Nguyên (phía tây) đến Kim Xuyên, Cao Thành (phía đông) nghĩa là Bắc Triều Tiên mất 1/20 diện tích ở phía đông, để dùng vùng này làm căn cứ quân sự để xâm lăng các nước khác. Vì sao vậy ? Vì qua kinh nghiệm cuộc chiến tranh thế giới thứ hai vừa kết thúc, phe đế quốc hiểu rằng: nếu không có căn cứ hải quân trên mặt đất thì không quân, hải quân của nó không thể hoạt động hiệu quả, và chỉ có mặt trận trên mặt đất mới quyết định kết cục của chiến tranh; do đó chúng rêu rao sẽ nhượng bộ trong việc xâm phạm vùng trời, vùng biển, đòi cho chúng có nhiều vùng có lợi về chiến thuật.
Về sau, tổng thống Mỹ mới lên là Eisenhower đã nghe theo đề nghị của Ấn Độ đã tuyên bố ngừng bắn tại chỗ. Các bên như Trung Quốc, Bắc Triều Tiên chấp nhận, nhưng Nam Triều Tiên không chấp nhận. Về sau, Eisenhower đã thuyết phục được Nam Triều Tiên ký một hiệp ước Phòng thủ chung (1/10/1953) với Mỹ để phòng thủ và lưu giữ quân Mỹ ở Triều Tiên, Ngày 27/7/1953, Hiệp định đình chiến trên bán đảo Triều Tiên được ký kết với các nội dung sau:
_ Trong lúc chờ đợi một giải pháp hòa bình và toàn bộ, các bên chấm dứt tất cả hoạt động quân sự và thù địch.
_ Hai miền Nam và Bắc sẽ được ngăn cách bằng một vùng phi quân sự có bề rộng dài 4 km chạy dọc theo giới tuyến quân sự đã được thỏa thuận hồi tháng 11/1951.
_ Các tù bình được phép chọn lựa: hoặc hồi hương, hoặc được hưởng "quy chế tỵ nạn chính trị"
_ Một ủy ban giám sát việc thực thi hiệp định sẽ được thành lập gồm các đại diện của các nước Ba Lan, Tiệp Khắc, Thụy Điển và Thụy Sĩ.
_ Một hội nghị chính trị sẽ được tập hợp sau ba tháng nữa để: "giải quyết thông qua đàm phán các vấn đề rút toàn bộ quân đội nước ngoài khỏi Triều Tiên, giải quyết hòa bình vấn đề Triều Tiên".
Với sự đình chiến này, 82.000 tù binh cộng sản, 6.700 tù binh Trung Quốc được hồi hương. Một giới tuyến quân sự ngừng bắn theo hình chữ "chi" dài 137.1 m và vùng phi quân sự rộng 1,371 km được thiết lập. Một ủy ban giám sát của các nước trung lập sẽ thành lập tại vùng này. Bắc Triều Tiên mất một vùng đất khá lơn ở đông, nhưng còn giữ được vùng đất mới chiếm ở phia tay kể cả Khai Thành.
bản đồ Triều Tiên (1950_1953)
bản đồ Triều Tiên sau Hiệp định Bàn Môn Điếm
Hình ảnh giới tuyến ở vĩ tuyến 38 sau cuộc chiến.
+ Thất bại của Hội nghị Geneve (1954):
Vậy là sau cuộc chiến kéo dài suốt 37 tháng với những thiệt hại kinh khủng về người:
_ 90 vạn người Trung Quốc (chết 20 vạn, bị thương 70 vạn)
_ 75 vạn người Bắc Triều Tiên (chết 30 vạn, bị thương 22 vạn)
_ 23 vạn người Nam Triều Tiên (chết 5,8 vạn, bị thương 17,5 vạn)
_ 34 vạn người Mỹ chết,
tình hình bán đảo Triều Tiên lại trở về gần giống nguyên trạng hồi Liên Xô và Mỹ rút đi năm 1949. Qua kết quả này, ta có thể hiểu rằng các bên tham chiến trong chiến tranh sẽ không thể thay đổi cục diện toàn bán đảo, mà cũng như không thể tìm ra được tiếng nói chung để dàn xếp lại vấn đề Triều Tiên, dù chính phủ hai miền lẫn nhân dân đều không muốn tình trạng chia cắt lâu dài trên đất nước mình.
Hội nghị Geneve về vấn đề Triều Tiên, Đông Dương (1954)
Lập trường của hai bên được thể hiện rõ tại Hội nghị Geneve được triệu tập từ ngày 26/4/1954, với sự tham dự của Tứ cường (Liên Xô, Mỹ, Anh và Pháp), cùng với CHND Trung Hoa, hai miền Nam_Bắc Triều Tiên và 12 nước tham chiến dưới ngọn cờ Liên Hiệp Quốc. Cả hai nước Triều Tiên đều muốn tiến hành tổng tuyển cử tự do để lập quốc hội chung và hình thành một chính phủ thống nhất. Tuy nhiên , miền Bắc muốn tiến trình tuyển cử phải đặt dưới sự giám sát của các nước trung lập, miền Nam lại đòi giao quyền đó cho Liên Hiệp Quốc. Chính phủ Bắc Triều Tiên đã đề nghị rút toàn bộ quân nước ngoài trong thời hạn 6 tháng, trong lúc Mỹ muốn giữ quân đội của mình ở miền Nam (5 vạn) theo Hiệp ước Phòng thủ chung (10/1953).
Hậu quả của các lập trường đối chọi trên là vào 15/6/1954, Hội nghị Geneve kết thúc mà không mang lại kết quả gì. Đến khi hội nghị kết thúc, dù tuyên ngôn 16 nước chấp nhận ngừng bắn có hiệu lực, nhưng Nam Triều Tiên lại muốn thống nhất trở lại. Tuy nhiên, LHQ họp hội đồng vào tháng 11/1955 tuyên bố đình chiến vô thời hạn không được thống nhất.
Hậu quả của cuộc chiến để lại nỗi ngờ vực chi phối quan hệ hai miền. Trong hoàn cảnh chiến tranh lạnh, việc hai cường quốc đang đối đầu kịch liệt và hai miền đang dựa vào sự viện trợ, giúp đỡ của hai cường quốc này để thống nhất đất nước quả là một điều không dễ. Chẳng hạn, tháng 11/1960, Kim Nhật Thành đề nghị tổng tuyển cử tự do ở hai miền, xúc tiến thành lập nên Liên bang Nam_Bắc, Uỷ ban Dân tộc tối cao có đại diện của hai miền, nó đại diện và bảo vệ quyền lợi chung của nhân dân hai miền, tiến hành quan hệ đối ngoại và bảo vệ an ninh đất nước. Nếu không muốn, miền Bắc cho phép miền Nam có thể lập uỷ ban kinh tế để thiết lập quan hệ kinh tế với Bắc Triều Tiên, giúp đỡ tín dụng...
Nam Triều Tiên bác bỏ các đề nghị này. Nguyên do là các đề nghị của Bắc Triều Tiên đều "nhóm" trong đó các điều kiện là quân đội nước ngoài (ám chỉ Mỹ) phải rút khỏi Triều Tiên, chấm dứt sự can dự của nước ngoài vào Triều Tiên, cho nhân dân Triều Tiên tự quyết. Hoàn cảnh ở Nam Triều Tiên khiến chính phủ Doãn Phổ Thiện (Yun Po_sun, kế tiếp Lý Thừa Vãn) không thể nghĩ đến chuyện quân Mỹ rút đi và bắt đầu đàm phán tay đôi với Bắc Triều Tiên.
+ Ý nghĩa lịch sử:
(ghi của Bắc Triều Tiên)
_ Nhân dân Bắc Triều Tiên đã bảo vệ được nền độc lập của quốc gia chống sự xâm lược của đế quốc, tiêu biểu là Mỹ và Nam Triều Tiên. Thật vậy, sự ra đời của nước CHDCND Triều Tiên là thành quả không chỉ của Đảng , chính phủ mà là của toàn thế nhân dân Triều Tiên. Trong báo cáo về thắng lợi này, Kim Nhật Thành khẳng định rằng, chính việc chiến đấu của nhân dân Triều Tiên chống lại ách xâm lược của đế quốc thực dân đã rút ra được bài học kinh nghiệm về việc nắm tình cảnh của một dân tộc, vận mạng nô lệ của một nước thuộc địa là như thế nào. Nhân dân Bắc Triều Tiên đã thực sự nhận rõ sâu sắc các công việc của chính phủ sau khi giành độc lập cho đất nước, ý thức được việc cùng chính phủ bảo vệ toàn vẹn nền độc lập và chế độ dân chủ, bảo vệ thành quả cách mạng và Tổ quốc, để trong tương lai sẽ tiến đến chủ nghĩa xã hội và xa hơn nữa là chủ nghĩa cộng sản huy hoàng.
_ Nâng cao địa vị, uy tín của Triều Tiên ở trong nước cũng như trên trường quốc tế. Thực vậy, nhân dân Bắc Triều Tiên trong cuộc chiến đã đấu tranh anh dũng đánh bại cuộc xâm lược vũ trang của đế quốc Mỹ, bảo vệ nền độc lập cho nước nhà, góp phần cống hiến vào sự nghiệp vĩ đại bảo vệ hòa bình thế giới, nhờ thế mà được nhân dân thế giới ủng hộ hết mình.
Trong quá trình chiến tranh, chính phủ của Bắc Triều Tiên mới là chính phủ duy nhất, trung thành vô hạn với sự nghiệp cứu nước vĩ đại; đồng thời, quá trình đó càng chứng thực rõ ràng nước CHDCND Triều Tiên là một nhân tố hòa bình mạnh mẽ để giữ gìn lâu dài nền hòa bình thế giới và được nhân dân thế giới "tôn sùng" và ủng hộ.
_ Qua thử thách trong cuộc chiến, chế độ dân chủ Bắc Triều Tiên được củng cố và mở rộng, sự thống nhất về chính trị, tư tưởng trong nhân dân được tăng cường, các tổ chức Đảng, đoàn thể xã hội có thêm kinh nghiệm và tích lũy dần về sau.
Âm mưu trong cuộc chiến này đó là đánh tiêu hao, đánh phá hoại làm cho nước CHDCND Triều Tiên mỏi mệt để đánh chiếm, nhưng chúng đã bị thất bại trước sự kiên cường, anh dũng của nhân dân CHDCND Triều Tiên. Trong chiến tranh, nhân dân đã gắn bó chặt chẽ với chính phủ, trung thành vô hạn với chính phủ, điều đó đã tiếp thêm sức mạnh giúp họ đánh bại kẻ thù và xây dựng cuộc sống mới. Ngoài ra, các mặt về kinh tế, chinh trị, xã hội cũng được phát triển. lực lượng ngày càng được tăng cường để đánh giặc và củng cố chế độ ngày càng vững mạnh hơn.
_Qua cuộc chiến này, nhân dân triều tiên đã làm thất bại âm mưu của Mỹ và các đế quốc khác, có ảnh hưởng cổ vũ lớn đối với sự phát triển của tình hình quốc tế. Đế quốc Mỹ, dưới con mắt của nhân dân Bắc Triều Tiên và các nước yêu chuộng hòa bình thế giới, đó là một đế quốc tàn bạo và độc ác nhất trong lịch sử. Nó dùng nhiều phương tiện, thủ đoạn để chống phá các nước trên mọi mặt. Nhưng dù có thế nào thì nó cũng phơi bày bộ mặt xảo trá của nó, đó là "tính chất hùng mạnh của Mỹ" mà chúng từng huênh hoang và nền dân chủ kiểu Mỹ đầy bất công, mâu thuẫn.
Một điều nữa cần phải lưu ý này trong chiến tranh, Mỹ có sử dụng lá cờ LHQ, lôi kéo các nước đồng minh tham gia cuộc chiến, dùng nó tàn sát vô nhân đạo nhân dân bản xứ. Tính chất này còn vượt xa cả bọn quốc xã Đức trong Thế chiến thứ hai. Cuộc chiến này thực chất là một bộ phận của chiến tranh lạnh, là cuộc chiến tranh giữa bọn đế quốc đang giãy chết và các nước XHCN yêu chuộng hòa bình, nhưng tất cả đều bị thất bại. Thượng nghị sĩ McCarthy nói: "chúng ta đã bị thất bại nặng nề và thảm hại ở Triều Tiên".
Ngày nay nhân dân châu Á và phi đang noi gương Triều Tiên, tiến hành chiến tranh giành độc lập, buộc Mỹ phải thừa nhận sự thất bại của mình và chịu thua.
_ Thắng lợi của triều tiên trong cuộc chiến tranh Triều Tiên không những bảo vệ quyền tự do độc lập, mà còn giữ vững tiền đồn của phe xã hội chủ nghĩa ở phương Đông và góp phần to lớn vào sự nghiệp ổn định hòa bình trên thế giới. Trong cuộc chiến tranh, nhân dân Triều Tiên đã đánh bại Mỹ, phá hoại âm mưu chinh phục toàn cầu của Mỹ, thúc đẩy sự ủng hộ của nhân dân với sự nghiệp hòa bình trên thế giới
Tham khảo thêm:
Chiến tranh Triều Tiên là cuộc chiến xảy ra và kéo dài từ giữa năm 1950 đến năm 1953 trên bán đảo Triều Tiên bị chia cắt vì sự chiếm đóng tạm thời của Liên Xô và Hoa Kỳ. Chiến tranh bắt đầu vào ngày 25/6 năm 1950 khi nước CHDCND Triều Tiên (Bắc Hàn) tấn công Đại Hàn Dân Quốc (Nam Hàn). Cuộc chiến được mở rộng với qui mô lớn khi lực lượng của LHQ được Hoa Kỳ lãnh đạo, và sau đó là quân Chí nguyện của CHND Trung Hoa nhảy vào cuộc chiến. Cuộc xung đột kết thúc khi một thỏa hiệp ngừng bắn đạt được vào ngày 27/7 năm 1953.
2.Vai trò của Mỹ và TRung Quốc
Hoa Kỳ can thiệp
Pháo tự hành SU-76 Liên Xô viện trợ cho Bắc Hàn bị lực lượng Mỹ tiêu diệt
Mặc dù việc giảm bớt lực lượng Hoa Kỳ và Đồng minh sau Đệ nhị thế chiến khiến tạo ra nhiều vấn đề tiếp vận trầm trọng cho quân đội Mỹ trong vùng nhưng Hoa Kỳ có đủ lực lượng tại Nhật để đối phó với quân đội Bắc Hàn với các trang bị đa số đã lỗi thời của Liên Xô. Các lực lượng Mỹ này dưới quyền tư lệnh của Thống tướng Douglas MacArthur.
Sau khi nghe báo cáo về chiến sự toàn diện nổ ra tại Triều Tiên, Tổng thống Truman ra lệnh cho Tướng MacArthur chuyển đạn dược đến cho quân đội của Nam Hàn trong lúc đó dùng phương tiện hàng không để che chở việc di tản các công dân Hoa Kỳ. Truman không đồng ý với các cố vấn của ông phát lệnh các cuộc không kích đơn phương của Hoa Kỳ chống lại các lực lượng Bắc Hàn, nhưng ông đã ra lệnh cho Đệ nhất hạm đội bảo vệ Đài Loan của Tưởng giới Thạch. Với hành động đó ông đã kết thúc chính sách của Hoa Kỳ không can thiệp vào chuyện nội bộ của Trung Hoa.
Sự can thiệp lớn nhất và đầu tiên của quân đội ngoại quốc là Lực lượng Đặc nhiệm Smith (Task Force Smith) của Hoa Kỳ, một phần tử của Sư đoàn 24 bộ binh đóng ở Nhật Bản. Ngày 5/7, lực lượng này chiến đấu lần đầu tiên ở Osan và bị bại trận với thương vong cao. Lực lượng chiến thắng của Bắc Hàn tiến quân về phía nam, và Sư đoàn 24 với sức mạnh còn phân nửa bị buộc phải rút quân về Taejeon là nơi cũng bị rơi vào tay quân Bắc Hàn. Tướng bị bắt làm tù binh.
Vào tháng 8, các lực lượng Nam Hàn và quân đoàn 8 Hoa Kỳ bị đẩy lui vào một vùng nhỏ trong cạnh đông nam của bán đảo Triều Tiên quanh thành phố Pusan. Trong khi quân đội Bắc Hàn tiến công, họ vây bắt và tàn sát những công chức dân sự.Ngày 20/8, MacArthur gởi một thông điệp cảnh báo Kim Nhật Thành rằng ông ta phải chịu trách nhiệm cho các hành động tàn bạo chống quân đội Liên hiệp quốc.
Vào tháng 9, chỉ có vùng xung quanh thành phố Pusan—khoảng 10% Bán đảo Triều Tiên—vẫn còn nằm trong tay lực lượng đồng minh. Với sự hỗ trợ tiếp vận lớn lao của Hoa Kỳ, không quân yểm trợ, và viện quân, các lực lượng của Hoa Kỳ và Nam Hàn đã giữ vững được phòng tuyến dọc theo sông Nakdong. Hành động bám giữ liều lĩnh này trở thành nổi tiếng tại Hoa Kỳ với tên gọi là vành đai Pusan.
Trung Hoa tham chiến
Trung Hoa cảnh cáo các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ qua các nhà ngoại giao trung lập rằng họ sẽ can thiệp để bảo vệ nền an ninh quốc gia. Ngày 15/10 năm 1950, Truman đến đảo wake để họp ngắn ngủi với MacArthur. Cục trình báo TW Hoa Kỳ trước đây có cho Truman biết rằng việc Trung Hoa nhảy vào cuộc chiến là không thể nào.. MacArthur giải thích rằng Trung Hoa đã mất dịp giúp Bắc Hàn xâm lược. Ông ước tính Trung Hoa có 300.000 quân tại Mãn Châu với khoảng từ 100.000-125.000 quân dọc theo Sông Áp Lục; phân nửa quân số đó có thể vượt qua sông Áp Lục. Nhưng Trung Hoa không có lực lượng không quân.
Ngày 8/10 năm 1950, ngày hôm sau khi quân đội Hoa Kỳ vượt vĩ tuyến 38, Chủ tịch Mao Trạch Đông phát lệnh tập kết Chí nguyện quân nhân dân Trung Quốc. 70% thành viên của Chí nguyện quân là quân đội hiện dịch của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc. Mao ra lệnh quân đội di chuyển đến sông Áp Lục, sẵn sàng vượt sông. Mao Trạch Đông tìm sự trợ giúp của Liên Xô và coi sự can thiệp vào Triều Tiên là một hành động tự vệ cần thiết:. Thủ tướng Chu ân Lai được phái đến Moscow để tăng thêm cường độ cho những lý lẽ qua điện thoại của Mao. Mao trì hoãn trong lúc chờ đợi sự chi viện lớn từ Liên Xô, hủy bỏ cuộc tấn công đã hoạch định từ 13/10 đến 19/10.
Tuy nhiên, sự giúp đỡ của Liên Xô chỉ giới hạn cung cấp yểm trợ bằng không quân không quá 60 dặm Anh (100 km) từ mặt trận. Các phi cơ MiG-15 của Nga trong màu sắc CHND Trung Hoa là một sự thách thức nghiêm trọng đối với các phi công Liên hiệp quốc. Tại một khu vực có biệt danh là "Hành lang MiG" (MiG Alley) do các lực lượng Liên hiệp quốc đặt, các phi cơ của Nga giữ ưu thế trên không phận địa phương hơn đối thủ với các phi cơ F-80 do Hoa Kỳ chế tạo (Lockheed F-80 Shooting Stars) cho đến khi các phi cơ F-86 (North American F-86 Sabre) được khai triển.
Quân Trung Hoa đối mặt với quân đội Hoa Kỳ ngày 25/10 năm 1950 với 270.000 quân dưới quyền tư lệnh của tướng Bành Đức Hoài khiến cho Liên hiệp quốc rất ngạc nhiên vì không lường trước được mức độ quân số đông đảo đến như vậy. Tuy nhiên, sau những vụ đụng độ ban đầu, các lực lượng Trung Hoa rút lui vào vùng núi.
Tình báo Hoa Kỳ, sơ sài trong suốt giai đoạn này vì nhiều lý do, đã không hữu hiệu tại Bắc Hàn cũng như đã từng không hữu hiệu tại Nam Hàn trong những ngày có cuộc bao vây tại vành đai Pusan. Quân Trung Hoa hành quân bằng cách đi bộ và ngủ trong rừng nên giảm thiểu tối đa sự phát hiện của đối phương. Trong một trường hợp có ghi chép kỹ càng, một quân đoàn của Trung Hoa gồm có ba sư đoàn hành quân bằng chân đất từ An-tung ở Mãn Châu, phía bắc cách sông Áp Lục khoảng 286 dặm (460 km) đến nơi tập kết tại Bắc Hàn trong khoảng một thời gian dài từ 16 đến 19 ngày. Một sư đoàn của quân đoàn này hành quân vào ban đêm trên những con đường núi ngoằn ngoèo, trung bình đi được 18 dặm (29 km) một ngày trong vòng 18 ngày
. Cuộc hành quân trong ngày bắt đầu từ sau khi chập tối lúc 19 giờ và kết thúc lúc 3 giờ sáng hôm sau. Những phương án trú ẩn chống phi cơ phải hoàn thành trước 5 giờ 30 sáng. Tất cả mọi người, thú vật và các trang bị được dấu đi hay ngụy trang. Trong ban ngày chỉ có các nhóm trinh sát được ngụy trang di chuyển về phía trước để chọn lựa khu đóng quân ngoài trời của ngày hôm sau. Khi các đơn vị của Trung Hoa bắt buộc phải hành quân vào ban ngày vì bất cứ lý do gì, họ luôn tuân thủ lệnh dừng lại ngay tại chỗ và không cử động khi có phi cơ xuất hiện trên đầu. Các sĩ quan có quyền bắn hạ bất cứ binh sĩ nào vi phạm lệnh này.
Cuối tháng 11, Trung Hoa đánh vào phía tây, dọc theo sông Chongchon, và hoàn toàn tràn ngập một số sư đoàn của Nam Hàn và thành công gây một đòn chí tử vào sườn các lực lượng còn lại của Liên hiệp quốc. Sự bại trận của Quân đoàn 8 Hoa Kỳ tạo nên một cuộc rút lui dài nhất của một đơn vị quân sự Hoa Kỳ trong lịch sử. Tại miền đông, trong trận hồ nước Choisn, một đơn vị 30.000 người của sư đoàn 7 bộ binh Hoa Kỳ cũng chưa chuẩn bị kịp cho những cuộc tấn công chiến thuật của Trung Hoa và chẳng bao lâu bị bao vây, mặc dù cuối cùng họ phá được vòng vây nhưng bị thương tổn 15.000 người. Thủy lộc quân chiến hoa Kỳ cũng bị đánh bại tại trận này và bắt buộc rút lui sau khi gây thiệt hại nặng nề cho sáu sư đoàn quân Trung Hoa.
Trong khi các binh sĩ Trung Hoa ban đầu thiếu yểm trợ của hỏa lực nặng và vũ khí bộ binh hạng nhẹ, chiến thuật của họ nhanh chóng điều chỉnh thích hợp cho sự bất lợi này như Bevin Alexander có giải thích trong cuốn sách của ông có tựa đề là "How Wars Are Won" (Cách thế nào để thắng các cuộc chiến tranh):
Roy Appleman làm sáng tỏ hơn các chiến thuật ban đầu của Trung Hoa như sau:
Trong giai đoạn đầu tiến công, các lực lượng bộ binh thiện chiến nhẹ đã thực hiện các cuộc tấn công của Trung Hoa, nói chung không được yểm trợ với bất kỳ loại vũ khí hạng nặng nào ngoài súng cối (mortars). Các cuộc tấn công đã chứng minh rằng binh sĩ Trung Hoa là những chiến binh có kỷ luật và được huấn luyện kỹ lưỡng, và đặc biệt lão luyện trong chiến đấu về đêm. Họ có tài về nghệ thuật ngụy trang. Các đội trinh sát rất thành công đáng kể trong việc phát hiện các vị
trí của các lực lượng Liên hiệp quốc. Họ hoạch định các cuộc tấn công vào phía sau lưng của các lực lượng này, cắt đường rút lui và đường tiếp vận của quân địch, và rồi sau đó xung trận đánh vào mặt trước và bên sườn để kết thúc trận chiến. Họ cũng áp dụng một chiến thuật gọi là Hachi Shiki tạo thành một đội hình chữ V mà họ để cho quân địch di chuyển trong đó; Các chiến thuật như thế của Trung Hoa đã được sử dụng với những thành công to lớn tại Onjong, Unsan, và Ch`osan, nhưng chỉ thành công một phần tại Pakch`on và Ch`ongch`on
Lực lượng Hoa Kỳ tại đông bắc Triều Tiên, từng tiến công chớp nhoáng chỉ một vài tháng trước đây, bị bắt buộc phải nhanh chân hơn nữa rút về miền nam để hình thành một vành đai phòng thủ quanh thành phố hải cảng Hungnam nơi mà sau đó một cuộc di tản lớn được thực hiện cuối tháng 12 năm 1950. Trước nguy cơ đối diện với sự bại trận hoàn toàn và đầu hàng, 193 lượt tàu chở các quân nhân Mỹ và trang thiết bị đã rời bến di tản khỏi Bến cảng Hungnam. Khoảng 105.000 binh sĩ, 98.000 thường dân, 17.500 xe các loại, và 350.000 tấn tiếp liệu được tàu chở đến Pusan trong vòng trật tự.
Tổng số thương vong của tất cả mọi phía nhập lại có thể không thể nào biết được. Tại các nước phương Tây, các con số đã và đang là đề tài của vô số các cuộc nghiên cứu và tra cứu của các học giả, và trong trường hợp của một ước tính do Hoa Kỳ thực hiện, con số đã được điều chỉnh lại sau khi một lỗi đánh máy được phát hiện. Con số thương vong được tự báo cáo từ từng quốc gia phần lớn dựa vào các cuộc di chuyển quân đội, bảng phân công các đơn vị, các báo cáo thương vong lúc chiến sự, và các hồ sơ y tế.
Các con số của phương Tây về thương vong của Trung Hoa và Bắc Hàn chủ yếu được dựa vào những báo cáo từ mặt trận về ước tính thương vong, việc hỏi cung các tù nhân và các tài liệu tịch thu được. Ước tính của Trung Hoa về số thương vong của Liên hiệp quốc cho rằng "Tuyên bố chung sau chiến tranh của Quân Chí nguyện Trung Hoa và Quân đội Nhân dân Triều Tiên công bố rằng họ đã "loại trừ" 1,09 triệu quân địch, bao gồm 390.000 quân của Hoa Kỳ, 660.000 quân Nam Hàn, và 29.000 quân các nước khác. Con số "loại trừ" mập mờ không nêu chi tiết có bao nhiêu người chết, bị thương và bị bắt." Nói về thương vong của chính họ, cũng là nguồn đó nói rằng "Trong suốt thời gian chiến tranh, 70 phần trăm các lực lượng của quân đội giải phóng ND Trung Quốc đã được khai triển đến Triều Tiên như Quân Chí nguyện Nhân dân Trung Hoa (tổng lượt lên đến 2.97 triệu) cùng với hơn 600.000 dân công.
Quân Chí nguyện Nhân dân bị thiệt hai tổng cộng là 148.000 chết, trong đó có 114.000 tử trận, tai nạn, và chết rét, 21.000 chết sau khi được cấp cứu, 13.000 chết vì bệnh tật; và số người bị thương là 380.000 người. Cũng có 29.000 người mất tích, bao gồm 21.400 bị bắt trong đó 14.000 được đưa sang Đài Loan, 7.110 được trao trả." Cũng nguồn tương tự kết luận con số thương vong của Bắc Hàn, "Quân đội Nhân dân Triều Tiên có 290.000 thương vong và 90.000 bị bắt. Có một con số tổn thất dân sự rất lớn tại miền bắc Triều Tiên nhưng không có con số chính xác nào được xác nhận."
Tài liệu giải mã của Hoa Kỳ nói rằng: "Có báo cáo nói rằng nhiều nhóm thường dân đông đảo, có nhóm bao gồm và có nhóm bị điều khiển bởi binh sĩ Bắc Hàn, đang thâm nhập vào các vị trí của Hoa Kỳ. Quân đội đã yêu cầu chúng ta ngăn chặn tất cả các đoàn thường dân tiến về vị trí của chúng ta. Cho đến bây giờ, chúng ta đã thực thi yêu cầu của quân đội theo mối quan tâm này." Tài liệu nói tiếp là đề nghị thiết lập một chính sách cứu xét lại việc thi hành.
Các tù nhân bị tàn sát bởi quân Bắc Hàn trong lúc rút lui tại Daejeon, Nam Hàn, tháng 10 năm 1950
Khi phần lớn lãnh thổ của Nam Hàn nằm dưới quyền kiểm soát của Bắc Hàn, việc tàn sát chính trị được báo cáo là hàng chục ngàn người đã xảy ra tại các thành phố và làng mạc. Phía cộng sản tàn sát một cách có hệ thống các quan chức của chính phủ Nam Hàn và những ai có vẻ thù địch đối phía cộng sản, và các vụ giết người như thế này gia tăng cường độ khi quân Bắc Hàn rút lui khỏi miền Nam.
Các lực lượng bán quân sự và cảnh sát, quân đội Nam Hàn, thường có sự nhận biết của giới quân sự Hoa Kỳ và không bị xét xử, đến phiên mình đã hành quyết hàng chục ngàn tù nhân cánh tả và những người có cảm tình với cộng sản trong những sự kiện như vụ tàn sát tù nhân chính trị của Nhà tù Daejeon và cuộc đàn áp đẩm máu trong vụ nổi loạn cheju. Gregory Henderson, một nhà ngoại giao Hoa Kỳ tại Triều Tiên vào thời điểm đó, đưa ra con số tổng cộng là 100.000 người, và xác chết của những người này bị quăng vào các hố chôn tập thể.
Gần đây, UB hòa giải và tìm sự thật của Nam Hàn đã nhận được các báo cáo của hơn 7.800 vụ tàn sát dân sự trong 150 địa điểm khắp đất nước nơi các vụ tàn sát dân sự tập thể xảy ra trước và trong suốt cuộc chiến. Trong những vụ khác, quân đội Nam Hàn cũng đã cho phá hủy một số cây cầu có đông nghẹt các thường dân đang bỏ chạy khi họ không thể nào giải tỏa những cây cầu đó trước khi quân địch đến
Người tỵ nạn Bắc Hàn được cứu bởi lực lượng Hoa Kỳ
Các lực lượng Triều Tiên của cả hai phía thường xuyên vây bắt và ép buộc tất cả các nam và nữ trong vùng hoạt động của họ nhập ngũ; hàng ngàn người trong số đó không bao giờ thấy trở về nhà nữa. Theo ước tính của R. J. Rummel, giáo sư tại Đại Học Hawaii, khoảng 400.000 công dân Nam Hàn bị bắt quân dịch phục vụ trong Quân đội Bắc Hàn.Trước khi Quân đội Hoa Kỳ giải phóng Seoul vào tháng 9 năm 1950, theo chính phủ Nam Hàn, ước tính có khoảng 83.000 công dân của thành phố này bị các lực lượng rút lui của Bắc Hàn mang đi và mất tông tích; vận mạng của họ vẫn không được biết đến.Bắc Hàn vẫn khư khư nói rằng những người Nam Hàn đào trốn tự nguyện và không hề bị giam giữ chống lại ý muốn của họ.
Có lúc, quân đội Mỹ được lệnh xem bất cứ thường dân Triều Tiên nào hiện diện tại mặt trận mà tiến về các vị trí của họ là thù địch, và được lệnh "vô hiệu hóa" họ vì sợ bị xâm nhập. Việc này đưa đến các vụ tàn sát bừa bãi hàng trăm thường dân Nam Hàn bởi lực lượng Hoa Kỳ tại những nơi như No Gun Ri trong đó nhiều người tị nạn không tự vệ - đa số là phụ nữ, trẻ con và người già - bị quân đội Mỹ bắn chết và có thể đã bị Không quân Hoa Kỳ dội bom lên đầu. Gần đây, Hoa Kỳ đã thừa nhận là có chính sách ngăn chặn thường dân tại một số nơi ở mặt trận ở một số thời điểm
Các tù binh chiến tranh bị cả hai phía của cuộc xung đột ngược đãi trầm trọng, tuy nhiên sự ngược đãi càng tệ hại hơn đối với tù binh bị bắt bởi những người cộng sản.
Một binh sĩ Hoa Kỳ bị các lực lượng Trung Hoa bắt làm tù binh và bị bắn vào đầu trong lúc tay vẫn còn bị trói sau lưng.
Nhiều kiểm chứng lịch sử đã cho thấy có các cuộc đánh đập thường xuyên, bỏ đói, lao động cưỡng bức, hành quyết tập thể và những cuộc đi bộ đường xa được biết với tên gọi "đường tử thần" do lực lượng cộng sản thực hiện chống các tù binh LHQ. Các lực lượng Bắc Hàn đã gây ra một số cuộc tàn sát các binh sĩ Hoa Kỳ bị bắt tại những địa danh như Đồi 312 và đồi 303 trong Vành đai Pusan,
bên trong và xung quanh Daejeon; chuyện này xảy ra đặc biệt là trong các cuộc càn quét lúc đầu. Theo bản báo cáo của Quốc hội Hoa Kỳ: "Hơn 5.000 tù binh chiến tranh Mỹ chết vì hành động phạm tội ác chiến tranh của cộng sản và hơn 1.000 người sống sót là nạn nhân của tội ác chiến tranh. (…) Khoảng chừng 2/3 tổng số tù binh chiến tranh Mỹ tại Triều Tiên chết vì tội ác chiến tranh
Phe cộng sản tuyên bố là họ đã bắt được trên 70.000 binh sĩ Nam Hàn tất cả, nhưng họ chỉ trao trả 8.000 trong số đó. Ngược lại, 76.000 tù binh chiến tranh Bắc Hàn được Nam Hàn trao trả.Ngoài con số khoảng 12.000 chết trong lúc bị bắt, có đến 50.000 tù binh chiến tranh Nam Hàn có lẽ bị cưỡng bức bất hợp pháp gia nhập vào quân đội Bắc
Hàn.Theo Bộ Quốc phòng Nam Hàn, có ít nhất 300 tù binh chiến tranh vẫn còn bị giam giữ tại Bắc Hàn trong năm 2003. Vừa qua, một binh sĩ Nam Hàn đã trốn thoát từ Bắc Hàn và trở về nhà trong năm 2003, kể từ năm 1994 đã có hơn 30 tù binh Nam Hàn đã trốn thoát khỏi Bắc Hàn. Bình Nhưỡng chối là không còn giữ bất cứ tù binh chiến tranh nào
câu hỏi trắc nghiệm:
1. Trong số các nguyên nhân sau đây, theo bạn, nguyên nhân nào là nguyên nhân chính dẫn đến cuộc chiến tranh Triều Tiên ?
a) Sự chia cắt thành hai quốc gia riêng biệt, có hai chế độ chính trị khác nhau ở Triều Tiên.
b) Mỹ không muốn can thiệp vào Triều Tiên.
c) Nam Triều Tiên thi hành đường lối đối ngoại phản động , Bắc Triều Tiên xin viện trợ từ nước ngoài.
d) Cả ba câu trên đều đúng.
2. Vì sao khi tiến hành kế hoạch thống nhất Triều Tiên, Kim Nhật Thành nghe theo Liên Xô để tiến hành, nhưng phải báo trước cho Mao Trạch Đông ?
a) Mao Trạch Đông là lãnh đạo của nước Trung Quốc theo đường lối xã hội chủ nghĩa.
b) Vì Bắc Triều Tiên và CHND Trung Hoa là đang theo phe xã hội chủ nghĩa của Liên Xô, nên khi Liên Xô viện trợ Bắc Triều Tiên thì cùng lúc "báo trước" cho Mao Trạch Đông, kêu gọi sự ủng hộ của Trung Quốc với Bắc Triều Tiên.
c) Việc báo trước này sẽ giúp Bắc Triều Tiên có thêm sự viện trợ, đồng thời đẩy lùi sự can thiệp của đế quốc vào nội bộ Triều Tiên.
d) Cả ba câu đều đúng.
3. Cuộc chiến tranh Triều Tiên là cuộc chiến rộng lớn, lôi cuốn nhiều quốc gia tham chiến, diễn ra trong thời gian:
a) 1949_1952
b) 1950_1954
c) 1950_ 1953
d) 1951_1953
4. Tháng 6/1950, trước tình hình tồi tệ của Nam Triều Tiên khi bị quân Bắc Triều Tiên đánh chiếm gần hết đất nước, Liên Hiệp Quốc và Mỹ đã làm gì ?
a) Liên Hiệp Quốc họp Đại Hội đồng tán thành cuộc chiến này, Mỹ rút quân khỏi Nam Triều Tiên.
b) Liên Hiệp Quốc họp Đại Hội đồng phản đối cuộc chiến, Mỹ thành lập Bộ Chỉ huy quân sự ở Nam Triều Tiên gồm 16 nước tham chiến (có Mỹ) chiến đấu dưới ngọn cờ Liên Hiệp Quốc
c) Liên Hiệp Quốc họp Đại Hội đồng phản đối cuộc chiến, Mỹ đem quan đánh Nam Triều Tiên
d) Câu trả lời khác: ....................................................................................................................................................
5. Nội dung nào sau đây không phải thuộc nội dung của Hiệp định đình chiến Bàn Môn Điếm ?
a) Chấm dứt mọi hoạt động quân sự và thù địch giữa hai miền.
b) Hai miền Nam_Bắc sẽ được thống nhất dưới sự lãnh đạo của một chính phủ chung.
c) Thành lập một ủy ban giám sát việc thực thi hiệp định gồm đại diện của 4 nước Ba Lan, Tiệp Khắc, Thụy Điển và Thụy Sĩ.
d) Cả ba câu trên đều đúng.
6. Điền vào bảng các nội dung chính về cuộc chiến Triều Tiên:
Sự kiện lịch sử
|
Nội dung chính
|
1/12/1943
| |
26/7/1945
| |
Tháng 12/1945
| |
15/8/1948
| |
9/9/1948
| |
25/6/1950
| |
4/7/1950
| |
Tháng 11/1950
| |
21/1_31/3/1951
| |
27/7/1953
|
Đáp án:
1.a
2.d
3.c
4.b
5.d
6.
Sự kiện lịch sử
|
Nội dung chính
|
1/12/1943
|
Tuyên bố
|
26/7/1945
|
Tuyên cáo Postdam của các đế quốc tuyên bố cho Triều Tiên độc lập, nhưng chia Triều Tiên làm hai miền riêng biệt (Bắc và Nam Triều Tiên), cho quân đội Liên Xô, Mỹ vào đóng ở mỗi miền.
|
Tháng 12/1945
|
Hội nghị Tam cường diễn ra ở Liên Xô tuyên bố lập ra chế độ ủy trị ở hai miền Triều Tiên.
|
15/8/1948
|
Nước Cộng hòa Triều Tiên (Hàn Quốc) được thành lập
|
9/9/1948
|
Nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên được thành lập.
|
25/6/1950
|
Quân Bắc Triều Tiên vượt vĩ tuyến 38 đánh vào
|
4/7/1950
|
Mỹ thành lập Bộ Chỉ huy quân sự ở Nam Triều Tiên do MacArthur chỉ huy, gồm quân Mỹ và 15 nước khác tham chiến dưới ngọn cờ Liên Hiệp Quốc.
|
Tháng 11/1950
|
Quân chí nguyện Trung Quốc tiến vào Bắc Triều Tiên cùng quân đội nước này đánh quân Liên Hiệp Quốc do Mỹ cầm đầu.
|
21/1_31/3/1951
|
Quân Liên Hiệp Quốc đẩy lùi liên quân Trung_Triều trở về vĩ tuyến 38, đưa cuộc chiến tranh trở về vạch xuất phát ban đầu
|
27/7/1953
|
Hiệp định đình chiến Bàn Môn Điếm được ký kết, Triều Tiên chính thức bị tách thành 2 nước riêng biệt.
|
tài liệu tham khảo:
1. Lê Phụng Hoàng, Lịch sử quan hệ quốc tế ở Đông Á từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến cuối chiến tranh lạnh (1945_1991)
2. Phạm Giảng, Lịch sử quan hệ quốc tế từ chiến tranh thế giới thứ hai đến chiến tranh Triều Tiên (1939_1952), NXB Chinh trị quốc gia, 2005
3. Lê Anh, Lịch sử cuộc chiến tranh chính nghĩa giải phóng Tổ quốc của nhân dân Triều Tiên, NXB QĐND, 1965
4. Kim Nhật Thành, Cuộc chiến tranh giải phóng của nhân dân Triều Tiên chống đế quốc Mỹ xâm lược, NXB Sự thật, 1966
5. Phạm Giảng, Lịch sử quan hệ quốc tế từ sau chiến tranh thế giới thứ hai (1945) đến 1954, NXB Sử học, 1962
4. Kim Nhật Thành, Cuộc chiến tranh giải phóng của nhân dân Triều Tiên chống đế quốc Mỹ xâm lược, NXB Sự thật, 1966
5. Phạm Giảng, Lịch sử quan hệ quốc tế từ sau chiến tranh thế giới thứ hai (1945) đến 1954, NXB Sử học, 1962
6. Andrew C. Nahm, Lịch sử & văn hóa bán đảo Triều Tiên ; Nguyễn Kim Dân b.d. - H. : Văn hóa Thông tin, 2005
7. Lee Ki_baik, Lich sử Hàn quốc tân biên, Nxb.T.P. Hồ Chí Minh, 2002
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét