NHỮNG VẤN ĐỀ CỞ BẢN CỦA TÔN GIÁO
1. Định nghĩa tôn giáo
Thuật ngữ “Tôn giáo”
Tôn giáo là một thuật ngữ không thuần
Việt, được du nhập từ nước ngoài vào từ cuối thế kỷ XIX. Xét về nội
dung, thuật ngữ Tôn giáo khó có thể hàm chứa được tất cả nội dung đầy đủ
của nó từ cổ đến kim, từ Đông sang Tây.
Thuật ngữ “Tôn giáo” vốn có nguồn gốc từ
phương Tây và bản thân nó cũng có một quá trình biến đổi nội dung và
khi khái niệm này trở thành phổ quát trên toàn thế giới thì lại vấp phải
những khái niệm truyền thống không tương ứng của những cư dân thuộc các
nền văn minh khác, vì vậy trên thực tế đã xuất hiện rất nhiều quan
niệm, định nghĩa khác nhau về tôn giáo của nhiều dân tộc và nhiều tác
giả trên thế gi
“Tôn giáo” bắt nguồn từ thuật ngữ
“religion” (Tiếng Anh) và“religion” lại xuất phát từ thuật ngữ “legere”
(Tiếng Latinh) có nghĩa là thu lượm thêm sức mạnh siêu nhiên. Vào đầu
công nguyên, sau khi đạo Kitô xuất hiện, đế chế Roma yêu cầu phải có một
tôn giáo chung và muốn xóa bỏ các tôn giáo trước đó cho nên lúc này
khái niệm “religion” chỉ mới là riêng của đạo Kitô. Bởi lẽ, đương thời
những đạo khác Kitô đều bị coi là tà đạo. Đến thế kỷ XVI, với sự ra đời
của đạo Tin Lành – tách ra từ Công giáo – trên diễn đàn khoa học và thần
học châu Âu, “religion” mới trở thành một thuật ngữ chỉ hai tôn giáo
thờ cùng một chúa. Với sự bành trướng của chủ nghĩa tư bản ra khỏi phạm
vi châu Âu, với sự tiếp xúc với các tôn giáo thuộc các nền văn minh khác
Kitô giáo, biểu hiện rất đa dạng, thuật ngữ “religion” được dùng nhằm
chỉ các hình thức tôn giáo khác nhau trên thế giới.
Thuật ngữ “religion” được dịch thành
“Tông giáo” đầu tiên xuất hiện ở Nhật Bản vào đầu thế kỷ XVIII vào sau
đó du nhập vào Trung Hoa. Tuy nhiên, ở Trung Hoa, vào thế kỷ XIII, thuật
ngữ Tông giáo lại bao hàm một ý nghĩa hoàn toàn khác: nó nhằm chỉ đạo
Phật (Giáo: đó là lời thuyết giảng của Đức Phật, Tông: lời của các đệ tử
Đức Phật).
- Thuật ngữ Tông giáo được du nhập vào
ViệtNamtừ cuối thế kỷ XIX và được đăng trên các báo, nhưng do kỵ húy của
vua Thiệu Trị nên được gọi là “Tôn giáo”.
Như vậy, thuật ngữ tôn giáo ban đầu được
sử dụng ở châu Âu nhằm chỉ một tôn giáo sau đó thuật ngữ này lại làm
nhiệm vụ chỉ những tôn giáo.
Một số khái niệm tôn giáo
Khái niệm tôn giáo là một vấn đề được
giới nghiên cứu về tôn giáo bàn cãi rất nhiêu. Trong lịch sử đã từng tồn
tại rất nhiều quan niệm khác nhau về tôn giáo:
- Các nhà thần học cho rằng “Tôn giáo là
mối liên hệ giữa thần thánh và con người”.
- Khái niệm mang dấu hiệu đặc trưng của
tôn giáo: “Tôn giáo là niềm tin vào cái siêu nhiên”.
- Một số nhà tâm lý học lại cho rằng
“Tôn giáo là sự sáng tạo của mỗi cá nhân trong nỗi cô đơn của mình, tôn
giáo là sự cô đơn, nếu anh chưa từng cô đơn thì anh chưa bao giờ có tôn
giáo”.
- Khái niệm mang khía cạnh bản chất xã
hội của tôn giáo của C.Mác: “Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị
áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, nó là tinh thần của
trật tự không có tinh thần”.
- Khái niệm mang khía cạnh nguồn gốc của
tôn giáo của Ph.Ăngghen: “Tôn giáo là sự phản ánh hoang đường vào trong
đầu óc con người những lực lượng bên ngoài, cái mà thống trị họ trong
đời sống hàng ngày …”
Tôn giáo là gì?
Để có khái niệm đầy đủ về tôn giáo cần
phải chú ý:
- Khi nói đến tôn giáo, dù theo ý nghĩa
hay cách biểu hiện nào thì luôn luôn phải đề cập đến vấn đề hai thế
giới: thế giới hiện hữu và thế giới phi hiện hữu, thế giới của người
sống và thế giới sau khi chết, thế giới của những vật thể hữu hình và vô
hình.
- Tôn giáo không chỉ là những sự bất lực
của con người trong cuộc đấu tranh với tự nhiên và xã hội, do thiếu
hiểu biết dẫn đến sợ hãi và tự đánh mất mình do đó phải dựa vào thánh
thần mà còn hướng con người đến một hy vọng tuyệt đối, một cuộc đời
thánh thiện, mang tính “Hoàng kim nguyên thủy”, một cuộc đời mà quá khứ,
hiện tại, tương lai cùng chung sống. Nó gieo niềm hi vọng vào con
người, dù có phần ảo tưởng để mà yên tâm, tin tưởng để sống và phải sống
trong một thế giới trần gian có nhiều bất công và khổ ải.
Như vậy: Tôn giáo là niềm tin vào các
lực lượng siêu nhiên, vô hình, mang tính thiêng liêng, được chấp nhận
một cách trực giác và tác động qua lại một cách hư ảo, nhằm lý giải
những vấn đề trên trần thế cũng như ở thế giới bên kia. Niềm tin đó được
biểu hiện rất đa dạng, tuỳ thuộc vào những thời kỳ lịch sử, hoàn cảnh
địa lý – văn hóa khác nhau, phụ thuộc vào nội dung từng tôn giáo, được
vận hành bằng những nghi lễ, những hành vi tôn giáo khác nhau của từng
cộng đồng xã hội tôn giáo khác nhau.
2. Bản chất, nguồn gốc của tôn giáo
Bản chất của tôn giáo
Tôn giáo xuất hiện từ rất lâu và con
người mặc nhiên chấp nhận nó. Việc đặt ra câu hỏi: “Tôn giáo là gì” mới
chỉ được giới khoa học đặt ra trong thời gian gần đây, khi mà vấn đề tôn
giáo trở thành bức xúc và phức tạp. Khi câu hỏi này được đặt ra cũng là
lúc mà tôn giáo trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học
riêng biệt. Đối tượng nghiên cứu của tôn giáo xuất phát từ châu Âu khá
sớm nhưng bộ môn khoa học về tôn giáo chỉ ra đời vào cuối thế kỷ XIX.
Tôn giáo là một sản phẩm của lịch sử.
Trong các tác phẩm của mình C. Mác đã khẳng định: “Con người sáng tạo ra
tôn giáo chứ tôn giáo không sáng tạo ra con người”. Tôn giáo là một
thực thể khách quan của loài người nhưng lại là một thực thể có nhiều
quan niệm phức tạp về cả nội dung cũng như hình thức biểu hiện. Về mặt
nội dung, nội dung cơ bản của tôn giáo là niềm tin (hay tín ngưỡng) tác
động lên các cá nhân, các cộng đồng. Tôn giáo thường đưa ra các giá trị
có tính tuyệt đối làm mục đích cho con người vươn tới cuộc sống tốt đẹp
và nội dung ấy được thể hiện bằng những nghi thức, những sự kiêng kỵ…
- Rất khó có thể đưa ra được một định
nghĩa về tôn giáo có thể bao hàm mọi quan niệm của con người về tôn giáo
nhưng có thể thấy rõ rằng khi nói đến tôn giáo là nói đến mối quan hệ
giữa hai thế giới thực và hư, của hai tính thiêng và tục và giữa chúng
không có sự tách bạch.
Trong tác phẩm “Chống Đuyrinh”, Ph. Ăng
nghen đã có một nhận xét làm cho chúng ta thấy rõ bản chất của tôn giáo
như sau: “Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo – vào
trong đầu óc của con người – của những lực lượng bên ngoài chi phối cuộc
sống của họ, chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng trần thế đã
mang hình thức những lực lượng siêu trần thế.”.
3. Nguồn gốc của tôn giáo
Vấn đề nguồn gốc của tôn giáo là một
trong những vấn đề quan trọng nhất của tôn giáo học mácxít. Nhờ vạch ra
được nguyên nhân xuất hiện và tồn tại của hiện tượng nào đó mà sự giải
thích nó mới mang tính khoa học. Đối với hiện tượng tôn giáo cũng vậy.
V. I. Lênin đã gọi toàn bộ những nguyên
nhân và điều kiện tất yếu làm nảy sinh niềm tin tôn giáo là những nguồn
gốc của tôn giáo. Nguồn gốc đó bao gồm:
a. Nguồn gốc xã hội của tôn giáo
Nguồn gốc xã hội của tôn giáo là toàn bộ
những nguyên nhân và điều kiện khách quan của đời sống xã hội tất yếu
làm nảy sinh và tái hiện những niềm tin tôn giáo. Trong đó một số nguyên
nhân và điều kiện gắn với mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, một
số khác gắn với mối quan hệ giữa con người với con người
- Mối quan hệ giữa con người với tự
nhiên
Tôn giáo học mácxít cho rằng sự bất lực
của con người trong cuộc đấu tranh với tự nhiên là một nguồn gốc xã hội
của tôn giáo. Như chúng ta đã biết, mối quan hệ của con người với tự
nhiên thực hiện thông qua những phương tiện và công cụ lao động mà con
người có. Những công cụ và phương tiện càng kém phát triển bao nhiêu thì
con người càng yếu đuối trước giới tự nhiên bấy nhiêu và những lực
lượng tự nhiên càng thống trị con người mạnh bấy nhiêu. Sự bất lực của
con người nguyên thủy trong cuộc đấu tranh với giới tự nhiên là do sự
hạn chế, sự yếu kém của các phương tiện tác động thực tế của họ vào thế
giới xung quanh. Khi không đủ phương tiện, công cụ để đảm bảo kết quả,
mong muốn trong lao động, người nguyên thủy đã tìm đến phương tiện tưởng
tượng hư ảo, nghĩa là tìm đến tôn giáo. F. Ăngghen nhấn mạnh rằng tôn
giáo trong xã hội nguyên thủy xuất hiện do kết quả phát triển thấp của
trình độ lực lượng sản xuất. Trình độ thấp của sự phát triển sản xuất đã
làm cho con người không có khả năng nắm được một cách thực tiễn các lực
lượng tự nhiên. Thế giới bao quanh người nguyên thủy đã trở thành cái
thù địch, bí hiểm, hùng hậu đối với họ. Chúng ta cần thấy rằng, sự thống
trị của tự nhiên đối với con người không phải được quyết định bởi những
thuộc tính và quy luật của giới tự nhiên, mà quyết định bởi mối tính
chất mối quan hệ của con người với tự nhiên, nghĩa là bởi sự phát triển
kém của lực lượng sản xuất xã hội, mà trước hết là công cụ lao động.
Như vậy, không phải bản thân giới tự
nhiên sinh ra tôn giáo, mà là mối quan hệ đặc thù của con người với giới
tự nhiên, do trình độ sản xuất quyết định. Đây là một nguồn gốc xã hội
của tôn giáo.
Nhờ hoàn thiện những phương tiện lao
động và toàn bộ hệ thống sản xuất vật chất mà con người ngày càng nắm
được lực lượng tự nhiên nhiều hơn, càng ít phụ thuộc một cách mù quáng
vào nó, do đó dần dần khắc phục được một trong những nguồn gốc quan
trọng của tôn giáo.
- Mối quan hệ giữa người và người
Nguồn gốc xã hội của tôn giáo còn bao
gồm cả phạm vi các mối quan hệ giữa con người với nhau, nghĩa là bao gồm
các mối quan hệ xã hội, trong đó có hai yếu tố giữ vai trò quyết định
là tính tự phát của sự phát triển xã hội và ách áp bức giai cấp cùng chế
độ người bóc lột người.
Trong tất cả các hình thái kinh tế – xã
hội trước hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa, những mối quan
hệ xã hội đã phát triển một cách tự phát. Những quy luật phát triển của
xã hội biểu hiện như là những lực lượng mù quáng, trói buộc con người và
ảnh hưởng quyết định đến số phận của họ. Những lực lượng đó trong ý
thức con người được thần thánh hoá và mang hình thức của những lực lượng
siêu nhiên. Đây là một trong những nguồn gốc xã hội chủ yếu của tôn
giáo.
Trong các xã hội có đối kháng giai cấp,
sự áp bức giai cấp, chế độ bóc lột là một nhân tố quan trọng làm nảy
sinh tôn giáo.
Người nô lệ, người nông nô, người vô sản
mất tự do không phải chỉ là sự tác động của lực lượng xã hội mù quáng
mà họ không thể kiểm soát được, mà còn bị bần cùng cả về mặt kinh tế, bị
áp bức cả về mặt chính trị, bị tước đoạt những phương tiện và khả năng
phát triển tinh thần. Quần chúng không thể tìm ra lối thoát hiện thực
khỏi sự kìm kẹp và áp bức trên trái đất, nhưng họ đã tìm ra lối thoát đó
ở trên trời, ở thế giới bên kia.
b. Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo
Để giải thích nguồn gốc nhận thức của
tôn giáo cần phải làm rõ lịch sử nhận thức và các đặc điểm của quá trình
nhận thức dẫn đến việc hình thành quan niệm tôn giáo.
Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo gắn
liền với đặc điểm của của quá trình nhận thức. Đó là một quá trình phức
tạp và mâu thuẫn, nó là sự thống nhất một cách biện chứng giữa nội dung
khách quan và hình thức chủ quan. Những hình thức phản ánh thế giới hiện
thực càng đa dạng, phong phú bao nhiêu thì con người càng có khả năng
nhận thức thế giới xung quanh sâu sắc và đầy đủ bấy nhiêu. Nhưng mỗi một
hình thức mới của sự phản ánh không những tạo ra những khả năng mới để
nhận thức thế giới sâu sắc hơn mà còn tạo ra khả năng “xa rời” hiện
thực, phản ánh sai lầm nó. Thực chất nguồn gốc nhận thức của tôn giáo
cũng như của mọi ý thức sai lầm chính là sự tuyệt đối hoá, sự cường điệu
mặt chủ thể của nhận thức con người, biến nó thành cái không còn nội
dung khách quan, không còn cơ sở “thế gian”, nghĩa là cái siêu nhiên
thần thánh.
c. Nguồn gốc tâm lý của tôn giáo
Ngay từ thời cổ đại, các nhà duy vật đã
nghiên cứu đến ảnh hưởng của yếu tố tâm lý (tâm trạng, xúc cảm) đến sự
ra đời của tôn giáo. Họ đã đưa ra luận điểm” “Sự sợ hãi sinh ra thần
thánh”.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác –
Lênin đã giải quyết vấn đề nguồn gốc tâm lý của tôn giáo khác về nguyên
tắc so với các nhà duy vật trước đó. Nếu như các nhà duy vật trước Mác
gắn nguyên nhân xuất hiện tôn giáo với sự sợ hãi trước lực lượng tự
nhiên thì chủ nghĩa Mác lần đầu tiên vạch được nguồn gốc xã hội của sự
sợ hãi đó.
Lịch sử hình thành tôn giáo và một số hình thức tôn giáo trong lịch sử
Lịch sử hình thành tôn giáo
Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội.
Đặc điểm quan trọng trong ý thức tôn giáo là một mặt nó phản ánh tồn
tại xã hội. Mặt khác, nó lại có xu hướng phản kháng lại xã hội đã sản
sinh ra và nuôi dưỡng nó. Vì vậy, từ khi ra đời đến nay, cùng với sự
biến đổi của lịch sử, tôn giáo cũng biến đổi theo.
- Với những thành tựu to lớn của ngành
khảo cổ học, người ta đã chứng minh được sự tồn tại của con người cách
đây hàng triệu năm (từ 4 – 6 triệu năm). Tuy nhiên, với những hiện vật
thu được người ta khẳng định: có đến hàng triệu năm con người không hề
biết đến tôn giáo. Bởi vì tôn giáo đòi hỏi tương ứng với nó là một trình
độ nhận thức cao, nó là sản phẩm của tư duy trừu tượng trong một đời
sống xã hội ổn định.
- Hầu hết trong giới khoa học đều thống
nhất rằng chỉ khi con người hiện đại – người khôn ngoan (Homo Sapiens) –
hình thành và tổ chức thành xã hội, tôn giáo mới xuất hiện. Thời kỳ này
cách đây khoảng 95.000 – 35.000 năm. Tuy nhiên trong thời kỳ đầu mới
chỉ là các tín hiệu đầu tiên. Đa số các nhà khoa học đều khẳng định tôn
giáo ra đời khoảng 45.000 năm trước đây với những hình thức tôn giáo sơ
khai như đạo Vật tổ (Tôtem), Ma thuật và Tang lễ… đây là thời kỳ tương
ứng với thời kỳ đồ đá cũ.
- Bước sang thời kỳ đồ đá giữa, con
người chuyển dần từ săn bắt, hái lượm sang trồng trọt và chăn nuôi, các
hình thức tôn giáo dân tộc ra đời với sự thiêng liêng hóa các nguồn lợi
của con người trong sản xuất và cuộc sống: thần Lúa, thần Khoai, thần
Sông… hoặc tôn thờ các biểu tượng của sự sinh sôi (thờ giống cái, hình
ảnh phụ nữ, phồn thực…), đó là các vị thần của các thị tộc Mẫu hệ. Khi
đồ sắt xuất hiện, các quốc gia dân tộc ra đời nhằm mục đích phục vụ cho
sự củng cố và phát triển của dân tộc. Tất cả các vị thần ấy còn tồn tại
chừng nào dân tộc tạo ra vị thần ấy còn tồn tại và khi dân tộc tiêu
vong, các vị thần ấy không còn nữa.
- Trong thời kỳ văn minh nông nghiệp,
nhiều đế chế ra đời và thâu tóm vào mình nhiều quốc gia. Do nhu cầu một
tôn giáo của đế chế, những tôn giáo như Phật, Nho, Kitô, Hồi… đã xuất
hiện từ trước trở thành tôn giáo của đế chế và được chấp nhận như một
tôn giáo chính thống. Theo thời gian, do nội dung của các tôn giáo manh
tính phổ quát, không gắn chặt với một quốc gia cụ thể, với các vị thần
cụ thể, với nghi thức cụ thể của một cộng đồng tộc người, dân tộc hay
địa phương nhất định nên sự bành trướng của nó diễn ra thuận lợi, dễ
dàng thích nghi với các dân tộc khác. Do vậy, dù được phổ biến bằng cách
nào (chiến tranh hay hòa bình), các tôn giáo đó đã được các quốc gia bị
lệ thuộc trực tiếp hay gián tiếp, tự giác hay không tự giác tiếp nhận
và trên nền tảng của tôn giáo truyền thống, biến đổi thành tôn giáo
riêng của quốc gia đó. Sự bành trướng kiểu như vậy diễn ra trong suốt
thời kỳ văn minh công nghiệp và cho đến tận ngày nay. Tuy nhiên cũng cần
phải chú ý rằng, giữa tôn giáo khu vực hay tôn giáo thế giới vừa chung
sống cạnh nhau, vừa tranh chấp xung đột nhau và không ít trường hợp, với
sự ủng hộ của các thế lực quân sự, chính trị, chiến tranh tôn giáo đã
xảy ra. Những tôn giáo như Kitô, Hồi do tính cực đoan của mình (chỉ coi
chúa hay thánh của mình là đối tượng tôn thờ duy nhất) nên ban đầu đi
đến đâu cũng khó chung sống với các tôn giáo khác đã có mặt ở đó từ
trước. Còn một số tôn giáo phương Đông như Nho, Phật thì khác, chúng
chấp nhận hòa đồng với các tôn giáo bản địa, có xu hướng trần tục nhiều
hơn là thế giới bên kia.
- Cuộc cách mạng công nghiệp đã tạo ra
một xã hội công nghiệp, xã hội này đòi hỏi phải có một tôn giáo năng
động và tự do hơn, khó chấp nhận một tổ chức, một giáo lý với những nghi
thức cứng nhắc, phức tạp. Tình trạng độc tôn của một tôn giáo trong một
quốc gia đã bắt đầu chấm dứt và chấp nhận sự đa dạng trong đời sống tôn
giáo. Từ đây quan niệm và sau là chính sách tự do tôn giáo ra đời, phát
triển nhanh hay chậm và thể hiện khác nhau ở các quốc gia khác nhau.
Những yếu tố lỗi thời được huỷ bỏ hoặc tự thay đổi, thay thế để thích
nghi. Với xu thế quốc tế hóa ngày càng gia tăng, việc mỗi cá nhân chỉ
biết đến tôn giáo của mình đã trở nên lạc hậu. Mỗi người đều rằng trên
thế gian có nhiều thánh thần, có nhiều tôn giáo. Họ bắt đầu hoài nghi và
lựa chọn, thần thánh được mang ra tranh luận, bàn cãi và làm nảy sinh
xu thế thế tục hoá tôn giáo và xu thế này ngày càng thắng thế.
- Trong thời đại ngày nay, khi mà xu thế
toàn cầu hóa đang chi phối mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, sự nâng
cao về trình độ học vấn và đặc biệt là những thành tựu của khoa học và
công nghệ đã làm cho các tôn giáo ngày càng trở nên thế tục hóa kéo theo
sự đa dạng trong đời sống tôn giáo. Từ đây xuất hiện các ý kiến khác
nhau trong một tôn giáo và dẫn đến sự chia rẽ trong các tôn giáo một
cách có tổ chức, bùng nổ các giáo phái và xuất hiện nhiều tôn giáo mới.
Bản thân trong các tôn giáo khu vực và thế giới cũng có những biểu hiện
khác trước: số tín đồ ngày càng tăng nhưng số tín đồ thực tế giảm, nghĩa
là người ta theo đạo nhưng không hành đạo, nhiều tín đồ bỏ đạo để theo
các “đạo mới”. Trong nội bộ các tôn giáo có sự chia rẽ thành những giáo
phái với những tính chất cấp tiến, ôn hòa hoặc cực đoan.
4. Một số hình thức tôn giáo trong lịch sử
- Tôn giáo trong xã hội chưa có giai cấp
(Tôn giáo nguyên thủy)
Ăng nghen cho rằng tôn giáo xuất hiện từ
ngay trong thời kỳ nguyên thủy, từ những quan niệm hết sức dốt nát, tối
tăm, nguyên thủy của con người về bản thân mình và thiên nhiên bao
quanh họ. Các tôn giáo nguyên thủy, sơ khai thể hiện niềm tin bản năng
của con người và lúc ấy chưa gắn với các lợi ích về kinh tế – xã hội.
Các hình thức phổ biến của tôn giáo nguyên thủy là các dạng sau:
+ Tô tem giáo (thờ vật tổ): Tô tem theo
ngôn ngữ của thổ dân Bắc Mỹ nghĩa là giống loài. Đây là hình thức tôn
giáo cổ xưa nhất, thể hiện niềm tin vào mối quan hệ gần gũi, huyết thống
giữa một cộng đồng người (thị tộc, bộ lạc) với một loài động thực vật
hoăïc một đối tượng nào đó. Tô tem giáo thể hiện hình thức nhận biết đầu
tiên về mối liên hệ của con người với các hiện tượng xung quanh. Chẳng
hạn: một bộ lạc tồn tại được nhờ săn bắt một loài động vật nào đó dẫn
đến xuất hiện một ảo tưởng về mối quan hệ giữa loài vật đó với cộng đồng
người săn nó và cuối cùng con vật này lại trở thành tổ tiên chung – là
một tô tem của một tập thể nào đó.
+ Ma thuật giáo : Ma thuật theo tiếng Hi
lạp cổ là phép phù thủy. Đây là biểu hiện của việc người nguyên thủy
tin vào khả năng tác động đến tự nhiên bằng những hành động tượng trưng
(cầu khấn, phù phép, thần chú…) nghĩa là bằng con đường siêu nhiên. Nhờ
các biện pháp ma thuật, người nguyên thủy cố gắng tác động đến những sự
kiện và làm cho nó diễn ra theo ý mình mong muốn. Về sau, ma thuật trở
thành một thành tố quan trọng không thể thiếu được của các tôn giáo phát
triển. Việc thờ cúng của bất kỳ tôn giáo nào cũng phải có ma thuật (cầu
nguyện, làm phép…). Tàn dư của ma thuật là các hiện tượng bói toán,
tướng số ngày nay.
+ Bái vật giáo : Bái vật theo tiếng Bồ
Đào Nha là bùa hộ mệnh, phép lạ. Bái vật giáo xuất hiện vào lúc mới hình
thành tôn giáo và sự thờ cúng. Bái vật giáo đặt lòng tin vào những
thuộc tính siêu nhiên của các vật thể như hòn đá, gốc cây, bùa, tượng…
Họ cho rằng có một lực lượng siêu nhiên, thần bí trú ngụ trong vật đó.
Bái vật giáo là thành tố tất yếu của sự thờ cúng tôn giáo. Đó là sự thờ
cúng các tượng gỗ, cây thánh giá… hoặc lòng tin vào sức mạnh kỳ quái của
các lá bùa…
+ Vật linh giáo : Là hình thức tôn giáo
xuất hiện muộn hơn, khi mà ý thức của con người đã đủ khả năng hình
thành nên những khái niệm. Vật linh giáo là lòng tin ở linh hồn. Lòng
tin này là cơ sở quan trọng để hình thành nên quan niệm về cái siêu
nhiên của người cổ xưa. Giai đoạn này đã có ảo tưởng cho rằng có hai thế
giới: một thế giới tồn tại thực sự và một thế giới siêu nhiên, trong đó
thế giới siêu nhiên thống trị thế giới thực tại. Thế giới siêu nhiên
này của người nguyên thủy cũng đầy đủ động vật, thực vật, các đối tượng
do tinh thần tưởng tượng ra và không khác biệt gì lắm so với thế giới
thực tại.
- Tôn giáo trong xã hội có giai cấp
Khi xã hội phân chia giai cấp, xuất hiện
các nhà nước, quốc gia với các vùng lãnh thổ riêng biệt, tôn giáo lúc
này không chỉ còn là một nhu cầu tinh thần của quần chúng mà còn là một
phương tiện để giai cấp thống trị duy trì sự thống trị áp bức giai cấp
và bóc lột của mình và thực hiện sự bành trướng, xâm lược vì vậy tôn
giáo gắn liền với chính trị và bị dân tộc hóa. Từ đó đã dẫn đến sự xuất
hiện các tôn giáo dân tộc và tôn giáo thế giới.
+ Tôn giáo dân tộc : Đặc trưng của tôn
giáo dân tộc là tính chất quốc gia dân tộc của nó. Các vị thần được tạo
lập mang tính quốc gia dân tộc và phạm vi quyền lực giới hạn trong phạm
vi quốc gia. Thậm chí một số tôn giáo lớn cũng bị dân tộc hóa ở mỗi quốc
gia và trở thành tôn giáo có tính chất quốc gia. Ví dụ Anh giáo (Thanh
giáo), các dòng khác nhau của đạo Hồi…
+ Tôn giáo thế giới : Sự phát triển của
các tôn giáo vượt ra khỏi biên giới của một quốc gia đã hình thành nên
các tôn giáo khu vực và thế giới như Phật giáo, Thiên chúa giáo, Hồi
giáo… Khác với các tôn giáo dân tộc, tôn giáo thế giới mang tính đa quốc
gia, ảnh hưởng đến nhiều khu vực rộng lớn trên thế giới.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét