Ý kiến của các nhà sử học và của anh (chị) về hình thái kinh
tế - xã hội Việt Nam
trước thời Bắc thuộc?
Phương thức sản xuất là một khái niệm trong
học thuyết duy vật lịch sử của chủ nghĩa Maxr. Nó có nghĩa nôm na là "cách
thức của sản xuất". Theo Marx, nó là tổ hợp hữu cơ cụ thể của:
Lực lượng sản xuất: bao
gồm lực lượng lao động, công cụ và thiết bị lao động, nhà xưởng, công nghệ,
nguyên vật liệu và đất đai được sử dụng.
Quan hệ sản xuất bao gồm
các quan hệ sở hữu, các quan hệ kiểm soát và phân chia các tài sản đã được sản
xuất trong xã hội, thông thường được đưa ra trong các hình thức của luật, lệ và
các quan hệ giữa các giai cấp xã hội.
Các nhà sáng lập chủ
nghĩa Marx-Lenin rất quan tâm đến các vấn đề phương thức sản xuất trong lịch sử
tiến hoá của nhân loại.
Marx và Engles trong tác
phẩm “Hệ tư tưởng Đức” viết năm 1845 – 1846, nói rằng trướng chủ nghĩa tư bản
xã hội loài người đã trải qua 3 phương thức sở hữu cơ bản.
“…Hình thức sở hữu đầu tiên là hình thức sở hữu Bộ lạc. Nó
phù hợp với giai đoạn chưa phát triển sản xuất, khi người ta sống bằng săn bắn
và đánh cá, bằng chăn nuôi hay nhiều lắm bằng trồng trọt…”.
“… Hình thức sở hữu thứ hai là hình thức sở hữu công xã và
sở hữu nhà nước tồn tại trong thời cổ và ra đời chủ yếu từ sự tập hợp-bằng hiệp
ước hay bằng chinh phục – nhiều Bộ lạc thành một Thị tộc và chế độ nô lệ vẫn
tồn tại ở đó…”.
“…Hình thức sở hữu thứ ba là sở hữu phong kiến hay sở hữu
đẳng cấp. Nếu điểm xuất phát của thời cổ đại là thành thị và lãnh thổ nhỏ của
nó thì điểm xuất phát của thời trung cổ lại là nông thôn…trái với Hy lạp và
Rôma, sự phát triển phong kiến bắt đầu trên một địa vực rộng hơn nhiều… Những
thế kỷ cuối cùng của Đế quốc Rôma suy tàn và cuộc chinh phục đế quốc đó bỡi
những người dã man đã phá huỷ một khối lớn những lực lượng sản xuất… Đướ ảnh
hưởng của chế độ quân sự của người Giéc manh thì hoàn cảnh vốn có đó và cách
thức tổ chức trinh phục do hoàn cảnh đó đẻ ra, đã phát triển chế độ sở hữu
phong kiến…”(1).
V.I.Lenin trong tác phẩm
“Bàn về nhà nước” viết năm 1919 nói rõ rằng và dứt khoát hơn:
“…Sự tiến hoá của tất cả các xã hội loài người qua hàng
nghìn năm, ở tất cả các nước, không trừ nước nào cả, đã chỉ cho chúng ta thấy
tính quy luật chung, tính xác định, tính quán triệt của sự tiến hoá đó: Bắt đầu
tự một xã hội không có giai cấp, một xã hội gia trưởng sơ khai, nguyên thuỷ
không có quý tộc; sau đến là một chế độ xã hội chiếm hữu nô lệ… tiếp sau hình
thái đó, có một hình thái khác trong lịch sử: chế độ nông nô…”(2).
Như vậy, cũng như Marx
và Engles thì Lenin cũng khẳng định trước chủ nghĩa tư bản có ba phương thức
sản xuất và đó là quy luật phổ biến trong lịch sử xã hội loài người kể cả
phương Đông hay phương Tây đó là “không
trừ nước nào cả”.
Tuy nhiên năm 1845 –
1846, trong “hệ tư tưởng Đức” Marx và Engles nói trước chủ nghĩa tư bản, xã hội
loài người đã trải qua ba hình thức sở hữu chủ yếu đó là: công xã nguyên thuỷ,
chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến. Nhưng đến thập niên 50 của thế kỷ XIX, Marx
lại có thêm một ý kiến mới; nguyên là gần một thế kỷ xâm lược đến năm 1849 thực
dân Anh đã hoàn thành việc xâm chiếm đất đai Ấn Độ. Do vậy tại nghị viện Anh đã
diễn ra cuộc tranh luận về chính sách cai trị đất nước cổ xưa và rộng lớn này.
Để vạch trần bản chất tham lam và tàn bạo của chủ nghĩa thực dân. Marx bắt đầu
chú ý nghiên cứu về phương Đông, nhiều bài viết về Ấn Độ, Trung Quốc… được liên
tiếp công bố trên báo “New York Daily
Tribure”, trong đó Marx đã chỉ ra những đặc điểm cơ bản của xã hội phương
Đông. Đến năm 1859, trong lời tựa của tác phẩm “góp phần phê phán khoa kinh tế
chính trị” Marx viết:
“…Về đại thể, có thể coi phương thức sản xuất châu Á, cổ đại
phong kiến và tư bản hiện đại (thời đại của Marx) là những thời đại tiến triển
dần dần của hình thái kinh tế xã hội…”(3).
Như vậy đến đây ở trong
tác phẩm này, Marx chủ trương trước chủ nghĩa tư bản có bốn phương thức sản
xuất trong lịc sử xã hội loài người đó là: ba phương thức sản xuất trước đây
được Marx và Engles nghiên cứu ở châu Âu (phương Tây) đến nay, trước sự xâm
lược của chủ nghĩa thực dân đi xâm chiếm thuộc địa Marx mới có điều kiện nghiên
cứu về phương Đông (châu Á) thì xuất hiện thêm một phương thức sản xuất nữa ở
phương Đông được Marx coi là phương thức sản xuất châu Á và coi là trước chủ
nghĩa tư bản xã hội loài người đã trải qua bốn phương thức sản xuất.
Chủ tịch Hồ Chí Minh
trong quá trình hoạt động cách mạng của mình cũng rất quan tâm đến đặc điểm của
xã hội phương Đông. Từ năm 1924, trong bài “báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam
kỳ” người đã viết:
“… Ấn Độ hay Trung Quốc về mặt cấu trúc kinh tế, không giống
các xã hội phương Tây thời cổ đại cũng như thời cận đại…
Marx đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất
định của lịch sử nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà lịch sử châu Âu là gì?
Đó chưa phải là toàn thể nhân loại.
Marx cho ta biết rằng sự tiến triển các xã hội trải qua ba giai đoạn: Chế độ chiếm
nô, chế độ nô lệ, chế độ tư bản… chúng ta phải coi chừng! các dân tộc viễn đông
có trải qua hai giai đoạn đầu không?”(4).
Như vậy Hồ Chí Minh lại
đi ngược lại với quan điểm của Marx. Người cho rằng chúng ta phải xem xét lại
quan điểm của Marx về xã hội phương Đông là chưa hẳn đã tồn tại hai phương thức
sản xuất đó là chiếm nô và nô lệ. Qua đây ta có thể thấy từ rất sớm và sớm nhất
ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng về mặt kinh tế - xã hội, Ấn
Độ hay Trung Quốc không giống như phương Tây thời cổ đại và thời cận đại; đồng
thời Người nghi ngờ (sự thực là phủ định) sự tồn tại của chế độ nô lệ và chế độ
nông nô ở viễn Đông.
Như vậy vấn đề các
phương thức sản xuất trước chủ nghĩa tư bản trên phạm vi toàn thế giới là một
vấn đề vô cùng phức tạp, đặc biệt là vấn đề phương thức sản xuất ở phương Đông
nói chung và Việt Nam
nói riêng.
Trước tình hình đó, đa
số các học giả Mác-xít ở nhiều nước cho rằng trước chủ nghĩa tư bản xã hội loài
người đã trải qua ba phương thức sản xuất đó là: công xã nguyên thuỷ, chiến hữu
nô lệ và chế độ phong kiến. Ba phương thức sản xuất ấy tồn tại phổ biến trên
toàn thế giới, do vậy là không chỉ có ở phương Tây mà còn có cả ở phương Đông
cô đại cũng tồn tại chế độchiếm hữu nô lệ nhưng nó tồn tại ở một dạng thức khác
đó là chế độ nô lệ gia trưởng, một kiểu chế độ nô lệ khác với chế độ nô lệ ở Hy
Lạp và Lamã cổ đại. Quan điểm đó được coi là chính thống và được vận dụng để
biên soạn các sách về lịch sử, triết học, kinh tế chính trị học.v.v…
Nhưng một số học giả
maxr xít khác lại cho rằng quan điểm nói trên chưa thật thoả đáng, bởi lẽ xã
hội phương Đông có rất nhiều khác biệt so với xã hội phương Đông, và họ cũng
như ý kiến của Hồ Chí Minh nói là chưa hẵn ở xã hội phương Đông tồn tại phương
thức chiếm hữu nô lệ. Nói chung là họ còn hoài nghi; Do vậy mà từ cuối những
năm 20 của thế kỷ XX cho đến nay học giả nhiều nước như: Liên Xô (cũ), Đức, Ba
Lan, Trung Quốc, Anh, Pháp, Nhật Bản… đã tìm hiểu về vấn đề phương thức sản
xuất châu Á mà đã được Maxr đề cập đến. Một trong số các học giả đó đã tìm kiếm
căn cứ trong các câu nói về “phương thức
sản xuất châu Á” hoặc “hình thái châu
Á” rải rác trong các tác phẩm của Maxr, Engles và V.I.Lênin để chứng minh
cho luận điểm của mình. Một số học giả khác thì lại khai thác ít nhiều tư liệu
lịch sử mà chủ yếu là của Ai Cập cổ đại và Lưỡng Hà cổ đại để trình bày cho vấn
đề của mình. Tính đến nay số lượng bài viết về phương thức sản xuất châu Á của
các tác giả thuộc các nước khác nhau cũng đã khá nhiều, nhưng cuộc hội thảo về
vấn đề này vẫn chưa đi đến kết luận thống nhất. Tình hình đó đúng như nhận định
dưới đây của Gs. Trương Hữu Quýnh đã viết trong phần mở đầu của tác phẩm “chế độ ruộng đất ở Việt Nam” tập I, NXB
năm 1992:
“Như chúng ta đều biết, sau 30 năm thảo luận sôi nổi về cái
gọi là “phương thức sản xuất châu Á” giới sử học Maxr xít hầu như chững lại ở
giữa ngã ba đường. Lý luận kinh điển đã được đào khá sâu và đã đạt được những
bước tiến đáng kể, nhưng những tri thức về thực tế lịch sử cụ thể hoàn toàn lại
không tương xứng. Điều này đã dẫn đến nhiều nhà sử học nhập cuộc toàn bộ các
nước châu Á vào làm một và máy móc ứng dụng vào những luận điển của Maxr,
Engles về công xã, sở hữu nhà nước, sở hữu công xã.v.v… vào cách khái quát nhận
thức của mình. Một điều đáng tiếc là các nhà sử học châu Á còn lên tếng quá ít.
Cuộc hội thảo trước đây của các nhà sử học Trung Quốc về chế độ ruộng đất,
không những không đạt đến một sự nhất trí tương đối mà còn chưa đạt về độ sâu
của nhận thức. Các nhà sử học Maxr xít Ấn Độ cũng không làm được gì hơn so với
các nhà sử học phương Tây” (trang 9).
Như vậy nếu theo ý kiến
của Gs. Trương Hữu Quýnh thì vấn đề được gọi là phương thức sản xuất châu Á vẫn
chưa có một ý kiến thống nhất đặc biệt là trong giới sử học châu Á. Trong khi
đó ở Việt Nam giới sử học cũng rất
quan tâm đến vấn đề hình thái kinh tế - xã hội trên thế giới cũng như ở Việt
Nam. Nhất là giai đoạn trước chủ nghĩa tư bản với những học giả nổi tiếng như:
Nguyễn Lương Bích, Nguyễn Hồng Phong, Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Văn Tạo,
Chử Văn Tần, Lê Kim Ngân, Vũ Huy Phúc, Phan Đại Doãn v.v… đều khẳng định có sự
tồn tại của phương thức sản xuất châu Á ở phương Đông nói chung và ở Việt Nam
nói riêng. Vậy thì phương thức sản xuất châu Á là gì? Ta đã nghe nói về phương
thức sản xuất châu Á nhưng chưa có một định nghĩa hay sự lý giải về nó. Phương
thức sản xuất châu Á theo sự lý giải của PGs. Nguyễn Gia Phu viết trong phần
kết luận của đề tài khoa học “những
phương thức sản xuất trước chủ nghĩa tư bản” năm 1996 như sau:
“Thế là sau xã hội nguyên thuỷ và trước chủ nghĩa tư bản hay
nói đúng hơn trước khi đại bộ phận các nước phương Đông bị biến thành thuộc địa
hoặc nửa thuộc địa của các nước đế quốc phương Tây, ở phương Đông chỉ có một
phương thức sản xuất mà thôi. Theo thói quen phương thức sản xuất ấy được gọi
là phương thức sản xuất phong kiến. Đó cũng chính là hình thái kinh tế xã hội
mà Marx gọi là phương thức sản xuất châu Á hoặc hình thái châu Á. Do vậy tuyệt
nhiên không có sự chuyển biến từ phương thức sản xuất sang chế độ phong kiến” (trang 48-49).
Như vậy PGs. Nguyễn Gia
Phu đã khẳng định ở xã hội phương Đông không có sự tồn tại của phương thức sản
xuất chiếm hữu nô lệ mà từ xã hội nguyên thuỷ lên phương thức sản xuất phong
kiến hay phương thức sản xuất châu Á, theo sự lý giải của PGs. Nguyễn Gia Phu.
Theo Gs. Nguyễn Hồng
Phong nói: “…Tóm lại, thừa nhận đại bộ
phận của các xã hội phương Đông đều là xã hội phương thức sản xuất châu Á, thì
như thế cũng không đối lập gì giữa phương Đông và phương Tây. Hơn nữa trong khi
chính Marx cũng coi phương thức sản xuất châu Á là một phương thức sản xuất phổ
biến, một giai đoạn tiến triển của lịch sử thế giới, và ông (Marx) đặt hình
thái xã hội này ngang bằng với các xã hội nô lệ, xã hội phong kiến, xã hội tư
bản… cộng với hình thái xã hội nguyên thuỷ. Sau đó C.Marx và Ph.Engles mới khám
phá ra khi đọc Morgan và hình thái xã hội cộng sản chủ nghĩa thì Marx và Engles
là người đưa ra sáu phương thức sản xuất toàn thế giới”(5).
Như vậy cũng như PGs.
Nguyễn Gia Phu thì Gs. Nguyễn Hồng Phong đã thừa nhận phương thức sản xuất châu
Á tồn tại đại bộ phận của các xã hội phương Đông và cùng quan niệm với C.Marx
đó là coi phương thức sản xuất châu Á là một phương thức sản xuất phổ biến, một
giai đoạn tiến triển của lịch sử thế giới.
Đến Gs. Văn Tạo trong
tác phẩm “phương thức sản xuất châu Á lý
luận Marx-Lênin và thực tiễn Việt Nam ” cũng khẳng định:
“…tôi coi phương thức sản xuất châu Á là một phương thức sản
xuất riêng biệt như các phương thức sản xuất khác trong lịch sử nhân loại…” (trang 88).
Đồng thời với việc khẳng
định sự tồn tại của phương thức sản xuất châu Á và đặt phương thức sản xuất này
ngang bằng với các phương thức sản xuất khác trog lịch sử loài người như: chiếm
hữu nô lệ, chế độ phong kiến, tư bản chủ nghĩa. Các học giả đã đưa ra những
định nghĩa về phương thức sản xuất châu Á và nêu ra sự khác nhau cơ bản giữa
các phương thức sản xuất châu Á và chế độ phong kiến.
Năm 1963, trong bài
“phương thức sản xuất châu Á là gì?” đăng trên tạp chí nghiên cứu lịch sử các
số 52 và 54, tác giả Nguyễn Lương Bích cho rằng phương thức sản xuất châu Á là “chế độ công xã nông thôn ở châu Á”.
Gs. Nguyễn Hồng Phong
trong bài “về phương thức sản xuất châu Á-lý thuyết và thực tiễn” đăng trên tạp
chí nghiên cứu lịch sử số 1 năm 1982 viết:
“chúng ta có thể sơ bộ định nghĩa phương thức bóc lột của
chế độ xã hội theo phương thức sản xuất châu Á là trên cơ sở chế đọ chiếm hữu
nhà nước về ruộng đất, giai cấp quý tộc quan liêu đã bóc lột sản phẩm thặng dư
dưới hình thức tô thuế do nông dân công xã nộp” (trang 11).
Về sự khác nhau giữa xã
hội phương thức sản xuất châu Á và xã hội phong kiến, Gs. Nguyễn Hồng Phong
viết:
“…Do quá trình phong kiến hoá kéo dài trong lòng xã hội
phương thức sản xuất châu Á cho nên sự phân gianh giới giữa xã hội phương thức
sản xuất châu Á và xã hội phong kiến sơ kỳ sẽ không đơn giản. Một cách đại
cương – chúng ta đưa ra một tiêu chuẩn coi như giả thiết để làm việc là: xã hội
là phương thức sản xuất châu Á khi đại bộ phận ruộng đất thuộc sở hữu công xã,
nhà nước. Xã hội phương thức sản xuất châu Á chuyển sang giai đoạn sơ kỳ phong
kiến chừng nào mà đại bộ phận ruộng đất thuộc về sở hữu tư nhân…” (nghiên cứu lịch sử số
1, năm 1982. trang 37).
Như vậy theo Gs. Nguyễn
Hồng Phong thì sự khác nhau giữa xã hội phương thức sản xuất châu Á và xã hội
phong kiến đó là về sự sở hữu ruộng đất. Nếu đại bộ phận ruộng đát thuộc về sở
hữu công xã, nhà nước thì đó là phương thức sản xuất châu Á còn khi đại bộ phận
ruộng đất thuộc về sở hữu tư nhân là xã hội phong kiến. Do vậy ta có thể đoán
định được rằng xã hội thuộc phương thức sản xuất châu Á tồn tại ở phương Đông
thuộc giai đoạn đầu của nhà nước phong kiến hay nói cách khác đó là thời sơ kỳ
và dần phát triển lên xã hội phong kiến.
Trong khi ý kiến của các
nhà sử học nói trên như vậy, thì các nhà sử học nghiên cứu và giảng dạy lịch sử
thế giới ở trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và trường Đại học Sư phạm Hà Nội tỏ
ra dè dặt hơn. Trong các giáo trình lịch sử thế giới cổ đại do Chiêm Tế, Trịnh
Nhu, Nguyễn Gia Phu biên soạn, các tác giả chỉ trình bày lịch sử các nước
phương Đông cổ đại chứ chưa kết luận chế độ xã hội phương Đông cổ đại là chế độ
gì?
Gs. Lương Ninh trong lời
nói đầu của sách lịch sử thế giới cổ đại tái bản lần thứ sáu, năm 2002 cũng
viết một cách thận trọng rằng:
“…Về lịch sử các quốc gia được gọi là cổ đại phương Đông
(theo cách gọi của người Hy Lạp, Rôma) cũng có hai quan điểm khác nhau. Một số
người vẫn cho đây là chế độ chiếm nô (hiểu theo mô hình Hy Lạp, Rôma), tuy có
một số điểm riêng biệt. Những người khác thì cho hoàn toàn không thể coi là chế
độ chiếm nô, vì sự dị biệt giữa các quốc gia này, với chế độ chiếm nô lớn hơn
nhiều sự tương đồng. Như vậy sự phát triển của lịch sử mang tính chất đa dạng
và phức tạp.
Trước tình hình đó, chúng tôi phải lựa chọn phương pháp là
cố gắng trình bày lịch sử của mỗi nước đúng như nó từ khi bắt đầu xuất hiện nhà nước với những nét lớn của sự phát triển
kinh tế, xã hội, chính trị và những thành tựu văn hoá nổi bật theo những tài
liệu đáng tin cậy và theo nhận thức của chúng tôi mà tạm gác lại việc bàn về các
quan điểm nói trên”
(trang 3).
Như vậy đa số các nhà sử
học đề cho rằng trước chủ nghĩa tư bản lịch sử loài người đã trải qua ba phương
thức sản xuất đó là: công xã nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến.
Nhưng bên cạnh đó cũng có một số cho rằng ở phương Đông không qua phương thức
sản xuất chiếm hữu nô lệ mà chỉ có hai phương thức sản xuất đó là: công xã
nguyên thuỷ, chế độ phong kiến, còn chế độ chiếm hữu nô lệ ở phương Tây thì
phương Đông là phương thức sản xuất châu Á. Như vậy ở phương Đông cũng có ba
phương thức sản xuất như phương Tây nhưng có sự khác biệt đó là: Nếu như ở
phương Tây có ba phương thức sản xuất trước chủ nghĩa tư bản lần lượt là công
xã nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ và chế độ phong kiến thì ở phương Đông là công
xã nguyên thuỷ, phương thức sản xuất châu Á và chế độ phong kiến.
Ý kiến của các nhà sử
học Marx-xít về hình thái kinh tế xã hội trước chủ nghĩa tư bản ở phương Tây đã
vậy và phương Đông phương thức sản xuất cũng như thế. Vậy thì ở Việt Nam ?
Một nước thuộc phương Đông thì phương thức sản xuất trước thời Bắc thuộc giống
phương Đông chăng hay phương Tây, hay là sự kết hợp của cả hai yếu tố trên?!
Xã hội loài người khi
bước vào xã hội có nhà nước sơ khai đều trải qua giai đoạn công xã nguyên thuỷ
đây là giai đoạn bộ lạc, bộ tộc thì hầu như nước nào cũng trải qua giai đoạn
này và Việt Nam
cũng không loại trừ. Còn xã hội chiếm hữu nô lệ thì có nước có, có nước không,
chứ không nhất thiết nước nào cũng phải trải qua như chế độ công xã nguyên
thuỷ. Như ý kiến của các nhà sử học đã trình bày trên thì đa số cho rằng phương
Đông không qua giai đoạn chế độ chiếm hữu nô lệ mà bằng một chế độ khác đó là
phương thức sản xuất châu Á. Vậy ở Việt Nam có hay không chế độ chiếm hữu nô lệ
thời Văn Lang – Âu Lạc nhà nước sơ kỳ đầu tiên?
Nhìn chung giới sử học
Việt Nam đều nhất trí cho
rằng ở Việt Nam
không tồn tại chế độ chiếm hữu nô lệ mà chỉ tồn tại nô tì là những người giúp
việc cho các nhà quyền quý và quan lại nó là một dạng thức của phương thức sản
xuất châu Á.
Từ đó đến nay nhiều nhà
sử hộc nổi tiếng của Việt Nam
đều nhất trí cho rằng sau chế độ công xã nguyên thuỷ Việt Nam bước vào xã
hội theo phương thức sản xuất châu Á. Tiếp đó từ xã hội phương thức sản xuất
châu Á đã dầ chuyển sang chế độ phong kiến; tuy nhiên trong số những nhà sử học
chủ trương ở Việt Nam tồn tại phương thức sản xuất châu Á vẫn có một ý kiến
chưa thống nhất là vào thời điểm nào Việt Nam đã chuyển từ xã hội theo phương
thức sản xuất châu Á sang xã hội phong kiến? theo như ý kiến của đại đa số nhà
sử học nêu lên sự khác nhau giữa phương Đông và phương Tây, và sự ra đời của
phương thức sản xuất châu Á thì xã hội phương thức sản xuất châu Á là thời sơ
kỳ của nhà nước phong kiến. Vậy thì Việt Nam dưới thời Văn Lang-Âu Lạc được coi
là thời kỳ của xã hội phương thức sản xuất châu Á và điều này được biết đến qua
kết quả của việc khảo sát chế độ ruộng đất, giai cấp nông dân và phương thức
bóc lột đối với nông dân.
Về tình hình ruộng đất
và cơ cấu giai cấp thời kỳ này vì thiếu những tư liệu lịch sử nên chúng ta
không thể biết được cụ thể tình hình ruộng đất và cơ cấu giai cấp là như thế
nào? Mà chúng ta chỉ có thể suy đoán qua một số ít thông tin để lại mà thôi.
Theo ý kiến của Gs. Phan
Huy Lê “…trong thời cổ đại Việt Nam
không trải qua một thời kỳ thống trị của chế độ chiếm hữu nô lệ. quan hệ nô lệ
xuất hiện và phát triển trong mức độ nào đó nhưng dưới hình thức của chế độ nô
lệ gia trưởng và không hề chiếm địa vị chủ đạo trong xã hội. Kết cấu kinh tế xã
hội thời đó mang những đặc điểm của xã hội có giai cấp sơ kỳ ở phương Đông lấy
công xã nông thôn làm cơ sở và thành viên công xã giữ vai trò lực lượng sản
xuất chủ yếu. Sự phân hoá xã hội đang phát triển, nhưng chưa đến mức độ gay
gắt…”(6).
Chúng ta nhận thấy ý
kiến nói trên của Gs. Phan Huy Lê đặc biệt là ý kiến cho rằng: “xã hội Việt Nam
thời cổ đại… quan hệ nô lệ xuất hiện… nhưng dưới hình thức của chế độ nô lệ gia
trưởng và không hề chiếm địa vị chủ đạo trong xã hội… lấy nông thôn làm cơ sở
và thành viên công xã giữ vai trò lực lượng sản xuất chủ yếu” là đáng ghi nhận.
Như vậy theo Gs. Phan
Huy Lê thì ở xã hội cổ đại Việt Nam
quan hệ nô lệ đã xuất hiện nhưng dưới một hình thức khác đó là nô lệ gia
trưởng. Do vậy mà không hề chiếm địa vị chủ đạo trong xã hội cho nên xã hội
Việt Nam
không trải qua thời kỳ thống trị của chế độ chiếm hữu nô lệ mà mang một đặc
điểm khác của xã hội. Đó là có giai cấp sơ kỳ ở phương Đông, nghĩa là Gs. Phan
Huy Lê đã công nhận ở xã hội Việt Nam tồn tại phương thức sản xuất châu Á và
phương thức sản xuất châu Á ở Việt Nam lấy công xã nông thôn làm cơ sở.
Theo Gs. Trương Hữu
Quýnh trong “đại cương lịch sử Việt Nam tập 1.” Tái bản năm 2002 viết:
“… sự phân hoá tài sản là biểu hiện của sự phân hoá xã hội.
Gắn liền với hiện tượng này là sự ra đời của nô lệ gia trưởng, dẫn đến sự hình
thành các tầng lớp xã hội khác nhau:
- Quý tộc (gồm các tộc trưởng, tù trưởng bộ lạc, thủ lĩnh
liên minh bộ lạc và những người giàu có khác).
- Nô tì.
- Tầng lớp dân tự do của công xã nông thôn là tầng lớp đông
đảo nhất trong xã hội, giữ vai trò là lực lượng sản xuất chủ yếu.” (trang 44)
Như Gs. Phan Huy Lê thì
Gs. Trương Hữu Quýnh cũng cho rằng ở xã hội Việt Nam thời cổ đại đã xuất hiện nô lệ
gia trưởng và xã hội đã có sự phân chia giai cấp sơ kỳ, lấy công xã nông thôn
làm cơ sở và là tầng lớp đông đảo nhất trong xã hội.
Như vậy ý kiến của nhiều
nhà sử học về xã hội Việt Nam tựu chung lại là đều cho rằng xã hội Việt Nam
không trải qua một thời kỳ thống trị của chế độ chiếm hữu nô lệ nhưng quan hệ
nô lệ đã xuất hiện và nó chỉ phát triển đến một chừng mực nào đó và dưới một
hình thức khác đó là chế độ nô lệ gia trưởng và xã hội Việt Nam trải qua thời
kỳ phát triển của xã hội có nhà nước sơ kỳ ở phương Đông nghĩa là qua xã hội
phương thức sản xuất châu Á.
Ý kiến của riêng tôi là
ở xã hôi Việt Nam thời cổ đại cũng không trải qua sự thống trị của phương thức
sản xuất chiếm hữu nô lệ như ở phương Tây mà ở Việt Nam nó chỉ mới manh nha
xuất hiện “giai cấp” nô lệ gia trưởng cho nên chưa có địa vị chủ yếu trong xã
hội. Do vậy không thể nói ở Việt Nam trải qua sự thống trị của chế
độ chiếm hữu nô lệ. Chế độ chiếm hữu nô lệ theo quan điểm của chủ nghĩa Marx
phải là tầng lớp làm ra của cải vật chất cho xã hội và chiếm một vị trí nhất
định trong xã hội thì khi đó nó mới thật sự thống trị và xã hội mới trải qua
thời kỳ thống trị của nó, còn ở đây như chúng ta đã biết sự xuất hiện của nô lệ
gia trưởng hay nô tì ở phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng thực ra đó
mới chỉ là tầng lớp kẻ hầu, người hạ hay nói đúng hơn đó là một bộ phận kẻ hầu,
người hạ trong cung đình cho vua chúa hay tầng lớp trên của xã hội chứ chưa hề
sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội mà của cải xã hội là do công xã nông
thôn, một tầng lớp dân tự do chiếm đông đảo trong xã hội và giữ địa vị chủ yếu
để sản xuất ra của cải, và được các nhà sử học cho họ thuộc thời sơ kỳ của xã
hội phong kiến phương Đông hay nói như Marx đây là xã hội phương thức sản xuất
châu Á.
Như vậy ở Việt Nam cũng
như phương Đông trước chủ nghĩa tư bản đều trải qua ba hình thái phát triển
kinh tế xã hội đó là: công xã nguyên thuỷ, phương thức sản xuất châu Á, chế độ
phong kiến; ở Việt Nam phương thức sản xuất châu Á kéo dài từ khi bắt đầu xuất
hiện nhà nước sơ kỳ Văn Lang-Âu Lạc đến khoảng giữa thế kỷ XIII, mặc dù trước
đó chế độ phong kiến đã hình thành nhưng ở làng xã Việt Nam vẫn còn tồn tại chế
độ nông dân công xã.
Nói sao đi chăng nữa thì
ở thời cổ đại Việt Nam hay nói đúng hơn thời hình thành nhà nước sơ khai Văn
Lang-Âu Lạc, ở xã hội Việt Nam không trải qua một thời kỳ thống trị của chế độ
chiếm hữu nô lệ mà quan hệ mới chỉ xuất hiện ở nô lệ gia trưởng nhưng đã bị dập
tắt nên không thể trở thành phương thức sản xuất chiếm địa vị ở Việt Nam và xã
hội Việt Nam cũng như phương Đông đã trải qua phương thức sản xuất châu Á./.
CHÚ GIẢI
(1). Marx – ngles. Tuyển
tập (bộ 6 tập) tập 1. NXB sự thật. HN.1980, trang 270 – 274.
(2). V.I.Lênin: Bàn về
nhà nước. NXB sự thật. HN.1978, trang 17.
(3). C.Marx – Ph.Engles:
toàn tập. tập 13. NXB chính trị quốc gia. Sự thật. HN.1993, trang 16.
(4). Hồ Chí Minh: toàn
tập. tập 1. NXB chính trị quốc gia. Sự thật. HN.1995, trang 465.
(5). Nghiên cứu lịch sử.
số 1 (202). Tháng 1-2, năm 1982, trang 5-6.
(6). Nghiên cứu lịch sử.
số 1 (202). Tháng 1-2, năm 1982, trang 33.
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
1. Các Marx – Phriđrich
Engles: Tuyển tập (bộ 6 tập) - tập 1. NXB sự thật – Hà Nội 1980.
2. Các Marx – Phriđrich
Engles: Toàn tập - tập 13. NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội 1994.
3. V.I.Lênin: Bàn về nhà
nước – NXB sự thật – Hà Nội 1960.
4. Hồ Chí Minh: Toàn tập
– tập 1. NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội 1995.
5. Tạp chí Nghiên cứu
lịch sử: Số 52 và 54 năm 1963.
Số 1 (202) năm 1982.
6. Gs. Lương Ninh (chủ
biên): Lịch sử thế giới cổ đại. NXb Giáo dục, Hà Nội 2002.
7. PGs. Nguyễn Gia Phu:
Những phương thức sản xuất trước chủ nghĩa tư bản. Đà Lạt. 1996 – 1998.
8. Phan Huy Lê, Trần
Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh: Lịch sử Việt Nam tập 1. NXb Đại học và Trung học
chuyên nghiệp, Hà Nội 1993.
9. Trịnh Nhu, Nguyễn Gia
Phu: Đại cương lịch sử thế giới cổ đại. tập 1. NXb Đại học và Giáo dục chuyên
nghiệp, Hà Nội 1990.
10. Gs. Trương Hữu
Quýnh: Chế độ ruộng đất ở Việt Nam .
Tập 1. NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 1982.
11. Gs. Trương Hữu Quýnh
(chủ biên): Đại cương lịch sử Việt Nam tập 1. NXB Giáo dục, Hà Nội
2002.
12. Gs. Văn Tạo: Phương
thức sản xuất châu Á – lý luận Marx-Lênin và thực tiễn Việt Nam . NXb Khoa học xã hội, Hà Nội
1996.
13. Vũ Huy Phúc: Tìm về
chế độ ruộng đất Việt Nam
nửa đầu thế kỷ XIX. NXb Khoa học xã hội, Hà Nội 1979.
Cảm ơn tác giả về bài viết. Nhưng hiện nay quan điểm này khá cũ rồi. Các quan điểm mới về mô hình chính trị ở ĐNA thời sơ sử hiện đang tranh luận rất sôi nổi, với nhiều cách tiếp cận mới từ góc độ tôn giáo, quan hệ kinh tế, vương quyền...
Trả lờiXóaMong tác giả cập nhật và bổ xung.
Vâng, cảm ơn về những góp ý của bạn về bài viết này. Về quan điểm như về chính trị, kinh tế và xã hội của Việt Nam thời Bắc thuộc thì mình cũng sẽ tiếp tục cập nhật thông tin mới và sẽ đăng bài lên trong một dịp khác. Mong bạn luôn ủng hộ, góp ý cho mình trong các bài viết được đăng lên blog này. Xin chân thành cảm ơn.
Trả lờiXóa