1. Các cuộc cải cách lớn trong lịch sử Việt Nam:
I. CUỘC CẢI CÁCH CỦA KHÚC
HẠO
1.1. Hoàn cảnh lịch sử
Năm 905, Khúc Thừa Dụ, một
hào trưởng ở Hồng Châu (Hải Dương ngày nay) chớp lấy thời cơ chính quyền nhà
Đường suy yếu đã hiệu triệu nhân dân nổi dậy khởi nghĩa, chiếm đóng phủ thành
Tống Bình (Hà NộI), tự xưng là Tiết độ sứ, xóa bỏ chính quyền đô hộ của nhà
Đường ở nước ta. Ngày 7 tháng 2 năm 906, vua Đường buộc phải phong cho Khúc
Thừa Dụ làm Tĩnh Hải quân tiết độ sứ tước Đồng binh Chương sự. Tức là nhà Đường
phải công nhận Khúc Thừa Dụ có quyền nắm cả việc quân sự, chính quyền, kinh tế,
tài chính. Thứ sử các châu đều thành thuộc hạ. Tiết độ sứ được tự ý cắt cử các
quan lại văn, võ, trưng thu thuế má trong vùng cai quản.
Như vậy, kể từ năm 905, tuy
còn mang danh hiệu một chức quan của nhà Đường, nhưng về thực chất Khúc Thừa Dụ
đã giành lấy chính quyền từ tay bọn phong kiến nhà Đường, dựng nên một chính
quyền tự chủ, đã kết thúc về cơ bản ách đô hộ hơn một nghìn năm của phong kiến
phương Bắc. Cuộc cải cách của Khúc Hạo cũng như các cuộc kháng chiến tiếp theo
đó của Dương Đình Nghệ (931), Ngô Quyền (938) là công cuộc bước đầu xây dựng và
bảo vệ quốc gia, chính quyền độc lập, tự chủ có tổ chức của một dân tộc đã thực
sự làm chủ quốc gia mình.
Đất nước bước vào kỷ nguyên
độc lập, tự do, nhưng những hậu quả mà hơn một nghìn năm đô hộ của bọn phong
kiến phương Bắc để lại thật nặng nề.
1.1.1. Về kinh tế
Chính quyền đô hộ đã thi
hành chính sách bóc lột rất nặng nề và dưới nhiều hình thức. Chế độ cống nạp là
thủ đoạn bóc lột hết sức tàn bạo của phong kiến phương Bắc được thực hiện liên
tục suốt thời Bắc thuộc. Hàng năm, các châu, quận, huyện phải nộp nhiều lâm thổ
sản quý, nhiều sản phẩm thủ công. Ngoài chế độ cống nạp, còn có thêm nhiều loại
thuế khác, mức thuế nhân dân phải đóng rất nặng: riêng thuế muối, hàng năm ở Âu
Lạc cũ phải nộp lên tới hàng vạn quan tiền. Những hộ làm nghề muối và mò ngọc
trai hàng năm mỗi hộ phải nộp thuế lên tới 100 hộc gạo. Ngoài các loại thuế tô,
dung, điệu, lưỡng thuế mà nhân dân ta phải nộp cho chính quyền đô hộ, họ còn bị
quan lại trong chính quyền đô hộ ra sức nhũng nhiễu, vơ vét của cải để làm giàu
riêng. Đời sống của nhân dân Âu Lạc cũ do đó vô cùng cực khổ. Nhiều người phải
bán mình, bán vợ con cho bọn giàu có, bọn quan lại đô hộ, bị biến thành nô tỳ,
một bộ phận bị mất đất hay không có ruộng đất cày cấy bị biến thành nông nô,
nhiều nông dân bị phá sản, lưu vong mà sử cũ gọi là “dân vong mệnh”.
Thực trạng nói trên đòi hỏi
chính quyền họ Khúc phải nhanh chóng thực thi những chính sách cải cách về kinh
tế, xóa bỏ chính sách bóc lột nặng nề của chính quyền đô hộ trước đó, phát
triển kinh tế, cải thiện đời sống của nhân dân. Có làm được như vậy, mới có cơ
sở vững chắc để bảo vệ và xây dựng quốc gia độc lập, tự chủ lâu dài, mới có
thực lực để đánh bại các cuộc xâm lược tiếp theo của phong kiến phương Bắc.
Việc nhà Hậu Lương công nhận và phong chức “An Nam đô hộ sung tiết độ sứ” cho
Khúc Hạo (ngày 1 tháng 9 năm 907), nhưng năm 908 lại phong cho Lưu Ẩn (một viên
quan cũ của nhà Đường cai quản miền Quảng Châu – Trung Quốc) làm “Tĩnh hải quân
tiết độ An Nam đô hộ”, chứng tỏ bọn cầm quyền phương Bắc vẫn chưa từ bỏ dã tâm
xâm chiếm nước ta.
1.1.2. Về chính trị - xã hội
Trong hơn một thiên niên kỷ
xâm lược và đô hộ, các triều đại phương Bắc đâu chỉ dừng lại ở những chính sách
vơ vét, cướp bóc tàn bạo, mà còn ráo riết thực hiện chính sách đồng hóa nhằm
Hán hóa Việt tộc, nhằm vĩnh viễn xóa bỏ sự tồn tại của quốc gia Âu Lạc và dân
tộc Việt, biến đất nước Âu Lạc thành quận, huyện của Trung Quốc. Từ năm 905,
sau khi giành được chính quyền, để xây dựng một quốc gia hoàn toàn độc lập, tự
chủ, đòi hỏi họ Khúc phải thực hiện những cải cách về hành chính, chính trị, xã
hội để xóa bỏ dần những ảnh hưởng sâu sắc và hậu quả nặng nề do thời Bắc thuộc
để lại, khắc phục tính phân tán của quyền lực thủ lĩnh địa phương, xây dựng một
chính quyền dân tộc thống nhất từ trung ương đến các làng xã.
2.2. Cuộc cải cách của Khúc
Hạo
Khúc Hạo là con của Khúc
Thừa Dụ. Năm 906, ông được Khúc Thừa Dụ phong chức “Tĩnh hải hành quân tư mã
quyền tri lưu hậu”, một chức vụ chỉ huy quân đội. Ngày 23 tháng 7 năm 907, Khúc
Thừa Dụ mất, Khúc Hạo nối nghiệp cha. Ngày 1 tháng 9 năm 907, nhà Hậu Lương
phong cho ông chức “An Nam đô hộ tiết độ sứ”. Từ đó, Khúc Hạo bắt tay thực hiện
công cuộc cải cách trên nhiều mặt: chính trị, kinh tế, xã hội.
2.2.1. Về chính trị
Bãi bỏ mô hình tổ chức hành
chính, chính quyền đô hộ của nhà Đường: An Nam đô hộ phủ ® châu ® huyện ® hương ® xã. Khúc Hạo tổ chức lại bộ
máy quản lý nhà nước từ trung ương cho đến cấp xã nhằm xây dựng một chính quyền
dân tộc thống nhất. Ông chia cả nước thành những đơn vị hành chính các cấp: lộ,
phủ, châu, giáp, xã. Đơn vị hương trước đó được đổi thành giáp. Đứng đầu giáp
là quản giáp và phó tri giáp. Ngoài những hương cũ đổi thành giáp, Khúc Hạo còn
chia đặt thêm nhiều giáp mới, tổng cộng 314 giáp (thời nhà Đường ở nước ta có
159 hương). Đơn vị hành chính thấp nhất là xã có các chức chánh lệnh trưởng,
lệnh trưởng cai quản.
Với cải cách nói trên, chính
quyền của Khúc Hạo đã tiến thêm một bước trên đường xây dựng nền tự chủ, thống
nhất, tăng cường được sự quản lý của chính quyền trung ương đối với các địa
phương.
Đường lối chính trị của cuộc
cải cách theo định hướng chung là “chính sự cốt chuộng khoan dung giản dị.
Nhân dân đều được yên vui” [3,
tr.218]. Tư tưởng cải cách tiến bộ đó được thể hiện cụ thể ở những cải cách về
kinh tế - xã hội.
2.2.2. Về kinh tế - xã hội
Khúc Hạo bãi bỏ chế độ điền
tô và phu dịch, thực hiện “bình quân thuế ruộng, tha bỏ lực dịch, lập sổ khai
hộ khẩu, kê rõ họ tên, quê quán giao cho giáp trưởng trông coi…” [3, tr.218].
Những cải cách về kinh tế
của Khúc Hạo đã xóa bỏ được chế độ bóc lột nặng nề của chính quyền đô hộ nhà
Đường, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân bấy giờ. Do đó có tác dụng tích
cực, củng cố mối quan hệ gắn bó giữa nhà nước và nhân dân, một nhân tố cực kỳ
quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ nhà nước, quốc gia độc lập, tự
chủ non trẻ vừa mới được thành lập từ năm 905.
Chính sách “bình quân thuế
ruộng” của Khúc Hạo khác hẳn về bản chất chế độ “quân điền”, chính sách thuế
tô, dung, điệu của nhà Đường ở Trung Quốc. Chính sách đó phù hợp với kết cấu
kinh tế xã hội thực tế của nước ta bấy giờ, tạo nên sự dung hợp giữa quyền lợi
của nhà nước trung ương với làng xã trong bối cảnh của nước ta đầu thế kỷ X.
Khúc Hạo thực hiện chính sách bình quân thuế ruộng là nhà nước thừa nhận quyền
sở hữu ruộng đất trong thực tế của các công xã và quyền phân phối ruộng đất
bình đẳng của công xã cho các gia đình thành viên công xã, trên cơ sở đó, các
hộ gia đình đóng thuế bằng nhau cho nhà nước thông qua công xã.
Thông qua cải cách kinh tế
nói trên, cũng đã có tác dụng trong việc xác lập bước đầu quyền sở hữu ruộng
đất công làng xã trên danh nghĩa của nhà nước, đặt nền móng ban đầu cho việc
gây dựng chế độ sở hữu ruộng đất của nhà nước, để trên cơ sở đó sẽ tiếp tục gây
dựng, củng cố dần theo tiến trình phát triển của chế độ phong kiến trung ương
tập quyền sau này.
Những cải cách của Khúc Hạo
có tác dụng và ý nghĩa lớn lao trong công cuộc xây dựng một chính quyền tự chủ,
một quốc gia độc lập, thống nhất, tách khỏi phạm vi thế lực của chính quyền
phong kiến Trung Quốc. Như chúng ta biết, An Nam đô hộ phủ hay Tĩnh hải quân
thời thuộc Đường là một đơn vị hành chính địa phương thuộc chính quyền phong
kiến trung ương Trung quốc quản lý và kiểm soát. Nước ta thuở đó nằm trong An
Nam đô hộ phủ. Cuộc cải cách của Khúc Hạo đã biểu hiện rất rõ rệt tinh thần tự
chủ, tự cường, tự lập và quyết tâm của dân tộc ta bấy giờ mà Khúc Hạo là tiêu
biểu, nhằm tiến lên xây dựng một đất nước hoàn toàn độc lập tự chủ từ sau chiến
thắng Bạch Đằng năm 938 của Ngô Quyền. Cuộc cải cách của Khúc Hạo được thực
hiện năm 907 là một biểu hiện về nền độc lập, tự chủ của dân tộc Việt Nam đã
thực sự được xác lập và nước ta lúc đó không còn là một quốc gia bị phong kiến
phương Bắc đô hộ nữa.
Với tất cả những điều phân
tích ở trên cho ta thấy, cuộc cải cách của Khúc Hạo có ý nghĩa lịch sử to lớn,
mở đầu cho lịch sử tư tưởng cải cách và các cuộc cải cách trong lịch sử Việt Nam .
II. CUỘC CẢI CÁCH CỦA HỒ QUÝ LY
2.1. Hoàn cảnh lịch sử
Vương triều Trần, từ vua
Trần Dụ Tông (1341 – 1369) trở về sau, ngày càng đi vào con đường suy thoái.
Vua quan đua nhau ăn chơi hưởng lạc, không còn chăm lo đến đời sống của nhân
dân. Bọn quý tộc, quan lại bắt quân dân xây dựng dinh thự, chùa chiền, hát
xướng, chơi bời phóng túng. Những kẻ bất tài nhưng khéo xu nịnh đều được thăng
quan tiến chức, kỷ cương triều chính rối loạn. Việc Chu Văn An – quan Tư nghiệp
Quốc tử giám dâng sớ xin chém 7 tên nịnh thần không được đã trả ấn từ quan là
một bằng chứng.
Trong nội bộ tầng lớp quý
tộc cầm quyền chia bè phái, mâu thuẫn, giết hại lẫn nhau để tranh giành địa vị,
quyền lực ngày càng khốc liệt, điển hình là vụ một số quý tộc đại thần nhà Trần
như Thái bảo Trần Nguyên Hàng, Thượng tướng quân Trần Khát Chân mưu giết Hồ Quý
Ly không được, bị Hồ Quý Ly giết chết cùng với hơn 370 quan lại quý tộc khác.
Vua quan, quý tộc ăn chơi
hưởng lạc, không chăm lo đến đời sống của nhân dân, lại còn ra sức huy động sức
người, sức của của nhân dân phục vụ cho các cuộc chiến tranh chinh phạt các
nước Ai Lao, Chămpa, càng làm cho đời sống của nhân dân thêm khổ cực. Sống
trong hoàn cảnh cùng cực đó, nhiều người phải bán mình trở thành nông nô, nô tỳ
của tầng lớp quan lại, nhưng cuộc sống thân phận của họ còn khổ cực hơn. Đó
chính là nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn xã hội gay gắt và phong trào khởi nghĩa
nông dân cuốI thế kỷ XIV. Lực lượng tham gia đông đảo là nông dân nghèo, nông
nô, nô tỳ trong các điền trang của vương hầu, quý tộc Trần. Điều đó chứng tỏ từ
nửa cuối thế kỷ XIV, xã hội Việt Nam đã bước vào cuộc khủng hoảng, vương triều
Trần đã suy thoái.
Bên cạnh đó, nửa cuối thế kỷ
XIV, vua Chămpa thường xuyên đánh phá vùng biên giới phía Nam Đại Việt và nhiều
lần còn đem quân đánh phá kinh thành Thăng Long, buộc vua Trần phải đi lánh
nạn.
Nhà Minh (Trung Quốc) bấy
giờ lợi dụng sự suy yếu của nhà Trần đã ra sức yêu sách, buộc nhà trần phải
chấp nhận. Năm 1384, nhà minh buộc nhà Trần cấp lương thực cho quân Minh đánh
Vân Nam ,
nhà Trần phải nộp 5000 thạch lương. Năm 1385, nhà Trần phải tuyển 20 nhà sư đưa
sang Kim Lăng nộp cho nhà Minh. Năm 1386, nhà Minh lại đòi dâng nộp 50 thớt
voi, chuẩn bị lương thảo dọc đường từ Nghệ An trở ra để vận chuyển đến Vân Nam .
Năm 1394, nhà Minh đòi nộp 80.000 thạch gạo, nhà trần phải nộp 10.000 thạch gạo
và phải chở sang tận Long Châu. Năm 1395, còn phải nộp voi và lương thực. Nguy
cơ xâm lược đất nước ta của nhà Minh ngày càng đến gần, nhưng vương triều Trần
đã bất lực, không còn đủ khả năng để tổ chức, lãnh đạo dân tộc kháng chiến như
trước đó.
Thiết chế chính trị quân chủ
quý tộc nhà Trần bước vào giai đoạn khủng hoảng, kìm hãm sự phát triển xã hội
đang trên bước đường phong kiến hóa, xác lập chế độ phong kiến tập quyền chuyên
chế.
Dưới thời Lý (1010 – 1225),
nhất là sang thời Trần (1226 – 1400), do mục đích, chủ trương của nhà nước
trong công cuộc tổ chức bộ máy quan chức mà hầu hết quan lại tham chính đều
xuất thân từ tầng lớp quý tộc (thời Lý), quý tộc tôn thất (thời Trần). Tầng lớp
quý tộc vừa nắm giữ các chức vụ chủ chốt ở triều đình và ở chính quyền địa
phương, vừa có rất nhiều đặc quyền, đặc lợi, có rất nhiều điền trang, thái ấp
cùng nông nô, nô tỳ. Tạo nên đặc điểm của chế độ quân chủ thời Lý, Trần là chế
độ quân chủ quý tộc và đưa đến sự phát triển mạnh mẽ quan hệ bóc lột nông nô,
nô tỳ của quý tộc trong xã hội.
Vào nửa cuối thế kỷ XIV, sau
một thời gian phát huy được mặt tích cực đối với sự phát triển kinh tế, ổn định
xã hội, thì vào cuối Trần, quan hệ bóc lột đó đã bộc lộ mặt tiêu cực, đời sống
của nông nô, nô tỳ do bị bóc lột triệt để trở nên hết sức cực khổ, nông dân
nghèo bị nông nô hóa đã dẫn đến mâu thuẫn xã hội gay gắt và phong trào nông dân
khởi nghĩa cuối Trần ngày càng phát triển. Điều đó chứng tỏ thiết chế chính trị
quân chủ quý tộc và quan hệ bóc lột nông nô, nô tỳ vào cuối thế kỷ XIV, đã
khủng hoảng, kìm hãm sự tiến hóa của xã hội Đại Việt, làm cho quá trình phong
kiến hóa trong xã hội tiến tới xác lập một thể chế quân chủ quan liêu chuyên
chế, một nhà nước phong kiến trung ương tập quyền thống nhất và mạnh, một quan
hệ sản xuất địa chủ - nông dân lệ thuộc thống trị trong nền kinh tế bị cản trở.
Bởi lẽ, tầng lớp quý tộc tôn thất nhà Trần từ vua đến quan lại vẫn ra sức giữ
nguyên thiết chế chính trị quân chủ quý tộc. Trong khi đó, thiết chế chính trị
quân chủ quý tộc nhà Trần đã bộc lộ sự suy yếu thản hại, bộc lộ những mâu thuẫn
gay gắt giữa quý tộc với các tầng lớp xã hội, trong đó có cả tầng lớp quan liêu
nho sĩ.
Muốn đất nước vượt qua được
cuộc khủng hoảng cuối thế kỷ XIV, đòi hỏi phải cải cách. Muốn vậy phải có một
nhà nước trung ương tập quyền vững mạnh, đủ khả năng thực hiện cuộc cải cách,
lãnh đạo dân tộc đánh thắng ngoại xâm.
Để thực hiện yêu cầu đó,
điều cần thiết đầu tiên là phải gạt bỏ những quý tộc Trần bảo thủ ra khỏi bộ
máy điều hành đất nước, xóa bỏ kinh tế điền trang, giải phóng sức lao động của
nông nô, nô tỳ, một bộ phận trong quan hệ sản xuất phong kiến lúc bấy giờ đã
trở nên lạc hậu, xóa bỏ nền quân chủ quý tộc không còn phù hợp với xu thế phát
triển của đất nước, xây dựng một nhà nước quân chủ quan liêu với quan hệ sản
xuất địa chủ - tá điền chiếm ưu thế và địa vị chủ đạo xã hội.
Từ giữa thế kỷ XIV đã xuất
hiện tư tưởng cải cách trong một số quan liêu - nho sĩ mà đại diện là Lê Quát,
Phạm Sư Mạnh, đòi hỏi thay đổi thiết chế chính trị theo mô hình chế độ quân chủ
quan liêu của Nho giáo, nhưng đã bị các vua Trần Dụ Tông (1341 - 1369) và Nghệ
Tông (1370 - 1372) bác bỏ.
Cuộc đấu tranh giữa hai
khuynh hướng tư tưởng và hai thế lực đã diễn ra khi âm thầm, lúc quyết liệt,
liên tục suốt trong 30 năm (1371 - 1400), huynh hướng bảo thủ quân chủ quý tộc
(của tầng lớp quý tộc tôn thất nhà Trần) và khuynh hướng quân chủ tập trung
quan liêu (của lực lượng quan liêu – nho sĩ mà tiêu biểu là Hồ Quý Ly.
2.2. Cuộc cải cách của Hồ
Quý Ly
Tháng 2 năm 1400, sau khi
bức vua Trần nhường ngôi và tự lập làm vua, thành lập triều đại nhà Hồ, Hồ Quý
Ly đã thực hiện nhiều chính sách và biện pháp cải cách trên các mặt của đời
sống xã hội.
2.2.1. Cải cách chính trị,
quân sự và luật pháp
2.2.1.1.Về chính trị
Năm 1375, Hồ Quý Ly đã đề
nghị xóa bỏ chế độ lấy người tôn thất làm các chức chỉ huy quân sự cao cấp,
định lại số quân, đưa lực lượng trẻ vào. Năm 1378, trong số 16 chỉ huy các đạo
quân ở trung ương, 12 người không phải là tôn thất nhà Trần. Năm 1379, Hồ Quý Ly đặt quy
chế về hệ thống quan lạI địa phương, thống nhất việc quản lý từ trung ương đến
địa phương. Các chức An phủ sứ ở lộ phảI quản toàn bộ lộ đến các phủ, huyện,
châu… trong lộ, lộ trực tiếp chịu trách nhiệm trước nhà nước trung ương.
Hồ Quý Ly loại bỏ dần tầng
lớp quý tộc tôn thất nhà Trần khỏi bộ máy chính quyền trung ương, thay thế dần
bằng tầng lớp nho sĩ trí thức có tư tưởng cải cách. Từ tháng 2 năm 1400, nhà
Trần hoàn toàn mất hết quyền bính dù chỉ là danh nghĩa, thiết chế quân chủ quý
tộc của nhà Trần hoàn toàn sụp đổ. Chính quyền chuyển sang tay họ Hồ, đứng đầu
là Hồ Quý Ly. Hồ Quý Ly ra sức tuyển chọn, đề bạt và tổ chức thi cử để nhanh
chóng đào tạo một đội ngũ quan liêu mới cho nhà nước, chế độ quân chủ quý tộc
chuyển dần sang chế độ quân chủ quan liêu từ cuốI thế kỷ XIV sang đầu thế kỷ
XV.
2.2.1.2. Về quân sự
Hồ Quý Ly định lại binh chế, chỉnh đốn quân
đội, tổ chức lại quân Túc vệ, đặt thêm các hiệu quân, tăng cường kỹ luật quân
đội, thải các tướng sĩ bất tài, sức yếu thay vào những người khỏe, am tường võ
nghệ.
Hồ Quý Ly chủ trương cải
tiến vũ khí và trang bị, thực hiện nhiều biện pháp như mở xưởng rèn đúc vũ khí,
tuyển lựa các thợ giỏi vào các quân xưởng. Nhờ vậy, dưới thời Hồ Quý Ly đã chế
tạo ra được những vũ khí lợi hại như súng thần cơ là một loại đại bác đầu tiên
ở nước ta.
Hồ Quý Ly chủ trương xây
dựng một hệ thống cứ điểm phòng thủ để chống xâm lược. Những nơi xung yếu tại
các cửa biển và sông đều có đóng cọc gỗ. Hệ thống phòng thủ kéo dài từ núi Tản
Viên men theo sông Đà, sông Hồng, sông Luộc đến cửa sông Thái Bình dài gần
100km. Nhiều đồn quân chốt giữ các nơi xung yếu.
2.2.1.3. Về luật pháp:
Chỉ trong vòng 7 năm (1400 –
1407), nhà Hồ đã ban hành nhiều luật lệ và thực thi nó làm công cụ tích cực cho
việc thực hiện cải cách trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa.
Nhà Hồ đã có tới 30 lần ban hành các luật lệ.
Hoạt động lập pháp được chú
ý tăng cường. Nhà nước chủ trương tăng cường pháp trị nhằm khôi phục lại kỷ
cương xã hội bị rối loạn vào cuối thời nhà Trần. Các luật lệ của nhà Hồ còn tập
trung vào mục đích xây dựng và củng cố chế độ quân chủ quan liêu chuyên chế vừa
mới được thiết lập còn thiếu cơ sở kinh tế - xã hội vững chắc, trấn áp tầng lớp
quý tộc tôn thất nhà Trần chống đối, chống lại các cuộc khởi nghĩa của nhân
dân.
2.2.2. Cải cách kinh tế -
tài chính
Năm 1396, Hồ Quý Ly ban hành
chính sách phát hành tiền giấy, gọi là tiền “Thông bảo hội sao”. Tất cả
mọi người phải đem tiền đồng để đổi lấy tiền giấy. Nếu tàng trữ, tiêu dùng tiền
đồng và làm giả tiền giấy thì bị tội tử hình, tài sản sung công quỹ nhà nước.
Năm 1397, Hồ Quý Ly ban hành
chính sách hạn điền. Các đại vương và trưởng công chúa thì ruộng đất
không bị hạn chế về số lượng (ruộng đất tư hữu), còn thứ dân không được có quá
10 mẫu. Người nào có nhiều ruộng đất nếu có tội được lấy ruộng chuộc tội, phải
biếm hay bãi chức cũng được lấy ruộng để chuộc. Còn thừa phải đem nộp cho nhà
nước.
Năm 1401, Hồ Quý Ly ban hành
chính sách hạn nô, chiếu theo phẩm tước, cấp bậc mà được sử dụng một số
lượng gia nô theo quy định của nhà nước. Số gia nô quá quy định phải đem nộp
cho nhà nước. Mỗi gia nô thừa ra được nhà nước trả cho 5 quan tiền.
Năm 1402, nhà Hồ ban hành chính
sách thuế mới, định lại biểu thuế đinh và thuế ruộng.
Về thuế ruộng, thời Trần:
mỗi mẫu ruộng tư thu 3 thăng thóc, nay thu 5 thăng. Bãi dâu thời Trần thu từ 7
đến 9 quan tiền thì nay thu hạng nhất mỗi mẫu 5 quan tiền giấy, hạng nhì 4
quan, hạng ba 3 quan. Thuế đinh thời Trần mỗi năm mỗi đinh đóng 3 quan tiền thì
nay chiếu theo số ruộng. NgườI nào ruộng chỉ có 5 sào thì phảI đóng 5 tiền
giấy; từ 6 sào đến 1 mẫu thì nộp 1 quan; từ 1 mẫu 1 sào đến 1 mẫu 5 sào thì nộp
1 quan 5 tiền; từ 1 mẫu 6 sào đến 2 mẫu thì nộp 2 quan tiền; từ 2 mẫu 1 sào đến
2 mẫu 5 sào thì nộp 2 quan 6 tiền; từ 2 mẫu 6 sào trở lên thu 3 quan tiền giấy.
Đinh nam không có ruộng, trẻ con mồ côi, đàn bà góa chồng dù có ruộng đều không
phải đóng.
2.2.3. Cải cách văn hóa,
giáo dục
Hồ Quý Ly
đã cho sửa đổi nội dung, cách thức trong
các kỳ thi. Năm 1396, xuống chiếu định cách thức thi Cử nhân (thi Hương ở các
lộ). Bãi bỏ phép thi viết ám tả cổ văn, dùng thể văn 4 kỳ.
Năm 1397, Hồ Quý Ly chủ
trương mở trường học ở các châu, phủ, cử các quan Giáo thụ trông coi, đôn đốc
việc học tập. Nhà nước quy định số lượng ruộng đất cấp để sử dụng việc học ở
các địa phương, gọi là học điền.
Hồ Quý Ly đề cao chữ Nôm. Hồ
Quý Ly viết sách “Minh Đạo” (con đường sáng), bày tỏ quan điểm của mình về Nho
giáo, hạ thấp vai trò của Khổng Tử, phê phán Nho gia là những người “học rộng
nhưng tài kém, không quan thiết đến sự tình (phục vụ thực tiễn cuộc sống), chỉ
chuyên việc lấy cắp văn chương của người xưa”.
Đối với Phật giáo, năm 1396,
Hồ Quý Ly bắt tất cả các nhà sư chưa đến 50 tuổi phải hoàn tục để lao động. Còn
lại phải sát hạch, ai thông hiểu đạo Phật mới được làm sư.
Qua những điều phân tích ở
trên, chúng ta không thể phủ nhận Hồ Quý Ly là một nhà cải cách táo bạo và kiên
quyết hiếm có trong lịch sử Việt Nam . Ông đã đưa ra một loạt chính
sách và biện pháp cải cách trên nhiều phương diện như tăng cường chế độ trung
ương tập quyền, củng cố quốc phòng, giải quyết các mâu thuẫn kinh tế - xã hội,
mở mang văn hóa, giáo dục…
Cải cách của Hồ Quý Ly xét
về nội dung nhằm vào hai mục tiêu chính: củng cố, tăng cường chế độ quân chủ
tập quyền và giải quyết các mâu thuẫn kinh tế - xã hội do cuộc khủng hoảng đặt
ra.
Về mục tiêu thứ nhất, Hồ Quý Ly đã loại bỏ tầng
lớp quý tộc Trần và chuyển dần từ chế độ quân chủ quý tộc sang chế độ quân
chủ quan liêu. Hồ Quý Ly ra sức tuyển chọn, đề bạt và tổ chức thi cử để
nhanh chóng đào tạo một đội ngũ quan liêu mới. Bộ máy hành chính ở trung ương
và địa phương được chấn chỉnh lại với “quan chế và hình luật” ban hành năm
1401. Nói chung, chế độ cai trị của triều Hồ mang tính pháp trị cao hơn.
Có thể nói từ cuối Trần sang
Hồ, qua Lê sơ là bước chuyển biến từ chế độ quân chủ quý tộc sang chế độ quân
chủ quan liêu mà vào nửa sau thế kỷ XV sẽ được hoàn chỉnh dưới triều vua Lê
Thánh Tông (1460 – 1479). Trong điều kiện của nước ta lúc bấy giờ, đó là một
bước tiến của lịch sử, vì nó bảo đảm cho sự tồn tại trong trật tự và kỷ cương
của một quốc gia độc lập và thống nhất, đặc biệt là trong hoàn cảnh phải khắc
phục những rối loạn cuối Trần và đương đầu với những mối đe dọa từ hai phía Bắc
và Nam ở thời Hồ.
Về mục tiêu thứ hai, qua các chính sách của Hồ
Quý Ly có thể nhận thấy hướng giải quyết của ông là hạn chế thế lực của tầng
lớp quý tộc, phát triển xu hướng tư hữu hóa trong một giới hạn nhất định và tập
trung quyền lực vào chính quyền trung ương.
Chính
sách hạn điền (1397), hạn nô (1401) trước hết đánh vào các điền trang, thái ấp
của quý tộc, đồng thời chỉ chấp nhận trên pháp lý sự phát triển của chế độ tư
hữu ruộng đất với mức sở hữu 10 mẫu trở xuống và chuyển một số ruộng đất, nô tỳ
của tư nhân thành tài sản của nhà nước. Chính sách hạn điền cùng với chính sách
hạn nô không những đánh mạnh vào cơ cấu kinh tế của quý tộc, cơ
cấu kinh tế - xã hội của nhà
nước quân chủ quý tộc Trần đã
khủng hoảng nghiêm trọng, mà còn là biện pháp tích cực ngăn chặn quá
trình nông nô hóa đang ngày càng gia tăng trong xã hội, bảo đảm quyền kiểm soát
dân đinh của vương triều mới, củng cố quyền lực của nhà nước Hồ.
Những cải cách trên lĩnh vực
văn hóa, giáo dục của Hồ Quý Ly và nhà nước thời Hồ thể hiện tư tưởng tiến bộ
trong việc nhằm xây dựng một nền văn hóa, giáo dục dân tộc mang bản sắc Việt
Nam, gắn liền với nhu cầu thực tiễn, xã hội bấy giờ.
Chính sách phát hành tiền
giấy (1369), chính sách thuế ruộng đất (1402), thuế đinh nam (1402)… nhằm bảo
đảm cho các nguồn thu nhập của nhà nước, và về một mặt nào đó phản ánh yêu cầu
phát triển công thương nghiệp và sự quan tâm của nhà nước đối với lợi ích của
một số dân nghèo như thuế ruộng tư thì tăng từ 3 thăng lên 5 thăng mỗi mẫu,
trong lúc đinh nam không có ruộng được miễn thuế đinh và cô nhi, quả phụ dù có
ruộng cũng không phải đóng thuế.
Những cải cách của Hồ Quý Ly
về nhiều mặt cho thấy ông là một nhà cải cách lớn, có lòng yêu nước, ý thức tự
cường, tinh thần dân tộc sâu sắc, kiên quyết chống ngoại xâm để bảo vệ đất
nước.
Những
việc làm của Hổ Quý Ly, xét về mặt lợi ích quốc gia, đã không thành công. Thất
bại của cuộc kháng chiến chống Minh đương thời có phần trách nhiệm của ông và
có lẽ ông cũng nhận thức được phần nào điều đó khi ông thưởng cho Hồ Nguyên
Trừng hộp trầu bằng vàng, sau câu nói khá độc đáo “thần không sợ đánh, chỉ sợ
lòng dân không theo”.
III. CUỘC CẢI CÁCH CỦA LÊ THÁNH TÔNG
3.1. Hoàn cảnh lịch sử
Sau cuộc kháng chiến chống
quân xâm lược Minh thắng lợi, Lê Lợi – người lãnh đạo tối cao cuộc kháng chiến
lên làm vua, sáng lập ra triều Lê, lấy quốc hiệu là Đại Việt, đóng đô ở Thăng
Long.
Nền hành chính dưới các triều vua
Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông
về cơ bản vẫn phỏng theo tổ chức chính quyền của các triều đại Lý -
Trần.
Hệ thống chính quyền đều tập trung vào triều đình trung ương,
đứng đầu là vua rồi đến các chức tả hữu tướng quốc, kiểm hiệu bình chương quân
quốc trọng sự, tam tư, tam thái, tam thiếu do các đại công thần và dòng họ Lê
Lợi nắm giữ. Dưới đó là các cơ quan như Thượng thư sảnh, Môn hạ sảnh, Trung thư
sảnh, Khu mật viện… Các bộ chỉ là những ban, phòng nằm trong Thượng thư sảnh.
Ngoài ra còn có một số cơ quan chuyên môn như Hàn lâm viện, Ngự sử đài, Quốc tử
giám.
Ở địa phương, cả nước được chia
làm 5 đạo : Đông đạo, Bắc đạo, Tây đạo, Nam đạo và Hải Tây đạo tương ứng với vùng
lãnh thổ Tây Bắc, Đông Bắc, vùng đồng bằng Bắc bộ đến đến Quảng Nam ngày nay.
Đứng đầu mỗi đạo có chức Hành
khiển trông coi các mặt. Dưới đạo có 24 lộ do An phủ sứ đứng đầu như thời Trần.
Dưới lộ là huyện, châu, xã và có cấp bộ chính quyền tương đương để quản lý. Đối
với vùng núi lập thành các châu, đứng đầu có Tri châu, bổ nhiệm từ trong số các
tù trưởng của các dân tộc thiểu số.
Trải qua các đời
vua Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông, Nghi Dân bộ máy chính quyền đều có những thay đổi,
củng cố thêm theo xu hướng tập quyền.
Để bảo vệ quyền chuyên chế của mình,
từ những vua đầu nhà Lê đã dùng những thủ đoạn giết hại các công thần có tài năng,
uy tính mà các vua Lê cho là họ có thể lấn át hay làm giảm uy quyền của nhà vua
như việc giết hại hai đại công thần có công với dân tộc trong cuộc kháng chiến
chống quân lược Minh và sáng lập ra nhà Lê như Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo
khi Lê Lợi lên làm vua; đến triều Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông giết Lê Khả, Lê
Khắc Phục, Nguyễn Trãi, Lưu Nhân Chú, Trịnh Khả, Lê Sát, Lê Ngân,...
Hầu hết các quan lại đầu thời Lê đều
xuất thân từ giai cấp địa chủ, họ hợp thành một đẳng cấp quý tộc quan liêu có
nhiều đặc quyền, đặc lợi trong xã hội.
Việc phong cấp ruộng đất với số lượng
lớn cộng với số lượng đất vốn có của địa chủ khi trở thành quan lại lập tức họ
trở thành những địa chủ to lớn trong xã hội, xã hội ngày càng bị phân hoá sâu
sắc và lan rộng. Những hiện tượng xấu của cuối đời nhà Trần được tái diễn trở
lại vào giữa thế kỷ XV.
Mất mùa, đói kém, dịch bệnh cộng
với nạn quan lại nhũng nhiễu dân chúng đã làm cho người dân khốn đốn, xã hội không
ổn định. Bộ máy quan lại cuối triều Lê Nhân Tông khá cồng kềnh nhưng không đảm đương
được công việc theo quy định của triều đình.
Bên cạnh đó, tình hình triều
chính ngày càng bất ổn dẫn đến cuộc chính biến năm 1460 kết thúc giai đoạn trì
trệ của nhà Lê sau hơn 30 năm thống trị đất nước và mở ra một giai đoạn lịch sử
mới và sự xuất hiện của vua Lê Thánh Tông đã đưa chế độ phong kiến thoát ra
khỏi sự khủng hoảng để tiến tới thời kỳ phát triển thịnh đạt của chế độ phong
kiến trung ương tập quyền Việt Nam.
Như vậy, thiết chế chính trị như
trên đã nêu rõ ràng chưa chặt chẽ, chưa hoàn chỉnh, mang tính phân tán. Nhược điểm
này đã bộc lộ ngay từ nửa sau thế kỷ XIV và đòi hỏi phải có biện pháp cải cách.
Trong hoàn cảnh mới của đất nước sau khi giành độc lập, nhưng vẫn duy trì thiết
chế chính trị đó, rõ ràng không phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước và xu
thế phát triển của thời đại.
Sau khi vua Lê Thái Tổ
qua đời, các vua kế vị
thì còn ít tuổi (Lê Thái Tông (1432-1442) lên ngôi lúc 10 tuổi, Lê Nhân Tông (1443-1459)
lên ngôi lúc 2 tuổi), tình trạng quan lại tham
nhũng, lộng quyền... khá phổ biến, nhiều công thần khai quốc thì bị giết
hại. Thực trạng này làm cho nhà nước trung ương tập quyền suy yếu. Lúc này,
muốn xây dựng một nhà nước trung ương tập quyền mạnh, đòi hỏi phải chấn chỉnh
lại kỷ cương phép nước, phải cải cách thiết chế chính trị, cả về cơ chế vận hành
của bộ máy hành chính từ trung ương đến các địa phương.
3.2. Cuộc cải cách của Lê
Thánh Tông
3.2.1. Cải cách hành chính
và hệ thống quan lại
Xuất phát từ mục tiêu của
cuộc cải cách nhằm khắc phục những hạn chế, yếu kém của bộ máy hành chính và
thực trạng tình hình chính trị để có được một nhà nước tập quyền mạnh, có năng
lực, tập trung được quyền lực của chính quyền trung ương. Lê Thánh Tông trước
tiên bãi bỏ các quan chức và cơ quan trung gian giữa vua và bộ phận thừa hành, đó
là Thượng thư sảnh, Trung thư sảnh, Môn hạ sảnh, Khu mật viện cùng các viên
quan cao cấp nhất như Tướng quốc (Tể tướng), Đại hành khiển, tả hữu Bộc xạ… Vua
trực tiếp nắm toàn quyền kể cả quyền tổng chỉ huy quân đội, chỉ đạo mọi công
việc trọng yếu và quan hệ làm việc trực tiếp với các cơ quan thừa hành. Giúp
vua bàn bạc và chỉ đạo công việc khi cần thiết có các đại thần như Thái sư,
Thái phó, Thái bảo, Thái úy, Thiếu sư, Thiếu bảo…
Cơ quan quản lý nhà nước ở
trung ương là 6 Bộ (Lại, Lễ, Bình, Hình, Công, Hộ) phụ trách các mặt hoạt động
khác nhau của nhà nước. Giúp việc cho 6 Bộ là 6 Tự. Đứng đầu các Bộ là chức
Thượng thư chịu trách nhiệm trực tiếp trước vua về hoạt động của Bộ mình phụ
trách. Để tăng cường công tác thanh tra, giám sát hoạt động của các quan lại ở
6 Bộ, ngoài Ngự sử đài, Lê Thánh Tông còn đặt thêm 6 Khoa. Mỗi Bộ đều có một
Khoa tương ứng để theo dõi, giám sát hoạt động của quan chức Bộ đó (Bộ Binh thì
có binh khoa…).
Hệ thống hành chính từ cấp
trung gian đến cấp xã cũng có những cải cách cơ bản, quan trọng.
Năm 1466, Lê Thánh Tông bãi
bỏ các đơn vị trung gian lớn là 5 đạo, chia cả nước làm 12 đạo thừa tuyên
(Thanh Hóa, Nghệ An, Thuận Hóa, Thiên Trường, Nam Sách, Quốc Oai, Bắc Giang, An
Bang, Hưng Hóa, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn và phủ Trung đô). Năm 1471,
đặt thêm đạo thừa tuyên thứ 13 là Quảng Nam . Dưới đạo thừa tuyên là phủ,
châu, huyện, xã. Bỏ đơn vị trấn và lộ, đổi lộ làm phủ, trấn làm châu.
Cùng với việc cải tổ hệ
thống đơn vị hành chính thống nhất trong cả nước là việc tổ chức lại bộ máy tổ
chức chính quyền các cấp.
Ở mỗi đạo thừa tuyên đều có
3 Ty ngang quyền nhau, cùng quản lý công việc chung. Đô tổng binh sứ ty (Đô ty)
phụ trách về quân sự; Thừa tuyên sứ ty (Thừa ty) trông coi mặt dân sự; Hiến sát
sứ ty (Hiến ty) phụ trách công việc thanh tra, giám sát các quan lại địa phương
mình, thăm nom tình hình đời sống nhân dân. Các Ty chịu trách nhiệm trực tiếp
trước triều đình. Đứng đầu phủ có Tri phủ, đứng đầu huyện có Tri huyện, xã quan
đổi thành xã trưởng. Xã chia làm 4 loại theo số lượng dân cư. Xã lớn (đại xã)
có từ 500 hộ dân trở lên được bầu 5 xã trưởng; trung xã có từ 300 hộ đến dưới
500 hộ có 4 xã trưởng; tiểu xã có từ 100 hộ đến dưới 300 hộ có 2 xã trưởng,
dưới 60 hộ có 1 xã trưởng. Riêng phủ Trung đô, các quan chức phụ trách gọi là
Phủ doãn, Thiếu doãn và Thị lang. Đứng đầu chính quyền cấp châu là Tri châu.
Hệ thống tổ chức thanh tra,
giám sát quan lại được cải tổ khá chặt chẽ từ triều đình đến các địa phương. ở
trung ương có cơ quan Ngự sử đài, bên cạnh việc giám sát chung còn có 13 cai
đạo giám sát Ngự sử (nằm trong Ngự sử đài) chuyên giúp đỡ, cộng tác các Hiến ty
trong việc giám sát quan chức ở các đạo thừa tuyên, lại có 6 khoa, ở đạo thừa
tuyên có Hiên ty. Cuộc cải cách về cơ cấu tổ chức hành chính của Lê Thánh Tông
đã tạo ra được hệ thống hành chính thống nhất từ trên xuống dưới, từ trung ương
đến địa phương, cấp cơ sở trong phạm vi cả nước. Một bộ máy gọn gàng, chặt chẽ,
nhất quán, đảm bảo được sự chỉ đạo và quyền lực tập trung của trung ương. Đây
là mô hình tiên tiến nhất của chế độ quân chủ phong kiến tập quyền đương thời,
là một biểu hiện rõ nét của sự xác lập chế độ quân chủ quan liêu Đại Việt đương
thời. Và như vậy, có thể nói, cuộc cải cách hành chính của Lê Thánh Tông đã
thúc đẩy cho quá trình phong kiến hóa trong xã hội Đại Việt hoàn thành, chế độ
quân chủ quan liêu được xác lập.
Trong cuộc cải cách hệ thống
quan lại, Lê Thánh Tông đặc biệt chú ý đến vấn đề tuyển dụng, bổ nhiệm, vấn đề
quản lý, phân định chức năng, quyền hạn, trách nhiệm, tiêu chuẩn đánh giá quan
lại.
Lê Thánh Tông bãi bỏ chế độ
bổ dụng các Vương hầu, quý tộc vào các trọng chức của triều đình. Tiêu chuẩn để
được bổ dụng làm quan là phải có trình độ học thức đã được kiểm tra qua khoa
cử, không phân biệt thành phần xuất thân. Các thân vương, công hầu được ban cấp
bổng lộc nhiều, nhưng nếu không đỗ đạt, không có tài năng thì cũng không được
làm quan.
Không chỉ có quan chức ở
trung ương, mà các quan chức địa phương từ cấp đạo thừa tuyên đến cấp xã cũng
phảI có trình độ học vấn. Các quan chức ở cấp châu, huyện phải là những người
đã “có chân thi Hội (Tiến sĩ) đỗ tam trường” [1, tr.34]. cấp xã phải
“xét những ngườI biết chữ, có tài cán mới được bổ nhiệm. Nếu không biết chữ thì
cho nghỉ” [1, tr.34].
Việc sử dụng, thăng, giáng
chức được thực hiện căn cứ vào những tiêu chí cụ thể về năng lực, phẩm chất
“xét kỹ quan lại, hoặc có người liêm hay tham, siêng hay lười đều kể tên để
định thăng, giáng”. [1,
tr.93].
Cơ sở để thăng, giáng chức
là khảo khóa, Lê Thánh Tông quy định hạn khảo khóa (kiểm tra lại tiêu chuẩn,
tài năng, đức độ, công tội của quan lại định kỳ) cứ 3 năm xét sơ khảo, 3 năm
tiếp theo xét lần thứ hai, 3 năm cuối (đủ 9 năm) chung khảo để được thăng,
chuyển ngạch hay bị giáng chức, xuống ngạch.
Để quản lý bộ máy quan liêu,
song song với việc khảo khóa theo niên hạn, vua Lê Thánh Tông còn định lệ giảm
thải “Trưởng quan theo đạo công xét kỹ những quan viên dưới quyền, giảm hoặc có
người hèn kém bỉ ổi không thể làm việc được… giao Bộ Lại xét thực đều bắt về
hưu. Lại chọn người từng trải, làm được việc, có tài khí, kiến thức thông thạo
mà bổ thay vào” [4,
tr.567]. Như vậy, với lệ giảm thải thì kẻ hèn kém bị
loại bỏ, và người có tài khi được cất nhắc vào bất kỳ lúc nào, không cần thiết
phải chờ niên hạn khảo khóa, quan trường do vậy được thường xuyên sàng lọc.
Thiết chế chính trị sau cải
cách hành chính của Lê Thánh Tông là một biểu hiện của sự xác lập và phát triển
chế độ phong kiến Việt Nam
về mặt thượng tầng kiến trúc. Công cuộc xây dựng, củng cố và phát triển thiết
chế chính trị quân chủ quan liêu (trung ương tập quyền chuyên chế) ở thế kỷ XV,
đạt đến đỉnh cao dưới thời Lê Thánh Tông sau cải cách hành chính và bộ máy quan
lại là phù hợp và đáp ứng được yêu cầu của lịch sử Việt Nam bấy giờ.
Đây là một việc cải cách
hoàn toàn mới, có tính sáng tạo của Lê Thánh Tông nhằm làm trong sạch bộ máy hành
chính và thúc đẩy sự siêng năng của các bộ chủ quản dưới quyền của nhà vua, tựa
như các ngành thanh tra, kiểm tra sau này.
3.2.2. Cải cách quân đội và
củng cố quốc phòng
Song song với việc xây dựng
bộ máy quân chủ quan liêu, Lê Thánh Tông rất chăm lo xây dựng và củng cố lực
lượng quốc phòng.
Trải qua các triều Thái
Tông, Nhân Tông, Nghi Dân đến thời Thánh Tông, binh chế được xây dựng rất chu
đáo, chặt chẽ, có một sự cải cách rõ rệt. Năm 1466, toàn bộ hệ thống tổ chức
quân đội được cải tổ. Quân đội chia ra làm hai loại: quân thường trực bảo vệ
kinh thành gọi là cấm binh hay thân binh và quân ở các đạo gọi là ngoại binh. ở
mỗi đạo chia binh làm 5 phủ, mỗi phủ gồm 6 vệ, mỗi vệ có 5 hoặc 6 sở. Mỗi phủ
do một Đô đốc phủ thống suất. Thân binh chia làm nhiều vệ, dưới vệ có sở hay
ty. Bộ máy quân sự các cấp được cải tổ theo hướng tăng cường quyền lực trung
ương, hạn chế quyền lực địa phương. Đổi mới tổ chức cấm quân, bãi bỏ chế độ
quân Thiết Đột có từ thời Thái Tổ, đặt ở Kinh thành 2 vệ quân Kim Ngô và Cẩm Y,
4 vệ hiệu lực, 4 vệ thần vũ, 6 vệ điện tiền, 5 vệ tuần tượng và 4 vệ mã nhàn.
Thành lập các quân Điện Tiền thường xuyên túc trực thay cho quân Thiết Đột.
Thời kỳ này cũng không còn quân Vương hầu, Sương quân như các thời kỳ trước,
bãi bỏ chế độ quân 5 đạo của thời Thái Tổ đến Nghi Dân, biến nó thành một bộ
phận quan trọng của quân đội trung ương, là lực lượng thường trực của nhà nước
trung ương trên những địa bàn trọng yếu trong nước (quân ngũ phủ), tăng cường
được sức mạnh phòng thủ đất nước, bảo vệ triều đình của nhà Lê.
Cùng với việc hoàn thiện cơ
cấu tổ chức quân đội, dưới triều Thánh Tông cũng có một sự cải cách về mặt hành
chính quân sự - quốc phòng để tăng hiệu lực của nền quốc phòng và sức mạnh của
quân đội, đồng thời bảo đảm sự phát triển nền kinh tế nông nghiệp. Binh chế của
nhà Lê vào năm 1467, quân ở Kinh được phiên chế thành các ty, vệ, sở, đội. Mỗi
ty có 100 người, mỗi vệ có từ 5 – 6 sở, mỗi sở có 20 đội, mỗi đội có 20 người.
Tất cả có 66 ty, 300 sở, 120.000 người. Quân ngũ phủ có 30 vệ, 154 sở, 61.600
người. Quân địa phương có 27 vệ, 257 sở, 137.000 người. Tổng cộng quân số có
khoảng 31.720 người. Nhưng nhà nước đã thực hiện chính sách “ngụ binh ư nông”
trong quân đội. Quân đội được chia thành từ 2 đến 3 phiên, theo định kỳ một
phiên túc trực là nhiệm vụ và luyện tập võ bị, còn lại trở về sản xuất.
Với cách tổ chức quân đội
như vậy, nhà Lê đã hình thành một cơ cấu tổ chức quân sự hoàn chỉnh, chặt chẽ,
bao gồm quân triều đình, quân địa phương. Nhà nước vừa có quân thường trực
mạnh, vừa có lực lượng dự bị đông đảo có thể điều động lúc cần thiết.
Quân đội nhà Lê gồm có thủy
binh, bộ binh, tượng binh, kỵ binh. Ngoài ra còn có các đơn vị chuyên dùng một
loại súng lửa gọi là hỏa đồng. Việc huấn luyện quân đội được chú trọng, có
những điều lệnh cụ thể, chi tiết. Năm 1465, nhà nước ban bố 31 điều quân lệnh
về thủy trận, 32 điều về tượng trận, 27 điều về mã trận, 42 điều về bộ trận.
Năm 1467, quy định 3 năm mở một kỳ thi võ nghệ nhằm khuyến khích quân sĩ luyện
tập võ nghệ. Nhờ vậy, quân đội nhà Lê có trình độ kỹ thuật và tác chiến khác
cao so với thời bấy giờ. Với lực lượng quân đội và quốc phòng hùng mạnh, nhà
nước Lê sơ đã trấn áp được các thế lực chống đối ở trong nước và ngoài nước,
bảo vệ quốc gia độc lập, tự chủ.
3.2.3. Hoàn chỉnh pháp luật
và bộ Lê triều hình luật
Năm 1483, sau khi lên ngôi
vua, Lê Thánh Tông cho tập hợp những điều lệ đã ban trong các đời vua Lê trước,
tham khảo pháp luật thờI Lý - Trần, căn cứ vào tình hình của đất nước mà soạn
ra bộ luật mới. Đó là bộ Lê triều hình luật, còn gọi là bộ luật Hồng Đức. Bộ
luật này kể cả những điều luật được bổ sung thêm ở thời Lê mạt, gồm 722 điều
luật, chia làm 6 quyển, 16 chương.
Nội dung cơ bản của bộ luật
nhằm khẳng định và củng cố sự thắng lợi của giai cấp địa chủ, trấn áp mọi hành
động chống đối nhà nước phong kiến, xâm phạm đến lợi ích của giai cấp thống
trị. Gồm mấy đặc điểm sau:
- Bảo vệ quyền thống trị của
nhà nước quân chủ quan liêu. Cả một chương của bộ luật dành cho luật cấm vệ gồm
47 điều, nhằm bảo đảm an toàn hoàng cung và bản thân nhà vua. Những hành vi ra
vào hoàng cung trái với thể lệ đều bị trừng trị nặng. Tội mưu phản, mưu đại
nghịch, mưu chống lại nhà nước, nhà vua đều bị tử hình, bất cứ ai cũng không
được hưởng chế độ bát nghị, không được chuộc tội bằng tiền, không được miễn
giảm khi triều đình ân xá.
- Bảo vệ quyền lợi của giai
cấp địa chủ phong kiến. Nhà nước có những quy định được ghi vào luật pháp nhằm
giành cho tầng lớp quý tộc quan liêu nhiều đặc quyền, đặc lợi. Những đại quý
tộc và quan lại cao cấp nếu phạm tội (trừ tội thập ác) thì được ân giảm hay tha
bổng theo lệ “bát nghị”. Bảo vệ quyền lợi của nhà nước và của giai cấp thống
trị còn được thể hiện trong nhiều điều luật của bộ luật Hồng Đức, nghiêm cấm và
trừng phạt nặng những hành vi xâm lấn, chiếm đoạt ruộng đất công, quy định quyền
sở hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ, quy định những nguyên tắc mua bán, cầm
cố, kế thừa ruộng đất. Có những điều khoản đã trở thành cơ sở pháp lý cho việc
chiếm đoạt ruộng đất của giai cấp địa chủ.
- Củng cố trật tự xã hội
phong kiến, bảo vệ chế độ gia tộc phụ quyền và các chuẩn mực đạo đức phong kiến
theo tinh thần Nho giáo. Cơ sở xã hội nhà nước phong kiến thời Lê sơ là chế độ
gia tộc phụ quyền.
Tầng lớp quý tộc quan liêu
là đẳng cấp cao nhất trong xã hội, có nhiều đặc quyền, đặc lợi về nhiều phương
diện. Có những điều luật quy định nghiêm ngặt về áo quần, ăn mặc, nhà cửa, đồ
dùng chỉ dành cho tầng lớp quý tộc quan liêu, dân thường không được dùng. Tầng
lớp nô tỳ bị coi là thấp kém nhất trong xã hội, không được coi là thần dân của
nhà nước. Đối với phụ nữ, bộ luật Hồng Đức có những điều luật khắt khe hơn đối
với nam giới. Tuy nhiên, trong một số điều luật, người phụ nữ thời Lê sơ được
pháp luật bảo vệ quyền lợi kinh tế. Con gái được hưởng quyền chia gia tài bình
đẳng như con trai, trong trường hợp gia đình không có con trai thì con gái
trưởng được quyền thừa kế hương hỏa. Khi phân chia tài sản gia đình do ly hôn,
người vợ được lấy lại số tài sản riêng do bố mẹ cho làm của hồi môn và chia tài
sản thành hai phần bằng nhau cho hai người. Về mặt hôn nhân, người con gái đã
đính hôn nhưng chưa làm lễ thành hôn mà người con trai bổng mắc bệnh không thể
chữa, hoặc phạm tội, hoặc phá tài sản thì người con gái được phép xin từ hôn và
trả lại sính lễ. Những quy định nói trên nhằm bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ
đã thể hiện được tính thực tiễn, tính dân tộc và tiến bộ của luật pháp bấy giờ.
Bộ luật Hồng Đức là bộ luật
hoàn chỉnh nhất của nhà nước phong kiến việt Nam . Về cơ bản, bộ luật này là bộ
luật hình như tên gọi của nó – Lê triều hình luật, nhưng thực chất, đây là một
bộ luật tổng hợp nhiều mặt luật pháp (luật hình, luật hành chính, luật dân sự,
luật tố tụng, luật hôn nhân và gia đình…). Bộ luật biểu hiện rõ nét tính chất
giai cấp và quyền lực của nhà nước phong kiến đối với nhân dân, nhưng đây cũng
là bộ luật tương đối tiến bộ nhất trong thời đại phong kiến Việt Nam, mang đậm
nét sáng tạo và tinh thần thực tiễn của giai cấp phong kiến Việt Nam trong giai
đoạn đi lên của nó. Giáo sư Oliverôldman, chủ nhiệm khoa Luật Đông Á (Đại học
Luật Haward), nhận xét: “Bộ luật thời Lê của nước Việt Nam truyền
thống là một công trình bất hủ của vùng Đại Đông Á truyền thống. Nếu ngày mai
chúng ta được chứng kiến ở Trung Hoa một cuộc đấu tranh nhằm từ bỏ sự vô tổ
chức sau cách mạng văn hóa và đi tới soạn thảo luật pháp nhằm hiện đại hóa đất
nước, thì chúng ta cũng thấy triều đại nhà Lê ở Việt Nam vào những thế kỷ đặc
biệt của mình đã nổ lực xây dựng một quốc gia dân tộc vững mạnh như thế nào để
bảo vệ quyền tư hữu hợp pháp của con người thông qua hệ thống pháp luật tiến
bộ, trong đó có nhiều điều đã có thể sánh ngang về mặt chức năng với những quan
điểm pháp luật ở phương Tây cận đại”.
[2, tr.102].
Trong làng xã Việt Nam
truyền thống, nhân dân ta thường coi lệ làng cũng quan trọng không kém phép
nước. Thời Lê sơ cũng vậy, ngoài luật nước, các làng xã cũng xây dựng và sửa
đổi khoán ước, hương ước của làng mình cho phù hợp với điều kiện mới. Việc xét
xử theo lệ làng cũng nghiêm ngặt không kém luật nước. Người dân ở các làng xã
vẫn mong muốn qua lệ làng, khoán ước, hương ước để thể hiện và bảo vệ quyền tự
trị của mình có khi khác với luật pháp của nhà nước. Chính vì thế, Lê Thánh
Tông buộc phải chấp nhận cho các làng xã lập “khoán ước và cấm lệ”, nhưng lại
ban hành những quy định của nhà nước về việc lập “lệ làng”, chỉ ở “những làng,
xã nào có những tục lệ khác lạ” và “quan lại cấp trên duyệt nếu cần thì bác
bỏ”, nhằm không cho phép các “lệ làng” làm trái với luật pháp của nhà nước. Nhà
Lê muốn thống nhất giữa lệ làng với phép nước, lấy luật pháp nhà nước để trị
tội những người không chịu theo tục lệ của làng khi tục lệ đó đã được nhà nước
chuẩn y. Luật pháp của nhà nước Lê sơ đã hạn chế và thu hẹp quyền tự trị của
các làng, xã rất rõ nét, tăng cường sự lệ thuộc của các làng, xã với nhà nước
trung ương, củng cố chế độ quân chủ quan liêu.
3.2.4. Cải cách kinh tế,
phát triển nông nghiệp
3.2.4.1. Chế độ lộc điền
Khác hẳn với các triều Lý,
Trần, nhà Lê thực hiện chính sách lộc điền, đem ruộng đất thuộc quyền sở hữu
của nhà nước ban cấp cho tầng lớp quan lại cao cấp. Chế độ lộc điền được thi
hành ngay từ những triều vua đầu tiên của nhà Lê, nhưng chưa trở
thành quy chế. Đến thời vua Lê
Thánh Tông mới được quy định và ban hành thống nhất trong cả nước (1477). Ruộng
đất dùng để ban cấp chủ yếu là loại ruộng đất công làng xã. Lộc điền gồm hai
loại: một loại cấp vĩnh viễn gọi là ruộng đất thế nghiệp, một loại cấp tạm thời
trong một đời, sau khi chết 3 năm thì phải hoàn lại cho nhà nước. Chế độ lộc
điền là hình thức ban cấp ruộng đất quy mô của nhà Lê nhằm ưu đãi tầng lớp quý
tộc, quan lại cao cấp, biến họ trở thành những địa chủ lớn. Chế độ lộc điền đã
góp phần củng cố và phát triển chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất cũng như góp
phần xác lập quan hệ sản xuất địa chủ, tá điền và chế độ bóc lột địa tô phù hợp
với bước phát triển mới của chế độ sở hữu tư nhân lớn về ruộng đất và của những
quan hệ sản xuất phong kiến. Cùng với chính sách quân điền, chính sách lộc điền
đã tiến một bước mạnh mẽ vào chế độ chiếm hữu ruộng đất công của làng xã, khẳng
định tính chất phong kiến của chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất. Chế độ lộc
điền có tác dụng củng cố bộ máy quan liêu, củng cố cơ sở xã hội của nhà nước
phong kiến (giai cấp địa chủ), đánh dấu một bước tiến trong quá trình hình
thành và xác lập chế độ phong kiến Việt Nam .
3.2.4.2. Chính sách quân
điền
Cũng như chính sách lộc
điền, chính sách quân điền đã được thực hiện ngay từ những triều vua trước. Đến
đời vua Lê Thái Tông, từ năm 1477, chính sách quân điền mới được chính thức ban
hành và từ năm 1481, được thực hiện thống nhất trên quy mô cả nước theo nguyên
tắc sau:
Tất cả mọi người từ quan tam
phẩm đến cô nhi quả phụ đều được chia ruộng công. Những gia đình nông dân
thường đã có ruộng đất riêng đầy đủ, không được cấp.
Ruộng xã nào chia cho dân xã
ấy, xã nào ruộng quá nhiều, người ít thì cho phép lấy bớt ruộng xã nhiều chia
cho xã bên cạnh ruộng ít, người nhiều. Dân trong xã tùy theo thứ hạng được cấp
phần ruộng đất khác nhau. Quan hàm tam phẩm được 11 phần, ngũ phẩm được 9,5
phần… Cô nhi, quả phụ được 3 phần.
Ruộng công làng xã cứ 6 năm
chia lại một lần. Mọi người cày cấy ruộng công đều phải nộp tô cho nhà nước.
Riêng quan lại từ tứ phẩm trở lên do lộc điền ít nên không phải nộp tô.
Chính sách quân điền thời
Hồng Đức là một đòn tấn công mạnh mẽ nhằm phủ định quyền chi phối ruộng đất
công của làng xã theo tục lệ, buộc làng xã phải tuân thủ những nguyên tắc quy
định về phân chia và hưởng thụ bộ phận ruộng đất công – là bộ phận ruộng đất
quan trọng nhất, lớn nhất của nhà nước, làng xã lệ thuộc chặt chẽ vào nhà nước,
trên nguyên tắc, ruộng đất công làng xã không được đem mua bán, chuyển nhượng,
quyền đó thuộc nhà nước trung ương, nhà vua. Nhà nước trung ương, nhà vua với
chính sách quân điền đã trở thành người chủ lớn nhất trong cả nước và nông dân
làng xã trở thành tá điền của nhà nước, làng xã rơi xuống địa vị là người quản
lý ruộng đất cho nhà nước trung ương, nhà vua. Chính sách quân điền góp phần
quan trọng vào sự xác lập và hệ thống của những quan hệ sản xuất phong kiến:
quan hệ sản xuất địa chủ - tá điền trong xã hội ở thế kỷ XV.
Chính sách này còn có tác
dụng giải quyết vấn đề ruộng đất trong nông nghiệp, tạo điều kiện củng cố nền
kinh tế tiểu nông, thúc đẩy sản xuất, phục hồi và phát triển kinh tế nông
nghiệp trong cả nước. Tuy nhiên, chính sách quân điền của Lê Thánh Tông chứa
đựng sâu sắc tính chất giai cấp và còn bộc lộ những mặt tiêu cực và hạn chế,
chứa đựng những mâu thuẫn nan giải, đã trói buộc người nông dân vào ruộng đất
để bóc lột tô thuế và chịu mọi gánh nặng sưu dịch của nhà nước trong lúc sự
củng cố nền kinh tế tiểu nông lại tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của
sản xuất hàng hóa, trong tình hình sự phát triển của chế độ tư hữu ruộng đất đã
thắng thế trong xã hội.
3.2.4.3. Chính sách khẩn
hoang và đồn điền
Xuất phát từ yêu cầu nhanh
chóng phục hồi nền kinh tế nông nghiệp sau một thời gian dài chiến tranh, nhà
nước Lê sơ ngay từ rất sớm, đã có những chính sách khuyến khích nhân dân các
làng xã khai hoang lập làng, đặc biệt dưới thời Lê Thánh Tông. Nhiều chỉ dụ của
nhà vua được ban hành nhằm đẩy mạnh công cuộc khẩn hoang, lập làng và hợp pháp
hóa việc khai hoang, lập làng trong nhân dân, góp phần giải quyết tình hình lưu
vong trong xã hội. Nhờ những biện pháp tích cực, cho đến nửa sau thế kỷ XV,
diện tích ruộng đất hoang hóa đã được khôi phục, tăng thêm diện tích sản xuất,
tăng thêm nguồn thu nhập của nhà nước; bộ phận nông dân tư hữu, tự do tăng lên,
điều hòa mâu thuẫn giai cấp, ổn định xã hội, nền kinh tế nông nghiệp nhanh
chóng được phục hồi và có bước phát triển.
Song song với chính sách
khai hoang, lập làng, Lê Thánh Tông còn đẩy mạnh việc khai hoang lập đồn điền.
Chính sách này bắt đầu được thi hành từ thời Thái Tổ và được mở rộng dưới thời
Thánh Tông. Chỉ dụ năm 1481 nêu rõ mục đích lập đồn điền của nhà nước “để khai
thác hết sức nông nghiệp, mở rộng nguồn súc tích cho nước”. Nhiều sở đồn điền
được thành lập chuyên lo việc mộ dân lưu vong khẩn hoang. Lực lượng được huy
động ở hình thức khai hoang này bao gồm cả quân lính đồn trú, tù binh, tội
nhân. Nhà nước đặt ra cơ quan chuyên trách công việc khai hoang, lập đồn điền
do các chức quan chánh, phó sứ đồn điền phụ trách.
Chính sách đồn điền của Lê
Thánh Tông có tác dụng tích cực, thiết thực trong việc mở rộng diện tích sản
xuất, phát triển kinh tế nông nghiệp.
Như vậy,
khoảng từ năm 1471, thông qua cải cách, Lê Thánh Tông đã tạo được hệ thống hành
chính thống nhất trong phạm vi cả nước. Hệ thống khá gọn gàng với chức trách
phân minh, bảo đảm sự chỉ đạo và tập trung quyền lực của trung ương. Đây là mô
hình tiên tiến nhất của chế độ quân chủ phong kiến đương thời, trong đó, trung
ương và địa phương gắn liền nhau, quyền lực được bảo đảm từ trên xuống dưới. Lê
Thánh Tông là một vị hoàng đế lớn của một vương triều mạnh, có nhiều đóng góp
trong lịch sử dân tộc...
IV. CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH CỦA
MINH MỆNH
4.1. Hoàn cảnh lịch sử
Nhà nước trung ương chỉ trực
tiếp quản lý được 7 trấn, dinh ở miền Trung. Phần còn lại của đất nước rất rộng
lớn, nhà nước trung ương quản lý gián tiếp qua viên Tổng trấn - một cấp trung
gian rất lớn giữa nhà nước trung ương với các trấn, lộ, dinh.
Với cơ cấu bộ máy quản lý
nhà nước và hệ thống hành chính như vậy đã cản trở rất lớn đến ý đồ của Minh
Mệnh trong việc xây dựng một bộ máy quân chủ quan liêu chuyên chế, tập trung
quyền lực về trung ương, đứng đầu là Minh Mệnh.
Ruộng đất công làng xã là cơ sở để nhà nước thu tô thuế, nguồn tài
chính duy nhất của nhà nước bị thu hẹp nghiêm trọng, nông dân không có ruộng
đất cày cấy dẫn đến lưu vong phân tán, nổi dậy khởi nghĩa ngày một nhiều.
Thực trạng nhức nhối đó uy
hiếp đến sự tồn tại của nhà nước chuyên chế Nguyễn, buộc Minh Mệnh phải tìm
cách cứu vãn bằng cách tiến hành cảI cách để thâu tóm quyền lực về tay mình,
đồng thời cũng là để chống lại những thế lực mâu thuẫn với mình.
Muốn giải quyết được khủng
hoảng xã hội bấy giờ thì thống nhất đất nước về mặt hành chính phải được đặt
lên hàng đầu. Hy vọng là nó sẽ tạo nên được một sức mạnh áp đảo được các lực
lượng chống đối, chia cắt trong nội bộ, kiềm chế được ngoại xâm từ phía bắc và
quy thuận được các lực lượng “phiên thần” phía Tây và Nam. Đó là động cơ thúc
đẩy Minh Mệnh, tích cực tiến hành cuộc cải cách hành chính sâu rộng và toàn
diện:
4.2. Cuộc cải cách của Minh Mệnh
Trong 20 năm trị vì, Minh
Mệnh đã thi hành nhiều chính sách và biện pháp, trong nhiều lĩnh vực kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội, nhưng những biện pháp có ý nghĩa cải cách chủ yếu
và tập trung là cải cách hành chính, bộ máy quản lý nhà nước và hệ thống quan
lại.
4.2.1. Cải cách hành chính
Bộ máy nhà nước đứng đầu là
vua, nắm mọi quyền hành. Giúp việc và tham mưu cho vua có các cơ quan như:
4.2.1.1. Nội các (được thành lập năm 1829):
Thời Gia Long là Thị thư
viện, cơ quan phụ trách công việc giúp vua soạn thảo chiếu chỉ. Năm 1820, Minh Mệnh đổi thành Văn thư phòng, tăng thêm
quyền hành với nhiệm vụ lưu giữ các châu bản của triều đình. Năm 1829, lập Nội
các thay thế Văn thư phòng. So với Nội các của nhà Minh, nhà Thanh (Trung Quốc)
thì có điểm khác về quyền hành cá nhân. Nội các của nhà Minh, nhà Thanh đứng
trên các Bộ về mặt quyền lực. Phẩm hàm của các nhân viên đứng đầu Nội các là chính
nhất phẩm, còn dưới triều Minh Mệnh, các nhân viên đứng đầu chỉ được hàm tam
phẩm, tứ phẩm, lấy từ các Bộ, Viện sung vào, địa vị, quyền lực cá nhân thấp hơn
Thượng thư ở 6 Bộ. Các quan chức ở Nội các và 6 Bộ có sự kiểm soát và có quyền
tham hặc lẫn nhau thông qua chế độ phiếu nghĩ.
4.2.1.2. Viện cơ mật:
Năm 1834, phỏng theo Khu mật
viện của nhà Tống và Quân cơ xứ của nhà Thanh, Minh Mệnh thành lập Viện cơ mật.
Đây là cơ quan trọng yếu, chuyên bàn bạc giúp vua những công việc trọng đại của
đất nước. Đứng đầu cơ quan này có bốn viên quan đại thần do vua lựa chọn từ các
quan văn, võ, có phẩm hàm từ tam phẩm trở lên nhưng vẫn giữ chức vụ của họ
trước đó (chế độ kiêm nhiệm).
Viện cơ mật gồm hai ban:
+ Nam
chương kinh (Nam ty):
phụ trách các công việc ở nửa phía Nam
từ đèo Ngang trở vào và các nước lân bang về phía Nam .
+ Bắc chương kinh
(Bắc ty): Phụ trách các công việc từ đèo Ngang trở ra Bắc và các nước về phía
Bắc.
4.2.1.3. Đô sát viện:
Được thành lập vào năm 1832,
là cơ quan giám sát và tư pháp (cùng với Bộ Hình và Đại lý tự) toàn bộ cơ quan
hành chính trong nước. Đây là một cơ quan độc lập, không chịu sự kiểm soát của
bất kỳ một cơ quan nào ở triều đình, ngoài vua.
Đô sát viện gồm các chức tả
hữu Đô ngự sử có phẩm hàm ngang với Thượng thư 6 Bộ, ngoài ra còn có 6 viên cấp
sự trung, 6 khoa và 16 viên giám sát ngự sử 16 đạo trong cả nước và một số nhân
viên giúp việc. Tổng cộng có 52 người. Quyền hạn và nhiệm vụ được quy định cho
từng chức danh các cấp sự trung và giám sát ngự sử các đạo.
Từ Minh Mệnh về sau vẫn có
đủ 6 Bộ và 6 Khoa. Sáu Tự có nhiệm vụ giúp việc cho 6 Bộ. Ngoài ra còn có một
số cơ quan chuyên môn như Quốc Tử giám, Hàn Lâm Viện, Ty Thông chính sử, Bưu
chính ty, Quang lộc tự, Tào chính ty, Tôn nhân phủ, Hà đê sứ, Doanh điền sứ. Cơ
quan chỉ huy quân sự là Ngũ quân Đô thống sứ.
Về cơ cấu tổ chức, các cơ
quan quản lý nhà nước ở các địa phương từ thời Minh Mệnh có nhiều thay đổi,
chặt chẽ hơn, có tác dụng củng cố chế độ quân chủ chuyên chế và quốc gia thống
nhất. Các đơn vị hành chính cấp thành trung gian trong cả nước là liên tỉnh và
tỉnh, bãi bỏ cả tên gọi doanh ở miền Trung
Như vậy là xung quanh Minh
Mệnh có một mạng lưới quan lại các cấp, cả văn và võ làm tham mưu và giúp việc
đắc lực, đó là 6 Bộ, Nội các, Viện cơ mật, Đô sát viện, 5 quân Đô thống phủ.
Để giúp việc 6 Bộ, điều hành
công việc trong cả nước còn có các cơ quan khác như Quốc tử giám, Hàn lâm viện,
Ty thông chính sứ, Bưu chính ty, Khâm thiên giám, Thái y viện, Hà đê sứ. Bên võ
có Ngũ quân Đô thống sứ (cơ quan chỉ huy quân sự).
Điều đáng chú ý
là từ năm 1827, các quan chức trọng yếu của thời Gia Long như Tam thái, Tam
thiếu, Tham chính, Tham nghị đều bị Minh Mệnh bãi bỏ. Hàng nhất phẩm chỉ có bốn
hàm “Điện đại học sĩ”, song các hàm này không được đặt đầy đủ.
* Cải cách việc phân chia địa
giới hành chính và các cấp bậc hành chính, xóa bỏ cấp thành, trấn, doanh, thống
nhất trong cả nước đặt ra cấp liền dưới bộ máy trung ương là cấp tỉnh.
Tổng cộng, cả
nước Việt Nam
thống nhất có 30 tỉnh. từ Quảng Trị ra Bắc thành thành 18 tỉnh là: Quảng Trị,
Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa, Ninh Bình, Hà Nội, Nam Định, Hưng Yên,
Hải Dương, Quảng Yên, Sơn Tây, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hưng Hóa,
Cao Bằng, Lạng Sơn. từ Thừa Thiên trở vào - trừ Thừa Thiên vẫn để là Thừa Thiên
phủ - ra thành 12 tỉnh là: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Bình
Thuận, Khánh Hòa, Biên Hòa, Gia Định (vẫn để nguyên danh hiệu là Phiên An, đến
tháng 8 năm Minh Mệnh thứ 14 (1833) mới đổi thành Gia Định), Vĩnh Long, Định
Tường, An Giang, Hà Tiên.
Đứng đầu mỗi tỉnh là quan
Tuần phủ, giúp việc có quan Bố chánh phụ trách Ty phiên, coi về thuế má, dinh
điền; quan án sát phụ trách Ty Niết, coi về hình án. Lãnh Binh trông coi về
quân đội. Phụ trách liên tỉnh là một Tổng đốc. Tổng đốc được cơ cấu như ủy viên
Hội đồng chính phủ phụ trách ở một địa phương và đóng ở tỉnh quan trọng hơn.
Để nắm rõ tình hình các tỉnh
trong việc quản lý các địa phương, năm 1834, Minh Mệnh ra dụ “thỉnh an”. Các
Tổng đốc, Tuần phủ cho đến Bố chánh, án sát cùng lãnh binh… nếu có tình tiết
hiền năng hay gian xảo (của quan lại) cùng những việc lợi hại đến quân dân,
cũng cho cứ thực tâu lên, cốt phải cho chính xác, rõ ràng.
Với những quy
định như vậy, vua và triều đình có thể nắm được thông tin thường xuyên và kịp
thời của các địa phương do các quan đầu tỉnh “thỉnh an” báo cáo. Công việc quản
lý xã hội do đó càng có hiệu quả hơn.
Việc thực hiện
chia đặt các tỉnh, cũng như việc định danh, định giới các tỉnh mà di sản tích
cực còn để đến hiện nay, chúng ta càng thấy cái sáng suốt và thành công lớn
nhất của cải cách hành chính dưới triều Minh Mệnh.
Trong giai đoạn tập quyền từ
thời Minh Mệnh, triều đình Huế tăng cường bộ máy quản lý cấp phủ và đặt lưu
quan ở các vùng dân tộc. Đó là chủ trương được thực hiện mang tính cải cách cho
cơ chế tập quyền triệt để của trung ương.
Sau cải cách, Minh mệnh cho
sắp xếp lại các đơn vị trực thuộc cấp phủ, phủ có nhiều huyện và ít huyện, chia
làm 3 cấp: tối yếu khuyết, yếu khuyết và giản khuyết. Do đó, ở phủ ngoài đồng
tri phủ, còn có đặt thêm chức huyện thừa, huyện kiêm quản.
Các phủ có nhiều biến động
đặt thêm các chức quản phủ. Đối với các huyện ở vùng biên viễn, triều
đình đặt thêm chức án phủ sứ hàm Viên ngoại lang Bộ binh sung giữ. Năm
1828, Minh Mệnh chủ trương đặt lưu quan (quan được triều đình bổ nhiệm
nơi này chuyển đổi đi các nơi khác).
Về cấp tổng, cơ bản vẫn
không thay đổi. Đứng đầu là Cai tổng, ngang với lại mục của huyện, trật Tòng
cửu phẩm. Tổng lớn có Phó tổng giúp việc, không nằm trong ngạch quan của Nhà
nước.
Trong lịch sử xây dựng nhà
nước Việt Nam thời quân chủ, hai vị vua đầu triều Nguyễn là Gia Long và Minh
Mệnh - người có công lớn trong việc kế thừa và hoàn thiện một cách hợp lý cơ
cấu tổ chức, nguyên tắc vận hành chế độ quan lại có tính thống nhất trong quy
mô cả nước. Sự phân công, phân nhiệm giữa các cấp, giữa các bộ phận được quy
định chặt chẽ gắn liền với các chức danh, trách nhiệm, quyền hạn, phẩm trật đi
đôi với lương bổng, đãi ngộ. Chế độ “thỉnh an”, chế độ “giám sát”, chế độ “lưu
quan” đã tạo nên một bộ máy nhà nước có sức tập trung và liên kết, tương tác
mạnh mẽ.
Từ thực tế trên chúng ta có thể nhận định rằng tổ chức bộ máy nhà nước địa phương dưới triều Nguyễn đã đạt đến trình độ hoàn chỉnh nhất trong chế độ quân chủ ở nước ta.
KẾT LUẬN
Từ việc nghiên cứu các cuộc
cải cách trong lịch sử trung đại Việt Nam cho thấy, mỗi khi đất nước, xã hội
nảy sinh nhu cầu canh tân để phát triển thì đều xuất hiện những tư tưởng cải
cách và những cuộc cải cách do những người cầm quyền, đứng đầu nhà nước tổ
chức, chỉ đạo thực hiện.
Nhiều cuộc cải cách thành
công, có tác dụng tích cực đến sự phát triển của đất nước, sự chuyển mình của
dân tộc, mà nổi bật là cuộc cải cách của Khúc Hạo, cải cách của Lê Thánh Tông.
Nhưng bên cạnh đó cũng có cuộc cải cách bị thất bại mặc dù có mục tiêu, định
hướng đúng đắn nhưng lại do có nhiều hạn chế trong nội dung, biện pháp thực
hiện và khó khăn khách quan như cuộc cải cách của Hồ Quý Ly.
Từ những thành công và thất
bại trong các cuộc cải cách đã diễn ra thời trung đại ở Việt Nam đã để lại bài học kinh nghiệm
bổ ích. Đó là một cuộc cải cách nhằm để giải quyết khủng hoảng xã hội, đưa đất
nước, dân tộc phát triển, muốn thành công đòi hỏi phải có mục tiêu, định hướng
đúng, nội dung cuộc cải cách phải toàn diện trên các mặt của đời sống xã hội,
phải phù hợp với xu thế của thời đại, yêu cầu của đất nước, nguyện vọng của
nhân dân; phải xuất phát và phù hợp với điều kiện thực tiễn; biết kế thừa những
kinh nghiệm của quá khứ, truyền thống dân tộc, đặc điểm của đất nước. Phải có
bước đi, hình thức và phương thức thực hiện đúng, thích hợp.
Trong công cuộc đổi mới của
đất nước ta từ năm 1986 đến nay đã và đang gặt hái được nhiều thành tựu quan
trọng, đưa dân tộc ta vượt qua khủng hoảng, bước vào thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, từng bước làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
văn minh, là nhờ Đảng Cộng sản Việt Nam đã biết kế thừa, vận dụng được những
bài học kinh nghiệm của các cuộc cải cách trong lịch sử; đã biết kiên định chủ
nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định con đường độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội; có chủ trương, đường lối phù hợp với quy luật, với thực tế
Việt Nam; phát huy được sức mạnh của toàn dân, mở rộng được hợp tác quốc tế một
cách đúng đắn; kịp thời phát hiện và giải quyết những vấn đề nảy sinh trong quá
trình thực hiện đổi mới.
II . Duy tân cuối thế kỷ XIX:
III . Duy tân Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX:
Những nhân vật cải cách trong lịch sử: Phong trào đổi mới đầu thế kỷ XX
Lịch sử Việt Nam trước khi có Đảng có 10 cuộc cải cách, đổi mới lớn thì 9 cuộc (từ Khúc Thừa Dụ đến Nguyễn Trường Tộ) đều gắn với tên tuổi cá nhân các nhà khởi xướng. Chỉ đến cuộc thứ 10, đầu thế kỷ thứ XX sự nghiệp "đổi mới" mới trở thành một phong trào quần chúng. Phong trào ra đời nhằm giải quyết cuộc khủng hoảng toàn diện của xã hội Việt Nam, trong đó mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp lồng vào nhau phát triển đến độ cao khi mà tình thế cách mạng còn chưa chín muồi.
Phan Bội Châu | Phan Châu Trinh |
Lương Văn Can | Huỳnh Thúc Kháng |
Duy Tân hội do Phan Bội Châu đề xướng
Năm 1904, Phan Bội Châu lập Duy Tân hội, có Đặng Thái Thân, Tăng Bạt Hổ, Mai Lão Bạng, Cường Để... tham gia theo tinh thần dân chủ tư sản với chính thể quân chủ lập hiến. Chủ trương là giành độc lập dân tộc bằng vũ trang tranh đấu và cầu ngoại viện. Ba mục tiêu nhằm đạt tới là: 1/ Khai dân trí (mở trí khôn cho dân). 2/ Chấn dân khí (nâng cao khí dân). 3/ Thục nhân tài (vun trồng nhân tài). Hành động cụ thể: 1/ Phải cùng nhau lập hội giúp đỡ người du học. 2/ Phải họp vốn lập hội kinh tế (khuyến quốc dân tự trợ du học văn - 1905). Cổ vũ hợp quần tranh đấu bằng những lời thống thiết: Hải ngoại huyết thư (1906) thì nêu cao 10 giới đồng tâm, Hòa lệ cống ngôn (Gửi lời nói hòa cùng nước mắt) 1907 thì kêu gọi "Lấy nhiệt thành làm chính... lấy đạo đức, dũng mãnh, lý tưởng, mưu lược sảng khoái, khoa học, thao kiếm... làm phụ, lấy yêu nước làm mục đích mà gánh vác giang sơn... Với quan điểm “Thời thế tạo ra anh hùng mà anh hùng cũng tạo ra thời thế” đã nêu cao lý tưởng: “Sống mà nhục thà chết mà vinh”. “Không tự do thà chết"... Gọi tỉnh quốc hồn (1907) kêu gọi đoàn kết, chấn hưng kinh tế: “Lời rằng hợp của nên giàu. Hợp người nên mạnh, nước nào dám trêu”...
Từ sự tích cực chuẩn bị về tư tưởng, Hội đã phát triển ra khắp ba kỳ, liên kết với phong trào Yên Thế, tổ chức phong trào Đông Du, đưa hàng trăm thanh niên yêu nước sang Nhật học tập các ngành quân sự, chính trị, khoa học... nhằm đi tới một cuộc đấu tranh vũ trang cứu nước. Cuối cùng đã tổ chức ra Việt Nam Quang Phục hội với Việt Nam Quang phục quân, có nhiệt tâm vũ trang cứu nước, tuy sự nghiệp chưa thành...
Cao trào đấu tranh đòi cải cách do Phan Châu Trinh chủ trương
Phan Châu Trinh cổ vũ nhân dân đi vào con đường dân chủ tư sản, đã mạnh mẽ lên án chế độ phong kiến quá hủ bại, lỗi thời, đề cao dân quyền. Trong thư gửi Nguyễn Ái Quốc ngày 18-2-1922 Phan Châu Trinh cũng nêu ba mục tiêu như Phan Bội Châu, nhưng khác ở điểm thứ 3, không phải là “Thục nhân tài" mà là hậu dân sinh, chủ trương không bạo động vũ trang mà cũng không “cầu ngoại viện”. Trong tác phẩm “Tỉnh quốc hồn ca” (1907) Phan Châu Trinh đề cao dân quyền với ba nội dung là: “dân tộc, dân chủ, dân sinh”. Về dân tộc, dân chủ, cổ vũ tinh thần “Đoàn kết thương yêu nhau”, “Làm việc vì dân vì nước”, “Có chí mạo hiểm”, “Dám chết vì nghĩa". Về dân sinh, khuyến khích thực dụng: “Học lấy một nghề”, “Chung vốn làm ăn”, “Tang ma giản dị”, “Cải tiến máy móc”, “Làm ăn có giờ giấc”, “Không mê tín dị đoan”, “Sản xuất nhiều mặt hàng”, “Tổ chức y tế tinh tường” (Nguyễn Văn Dương. Tuyển tập Phan Châu Trinh, Nhà Xuất bản Đà Nẵng, 1995). Trước một đại chúng đang khao khát tự do, hạnh phúc... tư tưởng cải cách của Phan Châu Trinh được dân chúng đón nhận như đại hạn gặp mưa, nhanh chóng biến thành hành động cụ thể. Một phong trào tự nguyện phát triển sản xuất nông phẩm hàng hóa (hồi, quế, tằm tơ...), lập hội buôn, phát triển văn hóa, giáo dục, bài trừ hủ tục mê tín, cải thiện dân sinh (cắt tóc ngắn, ăn ở vệ sinh)... Nhanh chóng lan rộng ở nhiều nơi trong nước; và cao nhất là biến thành một phong trào đấu tranh dân chủ xin xâu, chống thuế, đòi cải cách dân chủ, có nơi tự phát tiến tới vũ trang chống thực dân và phong kiến tay sai...
Phong trào Đông Kinh nghĩa thục do Lương Văn Can chủ trì
Đông Kinh nghĩa thục là một tổ chức hoạt động công khai, hợp pháp ở miền Bắc trong lĩnh vực văn hóa tư tưởng nhằm đổi mới tư duy và hành động theo hướng dân chủ tư sản. Phong trào có liên hệ mật thiết với các phong trào khác đương thời ở cả Bắc, Trung, Nam thu hút được nhiều nhà khoa bảng, trí thức tiến bộ tham gia với nhiều biện pháp hữu hiệu như:
1. Mở trường Đông Kinh nghĩa thục (từ tháng 3-1907) tại số 4, Hàng Đào, do Lương Văn Can và Nguyễn Quyền lãnh đạo. Học sinh lúc đông nhất lên tới hàng nghìn người. Gọi là một phong trào vì còn phát triển ra nhiều cơ sở khác. Ngay ở Hà Nội, ngoài trường Hàng Đào còn có Mai Lâm nghĩa thục, Ngọc Lâm nghĩa thục. Ở Hà Đông có các trường ở Từ Liêm, Hoài Đức, Đan Phượng, Ứng Hòa, Thường Tín... Ở Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Ninh, Thái Bình mỗi tỉnh đều có một, hai trường.
2. Sưu tầm, biên soạn, in ấn sách báo, tài liệu tuyên truyền giáo trình giảng dạy. Từ di sản, giáo dục, văn hóa dân tộc có tham khảo tân thư, tân văn Trung Quốc, Nhật Bản, trường đã biên soạn được nhiều công trình, sách giáo khoa có giá trị như: Quốc dân độc bản; Nam Quốc giai sự; Nam Quốc địa dư; Quốc văn giáo khoa thư; Luân lý giáo khoa thư.
3. Giảng dạy, tuyên truyền cổ động. Ngoài giảng dạy, phát hành sách báo còn tổ chức bình văn, diễn thuyết với nội dung lấy từ tân thư, tân văn từ các sách báo kể trên, cùng với Hải ngoại huyết thư của Phan Bội Châu, Tỉnh quốc hồn ca của Phan Châu Trinh, Bài phú cải lương của Nguyễn Thượng Hiền... Phong trào phát triển mạnh mẽ đến mức: “Buổi diễn thuyết người đông như hội. Kỳ bình văn khách tới như mưa”, có tác động tích cực làm chuyển biến xã hội theo hướng dân giàu, nước mạnh, tiến bộ, văn minh, bước đường cần thiết để đi tới giải phóng dân tộc.
Cuộc vận động cải lương yêu nước của Huỳnh Thúc Kháng
Huỳnh Thúc Kháng là một trong những nhà khởi xướng và tham gia phong trào cải cách ở Nam Trung Bộ với Phan Châu Trinh, bị thực dân Pháp đày đi Côn Đảo (1908-1921). Khi ra tù, cụ tiếp tục lao vào con đường cứu nước theo hướng công khai, hợp pháp, được tín nhiệm, trúng cử làm Viện trưởng Viện Dân biểu Trung Kỳ (1926-1928), chủ bút báo Tiếng Dân, một cơ quan ngôn luận công khai với xu hướng cải lương yêu nước. Tiếng Dân nhằm: - Công khai phê phán bọn phong kiến hủ bại và bọn thực dân bóc lột hà khắc - Cổ động phong trào tân tộc - Đả phá lệ khoa cử lỗi thời - Cổ vũ con đường thực nghiệp, hô hào lập các hội nông, công, thương... Cuộc vận động có tác động tích cực đến phong trào đấu tranh dân tộc dân chủ như đồng chí Trường - Chinh nhận xét: “Cụ Huỳnh Thúc Kháng đã gây được một tiếng vang lớn có lợi cho cách mạng, đã thét “Tiếng Dân” giữa kinh thành Huế”. Đó chính là tiền đề để cụ Huỳnh tiến bước trên con đường cứu nước, đến với Hồ Chủ tịch, với cách mạng để có cống hiến ngày càng lớn lao cho dân tộc.
Nhìn chung lại cao trào cải cách, đổi mới đầu thế kỷ XX đã kế thừa một cách xuất sắc truyền thống cải cách, đổi mới của ông cha và là cái cầu nối từ con đường cứu nước tiền vô sản đến con đường cách mạng với mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” do Đảng ta lãnh đạo hiện nay.
G.S VĂN TẠO
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét