Kỷ niệm ngày Thương binh liệt sĩ 27.7, đúng 9h sáng 26/7, tại tòa soạn Báo điện tử Giáo Dục Việt Nam, hai vị tướng một thời binh lửa đã bắt đầu chia sẻ cùng độc giả những kí ức, kỉ niệm không thể quên nơi chiến trận, trong đó có những câu chuyện giờ mới kể về sự hi sinh của đồng đội nơi chiến trường khói lửa.
Buổi giao lưu sẽ có sự tham gia của hai vị Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân là Thiếu tướng Lê Mã Lương và Trung tướng Phạm Xuân Thệ.
Cuộc giao lưu không chỉ nói về những phút giây đau thương khi người lính chứng kiến người đồng chí, đồng đội của mình, những đồng bào phải hy sinh mà còn khẳng định ý chí chiến đấu của những “Anh bộ đội Cụ Hồ” vượt lên trên đau thương mất mát để đấu tranh bảo vệ Tổ quốc.
Khách mời của buổi giao lưu gồm: Trung tướng Lê Hữu Đức, Thiếu tướng - Anh hùng lưc lượng vũ trang Lê Mã Lương, Trung tướng - Anh hùng lực lượng vũ trang Phạm Xuân Thệ.
Tuy nhiên, trong nhiều năm gần đây, chúng ta đã dùng phương pháp ngoại cảm để tìm hài cốt của đồng chí, đồng đội. Tôi là người cũng đã trực tiếp được nhà ngoại cảm dẫn đến nơi hi sinh của anh ruột tôi. Anh tôi hi sinh từ tháng 6/1966 đến năm 2005 thì cũng do bạn bè mách bảo thì tôi có nhờ nhà ngoại cảm ròng rã 2 ngày trời nhưng khi tìm không có hiệu quả. Và một số đồng chí bạn bè của tôi cũng dùng phương pháp nhờ nhà ngoại cảm để tìm nhưng kết quả không đạt.
Chính vì vậy, đối với các nhà ngoại cảm tìm các mộ liệt sỹ thì tôi thấy còn nhiều điều rất băn khoăn. Nếu như chúng ta cứ dùng phương pháp nhà ngoại cảm thì rất tốn kém nhưng không mang lại kết quả cao.
Tôi nhớ gần đây nhất, một nhà ngoại cảm có tiếng được gia đình của đồng chí chính trị viên đại đội 11, tiểu đoàn 9, trung đoàn 66, sư đoàn 304 nhờ tìm mộ. Tôi và đồng chí đó cùng đơn vị, tôi làm đại đội trưởng. Ngày 30/5/1972, đơn vị hành quân từ động Ông Do cách thị xã Quảng Trị khoảng 20km đi tới một điểm có địa danh là Tân Téo, đội hình chúng tôi bị bom đánh, đồng chí hi sinh tại chỗ.
Chúng tôi đã tổ chức mai táng có mộ chí nhưng gia đình nhờ nhà ngoại cảm đó, nhà ngoại cảm cứ khẳng định với tôi là hài cốt của đồng chí chính trị viên đại đội vẫn còn ở trong một hầm chữ A, chưa được lấy ra, tôi hoàn toàn không chịu, vì tôi khẳng định với nhà ngoại cảm là chúng tôi đang hành quân thì bị bom đánh vào đội hình, cho nên không có hầm chữ A. Và thực sự là hài cốt của đồng chí chính trị viên này đã được đội quy tập mộ liệt sỹ của bộ chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Trị đưa vào nghĩa trang liệt sỹ.
Trường hợp thứ 2, cũng qua nhà ngoại cảm, gia đình của một đồng chí trưởng phòng tài chính thuộc Cục tài chính – Bộ Quốc phòng đi tìm hài cốt người anh hi sinh ngày 1/4/1972 tại Động Toàn (Cam Lộ, Quảng Trị). Khi đồng chí này bị thương, đồng đội đã đưa về đội phẫu của trung đoàn, sau đó đồng chí hi sinh. Đã mai táng ở phía đông nam Động Toàn, bên bờ sông Đakrong. Nhưng nhà ngoại cảm chỉ cho gia đình và khẳng định là hài cốt của anh đồng chí trưởng phòng tài chính đó mai táng tại xã Cam Chính (Cam Lộ, Quảng Trị) mà xã Cam Chính này đến ngày 10/4, chúng tôi mới giải phóng.
Anh của đồng chí này đã hi sinh vào mùng 1/4/1972 thì không lý gì lại đưa liệt sỹ vào vùng chưa giải phóng để chôn cất. Nhưng nhà ngoại cảm cứ khăng khăng khẳng định là ở khu vực xã Cam Chính, làm cho gia đình và đồng đội đi tìm rất nhiều lần mà không thấy.
Khi đồng chí trưởng phòng tài chính tới gặp tôi và mang tấm bản đồ khu vực tác chiến mà nơi trận đánh xảy ra mà anh đồng chí đó hi sinh, tôi vẽ và chỉ vị trí của trạm phẫu trung đoàn – nơi mà anh đồng chí đó hi sinh và chôn cất tại đó thì gia đình và đồng đội vào tìm thấy, lấy được hài cốt và có cả các di vật của liệt sỹ đó, trong đó có chiếc bi – đông đựng nước mà anh đồng chí đó khắc tên mình. Vì thế, gia đình rất tin và khẳng định đây là anh của đồng chí trưởng phòng tài chính.
Đấy là một số trường hợp tôi được chứng kiến mà trực tiếp với các nhà ngoại cảm. Cho nên, tôi khẳng định: Tìm hài cốt liệt sỹ qua các nhà ngoại cảm là một điều không hiệu quả.
Thưa trung tướng Thệ và thiếu tướng Lê Mã Lương, lịch sử dường như ít nhắc tới những trường hợp chiến sĩ ta hy sinh ngay trước cửa ngõ Sài Gòn, hy sinh khi chỉ cách hòa bình ít giờ đồng hồ? Các bác có thể kể lại những câu chuyện mà bác trực tiếp chứng kiến? (Phạm Hải Phong, Hải Phòng)
Thiếu tướng Lê Mã Lương: Tôi là người có may mắn tham gia chiến dịch xuân 75 và chiến dịch mang tên Bác. Trước cửa ngõ Sài Gòn, tôi đã chứng kiến nhiều sĩ quan và chiến sĩ quân đội hy sinh, chỉ ít giờ sau khi chúng ta giải phóng toàn bộ Sài Gòn. Có những trường hợp như Tiểu đoàn phó Hoàng Thọ Mạc, sau này được truy tặng anh hùng; Trung úy Hoàng Khắc Tàng, chính trị viên Đại đội 6, tiểu đoàn 5, trung đoàn 24, sư đoàn 504, người cuối cùng hy sinh tại căn cứ Nước Trong, trước khi mở toang cánh cửa tiến vào nội đô Sài Gòn.
Sau này Nhà nước còn tuyên dương hàng chục anh hùng đã chiến đấu, hy sinh, bị thương trước cửa ngõ Sài Gòn. Nói như vậy để chứng tỏ, chúng ta không quên những người con ưu tú của đất nước đã ngã xuống trước ngày thắng lợi. Ngay những phần mộ của anh em hy sinh, chúng tôi đã tổ chức đưa anh em về các nghĩa trang liệt sĩ...
Tôi không thể quên trường hợp hy sinh của Trung úy Hoàng Khắc Tàng. Ngày 29/4/1975, từ trên trung đoàn, tôi điện thẳng xuống cho Trung úy chính viên đại đội 6 Hoàng Khắc Tàng: "Đại đội của anh đã vào vị trí xuất phát tấn công chưa?", Trung úy Hoàng Khắc Tàng báo cáo: "Thưa chủ nhiệm, toàn bộ đại đội 6 đã vào vị trí xuất phát". Tôi nói ngay: "Động viên anh em, đây là cửa ngõ Sài Gòn, là cơ hội lịch sử của chúng ta trong trận đánh quyết định này. Lưu ý giảm thương vong tối đa". Trong một đợt xung phong, Hoàng Khắc Tàng dẫn đầu Đại đội 6, lao vào trường Bộ binh tại căn cứ Nước Trong.
Anh bị thương nặng, trước khi tắt thở, anh có dặn lại: “Hãy lao lên phía trước để tôi nằm lại ở đây, không sao đâu”. Sau đó, anh dùng chút sức lực cuối cùng của mình nói với đồng đội: “Báo cáo cho Đại úy Lê Mã Lương biết, tôi đã hoàn thành nhiệm vụ” và anh tắt thở.
Trung tướng Phạm Xuân Thệ: Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, với sức mạnh tiến công như vũ bão của 5 cánh quân bộ đội chủ lực và sự phối hợp của bộ đội địa phương, dân quân du kích và lực lượng đồng bào nổi dậy của TP. Sài Gòn – Gia Định.
Địch, lực lượng địch dồn từ các mặt trận Huế - Quảng Trị- Đà Nẵng – Tây Nguyên và nhiều tỉnh thành phố khác. Khi quân ta đánh chiếm và giải phóng, chúng dồn về thành phố Sài Gòn với lực lượng quân rất lớn, chúng tổ chức các tuyến phòng thủ ngoại vi TP. Sài Gòn nhằm ngăn chặn lực lượng tiến công của chúng ta. Chúng thành lập các tuyến phòng thủ rất kiên cố, việc chi viện hỏa lực, pháo binh và không quân rất lớn, nhưng với sức mạnh tiến công của quân và dân ta, từng tuyến phòng thủ của địch đã bị ta tiến công, tiêu diệt và giải phóng.
Trên hướng Đông của chiến dịch Hồ Chí Minh, lực lượng quân đoàn 2 đảm nhiệm tiến công, tiêu diệt lực lượng địch tại căn cứ Nước Trong, tổng kho Long Bình và lực lượng địch trên địa bàn tỉnh Long Khánh, Vũng Tàu.
Chiều 26/4/1975, chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mở màn bằng trận đánh của trung đoàn 9 và trung đoàn 24, sư đoàn 304, quân đoàn 2, tiến công địch ở căn cứ Nước Trong, tổng kho Long Bình. Từ ngày 26 hết ngày 28, chúng tôi mới tiêu diệt địch ở căn cứ Nước Trong và một phần ở tổng kho Long Bình. Với sự kháng cự quyết liệt của kẻ thù, sau 2 ngày đêm chiến đấu, cán bộ chiến sỹ của trung đoàn 9 đã thương vong và hi sinh hàng trăm đồng chí.
Sau khi giải phóng được căn cứ Nước Trong và tổng kho Long Bình, trung đoàn 66, sư đoàn 304, quân đoàn 2, chúng tôi được nằm trong đội hình của binh đoàn thọc sâu có nhiệm vụ thọc thẳng vào trung tâm TP. Sài Gòn theo trục đường xa lộ Biên Hòa – Sài Gòn.
17h ngày 29/4, đội hình thọc sâu của chúng tôi bắt đầu hành quân, nhiệm vụ của chúng tôi là nếu gặp địch chống cự trên dọc đường thì triển khai chiến đấu, tiêu diệt địch lại tiếp tục hành quân vào nội đô TP. Sài Gòn. Lúc này, tôi là Đại úy tham mưu phó trung đoàn 66, sư đoàn 304, quân đoàn 2, tôi được Ban chỉ huy trung đoàn giao nhiệm vụ đi đầu chỉ huy lực lượng bộ binh của tiểu đoàn 7, trung đoàn 66, đi cùng với lực lượng xe tăng của lữ đoàn 203.
Với nhiệm vụ đánh chiếm các mục tiêu, Dinh Độc Lập, đài phát thanh Sài Gòn, Bộ Tư lệnh Hải quân ngụy Sài Gòn, trong quá trình hành quân đến khoảng 5h sáng ngày 30/4, đội hình chúng tôi tới cầu Sài Gòn, trong khi đó, lực lượng địch ở cầu Sài Gòn phòng thủ rất kiên cố với nhiều ụ súng lô cốt, hỏa lực và lực lượng xe tăng.
Dưới sông Sài Gòn có rất nhiều tàu chiến địch. Khi đội hình của chúng tôi tới đầu cầu Sài Gòn bên này, các loại hỏa lực của địch bắn trả một cách quyết liệt, chúng tôi dừng lại triển khai đội hình chiến đấu, xe tăng và bộ binh của ta triển khai 2 bên đường, dùng hỏa lực tiêu diệt địch. Chúng tôi bắn cháy 4 chiếc xe tăng M41, 2 chiếc tàu chiến ở dưới sông Sài Gòn và tiêu diệt nhiều ụ súng lô cốt của địch ở bên kia cầu Sài Gòn sau khoảng 10 phút chiến đấu.
Nhiều đồng chí, đồng đội của chúng tôi hi sinh ngay chân cầu Sài Gòn bên này, trong đó có đồng chí đại úy Ngô Văn Nhỡ - tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn xe tăng hi sinh ngay trên tháp pháo cùng nhiều đồng chí chiến sỹ bộ binh cũng hi sinh và bị thương.
Khoảng 7h sáng thì chúng tôi giải phóng được cầu, đội hình vượt qua cầu Sài Gòn, tiến công thẳng vào nội đô TP. Sài Gòn. Lực lượng bộ binh của tiểu đoàn 7 cùng với xe tăng đánh chiếm Dinh Độc Lập, tiểu đoàn 8, trung đoàn 66 đánh chiếm đài phát thanh, tiểu đoàn 9 đánh chiếm Bộ Tư lệnh Hải quân và cảng Ba Son.
Đặc biệt là trên hướng đánh chiếm vào Dinh Độc Lập của tiểu đoàn 7, chỉ còn cách Dinh Độc Lập khoảng hơn 100m, đồng chí Tô Văn Thành là chiến sỹ bộ binh của tiểu đoàn 7, ngồi trên xe tăng của ta bị địch bắn, đồng chí ngã từ trên xe tăng hi sinh khi chỉ cách Dinh Độc Lập khoảng 100m.
Đấy là một số cán bộ chiến sỹ của đơn vị chúng tôi hi sinh chỉ cách giờ giải phóng khoảng 1 tiếng đồng hồ mà tôi được chứng kiến mà trực tiếp chỉ huy họ chiến đấu tại đầu cầu Sài Gòn.
Thưa bác Lương, từ một người lính vốn xông pha trên trận mạc, vậy khi trở về phụ trách ở Bảo tàng quân sự Việt Nam, bác có cảm thấy bị “hẫng hụt”? Theo nhiều người, đó là một môi trường quá bình lặng, yên tĩnh? Thậm chí có ý kiến còn cho rằng: với người có danh hiệu anh hùng, đã về bảo tàng thì coi như sự nghiệp cũng... đi vào bảo tàng luôn (Hương, Hà Đông, Hà Nội)
Thiếu tướng Lê Mã Lương: Tôi chưa bao giờ cảm thấy như vậy. Khi cấp trên quyết định chuyển tôi về làm ở bảo tàng tôi hết sức vui vẻ nhận lời. Bên ngoài, có thể nhiều người có cảm giác, bảo tàng là nơi bình lặng và yên tĩnh nhưng thực tế thì không phải vậy. Nếu chỉ nghĩ đơn thuần bảo tàng là nơi chỉ chứa đựng những hiện vật chiến tranh để hàng ngày mở cửa cho khách tham quan… thì như thế còn thiếu hụt lắm.
Càng đi sâu vào bảo tàng, tôi càng thấy được cuộc sống ở bảo tàng sôi động không kém gì một đơn vị. Ở bảo tàng, đây trước hết là một cơ quan khoa học, vì vậy nên người ta phải có trình độ, năng lực nhất định để nghiên cứu, tìm hiểu. Mỗi một hiện vật không đơn thuần là một cái ca, cái cốc… mà ở mỗi cái đó còn chứa đựng cả một câu chuyện hấp dẫn, có hồn, đầy sức mạnh… mà ta phải tìm hiểu mới có thể rõ được. Kể cả những hiện vật của địch, chúng không chỉ là những chiến lợi phẩm mà còn là minh chứng cho những giọt mồ hôi, xương máu của cha anh ta.
Chính vì vậy, đối với tôi, đời sống bảo tàng đa dạng và phức tạp lắm. Mỗi ngày, nhìn thấy dòng người đông đúc vào bảo tàng tham quan, họ chăm chú lắng nghe về từng hiện vật, về từng câu chuyện… mình càng ý thức được ý nghĩa và giá trị của công việc mình đã làm.
Thưa các bác, cảm giác lần đầu xung trận như thế nào? Ở nơi chiến trường, yếu tố nào giúp cho chiến sĩ vững tâm, chắc tay súng? (Văn Hương, Thái Bình)
Thiếu tướng Lê Mã Lương: Vừa rời ghế nhà trường gia nhập quân đội, sau một thời gian ngắn huấn luyện, chúng tôi bắt đầu hành quân trên đường ra mặt trận. Đi qua những trọng điểm, những túi bom của địch, ngày và đêm chứng kiến sự hy sinh của dân, bộ đội, thanh niên xung phong và dân công hỏa tuyến, làm cho mỗi người lính chúng tôi như được tăng thêm tinh thần và quyết tâm chiến đấu với kẻ thù.
Trận đánh đầu tiên của tôi là đánh vào tập đoàn cứ điểm Huội San – Tà Mây, phối hợp cùng các đơn vị xe tăng. Khi chúng tôi lao vào căn cứ địch, tiếng bom, tiếng đạn nổ tạo ra những vầng sáng chói lòa trong đêm tối làm cho mỗi chiến sĩ chúng tôi thêm hưng phấn, như được tiếp thêm sức mạnh để tiến lên tiêu diệt quân thù.
Vào thời điểm đó, bản thân tôi không hề có cảm giác sợ hãi. Có lẽ là do trong quá trình hành quân, tôi đã tận mắt chứng kiến nỗi đau và sự hy sinh của những người dân và đồng đội của mình.
Trung tướng Phạm Xuân Thệ: Tôi nhập ngũ ngày 5/8/1967, sau 4 tháng huấn luyện tại Thái Nguyên, chúng tôi hành quân đi bộ ròng rã gần 3 tháng trời. Ngày 15/4/1968, tôi được bổ sung vào đại đội 11, tiểu đoàn 9, trung đoàn 66, sư đoàn 304, tại mặt trận Khe Sanh. Mùng 2/5/1968, tôi được tham gia trận chiến đấu đầu tiên, đại đội 11 chúng tôi cùng đại đội đặc công của sư đoàn tập kích tiêu diệt vào đại đội Mỹ đóng trên điểm cao 425 năm phía Bắc Khe Sanh khoảng 3km.
Khi bắt đầu nhận nhiệm vụ hành quân tiếp cận, tôi luôn luôn suy nghĩ: Mình mới được bổ sung vào chiến trường và đây cũng là trận đầu tiên trong đời binh nghiệp của mình, còn rất nhiều băn khoăn, lo lắng, lo vì không biết trận đánh diễn ra như thế nào, có tiêu diệt địch hay không, có hoàn thành nhiệm vụ hay không và cũng rất sợ: Nếu bị thương vong thì như thế nào. Nhưng được các đồng chí cán bộ tiểu đội, trung đội động viên nên tôi yên tâm hành quân chiếm lĩnh cùng đội hình.
Trước giờ nổ súng, tôi cảm thấy rất run, nhưng khi có hiệu lệnh nổ súng thì chúng tôi đồng loạt nổ súng và xung phong. Lúc này, mọi sự lo sợ đều biến mất. Và chúng tôi xung phong chiến đấu rất dũng mãnh.
Chúng tôi đánh chiếm từng ụ súng, từng lô cốt, sau khoảng 2h chiến đấu, chúng tôi làm chủ được trận địa, tiêu diệt được rất nhiều địch. Lúc này đã củng cố được lòng tin và sức mạnh của chúng tôi mà chúng tôi nghĩ đến phải chiến đấu và chiến thắng mỗi khi xung trận. Vì đây là trách nhiệm và nghĩa vụ của những người lính khi vào chiến trường mang theo cả niềm tin của gia đình, và nhân dân ở hậu phương miền Bắc giao nhiệm vụ, trọng trách cho mình, phải chiến đấu để tiêu diệt kẻ thù.
Sau trận đánh này, tôi từng bước trưởng thành và tham gia nhiều trận chiến đấu khác. Cứ mỗi trận đánh lại trưởng thành thêm một bước, mặc dù, trong chiến đấu, cũng có đồng chí, đồng đội hi sinh, bản thân mình cũng bị thương, vào bệnh viện chữa lành vết thương, tôi lại trở lại đơn vị để chiến đấu.
Đi qua mấy cuộc chiến tranh, ông đã từng được đồng đội cứu sống bao nhiêu lần, thưa Trung tướng Phạm Xuân Thệ? (Hồng Lam, Ngô Quyền, Hải Phòng)
Trung tướng Phạm Xuân Thệ: Với những người lính trong quân đội nhân dân Việt Nam, 2 chữ “đồng đội” rất thiêng liêng, gần gũi, mà theo tôi chỉ có những người lính thì từ “đồng đội” đó mới thực sự thiêng liêng, gắn bó, gần gũi và tình cảm. Bởi vì, trong chiến đấu cũng như là lúc bình thường, tình đồng chí, tình đồng đội lúc này như tình anh em ruột thịt, luôn chia ngọt, sẻ bùi, lúc gian khổ, hi sinh, mỗi người đều nhận về mình những sự hi sinh, gian khổ đó, nhường lại thuận lợi cho đồng chí, đồng đội mình.
Tôi là một chiến sỹ bộ binh, khi bước chân vào chiến trường và tham gia chiến đấu và trực tiếp chiến đấu, hầu như trận nào tôi cũng bị thương, đặc biệt, ngày 17/3/1971, trong chiến dịch Nam Lào, tôi là đại đội trưởng đại đội 10, tiểu đoàn 9, trung đoàn 66, sư đoàn 304, đại đội tôi được giao nhiệm vụ tiêu diệt một cụm xe tăng địch ở ngã ba Bản Đông. Trận chiến đấu xảy ra vô cùng ác liệt, rất nhiều đồng chí, đồng đội thương vong sau khi đã tiêu diệt được một số xe tăng địch. Tôi bị thương cả 2 tay, không tự băng bó được. Cánh tay trái bị đạn đại liên của xe tăng bắn vào cánh tay, bị thương rất nặng. Tôi được các đồng chí, đồng đội băng bó, đưa ra khỏi trận địa và đưa về bệnh viện điều trị.
Nhờ có đồng chí, đồng đội nên tôi được cứu chữa kịp thời nên vết thương sau 3 tháng điều trị lại lành và tôi lại về đơn vị chiến đấu. Hay đêm mùng 1, rạng mùng 2/5/1972, lúc này tôi là đại đội trưởng đại đội 11, tiểu đoàn 9, trung đoàn 66, tôi chỉ huy đại đội hành quân chiếm lĩnh đánh vào thành cổ Quảng Trị, dọc đường hành quân còn cách thành Quảng Trị khoảng hơn 1km, bị máy bay địch ném bom vào đội hình, nhiều đồng chí, đồng đội hi sinh, tôi bị thương rất nặng.
Hai mắt bị thuốc bom và đất đá đập vào, không mở mắt được, chân trái bị mảnh bom phạt vào đầu gối. Tôi ngất đi. Sau đó, được đồng chí, đồng đội cấp cứu và băng bó kịp thời và khiêng tôi về trạm phẫu của trung đoàn. Tại đây, tôi được điều trị chu đáo và chỉ sau 2 tháng điều trị, vết thương của tôi khỏi và sức khỏe bình phục, tôi lại tiếp tục trở lại đơn vị, chiến đấu và công tác.
Đấy là những lần tôi được đồng chí, đồng đội cứu tôi khỏi “lưỡi hái tử thần” trong chiến tranh.
Thưa Thiếu tướng Lê Mã Lương, trong cuộc đời chinh chiến của mình, trận chiến nào ông cảm thấy đau đớn nhất? (Bùi Hoàng Hải và nhóm đồng nghiệp tại Xí nghiệp xây lắp điện..., Hải Phòng)
Thiếu tướng Lê Mã Lương: Trận đánh khiến tôi đau đớn nhất là trận đánh ngày 20/3/1971 ở Đường 9, Nam Lào. Khi Đại đội tôi được lệnh vượt qua đường 9, sau đó vượt qua sông Sê Pôn để chặn đường rút lui của địch. Cả Đại đội đang vận động giữa ban ngày thì bất ngờ gặp địch. Tôi cho đội hình tản ra và bao vây chặt quân địch. Sau 20 phút, chúng tôi đã tiêu diệt 37 tên, bắt sống 43 tên, trong đó có viên đại úy chỉ huy tiểu đoàn biệt động quân Sài Gòn.
Về phía ta, có 1 hy sinh và 3 bị thương. Sau khi làm chủ trận địa, chúng tôi bắt đầu cơ động sâu sang phía Nam của sông Sê Pôn để phục kích quân địch. Đang cơ động thì bị máy bay địch phát hiện. Chúng rải bom bi với hàng chục quả bom bi mẹ bung ra hàng nghìn quả bom bi con. Đây là loại bom bi vướng nổ, trong mỗi quả bom bi bung ra 4 đoạn dây dài, mỗi đoạn khoảng 2 mét. Chỉ cần vướng vào 1 trong 4 dây đó, quả bom sẽ phát nổ. Cả đội hình đại đội lọt trong vong vây của bom bi.
Chúng tôi không thể tiến và cũng không thể lui được...
Tôi lập tức điện về tiểu đoàn: “Cho tôi mở đường máu để thoát ra khỏi khu vực hiểm nguy này”. Đại úy Tiểu đoàn trưởng Lê Hồng Loan đồng ý với phương án của tôi. Được tiểu đoàn cho phép, tôi giao nhiệm vụ cho các trung đội trưởng hành quân theo một đội hình hàng dọc. Tôi dẫn đầu đội hình.
Đi chừng 30 mét thì hai bên sườn có tiếng phát nổ của bom bi. Lập tức, có hai chiến sĩ hy sinh. Tôi nhanh chóng gọi các trung đội trưởng, giao nhiệm vụ: “Chấp hành nghiêm lệnh của tôi, không được để cho bất kỳ ai bước chân ra khỏi lộ trình đã được vạch ra để đảm bảo an toàn tuyệt đối”. Sau đó tôi động viên các chiến sĩ hãy bình tĩnh để thoát ra khỏi bãi bom bi này. Toàn bộ đội hình của đại đội đã trật tự hơn nhưng rồi do sơ ý, một chiến sĩ bị vướng vào một dây của bom bi khiến quả bom phát nổ. 3 chiến sĩ lại hy sinh.
Tôi ra lệnh cho đại đội: “Tất cả nằm xuống thành hàng dọc, trườn ra khỏi bãi bom bi”. Tôi vừa trườn vừa quan sát hai bên dây vướng của bom bi thì chiến sĩ liên lạc tên Thanh trườn nhanh lên phía trước tôi, dùng chiếc mũ cối đang đội trên đầu của mình che khuôn mặt cho tôi.
Với hành động đó, tôi vô cùng xúc động và nghĩ ngay đến trách nhiệm của mình là phải đưa toàn bộ đại đội thoát ra khỏi bãi bom bi này an toàn. Và cứ như vậy, chúng tôi trườn nhích lên từng bước một. Nhiều người trong đại đội tôi, bàn tay và cùi tay đã rớm máu vì cọ sát trên mặt đá, cát.
Sau 1 giờ 30 phút, chúng tôi đã thoát ra khỏi bãi bom bi. Tất cả mọi người, ai nấy đều nhìn lại bãi bom bi như vừa trải qua một trận đánh khốc liệt. Không ai bảo ai, mọi người òa lên khóc nức nở. Trong đó, nhiều chiến sĩ lao đến ôm chặt lấy tôi. Nước mắt tôi rưng rưng và vụt nghĩ: “Chưa bao giờ mình lại chứng kiến một thời khắc hiểm nguy tới sinh mạng của hàng trăm con người như vậy”.
Chiến trường khốc liệt, nhưng có những người lính gồng mình để họ không phải yếu lòng, không phải khóc trước mất mát hy sinh của đồng đội, trước sự khắc nghiệt của hoàn cảnh. Nhưng có những chuyện xảy ra ở hậu phương, xảy ra với gia đình, người thân lại khiến họ rơi lệ. Ông đã bao giờ ở trong hoàn cảnh đó hoặc chứng kiến đồng đội mình ở trong hoàn cảnh đó? (hoangtlv..@yahoo.com)
Trung tướng Phạm Xuân Thệ: Là người lính trực tiếp chiến đấu với kẻ thù, không tránh khỏi những sự hi sinh, mất mát của đồng chí, đồng đội, là người trực tiếp chiến đấu với đồng chí, đồng đội qua nhiều những trận đánh của năm tháng chiến tranh, tôi được chứng kiến rất nhiều đồng chí, đồng đội của tôi hi sinh và bị thương. Như phần trên tôi đã nói: Ngày 2/5/1968, lần đầu tiên, tôi xung trận, sau khi tiêu diệt địch ở cao điểm 425, đại đội chúng tôi giao nhiệm vụ chốt giữ cao điểm không cho quân Mỹ đánh chiếm lại cao điểm mà chúng tôi đã chiếm được, bắt đầu sáng 3/5/1968, địch bắt đầu dùng máy bay và pháo binh đánh phá vào trận địa chúng tôi chiếm giữ rất ác liệt.
Tôi và đồng chí Nguyễn Văn Miêng, quê ở Ý Yên – Hà Nam, cùng trong 1 hầm, để sẵn sàng đánh địch khi địch tiến công lên. Khoảng 9h sáng ngày 3/5, sau khi địch dùng máy bay và pháo binh đánh phá, bộ binh Mỹ bắt đầu tiến công lên cao điểm chúng tôi chiếm giữ. Theo kinh nghiệm của cán bộ cấp trên dạy chúng tôi là để Mỹ vào thật gần hãy nổ súng, trước hầm tôi là đội hình của một trung đội Mỹ tiến công lên, tôi để chúng vào gần cách chúng tôi khoảng 5m, tôi nổ súng.
Ngay loạt đạn đầu tiên, tôi đã tiêu diệt được một tên Mỹ nằm ngay trước cửa hầm chúng tôi. Sau đó, tôi tiêu diệt được 3 tên khác, ở ngách hầm bên kia, đồng chí Miêng cũng nổ súng nhưng chỉ một loạt đạn sau đó, tôi thấy súng đồng chí không nổ nữa, tôi nhìn sang thì đồng chí đã ngã gục ngay ở ngách hầm.
Sau những loạt đạn của chúng tôi, địch lùi xuống không tiến công. Tôi bò sang chỗ đồng chí Miêng thì đồng chí ấy đã tắt thở. Tôi đưa đồng chí đó vào trong hầm và suốt 4 ngày đêm chiến đấu giữ điểm cao 425, hàng ngày, địch vẫn tiếp tục tiến công nên chúng tôi chưa đưa thương binh tử sỹ về phía sau được nên trong hầm của tôi, đồng chí Miêng vẫn nằm trong đó.
Tôi lấy tăng, võng khâm liệm đồng chí để tại trong hầm. Ban ngày, địch tiến công, tôi lại tiếp tục chiến đấu. Đêm xuống, địch không tấn công trong hầm, tôi là người còn sống, đồng chí Miêng đã hi sinh, chứng kiến sự mất mát của đồng chí, đồng đội đầu tiên trong đời người lính, cứ nhìn thi hài đồng chí, đồng đội nằm bên cạnh vị trí chiến đấu của mình, tôi lại như bật khóc. Nhưng phía trước mình là kẻ thù đang tiếp tục tiến công vào vị trí chốt giữ của mình nên lòng căm thù lại lấn át đau thương để chiến đấu.
Tôi nghĩ: Nếu như lúc bình thường chứng kiến đồng chí, đồng đội của mình hoặc người thân hi sinh thì không thể cầm được nước mắt và bật òa lên khóc, nhưng trong tình huống chiến đấu thì mình lại kìm nén để không bật lên tiếng khóc.
Bác Lương ơi, trong chiến tranh, bác đã được đồng đội cứu sống bao lần ạ? (Nam Long, Hà Nam, 37 tuổi)
Thiếu tướng Lê Mã Lương: Từ một chiến sĩ cho đến khi trở thành Trung đoàn trưởng, tôi đã trực tiếp chiến đấu và chỉ huy chiến đấu hàng trăm trận đánh và hàng chục chiến dịch, thực sự tôi không thể nhớ nổi đã đồng đội được chia lửa, cứu sống bao nhiêu lần.
Nhưng có những trận đánh mà tôi không bao giờ quên được. Có thể kể đến trận đánh đầu tiên của tôi trên đường 9, năm 1968. Khi đó, tôi bị thương nặng, hỏng mắt trái và hàng chục vết thương trên người, tôi ngất đi, lúc tỉnh dậy đã được đồng đội băng bó, đưa tôi rời khỏi trận địa.
Ngày 17/6/1969, 12 giờ trưa, tôi đi đầu trong đội hình đang hành quân ở thung lũng Pa Trang – Khe Sanh thì bất ngờ bị một lính Mỹ da đen phục sẵn ở đường mòn, quật ngã tôi. Sau những giây phút vật lộn với tên lính Mỹ ấy, được đồng đội phía sau bắn yểm hộ, tôi đã dùng dao găm đâm chết tên lính này.
Ngày 15/2/1971, trong một trận đánh chốt ở khu vực 351, Ka Ki đường 9, Nam Lào, tôi bị thương. Tiểu đoàn trưởng Lê Hồng Loan đã ra lệnh tôi rời khỏi trận địa nhưng tôi đã xin ở lại để tiếp tục chỉ huy anh em chiến đấu. Trong lúc bọn địch ồ ạt xông lên, tôi được anh em bắn chặn để địch không dồn đạn về phía tôi.
Sự chia lửa của những đồng đội thân thương ấy, tôi không bao giờ quên được. Nếu không có họ, chắc chắn tôi đã hy sinh. Trong chiến tranh là vậy, tình đồng đội, đồng chí vô cùng cao cả, sẵn sàng xả thân mình để bảo vệ đồng đội khỏi hiểm nguy.
Thưa tướng Thệ, ông nhớ nhất những tấm gương nào trong chiến đấu? (Phạm Duy, Seatle, Mỹ)
Trung tướng Phạm Xuân Thệ: Trong chiến đấu, sự hi sinh gian khổ, ác liệt luôn luôn đến với những người lính, chính những lúc hi sinh, gian khổ ác liệt như vậy, đã xuất hiện rất nhiều tấm gương chiến đấu dũng cảm, ngoan cường. Đã là người lính thì đức tính chịu đựng gian khổ hi sinh không thể thiếu được, nhưng những người trực tiếp chiến đấu thì đức tính ấy luôn luôn xuất hiện đối với người lính. Tôi còn nhớ, tháng 8/1974, lúc này tôi là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 9, trung đoàn 66, sư đoàn 304.
Trung đoàn 66, sư đoàn 304 chúng tôi được giao nhiệm vụ tiêu diệt địch ở chi khu quận lỵ Thượng Đức. Sau nhiều ngày chiến đấu ta và địch giành giật từng đoạn hào, từng lô cốt, từng ụ súng, nhiều đồng chí, đồng đội của tôi đã hi sinh và thương vong. Nhưng chúng tôi vẫn tiếp tục chiến đấu. Đồng chí này ngã xuống, đồng chí khác lại xông lên. Sở chỉ huy tiểu đoàn của tôi cách hàng rào của địch khoảng 100m, tôi quan sát rất rõ những hành động của đồng chí, đồng đội chúng tôi xông lên tiêu diệt địch.
Tôi còn nhớ: Đồng chí Nguyễn Văn Nam – quê ở Nghệ An là đại đội trưởng đại đội 10, tiểu đoàn 9, dưới quyền chỉ huy của tôi, đây là một đồng chí rất xông xáo, gan dạ. Khi mở được hàng rào, chiếm được lô cốt đầu cầu, đồng chí xông lên dẫn dắt bộ đội xung phong. Khi đồng chí bị thương nặng, đồng chí vẫn tiếp tục chỉ huy bộ đội chiến đấu đến khi đồng chí tắt thở. Đây là một đồng chí cán bộ đại đội rất ngoan cường, dũng cảm và nhiều các đồng chí khác cũng ngoan cường, dũng cảm chiến đấu tới hơi thở cuối cùng để tiêu diệt được nhiều địch.
Hay sáng ngày 30/4/1975, tại đầu cầu Sài Gòn – nơi xảy ra trận chiến đấu rất ác liệt giữa lực lượng đi đầu binh đoàn thọc sâu chúng tôi với quân địch, khi địch bắn vào đội hình chúng tôi, đồng chí Ngô Văn Nhỡ - tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn xe tăng của lữ đoàn 203, đồng chí đứng lên tháp pháo để chỉ huy xe tăng ta chiến đấu. Đồng chí bị thương rất nặng, nhưng vẫn tựa mình vào tháp pháo để chỉ huy bộ đội. Đến khi đồng chí tắt thở, đồng chí, đồng đội mới đưa đồng chí ra khỏi xe tăng.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang có nói về đoàn kết người Việt Nam ở nước ngoài trong bài phát biểu hôm 25.7. Thưa Trung tướng Phạm Xuân Thệ, nếu gặp một người lính, một sĩ quan của chế độ VNCH đang định cư ở nước ngoài, ông sẽ nói với họ câu gì? (Nguyễn Văn Ba, Chiềng Mai, Thái Lan)
Trung tướng Phạm Xuân Thệ: Như chúng ta đã biết, chúng ta đều là con lạc cháu hồng, là người dân Việt Nam mang dòng máu của người Việt Nam, trong chiến tranh, mỗi người ở một chiến tuyến khác nhau, có người cầm súng của đế quốc chống lại dân tộc Việt Nam.
Theo tôi, đây là tình thế bắt buộc hoặc họ chưa hiểu hết ý nghĩa của việc làm của họ khi chống lại dân tộc mình, nhưng khi hòa bình lặp lại thì dân tộc Việt Nam vẫn là dân tộc Việt Nam, chúng ta cùng chung một Tổ quốc. Quan điểm của Đảng và Nhà nước khép lại quá khứ hướng tới tương lai là một quan điểm vô cùng đúng đắn, nhằm xóa bỏ hận thù để cùng nhau xây dựng đất nước Việt Nam giàu đẹp.
Vì thế, nếu tôi gặp họ - những người trước đây là sỹ quan hoặc là lính của quân đội Việt Nam Cộng hòa, hiện nay, đang định cư tại nước ngoài hoặc bất cứ ở đâu trên trái đất này thì tôi vẫn nói với họ: Chúng ta là người Việt Nam nên chúng ta phải đoàn kết một lòng để xây dựng Tổ quốc, quê hương, không vì mặc cảm mà mang lòng chia rẽ, phân biệt.
Đọc báo Giáo dục Việt Nam, cháu rất ấn tượng với câu nói của bác về sự hy sinh của chiến sĩ ta khi bảo vệ quần đảo Trường Sa. “Chúng ta đã chịu không ít tổn thất nặng nề. Nhiều chiến sĩ ưu tú của Việt Nam đã ngã xuống để bảo vệ vùng biển Tổ quốc. Chúng ta đã ứng xử bằng một thái độ hết sức mềm dẻo nhưng kiên quyết. Tuy nhiên, đối với những người lính như chúng tôi, những người trực tiếp chứng kiến đồng đội mình hy sinh thì đó là một nỗi đau tới tận cùng”. Bác có thể cho chúng cháu được biết, bác nghe thông tin đó trong hoàn cảnh nào và tâm trạng của bác khi đó ra sao? (Quỳnh, 29 tuổi, Hà Nội)
Tôi nghe thông tin đó từ thông báo của Bộ quốc phòng. Cái cảm giác nhói đau trong tim như tôi đã từng chứng kiến, từng bất lực nhìn cái chết của đồng đội. Nhưng ở đây, nỗi đau đó đã lên tới cực điểm chỉ vì tham vọng và sự ngạo mạn của “nước lớn”, đất nước đã từng là người bạn chí cốt trong cuộc chiến tranh giải phóng 30 năm của dân tộc Việt Nam.
Tôi bàng hoàng và không thể tưởng tượng được về sự xử sự không còn tình người của họ và tiếc thương cho những người chiến sĩ đã xả thân để bảo vệ biển đảo thân yêu của Tổ quốc.
27/7 là dịp để tất cả chúng ta cùng tưởng nhớ đến các vị anh hùng đã hi sinh cho độc lập dân tộc ngày hôm nay, nhưng cũng là dịp nhắc nhở thế hệ trẻ phải luôn yêu nước. Thưa Trung tướng Phạm Xuân Thệ, ông từng là người chỉ huy quân trong nhiều trận đánh, ông có nhận xét thế nào về thế hệ trẻ ngày xưa và ngày nay? (Duy, du học sinh tại Singapore)
Trung tướng Phạm Xuân Thệ: Chúng ta phải khẳng định rằng: Thế hệ trẻ ngày xưa và ngày nay đều là những người sinh ra và lớn lên trên Tổ quốc Việt Nam đều mang dòng máu Lạc Hồng của ông cha, đều có trách nhiệm để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thế hệ trẻ chúng tôi ngày xưa sinh ra và lớn lên trong thời kỳ đất nước có chiến tranh, luôn luôn ghi lòng, tạc dạ là phải đóng góp sức mình chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, dành lại hòa bình, độc lập cho non sông. Khi lớn lên, rời khỏi ghế nhà trường, mọi người thanh niên nam nữ đều hăng hái xung phong lên đường chiến đấu. Mỗi người ở mỗi lĩnh vực khác nhau, ở một trận chiến đấu khác nhau nhưng đều mang một mục đích: Nhanh chóng giải phóng quê hương, đất nước. Vì vậy, thế hệ trẻ trước đây được rèn luyện trong chiến đấu, trưởng thành trong chiến đấu, họ chịu đựng hi sinh, gian khổ trong chiến tranh ác liệt, họ quyết một lòng không sợ khó khăn, gian khổ, thực hiện bằng được lý tưởng của mình và chiến đấu thắng lợi.
Khi đất nước được hòa bình, thống nhất, thế hệ trẻ hiện nay được sinh ra và lớn lên, học tập trong mái trường XHCN, trong điều kiện đất nước được hòa bình, độc lập, tự do, hầu hết đều đã học hết lớp 12, có trình độ kiến thức hơn tầng lớp chúng tôi ngày xưa rất nhiều. Bởi vì, chúng tôi khi đi bộ đội chỉ mới học hết lớp 7. Bây giờ, các bạn trẻ học hết lớp 12 và học lên bậc Đại học, lại được thừa hưởng truyền thống chống ngoại xâm của ông cha, của lớp người đi trước. Do vậy, tôi tin tưởng: Lớp thanh niên ngày nay nếu được rèn luyện lòng yêu nước và sự chịu đựng gian khổ, hi sinh như chúng tôi trước đây thì họ sẽ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN một cách toàn vẹn.
Tuy nhiên, chúng tôi cũng không khỏi băn khoăn: Hiện nay, một bộ phận thanh niên không chịu rèn luyện mà chỉ biết hưởng thụ nên khi gặp khó khăn gian khổ, họ không vững vàng và sẵn sàng chịu đựng sự hi sinh.
Thưa trung tướng Thệ và thiếu tướng Lương, cháu và ba mẹ rất mừng vì lại được nhìn thấy hình ảnh trung tướng, thấy hai vị anh hùng vẫn còn khỏe, minh mẫn. Có thể hơi ngoài lề một chút, nhưng mong nhận được đánh giá của bác về những tướng lĩnh Sài Gòn từng đương đầu với bác? Trận chiến nào đáng nhớ nhất? Trong các danh tướng thời kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, bác muốn nhắc đến ai? (Lê Kiên P, quận 3, TP Hồ Chí Minh)
Trung tướng Phạm Xuân Thệ: Trong kháng chiến chống Mỹ, tôi trưởng thành từ một người lính cho tới cấp cán bộ trung đoàn, khi hòa bình lập lại, tôi được học qua các trường trong quân đội và trưởng thành như ngày nay là nhờ sự chỉ huy tài tình của các tướng lĩnh và các cán bộ chỉ huy quân đội nhân dân Việt Nam. Như chúng ta đã biết, đất nước của chúng ta trải qua các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm đều dành được thắng lợi vẻ vang, đó là sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó, có đường lối đúng đắn của Đảng CSVN, sự chỉ huy tài tình của Bác Hồ - vị cha già của dân tộc.
Đặc biệt, trong quân đội nhân dân Việt Nam, các vị tướng như bác Giáp, bác Văn Tiến Dũng và nhiều danh tướng khác đều rất giỏi trong chỉ huy chiến đấu và xây dựng lực lượng quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh.
Đã là tướng lĩnh thì vị tướng nào cũng có bản chất anh hùng của một dân tộc anh hùng, có sự thông minh và trí tuệ, bản lĩnh của người Việt Nam nên tất cả các tướng lĩnh đã chỉ huy trong chiến đấu chống Pháp và chống Mỹ đều là những tướng tài của quân đội ta, nhân dân ta.
Đối với các tướng lĩnh của quân đội Sài Gòn thì hầu hết họ được học về kiến thức quân sự một cách bài bản qua các trường trong nước và ở Mỹ. Họ cũng trưởng thành nhưng sự trưởng thành của họ mang một ý nghĩa khác, họ chiến đấu cho chính quyền Sài Gòn hay làm tay sai cho đế quốc Mỹ. Mục đích của họ là đồng lương và sự nhận thức sai lầm bằng lòng hận thù dân tộc. Họ chỉ huy cấp dưới của họ tiêu diệt được nhiều đồng bào ta thì họ càng được thăng tiến.
Nhưng khi chiến đấu với quân đội nhân dân VN, họ cũng rất dễ dao động vì lý tưởng của họ và sự trông chờ của họ là viện trợ của nước ngoài, nếu không có sự viện trợ đó thì họ chùn bước, vì cuộc chiến tranh của họ là phi nghĩa. Cầm súng của kẻ thù, chống lại dân tộc mình, bắn giết đồng bào ta. Sự phi nghĩa đó khi gặp sự chiến đấu dũng cảm, sự chỉ huy tài tình của các tướng lĩnh của quân đội nhân dân VN thì họ không đủ sức chống trả.
Họ bỏ chạy, thậm chí như Tổng thống Thiệu, khi mất Tây Nguyên và Huế - Đà Nẵng (tháng 3/1975) đã kêu gọi tự thủ nhưng thực tế, ông ta cũng nghĩ tới cách chuồn. Hay tướng Ngô Quang Trưởng – là chỉ huy quân khu I, đóng quân tại TP. Đà Nẵng, khi bị quân giải phóng tiến công cũng nhanh chóng bỏ chạy. Và nhiều tướng lĩnh khác cũng bỏ rơi quân lính mà thoát thân.
Thiếu tướng Lê Mã Lương: Trong kháng chiến chống Mỹ, quân đội Sài Gòn có nhiều tướng lĩnh, trong đó có một số tướng lĩnh đã từng đối đầu trực tiếp với chúng tôi như Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, Trung tướng Tôn Thất Đính … và phải kể đến cả Đại tướng Trần Thiện Khiêm, Đại tướng Dương Văn Minh… Đó là những vị tướng bên kia chiến tuyến mà chúng tôi rất nể vì được đào tạo cơ bản, có năng lực và kinh nghiệm giải quyết chiến tranh.
Tôi nhớ nhất là những trận đánh ở Xuân Lộc năm 1975 với đối phương là Chuẩn tướng Lê Minh Đảo, người quyết tâm tử thủ để giữ thị xã Xuân Lộc. Nhưng với sức mạnh quân sự to lớn của ta, tướng Lê Minh Đảo đã không thể trụ vững sau hơn 10 ngày chiến đấu. Toàn bộ sư đoàn 3 của ông đã tan rã hoàn toàn.
Trong các danh tướng thời kỳ chống Pháp, chống Mỹ, người tôi muốn nhắc đầu tiên là Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nhà cầm quân lỗi lạc của Việt Nam. Với trí tuệ uyên bác, văn võ song toàn, Đại tướng là một trong số ít danh tướng trên thế giới được kính trọng nhất.
Tôi đã từng tiếp xúc và làm việc với Đại tướng nhiều lần. Đằng sau vẻ uy nghi của một Đại tướng lừng danh, toát lên sự thông tuệ, minh mẫn và đậm nét văn hóa phương Đông. Ngoài ra, Đại tướng còn có tác phong giản dị, gần gũi đến ngỡ ngàng khiến những người lần đầu gặp mặt cũng tưởng như đã trở nên quen thuộc.
Thưa Trung tướng Phạm Xuân Thệ, ông đã từng đảm nhiệm vị trí Tư lệnh Quân khu I, một lực lượng quan trọng tại địa bàn quan trọng ở miền Bắc Việt Nam, thực tế trên cương vị chỉ huy, ông nhận thấy quân đội của chúng ta hiện nay đang có thế mạnh gì, những hạn chế trong quá trình xây dựng quân đội vững mạnh tòan diện? (Lan, Hưng Yên)
Trung tướng Phạm Xuân Thệ: Như chúng ta đã biết, sức mạnh của quân đội nhân dân VN là một sức mạnh tổng hợp gồm có chính trị, quân sự và kinh tế. Quân đội nhân dân VN trải qua nhiều cuộc kháng chiến chống ngoại xâm đến nay trưởng thành rất nhiều so với những ngày đầu khi thành lập, đội ngũ tướng lĩnh và chỉ huy trong quân đội nhân dân VN hiện nay đã trải qua các cuộc chiến tranh được trưởng thành trong từng trận chiến đấu, có nhiều kinh nghiệm chỉ huy, huấn luyện và chiến đấu.
Quân đội nhân dân VN được sự chỉ huy tuyệt đối, toàn diện của Đảng CSVN luôn luôn có đường lối quân sự đúng đắn, trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, được thừa kế nhiều kinh nghiệm trong các cuộc kháng chiến. Lực lượng chiến sỹ của quân đội nhân dân VN hiện nay có trình độ văn hóa cao, kiến thức hiểu biết về xã hội rất rộng. Họ được những người chỉ huy huấn luyện và rèn luyện đầy đủ thì sức mạnh của họ được nhân lên gấp bội.
Quân khu I (Quân khu Việt Bắc trước đây) đúng như bạn nói ở một vị trí đặc biệt quan trọng, có đường biên giới chung với nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 614,8km. Hai nước núi liền núi, sông liền sông, có truyền thống đoàn kết lâu đời nhưng cũng có lúc này, lúc khác, xảy ra chuyện nọ, chuyện kia, là một lực lượng được Đảng và quân đội giao cho quân khu đảm nhiệm là phên dậu của Tổ quốc, nên quân khu I chúng tôi luôn luôn giữ vững niềm tin bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, biên giới của Tổ quốc.
Như chúng ta đã biết, tình cảm, tình đoàn kết thì không có biên giới, nhưng một quốc gia thì phải có biên giới rõ ràng. Mà đã có biên giới, là lực lượng bảo vệ biên giới, chúng tôi luôn cùng toàn quân, toàn dân, đặc biệt là các dân tộc trên tuyến biên giới bảo vệ vững chắc từng tấc đất, giữ vững hòa bình, an ninh biên giới quốc gia.
Kính thưa các vị tướng! Câu chuyện về Việt Nam anh hùng trong hai cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại thì lớp trẻ Việt Nam ai cũng biết, cũng hiểu và được học từ ghế trường phổ thông. Nhưng có lẽ sự băn khoăn nhất, có con đường nào để hai cuộc chiến ấy giảm bớt xương máu của nhân dân hay không? Hay cứ phải có nhiều xương máu mới có độc lập, tự do? Chúng tôi thấy nhiều quốc gia trên thế giới, họ cũng độc lập đấy thôi, nhưng họ ít nghĩa trang liệt sỹ, ít bà mẹ Việt Nam anh hùng hơn chúng ta? (Thông Thiện, phóng viên tại Hà Nội)
Trung tướng Phạm Xuân Thệ: Như chúng ta đã biết, vị trí địa lý lãnh thổ đất nước VN của chúng ta là một vị trí vô cùng quan trọng, Đảng ta, đất nước ta không bao giờ muốn chiến tranh và cũng không bao giờ mang quân đi chiến tranh ở nước khác, luôn luôn mong muốn sống trong hòa bình, độc lập, tự do, hạnh phúc. Nhưng với kẻ thù, họ không muốn đất nước ta được như vậy. Họ luôn mang quân tới xâm lược nhằm thôn tính đất nước ta, buộc dân tộc ta phải đứng lên cầm súng để chống lại kẻ xâm lược.
Như chúng ta đã biết, chiến tranh xảy ra không tránh khỏi sự mất mát, đau thương mà những cuộc chiến tranh trên đất nước ta, cuộc chiến tranh nào cũng gay go, quyết liệt, kẻ thù nhiều âm mưu, xảo quyệt, vũ khí đạn dược mạnh hơn ta gấp nhiều lần, nên trong cuộc chiến tranh của đất nước, dân tộc ta, không tránh khỏi sự hi sinh.
Trong kháng chiến chống Pháp, chúng ta đã hi sinh hàng vạn người, trong chiến tranh chống Mỹ, riêng lực lượng quân đội nhân dân Việt Nam đã hi sinh trên một triệu người và nhiều đồng bào, đồng chí của chúng ta đã hi sinh trong các cuộc chiến tranh đó. Chính nhờ sự hi sinh của đồng bào, đồng chí chúng ta nên chúng ta mới được hưởng độc lập, hòa bình, ấm no, hạnh phúc như ngày nay.
Trong cuộc chiến tranh vĩ đại của hồng quân Liên Xô và một số nước Đông Âu khi Chủ nghĩa phát xít xâm lược họ, cuộc chiến tranh ấy cũng hi sinh vài chục triệu người mới dành được thắng lợi. Chính vì vậy, không vì lý gì mà đế quốc tới xâm lược đất nước mình mà mình không chiến đấu để bảo vệ. Có chiến đấu, bảo vệ thì mới giữ được Tổ quốc.
Thiếu tướng Lê Mã Lương: Việt Nam là một trong những dân tộc trên thế giới phải gánh chịu nhiều đau thương và mất mát nhất. Chúng ta đã trải qua 1117 năm Bắc thuộc. Vì vậy dân tộc Việt Nam thấu hiểu nỗi đau của sự mất nước, đô hộ và xâm lược ngoại bang. Là một dân tộc rất yêu chuộng hòa bình nhưng kẻ thù buộc chúng ta phải cầm súng để tự bảo vệ nền độc lập dân tộc mà các thế hệ cha anh đã chiến đấu và giữ gìn. Lịch sử đã chứng minh rất rõ điều đó.
Điển hình như năm 1946, Bác Hồ cũng như nhân dân ta đã kiềm chế không để chiến tranh với Pháp xảy ra nhưng thực dân Pháp đã không cho chúng ta lựa chọn hòa bình và Bác phải ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.
Trong chiến tranh, dân tộc Việt Nam là một nước nhỏ nhưng luôn phải chiến đấu với kẻ thù hùng mạnh hơn gấp nhiều lần. Hơn nữa, những cuộc kháng chiến thường xuyên kéo dài và ác liệt nên việc tổn thất, hy sinh của nhân dân ta để dành độc lập tự do cũng là một tất yếu, không thể tránh được.
Những lần rơi nước mắt của Tướng Lê Hữu Đức
Dù đã ở tuổi gần cửu thập, nhưng mỗi lần nhắc đến người vợ đầu – người đồng đội tuyệt vời của mình, “Hổ cụt Tây Nguyên” - trung tướng Lê Hữu Đức lại khóc. Ông làm những người đối diện ông cũng khóc theo khi đưa cánh tay cụt (bị thương ở chiến trường) lên lau nước mắt nghẹn ngào.
Ông kể, trong những ngày đầu đi chiến đấu, ông gặp được “ý trung nhân” của mình, một cô gái xứ Nghệ rất trẻ, nhưng đảm nhiệm cương vị Bí thư đảng đoàn phụ nữ huyện Đại Lộc. Người con gái đó tên là Nguyễn Thị Đạm Liên.
- Cô ấy thấp, nhỏ nhưng có khuôn mặt dễ thương, cử chỉ nhẹ nhàng, thanh thoát. Đạm Liên quê ở Nam Đàn, từng học trường Đồng Khánh. Ngày xưa những người con gái có học như thế ít lắm. Mến tài nhau, vừa đồng chí lại vừa đồng hương, chúng tôi đã đến với nhau. Trung tướng Lê Hữu Đức kể.
Yêu nhau cuối năm 1946, đến tháng 3-1947, ông bị thương nặng, phải cắt cánh tay. Nghĩ đến tương lai của người yêu - một cô gái trí thức mới 21 tuổi, ông chủ động “cắt” quan hệ. Không ngờ Đạm Liên biết chuyện, tìm đến “xạc” cho ông một trận: “Anh tiểu tư sản quá. Vợ chồng ai mà chẳng muốn trọn vẹn, đã hứa với nhau thì phải giữ lời chứ!”.
Năm 1950, họ tổ chức đám cưới ở thị xã Tam Kỳ. Không nhà không cửa, đêm tân hôn, đôi vợ chồng trẻ dắt tay nhau đi suốt một đêm khắp thị xã rồi sáng hôm sau mỗi người lại lao vào công việc của mình. Cuộc sống gian khổ, vất vả nhưng rất lãng mạn của những ngày tháng đó vẫn in đậm trong trái tim ông.
Năm 1953, Lê Hữu Đức được điều ra Việt Bắc nhận nhiệm vụ ở tổ chức miền Nam của Bộ Tổng tham mưu, Đạm Liên về công tác ở Quân khu 4. Vợ chồng xa nhau cho đến năm 1955, khi bà được điều ra Ban Đối ngoại của Trung ương Hội Phụ nữ Việt Nam, họ mới được sống bên nhau. Có lần ông tâm sự:
- Vợ tôi hiền lắm, tuyệt vời, tôi phục lắm! 10 năm ở với nhau, chưa bao giờ thấy bà ấy đánh con bao giờ. Tôi thỉnh thoảng nóng quá, cũng đánh con, phết chúng nó vào đít. Những lúc đó vợ tôi đưa chúng đi rửa mặt, xong bắt vòng tay xin lỗi ba. Đêm về, khi các con đã đi ngủ hết, bà mới phê bình tôi. Bà ấy bảo rằng, anh là quân sự, nhưng đừng dậy con bằng roi vọt. Các con còn nhỏ, nên anh phải tình cảm với chúng nó chứ. Trước những lời dịu dàng chân thành ấy, tôi mới thấy hối hận…
Năm 1965, Trung tá Lê Hữu Đức rời Hà Nội, chia tay người vợ thân yêu và 3 đứa con thơ vào chiến trường Tây Nguyên nhận nhiệm vụ Tham mưu trưởng Sư đoàn 1, sau đó là Tham mưu trưởng Sư đoàn 6, dưới quyền chỉ huy của Sư đoàn trưởng Nguyễn Hữu An. Không ngờ ngày chia tay cũng là ngày ông vĩnh biệt người vợ thủy chung và hiền thục.
Ngày 15-6-1968, một ngày đã khắc vào trái tim ông một nỗi đau không thể nào quên. Lúc đó ông đã là Tham mưu phó Mặt trận Tây Nguyên. Buổi chiều, đi công tác về cơ quan, ông nhận được bức điện khẩn từ Hà Nội gửi vào. Giở ra, ông choáng váng, đất dưới chân ông như sụp đổ: Bức điện của Tổng cục Chính trị báo tin vợ ông vừa mới mất! Ông không tin vào mắt mình, mặc dù đó là sự thật. Vợ ông còn trẻ thế kia, hiền hậu và giỏi giang thế kia, làm sao mà chết được.
Sau này khi trở ra Hà Nội, nghe cơ quan của bà kể lại, ông mới biết bà chết vì làm việc quá sức. Một nách ba con nhỏ, chiến tranh phải đưa đi sơ tán tận Vĩnh Phúc, bà vẫn bám cơ quan làm việc không ngày nghỉ. Giỏi tiếng Pháp, bà còn học tiếng Nga, tiếng Anh để dịch tất cả các bài phát biểu của lãnh tụ và các nghị quyết của Đảng, thông báo của Nhà nước ra ba thứ tiếng. Xong việc cơ quan bà lại lóc cóc xe đạp đi thăm nuôi con.
Việc nhiều, cuộc sống vất vả, lại không có chồng bên cạnh đỡ đần, nên bà bị bệnh huyết áp. Một buổi sáng, đang làm việc thì bà bỗng nhiên kêu nhức đầu. Bà bỏ dở công việc ra ngoài bàn uống nước thì thổ ra máu. Mọi người tức tốc đưa bà đi bệnh viện Hữu nghị Việt - Xô cấp cứu, nhưng 24 giờ sau bà vĩnh viễn ra đi mà không kịp gặp được ba đứa con thơ. Lúc đó bà mới 39 tuổi!
Sau khi vợ mất, Lê Hữu Đức mất thăng bằng một năm trời, sức khỏe giảm sút nhiều. Khuôn mặt ông hốc hác, đôi mắt trũng sâu vì thiếu ngủ. Thương người vợ hiền bao nhiêu, ông lại lo cho ba đứa con thơ dại nay mất mẹ không biết sống như thế nào giữa bom đạn của giặc Mỹ. Ban ngày lo chiến đấu, nỗi đau tạm vơi đi, nhưng đêm về mắc võng thì khuôn mặt của người vợ lại hiện lên đến đau lòng.
- Sau này tôi có đi bước nữa. May mắn là người vợ sau của tôi là một nhà giáo, rất tâm lý và cũng hiền lành, tôn trọng quá khứ của tôi. Chúng tôi sống hạnh phúc và có thêm con gái. Nhưng anh ạ, tình yêu ấy mà, nó lạ lắm… Tôi không thể nào quên được Đạm Liên.
(Hồng Sơn)
|
(Xin bấm F5 để tiếp tục cập nhật)