Kinh tế Nhật Bản từ 1945 - 1973
( Tiểu luận Đại học sư phạm TPHCM, Nguyễn Ngọc Hòa, TS Lê Phụng Hoàng hướng dẫn)
CHƯƠNGI:
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM
CỦA NỀN KINH TẾ NHẬT BẢN
THỜI KỲ 1952-1973.
Bị thất bại
trong chiến tranh , bị tàn phá nặng nề về kinh tế: 34% máy móc, 25% công trình
xây dựng, 81% tàu biển bị phá hủy, sản xuất công nghiệp thang 8 năm 1945 tụt
xuống còn vai phần trăm so với một vài năm trước đó, và chỉ bằng khoảng 10%
trước mức chiến tranh (1934-1936), nước Nhật chìm trong khủng hoảng về nhiều
mặt. Nhưng đó chỉ là tiền đề một nước Nhật khác hẳn hoàn toàn ra đời. Thời kỳ
phát triển kinh tế nhanh trên toàn thế giới rất hiếm có trong lịch sử kéo dại
từ đầu những năm 50 đến đầu
những năm 70 cũng là một thời kỳ mà Nhật Bản đã có những biến đổi thần kỳ về
kinh tế trong nước cũng như trong quan hệ với nền kinh tế thế giới, những biến
đổi này có tính liên tục và tăng nhanh về lượng. Nó không phải là kết quả của
những chính sách đặc biệt của chính phủ cũng như không phải là kết quả của một
vài thành tích anh hùng mà là do những cố gắng tích luỹ của toàn thể nhân dân
Nhật Bản được sự phát triển của công nghiệp kích thích, các lĩnh vực khác nhau
của nền kinh tế đều tăng trưởng nhanh, nhờ vậy tổng sản phẩm quốc dân, chỉ tiêu
tổng quát cho mức hoath động của nền kinh tế đã tăng mạnh. Từ năm 1952 đến
năm1958, tổng sản phẩm quốc dân dã tăng với tốc độ 6,9%bình quân hằng năm. năm
1959, khi tốc độ tăng trưởng vượt 10%, nền kinh tế Nhật Bản vẫn chưa gây được
sự chú ý của thế giới. những năm sau, khi tốc độ tăng trưởng vượt tốc độ của
những năm trước thì thế giới bắt đầu kinh ngạc và gọi đó là Sự Thần Kì Về Kinh
Tế. Tốc độ cao này được duy trì suốt những năm 1960.Tất nhiên sự tăng trưởng
vẫn diễn biến theo chu kì nhưng trong
thập kỉ này tổng sản phẩm quốc dân tăng trung bình hằng năm là 10%. trong những
năm 1970 - 1973 tốc độ tăng trưởng trung bình hơi giảm đi còn 7,8% nhưng vẫn
cao hơn tiêu chuẩn quốc tế (Bảng 1 ) Về giá trị tuyệt đối, năm 1950,tổng
sản phẩm quốc dân của Nhật Bản mới đạt 24 tỉ đô la, nhỏ hơn bất kì một nước
phương tây nào và chỉ bằng vài phần trăm so với tổng sản phẩm quốc dân Mỹ, tổng
sản phẩm quốc dân của NB đạt khoảng 360 tỉ đôla tuy vẫn còn nhỏ hơn Mỹ, song sự
chênh lệch đã thu hẹp lại còn 3/1.Nhân tố hàng đầu trong tăng trưởng kinh tế
của NB thời kì này là sự phát triển nhan chóng các ngành công nghiệp chế tạo.
Chỉ số sản xuất công nghiệp (1934 –1936:= 100) tăng từ 160 năm 1955 lên 1345
năm 1970. Sự giảm bớt sức lao động trong nông nghiệp và lâm nghiệp cũng rất
đáng chú ý: Nó giảm từ 16 triệu năm 1955 xuống 8,4 triệu năm 1970 và phần của
nó trong tổng lực lượng lao động giảm từ 38,3% xuống 17,4% trong cùng thời kì.
Năm tài chính
|
Theo giá hiện
hành %
|
Theo giá bất
biến của năm 1965 (%)
|
1951
|
38,8
|
13,0
|
1952
|
16,3
|
13,0
|
1953
|
18,1
|
7,9
|
1954
|
4,0
|
2,3
|
1955
|
13,3
|
11,4
|
1956
|
12,3
|
6,8
|
1957
|
13,0
|
8,3
|
1958
|
4,8
|
5,7
|
1959
|
15,5
|
11,7
|
1960
|
19,1
|
13,3
|
1961
|
22,5
|
14,4
|
1962
|
9,1
|
5,7
|
1963
|
18,1
|
12,8
|
1964
|
15,9
|
10,8
|
1965
|
10,6
|
5,4
|
1966
|
17,2
|
11,8
|
1967
|
17,9
|
13,4
|
1968
|
17,8
|
13,6
|
1969
|
18,0
|
12,4
|
1970
|
16,3
|
9,3
|
1971
|
10,7
|
5,7
|
1972
|
17,6
|
12,0
|
(Nguồn: Cục kế hoạch kinh tế)
Bảng 2: Chỉ số sản xuất công nghiệp của
các ngành kinh tế (1965=100)
Nghành
|
1955
|
1960
|
1965
|
1970
|
Dệt
|
42,2
|
68,2
|
100
|
154,0
|
Giấy và
bột giấy
|
34,1
|
63,9
|
100
|
175,9
|
Hóa chất
|
25,2
|
51,0
|
100
|
204,0
|
Dầu lửa
và than
|
18,7
|
47,2
|
100
|
216,7
|
Gốm
|
32,0
|
62,5
|
100
|
175,8
|
Sắt và
thép
|
24,6
|
56,3
|
100
|
230,9
|
Kim loại
màu
|
25,9
|
61,6
|
100
|
211,4
|
Máy móc
|
14,6
|
51,2
|
100
|
291,6
|
Tổng
cộng (CN chế tạo)
|
26,0
|
56,9
|
100
|
218,5
|
Nguồn: Bộ công nghiệp và mậu dịch quốc tế.
Trong các ngành công nghiệp khu vực II, sự
phát triển của các ngành công nghiệp nặng và hóa chất (máy móc, kim khí, hóa
chất) là nổi bật nhất như ta đã thấy ở bảng 2. Sự phát triển của công nghiệp cơ
khí là đáng chú ý vì chỉ số của nó (1965=100) tăng 14,6 năm 1955 lên 291,6 năm
1970, hơn 20 lần trong vòng 20 năm. Tuy vậy, chỉ số của ngành công nghiệp dệt
chỉ tăng tương đối nhỏ: từ 42,2 năm 1955 lên 154,0 năm 1970.
Kết quả
của sự phát triển nói trên có sự góp phần rất nhiều của các nghành công nghiệp
nặng và hóa chất trong tổng sản lượng chế tạo công nghiệp chế tạo đạt tới 57%
năm 1970, cao hơn phần tương ứng ở Tây Đức hoặc Mỹ.
Quá trình tăng trưởng này không phải là sự
phát triển nhẹ nhàng, không gấp khúc. Trong thời gian này Nhật Bản đã trải quan
những bước thăng trầm rõ rệt, chia ra thành những chu kì dài khoảng hơn 3 năm,
2 năm, đôi khi là 5 năm. Những sự lên xuống này diễn biến một cách có hệ thống
và phần lớn theo một lề lối nhất định. Tính từ năm 1951 đến năm 1973 có tất cả
7 lần phồn thịnh và 8 lần suy thoái. Những lần suy thoái của chu kì này chỉ
biểu hiện ở tốc độ tăng trưởng chậm lại chứ không phải là giảm sút tuyệt đối.
Những nhà kinh tế phân tích theo quan điểm chu kì công nghiệp của Các Mác cho
rằng chu kì tái sản xuất rất ngắn lại tiêu biểu ở Nhật Bản gắn chặt với sự rút
ngắn chu kì đổi mới kỹ thuật nhờ tiến bộ khoa học sau chiến tranh. Còn một số
nhà kinh tế Nhật Bản chu kì hàng hóa tồn kho .Lí do tái diễn chu kì hàng tồn
kho gắn với những thiếu hụt trong các cán cân thanh toán quốc tế. Thời kì phồn
thịnh: Sản xuất mở rộng, tiêu dùng sản xuất và cá nhân đều tăng đã làm tăng
nhập khẩu, do vậy cán cân thanh toán bị thiếu hụt. Khi xuất hiện sự tăng hàng
tồn kho và giảm dự trữ ngoại tệ, Chính Phủ thực hiện chính sách thắt chặt tài
chính tiền tệ. Khi điều kiện tài chính bị xiết chặt thì đầu tư giảm, tiêu dùng
trong nước cũng giảm theo. Tất nhiên, hàng tồn kho giảm do giảm đầu tư, cán cân
thanh toán quốc tế trở lại thuận lợi do giảm nhập khẩu và khi đó Chính Phủ lại
nới lỏng chính sách tài chính, tiền tệ, chu kì hàng tồn kho mới lại bắt đầu. Việc
thắt chặt tiền tệ được áp dụng vào đỉnh điểm của các thời kì phồn thịnh năm
1951, 1954, 1957 – 1958, 1961 – 1962, 1964, 1967,1969 – 1970 và 1973 – 1975. Từ
thời kì khan hiếm tiền kéo dài trong 2 năm liền 1973 – 1975, tổng số các thời
kì khan hiếm tiền chỉ khoảng 12 tháng. Chính sách hạn chế tiền tệ của Nhật tỏ
ra tác dụng nhanh với hiệu quả cao.
CHƯƠNG II: SỰ PHÁT TRIỂN “THẦN KỲ” CỦA
NHẬT BẢN
I/ Hậu quả của chiến tranh.
Hơn 4 triệu người thất nghiệp do ngừng các
loại sản xuất quân sự, 7,6 triệu binh sĩ giải ngũ, 1,5 triệu người từ thuộc địa hồi hương, nâng tổng số người không
có việc làm lên 13,1 triệu người. 25% công trình xây dựng bị phá huỷ , 34% máy
móc bị phá hủy… Rất nhiều hậu quả của chiến tranh dẫn đến những thách thức to
lớn đối với Nhất Bản, nhưng không chỉ khôi phục được hậu quả chiến tranh mà
Nhật Bản còn làm được hơn thế.Một khi nhân lực của họ được khôi phục, và được
Mỹ giúp đỡ. Khi nhập khẩu được bông, dầu mỏ, than đá, nhờ có sự giúp đỡ
của Mỹ, những nhà máy ở NB vừa thoát khỏi
các cuộc oanh tạc lập tức có thể bắt tay vào sản xuất ngay được.
Các
công nhân NB làm việc cật lực để phục hồi lại đất nước, phục hồi lại nhà máy từ
đống tro tàn của chiến tranh. Một thời gian sau chiến tranh NB đã bắt đầu tích
luỹ được một số vốn và lần lượt xây dựng các
nhà máy có công nghệ tối tân. Những nhà máy cũ bị tàn phá trong chiến
tranh có tác dụng buộc NB phải trang bị
lại những thiết bị tối tân nhất. Khi các ngành sản xuất của Mỹ tụt hậu so với
Nhật Bản thì có người đã nói đùa rằng, nước Mỹ muốn khôi phục lai khả năng cạnh
tranh với NB phải làm lại một cuộc chiến tranh với Nhật Bản và trong cuộc chiến
tranh này Mỹ cần phải thua. Trong một thời kỳ mà cuộc cách mạng kỹ thuật diễn
ra hết sức nhanh chóng, điều quan trọng là phải đào tạo được những con người
thành thạo kỹ thuật mới và phải có vốn để du nhập những kỹ thuật đó. Nếu thiết
bị quá cũ sẽ là trở ngại cho sự phát triển.
II Chính sách cải cách kinh tế của chính
phủ Nhật Bản.
Trong quá trình cải cách,việc chế định 3 luật:Luật cải cách ruộng
đất,luật
giải tán các tài phiệt và luật lao động là quan trọng nhất: GHQ (bộ tư lệnh
quân đồng minh sau chiến tranh chiếm đóng Nhật Bản –General Head- quarters) đã
đưa ra rất nhiều quy định buộc chính phủ NB phải tiến hành cải cách triệt để mà
không có cách nào trốn tránh.
1-Cải cách ruộng đất:
Nội dung cơ bản của cuộc cải cách
ruộng đất là chuyển quyền sở hữu ruộng đất phát canh cho những tá điền đã từng
trồng trọt trên mảnh đất đó,nhà nước mua tất cả ruộng đất phát canh củ các địa
chủ vắng mặt và, trong trường hợp các địa chủ còn sống ở nông thôn thì mua lại
một số ruộng vượt một chô. Sau đó phát lại cho các tá điền khác,việc chuyển
quyền sở hữu ruộng đất cho những nông dân trực tiếp canh tác đã kích thích mạnh tính tích cực sản
xuất của nông dân. Họ đã tiến hành cải tạo ruộng đất, kết hợp với việc áp dụng
những kỹ thuật canh tác mới để nâng cao năng suất nông nghiệp, thu nhập nông
dân tăng lên đã góp phần mở rộng đáng kể thị trường trong nước.
2-Giải tán các tập đoàn tài phiệt
(Zaibat su) .
Ở Mỹ, phần lớn người ta coi tài
phiệt là thủ phạm làm cho Nhật Bản lao vào cuộc chiến tranh đế quốc theo chỉ
thị của GHQ, chính phủ Nhật Bản đã tiến hành giải tán các tập đoàn tài phiệt
vào tháng 10 năm 1945. Ngoài 4 tập đoàn tài phiệt lớn như Mitsui, Mitsu bisi, Suni tomo,Yasuda bị giải
tán có 2500 người trong hội đồng quản trị có 1600 xí nghiệp có quan hệ với giới
tài phiệt đã buộc phải rời khỏi chức vụ
của mình. Các cổ phần thuộc quyền sở hữu của các công ti tài phiệt và các gia
đình tài phiệt đã bị xử lí dưới hình thức đem ra bán ở thị trường cổ phần. Vì
thế đã loại trừ được sự chi phối của các cá nhân và của chủ cổ phần.
Công ty bị chia nhỏ thành những công ty nhỏ
với những người lãnh đạo trẻ tuổi (được gọi là giới lãnh đaọ cấp 3 ). Nhiều
người lo ngại rằng liệu toàn người lãnh đạo cấp 3 như thế có thể gánh vác nổi
nền kinh tế NB hay không nhưng ngược lại lớp trẻ đã phát huy tốt tinh thần của
các nhà kinh tế. do đó nền kinh tế NB đã lấy lại được sức sống của nó. Việc giải thể các tập đoàn tài phiệt được tiến hành theo luật thủ
tiêu tình trạng tập trung cao độ kinh tế. một mặt có thể nghĩ đó là ý đồ của Mỹ
dùng pháp luật để làm yếu nền kinh tế
NB, nhưng mặt khác cũng có thể khẳng định được rằng :Nó đã làm tăng sức cạnh
tranh, giúp cho nền kinh tế NB tăng trưởng mạnh
3-Chế định ba luật về lao động :
Chính sách quan trọng của Mỹ là khuyến khích
hoạt động công đoàn. Đó là bảo đảm ngăn chặn sự hồi sinh của chủ nghĩa quân
phiệt và hành vi xâm lược và được coi là biện pháp đề cao tự do và nâng cao đời
sống vật chất của nhân dân NB.
Luật công
đoàn được đề ra vào tháng 12-1945 và bắt đầu
được thực hiện vào đầu tháng 3 năm 1946 luật công đoàn quy định công
nhân có quyền đoàn kết, quyền thương lượng tập thể, quyền bãi công.Luật điều
chỉnh quan hệ lao động được đề ra vào tháng 7 – 1947. Luật tiêu chuẩn lao động
được đề ra vào tháng 4 – 1947. Vì vậy lực lượng công đoàn phát triển nhanh
chóng.
Phong trào công đoàn thời kì đầu sau chiến
tranh mang tính chiến đấu rất rõ rệt. Bởi vì lúc đó bối cảnh về mặt tư tưởng.
Công nhân có nguy có bị tư bản tước đoạt các quyền lợi của mình. Một nguyên
nhân nữa là đời sống của công nhân trong thời kì đó vô cùng khổ cực nếu không đấu tranh
đòi tăng lương thì không sao sống nổi. Vì thế mà phong trào công đoàn đã
dương cao nhiều mục tiêu để tập hợp công
nhân đấu tranh như: truy cứu trách nhiệm
chiến tranh, phản đối cuộc giãn thợ, bảo vệ đời sốngvề quyền của công nhân, thì
ngoài quyền bãi công ra công nhân đòi
quyền tham gia dưới hình thức quản lí. Những cuộc bãi công, đấu tranh lớn của
công nhân sau chiến tranh có thể kể đến: cuộc bãi công của công nhân viên báo
Yomiuri năm 1945, cuộc bãi công của nhà máy
đóng tàu Tsurumi thuộc tập đoàn
sắt thép Nihon Kokan.
Các tổ
chức công đòan đã tiến hành các cuộc bãi công kéo dài đe doạ đến quản lí sản
xuất như manh nha đòi phải có sự giám sát của dân trong kinh tế, đe doạ sự tồn
tại của xí nghiệp. Sau đó qua nhiều cuộc đấu tranh khác nữa đó là sự biến dạng
khá nhiều; hoạt động của công đoàn trở nên thực dụng hơn, chuyển sang các nội
dung chủ yếu là về kinh tế ôn hoà hơn và trở thành một cơ sở quan trọng giúp
cho nền kinh tế NB đạt được tốc độ tăng trưởng cao.
Những
diễn biến như vậy là điều không thể tưởng tượng được vào thời điểm ngay sau
chiến tranh.
III. Một số thành tựu chủ yếu.
1. Ngành công nghiệp.
Đối với một quốc gia mà đất
đai trồng trọt chỉ chiếm 15% diện tích lãnh thổ như Nhật Bản thì ngàng công
nghiệp luôn được coi là ngành kinh tế chủ đạo của đất nước.
Khoảng hơn hai thập kỷ sau chiến tranh từ năm
1952 – 1973 là thời gian mà Nhật Bản đạt được sự gia tăng mạnh mẽ nhất về công
nghiệp.
Điểm nổi bật nhất trong công nghiệp Nhật Bản
thời kì này là sự tăng trưởng cao của nghành công nghiệp chế tạo. Năng suất và
sản lượng của ngành này đã liên tục gia tăng trong khi đó các ngành khác lại bị
giảm sút.
Sản phẩm quốc dân thuần túy của từng
ngành sản xuất (thể hiện qua chi phí của các yếu tố)
|
1952
|
1960
|
1968
|
|||
|
Kinh
nghạch
|
Tỷ
trọng
|
Kinh
nghạch
|
Tỷ
trọng
|
Kinh
nghạch
|
Tỷ
trọng
|
-Nông
– lâm – ngư nghiệp
-
Khai mỏ
-
Chế tạo
-
Xây dựng
-
Điện lực, khí đốt, cấp nước, vận tải, bưu điện.
- Thương nghiệp
- Dịch vụ
- Tổng cộng
|
1170
150
1258
201
454
884
1008
5137
|
22,6
3,1
24,3
3,9
8,8
16,3
21,0
100,0
|
1941
213
3891
733
1224
2154
3141
13293
|
14,6
1,6
29,3
5,5
9,2
16,2
23,6
100,0
|
4167
291
122832
3230
3059
7413
10887
12299
|
9,9
0,7
30,3
7,6
8,3
17,5
25,7
100,0
|
Nghành
hành hải được chú trọng và phát triển. Từ năm 1951 đến năm 1970 số lượng tàu
tăng đáng kể và số tiền tài trợ của chính phủ cũng tăng. Từ năm 1966 – 1970 đã
chiếm 69% tổng số tiền của chương trình đóng tàu của Nhật Bản.
Chương
trình đóng tàu của Nhật Bản
Các
năm tài chính
|
Số
tàu
|
Tổng
trọng tải (10.000 tấn)
|
Giá
hợp đồng cho các loại tàu do Chính phủ đặt đóng (100 triệu yên)
|
Tỷ
lệ % được tài trợ
|
1947-1950
1951-1955
1956-1960
1961-1965
1966-1970
|
164
159
140
164
200
|
69,1
131,7
135,8
449,4
1135,8
|
518
1776
1654
3129
6921
|
57
44
50
66
69
|
Nhờ khôi phục được nguồn nguyên nhiên liệu nên ngành
công nghiệp chế tạo ngày càng phát triển mạnh mẽ, được thể hiện trong từng phân
ngành của ngành công nghiệp chế tạo.
|
Tốc
độ tăng trưởng bình quân hàng năm của giá trị sản phẩm (%).
|
||
Thập
kỷ 1950
|
Thập
kỷ 1960
|
1951
- 1970
|
|
Chế
biến thực phẩm
Sản
phẩm từ sợi
Đồ
gỗ
Giấy
– in ấn – xuất bản
Hóa
chất
Sản
phẩm từ dầu mỏ
Sản
phẩm than đá
Đồ
gồm, sản phẩm từ đá
Gang
thép
Sản
phẩm kim loại
Máy
thông dụng
Máy
điện
Máy
vận tải
Máy
chính xác
Bình quân toàn ngành công
nghiệp chế tạo
|
16,9
4,2
16,8
18,3
18,1
27,3
3,3
15,0
11,7
13,5
25,3
30,4
22,0
18,7
14,6
|
10,3
10,1
15,7
15,5
14,3
17,3
15,5
17,7
1,1
18,7
18,2
18,5
18,3
17,8
15,0
|
13,4
7,2
16,2
17,1
16,1
21,8
9,5
1,4
13,5
16,2
21,5
24,0
20,1
18,2
14,8
|
Thời kỳ này sản xuất điện tử, nghe nhìn và
đồ điện gia dụng cũng phát triển mạnh mẽ. Trước hết phải kể đến ngành sản xuất
tivi là lĩnh vực Nhật đã nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường thế giới. Vào những
năm 1950 Nhật chủ yếu sản xuất các loại tivi đen trắng, đến những năm 60 tivi
màu đã sản xuất được nhiều và đầu những năm 70 hầu như đã thay thế cho tivi đen
trắng. Số lượng tivi màu năm 1960 là 3,6 triệu chiếc, năm 1970 tăng lên 13,8
triệu chiếc và đạt chất lượng khá cao .
Trong
lĩnh vực máy tính điện tử năm 1965 sản xuất đạt 4000 chiếc với giá 200.000 yên.
Năm 1969 sane xuất đã tăng lên 10 lần, đạt 450.000 chiếc và đã giảm xuống còn
10.000 yên. Vào năm 1973 việc cải thiện các nguyên liệu và các phương pháp sản
xuất hàng loạt đã đẩy sản lượng máy tính lên 10 triệu chiếc và giá đã giảm
xuống còn vài ngàn yên. Những loại máy tính lớn cũng được sản xuất trong thời
kì này.
Riêng
về đồ điện gia dụng, ngoài vô tuyến truyền hình, vào giữa những năm 50 người ta
đã chứng kiến sự khởi đầu của việc sản xuất hàng loạt các đồ dùng gia đình
khác.
Một lĩnh khác là ngành sản xuất ô tô. Trước
chiến tranh nó hầu như không hề tồn tại, tuy nhiên trong thời kỳ này đã thực
hiện “bước nhảy” phi thường.
Mức
gia tăng sản lượng xe hơi của Nhật Bản (triệu chiếc)
|
|||||
Năm
|
1960
|
1965
|
1970
|
1975
|
1980
|
Sản
xuât
Xuất
khẩu
|
0,2
0,0
|
0,70
0,50
|
3,0
0,8
|
4,0
1,8
|
7,0
4,0
|
Tỉ lệ sản xuất công nghiệp của Nhật Bản
trong thế giới Tư bản chủ nghĩa
Tên
nước
|
Nhật
Bản
|
Mỹ
|
Tây
Âu
|
1938
1950
1960
1971
|
4,8
1,6
5,4
9,5
|
36,6
54,6
44,9
39,1
|
45,0
32,7
34,9
34,3
|
2. Nông nghiệp
Trong giai đoạn “thần kỳ” của nền kinh tế
Nhật Bản sự tăng trưởng chủ yếu được thể hiện quan ngành công nghiệp. Tuy
nhiên, Nông nghiệp Nhật Bản thời kỳ này cũng đạt được sự phát triển khá lớn và nó cũng trở thành một trong những lực đẩy
của nền kinh tế quốc gia.
Giai đoạn 19952-1973 ở ngành nông nghiệp đã
có những biến đổi sâu sắc. Sự lớn mạnh của ngành công nghiệp dẫn tới sự giảm
sút của lực lượng lao động nông nghiệp.
Tổng
số lực lượng lao động và số lao động trong nông nghiệp
Đơn
vị: 1000 người
|
1950
|
1955
|
1960
|
1965
|
1970
|
Tổng số lực lượng lao động
Số lao động trong nông
nghiệp
|
35.626
16.102
|
39.261
14.890
|
43.719
13.128
|
47.633
10.857
|
52.110
9.334
|
Ngành nông nghiệp Nhật Bản thời kỳ này phát
triển khá đa dạng và phong phú, nhưng sản xuất chính vẫn là lúa gạo. Nhờ áp
dụng được máy móc hiện đại và các loại phân bón tốt nên sản lượng lúa đã không
ngừng gia tăng.
Sự
biến đổi sản lượng lúa nước
Năm
|
Diện tích canh tác (ngàn ha)
|
Thu hoạch trên diện tích 10 ha
|
Sản lượng (nghìn tấn)
|
1950
1955
1960
1965
1966
1967
1968
1969
1970
1971
1972
|
2877
3045
3124
3129
3149
3171
3173
2836
2626
2734
2581
|
327
396
401
390
400
453
449
435
422
414
456
|
9412
12073
12593
12181
125262
14257
14223
13497
12528
10782
11776
|
Tiến bộ nhất trong nông nghiệp thời kỳ này là
chính là việc ứng dụng các loại máy móc vào sản xuất, nhất là các loại máy lớn.
Đồng thời hệ thống tổ chức thí nghiệm và nghiên cứu cơ giới hóa nông nghiệp,
được cải tiến và mở rộng.
Cơ cấu chi phí vật tư công cụ nông nghiệp
|
1951
|
1955
|
1965
|
1970
|
Mạ
cây non trứng tầm
Phân
bón
Động
vật
Thức
ăn gia súc
Thuốc
trừ sâu
Vật
liệu, nguyên liệu gia công
Năng
lượng quang, nhiệt
Máy
nông nghiệp
Công
trình xây dựng phục vụ nông nghiệp
Làm
giàu đất thủy lợi
Quần
áo bảo hộ
Tổng
số:
|
5,8
34,0
10,7
10,7
2,3
4,6
1,8
15,5
10,9
-
3,5
100,0
|
5,4
29,0
11,6
14,4
3,3
4,0
2,2
16,5
11,7
-
1,9
100,0
|
3,9
14,0
7,3
28,5
4,5
4,8
3,7
21,1
9,0
2,2
1,0
100,0
|
4,1
10,9
7,0
26,4
4,9
5,3
3,6
25,2
9,3
2,5
0,8
100,0
|
Cho đến năm 1955 hầu như các loại máy nông
nghiệp đã được triển khai rộng khắp. Năm 1955 có 2 triệu máy tuốt hạt, đến năm
1965 lên tới gần 3 triệu máy.Còn máy làm đất, năm 1955 có 90000 máy, đến năm
1960 vọt lên 2526000 máy.
Tóm lại, thời kỳ 1952-1973, nông nghiệp Nhật
Bản đã có bước tiến khá mạnh theo hướng thâm canh với trình độ cơ giới hóa, hóa
học hóa, thủy lợi hóa và điện khí hóa rất cao. Từ tình trạng thiếu lương thực
gay gắt sau chiến tranh thế giới thứ hai, giờ đây nhân dân có thể tự túc về
nông nghiệp, sản lượng lương thực đã đủ cung cấp cho 80% nhu cầu trong nước,
ngành chăn nuôi giải quyết 2/3 nhu cầu thịt sữa, ngành đánh cá chỉ đứng sau
Pe6ru với sản lượng cá tính theo đầu người hang năm là 86kg. Tính chung về sản
lượng nông – lâm – ngư nghiệp cho đến đầu những năm 1970 Nhật Bản đã đạt trên 9
tỷ đô la.
3.
Ngành ngoại thương
Là một nước có lãnh thổ hạn hẹn, dân số đông
và tài nguyên thiên nhiên khan hiếm, để phát triển đất nước Nhật Bản không còn
cách nào hơn là phải nhập khẩu nguyên liệu và thực phẩm. Từ đó một nhiệm vụ
quan trọng trong quá trình tăng trưởng kinh tế là phải xuất khẩu thu ngoại tệ
để duy trùy nhập khẩu.
Đặc điểm nổi bật trong quá trình phát triển
kinh tế của Nhật Bản là sự tác động mạnh của mức dự trử ngoại tệ với tính cách
như là một tác nhân chế ước sự tăng trưởng kinh tế. Mỗi khi nền kinh tế tăng
trưởng quá mức, sản xuất mở rộng, nhu cầu tiêu dung gia tăng làm cho nhập khẩu
tăng vọt và ngoại thương bị thâm hụt, dự trữ ngoại tệ giảm, lúc đó Nhà nước
thắt chặt lại tín dụng và hạn chế tốc độ tăng trưởng.
Nhu vậy mức dự trữ ngoại tệ là yếu tố quan
trọng hang đầu đối với sự tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản. Năm 1949 Nhật tái
tham gia vào nền kinh tế thế giới với tỷ suất hối đoái là 360 yên ăn 1 đô la.
Nhờ vậy, sức cạnh tranh của Nhật Bản gia tăng mạnh mẽ.
Tổng kết hoạt động ngoại thương trong thời kỳ
1952-1973 Nhật Bản luôn có số xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu.
Tổng ngạch xuất khẩu (triệu đô la)
|
1969
|
1970
|
1971
|
Tổng
ngạch nhập
|
15024
|
18881
|
19712
|
Tổng
ngạch xuất
|
15990
|
19318
|
24019
|
Tương quan xuất và nhập khẩu các hang
tiêu dùng và dịch vụ so với tổng sản phẩm quốc dân năm 1966
Các nước
|
Xuất khẩu
|
Nhập khẩu
|
Hoa
kỳ
CHLB
Đức
Anh
Pháp
Nhật
Ý
Hà
Lan
Bỉ
Thụy
Sĩ
|
4,9
20,9
18,4
14,5
11,5
7,9
42,2
36,3
30,8
|
4,8
19,4
18,9
14,3
9,8
15,8
45,3
37,4
30
|
Mức
xuất khẩu của các cường quốc thương mại
Các
nước
|
1955
|
1964
|
1955—1964
|
Hoa
Kỳ
CHLB
Đức
Anh
Pháp
Nhật
Ý
Ấn
Độ
|
15,38
6,14
8,47
4,85
2,01
4,42
1,86
1,28
|
27,00
17,81
13,72
10,06
8,45
8,11
7,19
1,68
|
1,76
2,91
1,62
2,07
4,02
1,83
3,87
1,31
|
Nguồn:
OECD
|
Trong
giai đoạn này các cường quốc thương mại như Ấn Độ đã bị loại khỏi cuộc cạnh
tranh. Từ năm 1955-1965 xuất khẩu quốc tế của Nhật Bản hãy còn khá khiêm tốn,
tuy vậy nó đã tăng từ 2,2% lên 4,6%.
Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu
Phân
loại
|
1960
|
1965
|
1969
|
1972
|
Tổng loại
Thực phẩm
Nguyên nhiên liệu
Hàng công nghiệp nhẹ
Hàng công nghiệp nặng,
hóa chất
Các loại khác
|
110,0
6,3
2,2
47,0
44,0
0,4
|
100,0
1,1
1,5
31,9
62,0
0,6
|
100,0
3,6
1,1
25,5
64,3
0,6
|
100,0
2,3
0,9
18,8
77,1
0,9
|
Một số mặt hàng xuất khẩu chính
Các mặt hàng
|
1970
|
1971
|
Tơ sợi
Vải thành phẩm
Thành phẩm sợi tổng hợp
Thành phẩm tơ nhân tạo
Quần áo may sẳn
Phân bón
Sành sứ, thủy tinh
Thành phẩm sắt, thép
Sắt, thép
Máy dệt
Máy khâu
Máy thu thanh
Xe ô tô các loại
Tàu thủy
Gỗ dán
Dụng cụ quang học
Đồ chơi trẻ em
|
1,4
188,0
626,0
92,0
464,0
143,0
138,0
715,0
2850,0
197,0
130,0
697,0
1414,0
1500,0
75,0
439,0
138,0
|
0,2
196,0
751,0
78,0
468,0
156,0
147
823,0
3542,0
248,0
164,0
791,0
1848,0
1849,0
36,0
499,0
139,0
|
Cơ cấu
hàng nhập khẩu
|
1962
|
1965
|
1968
|
1971
|
Tổng
loại
Thực
phẩm và hàng tiêu dùng
Nguyên
liệu công nghiệp
Hàng
tư bản
Hàng
tiêu dùng mau hỏng
Hàng
tiêu dùng lâu bền
Các
loại khác
|
100,0
16,2
68,2
14,0
0,3
0,7
0,6
|
100,0
21,5
67,3
8,8
0,6
1,3
0,5
|
100,0
17,2
70,2
9,7
0,8
1,4
0,7
|
100,0
17,3
66,5
11,7
1,2
2,1
1,2
|
Như vậy, nhìn chung ngoại thương Nhật Bản
trong giai đoạn 1952-1973 đã có sự phát triển cao nhờ kích thích của ngành công
nghiệp và một số điều kiện thuận lợi khác. Trong giai đoạn này cả nhập khẩu và
xuất khẩu đều tăng vọt nhưng xuất khẩu tăng mạnh hơn. Chỉ số gia tăng của xuất
khẩu năm 1960 là 43,9, năm 1965 đã là 100 và năm 1970 đã lên đến 200,8. Đặc
biệt xuất khẩu hóa chất đã đạt kỷ lục, chỉ số gia tăng từ 29 vào năm 1960, lên
100 vào năm 1965 và 280 vào năm 1970. Lĩnh vực sản xuất máy móc cũng có những
chỉ số tương ứng là 26,100 và 263.
Sự phát triển của ngoại thương tác động rất
lớn đến tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản. Ngoài việc thúc đẩy nhanh quá trình
sản xuất công nghiệp và nông nghiệp, lợi nhuận thu được từ xuất khẩu hang hóa
còn được tái đầu tư và phục vụ cho các ngành kinh tế khác như giao thong vận
tải, bưu điện, dịch vụ…thúc đẩy các ngành này phát triển mạnh mẽ.
Tóm lại, từ một nền kinh tế đổ nát sau chiến
tranh, Nhật Bản đã vươn lên bằng chính bàn tay và khối óc, bằng chính ý chí và
nghị lực của mình, xây dựng một nền kinh tế phát triển cao độ trên hầu hết mọi
ngành kinh tế, nhanh chóng khẳng định sức mạnh và nâng cao vị trí của mình trên
thị trường quốc tế.
IV. Các yếu tố dẫn đến sự phát triển thần
kì” của Nhật Bản.
1.
Những nhà kinh doanh xí nghiệp tích cực:
Một trong những nguyên nhân quan trọng giúp
cho nền kinh tế Nhật Bản tăng trưởng mạnh sau chiến tranh là các nhà kinh doanh
xí nghiệp đã tỏ rõ năng lực kinh doanh rất tích cực của mình.
Nhưng không bao lâu các nhà kinh doanh
cũng đã nhận thức được vị trí của mình.
Tháng 4 năm 1946 Hội đồng hữu kinh tế
(Katai – Doyukai – tổ chức các nhà kinh doanh – ND) đã được thành lập với quyết
tâm của những nhà kinh doanh trẻ dưới 50 tuổi như ông Kanichi Mroi, otsukaphê
phán những nhà kinh doanh lỗi thời không chịu tuân thủ nguyên tắc dân chủ hoá
sau chiến tranh và phong trào công nhân quá khích tuyên bố xác lập vị trí riêng của tổ chức mình, phân
chia gianh giới giữa tư bản và kinh doanh, nhằm thực hiện chủ nghĩa tư bản xét
lại trong đó dựa vào sự thoả hiệp giữa chủ và thợ.
Những người kinh doanh xí nghiệp ở NB sau
chiến tranh có thể phân
thành
ba loại :
+/ Loại 1: Những nhà kinh doanh trẻ được đề
bạt với tư cách là người thay thế các nhà lãnh đạo các xí nghiệp hàng đầu đã bị
buộc phải rời khỏi chức vụ theo luật giải tán các tập đoàn tài phiệt. Tiêu biểu
là các ông Chikara Kurata (hãng chế tạo Hitachi ),
Kikuo Ssoyama(hãng Toyo Rayon).
+/ Loại
2:Những nhà kinh doanh lập nghiệp sau chiến tranh, tức là trước chiến tranh chỉ
là các xí nghiệp trung tiểu, sau chiến tranh phát triển nhảy vọt. Tiêu biểu là
Konosuke Mastu(công ty điện Mastu Shita),
Sazo Idemitsu (Idemitsu Hunsan).
+/ Loại 3: các nhà doanh nghiệp nổi lên sâu
chiến tranh. Đại diện là Ohibuka, A Kio morita (Sony), Shoi chiro honda(hãng
nghiên cứu kỹ thuật
Honda).
2. Lực lượng lao động ưu tú:
Nhật Bản có một lợi thế lớn là có một nguồn
lao động dồi dào. Sau chiến tranh một
lực lượng lớn người rút ra từ các thuộc địa của NB về giải ngũ ra từ quân đội.
Nguồn cung cấp lao động lúc đó là quá thừa và họ sẵn sàng làm việc với đồng
lương rẻ mạt. Nói theo thuật ngữ kinh tế học của Mác thì lao động tạo ra giá
trị thặng dư và có khả năng tích luỹ tư bản. Dù đồng lương thấp đến mức nào,
nhưng vì chất lượng lao động tồi, năng suất lao động thấp thì cũng không phát
sinh giá trị thặng dư. Nhưng phần lớn lao động ở NB có trình độ giáo dục cao và
được đào tạo về kỹ năng lao động. ảnh hưởng của chủ nghĩa Mac đã phát triển rất
nhanh chóng nhưng chủ yếu ở trong một bộ phận trí thức và công nhân ở các thành
phố, còn phần lớn công nhân vẫn còn tiếp tục theo quan niệm có từ trước chiến
tranh là trung thành vơí các xí nghiệp.
Từ năm 1947 đến năm 1949 là những năm sau
chiến tranh, số trẻ sơ sinh tăng vọt. Trong 3 năm đó, tỷ lệ sinh rất cao đạt
3,4% năm. Người ta lo rằng cứ đà đó thì sẽ đẫn đến tình trạng quá thừa lao động
và làm trầm trọng thêm vấn đề thất nghiệp. Tuy vậy lớp trẻ sinh ra trong thời
kỳ này đạt đến tuổi lao động đúng vào thời kỳ kinh tế NB tăng trưởng với tốc độ
cao, nhu cầu lao động tăng mạnh.
Sau chiến tranh, tỷ lệ thanh thiếu niên đi học
ngày càng cao, trình độ học vấn cao đã đáp ứng được yêu cầu của công cuộc cách
mạng kỹ thuật.
3. Sự hợp tác chủ thợ:
Có thể nói rằng công nhân trong thời kỳ này
của các công ty sản xuất đều có một quyết tâm, và ý chí làm việc rất cao.
Có ý kiến cho rằng, nguyên nhân của nó là ở
đặc tính xã hội như một cơ sở mà trong đó người NB dễ dàng hoà mình vào với
cuộc sống tập thể. Nhưng cũng có người lại cho rằng đó là do đạo đức phong kiến
còn rơi rớt lại. Cũng có ý kiến cho rằng đó là do đặc tính có tính chất chế độ
ở NB như chế độ công đoàn riêng trong từng xí nghiệp, chế độ tuyển dụng suốt
đời. Vì trong một chế độ như vậy, sự thành công của xí nghiệp dễ gắn liền trực
tiếp với lợi ích của công nhân.
Nhưng lại có người cho rằng ý thức tập thể và
chế độ như vậy ở nước nào mà trả có chứ đâu phải đặc tính riêng của NB. Nhưng
một điểm mà hầu như các nhà kinh tế nước ngoài đến thăm NB đều ngạc nhiên như
nhau là các nhân viên công nhân đều tích cực đề suất sáng kiến để nâng cao năng
suất lao động. Có lẽ đó là sự kết hợp của những lí do nêu trên và sự nhất trí
giữa người lao động và lãnh đạo xí nghiệp (chủ và thợ). Sự nhất trí như vậy là
hiếm có trên thế giới. Các nhà kinh doanh luôn cố gắng để duy trì những đặc
điểm nóitrên. Có ý kiến cho rằng, tới đây tình hình thay đổi và lực lượng lao
động sẽ tăng lên, chế độ tuyển dụng lao động suốt đời sẽ tan rã và sự nhất trí
giữa chủ và thợ cũng sẽ mai một đi. Nhưng theo tôi thì nếu nói trong tương lai
xa xôi thì có thể khác nhưng trước mắt đặc điểm đó không thay đổi. Bởi vì nó đã
ăn sâu vào quan hệ xã hội, là lợi ích của cả hai phía.
4. Lãnh đạo tài ba.
- Sự hướng dẫn hành chính: Việc chế định pháp
luật được tiến hành dưới sự lãnh đạo của các quan chức, cả các thông tư và chỉ
thị của bộ. Phạm vi để họ được tự do quyết định khá rộng rãi. Trên cơ sở quyền
hạn giám sát nói chung, các quan chức có thể tham gia ý kiến đến cả những vấn đề không thuộc quyền hạn về mặt pháp lệnh. Ví
dụ trong thời kì kinh tề NB tăng trưởng với tốc độ cao vào những năm 60, sự
cạnh tranh trong đầu tư thiết bị có nguy cơ
đi quá xa, không ít những trường hợp chính phủ quy định cả
đến kim ngạch đầu tư và thứ tự xí nghiệp nào đầu tư thiết bị trước.
Lí do để có khả năng đó chính là sự tin tưởng
vào kiến thức và năng lực của các quan chức, ở sự trong sáng và sự công bằng và
tập quán các xí nghiệp tư nhân phục tùng sự lãnh đạo của các cơ quan chính
phủ.
-
Hoạch định kế hoạch: Ngoài việc họ phải lập kế hoạch tổng hợp như kế hoạch tăng
thu nhập và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, các quan chức ở các bộ còn phải
lập kế hoạch dài hạn trong lĩnh vực do bộ mình quản. Trong quá trình hoạch định
này thường lập ra cơ quan tư vấn tập hợp các chuyên gia lẫn các xí nghiệp tư
nhân và qua đó là cách để tập hợp kiến thức và đạt tới sự thoả thuận. Trong hầu
hết các trường hợp, lãnh đạo kế hoạch là quan chức.
-
Hình thành mục tiêu phải đạt tới trong
tương lai: Bước vào thập kỉ 70, quyền kiểm soát của các cơ quan bộ thu hẹp lại,
do đó các quan chức đã phát huy năng lực lãnh đạo thông qua việc hoạch định mục
tiêu đối với kế hoạch phát triển kinh tế và ngành trong tương lai. Về điểm này, cơ quan có sự chuyển biến rõ rệt
nhất là Bộ công nghiệp và mậu dịch quốc tế. Những kế hoạch có tính định hướng
này sớm chỉ ra cho nền kinh tế NB, phải chuyển biến theo hướng phát triển kinh
tế có sử dụng nhiều chất xám, đồng thời tác động ít nhiều đến cách tư duy của
từng ngành.
5. Đổi mới kỹ thuật:
Nguồn gốc của cuộc cách mạng kỹ thuật thì lại
từ nước Mỹ. Các kỹ thuật tiên tiến nhanh chóng được đưa vào NB. Những mặt hàng
mới lần đầu tiên xuất hiện ở thị trường NB như nilon, sợi Polieste, penicilin,
nguyên tử năng, bán dẫn, vô tuyến truyền hình, máy tính có những mặt hàng xưa cũng đã sản xuất, nhưng
nay nhờ có kỹ thuật mới mà phương pháp sản xuất thay đổi hẳn. NB đã du nhập phương thức sản xuất sắt thép liên
hoàn, lò quay, phương pháp phan giải dầu mỏ, phương thức đóng tầu theo khối
lớn, phương thức sản xuất xe hơi hàng loạt.
Sau chiến tranh, ngay trên nước Mỹ cũng đã đạt
được những tiến bộ khoa học kỹ thuật rất lớn. Nhờ những kỹ thuật tiên tiến phát
minh ở Mỹ trước và sau chiến tranh được đưa vào NB trong thập kỷ 50 mà tốc đô
tiến bộ kỹ thuật ở NB cũng nhanh đến mức chưa từng có trong lịch sử NB.
Bước vào thập kỷ 60 tiến bộ kỹ thuật phổ biến
diễn ra dưới hình thức kết hợp với những kỹ thuật đã có. Trong số các chuyên
gia kỹ thuật, có người nói rằng tiến bộ kỹ thuật do sự kết hợp như vậy không
hẳn là cách mạng kỹ thuật. Đó là quan điểm của các nhà khoa học tự nhiên. Trong
kinh tế học thì khác, chính sự “ kết hợp mới” với những kỹ thuật sẵn có là cách
mạng kỹ thuật có ý nghĩa về mặt kinh tế. Những đổi mới kỹ thuật mang tính chất
như vậy là phổ biến trong thập kỷ 60. Và cũng chính trong thời gian này xuất
hiện các liên hiệp hoá dầu, liên hợp gang thép, phương thức bán hàng tự động
các siêu thị.
*/
Năm lĩnh vực lớn của cách mạng kỹ thuật:
1. Lĩnh vực điện tử : Mạch tổ hợp, mạch tổ hợp
lớn, mạch tổ hợp siêu lớn và điện tử phát triển một cách ghê ghớm. Sự phát triển đó gắn liền với sự
phát triển của kỹ thuật sản xuất máy móc và kỹ thuật phương tiện thông tin, đã
và đang làm thay đổi bộ mặt của toàn xã hội.
2. Cách mạng trong lĩnh vực vật liệu. Đặc biệt
là gốm đã gây được sự chú ý to lớn. Kỹ thuật đã cho phép con người sản xuất
được động cơ bằng gốm.
3. Cách mạng trong lĩnh vực thông tin. Sự tiến
bộ của lĩnh vực điện tử và sự phát triển của thông tin cáp quang gắn liền với
nhau làm bùng nổ cách mạng trong lĩnh vực thông tin.
4. Cách mạng trong lĩnh vực sinh học. Người ta
có thể tạo ra được một loại dược phẩm mới, một loại thực vật mới bằng cách cấy
ghép gen di truyền.
5. Lĩnh
vực năng lượng mới. Người ta sử dụng pin mặt trời, sử dụng các tấm silicon tạo
ra nguồn năng lượng mới đầy triển vọng.
6. Tỷ lệ tiết kiệm cao và ngân hàng cho
vay tích cực :
Tỷ lệ tiết kiệm của các hộ người lao động ở
thành phố vào năm 1952 là 4,4%. Nhưng sau
đó tỷ lệ này mỗi năm một tăng. Đến năm 1960 tăng lên 15%; năm 1970 là
20%. Tỷ lệ đó đạt mức cao nhất 24% năm 1974. Sau đó có giảm đi, nhưng nếu so
với các nước Mỹ, Anh, Đức thì NB cao hơn nhiều.
Vì sao tỷ lệ tiền gửi tiết kiệm ở NB lại cao
như vậy. Có ý kiến cho rằng do tính cộng đồng, trung thực của người NB, đạo đức
Nho giáo coi sống giản dị là đức tính tốt đẹp, cơ cấu lứa tuổi của người NB trẻ thì tỷ lệ tích luỹ càng cao, có
ý kiến lại cho rằng tỷ lệ tăng trưởng ở NB rất cao nên thu nhập tăng nhanh hơn
tiêu dùng dẫn đến kết quả là tỷ lệ tiền
gửi cũng cao (tiêu dùng không tăng mấy do ảnh hưởng của tập quán lâu đời); Có ý
kiến lại cho rằng vì chế độ bảo hiểm xã hội ở NB lạc hậu nên mọi người phải giữ
tiền để phòng khi đau ốm hoặc về già; lại có ý kiến cho rằng gửi tiền tích luỹ
để sau này mua nhà ở hoặc để cho con cái học hành. Có người lại nói rằng chế độ
tiền thưởng ở NB giúp cho người gửi tiết kiệm tăng lên. Vì qua điều tra người
ta thấy tỷ lệ người gửi tiền từ khoản tiền thưởng cao hơn tỷ lệ tiền gửi từ
lương tháng.
Như vậy tỷ lệ tiền gửi cao ở NB có nhiều
nguyên nhân nhưng không rõ nguyên nhân
nào có ý nghĩa quyết định.Có lẽ tổng hợp những nguyên nhân nói trên đẵ dẫn đến
kết quả cuối cùng là tỉ lệ tiền tiết kiệm cao ở Nhật Bản Còn một nguyên nhân nữa giúp cho nền kinh tế
NB tăng trưởng với tốc độ cao là quan niệm cho vay tích cực của ngân hàng. Hoạt
động cho vay của ngân hàng thay thế cho tích luỹ vốn. Có lẽ NB thành công được
là nhờ tỉ lệ tiền gửi trong chi tiêu gia đình là rất cao. Tỉ lệ tiền gửi cao
gắn với hoạt động cho vay tích cực của ngân hàng đã tạo nên khả năng tích luỹ
vốn cần thiết cho nền kinh tế NB tăng trưởng với tốc độ cao.
7. Sự
kết hợp giữa thị trường với kế hoạch:
Nhật Bản đều xây dựng kế hoạch kinh tế tổng
hợp. Kế hoạch kinh tế đầu tiên là kế hoạch khôi phục nền kinh tế NB được xây
dựng vào năm 1949.
Kế
hoạch này đạt mục tiêu là sau 5 năm khôi phục mức sống ở NB phải đạt mức sống thong thời gian từ 1930 – 1934.
Kế hoạch này xây dựng nhằm tranh thủ khoản tiền viện trợ cần thiết của Mỹ.
Kế hoạch đầu tiên là kế hoạch 5 năm xây dựng
nền kinh tế tự lập được
soạn
thảo dưới thời nội các Hatoyama vào năm 1955. Từ đó cho đến nay, NB đã thực
hiện 11 kế hoạch kinh tế trong đó, kế hoạch kinh tế quan trọng nhất là kế hoạch
tăng gấp đôi thu nhập quốc dân được nội các Ikeda vạch ra.
Kế hoạch kinh tế đã đóng góp đáng kể cho sự
tăng trưởng của NB với ba lí do sau đây:
1/
Trong các ngày mà chính phủ trực tiếp thực hiện như các công trình công cộng,
kế hoạch kinh tế tổng hợp sẽ trở thành tiêu chuẩn, trên cơ sở đó các hộ sẽ lập ra kế hoạch cụ thể cho lĩnh vực mà bộ mình phụ trách.
2/
Hoạt động đầu tư của các xí nghiệp tư nhân, phải dựa vào kế hoạch kinh tế tổng
hợp để mỗi xí nghiệp lên kế hoạch cho mình tạo ra sự đồng bộ với toàn bộ nền
kinh tế.
3/
Chính phủ đã lập ra cơ quan tư vấn kinh
tế với sự tham gia của các xí nghiệp, học giả, công đoàn, người tiêu dùng để
xây dựng kế hoạch kinh tế. Thông qua các cuộc thảo luận, chính phủ sẽ tranh thủ
được sự đồng tình của nhân dân.
NB coi kinh tế tự do là hoạt động trung tâm
của nền kinh tế, nhưng đã biết ngắn yếu
tố mang tính kế hoạch vào hoạt động kinh tế tự do. Sự kết hợp đó đã có tác dụng
thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
8. Môi trường quốc tế hoà bình:
Sau
chiến tranh thế giới thứ II, trên thế giới đã nổ ra nhiều cuộc chiến tranh khu
vực, cục bộ, nhưng không có những cuộc chiến tranh lớn trên quy mô toàn thế
giới. Trong khuân khổ IMF và GATT, thể chế mậu dịch tự do được duy trì là điều
rất may mắn đối với NB. Nếu thương mại được tự do hoạt động, thì một nước không
có tài nguyên cũng không lo ngại về sự bất lợi trong phát triển kinh tế. NB có
thể mua than đá, dầu hoả và các nguyên liệu dưới dạng quặng từ những khu vực
nào đó có giá rẻ nhất trên thế giới nên có lợi thế trong cạnh tranh quốc tế hơn
nước Anh và Đức, phải dùng than trong nước có giá thành cao. Tất nhiên hoà bình
thế giới là điều kiện cơ bản cho sự phát triển của NB. Nhưng đôi khi sự rối
loạn lại có lợi cho NB.
Thứ nhất là sau năm 1947, cuộc chiến tranh
lạnh giữa Mỹ và Liên Xô bắt đầu nổ ra. Trong chiến tranh thế giới lần II, Mỹ – Liên Xô bắt tay
với nhau. Nhưng chiến tranh vừa kết thúc, quan hệ hai nước trở nên xấu đi.Trong
tình hình đó, Mỹ đã nhanh chóng thay đổi chính sách đối với NB. Cụ thể là: Mỹ
đã cho kế hoạch ban đầu phi quân sự hoá NB sang xây dựng một nước NB tự lập,
biến NB thành tuyến phát triển của các lực lượng cộng sản ở Châu Á. Nếu không
có chiến tranh lạnh lúc đó chắc là Mỹ đã tìm cách kiềm chế sự phát triển kinh
tế của NB.
Hai là cuộc chiến tranh Triều Tiên. Ngày 25
tháng 06 năm 1950, quân đội Bắc Triều Tiên vượt qua vĩ tuyến 38, xâm nhập Nam
Triều Tiên, bắt đầu cuộc chiến tranh Triều Tiên, Mỹ đã giúp Hàn Quốc, Liên Hợp Quốc cũng quyết
định trừng phạt Bắc Triều Tiên. NB đã trở thành căn cứ của quân đội Mỹ trong
cuộc chiến tranh đó, đã thu được những khoản ngoại tệ lớn, tuy lúc đó không có
viện trợ nhưng NB đã cân bằng được cán cân thanh toán quốc tế.
Ở
trong nước, kinh tế phát triển thuận lợi nhờ có những đơn đặt hàng đặc biệt,
hoạt động đầu tư, tiêu thụ cũng sôi nổi hẳn lên. Nhờ vậy mà NB đã thoát khỏi
tình trạng khó khăn khốn đốn sau chiến tranh.
9. Chi phí quốc phòng ít.
Theo hiến pháp mới của NB được ban hành năm
1946, NB tuyên bố từ bỏ chiến tranh. Quy định từ bỏ chiến tranh được ghi trong
hiến pháp đã hạn chế đến mức thấp nhất
chi tiêu cho phòng thủ ở NB và sử dụng quốc lực vào mục đích phát triển kinh
tế. Trong chiến tranh không chỉ riêng tiền bạc, nhân tài cũng được động viên
vào các binh chủng lục, hải không quân. Trong thời bình được động viên vào các
ngành kinh tế. Điều đó cũng được coi là sự đóng góp to lớn cho sự phát triển
kinh tế.
Nội dung không duy trì lực lượng chiến đấu ghi
trong hiến pháp đang bị sửa đổi dần dần. Bước thứ nhất của sự sửa đổi đó là
cùng với sự bùng nổ chiến tranh Triều Tiên. Năm 1950, NB đã thành lập Cục cảnh
sát dự bị. Năm 1952, thành lập Cục phòng vệ.
Nhưng tỷ lệ chi cho ngân sách phòng thủ trong tổng sản phẩm quốc dân từ
3,3% năm 1950 xuống còn 1% năm 1960. Sau đó, việc có nên duy trì ngân sách
phòng thủ ở mức 1% tổng sản phẩm hay không luôn là vấn đề tranh cãi về chính
trị. Cho đến năm 1988, chi phí cho phòng thủ trên thực tế vẫn duy trì trong
khoảng 1% tổng sản phẩm quốc dân.
10. Ổn định chính trị và xã hội.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ II, NB bị đặt
dưới sự chiếm đóng của một mình Mỹ tháng 12 – 1945, Hội đồng thường trực về NB
được thành lập gồm đại diện của bốn nước Mỹ – Anh – Xô - Trung. Đây là cơ quan
tư vấn của Bộ Tư Lệnh tối cao các lực lượng đồng minh.
Tình trạng hỗn độn ngay sau chiến tranh đã
được thừa nhận trong dự thảo sửa đổi hiến pháp được công bố vào thời kì đó.
Tháng 10 – 1945, sau khi Bộ Tư Lệnh của
Mc Aithur bày tỏ ý định cần phải sửa đổi Hiến pháp, nhiều bản dự thảo hiến pháp
được công bố. Nội dung chính của Hiến pháp mới do Đảng Cộng Sản công bố chủ
trương bãi bỏ chế độ Thiên Hoàng là điều tất nhiên nếu xét về tính chất của
Đảng.
Mặt khác, tháng 10 – 1945, chính phủ cũng bắt
đầu soạn thảo dự thảo sửa đổi hiến pháp.
Công việc này được giao cho ông Matsumoto, Bộ Trưởng Nội Vụ đảm nhận. Nhưng chủ
trương của chính phủ là trên cơ sở của Hiến pháp Minh Trị sẽ sửa đổi cho dân
chủ hơn, nhưng không ghi rõ chủ quyền sẽ
do dân quyết đinh. Dự thảo sửa đổi hiến pháp vẫn mang đậm màu sắc bảo thủ, có ý
đồ duy trì viện cơ mật, do đó đã bị Tổng Tư Lệnh tối cao các lực lượng đồng
minh bãi bỏ.
Kết cục, Hiến pháp là sự thoả hợp giữa hai
loại quan điểm và nó đã được ban hành vào ngày 07 tháng 10 năm
1946 dưới hình thức chế độ Thiên Hoàng là tượng trưng cho chủ quyền thuộc về
nhân dân. Xã hội NB bảo đảm được sự ổn định nhờ Hiến pháp này mang tính chất
tiến bộ xen lẫn bảo thủ.
Trong suốt hơn 40 năm sau chiến tranh, có
những sự kiện đôi lúc đã gây ra sự chia rẽ trong xã hội. Nhưng nhìn chung đã
nhanh chóng được giải quyết. Một xã hội mà trong đó một số đông nhân dân coi
mình thuộc tầng lớp trung lưu đã được hình thành. Trên chính trường, trừ thời
gian nội các Katayama của Đảng Xã Hội chỉ tồn tại được khoảng 7 tháng kể từ
tháng 6 năm 19947, còn hầu hết thời gian sau chiến tranh, chính phủ do Đảng Bảo
Thủ nắm giữ. Tình hình trên đây có ưu điểm là đã mang lại sự ổn định xã hội,
duy trì được tính nhất quán của chính
sách. Chính sách của Đảng bảo thủ không phải cố giữ thể chế đã lỗi thời mà đã
có không ít những mặt tiến bộ mang lại sự thay đổi. Có thể đó là một lí do Đảng
Bảo Thủ ở NB duy trì được chính quyền trong một thời gian dài.
11. Tư tưởng trong tăng trưởng kinh tế.
Khôi phục kinh tế sau chiến tranh là
vấn đề hàng đầu của chính sách kinh tế,
ít có ai nghĩ tới vấn đề phát triển. Nhưng từ năm 1960 trở đi vấn đề làm thế
nào để phát triển kinh tế lại trở thành mối quan tâm mạnh mẽ của mọi người. “Kế
hoạch tăng gấp đôi thu nhập quốc dân” được nội các của thủ tướng Akada quyết định
tháng 12 cùng năm đưa ra mục tiêu tăng gấp đôi thu nhập quốc dân trong vòng 10
năm, cụ thể là tốc độ tăng trưởng bình
quân 7,2%/năm trong suốt 10 năm liền. Đó là kế hoạch đạt mục tiêu nặng về cấp
độ tăng trưởng.
Vào khoảng giữa thập kỉ 60, quan điểm trong
phát triển kinh tế mà chủ yếu là ở trong
Hội Đồng Hữu kinh tế là cần phải tự điều chỉnh với sự hợp tác của các xí
nghiệp. Một bộ phận lãnh đạo trong Bộ công nghiệp và mậu dịch quốc tế cũng chủ
trương đưa ra Luật chấn hưng các ngành công nghiệp đặc biệt (mũi nhọn) để kiểm
soát sự phát triển của các ngành công nghiệp.
12. Cơ cấu hai tầng:
Nói “cơ cấu hai tầng” là một đặc
điểm nổi bật của nền kinh tế NB, không có nghĩa là ở các nước Tư bản
phát triển khác không còn tồn tại bộ phận sản xuất nhỏ nữa. Hơn nữa, khoảng
cách về cơ cấu trong một nền kinh tế chỉ vừa mới phát triển công nghiệp như NB
thì cũng không có gì đáng ngạc nhiên. Nhưng nét phát triển độc đáo của NB là sự
đóng góp to lớn của khu vực sản xuất truyền thống, kinh doanh nhỏ trong suốt quá trình hiện đại hoá nước
NB, và sự tồn tại rất phổ biến của loại hình sản xuất, kinh doanh nhỏ (bảng 3)
và khả năng thích ứng của nó khi NB đã đạt trình độ hiện đại hoá cao. ở đây, Ta chỉ
đi sâu vào sự đóng góp của nó,
vào sự tăng trưởng sau chiến tranh.
Bảng
3: Quy mô xí nghiệp ở NB. (Không kể nông, lâm, ngư nghiệp)
|
Số xí nghiệp (1000)
|
Số công nhân (1000)
|
||||
1963
|
1966
|
Tăng
|
1963
|
1966
|
Tăng
|
|
Tổng số
|
4.016
|
4.365
|
349
|
30.145
|
34.413
|
4.268
|
Trong đó
|
2.968
|
3.128
|
160
|
5.971
|
6.377
|
406
|
1 –4 người
|
||||||
5 – 9 người
|
539
|
638
|
95
|
3.443
|
4.082
|
630
|
10 – 19
người
|
267
|
315
|
48
|
3.552
|
4.208
|
656
|
20 – 29
người
|
92
|
110
|
18
|
2.615
|
2.167
|
-48
|
30 – 49
người
|
74
|
86
|
12
|
2.753
|
3.247
|
494
|
50 – 99
người
|
47
|
56
|
9
|
3.157
|
3.769
|
612
|
100 – 199
người
|
18
|
222
|
2.417
|
2.966
|
519
|
|
200 – 299
người
|
5
|
6
|
1
|
1.309
|
1.470
|
161
|
Trên 300
người
|
7
|
8
|
1
|
5.319
|
5.678
|
359
|
Nguồn:
Tạp chí “kinh tế thế giới và quan hệ quốc tế” số 2 – 1971 – trang 89 tiếng Nga.
Không phải lúc nào khu vực sản xuất truyền thống ở NB cũng phát huy sức mạnh
của nó. Trong chiến tranh thế giới thứ II, vì mục đích tập trung sức lao động
vào các ngành sản xuất vũ khí phục vụ chiến tranh, chính phủ NB đã tiến hành tổ
chức lại kinh doanh, thanh toán các cơ sở kinh doanh nhỏ.
Do vậy, vào giai đoạn cuối của cuộc chiến
tranh, phần lớn cơ sở kinh doanh nhỏ không liên quan đến sản xuất vũ khí đã
biến mất. Sau chiến tranh nó được phát triển mạnh trong điều kiện nền kinh tế
tự do cạnh tranh.
Kinh doanh nhỏ phát triển mạnh trong lĩnh vực
thương mại, phục vụ (ở NB cứ 73 người dân thì có một của hàng bán lẻ, 91% số
của hiệu này co dưới 4 nhân viên). Nhưng như vậy không có nghĩa là nó không
phát triển trong công nghiệp. Điều đáng chú ý là, ngay trong các ngành
công nghiệp do độc quyền khống chế như
ngành sản xuất kim loại đen, kim loại màu, chế tạo máy loại xí nghiệp rất nhỏ vẫn tồn tại và phát triển.Loại xí nghiệp
cực nhỏ này chiếm trên 70% tổng số xí nghiệp công nghiệp chế biến, tổng số 16%
công nhân trong ngành, nhưng chỉ cung cấp 6% sản phẩm. Nếu tính cả xí nghiệp nhỏ
và vừa (từ 1- 100 công nhân) thì bộ phận
này đến cuối những năm 60 vẫn cung cấp trên 50% tổng sản phẩm công nghiệp chế
biến, gần 50% giá trị xuất khẩu và một lượng lớn ngoại tệ dùng để tài trợ cho
việc nhập khẩu máy móc, thiết bị và công nghệ, cũng như nguyên nhiên liệu cho
các xí nghiệp lớn.
Trong
nông nghiệp, sản xuất nhỏ cũng rất phổ biến. Đến năm 1967, số nông hộ có dưới
hai hecta chiếm 94.5%tổng số nông hộ,trong đó số có dưới một hecta chiếm 69%,
dưới 0,5 hécta chiếm 37%.
Năng
suất lao động ở khu vực sản xuất nhỏ rất thấp so với ở khu vực sản xuất lớn,
hiện đại, nhưng khu vực này là nguồn tích luỹ lớn do người lao động phải làm
việc trong điều kiện thiếu các phương tiện bảo hiểm, dẫn đến tai nạn gấp đôi so
với xí nghiệp lớn.
Ở NB, sự tồn tại của khu vực sản xuất nhỏ còn
tạo điều kiện cho tư bản độc quyền bóc lột lao động ở xí nghiệp lớn.
Trước hết, mức thu nhập và điều kiện làm việc
quá thấp ở khu vực sản xuất nhỏ, nơi thu hút một bộ phận khá đông công nhân trở
thành áp lực nặng nề đối với người lao động nói chung, đối với công nhân xí nghiệp lớn nói riêng,
ghìm mức sống chung của toàn xã hội buộc người lao động NB phải “tự giác” học
tập và trau dồi năng lực làm việc (chỉ có như vậy họ mới có cơ hội vào làm ở xí
nghiệp lớn) là điều kiện có lợi cho tư bản độc quyền chọn lọc công nhân, trói
buộc công nhân vào khuôn pháp của xí
nghiệp.
Mặt
khác, sự tồn tại khu vực kinh doanh nhỏ còn là
điều kiện quan trọng giúp tư bản độc quyền NB chỉ thuê công nhân lúc
sung sức nhất, sau đó, thải ra với khoản trợ cấp về hưu ít ỏi hoặc không có trợ
cấp.
Cuối cùng tư bản độc quyền lợi dụng khu vực
kinh doanh nhỏ như “cái đệm” linh hoạt trong việc điều chỉnh kinh tế có lợi cho chúng.
Trong điều kiện thống trị của độc quyền,
khu vực kinh doanh nhỏ không thoát khỏi sự khống chế của bọn trùm tư bản. Khi
kinh doanh phát triển, khu vực sản xuất nhỏ là địa bàn rộng lớn cho xí nghiệp
độc quyền mở rộng nhanh chóng sản xuất bằng chế độ gia công đặt hàng, tư bản
lớn gián tiếp bóc lột lao động rẻ của xí
nghiệp nhỏ mà không phải bỏ vốn cố định; đồng thời khu vực này còn là nguồn bổ
sung nhân công có trình độ nghề nghiệp
nhất định cho công nghiệp lớn.
Đứng trên góc độ này thì lịch sử “câu chuyện
Thần Kì về kinh tế NB” là lịch sử bóc lột người lao động trong những xí nghiệp
nhỏ và vừa bằng mọi thủ đoạn nghiệt ngã như thời kì đầu của chủ nghĩa tư bản,
là lịch sử biến các xí nghiệp nhỏ và vừa thành vật hi sinh cho lợi ích của tư
bản độc quyền.
13. Chính sách mở cửa và phát triển khoa
học kỹ thuật.
Sự tiếp nhận các tri thức, thành tựu khoa học
kỹ thuật phương tây được phân tích kỹ lưỡng thận trọng và có chọn lọc. Các tri
thức này đem lại kết quả thiết thực cho phát triển kinh tế, phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước.Những tri thức du nhập này được vận dụng sáng tạo trong điều kiện kinh tế – xã hội của NB.
Việc nhập khẩu kỹ thuật nước ngoài để đổi mới kỹ thuật trong nước diễn ra hết sức
mạnh mẽ trong suốt 40 năm sau chiến tranh. Đó là một nguyên nhân quyết định,
giúp nền kinh tế NB tăng trưởng với tốc độ chưa từng thấy.
13.Tính cách của nhân dân Nhật Bản:
- Tôn trọng truyền thống :
Truyền thống NB luôn luôn được kế thừa và
phát triển cả trong nệp nghĩ, hành vi của mỗi công dân. Họ trân trọng các di
sản tinh thần được gìn giữ từ ngàn xưa. Truyền thống đã hình thành, ổn định và
càng củng cố trên cơ sở kế thừa và không ngừng phát triển. Trân trọng các giá
trị văn hoá của quá khứ, người NB bảo lưu những tinh hoa của minh đã bám dễ
trong cuộc sống. Các truyền thống mang tính chất gia tộc vẫn được bảo lưu và có
ảnh hưởng hết sức sâu sắc cho đến tận ngày nay.
- Tinh
thần cộng đồng:
Lòng kính trọng những bậc cao niên gần
như một biểu tượng tôn giáo. Tâm lý cộng đồng được nuôi dưỡng qua nhiều thế hệ
và thể hiện như một triết lý của con người trong lao động và trong sinh hoạt.
Để tạo ra sự hợp tác và nhất trí trong
tập thể của mình, người lao động sẵn sàng gạt sang một bên “cái tôi” để
cho cái “chúng ta” tồn tại và phát triển. Tinh thần cộng đồng thể hiện ở sự
bình đẳng, chan hoà giữa những người quản lý và các nhân viên của công ty.
Trong các doanh nghiệp mọi người cùng tạo ra sự hài hoà của các mối quan hệ
trong lao động. Tinh thần cộng đồng đã Tinh thần cộng đồng ở NB có đặc điểm là
nó tạo ra một hệ thống trật tự thứ và
đang là tiềm năng to lớn của dân tộc NB trong cuộc chạy đua để giành được vị
ttrí dẫn đầu trên thế giới ngày nay.
- Lòng trung thành:
Người NB đề cao tuyệt đối lòng trung
thành, cổ vũ tinh thần dũng cảm, coi trọng lễ nghĩa và khuyến khích tiết kiệm-
nghĩa là những phẩm hạnh cần phải có ở những người thuộc tầng lớp dười, những
thứ dân, những người lao động.
Lòng trung thành chi phối, điều tiết hành
vi của con người trong các quan hệ thứ bậc rõ ràng theo địa vị trong xã hội và
các quan hệ máu thịt trong gia tộc cũng như tuổi tác. Mọi người trung thành với
mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước, dốc lòng, dốc sức học tập nghiên cứu
lao động để đạt được kết quả cao nhất. Đồng tiền và lợi ích cá nhân chỉ được
coi là cứu cánh. Dù ở trong nước hay ở nước
ngoài, người NB chỉ chăm chú theo một ý niệm thực dụng là tiếp tục thu
được nhiều kiến thức để sau này vận dụng thật tốt vào thực tiễn nước mình.Người
lao động luôn luôn gắn bó và sẵn sàng gắn bó suốt đời với công việc, với xí
nghiệp cùng chia sẻ những khó khăn, những thăng trầm của nó, dù ở đó họ chỉ là
những người làm thuê. Họ làm việc cần mẫn đầy tinh thần tự giác và trách nhiệm
nhiều khi không tính cả thời gian. Lòng trung thành là một phẩm chất tâm lí
truyền thống của người NB, nó phát huy tác dụng mạnh mẽ trong lĩnh vực sản
xuất, góp phần không nhỏ vào sự phát triển kì diệu của nền kinh tế NB ngày
nay.
-Tính hiếu học:
Đặc tính này được tạo lập trên cơ sở
của các thói quen đã hình thành vững chắc, lại được khích lệ bằng một động cơ
phục sự đất nước, phục sự xã hội một cách đúng đắn và cao quý. NB luôn luôn đầu
tư cho giáo dục một cách tối đa, NB là nước có số lượng sinh viên, các nhà khoa
học được cử ranước ngoài học tập và nghiên cứu cao nhất, nhì thế giới. Ngày nay
ở nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, NB đã vượt xa nhiều nước trong việc sử dụng các
tri thức khoa học vào sản xuất và đời sống.
-Sáng tạo.
Tính sáng tạo là một phẩm chất gắn liền với
lòng ham mê lao động của người NB, cũng có thể nói rằng người NB luôn luôn ham
mê sáng tạo. Đức tính này đòi hỏi một cách tư duy tích cực một óc tưởng tượng
phong phú.Ở NB quan niệm về sáng tạo được hiểu một cách rộng rãi và mang ý
nghĩa thực tiễn. Nó không chỉ giới hạn trong phạm vi tạo ra những gì hoàn toàn
mới mẻ mà bao hàm cả việc cải tiến những gì đã có cho ngày một hoàn thiện hơn.
Nhận thức này có ý nghĩa thật to lớn đối với sự phát triển của NB nói chung và
đối với sự phát triển kinh tế nói riêng.
- Ham mê lao động :
Ở NB
lao động thật sự vừa là nghĩa vụ vừa là quyền lợi không ai có thể thoái thác. Người NB
đã có ý thức sâu sắc rằng nhờ có lao động mà con người và xã hội mới tồn tại và
phát triển. Bởi vậy lao động được đánh giá là một nét tính cách cơ bản của mỗi
con người chân chính. Người ta có thể không yêu lao động, cần cù lao động. Tuy
nhiên để có được những phẩm chất ấy lại là một điều hết sức khó khăn và phức
tạp, thật đáng ca ngợi khi những phẩm chất ấy đã trở thành những nét tính cách
nổi bật mang tính truyền thống của dân tộc NB. Lòng ham mê lao động đã dựa trên
những cơ sở vững chắc của ý thức kỷ luật để phát triển năng lực cá nhân phục vụ
cho sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước. Thời gian thực tế của mỗi người
bao giờ cũng nhiều hơn thời gian lao động quy định. Với lòng ham mê lao động
như thế, cường độ và nhịp điệu lao động như thế, nền kinh tế NB đã phát triển
tới mức làm cho cả thế giới phải khâm phục và học hỏi.
IV.
Mặt trái của sự “thần kỳ” kinh tế Nhật Bản.
Sau chiến tranh, với ý chí xây dựng một
quốc gia vững mạnh, nhân dân Nhật Bản đã cùng bắt tay nhau vào lao động sản
xuất, làm việc quên mình và đạt được tốc độ phát triển chưa từng có. Với một
nền kinh tế phát triển vùn vụt theo qui mô của một siêu cường trên một diện
tích nhỏ hẹp, Nhật Bản đang biến môi trường của mình thành một kho rác thải.
Đằng sau nhiều tỷ đô la lợi nhuận là bầu không khí không trong lành lẫn nguồn
nước sạch đứng trước nguy cơ bị hủy hoại. Còn người dân đang bị chịu sự tra tấn
hàng ngày bởi tiếng máy chạy hết công suất, của xe cộ và rất nhiều thứ gây ồn
khác mà người ta ví như “một bản nhạc liên hoan biểu lộ sự vui mừng khi người
ta có khả năng thoát khỏi sự nghèo khổ, tùng đói một cách nhanh chóng” nhưng
đồng thời cũng như một “cuộc nhảy múa của một lũ yêu ma mà nhịp điệu chết người
mỗi lúc một dồn dập hơn nữa”.
Vào đầu những năm 60, ô nhiễm môi trường trở
thành một vấn đề xã hội lớn. Với sự phát triển tốc độ của công nghiệp, hàng
ngày Nhật Bản phải đón nhận lượng khí chất độc hại khổng lồ thải ra từ các nhà
máy. Các nghành sản xuất bột giấy, thép, hóa chất….được xem là những con quái
vật gây nhiễm bẩn. Thêm vào đó lượng ô tô tăng nhanh ở Nhật làm cho khói phun
ra từ những chiếc xe này ngày một nhiều hơn. Theo tình toán của các nhà phân
tích môi trường thì lượng khói phun ra từ các xe ở Nhật dày gấp 14 lần Thụy
Điển, nước bị khói ô tô nhiều nhất thế giới tính theo đầu người.
Nhân dân Nhật Bản vốn là những người nhẫn nại
và biết chịu đựng, thậm chí thái độ phổ biến lúc đó của họ là: “vì sự phát
triển của công nghiệp nên cần phải có sự hi sinh”. Tuy nhiên, khi ô nhiễm lên
mức báo động họ đã lên tiếng. Bốn vụ kiện lớn về môi trường đã được đưa ra xét
xử ở thời kì này, đó là những yêu cầu bồi thường do ô nhiểm ở Nigiata, việc
nhiễm độc ở vịnh Minamata, nhiễm độc catmi ở Toyama
và bệnh hen suyễn ở Yokkaichi .
Những đám mây nhiễm độc ngày càng phủ dày trên
các thành phố khiến nhân dân phản ứng gay gắt. Chính phủ buộc phải nhượng bộ
cho thông qua các đạo luật về môi trường và thi hành nghiêm chỉnh các đạo luật
đó.
Bên cạnh ô nhiễm môi trường là sự gia tăng
tai nạn xe cộ. Năm 1969 một triệu người Nhật đã bị thương về tai nạn xe cộ
trong khi đó ở Hoa Kỳ chỉ có hai triệu người.
Lý do gây tai nạn vì hầu hết các thành phố ở
Nhật không có vỉa hè, trừ các trung tâm nên đường xá trở nên chật chội và người
đi bộ thường bị xe cán. Điều đó cho thấy sự khan hiếm đất đai ở đô thị Nhật
Bản. Do giá đất quá đắt nên người ta đã tận dụng hết những gì có thể, không
muốn dùng đất để làm vỉa hè. Dự tính nếu cứ phát triển như nhịp độ hiện nay thì
các vụ tai nạn giao thông sẽ làm từ 20 đến 25 triệu người Nhật bị thương trong
vòng 15 năm tới, tức khoảng 1/5 dân số sẽ gặp rủi ro do tai nạn xe cộ, làm cho
nhà sản xuất bị thiệt hại mỗi năm số lượng tài sản không nhỏ.
Cái giá quá đắt cho sự tăng trưởng trên là
nguyên nhân dẫn đến sự hoài nghi và bất bình của dân chúng đối với Chính phủ.
Phong trào đấu tranh của quần chúng lao động, sự nổi dậy của sinh viên là những
biểu hiện tập trung của sự bất bình đó.
Những năm 1968-1969 biểu tình của sinh viên
nổ ra trên khắp nước Nhật, với mong muốn xã hội sẽ có tình người hơn, tự do hơn.
Còn với nhân dân do mức sống được cải thiện nên họ hướng sự chú ý sang những
điều khiếm khuyết và nhận ra những khía cạnh “kém hoàn hảo” của sự tăng trưởng.
Làn sóng phẫn nộ ngày càng dâng cao trong quần chúng.
Mâu thuẫn kinh tế xã hội dâng lên gay gắt và
người ta thấy rằng cần phải nhanh chóng có những chính sách để thay đổi tình
hình, chính sách đó không chỉ quan tâm đến sự phát triển kinh tế mà còn chú
trọng các giá trị khác của sự phát triển.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét