Thứ Năm, 8 tháng 3, 2012

tư liêu về Nguyễn Trường Tộ - nhà canh tân lớn của Việt Nam thế kỷ XIX

tư liêu về Nguyễn Trường Tộ - nhà canh tân lớn của Việt Nam thế kỷ XIX

1. 
NGUYỄN TRƯỜNG TỘ

NHÀ THIẾT KẾ VĨ ĐẠI CỦA ĐẤT NƯỚC
Ở THẾ KỶ XIX
Nguyễn Đình Chú

Đúng là thời gian đã và đang ủng hộ Nguyễn Trường Tộ, đưa ông ngày một về gần với chúng ta, với đất nước hôm nay. Khoa học xã hội và nhân văn vẫn cần tiếp tục khám phá Nguyễn Trường Tộ, nhưng không ít mỹ từ cao sang đã dành để tôn vinh ông: “Người yêu nước sáng suốt”, “Nhà yêu nước sáng suốt nhất của thế kỷ XIX”, “Nhà cải cách lớn của dân tộc”, “Nhà phê bình xã hội đầu tiên ở nước ta”, “Nhà kiến trúc tư tưởng Việt Nam ở thế kỷ XIX”, “Một trí tuệ lớn mang tầm quốc tế” … Đến lượt tôi, tôi xin mệnh danh: “Nguyễn Trường Tộ: một nhà thiết kế vĩ đại của đất nước ở thế kỷ XIX”. Công việc thiết kế chính là công việc vạch đường chỉ lối, hoạch định chiến lược, chiến thuật, bày mưu định kế, xây dựng mô hình, phác hoạ mẫu này, mẫu khác để từ đó mà có sự thi công với vai trò điều khiển của công trình sư. Trong xây dựng, ở những công trình lớn đồ sộ, thiết kế và thi công là hai công đoạn khó bề kết làm một. Thiết kế phải có trước. Thi công là chuyện tiếp theo.
Từ cách nghĩ đó, trong đầu óc tôi, Nguyễn Trường Tộ đã hiện lên sừng sững như một nhà thiết kế vĩ đại của đất nước Việt Nam ta rất mực yêu thương và cũng rất mực đau thương ở thế kỷ XIX. Rất tiếc, vô cùng tiếc cho đất nước đã có một người con ưu tú, kiệt xuất, đầy đủ tư cách và khả năng là một nhà thiết kế vĩ đại mà không được chuyển tiếp làm vị tổng công trình sư. Lịch sử oái oăm là thế. Bi kịch là thế. Và Nguyễn Trường Tộ là nhân vật bi kịch của lịch sử oái oăm đó.
Để hiểu rõ tầm vóc vĩ đại của nhà thiết kế Nguyễn Trường Tộ, hẳn là phải trở lại hoàn cảnh lịch sử đất nước ở thế kỷ XIX với hai đặc điểm cơ bản là:
1. Chế độ phong kiến nhà Nguyễn thay thế triều đại Tây Sơn huy hoàng nhưng sớm nở, tối tàn, đã có nhiều cố gắng trong việc củng cố thống nhất đất nước, mở rộng bờ cõi, kiện toàn thiết chế xã hội… nhưng vẫn không đủ để đưa đất nước thoát khỏi bế tắc, khủng hoảng và cuối cùng rơi vào hoạ xâm lăng, nhục nhã.
2. Cuộc xâm lăng của thực dân Pháp từ giữa thế kỷ XIX là cuộc xâm lăng có đặc điểm rất khác so với trước. Trước là chuyện phong kiến nước lớn bắt nạt phong kiến nước nhỏ. Nay là chuyện phương Tây trên đường phát triển bắt nạt phương Đông lạc hậu; là chuyện đụng độ giữa hai hình thái xã hội: Xã hội tư bản chủ nghĩa mà theo K.Mác đã nói trong Tuyên ngôn Cộng sảnlà “Một trăm năm phát triển tư bản chủ nghĩa có thể tạo ra một khối lượng của cải bằng hàng năm phong kiến cộng lại” và xã hội phong kiến nông nghiệp nghèo nàn, bế tắc. Cho nên ở thế kỷ XIX, mất nước đâu là chuyện riêng một Việt Nam. Chỉ trừ Nhật Bản và Thái Lan, còn Lào, Miên, Miến Điện, Mã Lai, Singapo, Philipin, Nam Dương, Ấn Độ đều mất. Cả đến Trung Hoa với chủ nghĩa đại Hán, từng xưng hùng, xưng bá trong khu vực mà cũng đã bị một số nước phương Tây xa tít kia đến xâu xé, chưa đến nỗi mất nước nhưng cũng đã phải nằm kềnh ra đó chứ còn gì.
Với cuộc thế khác xa thời trước và ngặt nghèo tày trời như vậy, một câu hỏi lớn ôi là lớn, một bài toán khó ôi là khó đối với Tổ quốc Việt Nam là:
Bằng con đường nào, bằng phương thức nào để giành lại giang sơn gấm vóc? Để đưa đất nước thoát khỏi bế tắc, tiến dần vào cõi văn minh phú cường?
Để có câu trả lời đích đáng trước câu hỏi lớn này, để có thể giải bài toán khó này của thời đại, cần rất nhiều điều kiện, nhưng trước hết phải xử lý đúng hai vấn đề sau đây:
1. Vấn đề tình và lý, tâm và trí, động cơ và hiệu quả trong cuộc sống nói chung ở cấp độ vĩ mô và vi mô. Cụ thể ở đây là trong hoàn cảnh đất nước đang bế tắc và đã rơi vào hoạ xâm lăng. Thì đấy, trong thực tế, đã thấy có hai trạng thái rõ rệt:
a. Sự lúng túng, bất lực, lý chẳng ra lý, tâm chẳng ra tâm, trí chẳng ra trí, động cơ thì mập mờ, hiệu quả thì thảm hại, của triều đình nhà Nguyễn.
b. Sự vùng lên kiên cường bất khuất, lãnh đạo nhân dân chống xâm lược, hết đợt này đến đợt khác của các sĩ phu mà tình, mà tâm, mà khí phách thì hữu dư được lịch sử muôn đời ca ngợi, nhưng xem ra thì lý, thì trí chưa đủ độ cần thiết, nên cuối cùng vẫn chịu thất bại đắng cay.
Rõ ràng là trước câu hỏi lớn và khó, trước bài toán khó của thời đại, đã phải có một cách xử sự mới, vượt lên truyền thống. Nghĩa là, vẫn phải có tình, có tâm mà truyền thống đã có, nhưng phải có một thứ , một thứ trí mới hẳn, mang tính hiện đại, có nhiều khả năng đảm bảo hiệu quả cho đất nước.
2. Vấn đề không phụ thuộc (độc lập: indépendant), phụ thuộc lẫn nhau (interdépendant), và con đường dành độc lập là thế nào? Indépendant và Interdépendant là hai phương diện, cũng có thể nói là hai quy luật tồn tại trong sự sống, không chỉ với một quốc gia, mà còn là với mọi cộng đồng sống, kể cả cuộc sống cá nhân. Tuy vậy, trong nhận thức về hai quy luật này và từ đó là trong hành động, không phải ở đâu lúc nào cũng giống nhau. Kể cả con đường giành độc lập dân tộc trước hoạ xâm lăng thì vẫn có hai phương thức bạo động và không bạo động. Có thể nói trong lịch sử nước ta, từng quen với quy luật độc lập. Trước ngoại xâm thì cũng quen dùng phương thức bạo động mà chưa quen, với quy luật phụ thuộc lẫn nhau (interdépendant) trong tình thế không bình thường là kẻ thù đã xâm chiếm đất nước và cũng chưa quen đi con đường giành độc lập không bạo động. Nhưng ở thế kỷ XIX, trước hoạ xâm lăng của thực dân Pháp, trong thực tế, đã có một số người Việt Nam, dù tự giác hay chưa tự giác, tự giác nhiều hay ít, đã sống với quy luậtinterdépendant, để rồi phải chịu đựng tiếng bấc, tiếng chì, thậm chí là sự lên án, sự mạt sát trong một bộ phận của người đời nhưng xem ra thời gian lại đang ủng hộ họ. Bởi thành quả mà họ để lại cho đất nước vẫn là thành quả muôn đời, trừ người không biết nhận thức mà vẫn phủ nhận phũ phàng. Trương Vĩnh Ký, cuối thế kỷ XIX, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh… đầu thế kỷ XX là những trường hợp tiêu biểu cho đường hướng interdépendant đó, dĩ nhiên, mới là trên phương diện văn hoá. Về chính trị, Phan Châu Trinh là người đi theo quy luật interdépendant này, và Phan Bội Châu về sau cũng vậy…
Từ những gì được nói trên đây, tôi xin được coi Nguyễn Trường Tộ là người số một, thậm chí là độc nhất vô nhị có tư cách trả lời câu hỏi lớn, giải bài toán khó của đất nước Việt Nam ta ở thế kỷ XIX. Dĩ nhiên, là mới ở phương diện nhà thiết kế. Bởi lẽ ở ông cái tình, cái tâm cũng lớn như ai. Nhưng quan trọng hơn là có cái lý, cái trí đột khởi mà đương thời chưa thấy ai sánh kịp. Bởi lẽ: với những người Việt Nam ưu tú, cùng thời thì hoặc là nhiệt tâm đeo đuổi phương thức giành độc lập bằng vũ trang mà hầu như chưa nghĩ gì tới quy luật Interdépendant, thậm chí còn đối địch với nó; hoặc là nhiệt tâm đi theo quy luật Interdépendant mà né tránh hoàn toàn con đường vũ trang giành độc lập. Trong khi Nguyễn Trường Tộ thì có tất cả. Với Nguyễn Trường Tộ là Interdépendant nhưng vẫn Indépendant. Mà Indépendant không vũ trang bạo động nhưng khi cần vẫn có vũ trang bạo động ít ra là trong ý đồ.
Để hiểu chất lượng thành quả thiết kế của Nguyễn Trường Tộ, trước hết lại phải hiểu được con người của Nguyễn Trường Tộ mà ở đó nổi lên những nét đặc sắc như sau:
1. Về nhân cách và cá tính sống: Nguyễn Trường Tộ quả là một người theo đạo Thiên chúa hết lòng hết dạ với giống nòi và rất tự tin vào sự hiểu biết, vào “tài ứng dụng với đời ” của mình. Chính ông đã tự nói điều đó trong nhiều bản điều trần bên cạnh những lời nói khiêm nhường, hạ mình. Ông là người rất có ý thức và bản lĩnh trong việc xa lánh chức tước, danh vọng để đeo đuổi lý tưởng cứu nước, giúp đời. Ông là người đã sống trọn với chữ Nhẫn theo ý nghĩa chân chính nhất của nó, nhằm vượt qua những sự mè nheo của thế gian để đạt tới lẽ sống cao cả của mình.
2. Về văn hoá: Nguyễn Trường Tộ là một hiện tượng hội tụ đột khởi tới mức đương thời, kể cả sau nữa, cũng không dễ mấy ai vượt qua, mặc dù di sản của ông để lại chủ yếu chỉ 58 bản điều trần. Ông là một giáo sỹ kiêm một nhà Hán học, một nhà Đông phương học, một nhà Tây học, mặc dù chẳng có bằng cấp gì. Qua những bản điều trần, thấy rõ ông có trình độ Hán học uyên thâm. Thuộc Bắc sử (sử Tàu), hiểu Nho giáo, đến nơi đến chốn. Cũng qua các bản điều trần, thấy ông hiểu phương Tây một cách khá toàn diện, không chỉ trên phương diện chính trị, xã hội mà cả các chuyên ngành khoa học, kỹ thuật, hiện đại từ chuyện lớn vĩ mô, đến chuyện vi mô cụ thể. Ở thời đại của ông, không một người Việt Nam nào lại hiểu biết tình hình thế giới, khu vực được như ông. Với đất nước mình cũng vậy, đương thời khó có ai hiểu sâu sát được như ông. Tôi nói thế mà không sợ quá lời, một khi bản thân đã ít nhiều so sánh hệ thống văn bản điều trần của ông với nhiều thư tịch đương thời trong đó có đình đối sách mà nhà vua, người ra đề thi thường có yêu cầu các đại thí sinh phản ánh tình hình thực tế đất nước.
3. Về tư duy: Nguyễn Trường Tộ cũng là người có một năng tư duy đột khởi, hiếm lạ so với tầng lớp đại nho, đại thức đương thời, đủ làm cơ sở vững chắc đảm bảo chất lượng tối ưu cho suy nghĩ, hành động và tầm vóc văn hoá của ông. Trong tư duy Nguyễn Trường Tộ nổi lên mấy đặc điểm sau:
- Có khả năng tư duy nắm bắt những vấn đề vĩ mô, khái quát, chiến lược mà vẫn không xa rời những điều vi mô, cụ thể, chiến thuật. Ví dụ: bàn “Về việc tổ chức cho sứ bộ đi Pháp” (Di thảo số 32 ngày 12.3.1868) là đụng đến một đại sự của quốc gia mà không quên dặn “Sứ bộ ta đi Tây lần này, cách ăn ở, hễ đến đâu, phải làm như thế nào, tôi sẽ nói trước với quan chính sứ, bàn bạc phải chăng, tạm theo tục họ, để tránh sự chê cười. Còn như áo quần, đồ dùng cần phải tề chỉnh sạch sẽ. Vì người Tây ghét nhất là ăn mặc bẩn thỉu. Trừ lễ phục ra, áo lót mình mỗi người ít nhất cũng phải 40 bộ, mỗi ngày mỗi thay đổi. Khăn mặt phải dùng vải Tây trắng, ít nhất mỗi người cũng phải 30 chiếc… 4, 5 đôi giày, còn bít tất phải 20, 30 đôi để thay đổi luôn mới được ”.
- Có khả năng tư duy tích hợp (intégration) vốn là một phương diện rất cần trong việc huy động tri thức, liên kết hiểu biết đa diện đa chiều nhằm tạo hiệu quả cao cho hành động. Khoa học hiện đại đang rất coi trọng khả năng tư duy tích hợp, khoa học tích hợp này. Không chỉ toán riêng,  riêng, mà còn là toán lý. Không chỉ sinh riêng, hoá riêng mà còn là sinh hoá…Đọc lại di thảo của Nguyễn Trường Tộ, ta thấy rõ năng lực tư duy này. Ví như trongTám việc cần làm gấp (Tế cấp bát điều), bàn chuyện xây nhà ở kinh thành, phải xây gạch lợp ngói. Thì trong ý nghĩ của ông không chỉ là chuyện để có nhà ở mà còn là chuyện “phải xắp xếp lại phương hướng cho hợp với binh pháp. Như vậy mới có ích lợi lớn. Như các nước phương Tây dùng nhà cửa làm thành. Đường sá qua lại chằng chịt. Ở những chỗ quan yếu có pháo đài nhỏ. Quan dân nhờ đó dễ phòng thủ. Một khi có biến, dân chúng đều rút vào nhà hết. Có ai chạy lộn xộn ngoài đường thì đó là quan binh hoặc quân loạn nghịch mà thôi nên dễ kiểm soát tầm nã”.
- Có khả năng tư duy so sánh mà hiệu quả nhận thức từ đó dẫn đến hiệu quả hành động cao hơn là không có so sánh. Nhất là năng lực tư duy so sánh lại được dựa trên một tầm độ hiểu biết chuyện đời Đông Tây kim cổ, văn hoá Đông Tây kim cổ như Nguyễn Trường Tộ đã có thì đúng là đương thời khó ai sánh kịp, mà cả hậu thế, cũng không dễ ai hơn. Trong Tám việc cần làm gấp, Nguyễn Trường Tộ từng viết: “Đem nước ta so với thế giới mà xem mới thấy mình có nhiều thiếu sót… Nếu sau khi quan sát thế giới rồi chịu nghiên cứu cho sâu, học cho hết, sau đó nhìn lại nước mình mới thấy lời nói của tôi là thiết thực xác đáng”. Một ví dụ: Trong khi bàn việc “Sửa sang cương giới”, ông so sánh và thấy: “Bản đồ cương giới của Trung Quốc ngày nay rõ ràng hơn của ta gấp bội nhưng so với các nước phương Tây, Trung Quốc chỉ đáng một phần mười ”.
- Có khả năng tư duy triết học dù chưa phải là một triết gia. Năng lực tư duy triết học là năng lực tư duy cao sâu hơn tư duy xã hội học, tư duy cụ thể, thiển cận. Loại tư duy này cho phép vượt lên trên trình độ nhận thức hiện tượng để nhận thức về mối quan hệ giữa các hiện tượng vốn là phức tạp, trừu tượng, thậm chí là bí hiểm. Ở Nguyễn Trường Tộ, qua các di thảo của ông cho thấy, tư duy triết thể hiện ở hai trạng thái: kinh viện và thực tiễn. Kinh viện là những điều cao sâu ít nhiều đã có ở thư tịch, chủ yếu là của phương Đông, Trung Hoa cổ đại. Ví như khi “Bàn về những tình thế lớn trong thiên hạ (Thiên hạ đại thế luận), ông đã dựa vào triết lý về chữ Thế để mở đầu cho sự lập luận: “Trộm nghĩ việc trong thiên hạ chỉ có “Thế” mà thôi. Chỉ “Thế” là nói bao gồm cả thiên thời, nhân sự cho nên, người biết rõ “Thế” thì không trái trời, không mất thời, không hại người, không hỏng việc”. Hoặc như khi “Bàn về tự do tôn giáo ” (Giáo môn luận 29.3.1863) ông cũng bắt đầu từ ý tưởng “Trộm nghĩ rằng cái đức lớn của trời đất là sự sống. Sống là gì? Là làm cho muôn vật được bảo toàn thiên tính của nó. Vì vậy trên trời có sao sáng mây đẹp thì cũng có gió lớn mưa to, dưới đất có lúa tươi thóc tốt, thì cũng có cỏ xấu, sâu độc. Tuy tốt xấu khác nhau nhưng đều được sinh nở không cái nào bị hại. Như vậy, mới sáng tỏ cái đại toàn của trời đất. Chứ cái gì đẹp thì tô bồi, cái gì xấu thì dẹp bỏ, cái gi hay thì che chở, cái gì dở thì huỷ hoại thì không làm sao thấy được cái vĩ đại, cái kỳ diệu của tạo vật. Vì sao lại nói như vậy? Bởi vì nếu trên đời này, nếu có ngọt mà không có đắng, người ta sẽ không biết vị ngọt là đáng yêu, có ấm mà không có lạnh, người ta sẽ không biết được cái thích thú của sự ấm áp, có trắng mà không có đen, trắng không tự mình phơi bày cái đẹp được … Cho nên trời đất không vì tốt xấu mà phân biệt mưa sương, không vì văn minh dã man mà phân biệt sự che chở….”.
Đúng là Nguyễn Trường Tộ đã đụng vào quy luật đối trọng (Contre-poids) vốn là quy luật lớn nhất của sự sống. Còn triết lý thực tiễn ở Nguyễn Trường Tộ chính là những lẽ thường tình trong sự sống con người. Ví như: “Phải biết sống theo hoàn cảnh mới là người sáng suốt hiểu đúng đạo lý” (Tám việc cần làm gấp), “Thói đời giống với mình thì vui mừng, khác với mình thì chế diễu” (Về việc tổ chức cho sứ bộ đi Pháp), “Biết rõ uy thế của ta của họ để tuỳ cơ ứng dụng đường lối cứng rắn hay mềm dẻo” (Trả lời cái câu hỏi của triều đình) “Phàm việc đời không kể lớn nhỏ chưa có việc gì hoàn toàn tốt đẹp mười phần mà không hư hỏng chút nào, cũng chưa có việc gì hoàn toàn hư hỏng mười phần mà không có ích lợi chút nào” (Nói rõ thêm về văn bản ngày 16 tháng 2. Tự đức 21), “Thói thường người ta chỉ lo cứu hoạn mà không biết phải lo làm sao cho mối hoạ không sinh ra (Tiễu trừ giặc biển)”.“Ở đời nếu phải tai hoạ thì hãy chọn cái hoạ nhỏ.” “Ăn trộm thì không gì bằng ăn trộm nước” (Kế hoạch làm cho dân giàu nước mạnh).
*
* *
Với tư chất như trên, Nguyễn Trường Tộ trở thành nhà thiết kế vĩ đại của đất nước ở thế kỷ XIX. Nội dung thiết kế bao gồm không biết bao nhiêu là vấn đề, sự việc, bộ phận, chi tiết. Lịch sử tiếp cận, đánh giá, nghiên cứu Nguyễn Trường Tộ từ khởi thủy là các tác giả Đại Nam thực lục chính biên, tiếp đến là Phan Bội Châu trong Việt Nam quốc sử khảo, tiếp đến nữa là các vị Lê Thước, Nguyễn Trọng Thuật trên Nam phong tạp chí, Đào Đăng Vỹ trên La Patrie annamiteHải Vân trên Hà thành thời báo, Phan Trần Chúc trên tuần báo Tân Việt Nam, Sử Tử Bình,Lục Y Lang trên Tiếng Dân, Đào Duy Anhtrên báo Tri Tân, Bulletin des amis du vieux HuếTừ Ngọc với sáchNguyễn Trường Tộ (1941) và rất nhiều người nữa tiếp theo trong đó đáng chú ý nhất là Cao Xuân Huy với luận văn “Hệ thống tư tưởng triết học của Nguyễn Trường Tộ”(1960), Đặng Huy Vận – Chương Thân – với công trình “Nguyễn Trường Tộ và những đề nghị cải cách của ông” (1961), Trần Văn Giàu trong sách “Sự phát triển tư tưởng ở Việt Nam”(Từ thế kỷ XIX đến cách mạng tháng Tám) (1973), Trương Bá Cần với sách “Nguyễn Trường Tộ: con người và di thảo” (2002), Trung tâm nghiên cứu Hán Nôm thuộc Viện khoa học xã hội thành phố Hồ Chí Minh với kỷ yếu hội thảo khoa học có tên sách “Nguyễn Trường Tộ với vấn đề canh tân đất nước” (1992)… đã đề cập, đã giải mã không biết bao nhiêu điều về Nguyễn Trường Tộ. Hôm nay đến lượt tôi, người đi sau đã được học tập tiền nhân, liệu có thể nói gì thêm khi đã nổi lên trong đầu óc một ấn tượng bao quát về “Nguyễn Trường Tộ – nhà thiết kế vĩ đại của đất nước ở thế kỷ XIX” chứ không chỉ là nhà duy tân, nhà cải cách, nhà canh tân đất nước? Hy vọng rằng cách thay đổi mệnh danh này về Nguyễn Trường Tộ may gì cũng tạo được một cách nhìn toàn diện hơn nữa về Nguyễn Trường Tộ và từ đó cũng có thể làm rõ hơn nữa tầm vóc vĩ đại của ông. Tôi xin trình bày nội dung thiết kế của Nguyễn Trường Tộ dựa theo không chỉ một mục tiêu duy tân cải cách mà hai mục tiêu là:
- Tìm cách giành lại phần lãnh thổ đã mất cho đất nước.
- Duy tân để đưa đất nước lên cõi văn minh, phú cường.
A. Phần Một
Năm 1858, Pháp đánh Đà Nẵng. Năm 1859, Pháp bỏ Đà Nẵng vào đánh Gia Định. Năm 1862: Pháp chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam bộ. Năm 1867: Pháp chiếm nốt 3 tỉnh miền Tây Nam bộ. Trong khi Nguyễn Trường Tộ bắt đầu công việc điều trần tạm ghi là vào năm 1863. Nguyễn Trường Tộ mất ngày 10.10.1871, sau khi Nam bộ đã mất trọn 4 năm và ở Pháp có Công xã Paris xảy ra đầu năm 1871.
Pháp xâm lược đất nước. Đúng là Nguyễn Trường Tộ đã không đi theo con đường truyền thống mà các sĩ phu yêu nước thời đó đã đi là cùng nhân dân vùng lên anh dũng, võ trang chống Pháp, nghĩa là theo quy luật indépendant bằng lối đi độc đạo là bạo động. Nguyễn Trường Tộ, bằng trí tuệ riêng, bằngcách tính toán riêng đã chủ trương đi theo con đường khác mà dân tộc chưa quen đi là theo quy luật interdépendant (phụ thuộc lẫn nhau), chủ trương trước mắt tạm “hoà” mà không “chiến”. Vấn đề “hoà” hay “chiến” là vấn đề lớn nhất của lịch sử lúc này. Trong thực tế, đã diễn ra tình trạng ở những người có trách nhiệm cầm đầu vận nước đương thời trong đó có phái chủ chiến, có phái chủ hoà, kể cả tình trạng lúng túng, hoà không ra hoà, chiến không ra chiến. Hoà cũng lắm kiểu: hoà do yếu đuối, bạc nhược, sợ địch. Hoà do có sự tính toán thiệt hơn về trước mắt và lâu dài. Nguyễn Trường Tộ cũng hoà nhưng rõ ràng là ông có sự tính toán đa dạng, đa diện, đa mưu, đa kế hơn những người chủ hoà khác. Mặc dù, với chủ trương hoà này, đương thời ông phải chịu không ít sự hiềm nghi, kể cả đến hôm nay, với hầu hết người Việt Nam có suy nghĩ thấu đáo thì sự hiềm nghi đã được rũ bỏ, chỉ còn lại sự tôn vinh nồng nhiệt. Nhưng một vài người Việt sống ở nước ngoài, không hiểu vì lẽ gì, không những không rũ bỏ mà phần nào còn cường điệu sự hoài nghi ở mức xúc phạm đến con người kiệt xuất này. Mong rằng các vị đó sẽ có lúc hồi tâm tìm hiểu lại một cách kỹ càng để tự điều chỉnh mình cho phù hợp với đà chung của học giới. Trở lại với Nguyễn Trường Tộ mà thấy thương cho ông ngày đó. Ông tâm huyết với đất nước lớn lao là thế mà đã phải gánh chịu bao sự eo xèo, hiềm nghi để phải nhiều lần thanh minh, phải như tự kêu lên rằng: Tôi không phải là tay sai cho ngoại bang. Tôi chỉ là người đang tìm một con đường cứu nước theo kiểu khác mà tôi thấy nó mới thật sự có hiệu quả. Hãy đọc lại một vài đoạn trong bài Trần tình của ông:
Tôi bé không được dạy bảo, lớn lên lưu lạc nhiều nơi, những hoài bão và việc làm của tôi có chỗ khác hơn người (NĐC nhấn mạnh)…
“Từ bé tôi đã thận trọng trong việc giao du, thích yên tĩnh, đối với tất cả những sự cầu danh, lấn lướt giành công, tham lợi tôi đều coi như mây bay, nước chảy. Vả lại, tôi cũng không ham thích kinh doanh, không thích chuyện vợ con, đoạn tuyệt với hai cạm bẫy tài sắc. Người ta ở đời sở dĩ không được thanh thản tự do mà phải chìm đắm trong lưới trần tục, lại theo phường phản nghịch, đều do hai cạm bẫy này mà ra cả. Tôi thoát khỏi vòng đó, cho nên việc làm của tôi có khác người….”(NĐC nhấn mạnh)
“… Đến lúc lớn lên tôi chu du các nước, những điều mắt thấy tai nghe góp lại thành một sự ích dụng lớn. Về việc học không môn nào tôi không để ý tới: cái cao của thiên văn, cái sâu của địa lý, cái phiền toái của nhân sự, cho đến luật lịch, binh quyền, tạp giáo, dị nghệ, các môn cách trí, thuật số, không môn nào tôi không khảo cứu, nhất là để ý nghiên cứu về sự thế dọc ngang, tan hợp trong thiên hạ. Thường những người học được như vậy hay dùng đó làm phương tiện cầu vinh, để tiến thân, còn tôi dùng để đền đáp lại cái mà trời cho tôi học được, chứ không mong kiếm chác một đồng tiền nào”… “… Kíp đến lúc người Pháp gây hấn với ta, tôi đã cực lực chối từ lời mời của họ. Nhưng sau nghĩ lại tình thế nước ta hiện nay tạm hoà là thượng sách. Vì chưa đủ sức chống chọi được với họ, cho nên, phải uốn nắn mà theo họ. Như thế may ra góp được một phần nhỏ đối với việc hoà. Nỗi khổ tâm của tôi phải uyển chuyển để được chu toàn thật không bút nào tả được. Tôi đã dự định trong lòng từ lâu, nếu như việc đó được thành công thì tôi lại bay bổng cao xa ngao du khắp bốn bể… ” “…. Nếu quả tôi có lòng phản bội Tổ quốc thì sao tôi lại có thể cẩn thận suy nghĩ, bí mật lo liệu được như vậy?...” “… Mặt trời cho dẫu không soi đến. Hướng dương xin vẫn nếp hoa quỳ”. Trong di thảo “Tâm sự với Trần Tiến Thành” (19.3.1866) ông cũng viết: “… Tôi đang ở trong hoàn cảnh bị hiềm khích, chưa chắc ai đã tin ngay lời tôi nói nên phải kiên nhẫn đợi chờ, không dám đuổi theo tài lợi, đành cam chịu cuộc sống nghèo khó đạm bạc, để cốt chứng minh cho lời nói của tôi là không vì một cái gì, không mong được một cái gì, không bị ai sai khiến, không có một ý đồ gì khác mà thật vượt ra ngoài lẽ thường tình. Theo lẽ thường mà nói thì những việc làm của tôi như vậy, thật là khó hiểu, bấy lâu nay tôi không gánh vác việc gia đình, không thiết tha tài lợi, cả Tây Nam cũng đều thấy, như thế cốt để gạn lọc ý chí, đào luyện tính tình mà bảo dưỡng việc học tập của mình. Tất cả những điều đó vốn là để mong đợi thời hành sự để mong làm được một vài điều lòng hằng ôm ấp, để trọn ơn trên, để tròn thế sự. Chứ đâu phải cam chịu chôn mình trong cảnh tối tăm tịch mịch ? Trung và hiếu vốn là hai điều khó giữ vẹn. Nhưng chỉ nói suông không ngồi vào, không dự vào chỉ biết thân mình, nhà mình, theo thường tình thì việc an nguy của quốc gia thì coi như chuyện của nước Sở nước Việt, không hết lòng báo đáp ơn nước nhà, một mai bốn phương xảy ra nhiều việc thì thân thích của mình cũng sẽ cùng số phận với việc mất còn của đất nước. Trung không thành thì hiếu cũng chưa chắc giữ được…
Rõ ràng là Nguyễn Trường Tộ đã phải chịu sự hiềm nghi nặng nề trong khi bằng trí tuệ riêng của mình mà chủ trương tạm hoà (chứ không phải hoà) với Pháp. Thật là đáng quý dù bị hiềm nghi nặng nề mấy, ông vẫn kiên tâm theo đuổi đường lối vừa riêng, vừa mới của mình trong đó có chủ đích là giành lại phần lãnh thổ của đất nước đã bị mất cho thực dân Pháp. Ông cũng ghét thực dân Pháp như ai là người Việt Nam yêu nước đương thời. Ông theo dõi rất sát sao và mật báo cho triều đình biết âm mưu của thực dân Pháp: “Hiện nay ba tỉnh ngoài họ đã không trả, ba tỉnh trong lại lăm le muốn lấy, rồi tương lai sẽ gây biến động gì nữa, cứ suy việc trước ắt biết” (Kế hoạch làm cho dân giàu nước mạnh 18.7.1864Những sự tình trong lời xin của họ tôi đã nói rõ trong tờ bẩm trước. Nếu việc xin của họ gặp khó khăn, trở ngại, họ cũng không cưỡng ép mà cứ dần dần thi hành cái âm mưu quỷ quyệt để mưu chiếm lấy hết… Hiện nay họ đã sai người đi theo Tiền Giang dọc thẳng các đường đến tận Vân Nam. Những nước nhỏ ở phía Tây ven sông thuộc Xiêm La thường bị họ dùng kế ly gián để dễ bề sai khiến. Họ còn lên tiếng xin nước ta cho họ sai người dọc theo đường núi từ Bình Thuận ra Bắc đến Tuyên Quang để dò đường trước rồi sẽ sai binh thuyền dọc theo ven biển từ Bình Thuận đến Quảng Yên qua cái cảng khẩu và mặt biển để dò nông sâu, vẽ vào bản đồ. Sở dĩ họ cần làm như thế là không những chỉ mưu lợi mà còn dụng ý rất thâm, tôi đã mật báo rồi, nay không dám nói rõ nữa” (Kế hoạch khai thác tài nguyên đất nước 15.2 – 17.3.1866), “Nay xem triều đình của họ đã có mật nghị, muốn lấy trọn sáu tỉnh hợp với Cao Miên để làm cửa ngõ lấy vùng đất hai bên sông Cửu Long dọc lên tận Vân Nam…” (tài liệu vừa dẫn). Trong “Tám việc cần làm gấp”, Nguyễn Trường Tộ đã nhắc lại âm mưu của Pháp gồm 5 kế độc là: “1) Giúp bọn làm loạn chia cắt đất nước. 2) Giả hoà rồi đánh ta bất thình lình. 3) Lập ngôi soán vị rồi chuyên quyền. 4) Mượn đường diệt giặc. 5) Lấy êm bằng cách hối lộ”. Nhận rõ âm mưu của kẻ thù, với nhiệt tâm cứu nước theo đường lối riêng của mình, có lúc ông đã cật vấn triều đình Huế: “... Binh chưa mạnh sao không chăm lo võ bị cho mạnh… Kẻ địch bên ngoài sắp muốn nô dịch dân ta, cướp bóc của cải của ta, tại sao không hỏi han nhắc nhở nhau tìm mưu lập kế để ngăn ngừa? … Tại sao không đem tâm lực ra mà lo những việc cần kíp trước mắt, lại đem dùng vào những chuyện xa xôi, không thiết thực ? Tôi sợ kẻ địch xung quanh đang bức bách ta ngày kia sẽ đem giáo hoá luật lệ của chúng đến sai khiến chúng ta. Chừng đó ăn năn sao kịp” (Tám việc cần làm gấp 15.11.1867). Nguyễn Trường Tộ đã bày mưu định kế để tiến tới chỗ tống khứ thực dân Pháp ra khỏi Nam bộ, giành lại lãnh thổ trọn vẹn của đất nước. Trong kế sách của ông, có đủ biện pháp, có đủ chiến thuật khá là hiện đại mà nói chung là dùng trí hơn là dùng lực. Cụ thể, có mấy điểm nổi bật như sau:
- Dùng Anh để kìm Pháp: phải nói đây là một kế sách rất cao tay. Bởi ông biết rõ mối quan hệ Anh – Pháp trong lịch sử và đương thời vốn chẳng hay ho gì, vốn có sự hiềm khích nhau. Trong Kế hoạch duy trì hoà ứơc mới” (18 – 24 tháng 3 - 1864), ông từng viết: “Nếu muốn mưu tính việc thiên hạ, khiến những bọn ghét nhau tự xâu xé lẫn nhau để ta được nhân đó mà hưởng lợi”… “Tôi xét thấy sự thế hiện nay chỉ có người Anh có thể cộng tác được với ta. Vì Anh và Pháp có mối thù truyền kiếp. Nay người bác của vua Pháp bị người Anh đày ở ngoài một đảo xa xôi, người Pháp lấy làm xấu hổ. Người Anh mất Hợp chủng quốc do Pháp hất cảng; người Pháp sở dĩ tạm thời hợp tác với người Anh vì người Anh giỏi về đường biển. Nay nếu có đánh nhau thì người Pháp chỉ giỏi về đường bộ, không thể biến hoá được. Vả lại, người Anh đã chủ được tình thế phương Đông hơn gấp 10 Pháp. Cho nên Pháp phải miễn cưỡng hoà thuân với Anh. Nhưng tính người Pháp hay kiêu điệu, lại hay dèm pha, nên càng dễ ly gián. Người Anh tuy được nhiều nơi nhưng chưa chỗ nào hiểm trở bằng Gia Định. Nay nếu Pháp lấy được Gia Định thì sẽ bất lợi cho mình. Nên có cơ hội thuận tiện, lẽ nào người Anh bỏ qua. Nay nếu ta tỏ ý cần mượn người Anh thì cũng dễ nói:” Việc ly gián Anh – Pháp còn được Nguyễn Trường Tộ nói lại nhiều lần trong nhiều văn bản khác, và trong khi bàn chuyện này, Nguyễn Trường Tộ cũng đã nghĩ đến cái nạn “đuổi hùm cửa trước, rước sói cửa sau” (lời của Nguyễn Trường Tộ). Và ông có cách biện giải, tựa như trong chuyện đánh cờ tướng vậy, gặp nước cờ này thì đi nước cờ khác, gặp tình thế nào sẽ tìm cách giải quyết tình thế ấy theo binh pháp “tương kế tựu kế” rất biến hoá. Nguyễn Trường Tộ còn chủ trương lợi dụng mâu thuẫn giữa Pháp với các nước khác mà Napoléon đã gây ra là YphaNho, Áo Đại Lợi, Nga La Tư, Ý Đại Lợi, Hà Lan…. và mở rộng quan hệ với nước ngoài nói chung nhằm tạo thế đứng cho đất nước trên trường quốc tế để từ đó tranh thủ mọi sự ủng hộ, khai thác nhiều quan hệ lợi cho đất nước hơn ở tình trạng chỉ bó hẹp lại trong quan hệ giữa ta với Pháp mà đã bị Pháp bắt nạt, kìm chế.
- Vừa khoét sâu vào mâu thuẫn của nội bộ thực dân Pháp, vừa tranh thủ sự ủng hộ của người Pháp. Nguyễn Trường Tộ nắm khá rõ mối quan hệ giữa Tây soái ở Gia Định và Chính phủ Pháp trong đó có chuyện dối trá của Tây soái trong các báo cáo về tình hình ở Việt Nam. Do đó ông tìm cách gây bất lợi cho Tây soái trước Tây triều. Bấy giờ có Aubaret (Hà Bá Lý) là một sĩ quan của Pháp sang xâm lược Việt Nam nhưng là một người có học, từng tiếp kiến Nguyễn Đình Chiển và dịch Lục Vân Tiên ra tiếng Pháp, từng khuyên triều đình Pháp trả lại ba tỉnh Đông Nam bộ cho ta, lại có thâm thù với Tây soái, nên Nguyễn Trường Tộ dặn “sứ bộ đi Tây ngầm tìm được ông ta, dùng lời nói khôn khéo và cầu kế với ông cũng được”. (Nói rõ thêm về văn bản ngày 16 . 2 Tự Đức 21).
- Vạch kế hoạch thu hồi 6 tỉnh một khi có thời cơ. Thật là kinh ngạc về khả năng dự báo của Nguyễn Trường Tộ. Ngay từ năm 1864 mà ông đã dự báo “Nước Pháp vài năm sau tất sẽ có nội loạn” (Kế hoạch duy trì hoà ước mới(18 – 24 tháng 3 năm 1864). Quả đúng như thế. Ba năm sau, năm 1871, cuộc cách mạng đầu tiên của công nhân và nông dân Pháp nổ ra và nhất thời thắng lợi (18 -3). Chính phủ Chie (Adolpie Thiers) bỏ chạy về Vecxay (Versailles), nhân dân Paris tiến hành bầu cử theo chế độ phổ thông đầu phiếu, lập Hội đồng công xã (28.3). Nguyễn Trường Tộ với nhận thức, “đại phàm việc thiên hạ, để thời cơ trôi qua mà hối tiếc, với thời cơ chưa đến mà cưỡng làm, đều sai lầm như nhau cả. Cho nên người khôn tuỳ thời mà giải quyết công việc, tuỳ việc mà ra mưu, gặp thời làm được thì gấp rút ra tay, không bỏ qua cơ hội”. Lúc này là lúc có cơ hội. Nguyễn Trường Tộ vạch “Kế hoạch thu hồi sáu tỉnh” (1.2.1871), trước cả ngày công xã Paris thành công. Ông nói rõ: “Hiện nay người Pháp đang gặp vận hội thay đổi lớn. Chính là lúc ta nên gấp rút đặt kế hoạch. Năm trước tôi đã nói “kỳ hạn khôi phục trong mười năm” là cũng đã liệu trước sẽ có cơ hội này, chứ không phải nói quàng, nói hão. Những lời trình bày của tôi trong những năm gần đây, tất cả đều quy vào việc tạm hoà để nghỉ sức, canh tân để mạnh thế của ta, cầu viện để giúp thêm cho ta. Còn dùng binh lực để quyết liệt một phen thì chưa nói đến. Vì muốn khôi phục lại được tất phải đổi mới tiến lên và giao thiệp rộng. Có hai cái ấy làm cơ sở, binh lực mới từ đó mà ra. Nhưng làm hai điều này phải khá lâu chớ không phải kể năm kể tháng mà được. Nếu không lo làm nhanh, đã muộn lại muộn thêm, khi thời cơ đến mà phương tiện chưa đủ hoá chẳng đáng tiếc lắm ru?”.
Trong kế hoạch này, trước hết Nguyễn Trường Tộ chỉ ra những thuận lợi liên quan đến thời cơ và nêu lên nhiều biện pháp cụ thể để tuỳ cơ mà áp dụng như:
1. Cử một đại thần vào gặp Tây soái ở Gia Định khuyên dồn quân về một nơi còn lại các nơi khác trả lại cho ta hết.
2. Sai người đi khắp sáu tỉnh , xúi dân đâu đâu cũng dự bị làm loạn và tung tin khắp nơi khiến cho y (Tây soái) biết được việc ấy.
3. Sai người đi Hương cảng bảo các khách buôn giàu, hứa ngày sau sẽ cho buôn bán ở một hai cửa biển lớn và cho bán nha phiến cả nước mà không đánh thuế, nhưng trước hết xin họ xuất tiền cho mua một số đại pháo, nhờ thuê cho một số người Anh lưu vong, xây một số pháo đài theo kiểu Tây ở cửa Thuận An, Nghệ An, Đà Nẵng, sông Gianh…
4. Từ Nghệ An trở vào Nam, giả vờ thôi thúc quân lính, ban rõ hiệu lệnh phao tin khắp mọi nơi nổi lên đánh giặc.
5. Sai người đi Cao Miên tìm Cầm Bô lấy lời khôn khéo xui sử y trên ấy nổi dậy trước, dưới này ta sẽ đánh thúc lên…
6. Làm công tác binh vận kêu gọi những người Việt được Pháp huấn luyện làm lính tập, mã tà… hãy là người còn có lòng người, còn nhớ đến Tổ quốc, tất cả đâu đó sẵn sàng.
7. Kêu gọi Hoa Kiều từng là khách nhưng ở nước Nam đã lâu, bị Tây ức hiếp, nhân lúc này hãy ngầm tiếp tay với người Nam để có lợi về sau.
8. Tranh thủ tầng lớp quan lại từng làm quan cho Pháp bằng cách tỏ lời thông cảm với hoàn cảnh vạn bất dĩ của họ, chỉ cho họ thấy lợi hại trước tình hình mới.
9. Dùng thủ thuật gây nghi ngờ lẫn nhau trong nội bộ người Pháp và cả những người cộng tác với Pháp, tìm cách kéo họ về phía mình.
10. Mật sai các đại gia thế tục trong 6 tỉnh Nam bộ họp nhau làm tờ thương nguyện gửi lên quan Tây sở tại, tung tin triều đình Việt Nam sắp hành động, gây sức ép để Pháp phải làm theo ý ta.
Kế hoạch thu hồi 6 tỉnh Nam bộ của Nguyễn Trường Tộ còn có nhiều điều khác nữa. Ở đây không thể nói hết. Nhưng điều này thì không thể không nói. Đó là “kế hoạch đánh úp Gia Định”. Trên cơ sở theo dõi sát sao, hiểu biết khá tường tận tình hình nước Pháp vào đầu năm 1871, với ý thức tranh thủ, chớp thời cơ, chỉ sau 8 ngày dâng “kế hoạch thu hồi sán tỉnh” (1.2.1871), Nguyễn Trường Tộ dâng tiếp điều trần “Bổ túc kế hoạch đánh úp Gia Định” (9.2.1871). Nội dung gồm 2 bước:
- Bước 1: là gấp rút cử phái bộ đi Pháp để tìm mọi cách tranh thủ sự ủng hộ của các nước từng ít nhiều có mặt này mặt khác, mẫu thuẫn với Pháp, nhân dịp này đứng về phía Việt Nam. Đó là các nước Y Pha Nho, Anh, Thổ. Tìm cách tranh thủ Giáo hoàng La Mã để Giáo hoàng ra lệnh rút các giáo sĩ người Pháp ở Việt Nam về nước, nhường chỗ cho các giáo sĩ người YPhaNho – Gặp gỡ, thuyết phục, lung lạc tâm lý giới cầm quyền nước Pháp trong hoàn cảnh đang bị rối loạn trả lại 6 tỉnh Nam bộ cho Việt Nam. Mặt khác, cũng không quên tìm cách lung lạc tâm lý của Tây soái ở Gia Định.
- Bước 2: Nếu bước 1 đã thành công thì không cần bước 2, nhưng không thành công thì bước 2 sẽ là như sau: Nguyễn Trường Tộ đóng vai trò trá hình, làm phản gián bằng cách giả xin bổ ông một chức quan trong triều nhưng lại ăn nói phạm thượng để bị cách chức. Từ đó, ông sẽ đóng vai trò của một người chiêu hồi với Tây soái. Và với vai trò chiêu hồi giả này, ông làm việc cho Tây nhưng thực tế là để đi khắp Lục tỉnh tìm cách móc nối với các tầng lớp nhân dân, chuẩn bị nhiều thứ trong đó có cả chuẩn bị vũ khí, luyện tập binh sự, chờ đợi thời cơ. Ngoài ra còn ra Bắc móc nối với những người từng có dã tâm muốn vào làm việc với Tây soái, lừa Tây soái cấp giấy tiếp nhận họ nhưng lại bí mật gửi cho triều đình biết loại người này. Riêng với một số người trong bọn này đã vào Gia Định, thì cuối cùng lại biến họ thành người có công với đất nước trong việc đánh úp Gia Định. Mặt khác, bố trí người tìm cách lung lạc tâm lý Tây soái, xúi nó rút quan võ về nước, thay bằng quan văn. Mọi việc chuẩn bị như thế là không thể nóng vội mà hỏng việc phải trong khoảng 2 năm. Cuối cùng việc chuẩn bị hoàn thành thì chuyển sang kế hoạch đánh úp, trước hết bằng cách nhân đêm khởi sự: phá đê ngăn nước để “Các thuyền Tây ở mặt dưới không kể lớn nhỏ đều bị chìm hoặc vùi xuống dưới bùn, hoặc trôi xuống ngã ba mà tan rã hết ”.Trong khi đó hô hào quần chúng nổi dậy. Theo ông là: “Phải nuốt giận mà vào, thừa lúc họ đang buông lỏng không phòng bị mới có thể đuổi giết họ được.
Quả thật chỉ qua hai bản điều trần về việc thu hồi 6 tỉnh, đánh úp Gia Định cũng đủ thấy Nguyễn Trường Tộ là một nhà cứu quốc, một nhà chiến lược chiến thuật, một nhà tâm lý chiến, đại tâm, đại trí, đại tài. Xin hãy đọc thêm mấy dòng cuối của điều trần “Bố trí kế hoạch đánh úp Gia Định” để rõ thêm ông là người thế nào:
Tôi lại có tâm sự xin trần tình một lời lên rằng: Nếu được triều đình tin dùng thì trên đội đức Hoàng đế, uy quyền triều đình, giữa nhờ các quan tổng binh, chỉ vẽ phương lược, dưới nhờ tướng sĩ đồng lòng, may mà quét sạch quân thù, khi trở về, tôi xin từ chức về vườn ngay để phụng dưỡng mẹ già mà thôi. Khi nào triều đình có việc cần đến, tôi lại vâng mệnh, việc xong lại xin về như trước, còn tước lộc quyết không dám nhận”.
B. Phần Hai
Là phần thiết kế duy tân đất nước cũng không chỉ với một mục tiêu mà hai mục tiêu có quan hệ tương hộ: duy tân để giành độc lập. Duy tân để đưa đất nước lên cõi văn minh, phú cường. Nội dung thiết kế phần hai này là vô cùng phong phú. Có dịp đối sánh với những gì mà thế hệ sau ông, các nhà Duy Tân, các nhà Đông Kinh nghĩa thục đầu thế kỷ XX từng đề cập tới, mới thấy hết tầm vóc phong phú, bề thế của Nguyễn Trường Tộ, nhất là ở phương diện của một cá nhân trong khi sau đó là của phong trào gồm nhiều cá nhân. Đọc lại di thảo của Nguyễn Trường Tộ và những công trình nghiên cứu về ông đã có, sẽ thấy rõ điều đó. Ở đây chỉ xin điểm lại những nét chính như sau:
1- Vấn đề chính thể xã hội
Chính thể xã hội vừa là cơ sở tồn tại vừa là mục tiêu hướng tới của mọi phương diện hoạt động trong cuộc sống của một quốc gia, kể cả một khi có công cuộc duy tân. Sau Nguyễn Trường Tộ, với các nhà Duy Tân, Đông Kinh nghĩa thục ở đầu thế kỷ XX thì công cuộc duy tân đã dược tiến hành với khát vọng xây dựng một xã hội dân chủ tư sản. Trong khi với Nguyễn Trường Tộ trước đó thì vẫn duy trì chế độ phong kiến. Bản điều trần “Ngôi vua là quí, chức quan là trọng” (cuối tháng 5.1866) thể hiện rõ điều đó. Tuy nhiên phải thấy mô hình chế độ phong kiến mà Nguyễn Trường Tộ nhe nhắm lại có những nét riêng so với chế độ phong kiến đương thời của nhà Nguyễn như sau:
- Đã thấy rõ những mặt trái; những xấu xa của chế độ phong kiến đương thời. Sau này có người mệnh danh ông là “Nhà phê bình xã hội đầu tiên ở nước ta”, chính là từ đó. Xin dẫn ra đây một vài lời của ông để biết cái cảm hứng phê bình ở ông là thế nào?
“Hiện nay tình hình trong nước rối loạn. Trời thì sinh tai biến để cảnh cáo, đất thì hạn hán tai ương, tiền của sức lực của nhân dân đã kiệt quệ, việc cung ứng cho quân binh đã mệt mỏi. Trong triều đình quần thần chỉ làm trò hề cho vui lòng vua, che đậy những việc hư hỏng trong nước, ngăn chặn các bậc hiền tài, chia đảng lập phái khuynh loát nhau, những việc như vậy cũng đã nhiều. Ngoài các tỉnh thì quan tham lại nhũng xưng hùng xưng bá tác phúc tác oai, áp bức tàn nhẫn kẻ cô thế, bòn rút mỡ dân, đục khoét tuỷ nước, việc đó đã xảy ra lâu rồi… đối ngoại thì không có cách nào để động đến một mảy may lông của quân Pháp, cũng chẳng thuyết phục được ai để giải vây cho, lại đi tàn sát nhân dân mình, giận cá chém thớt. Khiến cho dân bị cái hại “cháy nhà vạ lây” Thật đúng như câu nói “đào ao đuổi cá”, “nối giáo cho giặc”.
- Chế độ phong kiến mà Nguyễn Trường Tộ muốn có là một chế độ phong kiến hoà mục. Có thể nói đây là chỗ Nguyễn Trường Tộ còn chịu ảnh hưởng của Nho giáo, của Khổng nho vốn có thuyết “trung dung” mà sau này bị các học giả Mác xít cho là phản động, là “điều hoà mâu thuẫn giai cấp” là thủ tiêu đấu tranh giai cấp để duy trì chế độ người bóc lột người. Nhưng gần đây thì khác. Trên đất nước Trung Hoa xã hội chủ nghĩa, người đứng đầu Đảng cộng sản Trung Hoa lại kêu gọi bỏ chữ “đấu” mà theo chữ “Hoà”. Với Nguyễn Trường Tộ, đúng là muốn có một chế độ phong kiến dựa trên chữ Hoà. Trong bản điều trần “Ngôi vua là quí, chức quan là trọng”, ông từng viết:
“….mọi quyền lợi hành vi trong một nước phải do vua nắm và cùng với quốc dân chia sẻ nỗi vui buồn. Ngoài qui luật này ra đều là tội cả”.
“…Đó là điều mà sách kinh đời xưa đã ghi chép như vậy, các bậc hiền triết đã làm như vậy, những người khai sáng đã tạo lập qui mô như vậy. Phong tục đã kết thành như vậy, các nước đã noi theo một trật tự như vậy mà một mai có người muốn lập lại một cái gì khác, thật cũng khó có thể làm được. Cho nên làm vua biết rõ cái thế trường cửu đã có, không có bụng nghi ngờ bề tôi ở dưới, kẻ làm dân biết rõ cái thế lợi hại của việc trị việc loạn nên không có chí phạm thượng. Trên dưới tự mình không nghi ngờ lẫn nhau. Mọi việc đều có sự phó thác rõ ràng người nhận lãnh vui lòng, không có điều gì tối tăm, lo lắng, cho nên dễ đi đến chỗ đúng đắn, dễ cởi mở, dễ phân giải, tất cả đều do thật lòng tin tưởng nhau…”
Khi đưa ra những ý kiến như trên, Nguyễn Trường Tộ không chỉ dựa vào kinh điển nho gia xưa mà còn có sự quan sát, suy tính từ chế độ xã hội ở những nước như Nhật Bản, Thổ Nhĩ Kỳ và nhiều nước khác ở phương Tây. Chính ông đã nói thế.
- Tuy vẫn theo chế độ phong kiến nhưng lại rất đề cao pháp luật. Có thể nói chế độ phong kiến mà Nguyễn Trường Tộ chủ trương là chế độ phong kiến pháp quyền, chứ không là độc quyền. Trong điều trần “Tám việc cần làm gấp”, ông đã đề nghị mở khoa luật với ý tưởng. “Bất luận quan hay dân, mọi người đều phải học luật và những luật mới bổ sung từ Gia Long đến nay. Ai giỏi luật sẽ được làm quan. Vì luật bao gồm cả kỷ cương, uy quyền, chính lệnh của quốc gia…. Quan dùng luật để trị, dân theo luật mà giữ gìn. Bất cứ một hình phạt nào trong nước đều không vượt ra ngoài luật. Bởi ở các nước Phương Tây, phàm những ai đã nhập ngạch bộ Hình xử đoán các vụ kiện tụng thì chỉ có thăng trật chứ không bao bị biếm truất. Dù vua, triều đình cũng không giáng chức họ được một bậc. Như vậy là để giúp cho các vị này được thong dong trong việc chấp hành luật pháp không bị một bỏ cuộc nào. Phàm những tội ngũ hình đều do các vị này xử. Vua cũng không được đoán phạt một người nào theo ý mình mà không có chữ ký của các quan trong bộ ấy”.
Có thể có người cho rằng Nguyễn Trường Tộ đã có hạn chế trong chủ trương “Ngôi vua là quí chức quan là trọng”. Với cách nghĩ thông thường thì đúng thế là hạn chế. Nhưng quan sát lịch sử nhân loại xưa và nay cho thật thấu đáo để nghĩ thì chuyện cũng không phải là đơn giản khi nói đến hạn chế này của Nguyễn Trường Tộ.
2. Nội dung duy tân, cải cách
Trong hệ thống điều trần của Nguyễn Trường Tộ, hai văn bản trực tiếp có nội dung duy tân, cải cách tập trung nhất là: Bản kế hoạch làm cho dân giàu nước mạnh khoảng 20 – 6 đến 18 – 7 năm 1864 và bản “Tám việc cần làm gấp” (15.11.1867)
Trong “Kế hoạch làm cho dân giàu nước mạnh”, Nguyễn Trường Tộ đã từ việc tổng kết lại tình hình lịch sử Đông Tây, Đông văn minh trước, Tây văn minh sau, nhưng Tây khôn ngoan vượt lên trên Đông theo quy luật vừa cạnh tranh, vừa học tập, lợi dụng nhau trong sự sống; từ việc nhìn lại lịch sử đất nước hiện đang bị cản trở bởi những người “Cứ viện xưa chống nay nói quấy qúa làm rối loạn việc chính trị, đàm luận xì xào để chia bè lập đảng mà bài bảng triều đình. Họ có biết đâu thời thế đổi thay, có những cái của đời xưa không áp dụng cho đời nay được” Ông để xuất những điều cấp thiết. “Đó là …. các phương pháp làm hạt nổ và đúc súng, đúc kim loại cùng các môn quang học, cơ học, hoá học, khai mỏ than”. Cách đề xuất của Nguyễn Trường Tộ chính là cách xây dựng phát triển cơ sở khoa học kỹ thuật tạo nền tảng cho sự phát triển kinh tế, làm giàu đất nước. Đúng là rất hiện đại như ngày nay đất nước đã và đang làm. Cũng từ cách đặt vấn đề một cách hiện đại như thế, ông cho việc làm giàu trước mắt gồm các điều khoản:
Một là khai thác nguồn lợi về biển
Hai là khai thác nguồn lợi về rừng
Ba là khai thác nguồn lợi về đất đai
Bốn là khai thác nguồn lợi về mỏ.
Ở mỗi điểm được nêu lên, ông đều có cách biện giải đến nơi đến chốn dựa trên sự hiểu biết về chuyên môn, về tình hình thế giới và đặc biệt là có tư tưởng lớn. Ví như ở đây, bàn đến chuyện làm giàu, ông đã phản bác lại quan điểm nho gia đang ngự trị lớp người hủ nho trong quan niệm “an bần lạc đạo” (an tâm trước cảnh nghèo để vui với đạo), Phi thương bất phú, vi phú bất nhân” (không buôn bán thì không giàu. Nhưng đã làm giàu thì không đạo đức). Ông nói: “Về tài lợi nếu như biết khéo thu nhập thì được nhiều mà không ai oán trách thu nhập ấy, đó là nền tảng của nhân nghĩa” (NĐC nhấn mạnh). Nguyễn Trường Tộ chủ trương làm giàu để có lợi cho dân. Ông nói: “Cái tôi gọi là làm cho có nhiều của ở đây không có nghĩa là nói bòn rút của dân để làm cho nước giàu, mà là nhân nguồn lợi tự nhiên của trời đất để sinh ra của cải. Do đó mà nước giàu mà dân cũng giàu”. “Nay nói về việc nước, khi đã có đủ của cải rồi thì lệnh trưng thu của cải trong dân chúng để cung ứng cho việc nước sẽ ngày càng giảm bớt mà sự nghiệp củng cố cho nước mạnh sẽ ngày càng tăng”. Ông vạch ra cho mọi người thấy “Có nhiều lối làm giàu, nếu đem ra thực hành trăm năm cũng chưa hết”. Trong “Tám việc cần làm gấp” để canh tân đất nước, ông nêu lên gồm:
Điều thứ nhất: xin gấp rút sửa đổi việc võ bị
Điều thứ hai: xin hợp tỉnh để giảm bớt số quan lại và khoá sinh
Điều thứ ba: xin gây tài chính bằng cách đánh thuế xa xỉ
Điều thứ tư: xin sửa đổi học thuật, chú trọng thực dụng
Điều thứ năm: điều chỉnh thuế ruộng đất
Điều thứ sáu: sửa đổi lại cương giới
Điều thứ bảy: nắm rõ dân số
Điều thứ tám: Lập viện dục anh và trại tế bần
Mỗi điều cũng lại là một nội dung vừa phong phú vừa đích đáng. Trong đó vẫn có phần xác lập quan điểm, nhận thức làm nền cho các biện pháp cụ thể. Ví như trong điều thứ tư “xin sửa đổi học thuật, chú trọng thực dụng” thì bắt đầu là việc giới thuyết “học là gì”, tiếp đến là nhận định, phê phán tình hình học thuật đương thời là “từ trẻ đến già, từ trường công đến trường tư đua nhau trau chuốt từng câu hay từng chữ kheó sao mà tệ mạt đến thế. Nếu đem cái công phu đã bỏ tâm trí một đời ra trau chuốt chữ nghĩa mà học những việc hiện tại như trận đồ binh pháp, đắp thành giữ nước, sử dụng súng ống thì cũng có thể chống được giặc, Nếu đem cái công lao nửa đời người đã dùng để học thuộc lòng những tên người tên xứ, rập khuôn việc chính trị, nhắc lại những cặn bã, xa xưa của Ngu, Hạ, Thương, Chu, Hán, Đường, Tống Nguyên mà học những việc hiện tại như binh, hình, luật lệ, tài chính, thương mại xây dựng canh nông, dệt và những cái mới khác thì dần dần cũng có thể làm cho nước mạnh dân giàu. Tại sao đến nay vẫn chưa nghe dân chúng khuyên nhau học những cái thực dụng ấy, mà chỉ ưa chuyện kỳ dị xa xưa, bàn bạc những chuyện từ họ Hy Hoàng, còn việc nước, dân tình được mất đều phó mặc cho triều đình. Vậy phải chăng họ tự xem họ như con nít? Không phải lỗi ở họ mà chính ở học thuyết… Nói về học thuyết mà không có đường lối sáng suốt rõ ràng, một phần do ở sách vở và một phần tại triều đình. Tuy nhiên tôi chưa dám nói rõ, sợ có điều quan ngại (Nếu đừng bắt tội mà cho phép nói, tôi sẽ nói rõ).
Đoạn văn này đáng xem là linh hồn, là điều cốt lõi nhất làm nền cho mọi đều nghị cải cách, mọi bộ phận, mọi chi tiết trong bản thiết kế duy tân của Nguyễn Trường Tộ. Ở đây trong điều thứ tư này, Nguyễn Trường Tộ đã đi đến những đề nghị cụ thể gồm các việc thành lập: 1) Khoa nông chính. 2) Khoa thiên văn và khoa Địa lý. 3) Khoa công kỹ nghệ. 4) Khoa luật học. Và “Dùng quốc âm” với quan điểm cơ bản là:
Không có một nền học thuật sáng suốt thì phong tục ngày một bại hoại, lòng người sẽ ngày một giả dối, phù phiếm, trống rỗng, tập tục sẽ làm thay đổi con người, dù người tốt cũng không tránh khỏi ảnh hưởng, huống gì những hạng dưới, lòng người đã hư hỏng thì khó tìm được người chuộng nghĩa thực tâm sốt sắng việc công.” Rõ là Nguyễn Trường Tộ đã rất gần với quan điểm trong thời đại hôm nay: “Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển xã hội” và “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”.
Trong nội dung duy tân, cải cách của Nguyễn Trường Tộ ngoài những điều trên đây còn có rất nhiều vấn đề cụ thể, thuộc các lãnh vực: quân sự, quốc phòng, kinh tế, thương mại, tài chính, thuế khoá, nông nghiệp, tài nguyên, khai mỏ, giáo dục, khoa học kỹ thuật, giao thông vận tải, hành chính, ngoại giao, cải cách phong tục, tôn giáo… Riêng về tôn giáo, Nguyễn Trường Tộ xứng đáng là một người đẹp đời, đẹp đạo trọn vẹn. Ông chủ trương tự do tôn giáo. Ông đặt quyền lợi của Tổ quốc lên trên hết. Ông tìm cách tranh thủ một số linh mục Thiên chúa giáo tham gia công việc khôi phục lãnh thổ của đất nước. Ông thiết tha đoàn kết lương giáo. Và ở ông, ít nhiều cũng hé lên một ý tưởng xây dựng đạo giáo Thiên chúa độc lập của Việt Nam một khi mà ông bày kế thuyết phục Giáo hoàng La mã gọi các giáo sĩ Pháp về nước vì đã thấy có sự phức tạp trong quan hệ giữa các linh mục đó với quyền lợi dân tộc.
*
* *
Bạn đọc kính mến!
Như thế là tôi đã quá dài dòng về Nguyễn Trường Tộ, mặc dù trong thâm tâm và về cảm hứng vẫn còn muốn nói nhiều nữa về ông. Ít ra thì cũng thấy mình bất cập trước những gì mà nhà thiết kế vĩ đại này đã cống hiến cho đất nước ở thời buổi bế tắc, khổ nhục ấy. Trước khi dừng bút, tôi chỉ xin quý vị độc giả thông cảm cho tôi ở bài viết này, chủ đích là muốn tạo ra một cách nghĩ, một cách đánh giá bản thiết kế vĩ đại, rất vĩ đại đó hơn là việc nói lại một cách chi ly, cặn kẽ bản thiết kế. Và cũng xin nói lại: Thật là tiếc, vô cùng tiếc cho đất nước rằng lịch sử quá khắc nghiệt, đã không cho Nguyễn Trường Tộ được làm tiếp vai trò của một tổng công trình sư. Giá gì ông được làm tiếp vai trò đó thì không chừng, đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta thời đó đã trở thành một “Nhật Bản thứ hai”. Chẳng phải có người đã coi Nguyễn Trường Tộ là Y Đằng Bác Văn của Việt Nam đó sao! Nhưng sự sống thật là trớ trêu. Nguyễn Trường Tộ nếu sinh ra trên đất Nhật thì sẽ không chừng sẽ thành Y Đằng Bác Văn. Chứ ở Việt Nam ta thời đó thì cũng chỉ là Nguyễn Trường Tộ. Mà ngay cả Y Đằng Bảo Văn nếu sinh ở Việt Nam thì cũng là Nguyễn Trường Tộ thất bại mà thôi.
Nhân kỷ niệm 180 năm sinh Nguyễn Trường Tộ
Yên Hoà thư trai Mậu Tý, trọng thu
(9. 2008)

Chú thích
(1) Những trích văn trong bài viết này đều lấy từ sách “Nguyễn Trường Tộ: con người - di thảo” của Trương Bá Cần. NXB Thành phố Hồ Chí Minh – 2002.


2. Từ Fukuzawa Yukichi nhìn về Nguyễn Trường Tộ
Nguyễn Cảnh Bình
Có thể nói, ở hai ông Nguyễn Trường Tộ và Fukuzawa Yukichi (Phúc-Trạch Dụ-Cát). Có  rất  nhiều sự tương đồng về thời đại, về đất nước, về tình hình thế giới bởi cả hai sống cùng trong một giai đoạn lịch sử. Từ thực tế trên, việc so sánh hai nhân vật lịch sử này, đồng thời cũng là những nhà tư tưởng về cải cách, mở cửa có thể mang lại cho chúng ta nhiều điều thú vị.
Những điểm tương đồng
Có thể nói, Fukuzawa Yukichi và Nguyễn Trường Tộ là hai người sinh cùng thời, và cả hai đều học rất giỏi. Điều thú vị nữa là hai người đều sinh ra từ một vùng đất có truyền thống, chứ không không phải ở thủ đô. Hai ông không xuất thân từ gia đình quá giàu có, nhưng cũng không phải ở gia đình quá nghèo.
Hai nước Nhật và Việt Nam ở thời mà các ông sinh sống thì cũng có một vài điểm tương đồng. Thí dụ như hai nước cùng đóng cửa với thế giới, nhưng bắt đầu bị các quốc gia phương Tây nhòm ngó.
Tại Nhật, năm 1853, hạm đội Mỹ xuất hiện gây một cú sốc lớn trên khắp nước Nhật. Anh trai thúc giục Fukuzawa tới Nagasaki học tiếng Hà Lan để nắm vững về súng ống phương Tây. Khi đó, ông mới 23 tuổi. Đến tháng 8-10/1858, Fukuzawa được bổ nhiệm làm người dạy tiếng Hà Lan cho lãnh địa Nakatsu. Tháng 7/1859: Nhật mở cửa ba cảng biển theo các điều khoản của "Hiệp ước hoà bình và hữu nghị", được ký một năm trước đó với Mỹ và một số nước châu Âu.                
Ở Việt Nam, năm 1858, Pháp đánh Đà Nẵng. Nguyễn Trường Tộ lúc đó 30 tuổi, Nhà thờ xã Đoài mời ông làm giáo viên dạy chữ Hán. Giám mục Gauthier dạy ông tiếng Pháp và khoa học thường thức phương Tây.
Hai người cùng đi nước ngoài hầu như cùng thời điểm, như vậy cả Nguyễn Trường Tộ và Fukuzawa có điều kiện tiếp xúc Tây học từ sớm, biết tiếng Hà Lan, tiếng Anh, tiếng Pháp. Lại có dịp được ra nước ngoài nên hai ông có điều kiện tiếp xúc trực tiếp với văn minh, với thế giới vật chất và công nghệ của phương Tây, từ đó hình dung trong đầu những hoạt động, những tư tưởng mang tinh thần cải cách.
Đầu năm 1860, trong khuôn khổ các điều khoản của hiệp ước, chính quyền Shogun quyết định phái sứ giả sang Mỹ. Fukuzawa tình nguyện đi theo đoàn sang San Francisco, Mỹ. Từ Mỹ về trong năm đó, ông dịch và xuất bản cuốn sách đầu tay “Kaeitsugo”. Khoảng ba năm đầu sau đó, Fukuzawa chỉ chuyên tâm học hành và viết cuốn sách đầu tiên.  
FUKUZAWA YUKICHI
(1835-1901)
Sinh tại thành phố Osaka, trong một gia đình Samurai cấp thấp.  Đến năm 1837, cha ông qua đời đột ngột ở tuổi 44. Cuộc sống khó khăn, ông phải giúp gia đình và cho mãi đến năm 14 tuổi mới được đến trường. Không chỉ dừng lại ở một nhà tư tưởng, Fukuzawa đã bắt tay làm rất nhiều việc, từ mở trường dạy học, lập tờ báo, dịch sách để hướng những đề xuất, ý tưởng, giải pháp của mình vào đông đảo người dân và trí thức Nhật Bản, từ đó tạo nền tảng cho sự phát triển nhanh chóng về nhận thức, hành động và phát triển của người dân cũng như đất nước Nhật Bản.
Trong những năm 1861-1863, ông sang châu Âu theo đoàn đàm phán mở thêm cảng biển và điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Ông đến các nước như Pháp, Anh, Hà Lan, Đức, Nga và Bồ Đào Nha. Trong vai trò phiên dịch, Fukuzawa quan sát được rất nhiều điều mới mẻ và các thể chế tổ chức như bệnh viện, kho vũ khí, hầm mỏ, trường học. Dựa vào những điều chứng kiến trong chuyến đi, Fukuzawa xuất bản tập đầu tiên của tác phẩmThực trạng phương Tây (Seiyo jijo). Tác phẩm này của ông được bán chạy nhất lúc bấy giờ. Đến năm 1866, ông hoãn việc viết tiếp tập hai cuốnThực trạng phương Tây để giành thời gian dịch cuốn Kinh tế chính trị của J. H. Burton. Trong cuốn sách xuất bản năm 1867, ông thảo luận về “những cột trụ chính yếu” và mạng lưới xã hội vô hình thiết lập nên xã hội văn minh. Sau đó, ông tiến hành dịch các tác phẩm quan trọng của Anh cho người Nhật đọc, học tập và tiếp thu.      
Còn ở Việt Nam, những năm 1859-1860, Nguyễn Trường Tộ được giám mục Gauthier đưa qua Hương Cảng, Singapore, Thụy Sĩ. Trên đường đi ông có ghé Roma yết kiến Giáo hoàng rồi cuối cùng sang Paris theo học trong gần 2 năm.
Vào năm 1861, khi Đại đồn Kỳ Hoà thất thủ, ông nhận làm phiên dịch cho Pháp với mong muốn góp phần mình cho sự hoà hoãn hai bên. Ông viết thư gửi triều đình trong đó nêu ý kiến là nên hoà với Pháp. Sau đó, ông viết bản điều trần đầu tiên. Đến quãng năm 1862-1863, ông thôi không làm phiên dịch nữa vì thất bại trong việc điều đình. Thời gian này, ông tham gia xây cất tu viện ở Sài Gòn và dồn tâm trí soạn kế hoạch giúp phát triển đất nước. Vào tháng 3/1863, ông gửi triều đình văn bản “Bàn về tình thế lớn trong thiên hạ”. Tiếp đó, ngày 29/3/1863, ông gửi bản Trần tình. Một năm sau đó, ông gửi triều đình văn bản “Kế hoạch duy trì hoà ước mới”, và “Kế hoạch làm cho dân giàu nước mạnh”. Tất cả là những bản điều trần!
Và những khác biệt
Nhưng đáng tiếc thay, nếu so sánh với Fukuzawa, Nguyễn Trường Tộ có nhiều nhược điểm, thiếu sót. Điểm mấu chốt làm nên sự khác biệt giữa công cuộc Duy Tân Minh Trị ở Nhật và thời kỳ trì trệ của Tự Đức ở Việt Nam có lẽ cũng bắt nguồn từ chính sự khác biệt về lối tư duy và hành động của hai nhà trí thức đại diện này.
Năm 1867, Fukuzawa lại sang Mỹ, tới Washington và New York với nhiệm vụ thương lượng mua tàu chiến của chính phủ Mỹ. Nhưng mục đích chính của Fukuzawa là tìm mua sách cho các sinh viên và ông đã mua sách bằng tất cả số tiền mà ông có. Về nước, Fukuzawa mở trường KEIO. Chỉ trong năm đó (1867), số học sinh của trường đã lên đến 100. Thời gian này, ông chủ yếu đọc, viết sách và giảng dạy. Những cuốn sách miêu tả cuộc sống phương Tây của ông rất được người dân Nhật Bản yêu thích, điều đó cho thấy sự quan tâm của người dân đối với thế giới bên ngoài.
Với kinh nghiệm học được từ người phương Tây qua sách vở và những chuyến thị sát, ông đã nhiệt huyết truyền bá những tư tưởng tiến bộ bằng mọi cách có thể. Ông đã tách mình ra khỏi biến động chính trị cuối thời Mạc phủ Edo, thầm lặng dịch và viết sách.
Ngày 4/7/1868, cuộc nội chiến giữa hai phe cải cách và bảo thủ ở Nhật Bản bùng nổ. Fukuzawa đã nói với học sinh, lúc bấy giờ chỉ còn 18 người: “Cho dù có bất kỳ điều gì xảy ra, cho dù cuộc chiến tranh tàn phá đất nước ta như thế nào, chúng ta sẽ không bao giờ từ bỏ kiến thức của phương Tây. Chừng nào ngôi trường này còn đứng vững, Nhật Bản vẫn sẽ là quốc gia văn minh trên thế giới”.                
Sau năm 1868,  Fukuzawa dành hết thời gian, sức lực cho công việc giảng dạy ở Keio và giúp lập thêm nhiều trường học mới. Ông cũng dịch và viết thêm nhiều sách về phương Tây, viết những sách giáo khoa cơ bản về rất nhiều lĩnh vực như vật lý, địa lý, nghệ thuật quân sự, nghị viện Anh, các mối quan hệ quốc tế. Sau đó, vào năm 1876, Fukuzawa xuất bản cuốn Khuyến học, tác phẩm nổi tiếng nhất. Ông thúc giục người Nhật học đọc, học viết, học những phép toán và bàn tính, cách để sử dụng khối lượng và dụng cụ đo đạc, rồi tiếp đến là học những lĩnh vực khoa học khác như địa lý, vật lý, lịch sử, kinh tế và đạo đức. Lúc này, ông 41 tuổi.
NGUYỄN TRƯỜNG TỘ
(1828 - 1871)
Sinh tại Bùi Chu, Hưng Nguyên, Nghệ An. Ông học rất giỏi, ngoài việc học với cha ở nhà, ông còn theo học nhiều thầy đồ nổi tiếng trong vùng. Tuy mất sớm ở tuổi 43 nhưng ông đã đề xuất rất nhiều kế hoạch cải cách táo bạo, nhằm đưa đất nước thoát khỏi cảnh trì trệ, tiến lên trở thành một quốc gia dân giàu nước mạnh. Đáng tiếc, những bản điều trần của ông thời đó đã không được trọng dụng.
Về Nguyễn Trường Tộ, những công việc thì vẫn như vậy. Năm 1865, ông gửi triều đình văn bản “Về việc mua thuyền và đóng thuyền máy”.  Vào đầu năm 1866, khi được mời đến Huế, ông tiếp tục gửi văn bản “Kế hoạch khai thác tài nguyên đất nước”. Đến tháng 4/1866: ông thảo thư Tây Soái có châu phê của Vua. Đây vẫn là một bản điều trần và gửi thư cho Vua. Tháng 8/1866, Nguyễn Trường Tộ cùng giám mục Gauthier đến Huế, chuẩn bị đi Pháp, được vua Tự Đức tiếp kiến.
Từ tháng 9 đến hết năm 1866, ông tiếp tục gửi văn bản và thư tới triều đình, cụ thể như văn bản “về việc học thực dụng” và “Phải tạm thời dựa vào Pháp” và những bức thư về vấn đề khác nhau. Vào năm 1867,ông  cùng một số quan chức đáp tàu đi Pháp. Tháng 3 năm đó, ông tới Paris. Rồi đến ngày 15/11/1867, ông soạn văn bản “Tế cấp bát điều”. Tháng 2/1868, về tới Huế, ông được vua Tự Đức tặng thưởng. Tháng 3 năm sau đó, Nguyễn Trường Tộ viết: “Tổ chức gấp việc khai mỏ”.Trong các tháng 3-5/1868, ông viết nhiều văn bản thúc giục triều đình cử người đi Pháp học
Tiếp tục như vậy, suốt năm 1871, Nguyễn Trường Tộ viết rất nhiều văn bản đề xuất việc thông thương với Pháp như “Chỉnh đốn quân đội và quốc phòng”, “Canh tân và mở rộng quan hệ ngoại giao”, “Về chính sách nông nghiệp”; “nên mở cửa chứ không nên khép kín”. Rất tiếc, ngày 24/11/1871, Nguyễn Trường Tộ mất ở quê, hưởng thọ 41 tuổi. Nguyễn Trường Tộ mất sớm nhưng tôi tin rằng, dù ông còn sống, ông sẽ vẫn không làm gì khác hơn ngoài việc viết tấu trình.
Nguyễn Trường Tộ đã liên tiếp gửi lên triều đình Huế 30 bản điều trần đề xuất canh tân, xây dựng đất nước giàu mạnh và gần sáu chục bản điều trần khác đề cập đủ mọi lĩnh vực.
Tôi không nghĩ rằng ở thời đại Nguyễn Trường Tộ, việc mở trường có quá nhiều khó khăn. Việc dịch sách, ngược lại thì rất khó vì lúc đó hầu như chúng ta chỉ sử dụng tiếng Hán và phụ thuộc nhiều vào sách dịch của người Trung Quốc. Tại Trung Quốc, mãi đến những năm 1903, Lương Khải Siêu và Khang Hữu Vi mới ồ ạt triển khai dịch sách của phương Tây cho người Trung Quốc, điều này cho thấy Nguyễn Trường Tộ khó lòng làm được việc này ở Việt Nam thời điểm đó.
Còn Fukuzawa thì vào năm 1875 xuất bản cuốn "Văn minh khái luận" ra đời, nhằm thuyết phục trí thức Nhật Bản chấp nhận quá trình hiện đại hoá. Ngày 1/3/1882, Fukuzawa tự mình xuất bản tờ Jiji-shimpo. Trước đó, Fukuzawa muốn mở một tờ báo nhằm thúc đẩy việc sớm thiết lập Nghị viện nhưng kế hoạch này đã bị gác lại vì sự chia rẽ nội bộ. Năm 1885,  Fukuzawa viết bài báo gây rất nhiều tranh cãi Datsu - a - ron [Thoát Á Luận], kêu gọi Nhật Bản hãy học theo phương Tây và nhanh chóng hiện đại hóa…           

Đánh giá của hậu thế
Lịch sử biết đến Fukuzawa Yukichi như một nhà cải cách chính trị xã hội, nhà giáo dục tiên phong, nhà tư tưởng tiêu biểu của Nhật Bản từ cuối thời Edo, đầu thời Minh Trị, thời kỳ diễn ra những chuyển biến lớn lao trong lịch sử Nhật Bản. Tư tưởng của ông có ảnh hưởng rất lớn tới phong trào Khai sáng ở Nhật Bản vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, tạo tiền đề cho Nhật Bản trở thành một cường quốc trên thế giới. Lòng biết ơn của người Nhật đối với Fukuzawa được thể hiện qua việc in hình ông trên tờ tiền 10.000 yen, dù ông không phải là một đấng quân vương hay võ tướng lỗi lạc của đất nước Mặt trời mọc.
Fukuzawa để lại ngôi trường Keio mà ngày nay là Đại học Keio (hiện trường Keio hệ chính thức có khoảng 28.000 sinh viên và 5.000 nghiên cứu sinh). Ông cũng để lại hàng chục cuốn sách dịch và nhiều sách do ông viết. Ông được coi là người khởi xướng cho việc dịch sách ở Nhật Bản, mang lại tác động to lớn cho xã hội Nhật Bản.
Còn đối với Nguyễn Trường Tộ, theo nhiều học giả và công chúng, các bản điều trần của ông nếu được áp dụng là một sách lược lớn biến Việt Nam thành một nước hùng cường, tạo nên chuyển biến quan trọng trong lịch sử giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Học giả Lê Thước phê bình công nghiệp bình sinh của ông: "Nguyễn Trường Tộ là nhà khoa học, nhà chính trị và cũng là nhà tân học nước ta xưa. Tư tưởng và kiến thức của tiên sinh hơn người đồng thời muôn nghìn".
Tên của ông được đặt cho nhiều trường học và đường phố tại Việt Nam, nhưng chưa có đồng tiền nào mang hình ông mặc dầu ông cũng được coi là nhà tư tưởng tiến bộ, có tinh thần cách tân. Nguyễn Trường Tộ thường được trí thức Việt Nam coi là hình mẫu thất bại trong mong ước hiện đại hóa Việt Nam vào thế kỷ 19. Nhiều người cũng coi ông như bài học để chỉ ra sai trái của triều đình mà quên đi những sai lầm của chính ông.

Tư tưởng tiền nhân để lại
Fukuzawa tin rằng giáo dục là cách duy nhất để đạt tới văn minh, bởi bản chất của văn minh là sự phát triển kiến thức và đạo đức nội tại của dân tộc:
"Văn minh có nghĩa là đạt được cả những tiện nghi vật chất lẫn sự nâng cao tinh thần của con người. Nhưng cái tạo ra những tiện nghi vật chất và nâng cao tinh thần của con người là kiến thức và đạo đức, [do đó] bản chất của văn minh chính là quá trình phát triển kiến thức và đạo đức con người."
Fukuzawa là người đưa ra nguyên tắc nổi tiếng: "Độc lập quốc gia thông qua độc lập cá nhân", tức là một xã hội muốn phát triển phải dựa trên những cá nhân có khả năng tư duy độc lập và sáng tạo, chứ không phải dựa vào chính phủ. Ông kêu gọi các sĩ phu Nhật Bản làm việc theo phương châm "coi trọng quốc gia và coi nhẹ chính phủ", tự tin vào sức mạnh cá nhân mà không phụ thuộc vào sức mạnh của người khác.
Tháng 5 năm 1863, Nguyễn Trường Tộ soạn xong ba văn bản để gửi lên Triều đình Huế: bản thứ nhất là Tế cấp luận, bản thứ hai là Giáo môn luận, bản thứ ba là Thiên hạ phân hợp đại thế luận. Trong ba bản đó, bản Tế cấp luận là văn bản quan trọng nhất. Nội dung của bản này đề cập đến việc canh tân và phát triển đất nước. Với Tế cấp luận ông đã khẳng định: "Tế cấp luận thâu tóm trí khôn của thiên hạ 500 năm nay... Bài Tế cấp luận của tôi nếu đem ra thực hành hàng trăm năm cũng chưa hết".
Trong giáo dục, ông phản đối lối học tầm chương trích cú, đóng cửa khư khư giữ lấy cái sự học lỗi thời chỉ cốt có học vị bằng cấp. Ông chủ trương học để thực hành. Ngay cả bản thân, ông không hề đề tên ứng thí một khoa nào, không hề có bằng cấp gì nhưng kiến thức của ông sâu rộng mang tầm bách khoa, uyên thâm trong nhiều lĩnh vực.
Theo ông cần phải đưa vào chương trình giáo dục những tri thức về nông nghiệp, địa lý, thiên văn, công nghệ, luật pháp, nghĩa là những gì xã hội, cuộc sống hiện đại thực sự cần tới trước mắt và lâu đài, chứ không phải dùi mài tứ thư ngũ kinh với những giáo huấn xa vời của Khổng Mạnh. Ông cũng sớm đề xuất soạn Tự điển cho người học, nghiên cứu Hán học, Tây học.
Dường như toàn bộ sự nghiệp, tư tưởng của Nguyễn Trường Tộ chỉ gói gọn trong mấy từ viết điều trần. Không thể đếm được ông đã viết bao nhiêu bản điều trần trong cuộc đời ngắn ngủi của ông, và dù những bản điều trần này được rất nhiều trí thức Việt Nam hiện đại ca ngợi là tư tưởng lớn thì cũng chỉ dừng lại ở mức độ đề xuất, chứ không phải là bắt tay vào làm (thực hiện). Trong khi đó, Fukuzawa đã dịch và viết nhiều sách, mở trường dạy học, lập báo, hợp tác và hướng dẫn các trí thức quốc gia láng giềng. Fukuzawa có gửi điều trần lên Thiên Hoàng nhưng không nhiều và không phải là hành động chính yếu của ông. Có thể khi đó, Minh Trị đã là một nhà vua anh minh nhưng ở Fukuzawa, tư duy là hành động. Điều quan trọng hơn nữa, đó là Fukuzawa hướng những đề xuất, ý tưởng, giải pháp của mình vào đông đảo người dân và trí thức Nhật Bản. Ông truyền tinh thần canh tân của mình cho hàng nghìn sinh viên theo hoc ở Keio, cho hàng triệu người Nhật qua các cuốn sách ông dịch, và qua những bài báo gây nhiều tranh cãi…
Qua bài học thành công và thất bại của Fukuzawa Yukichi và Nguyễn Trường Tộ có thể tìm ra được cách hành xử thích đáng hơn của trí thức Việt Nam trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

Theo TiaSang

Vĩnh Sính
Tiến sĩ Sử học, Đại học Alberta, Canada
Đã từ lâu lắm, có lẽ từ khi cụ Phan Bội Châu và các hội viên của Duy Tân Hội đang còn tìm cách gởi thanh niên Việt Nam sang Nhật du học qua phong trào Đông Du, cái tên Nguyễn Trường Tộ (1830-1871) thỉnh thoảng lại gợi đến cho người Việt một niềm tự hào, tin tưởng vào giấc mộng canh tân đất nước. Ta tự nghĩ, nếu từ thập niên 1860, khi Việt Nam vừa mới phải trạm chán với những thách đố đầu tiên của Tây phương mà trong nước chúng ta đã có người nhìn xa thấy rộng như Nguyễn Trường Tộ, thì quả thật nước ta đâu có thiếu nhân tài. Thoạt nhìn sang các nước láng giềng vào lúc đó thì số phận của họ đâu có gì sáng sủa hơn Việt Nam cho lắm. ! Ở Trung Hoa, sau thất bại nhục nhã trong chiến tranh nha phiến (1839-1842), quan viên triều đình nhà Thanh vừa phải đương đầu với loạn Thái bình Thiên quốc, vừa phải tìm cách chấn hưng đất nước qua chính sách “tự cường”. Ngay số phận của Nhật Bản trước Minh Trị Duy Tân(1868) cũng như ngàn cân treo sợi tóc: việc chính quyền Tokugawa ký kết một loạt hiệp ước bất bình đẳng với các nuớc Tây phương vào năm 1858 không có sự thoả thuận của Thiên hoàng đã trở thành lý do để các nhóm chống đối (mà tụ điểm là các vũ sĩ cấp dưới ở Satsuma và Chôshu) buộc tội; bên ngoài thì Pháp Anh nhòm ngó; Pháp ủng hộ chính quyền Tokugawa và Anh ủng hộ nhóm Satsuma – Chôshu. Nếu những tranh chấp và mâu thuẫn nội bộ của Nhật Bản không được khôn khéo giải quyết nhanh chóng và kịp thời để đối phó hữu hiệu với tình hình quốc tế lúc bấy giờ thì Nhật Bản cũng đã trở thành một miếng mồi ngon cho các nước Tây phương, chẳng khác gì số phận các nước Á châu khác.
Nhìn gương canh tân của Nhật Bản kể từ Minh Trị Duy Tân, ta thường ấm ức, than trách vua quan nước ta hồi đó đã không biết thức thời để lắng nghe những lời trần tình của Nguyễn Trường Tộ, đến nỗi bỏ lỡ vận hội canh tân nước nhà. Mặc dầu chúng ta thường nói và nhắc nhở nhiều đến Nguyễn Trường Tộ, nhưng kỳ thật thì sự hiểu biết của chúng ta về nhân vật lịch sử này rất có giới hạn. Từ trước tới nay, nói chung chúng ta chỉ thường lặp đi lặp lại những kiến thức sơ sài, tản mạn về Nguyễn Trường Tộ truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, chứ không mấy ai có thể trình bày một cách có mạch lạc, hệ thống nội dung tư tưởng của nhân vật lỗi lạc này, hoặc giả phân tích và đánh giá vì sao tư tưởng của Nguyễn Trường Tộ đi vượt tầm suy nghĩ của những trí thức Việt Nam lúc bấy giờ. Vì ta không biết học hỏi lỗi lầm của những người đi trước, thêm vào đó lại có khuynh hướng ưa trách người nhưng không chịu trách mình, cho nên ta thường chỉ biết oán trách vua quan triều Nguyễn đã thủ cựu, không tạo đất dụng võ để cho những nhân tài như Nguyễn Truờng Tộ phải bị mai một. Mặc dầu những lời phê phán này thường xác đáng, nhưng vô tình trong lúc đó trong thực tế, nhiều khi không ai khác hơn là chính ta, lại đang giẫm chân trên những lỗi lầm của những thế hệ trước. Bởi vậy, cái tên Nguyễn Trường Tộ không chỉ gợi cho ta niềm tự hào nhưng còn mang cái gì ấm ức, uất nghẹn của một giấc mộng mà cả dân tộc đã ấp ủ từ lâu nhưng vẫn chưa thành.
Để tiến đến một nhận thức khách quan và toàn diện hơn về Nguyễn Trường Tộ, dĩ nhiên chúng ta cần tiếp cận, phân tích, và đánh giá nhân vật lịch sử này qua nhiều góc độ. Trong bài này, từ góc độ của một người nghiên cứu về lịch sử tư tưởng và giao lưu văn hoá giữa Nhật với các nước Đông Nam Á và Tây phương vào nửa sau thế kỷ XIX, chúng tôi xin đóng góp ý kiến chủ yếu trên hai vấn đề mà các thức giả đã bàn luận từ trước đến nay : (1) “Nguyễn Trường Tộ học ở đâu?”, và (2) “Phải chăng Nguyễn Trường Tộ đã gặp Y-Đằng Bác-Văn?”. Trước hết, thiết tưởng chúng ta cần đi lược qua những nét chính trong tư tưởng Nguyễn Trường Tộ.
I.      NHỮNG NÉT CHÍNH VỀ NỘI DUNG TƯ TƯỞNG CỦA NGUYỄN TRƯỜNG TỘ
Nguyễn Trường Tộ hồi nhỏ được thân phụ dạy chữ Hán ở nhà, sau đó theo học các cụ đồ nho ở vùng lân cận. Ông nổi tiếng thông minh phi thường nên thường được gọi là “trạng Tộ”. Mặc dầu không đi theo đường khoa bảng (vì là người Công giáo nên Nguyễn Trường Tộ không được đi thi), vốn liếng Hán học của ông có thể nói là chẳng thua kém gì các nhà khoa bảng trong triều đình lúc bấy giờ. Điều này được xác minh qua kiến thức uyên bác về những điển tích Đông phương và bút pháp Hán văn già giặn của ông trong những bản điều trần gởi cho triều đình.
Lên mười tám, muời chín tuổi, Nguyễn Trường Tộ bắt đầu thụ giáo những bài học vỡ lòng về Tây học, chủ yếu là tiếng Pháp và những kiến thức khoa học thường thức của Tây phương, từ các giáo sĩ thừa sai người Pháp. đặc biệt Giám mục Gauthier (tên Việt là Ngô Gia Hậu), người phụ trách giáo phận Xã Đoài từ năm 1846. Theo nhân định của ông Trương Bá Cần trong công trình nghiên cứu công phu Nguyễn Trường Tộ : Con người và di thảo, căn cứ trên những tài liệu hiện có chúng ta chỉ có thể biết chắc là Nguyễn Trường Tộ đã sang Pháp và các nước Âu châu vào năm 1867, còn trước đó thì hình như chỉ đi quanh quẩn ở Hương Cảng, Mã Lai, tức là những nơi có trụ sở của HộI Truyền giáo nước ngoài của Paris (Missions Etrangères de Paris).1 Tuy nhiên, những chuyến đi thăm viếng các nước Á châu láng giềng cũng đã giúp Nguyễn Trường Tộ bồi đắp thêm sở học của mình và mở rộng kiến văn về tình hình thế giới bên ngoài, như ông đã ghi lại trong ‘Bài trần tình” (đề ngày 13 tháng 5 năm 1863) gởi cho Trần Tiễn Thành: “Đến lúc lớn lên tôi chu du các nước, những điều mắt thấy tai nghe góp lại thành một sự ích dụng lớn”2
Sở học của Nguyễn Trường Tộ bao quát nhiều ngành, về khoa học kỹ thuật cũng như về các ngành nhân văn và khoa học xã hội. Điều này được chứng minh qua nội dung các bản điều trần mà Nguyễn Trường Tộ đã gởi cho triều đình. Tóm tắt về sở học của mình, Nguyễn Trường Tộ đã viết: “Về việc học, không môn nào tôi không để ý tới : cái cao của thiên văn, cái sâu của địa lý, cái phiền toái của nhân sự, cho đến luật lịch, binh quyền, tạp giáo, dị nghệ, các môn cách trí, thuật số, không môn nào tôi không khảo cứu, nhất là để ý nghiên cứu về sự thế dọc ngang, tan hợp trong thiên hạ. Thường những người học được như vậy hay dùng đó để làm phương tiện cầu vinh, để tiến thân, còn tôi thì dùng để báo đáp lại cái mà trời đã cho tôi học được, chứ không mong kiếm chác một đồng tiền nào”.3
Trước hết, về khoa học kỹ thuật , là người chủ trương thực học, Nguyễn Trường Tộ chính là nhà kiến trúc sư phụ trách xây cất tu viện Dòng Thánh Phaolồ ở Sài Gòn (khởi công từ tháng 9 năm 1862 và hoàn thành vào tháng 7 năm 1864), một kiến trúc có tầm cỡ, và cũng là một biểu tượng của văn hoá Tây phương ở Sài Gòn mà ngay chính người Pháp lúc bấy giờ rất lấy làm hãnh diện. Một linh mục người Pháp, trong bức thư đăng trên tập san Missions Catholiques (Hội Truyền Giáo Công Giáo) vào năm 1876 đã viết về vai trò của Nguyễn Trường Tộ trong việc xây cất tu viện như sau: “Chính ông ta đã vẽ sơ đồ của tháp chuông và tự mình trông nom công việc một cách rất cẩn thận; chính ông đã hoàn thành nhiều phần khác của công trình. Mỗi ngày người ta thấy ông có mặt ở công trường và để ý tới từng chi tiết. Phải thú nhận là nếu không có ông thì không thể thực hiện một công trình như vậy vào một thời điểm mà ở Sài Gòn chưa có thợ cũng như chưa có nhà thầu…”4. Ngoài ra, Nguyễn trường Tộ cũng chính là người chỉ huy đào Thiết Cảng để làm Kênh Sắt (còn gọi là kênh Nguyễn Trường Tộ), nối liền sông Cấm, hay sông Cửa Lò, với sông Vinh. Tương truyền là từ xưa Cao Biền khi sang đô hộ nuớc ta và Hồ Quý Ly đời nhà Hồ đều có dự định đào kênh này nhưng cả hai không thực hiện được vì dưới đất có nhiều đá cuội. Khi được Tổng trấn Nghệ An lúc bấy giờ là Hoàng Tá Viêm mời ra giúp đào kênh, Nguyễn Trường Tộ đi xem xét một hồi rồi tìm ra cách giải quyết ngay. Ông nói là nếu ở Pháp thì người ta đã dùng cốt mìn để phá, còn như ở nước ta không có mìn, chỉ cần đào tránh khúc có nhiều đá lớn là xong5. Về máy móc, hình như Nguyễn Trường Tộ cũng biết khá nhiều, trong bản điều trần về việc mua và đóng thuyền máy, Nguyễn Trường Tộ khẳng định: “Theo tôi thiết nghĩ hiện nay người Nam ta biết qua các loại máy tàu và các lý thuyết điều chỉnh tu sửa, không ai hơn được tôi, từ nay về sau thế nào thì không dám nói”.6        
Về khoa học xã hội, Nguyễn Trường Tộ tỏ ra rất bén nhậy trên nhiều lãnh vực, ông có cái nhìn vừa bao quát, liên ngành, vừa thông suốt và tận gốc. Những bản điều trần của ông bao gồm nhiều lãnh vực: đại thế trong thiên hạ, kế hoạch làm cho dân giàu nước mạnh, cần nắm vững tình hình chính trị ở Pháp, canh tân và mở rộng, quan hệ ngoại giao, thực học, cải cách phong tục, tự do tôn giáo, sử dụng quốc âm, v.v…
Đọc những bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ gởi cho triều đình Huế từ 1861 cho đến khi ông từ trần, chúng tôi không khỏi liên tưởng đến những đề án có tính cách khải mông của những học giả trong hội trí thức Meirokusha (Minh-Lục-Xã, tức là hội thành lập vào năm thứ sáu [1873] đời Minh Trị) đăng ở tập san Meiroku Zasshi (Minh -Lục Tạp-Chí). Thành viên của Meirokusha gồm có những trí thức lừng danh lúc bấy giờ như Fukuzawa Yukichi (Phúc-Trạch Dụ-Cát, 1835-1901; người sáng lập ra trường Keiô Gijuku và cũng là một nhân vật có ảnh hưởng vô cùng lớn rộng trong công cuộc đổi mới giáo dục và tư tưởng của người Nhật) cùng nhiều nhân vật khác, hầu hết là “cha đẻ” của nhiều ngành khác nhau như chính trị học, luật học, triết học, thống kê, canh nông,v.v… ở Nhật Bản thời Minh-trị. Họ bàn về những vấn đề bức thiết ở Nhật lúc bấy giờ như vai trò của trí thức trong công cuộc mở mang dân trí và canh tân đất nước, cần phải dựa vào công luận (thay vì chính quyền) để phát triển văn minh, cải cách tài chánh, cải cách giáo dục, tự do mậu dịch, tự do báo chí, tự do tôn giáo, khái luận về văn minh Tây phương, vấn đề sử dụng chữ hiragana, v.v…Điều khác nhau giữa Nhật và Việt Nam là lúc bấy giờ hội Meirokusha quy tụ có gần 30 trí thức (đó là chưa kể vô số học giả khác ở ngoài hội) được dân chúng và chính phủ nể vì, còn ở nước ta không những hầu như chỉ có một mình Nguyễn Trường Tộ, mà chính ông lại còn bị đình thần nghi ngờ và đố kỵ; bởi vậy những lời điều trần của ông chẳng khác gì một tiếng kêu tuyệt vọng trong sa mạc, không thay đổi được gì vận mệnh đất nước như ông hằng mong ước.
Một điểm khác biệt giữa Nguyễn Trường Tộ và các trí thức Việt Nam cùng thời là ông có thể nhìn, đánh giá, và tìm cách giải quyết một cách năng động hiểm hoạ mất nước của Việt Nam dựa trên những phân tích về tình hình thế giới, tình hình chính trị ở Pháp và các nước Tây phương khác, xác định đâu là “đại thế” và xu hướng văn minh trên thế giới lúc bấy giờ, để cuối cùng đưa ra chủ trương hoà hay chiến tuỳ theo điều kiện và thời điểm cụ thể. Trình bầy về quan điểm của Nguyễn Trường Tộ về phương sách cứu nguy cho Việt Nam lúc bấy giờ, ông Trương Bá Cần đã nhận xét: “Qua các di thảo của Nguyễn Trường Tộ, chúng ta thấy là ông không hề mơ hồ về ý đồ của thực dân Pháp đối với đất nước chúng ta…”, “âm mưu xâm lược của chúng đã có từ rất lâu, vì vậy chỉ có thể trên cơ sở đánh mạnh, khiến chúng phải khốn đốn, thì chúng mới chịu hoà, và trong điều kiện ấy, ta mới có thể hoà một cách có lợi… Đối với Nguyễn Trường Tộ vấn đề canh tân phát triển đất nước là vấn đề hàng đầu. Do đó Nguyễn Trường Tộ chủ trương mở rộng giao thương với các nước và tạm hoà với Pháp, tạm nhượng bộ Pháp”.7  
Chủ trương của Nguyễn Trường Tộ trên thực chất không khác chủ trương đối ngoại của Nhật Bản vào những năm cuối thời Tokugawa (Đức Xuyên) và đầu thời Minh Trị. Mặc dầu Nhật Bản đã phải ký kết các hiệp ước bất bình đẳng với các nước Tây phương dưới chính quyền Tokugawa, sau khi chính quyền này bị lật đổ những nhà lãnh đạo của chính phủ mới (Minh Trị) đã tạm thời nhượng bộ. Năm 1871, chính phủ Minh Trị cử một phái bộ cao cấp, đoàn viên có gần năm mươi người, gồm cả những người có trách nhiệm lớn nhất trong chính phủ lúc bấy giờ, do Iwakura Tomomi dẫn đầu với tư cách là Đại Sứ Đặc mệnh Toàn quyền sang thăm viếng 15 nước Âu Mỹ trong thời gian gần hai năm với mục đích chính là thương lượng nhằm sửa đổi các điều ước này. Tuy mục tiêu thương lượng hoàn toàn thất bại, phái bộ Iwakura qua lần công du nàycó dịp quan sát tận mắt tình hình của các nước trên thế giới, và khi trở về Nhật càng tập trung nỗ lực canh tân đất nước. Ta cũng nên để ý rằng , trên thực tế, phải đợi đến bốn mươi năm sau (1911) liệt cường mới hoàn toàn xoá bỏ các điều khoản bất lợi cho Nhật, và khi đó – hay nói đúng hơn, vì khi đó - Nhật Bản đã trở thành một cường quốc, về kinh tế cũng như về quân sự.
Nói tóm lại, lối nhìn của Nguyễn Trường Tộ khác hẳn với lối suy nghĩ thụ động, cứng cỏi, và rập khuôn của hầu hết sĩ phu trong nước lúc bấy giờ. Do ảnh hưởng của thế giới quan Nho giáo, họ cứ khư khư quan niệm, hoặc ý thức hoặc vô ý thức, rằng nước ta là trung tâm của vũ trụ, hay một “tiểu vũ trụ” (giống như người Trung Hoa quan niệm nước họ là trung tâm của thế giới, chỉ có điều nước ta nhỏ hơn nhiều, và họ là “Bắc triều” còn ta là “Nam triều”.), xem Trung Quốc (“Thiên triều”) là nước duy nhất có thể trông cậy để cứu ta ra khỏi hiểm hoạ mất nước.8  Họ quên rằng chính bản thân Trung Quốc lúc đó cũng đang bị liệt cường xâu xé, đâu còn sức nào để giúp đỡ cho Việt Nam.
II.       “NGUYỄN TRƯỜNG TỘ HỌC Ở ĐÂU?
Khi bàn đến nhân vật Nguyễn Trường Tộ, một trong những thắc mắc đối với chúng ta là tại sao trong khi sĩ phu Việt Nam lúc đó đang còn ngày đêm giùi mài cái học từ chương những mong đỗ đạt làm quan để đạt giấc mộng “vinh quy bái tổ”, “áo gấm về làng”, Nguyễn Trường Tộ lại có thể trau giồi cho mình một sở học uyên bác, thực tiễn, một tầm mắt xa rộng để nhận chânđược những hiểm hoạ đang đe doạ đất nước, cùng một óc phân tích chuẩn xác, sâu sắc hơn hẳn những trí thức cùng thời ?
Gần năm mươi năm trước đây, học giả Đào Duy Anh qua bài “Nguyễn Trường Tộ học ở đâu ?” trong các tập san Tri Tân (số 7; 18-7-1941) và Bulletin des Amis du Vieux Huế (Đô thành hiếu cổ; số 2 tháng 4-6, 1944) cũng đã đặt câu hỏi này và cung cấp nhiều ý kiến quý giá. Ông Đào Duy Anh là người đã được đọc nhiều tư liệu của gia đình Trần Tiễn Thành 9 – viên chức của triều đình Huế nhận nhiều văn thư của Nguyễn Trường Tộ - và cũng đã từng có đến sưu tập tài liệu tại nhà của con cháu Nguyễn Trường Tộ ở Bùi Chu. Ông Đào Duy Anh đã gợi ý  là cái sở học uyên bác của Nguyễn Trường Tộ không thể chỉ thu thập được lúc Nguyễn Trường Tộ ở Pháp vì khoảng thời gian này tương đối ngắn ngủi 10, do đó ông phỏng đoán là Nguyễn Trường Tộ đã có dịp đọc “nhiều tân thư của người Tàu nhất là những sách về khoa học và chính trị học” qua những chuyến du lịch ở Đông Nam Á, đặc biệt ở Hương Cảng 11. Ông Trương Bá Cần cũng đã nhận xét là “để có các kiến thức chuyên môn, Nguyễn Trường Tộ đã phải tự học, nghĩa là phải đọc sách báo, phải biết quan sát để tiếp thu và vận dụng”, bởi lẽ “ về Tây học, thì ông quả có được các linh mục thừa sai và, đặc biệt, Giám mục Gauthier dạy cho tiếng Pháp và truyền đạt một số kiến thức khoa học, chỉ có thể là, rất phổ thông… vì các thừa sai thuộc Hội Truyền giáo Nước ngoài (M.E.P.) tuyệt đại bộ phận chỉ học xong chương trình phổ thông, rồi vào các đại chủng viện học làm linh mục để được gởi đến các nước truyền đạo”.12 Tóm tắt về sở học của Nguyễn Trường Tộ, ông Trương Bá Cần viết: “…ngoài vốn liếng về Hán học, Nguyễn Trường Tộ đã sớm tiếp xúc với văn hoá Tây phương, trước tiên có thể là qua các giáo sĩ thừa sai người Pháp, chủ yếu là giám mục Gauthier. Nguyễn Trường Tộ cũng đã có dịp đi ra nước ngoài, nếu không qua các nước Tây Âu, thì cũng qua các nước Đông Nam Á, nơi đây ông đã được đọc sách báo của Tây phương, băng tiếng Pháp, tiếng Anh và nhất là đọc các sách báo Tây phương đã được dịch ra tiếng Trung Quốc. Theo ông Đào Duy Anh và những người đã tới tham khảo các tài liệu tại nhà của con cháu Nguyễn Trường Tộ ở làng Bùi Chu, thì trong tủ sách của Nguyễn Trường Tộ có rất nhiều quyển sách bằng chữ Hán thuộc loại Tân thư. Nhờ đó mà vào đầu năm 1861, Nguyễn Trường Tộ đã có một kiến thức khá rộn lớn về khoa học kỹ thuật cũng như về khoa học xã hội của Tây phương”.13 
Sau khi đọc xong các di thảo còn lại của Nguyễn Trường Tộ, người viết bài này đồng ý với những nhận xét trên của hai học giả Đào Duy Anh và Trương Bá Cần, và muốn đóng góp thêm một vài ý kiến liên quan đến vấn đề này.
(1) Về thế đứng của Nguyễn Trường Tộ:
Trước hết, hãy trở lại câu hỏi vì sao sở học của Nguyễn Trường Tộ khác xa lối học “bát cổ văn chương” (văn chương tám vế) của những sĩ phu cùng thời. Đã đành chúng ta đều biết ngay từ nhỏ Nguyễn trường Tộ đã nổi tiếng thông minh xuất chúng, nhưng ngoài cái “thiên bẩm” đó, chắc hẳn phải có những yếu tố khác không kém phần quan trọng. Việc Nguyễn trường Tộ có trau giồi Hán học nhưng không phải để lặn lội trong chốn quan trường, theo thiển ý của chúng tôi, cần phải được nhấn mạnh. Sự cấm đoán không cho Nguyễn Trường Tộ đi thi vô hình trung đã tạo cho ông một lợi thế không mấy ai có được lúc đó. Nhờ vậy, ông có thể suy nghĩ tự do phóng khoáng, vượt khuôn khổ của xã hội đương thời, không phải bị gò bó bởi những lối mòn trong lối học khoa cử từ chương bắt nguồn từ Trung Hoa từ hơn ngàn năm trước. Đây chính là một trong những điểm khác biệt quan trọng giữa Nguyễn Trường Tộ và những trí thức cùng thời. Chính nhờ lợi thế đó mà ông đã nhận thức được một cách sâu sắc lối học khoa cử là cái học rỗng tuếch (“hư học”) và chủ trương phải nhấn mạnh “thực học’, tức là nền học vấn thực tiễn không tách xa đời sống hàng ngày.
Nhìn sang các nước láng giềng, ta thấy các trí thức Nhật Bản đầu thời Minh Trị (mà Fukuzawa Yukichi là đại biểu) tuy có căn bản Hán học nhưng không suy nghĩ như những trí thức Trung Hoa và Việt Nam cùng thời vì họ không bị ràng buộc bởi lối học khoa cử, do đó bén nhạy và thích ứng hơn trong việc tiếp thu những kiến thức cận đại. Nói một cách tổng quát, với tư cách là một trí thức Công giáo và không học để đi thi, Nguyễn Trường Tộ đã có thế đứng rất đặc biệt trong khoảng thời gian từ 1850 cho đến khi tạ thế (1871), khác hẳn những sĩ phu cùng thời.
Cũng nên nói rằng Nguyễn Trường Tộ không phải là một trường hợp đơn độc trong lịch sử, bởi lẽ không phải riêng gì xã hội Việt Nam vào giữa thế kỷ XIX mà trong bất cứ thời đại nào, hay ở các xã hội khác cũng vậy, những trí thức “đứng bên lề” (marginal) như Nguyễn Trường Tộ thường chính là những người nhận chân được những tệ hại trong xã hội của họ và có lối nhìn phê phán sâu sắc nhất. Tuy nhiên, không phải vì thế đứng bên lề đó mà Nguyễn Trường Tộ đã hờ hững với vận mệnh của đất nước. Trên thực tế, chúng ta đã thấy là ngược lại, vì ông đã ý thức sâu sắc mối hiểm hoạ của đất nước và cảm thấy mình có thể đóng góp vào phương sách cứu nguy cho đất nước, nên lòng yêu nước của ông lại càng biểu lộ đậm nét, cho dầu trong đó có cái gì xót xa, dằn vặt vì bị người đời và đình thần ganh ghét, nghi ngờ. Tâm sự đó đã được gởi gấm trong những vần thơ Nguyễn Trường Tộ gởi cho Phan Thanh Giản:
                      Dung chức tây thôn khởi vị bần,
                      Biệt gia cơ trữ nhận lai chân.
                      Đông lân cung cấm như tương vấn,
                      Tận bã kim châm tử tế trần.
                      Dệt mướn thôn Tây chẳng phải nghèo,
                      Khung cửi nhà ngươi sẵn đấy theo.
                      Gấm vóc cung Đông như hỏi đến,
                      Kim vàng trân trọng nắn đường thêu14
Hoặc:
                      Nhật ngự tuy vô hồi chiếu xứ,
                      Quỳ tâm nhưng vẫn hướng dương thầm.
                      Mặt trời cho dẫu không soi đến.
                      Hướng dương xin vẫn nép hoa quỳ15
(2) Vai trò của Tân thư trong việc mở rộng kiến thức Nguyễn Trường Tộ:
Tân thư là gì? Tân thư đi từ hai chữ Hán là hsin-shu   gọi nôm na là “sách mới”, từ trước đến bây giờ được người Việt ta dùng để chỉ những sách chữ Hán do các nhà cải lương Trung Hoa như Khang Hữu Vi (Kang Yu-wei) và Lương Khải Siêu (Liang Ch’I-ch’ao) trước tác và được đưa vào nước ta vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Những sĩ phu có tư tưởng duy tân sau Nguyễn Trường Tộ như Nguyễn Lộ Trạch, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Tiểu La Nguyễn Thành, v.v…đều chịu ảnh hưởng không ít của những cuốn sách này. Tân thư nói rộng ra bao gồm cả những cuốn sách do người Trung Hoa trước tác hay dịch thuật từ sách báo Tây phương kể từ thập niên 1840, sau khi Trung Hoa bị Anh đánh bại trong chiến tranh Nha phiến và muốn tìm hiểu Tây phương để đáp ứng nhu cầu “biết thêm về đối phương”. Trong thời kỳ này cũng có một số sách Tân thư do các nhà truyền giáo Tin Lành trước tác bằng chữ Hán. Khi xuất bản những sách này , họ muốn chứng minh cho người Trung Hoa thấy rằng nếu các nước Tây phương có một nền văn minh tiên tiến như vậy thì tín ngưỡng của họ (đạo Ki Tô) ắt hẳn phải có gì đáng chú ý.16
Như đã nói ở trên, chúng tôi đồng ý với hai ông Đào Duy Anh và Trương Bá Cần là những “sách bằng chữ Hán thuộc loại Tân thư” đã đóng một vai trò quan trọng trong việc mở rộng kiến thức cận đại của Nguyễn Trường Tộ. Ông Đào Duy Anh có cho biết là trong tủ sách của Nguyễn Trường Tộ có rất nhiều loại sách này, có điều là hình như không ai đã ghi lại tên những cuốn sách đó. Thật đáng tiếc thay, vì phải gì nếu chúng ta được biết đầy đủ hơn về những cuốn Tân thư cùng những loại sách khác trong tủ sách đó thì chúng ta đã có thể tra cứu để biết rõ hơn về quá trình cấu tạo tư tưởng khải mông của nhân vật lỗi lạc này !
Khi đọc lại các di thảo của Nguyễn Trường Tộ để mong tìm một vài tia sáng cho vấn đề này, tình cờ chúng tôi thấy Nguyễn trường Tộ có nhắc đến cuốn Doanh hoàn chí lược  (Ying-huan chih-lueh; có nghĩa là Khái lược về địa lý thế giới), mà may mắn từ trước đó chúng tôi đã được biết là một Tân thư rất nổi tiếng không chỉ ở Trung Hoa mà còn ở Nhật Bản trong khoảng hai thập niên 1850 và 1860. Để có một nhận thức về ý nghĩa của cuốn Doanh hoàn chí lược nói riêng và Tân thư nói chung đối với Nguyễn Trường Tộ, xin giới thiệu đôi hàng về những nhận xét sơ bộ của chúng tôi.
Trước hết, chúng ta hãy xem Nguyễn trường Tộ đã nhắc đến cuốn Doanh hoàn chí lược trong trường hợp như thế nào. Trong bản điều trần “Bàn về những thế lớn trong thiên hạ” (Thiên hạ đại thế luận) đề ngày 3-4-1863, ông viết : “Tôi thường nghiên cứu sự thế trong thiên hạ mà biết rằng hoà với Pháp là thượng sách. Hơn nữa ở Âu châu việc võ bị chỉ có nước Pháp là đứng hạng nhất, hùng mạnh nhất không thua ai cả. Họ lại có tính khẳng khái, hiếu chiến, với uy phong của một quân đội có xe sắt. Tuy dùng binh nhưng cũng biết trọng nghĩa giữ lời, không như các nước chỉ chuyên môn thủ lợi… Khi thắng trận thì cả nước hoan hô, dù tổn thất nghìn muôn người chẳng tiếc, chỉ sao cho uy danh hùng tráng, quốc thể được bảo toàn làm trọng. Các tướng thì gan dạ nhiều mưu trí, thạo binh pháp, thuỷ chiến, lục chiến đều rất giỏi. Thật đúng như sách DOANH HOÀN CHÍ LƯỢC đã chép vậy”.17  Sau đó, trong bài điều trần về “Tám điều cần làm gấp” (Tế cấp bát điều) đề ngày 15-11-1867, khi bàn đến sự cần thiết chỉnh đốn những vùng sát phía Tây của Việt Nam và khuyên triều đình nên cho các nhà truyền giáo đến giảng đạo và giúp đỡ dân chúng các vùng đó, Nghuyễn Trường Tộ viết: “Phương Tây xưa có nhiều giống dân hung dữ chưa khai hoá, như dân Bồn Man, Vạn Tượng ngày nay, phần nhiều đều nhờ các giáo sĩ mở mang giáo hoá mà về sau dần dần trở nên thịnh lợi. Chuyện ấy sử sách các nước phương Tây còn ghi và sách Doanh hoàn chí lược cũng nói đến chứ không phải tôi bịa ra hùa theo nói tốt cho họ đâu.”18
Trong hai đoạn trích trên, Nguyễn Trường Tộ đã nhắc đến Doanh hoàn chí lượckhi bàn đến một dân tộc tính, hay tâm lý, người Pháp (trích dẫn đầu) và tình hình ở Lào (trích dẫn hai). Dĩ nhiên Nguyễn Trường Tộ đã trích dẫn để nói lên tính khách quan trong luận điểm của ông, nhưng mặt khác, qua sự trích dẫn này chúng ta cũng thấy phần nào ý nghĩa của Tân thư trong quá trìng tìm hiểu tình hình trên thế giới lúc bấy giờ của Nguyễn Trường Tộ (vào thời điểm này có lẽ Nguyễn Trường Tộ chưa đi Pháp, và các nước Âu châu, nên những “sử sách các nước Tây phương” mà ông nói ở trên có lẽ là những sách đã dịch ra hoặc giới thiệu bằng chữ Hán). Bây giờ chúng ta hãy thử xem cuốn Doanh hoàn chí lược mà Nguyễn Trường Tộ  đã trích dẫn ở đây là cuốn sách gì, và đã có ảnh hưởng như thế nào ở Trung Hoa và Nhật Bản?
Doanh hoàn chí lược do Từ-Kế-Dư ( Hsu Chi-yu; 1795-1873) biên soạn dưới triều vua Đạo-Quang (Tao-kuang) nhà Thanh, vào những năm 1843-1848 khi từ được bổ nhiệm về tỉnh Phúc Kiến, lúc đầu để trông coi việc buôn bán với các nước Tây phương, và sau đó với tư cách là Tuần Vũ. 19 Từ sinh ở Sơn Tây trong một gia đình khoa bảng, ông đỗ cử nhân năm 1813 nhưng phải đến mười ba năm sau mới đỗ tiến sĩ. Sau đó, Từ được bổ làm án sát tỉnh Thiểm Tây (1836) và nổi tiếng là một quan viên có khả năng giải quyết những vấn đề hóc búa. Vua Đạo Quang nghe tiếng, triệu Từ về kinh để hỏi về những phương sách chấn hưng Trung Hoa. Tương truyền khi nghe Từ trình bày, nhà vua xúc động đến rơi nước mắt. Một năm sau khi hoà ước Nam Kinh (1842) được ký kết. Từ được bổ về Phúc Kiến, và theo lệnh vua, bắt đầu tìm hiểu về tình hình nước ngoài.
Ở Phúc Kiến, Từ thường có dịp tiếp xúc với các viên chức Tây phương ở Hạ Môn (Amoy) và Phúc Châu (Foochow), trong đó có Đại uý Henry Gribble, lãnh sự Anh đầu tiên ở Hạ Môn và thông dịch của ông là David Abeel (tên chữ Hán là Nhã-Bì-Lý; 1804-1846), một giáo sĩ người Hoa Kỳ, cùng những nhân viên ngoại giao người Anh khác như George Tradescent Lay và Rutherford Alcock. Sau khi được Abeel cho xem tập bản đồ thế giới, Từ-Kế-Dư bắt đầu tập trung sưu tập những bản đồ xuất bản ở các nước Tây phương, biên soạn thêm lời chú giải dựa trên những tư liệu về tình hình kinh tế và chính trị Tây phương để hoàn thành cuốn sách này. Như đã đề cập ở trên, các giáo sĩ Tin Lành ở Trung Hoa lúc bấy giờ đang đẩy mạnh kế hoạch truyền giáo và xuất bản nhiều sách để giới thiệu văn minh Tây phương bằng chữ Hán. Đây là nguồn tài liệu chính yếu để Từ tìm hiểu về thế giới bên ngoài. Trong số những tài liệu này, đặc biệt quan trọng là cuốn Universal Geography (Địa lý thế giới) viết bằng chữ Hán của Karl Gutzlaff (1803-1851), một giáo sĩ gốc người Phồ thuộc giáo hội Hà Lan. Trong khi biên soạn, Từ đã kiểm chứng những kiến thức của ông về tình hình thế giới bên ngoài với những người Tây phương mà ông có dịp tiếp xúc.
Từ biên soạn xong cuốn Doanh hoàn chí lược vào khoảng cuối tháng tám hay tháng chín năm 1848, nhưng hình như đến cuối hè năm sau sách mới được xuất bản. Nhờ lối làm việc nghiêm túc dựa trên quan điểm khảo chứng của Từ-Kế-Dư, cuốn Doanh hoàn chí lược đã chiếm địa vị là một trong những tài liệu chính yếu về thế giới bên ngoài trong hàng suốt chục năm sau đó ở Trung Hoa. 20
Cũng nên nói thêm rằng Khang-Hữu-Vi, nhà cải lương Trung Quốc nổi tiếng vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, bắt đầu đọc Doanh hoàn chí lược vào năm mười bẩy tuổi, và đối với Khang, sách này là một trong những cuốn “sách gối đầu giường” về tình hình các nước Tây phương.21
Bộ Doanh hoàn chí lược xuất bản năm 1849 gồm 10 quyển, có gần 145.000 chữ và 42 bản đồ. Trong sách, Từ không những nói về địa lý, mà còn bàn về bản đồ chính trị thế giới vào thế kỷ XIX, hiện tình các nước, và giải thích các vấn đề nóng hổi lúc bấy giờ như sự bành trướng của các nước Tây phương sang Á châu và ảnh hưởng của nó đối với Trung Hoa và các nước triều cống xung quanh.22Đoạn bàn về Việt Nam chiếm một phần khá lớn của quyển 1, tóm tắt sơ lược lịch sử, văn hoá, và phong tục Việt Nam từ thời Bắc thuộc cho đến thời cận đại.
Ngoài Doanh hoàn chí lược còn có một tân thư quan trọng khác là cuốn Hải quốc đồ chí (Hai-kuo t’u-chih; 1841) của Ngụy Nguyên (Wei Yuan; 1794-1856). Hai cuốn này được truyền sang Nhật và in lại vào cuối đời Tokugawa23(Doanh hoàn chí lược được in lại ở Nhật năm 1861). Đối với các chí sĩ (shishi) lúc bấy giờ đang bôn ba hoạt động để tìm phương cách cứu nguy cho Nhật Bản, chính nhờ hai cuốn sách này mà hay bíết được tình hình bên ngoài trong lúc Nhật vẫn còn thi hành chính sách bế quan toả cảng. Sau đó người Nhật tự mình đi học hỏi, điều tra các nước bên ngoài để ngày càng cập nhật hoá kiến thức của họ về thế giới nên đã bỏ xa Trung Quốc. Có điều đáng để ý là vào năm 1874, khi kiến thức nước ngoài ở Nhật nói chung đã vượt hẳn Trung Quốc, vẫn có người dịch lại cuốn Doanh hoàn chí lược sang tiếng Nhật để làm tài liệu tham khảo. Tên sách dịch sang tiếng Nhật này được đổi là Eikan shiryaku (Doanh hoàn sử lược, tên sách ở trang đầu vẫn giữ nguyên là Doanh hoàn chí lược) và có thêm phụ đề là Zokkai eiri; tức là “tục giải” (giải thích theo ngôn ngữ thông thường để ai cũng có thể lãnh hội) và có thêm minh hoạ.24
Tuy chúng ta không thấy Nguyễn Trường Tộ trực tiếp nhắc đến tên sách Hải quốc đồ chí
Trong các di thảo, nhưng vì (1) ý nghĩa quan trọng của sách này (tương đương với Doanh hoàn chí lược) so với các tân thư lúc bấy giờ, và (2) trong di thảo của Nguyễn Trường Tộ có dấu vết của các luận điểm đề ra trong sách này, có khả năng là Nguyễn Trường Tộ  đã có dịp đọc sách Hải quốc đồ chí. Điều đáng tiếc là vì tài liệu về Nguyễn Trường Tộ bị thất lạc quá nhiều nên chúng ta không có phương tiện để xác minh là giả thuyết này có đúng hay không. Nhưng, dầu sao đi nữa, để có một khái niệm tổng quát về vai trò của Tân thư ở Trung Hoa và ở Nhật – và dựa trên đó ta có thể đi đến một nhận định khách quan hơn về vị trí đặc thù của Nguyễn Trường Tộ trong giới trí thức Việt Nam trong hai thập niên 1850 và 1860 – ta cần biết sơ lược về cuốn Hải quốc đồ chí.
Ngụy Nguyên, tác giả của Hải quốc đồ chí, là bạn thân của Lâm-Tắc -Từ (Lin Tse-hsu; 1785-1850), người thay mặt triều đình nhà Thanh để giải quyết vấn đề Công ty  Đông Ấn-Độ của người Anh nhập cảng thuốc phiện vào Trung Hoa. Chính Lâm đã uỷ thác cho Ngụy soạn cuốn sách này. Sách Hải quốc đồ chí xuất bản lần đầu (1842) có 50 quyển, khi in lại năm 1847 được bổ sung thành 60 quyển, và có 100 quyển khi tái bản lần thứ ba vào năm 1852. Sách có khoảng 88 vạn chữ, 75 bản đồ, và 42 trang về biểu đồ của các pháo thuyền Tây phương.Hải quốc đồ chí không chỉ cung cấp những kiến thức khách quan mà còn đề xuất những biện pháp chiến lược để đối phó với sự bành trướng như tằm ăn dâu của Tây phương. Ngụy Nguyên chủ trương “dĩ di công di” (dùng Tây phương đánh Tây phương), “dĩ di khoán di” (dùng Tây phương để lung lạc Tây phương), và “sư di chi trường kỹ dĩ chế di” (học lấy cái sở trường của Tây phương để chận đứng xâm lược Tây phương).25 Sự thay đổi lập trường của Nhật từ jôi (nhương di: chống đối Tây phương bằng vũ lực) sang kaikoku (khai quốc: mở cửa để giao thương) và cuối cùng là “học hỏi Tây phương, bắt kịp Tây phương, đi vượt Tây phương” trong những năm cuối đời Tokugawa và đầu thời Minh Trị trùng hợp với chủ trương của Ngụy Nguyên. Dĩ nhiên, cùng xuất phát từ một nhận thức tương tự với Ngụy Nguyên mà Nguyễn Trường Tộ đã điều trần về sự cần thiết của việc tiếp thu văn minh tiên tiến của Tây phương để cứu cho Việt Nam khỏi nạn mất nước, hoặc bàn về phương sách khống chế người Pháp bằng cách “nhờ kẻ khác để ngăn chận họ”, “nhờ kẻ khác để ly gián họ’, “nhờ nước khác lấy danh nghĩa mà áp chế họ”, “dùng người khác để đánh họ”, hoặc “nhờ các nước để đề phòng các nước” trong điều trần về “Lục lợi từ” (khoảng tháng 6 hoặc tháng 7 năm 1864) và trong nhiều điều trần khác.26
Khi mới xuất bản, Hải quốc đồ chí được sự chú ý của một số trí thức Trung Hoa, nhưng sau đó sách bị tuyệt bản và khi Binh bộ thị lang của nhà Thanh là Vương Mậu Ấm (Wang Mu-yin) dâng tấu xin tái bản sách để các thân vương và đại thần mỗi nhà đều có một cuốn, và dùng sách này làm tài liệu để dạy cho quân đội, thì đề nghị này bị bỏ qua. Ở Trung Hoa, không những các biện pháp do Ngụy nguyên đề ra không được thực hiện, mà ngay bản thân Ngụy Nguyên cũng không được trọng dụng. Ngụy chỉ làm đến chức Tri huyện; sau khi triều đình bị Thái bình Thiên quốc uy hiếp ông mới được thăng lên chức Tri châu, và cuối cùng chết trong hiu quạnh. Trong khi đó ở Nhật, giống như Doanh hoàn chí lượcHải quốc đồ chí có ảnh hưởng sâu rộng và thực tiễn đối với giới trí thức trong và ngoài chính quyền. Ấn bản Hải quốc đồ chí in lần thứ hai (60 quyển, 1847) được truyền sang Nhật 3 bộ năm 1851 và 2 bộ năm 1852; ấn bản in lần thứ ba (100 quyển, 1852) được truyền sang Nhật 15 bộ vào năm 1854, trong đó 7 bộ được chính quyền Bakufu trưng dụng, và 8 bộ được đem bán trên thị trường. Kawaji Toshiakira, viên chức phụ trách tài chính và hải phòng27 của chính quyền Bakufu đã ủy thác cho Shioya Tôin chọn lọc những phần quan trọng để in lại. Bản in lại ở Nhật được xuất bản năm 1855, trong đó các địa danh, tên các loại thảo mộc, v.v… được học giả Mitsukuri Gempo chú thêm tên gọi theo các tiếng Tây phương. Chỉ trong vòng ba năm từ 1854 đến 1856 ở Nhật có tất cả đến 21 ấn bản khác nhau về Hải quốc đồ chí,28 qua đó chúng ta thấy sự quan tâm về tình hình thế giới và phản ứng thức thời, nhanh chóng của người Nhật để cứu nguy cho đất nước của họ.
Năm 1862, khi  Takasugi Shinkaku (Cao-Sâm Tấn-Tác; 1839-67) – môn đệ của Yoshida Shôin (Cát-điền Tùng-lâm; 1830-59), người đi tiên phong và biểu tượng của phong trào chống Bakufu để tiến đến Minh Trị Duy Tân – bí mật sang Thượng Hải để điều tra tận mắt về tình hình Trung Hoa, hình như ông ta phải vất vả lắm mới tìm ra được một bộ Hải quốc đồ chí. Sau một thời gian ở Thượng Hải và có dịp đàm luận (bút đàm) với trí thức Trung Hoa, Takasugi cho rằng việc người Trung Hoa đã để một cuốn sách do chính người nước họ trước tác có giá trị thực tiễn chiến lược như cuốn Hải quốc đồ chí tuyệt bản mà không chịu in lại là một trong ba lý do khiến Trung Hoa suy yếu. Hai lý do khác mà Takasugi đã nêu ra là: (1) trước nạn Tây xâm, thái độ của người Trung Hoa có vẻ hững hờ, mặc kệ, không mấy ai suy nghĩ đến phương cách ngăn chặn hiểm họa đó; và (2) người Trung Hoa không biết trang bị súng thần công có tầm bắn xa để ngăn chặn tàu bè Tây phương.29
Sự phổ biến Tân thư ở Việt Nam hình như còn giới hạn hơn ở Trung Hoa. Nhưng đối với những sĩ phu Việt Nam có dịp đọc Tân thư (dĩ nhiên chỉ một thiểu số ), thì phải nói ảnh hưởng của Tân thư rất sâu rộng. Điều đó được xác minh qua chứng từ của cụ Phan Bội Châu trong hai tự truyện của cụ. Ngay cả những di thảo của Nguyễn Trường Tộ, trước đây, số người được đọc rất giới hạn, nhưng đối với ai là người tâm huyết mà có đọc được thì những di thảo này đã có ảnh hưởng sâu sắc đến sự chuyển biến tư tưởng của họ. Chúng tôi muốn nói đến trường hợp của Nguyễn Lộ Trạch, tác giả của Thiên hạ đại thế luận, một tác phẩm có ảnh hưởng sâu rộng đối với phong trào Đông du và phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục vào đầu thế kỷ XX. Nguyễn Lộ Trạch có lẽ là một trong số trí thức hiếm hoi có “diễm phúc” đọc các di thảo của Nguyễn Trường Tộ. Lý do khá đơn giản : ông là con rể của Trần Tiễn Thành. Chúng tôi đề cập đến điểm này để muốn nói rằng những hạn chế trong sự phổ biến những kiến thức mới về thế giới bên ngoài là một trong những nguyên nhân chính yếu ngăn chặn sự phát triển dân trí và đà tiến hoá của nước ta.
Xuyên qua sự so sánh về tình hình phổ biến Tân thư ở Trung Hoa và Nhật Bản, chúng ta có thể nhận thức được một khía cạnh quan trọng trong sự khác biệt giữa phản ứng của hai nước đối với những thách thức của Tây phương, và qua nhận thức đó ta thấy được vì sao Nguyễn Trường Tộ - có lẽ là trí thức Việt Nam duy nhất có cơ hội đọc nhiều Tân thư nhất lúc đó – có trình độ hiểu biết đi vượt những trí thức cùng thời. Ảnh hưởng của Tân thư đối với việc mở rộng kiến thức của Nguyễn Trường Tộ dĩ nhiên không chỉ giới hạn trong cuốn Doanh hoàn chí lược mà chúng ta có thể kiểm chứng hoặc một hai cuốn khác mà còn sâu rộng hơn nữa. Một bằng chứng cụ thể là khi bàn đến ngày tháng của một vài sự kiện lịch sử Tây phương, Nguyễn Trường Tộ đã ghi theo lịch Tàu - chắc hẳn vì ông đã dựa theo sách Tân thư - mặc dầu chúng ta biết ông là người yêu nước có ý thức cao và tinh tế về sự khác biệt giữa nước ta và Trung Hoa. Ví dụ, trong bài tựa sách Đàm thiên luận (Bàn về thiên văn), khi nhắc đến việc Newton tìm ra sức hút của quả đất, ông viết: “Năm Khang Hi thứ 5, Nại Đoan (Newton) ngẫu nhiên ở trong vườn thấy một trái cây rơi xuống đất…”.30 Thật ra những danh từ riêng dùng gọi tên người (như Nại Đoan) và địa danh ngoại quốc (như Lữ Tống  : Luzon hay Trảo Oa : Java) bằng chữ Hán mà ta bắt gặp rất nhiều trong toàn bộ văn bản của Nguyễn Trường Tộ chắc chắn phải dựa trên cách gọi trong sách chữ Hán của người Trung Hoa (trong trường hợp này là Tân thư) chứ không phải do Nguyễn Trường Tộ tự ý đặt ra. Nói một cách khác, dù cho Nguyễn Trường Tộ có đọc nguyên bản bằng tiếng Tây phương đi nữa, chắc chắn ông cũng đã phối kiểm các thuật ngữ và danh từ riêng qua Tân thư để có thể viết lại bằng các văn bản chữ Hán.
Nhân tiện xin bàn thêm đôi chút về cuốn Đàm thiên luận. Người viết bài này chưa đựoc xem nguyên bản Đàm thiên luận do Nguyễn Trường Tộ viết, nhưng được biết rằng trong những Tân thư của Trung Quốc cũng có cuốn Đàm thiên luận (Tan t’ien lun) xuất bản vào năm 1859 (xem hình đăng kèm). Cuốn này là bản dịch ra chữ Hán - dịch giả là Alexanser Wylie và Lý Thiện Lan - của cuốn Outline of Astronomy (Khái lược về thiên văn) của một học giả người Anh tên là Sir John F. W. Herschel (xuất bản lần đầu tiên năm 1848). Tan t’ien lun có 18 quyển do Thượng Hải Mặc Hải Thư Quán xuất bản.31 Rất có khả năng là Nguyễn Trường Tộ đã tham khảo Tan t’ien lun khi viết Đàm thiên luận.
III.      PHẢI CHĂNG NGUYỄN TRƯỜNG TỘ ĐÃ GẶP Y-ĐẰNG BÁC-VĂN?
Từ trước đến nay có nhiều ý kiến về vấn đề so sánh điều kiện nước ta thời Tự Đức với Nhật Bản thời Minh Trị. Gần đây, trong Nguyễn Trường Tộ : Con người và di thảo, ông Trương Bá Cần cũng có đề cập tới vấn đền này và đưa ra những ý kiến khác biệt giữa hai nước nói chung là xác đáng. Sau đó ông bàn đến sự quan tâm của Nguyễn Trường Tộ đối với Nhật Bản thể hiện qua các văn bản của ông, và nhắc đến giả thuyết là Nguyễn Trường Tộ có gặp Itô Hirobumi (Y-Đằng Bác-Văn; 1841-1909), một giả thuyết đã được các ông Đào Duy Anh và Đào Đăng Vỹ đề ra từ lâu.32 Cuối cùng ông Trương Bá Cần đặt câu hỏi là trong phái đoàn Nhật Bản ở Paris mà Nguyễn Trường Tộ nhắc đến trong “Tế cấp bát điều” không biết có Itô Hirobumi hay không? (Bản điều trần này đề ngày 15-11-1867, trong đó Nguyễn Trường Tộ viết “hiện có 1 hoàng tử và 35 người cùng đi với một linh mục mới đến Ba-Lê và đã thiết lập ở đó một đại học xá để phái người sang học).33 Chúng tôi xin đóng góp vài ý kiến để làm sáng tỏ vấn đề này.
Trước hết người viết đồng ý với ông Trương Bá Cần là Nguyễn Trường Tộ tỏ ra rất quan tâm về Nhật Bản. Trong các di thảo, Nguyễn Trường Tộ thường đề cập đến những diễn tiến liên hệ đến Nhật có lẽ muốn dùng những biện pháp thức thời của người Nhật để chứng minh là chính sách của triều đình nhà Nguyễn quá lỗi thời. Tuy nhiên chúng ta có thể khẳng định là trong phái đoàn Nhật đến Paris năm 1867 không có Itô Hirobumi bởi lẽ đây là phái đoàn của Bakufu (tức là chính quyền Shôgun : Tướng quân), mà Itô lại là người của phái đối nghịch.34
Phái đoàn Bakufu đến Pháp thể theo lời mời dự Hội Chợ Quốc Tế (Exposition universelle) năm 1867 ở Paris của hoàng đế Napoléon III qua công sứ Léon Roches ở Nhật . Như đã đề cập ở phần trên, lúc này Pháp đang ủng hộ  Bakufu và Anh đang giúp đỡ phái Satsuma – Chôshu. Roches trình bày với Shôgun Tokugawa Yoshinobu (Đức-Xuyên Khánh-Hỷ) là “nhân dịp Hội chợ Quốc Tế Shôgun nên cử người thân thích sang Pháp để tỏ tình thân thiện ngoại giao”. Shôgun đồng ý, cử bào đệ của mình là Akitake (Chiêu-Vũ) làm trưởng phái đoàn. Akitake lúc bấy giờ mới 15 tuổi, đang giữ chúc Mimbu Tayu (Dân-bộ Đại-thừa), được Shôgun phong thêm chức juyon’I Sashôgun (Tùng-tứ-vị Tả-tướng-quân), để có thể được đối xử ngang hàng với các hoàng thất nước ngoài khi giao thiệp với họ ở Pháp. Khi phái đoàn Bakufu do Akitake dẫn đầu sang đến Pháp, báo chí Pháp nhắc nhở đến rất nhiều và tỏ ra rất có thiện cảm với chính phủ mà vị “hoàng thân” trẻ tuổi này đại diện. Chính quyền Bakufu không những gởi phái đoàn tham dự mà còn có gian hàng triển lãm (nói chung là đồ mỹ nghệ) trong Hội chợ Quốc tế 1867 ở Paris. Satsuma dẫn đầu phái đoàn đối lập cũng không chịu kém, thương lượng với Pháp để mở một gian hàng biệt lập “giống như một nước độc lập”.35
Nói tóm lại, vị hoàng thân mà Nguyễn Trường Tộ nhắc đến trong di thảo chính là Akitake, thân đệ của Shôgun Tokugawa Yoshinobu, và trong phái đoàn này mặc dầu có những nhân vật rất nổi tiếng sau này như Shibusawa Eiichi (Thiệp-Trạch Vinh-Nhất; 1840-1931),36 Itô Hirobumi không tham dự phái đoàn này. Itô lúc này đang bận rộn trong phong trào phò Thiên hoàng để lật đổ Bakufu. Ngoài ra, “Đại học xá” mà Nguyễn Trường Tộ đề cập đến chắc hẳn là Nhà Satsuma, do Satsuma chứ không phải do Bakufu thiết lập, hiện nay vẫn còn ở trong khu đại học xá Cité universitaire ở Paris.
Cần để ý là vào khoảng thời gian phái đoàn Nhật Bản đến Paris, Nguyễn Trường Tộ cũng có mặt ở Pháp: ông đến Pháp với linh mục Gauthier vào cuối tháng 3, 1867 và đã rời Pháp để trở về Việt Nam vào cuối tháng 11, 1867. Thời gian này chính là thời gian Hội chợ Quốc Tế 1867 đang khai trương ở Paris. Tuần báo Semaine Religieuse de Paris (Tuần san tôn giáo địa phận Paris) ấn hành ngày 27-7-1867 có ghi lại : “Giám mục Guathier ở Paris. Trong lúc lưu lại Paris, giám mục cần thu thập các điều cần thiết cho việc phát triển nông nghiệp và công nghiệp của vương quốc An-Nam và người ta quả quyết giám mục đã đặt mua ở hội chợ hơn 100.000 francs hàng hoá vào mục đích này… trong số những người phương Đông đi theo giám mục có một kiến trúc sư công giáo với một trí nhớ phi thường. Chính con người có tài năng xuất chúng này đã xây dựng nhà thờ Chính toà của chúng ta ở Sài Gòn”.37 Người “Kiến trúc sư” nhắc đến ở đây dĩ nhiên không ai khác hơn là Nguyễn Trường Tộ. Mặc dầu từ trước đến nay không có tài liệu nào nói rõ về ý nghĩa thời điểm của chuyến đi Pháp của Nguyễn Trường Tộ và giám mục Gauthier, dựa trên những chi tiết nêu ra trên đây chúng ta có thể phỏng đoán là không phải tình cờ mà thời gian ở lại Pháp của hai người đã trùng hợp với lúc Hội chợ Quốc tế 1867 đang khai trương ở Paris. Nói một cách khác , chắc hẳn Nguyễn Trường Tộ và giám mục Gauthier đã giàn xếp lộ trình để có mặt ở Paris trong thời gian đó nhằm để quan sát tận mắt những máy móc về nông nghiệp và kỹ nghệ của các nước trưng bầy trong Hội chợ, đồng thời có thể đặt mua những dụng cụ về xây dựng trường kỹ thuật ở Huế trong một môi trường thích hợp và có hiệu năng cao nhất.
Bây giờ trở lại vấn đề “phải chăng NguyễnTrường Tộ đã gặp Itô Hirobumi ?”. Chúng ta hãy xem có khả năng đó không. Nếu hai người có gặp nhau thật, thì phải lúc Itô đang ở trên đường sang Âu châu hoặc từ Âu châu trở về Nhật, và địa điểm gặp phải là Hương Cảng hoặc Mã Lai, hai nơi mà Nguyễn Trường Tộ cũng có đến. Nguyễn Trường Tộ không thể gặp Itô trong lần đi công cán ở Pháp năm 1867 được, vì như ta đã thấy lúc đó phong trào phò Thiên Hoàng để chống Bakufu của Satsuma – Chôshu đang bước vào giai đoạn cuối cùng và Itô là một nhân vật quan trọng của phong trào đó nên không thể nào rời Nhật, và trên thực tế chúng ta biết chắc chắn là ông đã có mặt ở Nhật lúc đó. Hơn nữa, trong khoảng thời gian Nguyễn Trường Tộ còn sống (tức là cho đến ngày 10-10-1871), Itô đi ra nước ngoài chỉ có một lần : đó là khi ông được Chôshu bí mật38gởi sang Anh du học trong khoảng hai năm 1863-1864. Hè 1864, khi nghe tin hạm đội liên hợp của các nước Anh, Pháp, Hoa Kỳ, và Hà Lan pháo kích Chôshu, Itô vội vã bỏ học để từ Anh trở về Chôshu.39 Về phần Nguyễn Trường Tộ, từ tháng 9-1862 cho đến tháng 7-1864, ông ở Sàigòn chủ yếu để trông xem công việc xây cất tu viện Dòng thánh Phaolồ. Vì ông vùa là “kiến trúc sư” vừa là người quản đốc việc xây dựng, trong suốt thời gian xây cất, Nguyễn Trường Tộ dĩ nhiên phải có mặt tại chỗ, cho nên nếu ông có gặp Itô đi chăng nữa, thì thời điểm phải là sau khi việc xây cất đã hoàn thành, Nghĩa là sau tháng 7-1864, tức là khi Itô ở trên đường từ Âu châu về Nhật. Nhưng lúc đó thì Nguyễn Trường Tộ lại bị bệnh tê thấp, phải nằm điều dưỡng ở Gia Định. Trong thư gởi Trần Tiễn Thành (không đề ngày tháng …theo ông Trương Bá Cần thì vào khoảng cuối năm 1864 - đầu năm 1865). Nguyễn Trường Tộ viết :”Nhân vì chân tôi bị tê bại sắp thành phế nhân, nằm ngửa ra mà viết, tinh thần buồn bực rối loạn, tự biết nói năng không thứ tự…”.40 Trong hoàn cảnh như vậy khả năng Nguyễn Trường Tộ rời Việt Nam để đi chu du Hương Cảng hoặc Mã Lai - để rồi tình cờ gặp Itô Hirobumi trên đường từ Anh về Nhật- phải nói là hầu như không có. Huống nữa, thư Nguyễn Trường Tộ gởi Trần Tiễn Thành đề ngày 19-3-1866 cũng đã xác nhận là bệnh tê thấp của ông đã bắt đầu ngay từ khi công việc xây cất chưa xong (hoặc vừa xong) :”Tôi trước đây bị ốm nằm ở Gia Định, điều dưỡng đã gần hai năm nay, nay mười phần đã giảm năm ,sáu”.41
Để tóm lại, chúng ta có thể nói rằng ba yếu tố quan trọng đưa đến sự khác biệt về sở học của Nguyễn Trường Tộ so với các trí thức cùng thời: (1) Nguyễn Trường Tộ tuy có trau giồi Hán học nhưng không phải để lặn lội trong đường cử nghiệp nên ông có tư duy bén nhạy, năng động và thực tiễn, không bị gò bó bởi lối suy nghĩ thụ động, cứng cỏi và rập khuôn của đa số sĩ phu cùng thời chỉ biết theo đòi nghiên bút để những mong thi đỗ làm quan ; (2) ông từng chu du nhiều nơi nên có dịp kiểm chứng những kiến thức thu thập qua sách vở với những điều mắt thấy tai nghe, biết đích thực đâu là đại thế và xu hướng văn minh trên thế giới lúc bấy giờ, nên đã ý thức sâu sắc về hiểm hoạ mất nước nếu nước nhà không sớm canh tân; (3) ông có lẽ là người Việt Nam đầu tiên có may mắn đọc được nhiều Tân thư (do người Trung Hoa và các giáo sĩ Tây phương trước tác bằng chữ Hán) chúa đựng nhiều kiến thức mới mẻ về khoa học kỹ thuật cận đại và tình hình thế giới bên ngoài lúc bấy giờ.
Chúng ta đã chứng minh rằng trái với giả thuyết mà một số nhà nghiên cứu đã đề ra từ trước tới nay, Nguyễn Trường Tộ trên thực tế đã không gặp Itô Hirobumi. Chúng ta cũng đã đề cập nhiều lần đến những điểm tương đồng giữa Nguyễn Trường Tộ và các trí thức cùng thời ở Nhật, đặc biệt qua các chủ trương chú trọng thực học, đả phá hư học, không ngần ngại học hỏi đối phương để tăng cường sức mình và từng bước lấn áp đối phương. Khi học hỏi nước ngoài, Nguyễn Trường Tộ khẳng định rằng ta nên có thái độ chủ động, mời người nước ngoài vào dạy : ta là chủ họ là khách.42 Người Nhật tiếp thu văn hoá Tây phương trên căn bản cũng dựa trên chủ trương đó. Vì họ biết chủ động gởi sinh viên đi du học nước ngoài và mời người nước ngoài vào dạy dỗ, nên họ không có mặc cảm họ là “nạn nhân” của văn hoá hấp thụ từ nước ngoài, một hiện tượng thường thấy ở “các nước trong thế giới thứ ba” ngày nay, do mặc cảm “bị ép đặt” phải hấp thụ văn hoá Tây phương. Khi đứng trong tư thế của người chủ, dầu phải hy sinh, sự hy sinh đó dầu đau đớn  nhưng có thể chịu đựng được ; ngược lại, nếu đứng trong tư thế bị ép đặt, con người sẽ nghĩ mình là tôi tớ, và cho dù được người nước ngoài đến dạy không lấy công hay được họ “cho quà” đi nữa, người ta vẫn cảm thấy mất mát, thậm chí nhục nhã. Người Nhật đã làm nhiều việc khiến thế giới phải khâm phục vì họ biết chủ động. Ví dụ, để xây dựng một nền công nghiệp cận đại, chính phủ Minh Trị trong những năm đầu đã không ngần ngại thuê gần 140 chuyên viên ngoại quốc qua làm trong Bộ Công nghiệp; lương của những chuyên viên này chiếm đến một phần ba ngân sách của Bộ. Điều này nói lên quyết tâm của chính phủ Minh Trị trong việc tiếp thu văn minh tiên tiến của nước ngoài. Cần để ý là mười năm sau đó, chuyên viên người Nhật đã học được nghề và có thể thay thế các chuyên viên ngoại quốc.
Nếu nhìn vấn đề như vậy, có thể nói là không những Nguyễn Trường Tộ đã “gặp” Itô Hirobumi mà còn “gặp” rất nhiều nhân vật Minh Trị khác - đặc biệt là Fukuzawa Yukichi và các trí thức trong Meirokusha. Tuy ông đã không gặp gỡ trên thực tế nhưng đã gặp họ qua phương sách vừa để đưa đất nước lên địa vị phú cường, mà qua đó lại có thể bảo vệ độc lập dân tộc của một nước Đông Á nhược tiểu trước những thách đố không ngừng của Tây phương.
 Các chú thích ở trên:
1         Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh , 1988 (sẽ viết tắt là NTT), tr. 120
2        Như trên
3        Như trên
4        Như trên, tr.29.
5        Như trên, tr. 36.
6        Như trên, tr. 155
7        Như trên, trg. 84-86
8        Người viết đã có dịp trình bày điểm này chi tiết hơn trong bài “Japanese and Vietnamese Attitudes Toward China : A Comparison” (Thử so sánh lối nhìn của Nhật Bản và Việt Nam đối với Trung Quốc) đăng ở tập san Asian and Pacific Quarterly, XXI, 2 (Autumn 1989), tr. 1-13.
9        Ông Đào Duy Anh là cháu rể của Phụ Chánh Trần Tiễn Thành.
10    Ông Đào Duy Anh viết là “non hai năm”, nhưng theo những tài liệu còn lại chúng ta chỉ có thể khẳng định là Nguyễn Trường Tộ ở Pháp khoảng 8 tháng (từ cuối tháng 3 cho đến cuối tháng 11, 1867).
11    Tri Tân, Số đã dẫn, tr. 23
12    NTT, tr. 63.
13    Như trên, tr. 22-23.
14    Trong bài này, Nguyễn Trường Tộ gợi ý là ông đi làm cho Pháp (Tây) không phải vì miếng cơm manh áo mà để tìm học tận mắt văn minh của họ, khi triều đình (Đông lân cung cấm) cần dùng thì ông sẽ đem hết tài năng ra giúp.
15    Qua hai câu này Nguyễn Trường Tộ muốn nói là cho dầu triều đình không chiếu cố đến ông, nhưng lòng ông vẫn luôn luôn hướng về triều đình như hoa hướng dương. Xem “Bài trần tình”, tr. 124; nguyên văn trích từ Dặng Huy Vận và Chương Thâu, Những đề nghị cải cách của Nguyễn Trường Tộ cuối thế kỷ XIX (Hà Nội : Nxb Giáo Dục, 1961), tr. 30.
16    Xem Suzanne W. Barnett, “Protestant Expansion nad the Chinese Views of the West” (Sự bành trướng của Giáo Hội Tin Lành và nhận thức của Trung Hoa về Tây phương). Modern Asian Studies, 6,2 (1972). Có khá nhiều tài liệu bằng tiếng Anh về vai trò của Giáo hội Tin Lành trong thời kỳ này, chẳng hạn như : Alexander Wylie, Memorials of Protestant Missionaries to the Chinese[Những bản điều trần của các giáo sĩ Tin Lành gởi người Trung Hoa], nguyên bản sách này ra đời năm 1867, sau đó được Ch’eng-wen Publishing Company (Đài Loan) in lại năm 1967; hoặc Chang Hsit’ung, “The Earliest Phase of the Introduction of Western Political Science into China” [Sự du nhập của khoa chính trị học Tây phương vào Trung Hoa trong giai đoạn đầu], Yenching Journal of Socials Studies, V.1 (July 1950).
17    NTT, tr. 108. Đoạn bànvề nước Pháp trên đây, Nguyễn Trường Tộ trích dẫn từ nguyên bản của Doanh hoàn chí lược, tr. 533, quyển 7. Trong nguyên bản không nói đến “xe sắt” như phần trích dẫn trên đây từ NTT.
18    Đoạn bàn về nước Lào trên đây Nguyễn Trường Tộ trích dẫn từ nguyên bản của Doanh hoàn chí lược, tr. 91, quyển 1. Trong nguyên bản không có đề cập đến các giáo sĩ, hai chức “tuên uý sứ” và “tuyên vũi tư” trong nguyên bản là hai chức quan do triều đình Trung Quốc (nhà Minh) phái sang để cai trị dân địa phương chứ không phải nghĩa như chức “tuyên úy” của các tôn giáo sau này. Cần xem lại nguyên văn chữ Hán của Nguyễn Trường Tộ để xác nhận điểm này.
19    Giống như chức Tỉnh trưởng
20    Xem Fred W. Drake, “A Mid-nineteenth – century Discovery of the Non-Chinese World” [Sự khám phá của người Trung Hoa về thế giới bên ngoài vào giữa thế kỷ XIX]. Modern Asian Studies, 6,2 (1972); Saneto Keishu hiệu đính và Tam yue-him (Đàm Nhữ-Khiêm) chủ biên, Nihon’yaku Chugokusho sôgô mokuroku [Mục lục tổng  hợp của những sách Trung Quốc đã dịch sang tiếng Nhật].Hong Kong : Chinese University of Hong Kong (Trung Văn Đại Học). Theo Drake, Doanh hoàn chí lược được tái bản lần thứ hai vào năm 1850, lần thứ ba vào năm 1859 (chưa được xác minh), và lần cuối cùng vào năm 1866. Không rõ cuốn mà Nguyễn Trường Tộ có xuất bản năm nào, nhưng chắc chắn là phải trước năm 1866. Trong Ssu-yu Teng và John K. Fairbank, China’s Response to the West [Phản ứng của Trung Quốc đối với (sự bành trướng) của Tây phương] có trích dịch một đoạn của Doanh hoàn chí lược, tr. 42-46.
21    Xem Sakade Yoshinobu, Kô yu-I [Khang Hữu Vi]. Tokyo : Shueisha, 1985) tr. 35-36.
22    Drake, tài liệu đã dẫn, tr.217.
23    Tức là từ năm 1853 khi chiến hạm Hoa Kỳ do Đô đốc Perry đến Nhật đòi mở cửa thông thương cho đến khi chính quyền Tokugawa bị lật đổ và bắt đầu Minh Trị Duy Tân (1868)
24    Saneto và Tam, sách đã dẫn, tr. 100
25    Xem Lu Wan-he (Lữ Vạn-Hoa). Meiji ishin to Chugoku [Minh Trị Duy Tân và Trung Quốc] (Tokyo : Rokkô Shuppan, 1988), tr.123-25.
26    NTT, tr. 145-51. Trong bản điều trần về “Kế hoạch làm cho dân giàu nước mạnh” (Lục lợi từ), Nguyễn Trường Tộ nói về tư tưởng “dĩ di trị di” nhưng qua lời của vua Đạo Quang : “Vua Đạo Quang nhà Thanh có nói : ‘Cái kế hay nhất để đánh địch không gì bằng lấy địch đánh địch’” (tr. 144)
27    Phòng vệ đường biển.
28    Tài liệu trong đoạn này chủ yếy dựa trên Lu Wan-he, sách đã dẫn, tr. 123-127. Về chi tiết của các ấn bản của Hải quốc đồ chí ở Nhật, xem Saneto và Tam, sách đã dẫn, đặc biệt các trang 4, 98-99, 101, 103, 136, 206.
29    Trích ở sách Joshua Fogel, Politics and Sinology : The Case Naitô Konan (1866-1934) [Dây liên hệ giữa chính trị và Trung -Quốc -học : Trường hợp của Naitô Konan (1866-1934)] (Cambridge, Mass : Harvard University Press, 1984), tr.15.
30    NTT. Tr.420.
31    Xem Sakade, sách đã dẫn, tr.98.
32    Ông Dào Duy Anh đã đề cập đến giả thuyết này trong bài “Nguyễn Trường Tộ học ở đâu?” đăng ở Tri Tân, số đã dẫn ; ông Đào Đăng Vỹ đã viết về vấn đề này trong bài “Nguyễn Trường Tộ và Y Đằng Bác Văn”, Văn Đàn, số 30-11-1961, tr. 11.
33    NTT, tr.99.
34    Itô xuất thân là vũ sĩ cấp dưới ở Chôshu
35    Xem Shibusawa Eichi, Tokugawa Keiki Kô den [Truyện Công tước Tokugawa Keiki] (Tokyo : Heibonsha, 1974), tập IV, tr. 3-6. Trong Meron Medzini, French Policy in Japan During the Closing Years of the Tokugawa Regime [Chính sách Pháp đối với Nhật Bản trong những năm cuối cùng của chính quyền Tokugawa] (Cambridege, Mass. : Harvard East Asian Monographs, 1971), tr. 173-174, cũng có nhắc đến phái đoàn Bakufu.
36    Sau này trở thành một nhà lãnh đạo tài giỏi vàothời Minh Trị, thiết lập chế độ ngân hàng và Daiichi Kokuritsu Ginkô (Đệ-Nhất Quốc-Lập Ngân-Hàng).
37    NTT, tr.43-44.
38    Theo luật lệ của Bakufu tức là chính quyền trung ương lúc bấy giờ, không người Nhật nào được đi ra nước ngoài.
39    Ông Trương Bá Cần có nói là “cuối năm 1864 chúng ta đã thấy có mặt ông ở Nhật Bản để làm thông dịch cho tướng quân”. Có lẽ ông đã lầm Shôgun (tướng-quân) và daimyô (đại-danh : lãnh chúa). Itô thuộc nhóm Chôshu phò thiên hoàng chống shôgun nên không có lý gì ông ta lại đi làm thông dịch cho tướng quân.
40    NTT, tr. 31.
41    Như trên.
42    Xem điều trần về “Khai hoang từ”, như trên, tr. 159-65

4. Về quan điểm " học thực dụng " của Nguyễn Trường Tộ.
Đặng Đức Thi

Trong bối cảnh đất nước chìm đắm trong sự bảo thủ lạc hậu, lại đang bị bọn thực dân Pháp tiến hành chiến tranh xâm lược; trong tình hình thực tế là triều đình phong kiến đương thời tỏ ra vô cung lúng túng và bất lực trước những vấn đề bức thiết của vận mệnh dất nước; những đề nghị cải cách của Nguyễn Trường Tộ và những người cùng thời xuất hiện như là một hiện tượng đột biến, rất đặc sắc, dườn như nó hy vọng giải đáp cho tình thế lúc bấy giờ.
Trong việc nghiên cứu toàn bộ những đề nghị cải cách của Nguyễn Trường Tộ, việc tìm hiểu những đề nghị cải cách về việc học, về học thuật có ý nghĩa đặc biệt quan trọn vì nó còn giúp vào việc tìm hiểu phuwng pháp tu duy chứa đựng nhiều yếu tố biện chứng của ông.
Bài viết này, chúng tôi giới hạn ở việc tìm hiểu quan điểm học thực dụng của NTT mong góp phần vào việc tìm hiểu tư tưởng NTT và những đề nghị cải cách của ông.
Trước NTT đã có nhiều người phê phán lối học từ chương ở các khía cạnh khác nhau và nhấn mạnh sự cần thiết phải chú ý tới mặt "hành" trong học tập. Nguyễn Trường Tộ trong thời kỳ theo Nho học với các ông đồ, đã tỏ ra chán ghét lối học từ chương và mong muốn thay đổi lối học này. Những năm tháng đi du lịch ở Hông Kông, Singapore và du học ở Pháp, được tiếp xúc với văn minh phương Tây và lối học thực dụng Pháp, Nguyễn Trường Tộ có dịp đối chiếu lối học từ chương của ta với lối thực dụng của người, có dịp nghiền ngẫm những ý tưởng đã nảy sinh từ trước, và cuối cùng, ông đã nhất quyết chủ trương thay thế lối học từ chương bằng lối học thực dụng. Tháng 9/1866, NTT viết bản điều trần " Về việc học thực dụng" ( dưới đây xin gọi tắt là điều trần tháng 9/1866). Và rồi hơn một năm sau, tháng 11/1867, NTT viết bản điều trần " Tế cấp bát điều" mà theo thứ tự là xin sử đổi học thuật, chú trọng thực dụng( dưới đây xin gọi là bản điều trần tháng 11/1867). Ở hai bản điều trần này, NTT trình bày toàn bộ ý tưởng của mình về việc học thực dụng và về việc sửa đổi học thuật. Vì vậy, qua hai bản điều trần này, chúng ta có thể nhận ra quan điểm " học thực dụng " của ông.
Để nêu bật lên diện mạo lối học thực dụng, NTT đặt nó bên cạnh, đối diện với lối học từ chương( giữa thế kỉ 19 ) NTT chỉ rõ :
- Lối học từ chương chỉ đào tạo được những người thuộc lòng kinh, sử, truyện xưa, không có ích gì cho đời nay. Còn trong lối học thực dụng, đào tạo được những nhân tài thực sự để làm cho đất nước giàu mạnh.
- Trong lối học từ chương, nôi dụng học tập chỉ là kinh, sử, truyện xưa (của Trung Hoa cổ đại), tức là những lối dạy về đạo lý, về phép trị nước của người xưa mà nay nó đã trỏ thành lỗi thời, không trả lời được những vấn đề đời nay đặt ra. Còn trong lối học thực dụng, nội dung là : " học những gì chưa biết để biết mà đem ra thực hành", mà thực hành là " thực hành những gì thực tế, trước mắt và còn để lại lợi ích cho bản thân nữa" tức là " học ở bản thân, học ở vạn vật, học cái tài nghệ", cụ thể là phải học " sự tích lưu truyền của các vua quan đời trước.. phải biết roc non sông bờ cõi, hình thể, biển hồ, đồi thành, đất dai trong nước ta thay đổi thế nào, phải biết nước ta có những mỏ kim loại, đá quý, thú nuôi, cây trồng như thế nào, phải biết những việc hiện tại như việc việc binh, hình, luật lệ, tài chính, thương mại, xây dưng, canh nông, dệt và những cái thiết thực khác.. và cũng phải biết các chiếu chỉ, sớ, dụ cùng những công vụ quốc gia hiên thời". ( Cũng cần học kinh sử truyện xưa của Trung Hoa nhưng chỉ để " khảo nghiệm những việc cần thiết) 
Học " kinh, hình, luật lệ, tài chính, thương mai, xây dựng, canh nông, dệt và những thứ khác được Nguyễn Trường Tộ giải thích :
+ Binh : "trận đồ binh pháp, đắp thành giữ nước, sử dụng súng ống"
+ Luật : "gồm cả kỷ cương uy quyền, chính lệnh của quốc gia, trong đó 
tam cương ngũ thường cho đến việc hành chính của các bộ."
+Tài chính : "thuế quốc trái"
+ Nhà cửa, đô thị, hải cảng.
+ Canh nông : nông cụ, phương pháp trồng trọt, thời vụ, loại giống lúa, loại giống chăn nuôi, đào kinh tưới tiêu...
- Trong lối học từ chương, phương pháp học tập là học thuộc lòng theo 
sách vở, nếu có thực hành cũng chỉ là làm thơ làm phú, là khéo sắp xếp, gọt dũa ngôn từ cho cầu k, cho hay mà thôi. Còn trong lối học thực dụng, học đi đôi với hành, qua " hành mà học, "hanh" trong việc trị nước, nhưng chủ yếu là "hành" trong nghề nghiệp cá thể của mình.
- Trong lối học từ chương, phương tiên học tập chỉ là các sách kinh sử, truyện của Trung Hoa cổ đại.
Còn trong lối học thực dụng thì phương tiện họ tập không chỉ là sách vở khoa học kỹ thuật mà còn là những khí cụ mua ở nước ngoài ( phương Tây) và quan trọng hơn là học và hành qua thực tế sản xuất.( Nguyễn Trương Tộ đề nghị " tìm trong sách vở của tôi, thu thập các tri thức, kinh nghiệm về các phương pháp canh nông, chăn nuôi để soạn thành sách để phổ biến, để học). Nguyễn Trường Tộ cũng đề nghị lập thêm các trường học nghề.
Như vậy, lối học thực dụng mà Nguyễn Trường Tộ chủ trương là lối học khác về căn bản lối học từ chương đương thời. Lối học thực dụng mà Nguyễn Trường Tộ quan niệm, nó thực sự là một nên giáo dục mới, có mục đích vì sự giàu mạnh của đất nước, có nội dung khoa học và thiết thực, có phương pháp cùng phương tiện học tập và các loại trường thích hợp.
Một quan điểm học tập mới mẻ như thế sẽ giải quyết như thế nào mối quan hệ giữa học tập tri thức và tu dưỡng đạo đức ?
Nho học quan niệm việc học bao gồm cả trong đó việc tu dưỡng đạo đức, đạo lý làm người và lấy việc tu dương đạo đức, đạo lý làm người làm nền tảng, theo nguyên lý " Tiên học lễ, hậu học văn" . Không Tử còn ghi rõ " Hưng ư Thi, lập ư Lễ, thành ư Nhạc" ( nhờ học Khinh Thi tâm hồn phấn chấn lên, đứng vững trong xã hội nhờ Lễ, đạt tới đỉnh cao sự tu dương ở Nhạc _ Luận Ngữ ) Khổng Tử coi thường những tri thức về sản xuất, cho đó là những cái mà người quân tử không cần biết.
Còn Nguyễn Trường Tộ ngay từ bản điều trần tháng 9/1866 đã khảng định rằawngf" Việc học tập bồi dưỡng nhân tài tức là con đường rộng lớn để đi đến giàu mạnh". Oong cho rằng " có giỏi tài nghệ mới hiểu lý lẽ của người và vật để bồi dưỡng cái că bản đạo đức" cho nên " chính cái " thành, chính, tu ,tề" chỉ thành tựu sau khi đã cách vật trí tri" mà công phu cách trí ấy là do học tập". Ông cũng khẳng định rằng " học ở bản thân, học ở vạn vật, học cái tài nghệ" tức có thể sáng tỏ
Như vậy , theo NTT học tập là để cách trí và cách trí là gốc, là cái căn bản của đạo đức. Trí và đức như thế là thống nhất, những nhờ có trí mà đức cócăn bản vững bền. Quan điểm trên đây của NTT rất gần với quan điểm của chúng ta ngày nay là thông qua dạy chữ mà dạy người.
Quan điểm học thực dụng của Nguyễn Trường Tộ đã giải quyết như thế nào một loạt các mối quan hệ cơ bản khác ?
- Về mối quan hệ giữa các môn khoa học tự nhiên và các môn khoa học xã hội. Lúc bấy giờ, nước ta chưa có khái niệm KHTN, KHXH và Nguyên Trường Tộ cũng chưa bình luận về mối quan hệ giữ các mon này. Nhưng trong bản điều trần tháng 9/1886, Nguyễn Trường Tộ nhấn mạnh việc học ở vạn vật ( tức là học tự nhiên), vì " Tạo vật là vị thầy vĩ đại của muôn dân", vì " Phàm những việc học tập đều là những cái mà tạo hó dạy cho, phàm những tri thức đều là sức hiểu biết nhưng cái mà tạo hoá hình thành, phàm những công việc làm đều là nhân nhân những cái tạo vật đó tạo ra, phàm những cái có được đều là nhân những cái mà tạo hoá đã để lại", vì " Học những điều gì thực tế sẽ có thực dụng, học những cái vụn vặt thì chỉ được cái vụn vặt, trông đậu thì được đậu, đó là lẽ tự nhiên, không ai có thể làm trái đạo lý đó được", và vì " Hiên nay các nước phương Tây, tất cả những khí cụ kỳ lạ, không có một cái gì là không dựa vào sức mạnh tự nhiên của trời đất để làm.
Đến bản điều trần tháng 11/1867, NTT đã bổ sung thêm về nội dung học tập như sau : cần phải học thiên văn, địa lý, lịch sử nước nhà ( xưa và nay), cần học tập để biết các chỉ, sớ, dụ, các công vụ của các bộ binh, hình, lại lễ... và cả các phong tục tập quán của dân ta nữa. Sự bổ sung này đã tạo nên sự cân đối hơn giữa các tri thức về tự nhiên và xã hội. Tuy nhiên, hình như ông vẫn cho rằng học tự nhiên thì thiết thực hơn học thơ văn, làm thơ văn là công việc vô ích.
- Về mối quan hệ giữa tri thức KH cơ bản và những tri thức nghề nghiệp cụ thể. Không thấy NTT bình luận vấn đề này, nhưng qua điều trần của ông ta thấy NTT đề cập đến cả hai. Về tri thức KHCB, ông nhấn mạnh hơn về tri thức nghề nghiệp. ( Chúng ta luôn thấy ông nhắc đến cái tài nghệ, nghiều nghề, cơ xảo, máy móc, phương pháp và kinh nghiệm trồng trọt. phương pháp và kinh nghiệm chăn nuôi, phương pháp chài luwows ghe thuyền, phương pháp dò tìm mỏ kinh loại. kỹ thuật dệt, sử dụng súng đạn.. tức là những cái ông cho là thiết thực để làm giàu đất nước).
Tư tương coi trọng những tri thức nghề nghiệp của NTT rất gần với tư tưởng "huấn luyện bách khoa" của Má và tư tưởng về việc day nghề của Lênin. ( Chúng ta cong nhớ rằng khi duyệt lại đề cương của Nađêgiơđa Constantinopna về giáo dục kỹ thuật tổng hợp, Lênin ghi chú rằng : " Chúng ta nghò, chúng ta cần phản có thợ môc, thợ nguội, ngay tức khắc. Tuyệt đối, tất cả phải trở thành những thợ mộc thợ nguội,.. nhưng phải dạy thêm một số tối thiểu kiến thức phổ thông và kỹ thuật tổng hợp".
- Về mối quan hệ giữa " xưa " và " nay ". Nguyễn Trương Tộ bác bỏ quan điểm cho rằng xưa hơn nay và tư tưởng trong xưa coi thường nay. Oong cho rằng, những bài học kinh nghiệm của người xưa là hay, là thích hợp cho hoàn cảnh xưa chứ không thích hợp cho hoàn cảnh nay. Ông chủ trương lấy nay làm chính, làm chủ yếu, nhưng ông không quên xưa, không xem thường xưa. Ông cho rằng cần phải duyệt lại để chọn lọc những trí thức, những kinh nghiệm xưa thực sự có ích cho nay, tức là có kế thừa những cái hay của người xưa. Nhưng ông cảnh cáo rằng chỉ " học xưa thì lòng người hướng về đường lối xưa, muốn được như xưa, học nay thì lòng người hướng vì thời nay mà muốn thành đạt một sự nghiệp gì. Học xưa hoc nay đổi khác lòng người như thế"
Như thế, NTT đã là người đầu tiên giải quyết mọi quan hệ giữa "xưa" và "nay" về mặt giáo dục và học thuật một cách tương đối hợp lý.
- Về mối quan hệ giữa "người" và "ta" trên phương diện giao dục, học thuật. NTT bác bỏ quan điểm chỉ biết có Trung Hoa ( nhất là TH cổ đại). Oong chủ trương lấy ta làm chính. Chủ trương lấy ta làm chính bắt nguồn từ mục đích của lối học thực dụng là học để hành ở nước ta, cho dân ta, nên phải học ta là chính. Chủ trương lấy ta làm chính cũng còn bắt nguồn từ lòng tự hoà về đất nước và dân tộc ta. ( Ông viết rằng :" Nước ta, một nước có tên tuổi vào hành nhì của phương Đông" hay là" Nước ta trên cũng có trời che, dưới cũng có đất chở" tức địa lý. Trong khoảng trời đất, nước ta cũng là một đất nước tốt lành hẳn hoi, đâu phải miền phụ dung của nước Tàu...) Ông nói :' phải lấy cái hay của mình có sẵn, còn phải gần cả những cái hay của thiên hạ sáng tạo ra." Ông nhắc nhở, cần phải tham khảo các sách thiên văn địa lý của phương Tây, các sách viết về nguồn lợi khoáng sản, cũng như về máy móc của phương Tây. Có thể nói, Nguyễn Trường Tộ là người đầu tiên, giải quyết tương đôi hợp lý mối quan hệ giữa ta và người trên phương diện giáo dục và học thuật theo hướng mở cửa, tiến bộ, thể hiện tầm nhìn vượt xa trên tầm nhìn của xã hội đương thời.

5. Nguyễn Trường Tộ - học ở đâu? 
(tạp chí Tri Tân, số 7, ngày 18.7.1941) 

Đào Duy Anh 

Ai cũng biết Nguyễn Trường Tộ (1) là một người học vấn uyên bác nhất, kiến thức sáng suốt ở đời Tự Đức, nhưng vì tư tưởng không được dùng, sự nghiệp không thành tựu cho nên không mấy người biết đến. Gần đây có người hâm mộ tài trí và thương xót thân thế ông nên đã có ý biểu dương.

Năm 1925 trong Nam Phong số 100 tháng 10 và tháng 11, phần chữ Hán, ông Sở Cuồng (2) đăng một bài tiểu dẫn về Nguyễn Trường Tộ và một bài điều trần thứ nhất. Năm 1926, ông Lê Thước đăng một bài tiểu sử ở số 102, phần chữ Hán. Trong Nam Phong phần quốc văn cũng có một bài của ông Nguyễn Trọng Thuật nói qua về thân thế ông Nguyễn Trường Tộ và trích dịch ít bài điều trần.

Gần đây ông Đào Đăng Vỹ cũng có dịch một ít điều trần của ông Nguyễn Trường Tộ đăng trong báo Patrie Annamite.

Những người nghiên cứu về Nguyễn Trường Tộ đó đều cho rằng ông có du học ở ngoại quốc hoặc ở Pháp nhiều năm.

Chỉ xem qua tập điều trần của ông thì ai cũng thấy rằng ông là một người hán học rất cao, sở học khác hẳn với khoa cử. Còn về tây học thì chính ông đã nói trong bài trần tình gời cho Trần Tiễn Thành năm 1863 rằng �?ovề học vấn thì không có môn gì là không xem đến, cao là thiên văn sâu là địa lý, phiền phức là nhân sự, cùng là luật lịch, binh pháp, các tôn giáo, các kỹ nghệ, các khoa cách trí, các môn thuật số, đều là khảo cứu đến nơi cả, mà lại chú ý nhất về môn học học thiên hạ tung hoành, ly hợp sự thế�?�. Lời tự khoe của ông đó không phải là ngoa đâu.

Tôi thấy ở đời bế tắc như bấy giờ mà có được người tài thức cao rộng vậy thì không khỏi băn khoăn tự hỏi người ấy học ở đâu, nên bấy giờ tôi vẫn thường để tâm kế cứu về điều ấy.

Nhưng không phải là việc dễ dàng. Hiện nay di tích của Nguyễn Trường Tộ còn để lại mà có thể tin chắc được thì chỉ có một ập điều trần có chữ châu phê và một tập di cảo ở người cháu là ông Nguyễn Trường Văn ở làng Bùi Châu phủ Hưng Yên, tỉnh Nghệ An (bản châu phê và bản sao di cảo ấy hiện có ở Bảo Đại thư viện). Trong châu bản ở sử quán thỉnh thoảng cũng có những bài phiến của đình thần dâng điều trần của Nguyễn Trường Tộ lên vua. Nhưng các tài liệu ấy không giúp cho ta giảdiquyết được cái vấn đề �?ohọc thức của Nguyễn Trường Tộ sở đắc ở đâu�?� được.

Những sách của ta không hề nói đến Nguyễn Trường Tộ đã đành, vì ông ấy chỉ là một giáo dân đã không có chức tước địa vị gì, mà lại bị nghi là phản quốc. Cho đến sách của người Tây viết về lịch sử nước ta thời ấy cũng không hề nói đến tên Nguyễn Trường Tộ vì đối với họ, ông chỉ là một đồ đệ của giám mục Gauthier .(3)

Nội các sách báo của người Pháp có nói đến Nguyễn Trường Tộ, tôi chỉ thấy có một câu mập mờ trong tạp chí �?oLa Semaine religieuse�?� ở Paris năm 1867, quyền II trang 731 : �?oNgười đông phương ở trong phái bộ thì có hai ông quan (Nguyễn tăng Doãn và Trần văn Đạo) và một ngườu kiến trúc sư theo giáo Gia-tô, có trí nớ lạ thường, có tài năng lỗi lạc và chính y đã xây giáo đường của ta ở Sàigon�?�. Tôi tìm hết sức, không thấy có sách báo gì cho chứng cớ rằng Nguyễn Trường Tộ có du học Pháp hay ngoại quốc. Tuy trong bài trần tình, ông có nói: �?oĐến khi lớn tuối, tôi đi chu du những nơi xứ lạ, những điều mắt thấy tai nghe toàn là những điều hiếu dụng�?�. Nhưng ta không rõ ông đi những nơi nào.

Cách đây bốn năm, tôi có về làng Bùi Châu để tìm di tích của ông, tôi hỏi người cháu nội ông là Nguyễn Trường Văn để xin xem gia phả, tưởng có thể nhờ đó mà được ít nhiều tia sáng. Nhưng tiếc thay! thường các nhà theo giáo Gia-tô đã bỏ cái tục biên gia phả. Thay cho gia phả, ông Văn đưa cho tôi xem quyển vở nhỏ viết chữ Nôm đề là: �?oSự tích ông Tộ�?� mà nói là của con trai Nguyễn Trường Tộ là Nguyễn Trường Cửu (4) chép ra. Xem bản ấy, tôi thấy đại khái giống với bài tiểu sử mà ông Lê Thước đăng trong tạp chí Nam Phong bấy giờ tôi mới nghĩ rằng có lẽ ông Lê Thước đã dựa theo bản ấy cùng những lời Nguyễn Trường Cửu thuật lại mà viết. Còn những người khác thì có lẽ cũng đều căn cứ vào bài của ông Lê Thước cả.

Quyển sự tích ấy nói rằng : �?oKhi lớn lên, học với thầy tú Giai là người làng Bùi Ngõa, sau lại học với thầy công sinh tên là Hựu ở Kim Khê song chỉ tìm thấy những điều thực học mà thôi. Hỏi thầy đôi điều, thầy cắt nghĩa không xuôi, lại tìm học với quan huyện Địa Linh hưu trí ở làng Tân Lộc ... Đến sau, hỏi thầy hai điều, thầy giảdikhông được, rồi thôi học. Có thiết trường dạy học ở nhà, rồi ngồi dạy học chữ Hán ở trong Nhà chung xã Đoài. Đức cha Ngô Gia Hậu (4) thấy ông thông minh, nên ngài dạy cho chữ Pháp, tiếng Pháp cùng các khoa kỹ nghệ�?�.

Theo bài tiểu sử do ông Lê Thước viết, thời khi Nguyễn TRường Tộ học với thầy tú Giai là năm Thiệu Trị thứ 7 (1846) đã 18 tuổi. Khi đến học thầy cống Hựu là năm Tự Đức thứ 5 (1852) đã 24 tuổi. Khi học với quan huyện Địa Linh là năm Tự Đức thứ 8 (1855) đã 27 tuổi. Khi Gám mục Gauthier mời ông làm giáo sư chữ Hán trong trường học Nhà chung xã Đoài là năm Tự Đức thứ 11 (1858),ông đã 30 tuổi.

Khi có lệnh cấm đạo (5), Giám mục Gauthier đem Nguyễn Trường Tộ cùng mấy đạo đồ khác đi trốn xuống tầu Tây ban Nha vào Tourane rồi đi Hương Cảng, đó là năm 1859. Cứ như vậy thì Nguyễn Trường Tộ chỉ học giám mục Gauthier một năm thôi.

Bài tiểu sử của ông Lê Thước viết nói rằng bấy giờ giám mục đem ông Tộ sang Paris, rồi ông ở đó học vài ba năm, rất nhiều sở đắc. Bản �?oSự tích ông Tộ�?� thì chỉ nói: �?osang Đại Pháp ở thành Ba Lê, đi du lịch, xem chính trị, học hành, kỹ nghệ, phong tục nước Đại Pháp.�?�. Thực ra thì giám mục Gauthier ở lại Hương Cảng, có lẽ giám mục cho Nguyễn Trường Tộ và ít người đạo đồ khác đi qua nước Ý rồi sang nước Pháp . (6)

[Kiểm duyệt bỏ 9 dòng]

Nguyễn Trường Tộ trốn theo Pháp đầu năm 1859, mà đến khi Đại đồn (đồn Chí Hòa, Gia Định) thất thủ là đầu năm 1861, Nguyễn Trường Tộ đã về làm việc ở Suý phủ ở Gia Định. Nếu trừ đi nửa năm thời bấy giờ đi về thì Nguyễn Trường Tộ có thể ở nước Pháp chừng một năm rưỡi. Ta có thể đoán rằng trong khi Nguyễn Trường Tộ ở Pháp, ông không theo học trường nào, nhưng vì đã có học được ít chữ với giám mục Gauthier, nên ông có thể nhờ sách vở và kiến văn mà khảo cứu được các khoa học, kỹ thuật, cùng là chính trị, phong tục, lịch sử nước Pháp và các nước Âu châu.

Song cái sở học của Nguyễn Trường Tộ có phải chỉ nhờ non hai năm ở Pháp mà được không? Trong bài điều trần tháng 5 Tự Đức 17 (1864) có nói rằng : �?oCách 15 năm trở lại đây, tôi đã biết thế nào nước ta cũng mắc cái hoạn nạn bấy giờ cho nên tôi phải tận lực học khôn của thiên hạ, kể đã lâu ngày.�?�.

Cứ theo bản tiểu sử do ông Lê Thước viết thì 15 năm về trước là năm 1849, Nguyễn Trường Tộ còn học với thầy Giai, rồi sau đó còn học nơi ông cống Hựu và ông huyện Địa Linh đến 9 năm nữa. Nếu từ bấy giờ đến năm 1858, ông cứ miệt mài trong vòng học xưa (học với ông Tú, ông Cống, ông Huyện thì chỉ có thể học theo lối xưa) thì sao lại nói là �?otận lực học khôn của thiên hạ�?�?.

Vả, Nguyễn Trường Tộ là người theo giáo Gia-tô, không thể đi thi được thì chỉ học để mở mang kiến thức, lại là một người thông minh như thế không lẽ nào theo học với những thầy xưa ấy mà chịu mài iệt cho đến 30 tuồi mới thôi. Tôi ch8ác rằng những niên hiệu do ông Lê Thước dẫn đó là ông nghe lời truyền khẩu mà viết ra cho nên sai lầm.

Nay xem đoạn văn ở bài trần tình đã dẫn trên kia nói rằng khi lớn lên thì ông đi �?ochu du những nới xa lạ�?�, cùng một đoạn tiếp nói rằng: �?oKịp đến khi đạo lý gần hỏng (chỉ việc cấm đạo) thì tôi đi qua sông, vượt biển để giữ lấy thiên chân�?�, thì ta có thể đoán rằng, khi lớn lên tức là trong khoảnâng từ năm 20 đến 30 tuồi, Nguyễn Trường Tộ học chữ Hán (trước học cha là Nguyễn Quốc Thư, rồi đến ông Tú Giai, ông Cống Hựu (7) và ông Huyện Địa Linh) đã giỏi rồi ông mới theo các giáo sĩ Gia-tô đi du lịch ra ngoại quốc, hoặc sang Hương Cảng là nơi các giáo sĩ thường tụ tập để chờ vào Trung Hoa, Nhật bản hay sang Việt Nam, hoặ sang Pênăng là nơi đào luyện các giáo sĩ người đông phương. Khi ở Hương Cảng, chắc ông đọc được nhiều tân thư của người Tàu, nhất là những sách về khoa học, đó tức là ông đi �?ohọc khôn của thiên hạ�?� vậy.

Sai khi du lịch ít năm, ông trở về quê, đước giám mục Gauthier mời làm giáo sư dạy chữ Hán ở Nhà chung. Kịp đến khi có lệnh cấm đạo, ông trốn đi, rồi sang Pháp đó tức là �?oqua sông vượt bể để giữ lấy thiên chân�?� vậy.

Nguyễn Trường Tộ học rộng nhưng viết và nói tiếng Pháp không thạo lắm, vì ông không chuyên học chữ Pháp ở Pênăng như các ông Trương Vĩnh Ký và Nguyễn Hoằng. Bởi thế, không khi nào làm thông ngôn. Mà khi giúp việc cho Suý phủ thì chỉ làm việc từ hàn (lettré) cũng như Tôn Thọ Tường. Mỗi khi triều đình cần dùng nười thông ngôn thì Nguyễn Trường Tộ cứ giới thiệu Nguyễn Hoằng (8) (linh mục Hoằng) chứ tự mình không khi nào đương việc ấy.

Tôi nghe nhiều nhà lão thành nói với rằng Nguyễn Trường Tộ khi ở Tây về (?) tại Hương Cảng có gặp Y-đằng Bác-văn (9) là một công thần duy tân của nước Nhật Bản. Khi chuyện trò xong, Y-đằng phục tài Nguyễn Trường Tộ mà nói rằng: �?oKể tài trí thì ông hơn tôi nhiều, nhưng cứ tình thế hai nước ta, thì tôi sẽ thành công dễ dàng mà ông thì sẽ hoàn toàn thất bại.�?�. Câu chuyện ấy có thực không? Có người lại quả quyết với tôi r8àng trong tủ sách nhà cụ Đặng Văn Thuỵ ở Phủ Diễn có một quyển tạp ký, cụ chép cả câu bút đàm của hai người. Tôi đã nhờ con cụ Đặng Văn Thuỵ tìm dùm quyển ấy mà chưa ra.

Các nhà thức giả, nếu ai biết c1o tài liệu gì gỡ được manh mối câu chuyện ấy thì xin giúp tôi, tôi hết lòng cảm tạ.

Ghi chú của Tòa soạn:

(1) Nguyễn Trường Tộ tên thánh là Phao-lồ (Paul)

(2) Ông Sở Cuồng tên thật là Lê Dư. Ông có 3 người con rể nổi tiếng là : nhà văn Vũ Ngọc Phan với tác phẫm nổi danh: �?oNhà Văn Hiện Đại�?�, tướng Trung Cộng Nguyễn Sơn Vũ Nguyên Bác và Mạc Định Hoàng Văn Chí.

(3) Giám mục Gauthier ở giáo phận Vinh lấy tên Việt là Ngô Gia Hậu.

(4) Lúc Nguyễn Trường Tộ mất ngày 22.11.1871, Nguyễn Trường Cửu mới có 18 tháng.

(5) Trong châu bản triều Nguyễn, suốt năm 1858 không có dụ nào của vua Tự Đức ra lệnh cấm đạo. tháng 10 năm 1858, Nguyễn Trường Tộ tháp tùng giám mục Gauthier còn gọi là đức Thầy Huy hay Ngô Gia Hậu vào Đà Nẵng tức Tourane để đón tiếp quân Pháp và các giáo sĩ người Pháp đang tập trung khá đông đảo ở đấy, trong đó có giám mục Francois Marie Pellerin, để cùng nhau làm áp lực với quân Pháp đánh thẳng ra Huế cho chóng dứt điểm. Nhưng đô đốc Rigault de Genouilly đã từ chối không đánh ra Huế mà còn ra lệnh cho các giáo sĩ người Pháp phải trở về nhiệm s73 hoặc lánh nạn sang Hông Kông. Giám mục Pellerin, Gauthier cùng Nguyễn Trường Tộ sang Hương Cảng vào dịp này (theo linh mục Trương Bá Cần trong �?oNguyễn Trường Tộ, con người va di thảo�?� trang 22). Để rõ hơn xin đọc thêm tác phẩm �?oBước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp ở Việt Nam (1858-1897)�?� của tiến sĩ Nguyễn Xuân Thọ hay bản tiếng Pháp �?oLes Débuts de l�?T Installation du Système Colonial Francais au Vietnam (1858-1897) của cùng tác giả Nguyễn Xuân Thọ.

(6) Năm 1858, giám mục Gauthier ở lại Hương Cảng không đi Pháp. Theo ghi chú của linh mục Trương Bá Cần trong Nguyễn Trường Tộ: �?oCon Người và Di Thảo�?�, nơi trang 430 như sau: Vì giám mục Gauthier không về Pháp nên có thể là Nguyễn Trường Tộ cũng không sang châu Âu vào dịp này. Có thể là vào chuyến đi công vụ năm 1867, Nguyễn Trường Tộ mối cùng giám mục Gauthier được Giáo hoàng Piô IX tiếp kiến. Nếu Nguyễn Trường Tộ đi một mình thì không dễ gì được vào triều kiến.

(7) Cống Hựu hay Cống Hữu người ở xã Kim Khê, tên thật là Đinh Trọng Thư.

(8) Linh mục Nguyễn Hoàng hay còn gọi là Nguyễn Hoằng sinh năm 1839 tại Hà Tĩnh, mất năm 1909. Ông là thông dịch viên củ Rheinert và được vua Tự Đức biệt đãi đến chức Chủ Sự Trung Hành Nhân và Ngự Tiền Thông Dịch, được phép ra vào cung cấm, lại chính là kẻ �?ogiảo quyệt muôn đường�?� và �?oăn ở hai lòng�?� như chính nận xét của vua Tự Đức (xem Tự Đức thánh chế, Q.1, Sàigon 1971, trang 233, theo Đỗ Quang Hưng.)

(9) Theo giáo sư Vĩnh Sính, tiến sĩ sử học, chứng minh Nguyễn Trường Tộ không bao giờ gặp Y-đằng Báv-văn trong bài viết độc đáo: �?oVài ý kiến đóng góp vào việc tìm hiểu và đánh giá Nguyễn Trường Tộ�?� trong cuốn �?oViệt Nam và Nhật Bản trong thế giới Đông Á�?�. Y-đàng Bác-văn tư81c Itô Hirobumi sinh năm 1841, mất năm 1909. Năm 1863 mới 22 tuổi, Itô còn đang du học ở Anh và nước Nhật còn nhiều phe phái chưa thống nhất, mãi đến năm 1868 nước Nhật mới thống nhất và bắt đầu nghĩ đến chuyện canh tân thì làm sao Nguyễn Trường Tộ biết được mà viết điều trần theo gương Nhật Bản để canh tân?. Đây là điểm sáng, thú vị cho những người muốn tìm hiểu về Nguyễn Trường Tộ. [Tòa soạn báo Đông Dương số 66, ngày 30.4.1998 �?" Houston, Hoa Kỳ


6. Trao đổi ý kiến với tiến sĩ Bùi Kha về Nguyễn Trường Tộ

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét