Thứ Sáu, 23 tháng 3, 2012

tư liệu về Duy tân Việt Nam thế kỷ XIX - XX

Tư liệu về Duy tân Việt Nam thế kỷ XIX - XX
1. Các cuộc cải cách lớn trong lịch sử Việt Nam:

I. CUỘC CẢI CÁCH CỦA KHÚC HẠO
1.1. Hoàn cảnh lịch sử
Năm 905, Khúc Thừa Dụ, một hào trưởng ở Hồng Châu (Hải Dương ngày nay) chớp lấy thời cơ chính quyền nhà Đường suy yếu đã hiệu triệu nhân dân nổi dậy khởi nghĩa, chiếm đóng phủ thành Tống Bình (Hà NộI), tự xưng là Tiết độ sứ, xóa bỏ chính quyền đô hộ của nhà Đường ở nước ta. Ngày 7 tháng 2 năm 906, vua Đường buộc phải phong cho Khúc Thừa Dụ làm Tĩnh Hải quân tiết độ sứ tước Đồng binh Chương sự. Tức là nhà Đường phải công nhận Khúc Thừa Dụ có quyền nắm cả việc quân sự, chính quyền, kinh tế, tài chính. Thứ sử các châu đều thành thuộc hạ. Tiết độ sứ được tự ý cắt cử các quan lại văn, võ, trưng thu thuế má trong vùng cai quản.
Như vậy, kể từ năm 905, tuy còn mang danh hiệu một chức quan của nhà Đường, nhưng về thực chất Khúc Thừa Dụ đã giành lấy chính quyền từ tay bọn phong kiến nhà Đường, dựng nên một chính quyền tự chủ, đã kết thúc về cơ bản ách đô hộ hơn một nghìn năm của phong kiến phương Bắc. Cuộc cải cách của Khúc Hạo cũng như các cuộc kháng chiến tiếp theo đó của Dương Đình Nghệ (931), Ngô Quyền (938) là công cuộc bước đầu xây dựng và bảo vệ quốc gia, chính quyền độc lập, tự chủ có tổ chức của một dân tộc đã thực sự làm chủ quốc gia mình.
Đất nước bước vào kỷ nguyên độc lập, tự do, nhưng những hậu quả mà hơn một nghìn năm đô hộ của bọn phong kiến phương Bắc để lại thật nặng nề.
1.1.1. Về kinh tế
Chính quyền đô hộ đã thi hành chính sách bóc lột rất nặng nề và dưới nhiều hình thức. Chế độ cống nạp là thủ đoạn bóc lột hết sức tàn bạo của phong kiến phương Bắc được thực hiện liên tục suốt thời Bắc thuộc. Hàng năm, các châu, quận, huyện phải nộp nhiều lâm thổ sản quý, nhiều sản phẩm thủ công. Ngoài chế độ cống nạp, còn có thêm nhiều loại thuế khác, mức thuế nhân dân phải đóng rất nặng: riêng thuế muối, hàng năm ở Âu Lạc cũ phải nộp lên tới hàng vạn quan tiền. Những hộ làm nghề muối và mò ngọc trai hàng năm mỗi hộ phải nộp thuế lên tới 100 hộc gạo. Ngoài các loại thuế tô, dung, điệu, lưỡng thuế mà nhân dân ta phải nộp cho chính quyền đô hộ, họ còn bị quan lại trong chính quyền đô hộ ra sức nhũng nhiễu, vơ vét của cải để làm giàu riêng. Đời sống của nhân dân Âu Lạc cũ do đó vô cùng cực khổ. Nhiều người phải bán mình, bán vợ con cho bọn giàu có, bọn quan lại đô hộ, bị biến thành nô tỳ, một bộ phận bị mất đất hay không có ruộng đất cày cấy bị biến thành nông nô, nhiều nông dân bị phá sản, lưu vong mà sử cũ gọi là “dân vong mệnh”.
Thực trạng nói trên đòi hỏi chính quyền họ Khúc phải nhanh chóng thực thi những chính sách cải cách về kinh tế, xóa bỏ chính sách bóc lột nặng nề của chính quyền đô hộ trước đó, phát triển kinh tế, cải thiện đời sống của nhân dân. Có làm được như vậy, mới có cơ sở vững chắc để bảo vệ và xây dựng quốc gia độc lập, tự chủ lâu dài, mới có thực lực để đánh bại các cuộc xâm lược tiếp theo của phong kiến phương Bắc. Việc nhà Hậu Lương công nhận và phong chức “An Nam đô hộ sung tiết độ sứ” cho Khúc Hạo (ngày 1 tháng 9 năm 907), nhưng năm 908 lại phong cho Lưu Ẩn (một viên quan cũ của nhà Đường cai quản miền Quảng Châu – Trung Quốc) làm “Tĩnh hải quân tiết độ An Nam đô hộ”, chứng tỏ bọn cầm quyền phương Bắc vẫn chưa từ bỏ dã tâm xâm chiếm nước ta.
1.1.2. Về chính trị - xã hội
Trong hơn một thiên niên kỷ xâm lược và đô hộ, các triều đại phương Bắc đâu chỉ dừng lại ở những chính sách vơ vét, cướp bóc tàn bạo, mà còn ráo riết thực hiện chính sách đồng hóa nhằm Hán hóa Việt tộc, nhằm vĩnh viễn xóa bỏ sự tồn tại của quốc gia Âu Lạc và dân tộc Việt, biến đất nước Âu Lạc thành quận, huyện của Trung Quốc. Từ năm 905, sau khi giành được chính quyền, để xây dựng một quốc gia hoàn toàn độc lập, tự chủ, đòi hỏi họ Khúc phải thực hiện những cải cách về hành chính, chính trị, xã hội để xóa bỏ dần những ảnh hưởng sâu sắc và hậu quả nặng nề do thời Bắc thuộc để lại, khắc phục tính phân tán của quyền lực thủ lĩnh địa phương, xây dựng một chính quyền dân tộc thống nhất từ trung ương đến các làng xã.
2.2. Cuộc cải cách của Khúc Hạo
Khúc Hạo là con của Khúc Thừa Dụ. Năm 906, ông được Khúc Thừa Dụ phong chức “Tĩnh hải hành quân tư mã quyền tri lưu hậu”, một chức vụ chỉ huy quân đội. Ngày 23 tháng 7 năm 907, Khúc Thừa Dụ mất, Khúc Hạo nối nghiệp cha. Ngày 1 tháng 9 năm 907, nhà Hậu Lương phong cho ông chức “An Nam đô hộ tiết độ sứ”. Từ đó, Khúc Hạo bắt tay thực hiện công cuộc cải cách trên nhiều mặt: chính trị, kinh tế, xã hội.
2.2.1. Về chính trị
Bãi bỏ mô hình tổ chức hành chính, chính quyền đô hộ của nhà Đường: An Nam đô hộ phủ ® châu ® huyện ® hương ® xã. Khúc Hạo tổ chức lại bộ máy quản lý nhà nước từ trung ương cho đến cấp xã nhằm xây dựng một chính quyền dân tộc thống nhất. Ông chia cả nước thành những đơn vị hành chính các cấp: lộ, phủ, châu, giáp, xã. Đơn vị hương trước đó được đổi thành giáp. Đứng đầu giáp là quản giáp và phó tri giáp. Ngoài những hương cũ đổi thành giáp, Khúc Hạo còn chia đặt thêm nhiều giáp mới, tổng cộng 314 giáp (thời nhà Đường ở nước ta có 159 hương). Đơn vị hành chính thấp nhất là xã có các chức chánh lệnh trưởng, lệnh trưởng cai quản.
Với cải cách nói trên, chính quyền của Khúc Hạo đã tiến thêm một bước trên đường xây dựng nền tự chủ, thống nhất, tăng cường được sự quản lý của chính quyền trung ương đối với các địa phương.
Đường lối chính trị của cuộc cải cách theo định hướng chung là “chính sự cốt chuộng khoan dung giản dị. Nhân dân đều được yên vui” [3, tr.218]. Tư tưởng cải cách tiến bộ đó được thể hiện cụ thể ở những cải cách về kinh tế - xã hội.
2.2.2. Về kinh tế - xã hội
Khúc Hạo bãi bỏ chế độ điền tô và phu dịch, thực hiện “bình quân thuế ruộng, tha bỏ lực dịch, lập sổ khai hộ khẩu, kê rõ họ tên, quê quán giao cho giáp trưởng trông coi…” [3, tr.218].  
Những cải cách về kinh tế của Khúc Hạo đã xóa bỏ được chế độ bóc lột nặng nề của chính quyền đô hộ nhà Đường, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân bấy giờ. Do đó có tác dụng tích cực, củng cố mối quan hệ gắn bó giữa nhà nước và nhân dân, một nhân tố cực kỳ quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ nhà nước, quốc gia độc lập, tự chủ non trẻ vừa mới được thành lập từ năm 905.
Chính sách “bình quân thuế ruộng” của Khúc Hạo khác hẳn về bản chất chế độ “quân điền”, chính sách thuế tô, dung, điệu của nhà Đường ở Trung Quốc. Chính sách đó phù hợp với kết cấu kinh tế xã hội thực tế của nước ta bấy giờ, tạo nên sự dung hợp giữa quyền lợi của nhà nước trung ương với làng xã trong bối cảnh của nước ta đầu thế kỷ X. Khúc Hạo thực hiện chính sách bình quân thuế ruộng là nhà nước thừa nhận quyền sở hữu ruộng đất trong thực tế của các công xã và quyền phân phối ruộng đất bình đẳng của công xã cho các gia đình thành viên công xã, trên cơ sở đó, các hộ gia đình đóng thuế bằng nhau cho nhà nước thông qua công xã.
Thông qua cải cách kinh tế nói trên, cũng đã có tác dụng trong việc xác lập bước đầu quyền sở hữu ruộng đất công làng xã trên danh nghĩa của nhà nước, đặt nền móng ban đầu cho việc gây dựng chế độ sở hữu ruộng đất của nhà nước, để trên cơ sở đó sẽ tiếp tục gây dựng, củng cố dần theo tiến trình phát triển của chế độ phong kiến trung ương tập quyền sau này.
Những cải cách của Khúc Hạo có tác dụng và ý nghĩa lớn lao trong công cuộc xây dựng một chính quyền tự chủ, một quốc gia độc lập, thống nhất, tách khỏi phạm vi thế lực của chính quyền phong kiến Trung Quốc. Như chúng ta biết, An Nam đô hộ phủ hay Tĩnh hải quân thời thuộc Đường là một đơn vị hành chính địa phương thuộc chính quyền phong kiến trung ương Trung quốc quản lý và kiểm soát. Nước ta thuở đó nằm trong An Nam đô hộ phủ. Cuộc cải cách của Khúc Hạo đã biểu hiện rất rõ rệt tinh thần tự chủ, tự cường, tự lập và quyết tâm của dân tộc ta bấy giờ mà Khúc Hạo là tiêu biểu, nhằm tiến lên xây dựng một đất nước hoàn toàn độc lập tự chủ từ sau chiến thắng Bạch Đằng năm 938 của Ngô Quyền. Cuộc cải cách của Khúc Hạo được thực hiện năm 907 là một biểu hiện về nền độc lập, tự chủ của dân tộc Việt Nam đã thực sự được xác lập và nước ta lúc đó không còn là một quốc gia bị phong kiến phương Bắc đô hộ nữa.
Với tất cả những điều phân tích ở trên cho ta thấy, cuộc cải cách của Khúc Hạo có ý nghĩa lịch sử to lớn, mở đầu cho lịch sử tư tưởng cải cách và các cuộc cải cách trong lịch sử Việt Nam.
II. CUỘC CẢI CÁCH CỦA HỒ QUÝ LY
2.1. Hoàn cảnh lịch sử
Vương triều Trần, từ vua Trần Dụ Tông (1341 – 1369) trở về sau, ngày càng đi vào con đường suy thoái. Vua quan đua nhau ăn chơi hưởng lạc, không còn chăm lo đến đời sống của nhân dân. Bọn quý tộc, quan lại bắt quân dân xây dựng dinh thự, chùa chiền, hát xướng, chơi bời phóng túng. Những kẻ bất tài nhưng khéo xu nịnh đều được thăng quan tiến chức, kỷ cương triều chính rối loạn. Việc Chu Văn An – quan Tư nghiệp Quốc tử giám dâng sớ xin chém 7 tên nịnh thần không được đã trả ấn từ quan là một bằng chứng.
Trong nội bộ tầng lớp quý tộc cầm quyền chia bè phái, mâu thuẫn, giết hại lẫn nhau để tranh giành địa vị, quyền lực ngày càng khốc liệt, điển hình là vụ một số quý tộc đại thần nhà Trần như Thái bảo Trần Nguyên Hàng, Thượng tướng quân Trần Khát Chân mưu giết Hồ Quý Ly không được, bị Hồ Quý Ly giết chết cùng với hơn 370 quan lại quý tộc  khác.
Vua quan, quý tộc ăn chơi hưởng lạc, không chăm lo đến đời sống của nhân dân, lại còn ra sức huy động sức người, sức của của nhân dân phục vụ cho các cuộc chiến tranh chinh phạt các nước Ai Lao, Chămpa, càng làm cho đời sống của nhân dân thêm khổ cực. Sống trong hoàn cảnh cùng cực đó, nhiều người phải bán mình trở thành nông nô, nô tỳ của tầng lớp quan lại, nhưng cuộc sống thân phận của họ còn khổ cực hơn. Đó chính là nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn xã hội gay gắt và phong trào khởi nghĩa nông dân cuốI thế kỷ XIV. Lực lượng tham gia đông đảo là nông dân nghèo, nông nô, nô tỳ trong các điền trang của vương hầu, quý tộc Trần. Điều đó chứng tỏ từ nửa cuối thế kỷ XIV, xã hội Việt Nam đã bước vào cuộc khủng hoảng, vương triều Trần đã suy thoái.
Bên cạnh đó, nửa cuối thế kỷ XIV, vua Chămpa thường xuyên đánh phá vùng biên giới phía Nam Đại Việt và nhiều lần còn đem quân đánh phá kinh thành Thăng Long, buộc vua Trần phải đi lánh nạn.
Nhà Minh (Trung Quốc) bấy giờ lợi dụng sự suy yếu của nhà Trần đã ra sức yêu sách, buộc nhà trần phải chấp nhận. Năm 1384, nhà minh buộc nhà Trần cấp lương thực cho quân Minh đánh Vân Nam, nhà Trần phải nộp 5000 thạch lương. Năm 1385, nhà Trần phải tuyển 20 nhà sư đưa sang Kim Lăng nộp cho nhà Minh. Năm 1386, nhà Minh lại đòi dâng nộp 50 thớt voi, chuẩn bị lương thảo dọc đường từ Nghệ An trở ra để vận chuyển đến Vân Nam. Năm 1394, nhà Minh đòi nộp 80.000 thạch gạo, nhà trần phải nộp 10.000 thạch gạo và phải chở sang tận Long Châu. Năm 1395, còn phải nộp voi và lương thực. Nguy cơ xâm lược đất nước ta của nhà Minh ngày càng đến gần, nhưng vương triều Trần đã bất lực, không còn đủ khả năng để tổ chức, lãnh đạo dân tộc kháng chiến như trước đó.
Thiết chế chính trị quân chủ quý tộc nhà Trần bước vào giai đoạn khủng hoảng, kìm hãm sự phát triển xã hội đang trên bước đường phong kiến hóa, xác lập chế độ phong kiến tập quyền chuyên chế.
Dưới thời Lý (1010 – 1225), nhất là sang thời Trần (1226 – 1400), do mục đích, chủ trương của nhà nước trong công cuộc tổ chức bộ máy quan chức mà hầu hết quan lại tham chính đều xuất thân từ tầng lớp quý tộc (thời Lý), quý tộc tôn thất (thời Trần). Tầng lớp quý tộc vừa nắm giữ các chức vụ chủ chốt ở triều đình và ở chính quyền địa phương, vừa có rất nhiều đặc quyền, đặc lợi, có rất nhiều điền trang, thái ấp cùng nông nô, nô tỳ. Tạo nên đặc điểm của chế độ quân chủ thời Lý, Trần là chế độ quân chủ quý tộc và đưa đến sự phát triển mạnh mẽ quan hệ bóc lột nông nô, nô tỳ của quý tộc trong xã hội.
Vào nửa cuối thế kỷ XIV, sau một thời gian phát huy được mặt tích cực đối với sự phát triển kinh tế, ổn định xã hội, thì vào cuối Trần, quan hệ bóc lột đó đã bộc lộ mặt tiêu cực, đời sống của nông nô, nô tỳ do bị bóc lột triệt để trở nên hết sức cực khổ, nông dân nghèo bị nông nô hóa đã dẫn đến mâu thuẫn xã hội gay gắt và phong trào nông dân khởi nghĩa cuối Trần ngày càng phát triển. Điều đó chứng tỏ thiết chế chính trị quân chủ quý tộc và quan hệ bóc lột nông nô, nô tỳ vào cuối thế kỷ XIV, đã khủng hoảng, kìm hãm sự tiến hóa của xã hội Đại Việt, làm cho quá trình phong kiến hóa trong xã hội tiến tới xác lập một thể chế quân chủ quan liêu chuyên chế, một nhà nước phong kiến trung ương tập quyền thống nhất và mạnh, một quan hệ sản xuất địa chủ - nông dân lệ thuộc thống trị trong nền kinh tế bị cản trở. Bởi lẽ, tầng lớp quý tộc tôn thất nhà Trần từ vua đến quan lại vẫn ra sức giữ nguyên thiết chế chính trị quân chủ quý tộc. Trong khi đó, thiết chế chính trị quân chủ quý tộc nhà Trần đã bộc lộ sự suy yếu thản hại, bộc lộ những mâu thuẫn gay gắt giữa quý tộc với các tầng lớp xã hội, trong đó có cả tầng lớp quan liêu nho sĩ.
Muốn đất nước vượt qua được cuộc khủng hoảng cuối thế kỷ XIV, đòi hỏi phải cải cách. Muốn vậy phải có một nhà nước trung ương tập quyền vững mạnh, đủ khả năng thực hiện cuộc cải cách, lãnh đạo dân tộc đánh thắng ngoại xâm.
Để thực hiện yêu cầu đó, điều cần thiết đầu tiên là phải gạt bỏ những quý tộc Trần bảo thủ ra khỏi bộ máy điều hành đất nước, xóa bỏ kinh tế điền trang, giải phóng sức lao động của nông nô, nô tỳ, một bộ phận trong quan hệ sản xuất phong kiến lúc bấy giờ đã trở nên lạc hậu, xóa bỏ nền quân chủ quý tộc không còn phù hợp với xu thế phát triển của đất nước, xây dựng một nhà nước quân chủ quan liêu với quan hệ sản xuất địa chủ - tá điền chiếm ưu thế và địa vị chủ đạo xã hội.
Từ giữa thế kỷ XIV đã xuất hiện tư tưởng cải cách trong một số quan liêu - nho sĩ mà đại diện là Lê Quát, Phạm Sư Mạnh, đòi hỏi thay đổi thiết chế chính trị theo mô hình chế độ quân chủ quan liêu của Nho giáo, nhưng đã bị các vua Trần Dụ Tông (1341 - 1369) và Nghệ Tông (1370 - 1372) bác bỏ.
Cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng tư tưởng và hai thế lực đã diễn ra khi âm thầm, lúc quyết liệt, liên tục suốt trong 30 năm (1371 - 1400), huynh hướng bảo thủ quân chủ quý tộc (của tầng lớp quý tộc tôn thất nhà Trần) và khuynh hướng quân chủ tập trung quan liêu (của lực lượng quan liêu – nho sĩ mà tiêu biểu là Hồ Quý Ly.
2.2. Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly
Tháng 2 năm 1400, sau khi bức vua Trần nhường ngôi và tự lập làm vua, thành lập triều đại nhà Hồ, Hồ Quý Ly đã thực hiện nhiều chính sách và biện pháp cải cách trên các mặt của đời sống xã hội.
2.2.1. Cải cách chính trị, quân sự và luật pháp
2.2.1.1.Về chính trị
Năm 1375, Hồ Quý Ly đã đề nghị xóa bỏ chế độ lấy người tôn thất làm các chức chỉ huy quân sự cao cấp, định lại số quân, đưa lực lượng trẻ vào. Năm 1378, trong số 16 chỉ huy các đạo quân ở trung ương, 12 người không phải là tôn thất nhà Trần. Năm 1379, Hồ Quý Ly đặt quy chế về hệ thống quan lạI địa phương, thống nhất việc quản lý từ trung ương đến địa phương. Các chức An phủ sứ ở lộ phảI quản toàn bộ lộ đến các phủ, huyện, châu… trong lộ, lộ trực tiếp chịu trách nhiệm trước nhà nước trung ương.
Hồ Quý Ly loại bỏ dần tầng lớp quý tộc tôn thất nhà Trần khỏi bộ máy chính quyền trung ương, thay thế dần bằng tầng lớp nho sĩ trí thức có tư tưởng cải cách. Từ tháng 2 năm 1400, nhà Trần hoàn toàn mất hết quyền bính dù chỉ là danh nghĩa, thiết chế quân chủ quý tộc của nhà Trần hoàn toàn sụp đổ. Chính quyền chuyển sang tay họ Hồ, đứng đầu là Hồ Quý Ly. Hồ Quý Ly ra sức tuyển chọn, đề bạt và tổ chức thi cử để nhanh chóng đào tạo một đội ngũ quan liêu mới cho nhà nước, chế độ quân chủ quý tộc chuyển dần sang chế độ quân chủ quan liêu từ cuốI thế kỷ XIV sang đầu thế kỷ XV.
2.2.1.2. Về quân sự
 Hồ Quý Ly định lại binh chế, chỉnh đốn quân đội, tổ chức lại quân Túc vệ, đặt thêm các hiệu quân, tăng cường kỹ luật quân đội, thải các tướng sĩ bất tài, sức yếu thay vào những người khỏe, am tường võ nghệ.
Hồ Quý Ly chủ trương cải tiến vũ khí và trang bị, thực hiện nhiều biện pháp như mở xưởng rèn đúc vũ khí, tuyển lựa các thợ giỏi vào các quân xưởng. Nhờ vậy, dưới thời Hồ Quý Ly đã chế tạo ra được những vũ khí lợi hại như súng thần cơ là một loại đại bác đầu tiên ở nước ta.
Hồ Quý Ly chủ trương xây dựng một hệ thống cứ điểm phòng thủ để chống xâm lược. Những nơi xung yếu tại các cửa biển và sông đều có đóng cọc gỗ. Hệ thống phòng thủ kéo dài từ núi Tản Viên men theo sông Đà, sông Hồng, sông Luộc đến cửa sông Thái Bình dài gần 100km. Nhiều đồn quân chốt giữ các nơi xung yếu.
2.2.1.3. Về luật pháp:
Chỉ trong vòng 7 năm (1400 – 1407), nhà Hồ đã ban hành nhiều luật lệ và thực thi nó làm công cụ tích cực cho việc thực hiện cải cách trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa. Nhà Hồ đã có tới 30 lần ban hành các luật lệ.
Hoạt động lập pháp được chú ý tăng cường. Nhà nước chủ trương tăng cường pháp trị nhằm khôi phục lại kỷ cương xã hội bị rối loạn vào cuối thời nhà Trần. Các luật lệ của nhà Hồ còn tập trung vào mục đích xây dựng và củng cố chế độ quân chủ quan liêu chuyên chế vừa mới được thiết lập còn thiếu cơ sở kinh tế - xã hội vững chắc, trấn áp tầng lớp quý tộc tôn thất nhà Trần chống đối, chống lại các cuộc khởi nghĩa của nhân dân.
2.2.2. Cải cách kinh tế - tài chính
Năm 1396, Hồ Quý Ly ban hành chính sách phát hành tiền giấy, gọi là tiền “Thông bảo hội sao”. Tất cả mọi người phải đem tiền đồng để đổi lấy tiền giấy. Nếu tàng trữ, tiêu dùng tiền đồng và làm giả tiền giấy thì bị tội tử hình, tài sản sung công quỹ nhà nước.
Năm 1397, Hồ Quý Ly ban hành chính sách hạn điền. Các đại vương và trưởng công chúa thì ruộng đất không bị hạn chế về số lượng (ruộng đất tư hữu), còn thứ dân không được có quá 10 mẫu. Người nào có nhiều ruộng đất nếu có tội được lấy ruộng chuộc tội, phải biếm hay bãi chức cũng được lấy ruộng để chuộc. Còn thừa phải đem nộp cho nhà nước.
Năm 1401, Hồ Quý Ly ban hành chính sách hạn nô, chiếu theo phẩm tước, cấp bậc mà được sử dụng một số lượng gia nô theo quy định của nhà nước. Số gia nô quá quy định phải đem nộp cho nhà nước. Mỗi gia nô thừa ra được nhà nước trả cho 5 quan tiền.
Năm 1402, nhà Hồ ban hành chính sách thuế mới, định lại biểu thuế đinh và thuế ruộng.
Về thuế ruộng, thời Trần: mỗi mẫu ruộng tư thu 3 thăng thóc, nay thu 5 thăng. Bãi dâu thời Trần thu từ 7 đến 9 quan tiền thì nay thu hạng nhất mỗi mẫu 5 quan tiền giấy, hạng nhì 4 quan, hạng ba 3 quan. Thuế đinh thời Trần mỗi năm mỗi đinh đóng 3 quan tiền thì nay chiếu theo số ruộng. NgườI nào ruộng chỉ có 5 sào thì phảI đóng 5 tiền giấy; từ 6 sào đến 1 mẫu thì nộp 1 quan; từ 1 mẫu 1 sào đến 1 mẫu 5 sào thì nộp 1 quan 5 tiền; từ 1 mẫu 6 sào đến 2 mẫu thì nộp 2 quan tiền; từ 2 mẫu 1 sào đến 2 mẫu 5 sào thì nộp 2 quan 6 tiền; từ 2 mẫu 6 sào trở lên thu 3 quan tiền giấy. Đinh nam không có ruộng, trẻ con mồ côi, đàn bà góa chồng dù có ruộng đều không phải đóng.
2.2.3. Cải cách văn hóa, giáo dục
Hồ  Quý  Ly đã  cho sửa đổi nội dung, cách thức trong các kỳ thi. Năm 1396, xuống chiếu định cách thức thi Cử nhân (thi Hương ở các lộ). Bãi bỏ phép thi viết ám tả cổ văn, dùng thể văn 4 kỳ.
Năm 1397, Hồ Quý Ly chủ trương mở trường học ở các châu, phủ, cử các quan Giáo thụ trông coi, đôn đốc việc học tập. Nhà nước quy định số lượng ruộng đất cấp để sử dụng việc học ở các địa phương, gọi là học điền.
Hồ Quý Ly đề cao chữ Nôm. Hồ Quý Ly viết sách “Minh Đạo” (con đường sáng), bày tỏ quan điểm của mình về Nho giáo, hạ thấp vai trò của Khổng Tử, phê phán Nho gia là những người “học rộng nhưng tài kém, không quan thiết đến sự tình (phục vụ thực tiễn cuộc sống), chỉ chuyên việc lấy cắp văn chương của người xưa”.
Đối với Phật giáo, năm 1396, Hồ Quý Ly bắt tất cả các nhà sư chưa đến 50 tuổi phải hoàn tục để lao động. Còn lại phải sát hạch, ai thông hiểu đạo Phật mới được làm sư.
Qua những điều phân tích ở trên, chúng ta không thể phủ nhận Hồ Quý Ly là một nhà cải cách táo bạo và kiên quyết hiếm có trong lịch sử Việt Nam. Ông đã đưa ra một loạt chính sách và biện pháp cải cách trên nhiều phương diện như tăng cường chế độ trung ương tập quyền, củng cố quốc phòng, giải quyết các mâu thuẫn kinh tế - xã hội, mở mang văn hóa, giáo dục…
Cải cách của Hồ Quý Ly xét về nội dung nhằm vào hai mục tiêu chính: củng cố, tăng cường chế độ quân chủ tập quyền và giải quyết các mâu thuẫn kinh tế - xã hội do cuộc khủng hoảng đặt ra.
Về mục tiêu thứ nhất, Hồ Quý Ly đã loại bỏ tầng lớp quý tộc Trần và chuyển dần từ chế độ quân chủ quý tộc sang chế độ quân chủ quan liêu. Hồ Quý Ly ra sức tuyển chọn, đề bạt và tổ chức thi cử để nhanh chóng đào tạo một đội ngũ quan liêu mới. Bộ máy hành chính ở trung ương và địa phương được chấn chỉnh lại với “quan chế và hình luật” ban hành năm 1401. Nói chung, chế độ cai trị của triều Hồ mang tính pháp trị cao hơn.
Có thể nói từ cuối Trần sang Hồ, qua Lê sơ là bước chuyển biến từ chế độ quân chủ quý tộc sang chế độ quân chủ quan liêu mà vào nửa sau thế kỷ XV sẽ được hoàn chỉnh dưới triều vua Lê Thánh Tông (1460 – 1479). Trong điều kiện của nước ta lúc bấy giờ, đó là một bước tiến của lịch sử, vì nó bảo đảm cho sự tồn tại trong trật tự và kỷ cương của một quốc gia độc lập và thống nhất, đặc biệt là trong hoàn cảnh phải khắc phục những rối loạn cuối Trần và đương đầu với những mối đe dọa từ hai phía Bắc và Nam ở thời Hồ.
Về mục tiêu thứ hai, qua các chính sách của Hồ Quý Ly có thể nhận thấy hướng giải quyết của ông là hạn chế thế lực của tầng lớp quý tộc, phát triển xu hướng tư hữu hóa trong một giới hạn nhất định và tập trung quyền lực vào chính quyền trung ương.
            Chính sách hạn điền (1397), hạn nô (1401) trước hết đánh vào các điền trang, thái ấp của quý tộc, đồng thời chỉ chấp nhận trên pháp lý sự phát triển của chế độ tư hữu ruộng đất với mức sở hữu 10 mẫu trở xuống và chuyển một số ruộng đất, nô tỳ của tư nhân thành tài sản của nhà nước. Chính sách hạn điền cùng với chính sách hạn nô không những đánh mạnh vào cơ cấu kinh tế của quý  tộc, cơ  cấu kinh tế  - xã  hội của nhà  nước quân chủ quý tộc Trần đã  khủng hoảng nghiêm trọng, mà còn là biện pháp tích cực ngăn chặn quá trình nông nô hóa đang ngày càng gia tăng trong xã hội, bảo đảm quyền kiểm soát dân đinh của vương triều mới, củng cố quyền lực của nhà nước Hồ.
Những cải cách trên lĩnh vực văn hóa, giáo dục của Hồ Quý Ly và nhà nước thời Hồ thể hiện tư tưởng tiến bộ trong việc nhằm xây dựng một nền văn hóa, giáo dục dân tộc mang bản sắc Việt Nam, gắn liền với nhu cầu thực tiễn, xã hội bấy giờ.
Chính sách phát hành tiền giấy (1369), chính sách thuế ruộng đất (1402), thuế đinh nam (1402)… nhằm bảo đảm cho các nguồn thu nhập của nhà nước, và về một mặt nào đó phản ánh yêu cầu phát triển công thương nghiệp và sự quan tâm của nhà nước đối với lợi ích của một số dân nghèo như thuế ruộng tư thì tăng từ 3 thăng lên 5 thăng mỗi mẫu, trong lúc đinh nam không có ruộng được miễn thuế đinh và cô nhi, quả phụ dù có ruộng cũng không phải đóng thuế.
Những cải cách của Hồ Quý Ly về nhiều mặt cho thấy ông là một nhà cải cách lớn, có lòng yêu nước, ý thức tự cường, tinh thần dân tộc sâu sắc, kiên quyết chống ngoại xâm để bảo vệ đất nước.
            Những việc làm của Hổ Quý Ly, xét về mặt lợi ích quốc gia, đã không thành công. Thất bại của cuộc kháng chiến chống Minh đương thời có phần trách nhiệm của ông và có lẽ ông cũng nhận thức được phần nào điều đó khi ông thưởng cho Hồ Nguyên Trừng hộp trầu bằng vàng, sau câu nói khá độc đáo “thần không sợ đánh, chỉ sợ lòng dân không theo”. 
III. CUỘC CẢI CÁCH CỦA LÊ THÁNH TÔNG
3.1. Hoàn cảnh lịch sử
Sau cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Minh thắng lợi, Lê Lợi – người lãnh đạo tối cao cuộc kháng chiến lên làm vua, sáng lập ra triều Lê, lấy quốc hiệu là Đại Việt, đóng đô ở Thăng Long.
              Nền hành chính dưới các triều vua Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông  về cơ bản vẫn phỏng theo tổ chức chính quyền của các triều đại Lý - Trần.
            Hệ thống chính quyền đều tập trung vào triều đình trung ương, đứng đầu là vua rồi đến các chức tả hữu tướng quốc, kiểm hiệu bình chương quân quốc trọng sự, tam tư, tam thái, tam thiếu do các đại công thần và dòng họ Lê Lợi nắm giữ. Dưới đó là các cơ quan như Thượng thư sảnh, Môn hạ sảnh, Trung thư sảnh, Khu mật viện… Các bộ chỉ là những ban, phòng nằm trong Thượng thư sảnh. Ngoài ra còn có một số cơ quan chuyên môn như Hàn lâm viện, Ngự sử đài, Quốc tử giám.
              Ở địa phương, cả nước được chia làm 5 đạo : Đông đạo, Bắc đạo, Tây đạo, Nam đạo và Hải Tây đạo tương ứng với vùng lãnh thổ Tây Bắc, Đông Bắc, vùng đồng bằng Bắc bộ đến đến Quảng Nam ngày nay.
              Đứng đầu mỗi đạo có chức Hành khiển trông coi các mặt. Dưới đạo có 24 lộ do An phủ sứ đứng đầu như thời Trần. Dưới lộ là huyện, châu, xã và có cấp bộ chính quyền tương đương để quản lý. Đối với vùng núi lập thành các châu, đứng đầu có Tri châu, bổ nhiệm từ trong số các tù trưởng của các dân tộc thiểu số.
             Trải qua các đời vua Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông, Nghi Dân bộ máy chính quyền đều có những thay đổi, củng cố thêm theo xu hướng tập quyền.
              Để bảo vệ quyền chuyên chế của mình, từ những vua đầu nhà Lê đã dùng những thủ đoạn giết hại các công thần có tài năng, uy tính mà các vua Lê cho là họ có thể lấn át hay làm giảm uy quyền của nhà vua như việc giết hại hai đại công thần có công với dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân lược Minh và sáng lập ra nhà Lê như Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo khi Lê Lợi lên làm vua; đến triều Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông giết Lê Khả, Lê Khắc Phục, Nguyễn Trãi, Lưu Nhân Chú, Trịnh Khả, Lê Sát, Lê Ngân,...
              Hầu hết các quan lại đầu thời Lê đều xuất thân từ giai cấp địa chủ, họ hợp thành một đẳng cấp quý tộc quan liêu có nhiều đặc quyền, đặc lợi trong xã hội.
              Việc phong cấp ruộng đất với số lượng lớn cộng với số lượng đất vốn có của địa chủ khi trở thành quan lại lập tức họ trở thành những địa chủ to lớn trong xã hội, xã hội ngày càng bị phân hoá sâu sắc và lan rộng. Những hiện tượng xấu của cuối đời nhà Trần được tái diễn trở lại vào giữa thế kỷ XV.
              Mất mùa, đói kém, dịch bệnh cộng với nạn quan lại nhũng nhiễu dân chúng đã làm cho người dân khốn đốn, xã hội không ổn định. Bộ máy quan lại cuối triều Lê Nhân Tông khá cồng kềnh nhưng không đảm đương được công việc theo quy định của  triều đình.             
Bên cạnh đó, tình hình triều chính ngày càng bất ổn dẫn đến cuộc chính biến năm 1460 kết thúc giai đoạn trì trệ của nhà Lê sau hơn 30 năm thống trị đất nước và mở ra một giai đoạn lịch sử mới và sự xuất hiện của vua Lê Thánh Tông đã đưa chế độ phong kiến thoát ra khỏi sự khủng hoảng để tiến tới thời kỳ phát triển thịnh đạt của chế độ phong kiến trung ương tập quyền Việt Nam.   
              Như vậy, thiết chế chính trị như trên đã nêu rõ ràng chưa chặt chẽ, chưa hoàn chỉnh, mang tính phân tán. Nhược điểm này đã bộc lộ ngay từ nửa sau thế kỷ XIV và đòi hỏi phải có biện pháp cải cách. Trong hoàn cảnh mới của đất nước sau khi giành độc lập, nhưng vẫn duy trì thiết chế chính trị đó, rõ ràng không phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước và xu thế phát triển của thời đại.
Sau khi vua Lê Thái Tổ qua  đời, các vua  kế vị  thì còn ít tuổi (Lê Thái Tông (1432-1442) lên ngôi lúc 10 tuổi, Lê Nhân Tông (1443-1459) lên ngôi lúc 2 tuổi), tình  trạng quan lại  tham  nhũng, lộng quyền... khá phổ biến, nhiều công thần khai quốc thì bị giết hại. Thực trạng này làm cho nhà nước trung ương tập quyền suy yếu. Lúc này, muốn xây dựng một nhà nước trung ương tập quyền mạnh, đòi hỏi phải chấn chỉnh lại kỷ cương phép nước, phải cải cách thiết chế chính trị, cả về cơ chế vận hành của bộ máy hành chính từ trung ương đến các địa phương.     
3.2. Cuộc cải cách của Lê Thánh Tông
3.2.1. Cải cách hành chính và hệ thống quan lại
Xuất phát từ mục tiêu của cuộc cải cách nhằm khắc phục những hạn chế, yếu kém của bộ máy hành chính và thực trạng tình hình chính trị để có được một nhà nước tập quyền mạnh, có năng lực, tập trung được quyền lực của chính quyền trung ương. Lê Thánh Tông trước tiên bãi bỏ các quan chức và cơ quan trung gian giữa vua và bộ phận thừa hành, đó là Thượng thư sảnh, Trung thư sảnh, Môn hạ sảnh, Khu mật viện cùng các viên quan cao cấp nhất như Tướng quốc (Tể tướng), Đại hành khiển, tả hữu Bộc xạ… Vua trực tiếp nắm toàn quyền kể cả quyền tổng chỉ huy quân đội, chỉ đạo mọi công việc trọng yếu và quan hệ làm việc trực tiếp với các cơ quan thừa hành. Giúp vua bàn bạc và chỉ đạo công việc khi cần thiết có các đại thần như Thái sư, Thái phó, Thái bảo, Thái úy, Thiếu sư, Thiếu bảo…
Cơ quan quản lý nhà nước ở trung ương là 6 Bộ (Lại, Lễ, Bình, Hình, Công, Hộ) phụ trách các mặt hoạt động khác nhau của nhà nước. Giúp việc cho 6 Bộ là 6 Tự. Đứng đầu các Bộ là chức Thượng thư chịu trách nhiệm trực tiếp trước vua về hoạt động của Bộ mình phụ trách. Để tăng cường công tác thanh tra, giám sát hoạt động của các quan lại ở 6 Bộ, ngoài Ngự sử đài, Lê Thánh Tông còn đặt thêm 6 Khoa. Mỗi Bộ đều có một Khoa tương ứng để theo dõi, giám sát hoạt động của quan chức Bộ đó (Bộ Binh thì có binh khoa…).
Hệ thống hành chính từ cấp trung gian đến cấp xã cũng có những cải cách cơ bản, quan trọng.
Năm 1466, Lê Thánh Tông bãi bỏ các đơn vị trung gian lớn là 5 đạo, chia cả nước làm 12 đạo thừa tuyên (Thanh Hóa, Nghệ An, Thuận Hóa, Thiên Trường, Nam Sách, Quốc Oai, Bắc Giang, An Bang, Hưng Hóa, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn và phủ Trung đô). Năm 1471, đặt thêm đạo thừa tuyên thứ 13 là Quảng Nam. Dưới đạo thừa tuyên là phủ, châu, huyện, xã. Bỏ đơn vị trấn và lộ, đổi lộ làm phủ, trấn làm châu.
Cùng với việc cải tổ hệ thống đơn vị hành chính thống nhất trong cả nước là việc tổ chức lại bộ máy tổ chức chính quyền các cấp.
Ở mỗi đạo thừa tuyên đều có 3 Ty ngang quyền nhau, cùng quản lý công việc chung. Đô tổng binh sứ ty (Đô ty) phụ trách về quân sự; Thừa tuyên sứ ty (Thừa ty) trông coi mặt dân sự; Hiến sát sứ ty (Hiến ty) phụ trách công việc thanh tra, giám sát các quan lại địa phương mình, thăm nom tình hình đời sống nhân dân. Các Ty chịu trách nhiệm trực tiếp trước triều đình. Đứng đầu phủ có Tri phủ, đứng đầu huyện có Tri huyện, xã quan đổi thành xã trưởng. Xã chia làm 4 loại theo số lượng dân cư. Xã lớn (đại xã) có từ 500 hộ dân trở lên được bầu 5 xã trưởng; trung xã có từ 300 hộ đến dưới 500 hộ có 4 xã trưởng; tiểu xã có từ 100 hộ đến dưới 300 hộ có 2 xã trưởng, dưới 60 hộ có 1 xã trưởng. Riêng phủ Trung đô, các quan chức phụ trách gọi là Phủ doãn, Thiếu doãn và Thị lang. Đứng đầu chính quyền cấp châu là Tri châu.
Hệ thống tổ chức thanh tra, giám sát quan lại được cải tổ khá chặt chẽ từ triều đình đến các địa phương. ở trung ương có cơ quan Ngự sử đài, bên cạnh việc giám sát chung còn có 13 cai đạo giám sát Ngự sử (nằm trong Ngự sử đài) chuyên giúp đỡ, cộng tác các Hiến ty trong việc giám sát quan chức ở các đạo thừa tuyên, lại có 6 khoa, ở đạo thừa tuyên có Hiên ty. Cuộc cải cách về cơ cấu tổ chức hành chính của Lê Thánh Tông đã tạo ra được hệ thống hành chính thống nhất từ trên xuống dưới, từ trung ương đến địa phương, cấp cơ sở trong phạm vi cả nước. Một bộ máy gọn gàng, chặt chẽ, nhất quán, đảm bảo được sự chỉ đạo và quyền lực tập trung của trung ương. Đây là mô hình tiên tiến nhất của chế độ quân chủ phong kiến tập quyền đương thời, là một biểu hiện rõ nét của sự xác lập chế độ quân chủ quan liêu Đại Việt đương thời. Và như vậy, có thể nói, cuộc cải cách hành chính của Lê Thánh Tông đã thúc đẩy cho quá trình phong kiến hóa trong xã hội Đại Việt hoàn thành, chế độ quân chủ quan liêu được xác lập.
Trong cuộc cải cách hệ thống quan lại, Lê Thánh Tông đặc biệt chú ý đến vấn đề tuyển dụng, bổ nhiệm, vấn đề quản lý, phân định chức năng, quyền hạn, trách nhiệm, tiêu chuẩn đánh giá quan lại.
Lê Thánh Tông bãi bỏ chế độ bổ dụng các Vương hầu, quý tộc vào các trọng chức của triều đình. Tiêu chuẩn để được bổ dụng làm quan là phải có trình độ học thức đã được kiểm tra qua khoa cử, không phân biệt thành phần xuất thân. Các thân vương, công hầu được ban cấp bổng lộc nhiều, nhưng nếu không đỗ đạt, không có tài năng thì cũng không được làm quan.
Không chỉ có quan chức ở trung ương, mà các quan chức địa phương từ cấp đạo thừa tuyên đến cấp xã cũng phảI có trình độ học vấn. Các quan chức ở cấp châu, huyện phải là những người đã “có chân thi Hội (Tiến sĩ) đỗ tam trường” [1, tr.34].  cấp xã phải “xét những ngườI biết chữ, có tài cán mới được bổ nhiệm. Nếu không biết chữ thì cho nghỉ” [1, tr.34]. 
Việc sử dụng, thăng, giáng chức được thực hiện căn cứ vào những tiêu chí cụ thể về năng lực, phẩm chất “xét kỹ quan lại, hoặc có người liêm hay tham, siêng hay lười đều kể tên để định thăng, giáng”. [1, tr.93]. 
Cơ sở để thăng, giáng chức là khảo khóa, Lê Thánh Tông quy định hạn khảo khóa (kiểm tra lại tiêu chuẩn, tài năng, đức độ, công tội của quan lại định kỳ) cứ 3 năm xét sơ khảo, 3 năm tiếp theo xét lần thứ hai, 3 năm cuối (đủ 9 năm) chung khảo để được thăng, chuyển ngạch hay bị giáng chức, xuống ngạch.
Để quản lý bộ máy quan liêu, song song với việc khảo khóa theo niên hạn, vua Lê Thánh Tông còn định lệ giảm thải “Trưởng quan theo đạo công xét kỹ những quan viên dưới quyền, giảm hoặc có người hèn kém bỉ ổi không thể làm việc được… giao Bộ Lại xét thực đều bắt về hưu. Lại chọn người từng trải, làm được việc, có tài khí, kiến thức thông thạo mà bổ thay vào” [4, tr.567].   Như vậy, với lệ giảm thải thì kẻ hèn kém bị loại bỏ, và người có tài khi được cất nhắc vào bất kỳ lúc nào, không cần thiết phải chờ niên hạn khảo khóa, quan trường do vậy được thường xuyên sàng lọc.
Thiết chế chính trị sau cải cách hành chính của Lê Thánh Tông là một biểu hiện của sự xác lập và phát triển chế độ phong kiến Việt Nam về mặt thượng tầng kiến trúc. Công cuộc xây dựng, củng cố và phát triển thiết chế chính trị quân chủ quan liêu (trung ương tập quyền chuyên chế) ở thế kỷ XV, đạt đến đỉnh cao dưới thời Lê Thánh Tông sau cải cách hành chính và bộ máy quan lại là phù hợp và đáp ứng được yêu cầu của lịch sử Việt Nam bấy giờ.
Đây là một việc cải cách hoàn toàn mới, có tính sáng tạo của Lê Thánh Tông nhằm làm trong sạch bộ máy hành chính và thúc đẩy sự siêng năng của các bộ chủ quản dưới quyền của nhà vua, tựa như các ngành thanh tra, kiểm tra sau này.
3.2.2. Cải cách quân đội và củng cố quốc phòng
Song song với việc xây dựng bộ máy quân chủ quan liêu, Lê Thánh Tông rất chăm lo xây dựng và củng cố lực lượng quốc phòng.
Trải qua các triều Thái Tông, Nhân Tông, Nghi Dân đến thời Thánh Tông, binh chế được xây dựng rất chu đáo, chặt chẽ, có một sự cải cách rõ rệt. Năm 1466, toàn bộ hệ thống tổ chức quân đội được cải tổ. Quân đội chia ra làm hai loại: quân thường trực bảo vệ kinh thành gọi là cấm binh hay thân binh và quân ở các đạo gọi là ngoại binh. ở mỗi đạo chia binh làm 5 phủ, mỗi phủ gồm 6 vệ, mỗi vệ có 5 hoặc 6 sở. Mỗi phủ do một Đô đốc phủ thống suất. Thân binh chia làm nhiều vệ, dưới vệ có sở hay ty. Bộ máy quân sự các cấp được cải tổ theo hướng tăng cường quyền lực trung ương, hạn chế quyền lực địa phương. Đổi mới tổ chức cấm quân, bãi bỏ chế độ quân Thiết Đột có từ thời Thái Tổ, đặt ở Kinh thành 2 vệ quân Kim Ngô và Cẩm Y, 4 vệ hiệu lực, 4 vệ thần vũ, 6 vệ điện tiền, 5 vệ tuần tượng và 4 vệ mã nhàn. Thành lập các quân Điện Tiền thường xuyên túc trực thay cho quân Thiết Đột. Thời kỳ này cũng không còn quân Vương hầu, Sương quân như các thời kỳ trước, bãi bỏ chế độ quân 5 đạo của thời Thái Tổ đến Nghi Dân, biến nó thành một bộ phận quan trọng của quân đội trung ương, là lực lượng thường trực của nhà nước trung ương trên những địa bàn trọng yếu trong nước (quân ngũ phủ), tăng cường được sức mạnh phòng thủ đất nước, bảo vệ triều đình của nhà Lê.
Cùng với việc hoàn thiện cơ cấu tổ chức quân đội, dưới triều Thánh Tông cũng có một sự cải cách về mặt hành chính quân sự - quốc phòng để tăng hiệu lực của nền quốc phòng và sức mạnh của quân đội, đồng thời bảo đảm sự phát triển nền kinh tế nông nghiệp. Binh chế của nhà Lê vào năm 1467, quân ở Kinh được phiên chế thành các ty, vệ, sở, đội. Mỗi ty có 100 người, mỗi vệ có từ 5 – 6 sở, mỗi sở có 20 đội, mỗi đội có 20 người. Tất cả có 66 ty, 300 sở, 120.000 người. Quân ngũ phủ có 30 vệ, 154 sở, 61.600 người. Quân địa phương có 27 vệ, 257 sở, 137.000 người. Tổng cộng quân số có khoảng 31.720 người. Nhưng nhà nước đã thực hiện chính sách “ngụ binh ư nông” trong quân đội. Quân đội được chia thành từ 2 đến 3 phiên, theo định kỳ một phiên túc trực là nhiệm vụ và luyện tập võ bị, còn lại trở về sản xuất.
Với cách tổ chức quân đội như vậy, nhà Lê đã hình thành một cơ cấu tổ chức quân sự hoàn chỉnh, chặt chẽ, bao gồm quân triều đình, quân địa phương. Nhà nước vừa có quân thường trực mạnh, vừa có lực lượng dự bị đông đảo có thể điều động lúc cần thiết.
Quân đội nhà Lê gồm có thủy binh, bộ binh, tượng binh, kỵ binh. Ngoài ra còn có các đơn vị chuyên dùng một loại súng lửa gọi là hỏa đồng. Việc huấn luyện quân đội được chú trọng, có những điều lệnh cụ thể, chi tiết. Năm 1465, nhà nước ban bố 31 điều quân lệnh về thủy trận, 32 điều về tượng trận, 27 điều về mã trận, 42 điều về bộ trận. Năm 1467, quy định 3 năm mở một kỳ thi võ nghệ nhằm khuyến khích quân sĩ luyện tập võ nghệ. Nhờ vậy, quân đội nhà Lê có trình độ kỹ thuật và tác chiến khác cao so với thời bấy giờ. Với lực lượng quân đội và quốc phòng hùng mạnh, nhà nước Lê sơ đã trấn áp được các thế lực chống đối ở trong nước và ngoài nước, bảo vệ quốc gia độc lập, tự chủ.
3.2.3. Hoàn chỉnh pháp luật và bộ Lê triều hình luật
Năm 1483, sau khi lên ngôi vua, Lê Thánh Tông cho tập hợp những điều lệ đã ban trong các đời vua Lê trước, tham khảo pháp luật thờI Lý - Trần, căn cứ vào tình hình của đất nước mà soạn ra bộ luật mới. Đó là bộ Lê triều hình luật, còn gọi là bộ luật Hồng Đức. Bộ luật này kể cả những điều luật được bổ sung thêm ở thời Lê mạt, gồm 722 điều luật, chia làm 6 quyển, 16 chương.
Nội dung cơ bản của bộ luật nhằm khẳng định và củng cố sự thắng lợi của giai cấp địa chủ, trấn áp mọi hành động chống đối nhà nước phong kiến, xâm phạm đến lợi ích của giai cấp thống trị. Gồm mấy đặc điểm sau:
- Bảo vệ quyền thống trị của nhà nước quân chủ quan liêu. Cả một chương của bộ luật dành cho luật cấm vệ gồm 47 điều, nhằm bảo đảm an toàn hoàng cung và bản thân nhà vua. Những hành vi ra vào hoàng cung trái với thể lệ đều bị trừng trị nặng. Tội mưu phản, mưu đại nghịch, mưu chống lại nhà nước, nhà vua đều bị tử hình, bất cứ ai cũng không được hưởng chế độ bát nghị, không được chuộc tội bằng tiền, không được miễn giảm khi triều đình ân xá.
- Bảo vệ quyền lợi của giai cấp địa chủ phong kiến. Nhà nước có những quy định được ghi vào luật pháp nhằm giành cho tầng lớp quý tộc quan liêu nhiều đặc quyền, đặc lợi. Những đại quý tộc và quan lại cao cấp nếu phạm tội (trừ tội thập ác) thì được ân giảm hay tha bổng theo lệ “bát nghị”. Bảo vệ quyền lợi của nhà nước và của giai cấp thống trị còn được thể hiện trong nhiều điều luật của bộ luật Hồng Đức, nghiêm cấm và trừng phạt nặng những hành vi xâm lấn, chiếm đoạt ruộng đất công, quy định quyền sở hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ, quy định những nguyên tắc mua bán, cầm cố, kế thừa ruộng đất. Có những điều khoản đã trở thành cơ sở pháp lý cho việc chiếm đoạt ruộng đất của giai cấp địa chủ.
- Củng cố trật tự xã hội phong kiến, bảo vệ chế độ gia tộc phụ quyền và các chuẩn mực đạo đức phong kiến theo tinh thần Nho giáo. Cơ sở xã hội nhà nước phong kiến thời Lê sơ là chế độ gia tộc phụ quyền.
Tầng lớp quý tộc quan liêu là đẳng cấp cao nhất trong xã hội, có nhiều đặc quyền, đặc lợi về nhiều phương diện. Có những điều luật quy định nghiêm ngặt về áo quần, ăn mặc, nhà cửa, đồ dùng chỉ dành cho tầng lớp quý tộc quan liêu, dân thường không được dùng. Tầng lớp nô tỳ bị coi là thấp kém nhất trong xã hội, không được coi là thần dân của nhà nước. Đối với phụ nữ, bộ luật Hồng Đức có những điều luật khắt khe hơn đối với nam giới. Tuy nhiên, trong một số điều luật, người phụ nữ thời Lê sơ được pháp luật bảo vệ quyền lợi kinh tế. Con gái được hưởng quyền chia gia tài bình đẳng như con trai, trong trường hợp gia đình không có con trai thì con gái trưởng được quyền thừa kế hương hỏa. Khi phân chia tài sản gia đình do ly hôn, người vợ được lấy lại số tài sản riêng do bố mẹ cho làm của hồi môn và chia tài sản thành hai phần bằng nhau cho hai người. Về mặt hôn nhân, người con gái đã đính hôn nhưng chưa làm lễ thành hôn mà người con trai bổng mắc bệnh không thể chữa, hoặc phạm tội, hoặc phá tài sản thì người con gái được phép xin từ hôn và trả lại sính lễ. Những quy định nói trên nhằm bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ đã thể hiện được tính thực tiễn, tính dân tộc và tiến bộ của luật pháp bấy giờ.
Bộ luật Hồng Đức là bộ luật hoàn chỉnh nhất của nhà nước phong kiến việt Nam. Về cơ bản, bộ luật này là bộ luật hình như tên gọi của nó – Lê triều hình luật, nhưng thực chất, đây là một bộ luật tổng hợp nhiều mặt luật pháp (luật hình, luật hành chính, luật dân sự, luật tố tụng, luật hôn nhân và gia đình…). Bộ luật biểu hiện rõ nét tính chất giai cấp và quyền lực của nhà nước phong kiến đối với nhân dân, nhưng đây cũng là bộ luật tương đối tiến bộ nhất trong thời đại phong kiến Việt Nam, mang đậm nét sáng tạo và tinh thần thực tiễn của giai cấp phong kiến Việt Nam trong giai đoạn đi lên của nó. Giáo sư Oliverôldman, chủ nhiệm khoa Luật Đông Á (Đại học Luật Haward), nhận xét: “Bộ luật thời Lê của nước Việt Nam truyền thống là một công trình bất hủ của vùng Đại Đông Á truyền thống. Nếu ngày mai chúng ta được chứng kiến ở Trung Hoa một cuộc đấu tranh nhằm từ bỏ sự vô tổ chức sau cách mạng văn hóa và đi tới soạn thảo luật pháp nhằm hiện đại hóa đất nước, thì chúng ta cũng thấy triều đại nhà Lê ở Việt Nam vào những thế kỷ đặc biệt của mình đã nổ lực xây dựng một quốc gia dân tộc vững mạnh như thế nào để bảo vệ quyền tư hữu hợp pháp của con người thông qua hệ thống pháp luật tiến bộ, trong đó có nhiều điều đã có thể sánh ngang về mặt chức năng với những quan điểm pháp luật ở phương Tây cận đại”. [2, tr.102]. 
Trong làng xã Việt Nam truyền thống, nhân dân ta thường coi lệ làng cũng quan trọng không kém phép nước. Thời Lê sơ cũng vậy, ngoài luật nước, các làng xã cũng xây dựng và sửa đổi khoán ước, hương ước của làng mình cho phù hợp với điều kiện mới. Việc xét xử theo lệ làng cũng nghiêm ngặt không kém luật nước. Người dân ở các làng xã vẫn mong muốn qua lệ làng, khoán ước, hương ước để thể hiện và bảo vệ quyền tự trị của mình có khi khác với luật pháp của nhà nước. Chính vì thế, Lê Thánh Tông buộc phải chấp nhận cho các làng xã lập “khoán ước và cấm lệ”, nhưng lại ban hành những quy định của nhà nước về việc lập “lệ làng”, chỉ ở “những làng, xã nào có những tục lệ khác lạ” và “quan lại cấp trên duyệt nếu cần thì bác bỏ”, nhằm không cho phép các “lệ làng” làm trái với luật pháp của nhà nước. Nhà Lê muốn thống nhất giữa lệ làng với phép nước, lấy luật pháp nhà nước để trị tội những người không chịu theo tục lệ của làng khi tục lệ đó đã được nhà nước chuẩn y. Luật pháp của nhà nước Lê sơ đã hạn chế và thu hẹp quyền tự trị của các làng, xã rất rõ nét, tăng cường sự lệ thuộc của các làng, xã với nhà nước trung ương, củng cố chế độ quân chủ quan liêu.
3.2.4. Cải cách kinh tế, phát triển nông nghiệp
3.2.4.1. Chế độ lộc điền
Khác hẳn với các triều Lý, Trần, nhà Lê thực hiện chính sách lộc điền, đem ruộng đất thuộc quyền sở hữu của nhà nước ban cấp cho tầng lớp quan lại cao cấp. Chế độ lộc điền được thi hành ngay từ những triều vua đầu tiên của nhà Lê, nhưng chưa  trở  thành quy chế. Đến  thời  vua  Lê Thánh Tông mới được quy định và ban hành thống nhất trong cả nước (1477). Ruộng đất dùng để ban cấp chủ yếu là loại ruộng đất công làng xã. Lộc điền gồm hai loại: một loại cấp vĩnh viễn gọi là ruộng đất thế nghiệp, một loại cấp tạm thời trong một đời, sau khi chết 3 năm thì phải hoàn lại cho nhà nước. Chế độ lộc điền là hình thức ban cấp ruộng đất quy mô của nhà Lê nhằm ưu đãi tầng lớp quý tộc, quan lại cao cấp, biến họ trở thành những địa chủ lớn. Chế độ lộc điền đã góp phần củng cố và phát triển chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất cũng như góp phần xác lập quan hệ sản xuất địa chủ, tá điền và chế độ bóc lột địa tô phù hợp với bước phát triển mới của chế độ sở hữu tư nhân lớn về ruộng đất và của những quan hệ sản xuất phong kiến. Cùng với chính sách quân điền, chính sách lộc điền đã tiến một bước mạnh mẽ vào chế độ chiếm hữu ruộng đất công của làng xã, khẳng định tính chất phong kiến của chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất. Chế độ lộc điền có tác dụng củng cố bộ máy quan liêu, củng cố cơ sở xã hội của nhà nước phong kiến (giai cấp địa chủ), đánh dấu một bước tiến trong quá trình hình thành và xác lập chế độ phong kiến Việt Nam.
3.2.4.2. Chính sách quân điền
Cũng như chính sách lộc điền, chính sách quân điền đã được thực hiện ngay từ những triều vua trước. Đến đời vua Lê Thái Tông, từ năm 1477, chính sách quân điền mới được chính thức ban hành và từ năm 1481, được thực hiện thống nhất trên quy mô cả nước theo nguyên tắc sau:
Tất cả mọi người từ quan tam phẩm đến cô nhi quả phụ đều được chia ruộng công. Những gia đình nông dân thường đã có ruộng đất riêng đầy đủ, không được cấp.
Ruộng xã nào chia cho dân xã ấy, xã nào ruộng quá nhiều, người ít thì cho phép lấy bớt ruộng xã nhiều chia cho xã bên cạnh ruộng ít, người nhiều. Dân trong xã tùy theo thứ hạng được cấp phần ruộng đất khác nhau. Quan hàm tam phẩm được 11 phần, ngũ phẩm được 9,5 phần… Cô nhi, quả phụ được 3 phần.
Ruộng công làng xã cứ 6 năm chia lại một lần. Mọi người cày cấy ruộng công đều phải nộp tô cho nhà nước. Riêng quan lại từ tứ phẩm trở lên do lộc điền ít nên không phải nộp tô.
Chính sách quân điền thời Hồng Đức là một đòn tấn công mạnh mẽ nhằm phủ định quyền chi phối ruộng đất công của làng xã theo tục lệ, buộc làng xã phải tuân thủ những nguyên tắc quy định về phân chia và hưởng thụ bộ phận ruộng đất công – là bộ phận ruộng đất quan trọng nhất, lớn nhất của nhà nước, làng xã lệ thuộc chặt chẽ vào nhà nước, trên nguyên tắc, ruộng đất công làng xã không được đem mua bán, chuyển nhượng, quyền đó thuộc nhà nước trung ương, nhà vua. Nhà nước trung ương, nhà vua với chính sách quân điền đã trở thành người chủ lớn nhất trong cả nước và nông dân làng xã trở thành tá điền của nhà nước, làng xã rơi xuống địa vị là người quản lý ruộng đất cho nhà nước trung ương, nhà vua. Chính sách quân điền góp phần quan trọng vào sự xác lập và hệ thống của những quan hệ sản xuất phong kiến: quan hệ sản xuất địa chủ - tá điền trong xã hội ở thế kỷ XV.
Chính sách này còn có tác dụng giải quyết vấn đề ruộng đất trong nông nghiệp, tạo điều kiện củng cố nền kinh tế tiểu nông, thúc đẩy sản xuất, phục hồi và phát triển kinh tế nông nghiệp trong cả nước. Tuy nhiên, chính sách quân điền của Lê Thánh Tông chứa đựng sâu sắc tính chất giai cấp và còn bộc lộ những mặt tiêu cực và hạn chế, chứa đựng những mâu thuẫn nan giải, đã trói buộc người nông dân vào ruộng đất để bóc lột tô thuế và chịu mọi gánh nặng sưu dịch của nhà nước trong lúc sự củng cố nền kinh tế tiểu nông lại tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của sản xuất hàng hóa, trong tình hình sự phát triển của chế độ tư hữu ruộng đất đã thắng thế trong xã hội.
3.2.4.3. Chính sách khẩn hoang và đồn điền
Xuất phát từ yêu cầu nhanh chóng phục hồi nền kinh tế nông nghiệp sau một thời gian dài chiến tranh, nhà nước Lê sơ ngay từ rất sớm, đã có những chính sách khuyến khích nhân dân các làng xã khai hoang lập làng, đặc biệt dưới thời Lê Thánh Tông. Nhiều chỉ dụ của nhà vua được ban hành nhằm đẩy mạnh công cuộc khẩn hoang, lập làng và hợp pháp hóa việc khai hoang, lập làng trong nhân dân, góp phần giải quyết tình hình lưu vong trong xã hội. Nhờ những biện pháp tích cực, cho đến nửa sau thế kỷ XV, diện tích ruộng đất hoang hóa đã được khôi phục, tăng thêm diện tích sản xuất, tăng thêm nguồn thu nhập của nhà nước; bộ phận nông dân tư hữu, tự do tăng lên, điều hòa mâu thuẫn giai cấp, ổn định xã hội, nền kinh tế nông nghiệp nhanh chóng được phục hồi và có bước phát triển.
Song song với chính sách khai hoang, lập làng, Lê Thánh Tông còn đẩy mạnh việc khai hoang lập đồn điền. Chính sách này bắt đầu được thi hành từ thời Thái Tổ và được mở rộng dưới thời Thánh Tông. Chỉ dụ năm 1481 nêu rõ mục đích lập đồn điền của nhà nước “để khai thác hết sức nông nghiệp, mở rộng nguồn súc tích cho nước”. Nhiều sở đồn điền được thành lập chuyên lo việc mộ dân lưu vong khẩn hoang. Lực lượng được huy động ở hình thức khai hoang này bao gồm cả quân lính đồn trú, tù binh, tội nhân. Nhà nước đặt ra cơ quan chuyên trách công việc khai hoang, lập đồn điền do các chức quan chánh, phó sứ đồn điền phụ trách.
Chính sách đồn điền của Lê Thánh Tông có tác dụng tích cực, thiết thực trong việc mở rộng diện tích sản xuất, phát triển kinh tế nông nghiệp.
Như vậy, khoảng từ năm 1471, thông qua cải cách, Lê Thánh Tông đã tạo được hệ thống hành chính thống nhất trong phạm vi cả nước. Hệ thống khá gọn gàng với chức trách phân minh, bảo đảm sự chỉ đạo và tập trung quyền lực của trung ương. Đây là mô hình tiên tiến nhất của chế độ quân chủ phong kiến đương thời, trong đó, trung ương và địa phương gắn liền nhau, quyền lực được bảo đảm từ trên xuống dưới. Lê Thánh Tông là một vị hoàng đế lớn của một vương triều mạnh, có nhiều đóng góp trong lịch sử dân tộc... 
IV. CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH CỦA MINH MỆNH
4.1. Hoàn cảnh lịch sử
Nhà nước trung ương chỉ trực tiếp quản lý được 7 trấn, dinh ở miền Trung. Phần còn lại của đất nước rất rộng lớn, nhà nước trung ương quản lý gián tiếp qua viên Tổng trấn - một cấp trung gian rất lớn giữa nhà nước trung ương với các trấn, lộ, dinh.
Với cơ cấu bộ máy quản lý nhà nước và hệ thống hành chính như vậy đã cản trở rất lớn đến ý đồ của Minh Mệnh trong việc xây dựng một bộ máy quân chủ quan liêu chuyên chế, tập trung quyền lực về trung ương, đứng đầu là Minh Mệnh.
Ruộng đất công làng xã  là cơ sở để nhà nước thu tô thuế, nguồn tài chính duy nhất của nhà nước bị thu hẹp nghiêm trọng, nông dân không có ruộng đất cày cấy dẫn đến lưu vong phân tán, nổi dậy khởi nghĩa ngày một nhiều.
Thực trạng nhức nhối đó uy hiếp đến sự tồn tại của nhà nước chuyên chế Nguyễn, buộc Minh Mệnh phải tìm cách cứu vãn bằng cách tiến hành cảI cách để thâu tóm quyền lực về tay mình, đồng thời cũng là để chống lại những thế lực mâu thuẫn với mình.
Muốn giải quyết được khủng hoảng xã hội bấy giờ thì thống nhất đất nước về mặt hành chính phải được đặt lên hàng đầu. Hy vọng là nó sẽ tạo nên được một sức mạnh áp đảo được các lực lượng chống đối, chia cắt trong nội bộ, kiềm chế được ngoại xâm từ phía bắc và quy thuận được các lực lượng “phiên thần” phía Tây và Nam. Đó là động cơ thúc đẩy Minh Mệnh, tích cực tiến hành cuộc cải cách hành chính sâu rộng và toàn diện:
4.2. Cuộc cải cách của Minh Mệnh
Trong 20 năm trị vì, Minh Mệnh đã thi hành nhiều chính sách và biện pháp, trong nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, nhưng những biện pháp có ý nghĩa cải cách chủ yếu và tập trung là cải cách hành chính, bộ máy quản lý nhà nước và hệ thống quan lại.
4.2.1. Cải cách hành chính
Bộ máy nhà nước đứng đầu là vua, nắm mọi quyền hành. Giúp việc và tham mưu cho vua có các cơ quan như:
4.2.1.1. Nội các (được thành lập năm 1829):
Thời Gia Long là Thị thư viện, cơ quan phụ trách công việc giúp vua soạn thảo chiếu chỉ. Năm 1820,  Minh Mệnh đổi thành Văn thư phòng, tăng thêm quyền hành với nhiệm vụ lưu giữ các châu bản của triều đình. Năm 1829, lập Nội các thay thế Văn thư phòng. So với Nội các của nhà Minh, nhà Thanh (Trung Quốc) thì có điểm khác về quyền hành cá nhân. Nội các của nhà Minh, nhà Thanh đứng trên các Bộ về mặt quyền lực. Phẩm hàm của các nhân viên đứng đầu Nội các là chính nhất phẩm, còn dưới triều Minh Mệnh, các nhân viên đứng đầu chỉ được hàm tam phẩm, tứ phẩm, lấy từ các Bộ, Viện sung vào, địa vị, quyền lực cá nhân thấp hơn Thượng thư ở 6 Bộ. Các quan chức ở Nội các và 6 Bộ có sự kiểm soát và có quyền tham hặc lẫn nhau thông qua chế độ phiếu nghĩ.
4.2.1.2. Viện cơ mật:
Năm 1834, phỏng theo Khu mật viện của nhà Tống và Quân cơ xứ của nhà Thanh, Minh Mệnh thành lập Viện cơ mật. Đây là cơ quan trọng yếu, chuyên bàn bạc giúp vua những công việc trọng đại của đất nước. Đứng đầu cơ quan này có bốn viên quan đại thần do vua lựa chọn từ các quan văn, võ, có phẩm hàm từ tam phẩm trở lên nhưng vẫn giữ chức vụ của họ trước đó (chế độ kiêm nhiệm).
Viện cơ mật gồm hai ban:
+ Nam chương kinh (Nam ty): phụ trách các công việc ở nửa phía Nam từ đèo Ngang trở vào và các nước lân bang về phía Nam.
+ Bắc chương kinh (Bắc ty): Phụ trách các công việc từ đèo Ngang trở ra Bắc và các nước về phía Bắc.
4.2.1.3. Đô sát viện:
Được thành lập vào năm 1832, là cơ quan giám sát và tư pháp (cùng với Bộ Hình và Đại lý tự) toàn bộ cơ quan hành chính trong nước. Đây là một cơ quan độc lập, không chịu sự kiểm soát của bất kỳ một cơ quan nào ở triều đình, ngoài vua.
Đô sát viện gồm các chức tả hữu Đô ngự sử có phẩm hàm ngang với Thượng thư 6 Bộ, ngoài ra còn có 6 viên cấp sự trung, 6 khoa và 16 viên giám sát ngự sử 16 đạo trong cả nước và một số nhân viên giúp việc. Tổng cộng có 52 người. Quyền hạn và nhiệm vụ được quy định cho từng chức danh các cấp sự trung và giám sát ngự sử các đạo.
Từ Minh Mệnh về sau vẫn có đủ 6 Bộ và 6 Khoa. Sáu Tự có nhiệm vụ giúp việc cho 6 Bộ. Ngoài ra còn có một số cơ quan chuyên môn như Quốc Tử giám, Hàn Lâm Viện, Ty Thông chính sử, Bưu chính ty, Quang lộc tự, Tào chính ty, Tôn nhân phủ, Hà đê sứ, Doanh điền sứ. Cơ quan chỉ huy quân sự là Ngũ quân Đô thống sứ.
Về cơ cấu tổ chức, các cơ quan quản lý nhà nước ở các địa phương từ thời Minh Mệnh có nhiều thay đổi, chặt chẽ hơn, có tác dụng củng cố chế độ quân chủ chuyên chế và quốc gia thống nhất. Các đơn vị hành chính cấp thành trung gian trong cả nước là liên tỉnh và tỉnh, bãi bỏ cả tên gọi doanh ở miền Trung
Như vậy là xung quanh Minh Mệnh có một mạng lưới quan lại các cấp, cả văn và võ làm tham mưu và giúp việc đắc lực, đó là 6 Bộ, Nội các, Viện cơ mật, Đô sát viện, 5 quân Đô thống phủ.
Để giúp việc 6 Bộ, điều hành công việc trong cả nước còn có các cơ quan khác như Quốc tử giám, Hàn lâm viện, Ty thông chính sứ, Bưu chính ty, Khâm thiên giám, Thái y viện, Hà đê sứ. Bên võ có Ngũ quân Đô thống sứ (cơ quan chỉ huy quân sự).
Điều đáng chú ý là từ năm 1827, các quan chức trọng yếu của thời Gia Long như Tam thái, Tam thiếu, Tham chính, Tham nghị đều bị Minh Mệnh bãi bỏ. Hàng nhất phẩm chỉ có bốn hàm “Điện đại học sĩ”, song các hàm này không được đặt đầy đủ.
* Cải cách việc phân chia địa giới hành chính và các cấp bậc hành chính, xóa bỏ cấp thành, trấn, doanh, thống nhất trong cả nước đặt ra cấp liền dưới bộ máy trung ương là cấp tỉnh.
Tổng cộng, cả nước Việt Nam thống nhất có 30 tỉnh. từ Quảng Trị ra Bắc thành thành 18 tỉnh là: Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa, Ninh Bình, Hà Nội, Nam Định, Hưng Yên, Hải Dương, Quảng Yên, Sơn Tây, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hưng Hóa, Cao Bằng, Lạng Sơn. từ Thừa Thiên trở vào - trừ Thừa Thiên vẫn để là Thừa Thiên phủ - ra thành 12 tỉnh là: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Bình Thuận, Khánh Hòa, Biên Hòa, Gia Định (vẫn để nguyên danh hiệu là Phiên An, đến tháng 8 năm Minh Mệnh thứ 14 (1833) mới đổi thành Gia Định), Vĩnh Long, Định Tường, An Giang, Hà Tiên.
Đứng đầu mỗi tỉnh là quan Tuần phủ, giúp việc có quan Bố chánh phụ trách Ty phiên, coi về thuế má, dinh điền; quan án sát phụ trách Ty Niết, coi về hình án. Lãnh Binh trông coi về quân đội. Phụ trách liên tỉnh là một Tổng đốc. Tổng đốc được cơ cấu như ủy viên Hội đồng chính phủ phụ trách ở một địa phương và đóng ở tỉnh quan trọng hơn.
Để nắm rõ tình hình các tỉnh trong việc quản lý các địa phương, năm 1834, Minh Mệnh ra dụ “thỉnh an”. Các Tổng đốc, Tuần phủ cho đến Bố chánh, án sát cùng lãnh binh… nếu có tình tiết hiền năng hay gian xảo (của quan lại) cùng những việc lợi hại đến quân dân, cũng cho cứ thực tâu lên, cốt phải cho chính xác, rõ ràng.
Với những quy định như vậy, vua và triều đình có thể nắm được thông tin thường xuyên và kịp thời của các địa phương do các quan đầu tỉnh “thỉnh an” báo cáo. Công việc quản lý xã hội do đó càng có hiệu quả hơn.
Việc thực hiện chia đặt các tỉnh, cũng như việc định danh, định giới các tỉnh mà di sản tích cực còn để đến hiện nay, chúng ta càng thấy cái sáng suốt và thành công lớn nhất của cải cách hành chính dưới triều Minh Mệnh.
            Trong giai đoạn tập quyền từ thời Minh Mệnh, triều đình Huế tăng cường bộ máy quản lý cấp phủ và đặt lưu quan ở các vùng dân tộc. Đó là chủ trương được thực hiện mang tính cải cách cho cơ chế tập quyền triệt để của trung ương.
Sau cải cách, Minh mệnh cho sắp xếp lại các đơn vị trực thuộc cấp phủ, phủ có nhiều huyện và ít huyện, chia làm 3 cấp: tối yếu khuyết, yếu khuyết và giản khuyết. Do đó, ở phủ ngoài đồng tri phủ, còn có đặt thêm chức huyện thừa, huyện kiêm quản.
Các phủ có nhiều biến động đặt thêm các chức quản phủ. Đối với các huyện ở vùng biên viễn, triều đình đặt thêm chức án phủ sứ hàm Viên ngoại lang Bộ binh sung giữ. Năm 1828, Minh Mệnh chủ trương đặt lưu quan (quan được triều đình bổ nhiệm nơi này chuyển đổi đi các nơi khác).
Về cấp tổng, cơ bản vẫn không thay đổi. Đứng đầu là Cai tổng, ngang với lại mục của huyện, trật Tòng cửu phẩm. Tổng lớn có Phó tổng giúp việc, không nằm trong ngạch quan của Nhà nước.
Trong lịch sử xây dựng nhà nước Việt Nam thời quân chủ, hai vị vua đầu triều Nguyễn là Gia Long và Minh Mệnh - người có công lớn trong việc kế thừa và hoàn thiện một cách hợp lý cơ cấu tổ chức, nguyên tắc vận hành chế độ quan lại có tính thống nhất trong quy mô cả nước. Sự phân công, phân nhiệm giữa các cấp, giữa các bộ phận được quy định chặt chẽ gắn liền với các chức danh, trách nhiệm, quyền hạn, phẩm trật đi đôi với lương bổng, đãi ngộ. Chế độ “thỉnh an”, chế độ “giám sát”, chế độ “lưu quan” đã tạo nên một bộ máy nhà nước có sức tập trung và liên kết, tương tác mạnh mẽ.

Từ thực tế trên chúng ta có thể nhận định rằng tổ chức bộ máy nhà nước địa phương dưới triều Nguyễn đã đạt đến trình độ hoàn chỉnh nhất trong chế độ quân chủ ở nước ta. 

KẾT LUẬN


Từ việc nghiên cứu các cuộc cải cách trong lịch sử trung đại Việt Nam cho thấy, mỗi khi đất nước, xã hội nảy sinh nhu cầu canh tân để phát triển thì đều xuất hiện những tư tưởng cải cách và những cuộc cải cách do những người cầm quyền, đứng đầu nhà nước tổ chức, chỉ đạo thực hiện.
Nhiều cuộc cải cách thành công, có tác dụng tích cực đến sự phát triển của đất nước, sự chuyển mình của dân tộc, mà nổi bật là cuộc cải cách của Khúc Hạo, cải cách của Lê Thánh Tông. Nhưng bên cạnh đó cũng có cuộc cải cách bị thất bại mặc dù có mục tiêu, định hướng đúng đắn nhưng lại do có nhiều hạn chế trong nội dung, biện pháp thực hiện và khó khăn khách quan như cuộc cải cách của Hồ Quý Ly.
Từ những thành công và thất bại trong các cuộc cải cách đã diễn ra thời trung đại ở Việt Nam đã để lại bài học kinh nghiệm bổ ích. Đó là một cuộc cải cách nhằm để giải quyết khủng hoảng xã hội, đưa đất nước, dân tộc phát triển, muốn thành công đòi hỏi phải có mục tiêu, định hướng đúng, nội dung cuộc cải cách phải toàn diện trên các mặt của đời sống xã hội, phải phù hợp với xu thế của thời đại, yêu cầu của đất nước, nguyện vọng của nhân dân; phải xuất phát và phù hợp với điều kiện thực tiễn; biết kế thừa những kinh nghiệm của quá khứ, truyền thống dân tộc, đặc điểm của đất nước. Phải có bước đi, hình thức và phương thức thực hiện đúng, thích hợp.
Trong công cuộc đổi mới của đất nước ta từ năm 1986 đến nay đã và đang gặt hái được nhiều thành tựu quan trọng, đưa dân tộc ta vượt qua khủng hoảng, bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, từng bước làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, là nhờ Đảng Cộng sản Việt Nam đã biết kế thừa, vận dụng được những bài học kinh nghiệm của các cuộc cải cách trong lịch sử; đã biết kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; có chủ trương, đường lối phù hợp với quy luật, với thực tế Việt Nam; phát huy được sức mạnh của toàn dân, mở rộng được hợp tác quốc tế một cách đúng đắn; kịp thời phát hiện và giải quyết những vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện đổi mới.


II . Duy tân cuối thế kỷ XIX:
   



III . Duy tân Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX:


Những nhân vật cải cách trong lịch sử: Phong trào đổi mới đầu thế kỷ XX
Lịch sử Việt Nam trước khi có Đảng có 10 cuộc cải cách, đổi mới lớn thì 9 cuộc (từ Khúc Thừa Dụ đến Nguyễn Trường Tộ) đều gắn với tên tuổi cá nhân các nhà khởi xướng. Chỉ đến cuộc thứ 10, đầu thế kỷ thứ XX sự nghiệp "đổi mới" mới trở thành một phong trào quần chúng. Phong trào ra đời nhằm giải quyết cuộc khủng hoảng toàn diện của xã hội Việt Nam, trong đó mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp lồng vào nhau phát triển đến độ cao khi mà tình thế cách mạng còn chưa chín muồi.
  
 Phan Bội Châu Phan Châu Trinh
  
 Lương Văn Can Huỳnh Thúc Kháng
Duy Tân hội do Phan Bội Châu đề xướng
Năm 1904, Phan Bội Châu lập Duy Tân hội, có Đặng Thái Thân, Tăng Bạt Hổ, Mai Lão Bạng, Cường Để... tham gia theo tinh thần dân chủ tư sản  với chính thể quân chủ lập hiến. Chủ trương là giành độc lập dân tộc  bằng vũ trang tranh đấu và cầu ngoại viện. Ba mục tiêu nhằm đạt tới là: 1/ Khai  dân trí (mở trí khôn cho dân). 2/ Chấn dân khí (nâng cao khí dân). 3/ Thục nhân tài (vun trồng nhân tài). Hành động cụ thể: 1/ Phải cùng nhau lập hội giúp đỡ người du học. 2/ Phải họp vốn lập hội kinh tế (khuyến quốc dân tự trợ du học văn - 1905). Cổ vũ hợp quần tranh đấu bằng những lời thống thiết: Hải ngoại huyết thư (1906) thì nêu cao 10 giới đồng  tâm, Hòa lệ cống ngôn (Gửi lời nói hòa cùng nước mắt) 1907 thì kêu gọi "Lấy nhiệt thành làm chính... lấy đạo đức, dũng mãnh, lý tưởng, mưu lược sảng khoái, khoa học, thao kiếm... làm phụ, lấy yêu nước làm mục đích mà gánh vác giang sơn... Với quan điểm “Thời thế tạo ra anh hùng mà anh hùng cũng tạo ra thời thế” đã nêu cao lý tưởng: “Sống mà nhục thà chết mà vinh”. “Không tự do thà chết"... Gọi tỉnh quốc hồn (1907) kêu gọi đoàn kết, chấn hưng kinh tế: “Lời rằng hợp của nên giàu. Hợp người nên mạnh, nước nào dám trêu”...
Từ sự tích cực chuẩn bị về tư tưởng, Hội đã phát triển ra khắp ba kỳ, liên kết với phong trào Yên Thế, tổ chức phong trào Đông Du, đưa hàng trăm  thanh niên yêu nước sang Nhật học tập các ngành quân sự, chính trị, khoa  học... nhằm đi tới một cuộc đấu tranh vũ trang cứu nước. Cuối cùng đã tổ chức ra Việt Nam Quang Phục hội với Việt Nam Quang phục quân, có nhiệt tâm vũ trang cứu nước, tuy sự nghiệp chưa thành...
Cao trào đấu tranh đòi cải cách do Phan Châu Trinh chủ trương
Phan Châu Trinh cổ vũ nhân dân đi vào con đường dân chủ tư sản, đã mạnh mẽ lên án chế độ phong kiến quá hủ bại, lỗi thời, đề cao dân quyền. Trong thư gửi Nguyễn Ái Quốc ngày 18-2-1922 Phan Châu Trinh cũng nêu ba mục tiêu như Phan Bội Châu, nhưng khác ở điểm thứ 3, không phải là “Thục nhân tài" mà là hậu dân sinh, chủ trương không bạo động vũ trang mà cũng không “cầu ngoại viện”. Trong tác phẩm “Tỉnh quốc hồn ca” (1907) Phan Châu Trinh đề cao dân quyền với ba nội  dung  là: “dân tộc, dân chủ, dân sinh”. Về dân tộc, dân chủ, cổ vũ tinh thần  “Đoàn kết thương yêu nhau”, “Làm việc vì dân vì nước”, “Có chí mạo hiểm”, “Dám chết vì nghĩa". Về dân sinh, khuyến khích thực dụng: “Học lấy một nghề”, “Chung vốn làm ăn”, “Tang ma giản dị”, “Cải tiến máy móc”, “Làm ăn có giờ giấc”, “Không mê tín dị đoan”, “Sản xuất nhiều  mặt hàng”, “Tổ chức y tế tinh tường” (Nguyễn Văn Dương. Tuyển tập Phan Châu Trinh, Nhà Xuất bản Đà Nẵng, 1995). Trước một đại chúng đang khao khát tự do, hạnh phúc... tư tưởng cải cách của Phan Châu Trinh được dân chúng đón nhận như đại hạn gặp mưa, nhanh chóng biến thành hành động cụ thể. Một phong trào tự nguyện phát triển sản xuất nông phẩm hàng hóa (hồi, quế, tằm tơ...), lập hội buôn, phát triển văn hóa,  giáo dục, bài trừ hủ tục mê tín, cải thiện dân sinh (cắt tóc ngắn, ăn ở vệ sinh)... Nhanh chóng lan rộng ở nhiều nơi trong nước; và cao nhất là biến thành một phong trào đấu tranh dân chủ xin xâu,  chống thuế, đòi cải cách dân chủ, có nơi tự phát tiến tới vũ trang chống thực dân và phong kiến tay sai...
Phong trào Đông Kinh nghĩa thục do Lương Văn Can chủ trì
Đông Kinh nghĩa thục là một tổ chức hoạt động công khai, hợp pháp ở miền Bắc trong lĩnh vực văn hóa tư tưởng nhằm đổi mới tư duy và hành động theo hướng dân chủ tư sản. Phong trào có liên hệ mật thiết với các phong trào khác đương thời ở cả Bắc, Trung, Nam thu hút được nhiều nhà khoa bảng, trí thức tiến bộ tham gia với nhiều biện pháp hữu hiệu như:
1. Mở trường Đông Kinh nghĩa thục (từ tháng 3-1907) tại số 4, Hàng Đào, do Lương Văn Can và Nguyễn Quyền lãnh đạo. Học sinh lúc đông nhất lên tới hàng nghìn người. Gọi là một phong trào vì còn phát triển ra nhiều cơ sở khác. Ngay ở Hà Nội, ngoài trường Hàng Đào còn có Mai Lâm nghĩa thục, Ngọc Lâm nghĩa thục. Ở Hà Đông có các trường ở Từ Liêm, Hoài Đức, Đan Phượng, Ứng Hòa, Thường Tín... Ở Hải Dương, Hưng Yên, Bắc  Ninh, Thái Bình mỗi tỉnh đều có một, hai trường.
2. Sưu tầm, biên soạn, in ấn sách báo, tài liệu tuyên truyền giáo trình giảng dạy. Từ di sản, giáo dục, văn hóa dân tộc có tham khảo tân thư,  tân văn Trung Quốc, Nhật Bản, trường đã biên soạn được nhiều công trình,  sách giáo khoa có giá trị như: Quốc dân độc bản; Nam Quốc giai sự; Nam Quốc địa dư; Quốc văn giáo khoa thư; Luân lý giáo khoa thư.
3. Giảng dạy, tuyên truyền cổ động. Ngoài giảng dạy, phát hành sách báo còn tổ chức bình văn, diễn thuyết với nội dung lấy từ tân thư, tân văn từ các sách báo kể trên, cùng với Hải ngoại huyết thư của Phan Bội Châu, Tỉnh quốc hồn ca của Phan Châu Trinh, Bài phú cải lương của Nguyễn Thượng Hiền... Phong trào phát triển mạnh mẽ đến mức: “Buổi diễn thuyết người đông như hội. Kỳ bình văn khách tới như mưa”, có tác động tích cực làm chuyển biến xã hội theo hướng dân giàu, nước mạnh, tiến bộ,  văn minh, bước đường cần thiết để đi tới giải phóng dân tộc.
Cuộc vận động cải lương yêu nước của Huỳnh Thúc Kháng
Huỳnh Thúc Kháng là một trong những nhà khởi xướng và tham gia phong trào cải cách ở Nam Trung Bộ với Phan Châu Trinh, bị thực dân Pháp đày đi Côn Đảo (1908-1921). Khi ra tù, cụ tiếp tục lao vào con đường cứu nước theo hướng công khai, hợp pháp, được tín nhiệm, trúng cử làm Viện trưởng Viện Dân biểu Trung Kỳ (1926-1928), chủ bút báo Tiếng Dân, một cơ quan ngôn luận công khai với xu hướng cải lương yêu nước. Tiếng Dân nhằm: - Công khai phê phán bọn phong kiến hủ bại và bọn thực dân bóc lột hà khắc - Cổ động phong trào tân tộc - Đả phá lệ khoa cử lỗi thời - Cổ vũ con đường thực nghiệp, hô hào lập các hội nông, công, thương... Cuộc vận động có tác động tích cực đến phong trào đấu tranh dân tộc dân chủ như đồng chí Trường - Chinh nhận xét: “Cụ Huỳnh Thúc Kháng đã gây được một tiếng vang lớn có lợi cho cách mạng, đã thét “Tiếng Dân” giữa kinh thành Huế”. Đó chính là tiền đề để cụ Huỳnh tiến bước trên con đường cứu nước, đến với Hồ Chủ tịch, với cách mạng để có cống hiến ngày càng lớn lao cho dân tộc.
Nhìn chung lại cao trào cải cách, đổi mới đầu thế kỷ XX đã kế thừa một cách xuất sắc truyền thống cải cách, đổi mới của ông cha và là cái cầu nối từ con đường cứu nước tiền vô sản đến con đường cách mạng với mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” do Đảng ta lãnh đạo hiện nay.
G.S VĂN TẠO

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét