1. Chiến thắng Nghĩa Lộ 18/10/1952 mở toang cánh cửa vào Tây bắc, tạo bàn đạp cho quân ta tiến vào giải phóng Điện Biên Phủ năm 1954 | ||
Trích từ: Cổng thông tin điện tử tỉnh Yên Bái
CTTĐT - Nghĩa Lộ là một địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng thuộc vùng cửa ngõ phía Đông đi vào vùng Tây Bắc của tổ quốc. Là một địa danh không những có truyền thống lịch sử và bản sắc văn hóa dân tộc đậm nét mà còn có truyền thống yêu nước và cách mạng. Tiêu biểu là cuộc chiến đấu chống giặc Cờ Vàng do thủ lĩnh Cầm Hánh đứng đầu và cuộc kháng chiến chống Pháp do Tuần phủ Nguyễn Quang Bích lãnh đạo cùng các nghĩa quân đã lấy Nghĩa Lộ - Mường Lò làm căn cứ chiến đấu, anh dũng chống thực dân Pháp xâm lược vào những năm cuối thế kỷ XIX.
Nghĩa Lộ phố sau khi bị ta tiêu diệt (Ảnh Tư Liệu)
Ngay từ những năm đầu thế kỷ XX, xác định Nghĩa Lộ có vị trí chiến lược quan trọng trong khu vực miền núi Tây Bắc, thực dân Pháp đã tăng cường lực lượng chiếm đóng, đẩy mạnh xây dựng bộ máy cai trị tay sai của chúng ở vùng đất này. Đến tháng 10/1947, sau khi hoàn thành đánh chiếm lại Nghĩa Lộ (lần 2), thực dân Pháp đã khôi phục ngay hệ thống cai trị của chúng, xây dựng Nghĩa Lộ trở thành phân khu quân sự mạnh nhất trong 4 phân khu của địch án ngữ cửa ngõ phía Đông vùng Tây Bắc. Phân khu Nghĩa Lộ gồm 4 tiểu khu là Nghĩa Lộ, Ba Khe, Gia Hội, Thanh Uyên; Tiểu khu Nghĩa Lộ là nơi đặt sở chỉ huy phân khu của địch có hệ thống đồn bốt dày đặc, sân bay, hầm ngầm kiên cố, với cứ điểm Nghĩa Lộ phố và cứ điểm Pú Chạng (Nghĩa Lộ đồi) bao quát thung lũng Mường Lò với gần 1000 quân chiếm giữ.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Tỉnh ủy Yên Bái, thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không làm nô lệ”. Đảng bộ huyện Văn Chấn đã lãnh đạo nhân dân các dân tộc Nghĩa Lộ - Văn Chấn đã nhất tề đứng dậy đi theo Đảng, Bác Hồ xây dựng cơ sở cách mạng, phát triển phong trào kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược ở khắp vùng thấp, vùng cao trong huyện.
Trong bối cảnh đó, đầu tháng 10/1951, bộ đội chủ lực của ta đã mở chiến dịch Lý Thường Kiệt. Từ ngày 1/10 đến đêm 9/10 quân ta liên tiếp tấn công địch ở Bản Tủ, Đồn Nghĩa Lộ và Đồn Cửa Nhì, làm cho địch tổn thất rất nặng nề. Bộ đội ta đã tiêu diệt và bắt sống gần 2 tiểu đoàn địch, thu nhiều vũ khí quân trang, quân dụng; mở rộng vùng địch hậu, nối lại các cơ sở từ Ca Vịnh, Ba Khe vào Nghĩa Lộ.
Đầu năm 1952 cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta đã bắt đầu chuyển sang giai đoạn mới, Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định mở Chiến dịch Tây Bắc, với quyết tâm tiêu diệt địch, giải phóng Tây Bắc, củng cố căn cứ địa Việt Bắc, giữ vững đường giao thông quốc tế Lào – Vân Nam (Trung Quốc), tạo điều kiện phát triển cách mạng Lào. Đợt một sẽ tập trung binh lực tiêu diệt địch ở phân khu Nghĩa Lộ, giải phóng Nghĩa Lộ; đợt hai sẽ nhanh chóng tiến sang Sơn La, cô lập làm rối loạn hậu phương của địch.
Ngay từ tháng 5/1952 quân và dân Nghĩa Lộ, Văn Chấn, Yên Bái đã tập trung chuẩn bị mọi mặt để phối hợp chuẩn bị chiến dịch; dân quân, du kích cùng bộ đội địa phương đã dẫn đường đưa quân báo của Đại đoàn 308 vào vùng địch khảo sát nắm bắt tình hình; bảo vệ an toàn các con đường từ vùng tự do vào Nghĩa Lộ.
Theo kế hoạch của Bộ chỉ huy chiến dịch Tây Bắc, được sự giúp đỡ của nhân dân vùng tự do Yên Bái, Mậu A, Trấn Yên đã huy động nhiều thuyền bè, mảng, tổ chức nhiều bến vượt sông đưa bộ đội vào vị trí chiến đấu an toàn.
Trung đoàn 88, 102, Đại đoàn 308 – Đại đoàn quân chủ lực đầu tiên của quân đội ta, từ bến vượt theo đường Đại Bục, Khau Vác vào vị trí xuất phát tấn công Nghĩa Lộ; Trung đoàn 36 – Đại đoàn 308 từ bến vượt qua đèo Bụt tiến sát Cửa Nhì. Trung đoàn 209, 165 – Đại đoàn 312 bao vây Gia Hội. Trung đoàn 141 – Đại đoàn 312 vào Sài Lương chuẩn bị chiến đấu.
Ngày 14/10/1952, chiến dịch Tây Bắc bắt đầu. Để tạo thế và lực cho mũi tiến công chính vào các cứ điểm kiên cố của phân khu Nghĩa Lộ, trung đoàn 141 (đại đoàn 316) tiến công vị trí Sài Lương, Trung đoàn 174 (đại đoàn 316) tiến công đồn Ca Vịnh. Địch vội vàng rút quân khỏi các đồn Thượng Bằng La, Ba Khe về cứu nguy cho Nghĩa Lộ.
17 giờ 5 phút ngày 17/10, bộ đội ta bắt đầu tiến công vào cứ điểm Nghĩa Lộ. Trung đoàn 102 – Đại đoàn 308 tiến công cứ điểm Pú Chạng (tức Nghĩa Lộ đồi) – Nơi đặt sở chỉ huy phân khu của địch. Sau hơn 3 giờ chiến đấu ác liệt, quân ta đã hoàn toàn làm chủ cứ điểm này, tiêu diệt và bắt sống 400 tên địch, trong đó có tên quan tư Ti-ri-ông, chỉ huy trưởng phân khu, thu toàn bộ vũ khí quân trang, quân dụng.
3 giờ 5 phút sáng ngày 18/10, trung đoàn 88 – Đại đoàn 308 nổ súng tiến công cứ điểm Nghĩa Lộ phố. Địch dựa vào hầm ngầm, lô cốt kiên cố điên cuồng chống cự nhưng với sức tiến công mạnh mẽ, áp đảo chỉ sau 2 giờ 20 phút chiến đấu, quân ta đã tiêu diệt và bắt sống toàn bộ 280 tên địch, thu nhiều vũ khí chiến lợi phẩm. 5 giờ 30 phút ngày 18/10, sau 12 giờ chiến đấu ác liệt hai cứ điểm kiên cố nhất của phân khu Nghĩa Lộ đã bị xóa sổ. Đêm 18/10/1952, quân ta tiếp tục tiến công vị trí Cửa Nhì, tiêu diệt và bắt sống gần 250 tên địch. Bọn địch ở Gia Hội vội rút lên Tú Lệ và tháo chạy sang Sơn La, bộ đội sư đoàn 312 bám sát truy kích địch, tiêu diệt và bắt giữ gần 400 tên. Nghĩa Lộ và các xã trong huyện Văn Chấn được hoàn toàn giải phóng.
Chiến dịch Tây Bắc mở màn thắng lợi, Nghĩa Lộ, Văn Chấn và tỉnh Yên Bái được giải phóng hoàn toàn khỏi ách thống trị của thực dân Pháp. Chiến thắng Nghĩa Lộ có ý nghĩa hết sức to lớn: Đã đập tan mắt xích quan trọng trong hệ thống phòng thủ sông Đà của địch, mở thông đường vào Tây Bắc, nối liền với căn cứ địa Việt Bắc; làm tiền đề thuận lợi cho các chiến dịch tiếp theo; tạo thế và lực cho trận quyết chiến, quyết thắng ở Điện Biên Phủ sau này.
Chiến thắng Nghĩa Lộ là sự kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, là sức mạnh cả về ý chí, tinh thần và vật chất của một dân tộc khát khao độc lập, tự do, không cam chịu nô lệ. Chiến thắng Nghĩa Lộ là một mốc son trong lịch sử cách mạng Việt
Sau ngày quê hương được giải phóng, nhân dân các dân tộc Nghĩa Lộ đã phát huy truyền thống đoàn kết, khẩn trương bắt tay vào khôi phục, xây dựng, ổn định cuộc sống mới. Cấp ủy, chính quyền, các đoàn thể được củng cố kịp thời lãnh đạo nhân dân thực hiện giảm tô, cải cách ruộng đất, xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa, củng cố xây dựng lực lượng vũ trang, đánh bại âm mưu gây phỉ, bạo động của địch, củng cố vững chắc vùng giải phóng, tiếp tục đóng góp to lớn cho chiến dịch Điện Biên Phủ. Trong chiến dịch Đông Xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ, dưới sự lãnh đạo của đảng bộ huyện Văn Chấn, nhân dân các dân tộc Nghĩa Lộ đã hăng hái đi dân công tham gia mở đường 13A; vận chuyển hàng ngàn tấn vũ khí, lương thực, thực phẩm qua đèo Lũng Lô phục vụ chiến dịch, nhiều thanh niên người Thái, Tày Mường đã hăng hái lên đường tòng quân đánh giặc, hy sinh anh dũng góp phần to lớn cùng quân, dân cả nước làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp ở Việt Nam.
Ghi nhận những chiến công, đóng góp, cống hiến to lớn trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Đảng và Nhà nước đã phong tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho nhân dân và lực lượng vũ trang thị trấn Nghĩa Lộ (nay là thị xã Nghĩa Lộ).
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, cách mạng nước ta chuyển sang một giai đoạn mới, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền
| ||
|
2. Tập đoàn cứ điểm Nà Sản
Cao nguyên Nà Sản là một trong hai cao nguyên lớn thuộc tỉnh Sơn La, trên địa bàn rộng khoảng hơn 20km2 thuộc các xã Chiềng Mung, Hát Lót, Chiềng Mai, Mường Bon. Có độ cao trung bình 600 - 700m, có địa hình tương đối bằng phẳng, rộng, đồi núi thấp, có vị trí chiến lược cho việc phát triển kinh tế, giao thông và quốc phòng.
Với vị trí đặc biệt thuận lợi, ngay từ những năm quay lại xâm chiếm Sơn La, Tây Bắc, thực dân Pháp đã cho xây dựng sân bay vận tải, làm cầu hàng không vận chuyển để tiếp tế lương thực và các phương tiện chiến tranh phục vụ cho việc chiếm đóng, cai trị của chúng ở Tây Bắc. Khi tình hình diễn biến của chiến sự không có lợi cho chúng, bị thất bại trước những đợt tấn công của quân và dân ta, Thực dân Pháp đã tính đến việc gom các vị trí lại thành căn cứ điểm mạnh, cho nên tập đoàn cứ điểm Nà Sản được thực dân Pháp xây dựng từ tháng 10/1952, nghĩa là từ giữa chiến dịch Tây Bắc. Trước tình hình đó, thực dân Pháp bỏ nhiều vị trí quan trọng ở Khu Tây Bắc rút chạy về co cụm tại Nà Sản và xây dựng thành “Tập đoàn cứ điểm” mạnh và kiên cố nhất thời điểm đó và đây cũng là biện pháp phòng ngự cao nhất, có ý nghĩa chiến lược mà lần đầu tiên chúng thử nghiệm tại Việt Nam.
Tập đoàn cứ điểm Nà Sản được xây dựng chủ yếu thuộc địa phận xã Chiềng Mung, theo trục quốc lộ 6, phân bố trên diện tích 10km2 được bao quanh bởi hai dẫy núi: Pú Hồng và bản Vạy. Ở giữa là khu trung tâm nằm trong thung lũng trải rộng có sở chỉ huy, sân bay vận tải, hệ thống kho chứa lương thực, vũ khí...
Tập đoàn này được xây dựng theo mô hình như một vòng cung khép kín, có 17 cứ điểm liên hoàn, phía Bắc có các cụm Pú Cát, Pú Hồng, Nà Si; Phía Nam có cụm núi Na Sam, bản Cưởm, bản Vạy, Cừ Nhừm. Các dãy núi có độ cao trung bình khoảng 750m, trong đó có núi Pú Hồng cao trên 1.000m.
Khu trung tâm điều hành các cuộc hành quân, sở chỉ huy và sân bay vận tải được xây dựng tại bản Nà Sản, bản Lầu, bản Hời, bản Cưởm, cách đường 41 (Quốc lộ 6) khoảng 500 - 1.000m.
Để bảo vệ cho sở chỉ huy, sân bay cùng các kho tàng lương thực, vũ khí, thực dân Pháp tiến hành xây dựng hệ thống đồn bốt, pháo cao xạ 105mm cùng hệ thống giao thông hào kiên cố trên các cứ điểm trọng điểm là Pú Hồng, Nà Si, bản Vạy, Cừ Nhừm, bản Hời, bản Cưởm, bản Cút, bản Lầu để tạo thành vành đai khép kín, bảo vệ chung cho khu trung tâm Nà Sản. Có các binh chủng sau: 8D lính dù, 1D pháo binh, 8C độc lập, 1D công binh và 1 sân bay ở khu trung tâm.
Tại khu trung tâm gồm: Sân bay vận tải có chiều dài 1.100m, đầu của sân bay được nối liền vào sở chỉ huy, trung tâm liên lạc điều hành các cuộc hành quân các cứ điểm; Các cứ điểm trong sân bay được điều hành kiên cố như: Các đường chiến hào thường nối liền với giao thông hào cơ động trong từng cứ điểm, được bảo vệ bằng những vòng dây thép gai dày đặc, gắn liền với trận địa pháo 105mm, được bố trí theo hình tam giác, có ba trận địa pháo (3 đại đội, mỗi đại đội 4 khẩu pháo), mỗi khẩu cách nhau 20 - 30m, có hầm chứa đạn, khu công sự ẩn nấp và chiến đấu của pháo thủ.
Sở chỉ huy được xây dựng nằm sâu dưới lòng đất hơn 3m, do tướng Zin chỉ huy, dài 6,5m, rộng 5m, trên tường được vã và trát bằng vật liệu bê tông thô gồm đá vụn, cát và xi măng, nóc được lợp bằng tấm sắt ghi như đường băng sân bay cỡ 2,4m x 0,55m. Cửa hầm bằng gỗ được mở liền với hệ thống đường giao thông hào ra sân bay (sâu 2,5m, rộng 8m), đường này có tên gọi là “Đại lộ trung tâm dưới đất" nối với sở chỉ huy vào sâu bên trong là nơi làm việc của cơ quan tham mưu, nơi đây trần không lợp bằng tấm kim loại mà che bằng vải bạt dày như hình mái nhà, phía ngoài vòm mái của sở chỉ huy được đắp đất và các bao cát cao 1m.
Các cứ điểm xây dựng trên các điểm cao xung quanh được cấu trúc như sau: Công sự, có từ 1 - 3 chiến hào đứt đoạn (Mỗi đoạn dài khoảng 10 - 15m), khoảng cách giữa các chiến hào từ 15 - 20m, chỉ có cứ điểm Pú Hồng chiến hào được xây dựng khép kín thành một vòng tròn, không đứt đoạn trên đỉnh núi. Chiều rộng là 80 - 90cm, sâu 1m, bên trong có các ụ chiến đấu được đắp chủ yếu bằng đất hoặc bao cát, xung quanh được bao kín bằng hàng rào dây thép gai, phía ngoài chúng cho chặt cây tre, gỗ ngổn ngang để cản đường tiến công quân ta.
Chiến dịch Tây Bắc bắt đầu từ ngày 14/10/1952 và kết thúc vào ngày 10/12/1952, sau 3 đợt tấn công quyết liệt của quân và dân ta nên chiến dịch nhanh chóng kết thúc so với dự kiến ban đầu là 4 tháng. Ta đã tiêu diệt được nhiều quân địch và thu nhiều vũ khí đạn dược, địch đã rút về co cụm ở Tập đoàn cứ điểm Nà Sản, chúng ta cũng chưa nắm rõ và chưa có kinh nghiệm đánh địch ở dạng tập đoàn cứ điểm, trước tình huống chưa thuận lợi, bộ chỉ huy chiến dịch quyết định chuyển sang bao vây, cô lập Nà Sản và rút quân về củng cố vùng giải phóng rộng lớn và củng cố lực lượng chuẩn bị cho nhiệm vụ mới.
Trước thế bị động, cô lập hoàn toàn, chúng biết khả năng không thể tồn tại trên mảnh đất này như âm mưu và kế hoạch của chúng, nên đã bí mật tháo chạy bằng đường hàng không. Như vậy chiến dịch Tây Bắc đã kết thúc thắng lợi hoàn toàn. Bộ chỉ huy chiến dịch đã thẳng thắn nhìn nhận, đánh giá những yếu tố chủ quan, khách quan trong quá trình tham mưu, tác chiến chúng ta chưa đánh địch thất bại đến cùng nhưng “Nà Sản” đã cho quân đội ta một bài học kinh nghiệm giá trị rất sâu sắc trong chiến lược quân sự, đặc biệt là cho cuộc tấn công chiến dịch Điện Biên Phủ.
Trải qua dòng chảy thời gian, cùng với diễn trình lịch sử, “Tập đoàn cứ điểm Nà Sản” nay chỉ còn là địa danh lịch sử, nhưng nó mãi là chứng tích của những năm tháng oanh liệt của quân và dân ta chống thực dân Pháp tại chiến trường Tây Bắc, là dấu ấn của sự thất bại thảm hại của chủ nghĩa thực dân xâm lược. Một cao nguyên Nà Sản đã trở thành địa danh lịch sử bổ xung vào danh mục các di tích lịch sử của cả nước. Năm 1998 Bộ Văn hóa - Thông tin ra quyết định xếp hạng cấp Quốc gia di tích lịch sử Tập đoàn cứ điểm Nà Sản.
Với vị trí đặc biệt thuận lợi, ngay từ những năm quay lại xâm chiếm Sơn La, Tây Bắc, thực dân Pháp đã cho xây dựng sân bay vận tải, làm cầu hàng không vận chuyển để tiếp tế lương thực và các phương tiện chiến tranh phục vụ cho việc chiếm đóng, cai trị của chúng ở Tây Bắc. Khi tình hình diễn biến của chiến sự không có lợi cho chúng, bị thất bại trước những đợt tấn công của quân và dân ta, Thực dân Pháp đã tính đến việc gom các vị trí lại thành căn cứ điểm mạnh, cho nên tập đoàn cứ điểm Nà Sản được thực dân Pháp xây dựng từ tháng 10/1952, nghĩa là từ giữa chiến dịch Tây Bắc. Trước tình hình đó, thực dân Pháp bỏ nhiều vị trí quan trọng ở Khu Tây Bắc rút chạy về co cụm tại Nà Sản và xây dựng thành “Tập đoàn cứ điểm” mạnh và kiên cố nhất thời điểm đó và đây cũng là biện pháp phòng ngự cao nhất, có ý nghĩa chiến lược mà lần đầu tiên chúng thử nghiệm tại Việt Nam.
Tập đoàn cứ điểm Nà Sản được xây dựng chủ yếu thuộc địa phận xã Chiềng Mung, theo trục quốc lộ 6, phân bố trên diện tích 10km2 được bao quanh bởi hai dẫy núi: Pú Hồng và bản Vạy. Ở giữa là khu trung tâm nằm trong thung lũng trải rộng có sở chỉ huy, sân bay vận tải, hệ thống kho chứa lương thực, vũ khí...
Tập đoàn này được xây dựng theo mô hình như một vòng cung khép kín, có 17 cứ điểm liên hoàn, phía Bắc có các cụm Pú Cát, Pú Hồng, Nà Si; Phía Nam có cụm núi Na Sam, bản Cưởm, bản Vạy, Cừ Nhừm. Các dãy núi có độ cao trung bình khoảng 750m, trong đó có núi Pú Hồng cao trên 1.000m.
Khu trung tâm điều hành các cuộc hành quân, sở chỉ huy và sân bay vận tải được xây dựng tại bản Nà Sản, bản Lầu, bản Hời, bản Cưởm, cách đường 41 (Quốc lộ 6) khoảng 500 - 1.000m.
Để bảo vệ cho sở chỉ huy, sân bay cùng các kho tàng lương thực, vũ khí, thực dân Pháp tiến hành xây dựng hệ thống đồn bốt, pháo cao xạ 105mm cùng hệ thống giao thông hào kiên cố trên các cứ điểm trọng điểm là Pú Hồng, Nà Si, bản Vạy, Cừ Nhừm, bản Hời, bản Cưởm, bản Cút, bản Lầu để tạo thành vành đai khép kín, bảo vệ chung cho khu trung tâm Nà Sản. Có các binh chủng sau: 8D lính dù, 1D pháo binh, 8C độc lập, 1D công binh và 1 sân bay ở khu trung tâm.
Tại khu trung tâm gồm: Sân bay vận tải có chiều dài 1.100m, đầu của sân bay được nối liền vào sở chỉ huy, trung tâm liên lạc điều hành các cuộc hành quân các cứ điểm; Các cứ điểm trong sân bay được điều hành kiên cố như: Các đường chiến hào thường nối liền với giao thông hào cơ động trong từng cứ điểm, được bảo vệ bằng những vòng dây thép gai dày đặc, gắn liền với trận địa pháo 105mm, được bố trí theo hình tam giác, có ba trận địa pháo (3 đại đội, mỗi đại đội 4 khẩu pháo), mỗi khẩu cách nhau 20 - 30m, có hầm chứa đạn, khu công sự ẩn nấp và chiến đấu của pháo thủ.
Sở chỉ huy được xây dựng nằm sâu dưới lòng đất hơn 3m, do tướng Zin chỉ huy, dài 6,5m, rộng 5m, trên tường được vã và trát bằng vật liệu bê tông thô gồm đá vụn, cát và xi măng, nóc được lợp bằng tấm sắt ghi như đường băng sân bay cỡ 2,4m x 0,55m. Cửa hầm bằng gỗ được mở liền với hệ thống đường giao thông hào ra sân bay (sâu 2,5m, rộng 8m), đường này có tên gọi là “Đại lộ trung tâm dưới đất" nối với sở chỉ huy vào sâu bên trong là nơi làm việc của cơ quan tham mưu, nơi đây trần không lợp bằng tấm kim loại mà che bằng vải bạt dày như hình mái nhà, phía ngoài vòm mái của sở chỉ huy được đắp đất và các bao cát cao 1m.
Các cứ điểm xây dựng trên các điểm cao xung quanh được cấu trúc như sau: Công sự, có từ 1 - 3 chiến hào đứt đoạn (Mỗi đoạn dài khoảng 10 - 15m), khoảng cách giữa các chiến hào từ 15 - 20m, chỉ có cứ điểm Pú Hồng chiến hào được xây dựng khép kín thành một vòng tròn, không đứt đoạn trên đỉnh núi. Chiều rộng là 80 - 90cm, sâu 1m, bên trong có các ụ chiến đấu được đắp chủ yếu bằng đất hoặc bao cát, xung quanh được bao kín bằng hàng rào dây thép gai, phía ngoài chúng cho chặt cây tre, gỗ ngổn ngang để cản đường tiến công quân ta.
Chiến dịch Tây Bắc bắt đầu từ ngày 14/10/1952 và kết thúc vào ngày 10/12/1952, sau 3 đợt tấn công quyết liệt của quân và dân ta nên chiến dịch nhanh chóng kết thúc so với dự kiến ban đầu là 4 tháng. Ta đã tiêu diệt được nhiều quân địch và thu nhiều vũ khí đạn dược, địch đã rút về co cụm ở Tập đoàn cứ điểm Nà Sản, chúng ta cũng chưa nắm rõ và chưa có kinh nghiệm đánh địch ở dạng tập đoàn cứ điểm, trước tình huống chưa thuận lợi, bộ chỉ huy chiến dịch quyết định chuyển sang bao vây, cô lập Nà Sản và rút quân về củng cố vùng giải phóng rộng lớn và củng cố lực lượng chuẩn bị cho nhiệm vụ mới.
Trước thế bị động, cô lập hoàn toàn, chúng biết khả năng không thể tồn tại trên mảnh đất này như âm mưu và kế hoạch của chúng, nên đã bí mật tháo chạy bằng đường hàng không. Như vậy chiến dịch Tây Bắc đã kết thúc thắng lợi hoàn toàn. Bộ chỉ huy chiến dịch đã thẳng thắn nhìn nhận, đánh giá những yếu tố chủ quan, khách quan trong quá trình tham mưu, tác chiến chúng ta chưa đánh địch thất bại đến cùng nhưng “Nà Sản” đã cho quân đội ta một bài học kinh nghiệm giá trị rất sâu sắc trong chiến lược quân sự, đặc biệt là cho cuộc tấn công chiến dịch Điện Biên Phủ.
Trải qua dòng chảy thời gian, cùng với diễn trình lịch sử, “Tập đoàn cứ điểm Nà Sản” nay chỉ còn là địa danh lịch sử, nhưng nó mãi là chứng tích của những năm tháng oanh liệt của quân và dân ta chống thực dân Pháp tại chiến trường Tây Bắc, là dấu ấn của sự thất bại thảm hại của chủ nghĩa thực dân xâm lược. Một cao nguyên Nà Sản đã trở thành địa danh lịch sử bổ xung vào danh mục các di tích lịch sử của cả nước. Năm 1998 Bộ Văn hóa - Thông tin ra quyết định xếp hạng cấp Quốc gia di tích lịch sử Tập đoàn cứ điểm Nà Sản.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét