Ý NGHĨA VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM RÚT RA TỪ CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN MẬU THÂN 1968 CỦA QUÂN VÀ DÂN TA
ThS-GVC. Tô Thị Hiền Vinh
Bộ môn Đường lối cách mạng…
Trên chặng đường 21 năm chiến đấu giành độc lập tự do cho Tổ quốc (1954-1975), dân tộc Việt Nam đã buộc phải đương đầu với đế quốc Mỹ - một cường quốc hàng đầu của thế kỷ XX đang theo đuổi chiến lược toàn cầu mà Việt Nam là một “đôminô” trong tính toán chiến lược của Mỹ.
Trong suốt quá trình đó, Mỹ đã thi hành nhiều thủ đoạn và biện pháp, thay đổi nhiều chiến tranh, bỏ ra nhiều tiền của và công sức hòng khuất phục đối phương. Tìm đường đánh Mỹ và tìm cách đánh Mỹ, là cả một quá trình đầy sáng tạo, rất mưu lược của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, với hiệu quả chiến lược của nó, là một thành công lớn trong quá trình này.
Thứ nhất: Buộc Mỹ phải đơn phương xuống thang chiến tranh
Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 được khởi xướng khi nỗ lực của Mỹ ở Việt Nam lên tới đỉnh cao, khi lực lượng so sánh đôi bên trên chiến trường nghiêng mạnh về phía Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Bằng cuộc tiến công đồng loạt, táo bạo, dũng mãnh, nhằm vào đô thị trên toàn miền Nam, quân và dân ta đã đánh đòn quyết định vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải đơn phương xuống thang chiến tranh, khởi đầu cho một quá trình đi xuống về mặt chiến lược. Và quá trình đó không thể đảo ngược cho dù phải 5 năm sau Mỹ mới rút hết quân ra khỏi miền Nam và phải 7 năm sau chế độ Sài Gòn mới sụp đổ, nhưng về mặt chiến lược, Mỹ đã thua cuộc từ mùa xuân 1968. Sau 1 tháng, tướng Oétmolen, Tổng chỉ huy quân sự Mỹ ở miền Nam bị cách chức, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mắc Namara từ chức. Sau 2 tháng, ngày 31-3-1968, Tổng thống Mỹ Johnson phải tuyên bố ba điểm:
Một là: Đơn phương ngừng đánh phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra.
Hai là: Nhận đàm phán với ta tại hội nghị Paris.
Ba là: Không ra tranh cử tổng thống Mỹ nhiệm kỳ hai nữa...
Đây là sự thừa nhận đầu tiên nhưng đầy đủ nhất về sự phá sản của chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ, chiến lược chiến tranh quan trọng nhất được Mỹ công phu chuẩn bị và đánh giá cao trong chiến lược toàn cầu “phản ứng linh hoạt” của Mỹ những năm 60. Đến tháng 5-1968, Mỹ phải bắt đầu đàm phán với ta về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam.
Thứ hai: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã giáng một đòn quyết định làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ .
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đãbuộc Mỹ dù rất ngoan cố và hiếu chiến vẫn phải xuống thang chiến tranh, ngừng ném bom ở miền Bắc, giảm dần quân Mỹ trên chiến trường, ngồi vào bàn đàm phán ở Hội nghị Paris. Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, dù chưa đạt được yêu cầu của khả năng thứ nhất theo dự kiến ban đầu và phải hy sinh to lớn, nhưng quân và dân ta đã xoay chuyển được cục diện tình hình mà trước đó ta chưa bao giờ tạo được. Cục diện đó cho phép chúng ta tiếp tục đưa sự nghiệp kháng chiến tiến lên theo phương hướng chiến lược mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra trong Thư chúc Tết năm 1969.
“Vì độc lập, vì tự do
Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”
Thứ ba: Tạo bước ngoặt quyết định của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 ta tiêu diệt, tiêu hao một lực lượng quan trọng quân địch, phá hủy nhiều vũ khí, phương tiện chiến tranh, phá vỡ hệ thống phòng thủ đô thị của chúng trên quy mô toàn miền, đã tạo bước ngoặt quyết định của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tạo một bước phát triển đột biến trong cục diện chiến tranh.
Lần đầu tiên, trên chiến trường miền Nam, ta tiến công vào hàng loạt thành thị lớn nhỏ, kể cả thành phố Sài Gòn, đánh thẳng vào những trung tâm đầu não và chính trị, quân sự của Mỹ - Ngụy, vào hậu phương trọng yếu của chúng, phá tan kế hoạch bình định của địch, giải phóng thêm nhiều vùng nông thôn với hàng triệu dân, phá hơn một nửa số “ấp chiến lược” của địch..., mở rộng và củng cố hậu phương của ta, tăng thêm nguồn sức người, sức của cho cuộc kháng chiến.
Quân giải phóng miền Nam mở cuộc tổng tiến công rộng lớn, đồng loạt gây cho Mỹ tổn thất nặng, trong khi chỉ sử dụng một bộ phận lực lượng không nhiều; ghìm chặt đội quân đông hơn 1 triệu 20 vạn tên vào mặt trận đô thị, tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch; phá hủy, phá hỏng nhiều phương tiện chiến tranh; phá rã chính quyền địch ở nhiều vùng nông thôn; phá vỡ hệ thống phòng thủ đô thị địch trên quy mô toàn miền; làm đảo lộn thế bố trí chiến lược của chúng ở miền Nam. Quân Ngụy đã bị tiêu diệt 18 vạn tên, 25 vạn bị tan rã. Đó là tổn thất lớn nhất của chúng, mặc dù địch đã dùng mọi biện pháp củng cố và tăng cường quân ngụy, lần đầu tiên tổng số quân ngụy đã bị tụt xuống một cách đáng kể. Tinh thần quân ngụy càng suy sụp, hiệu lực chiến lược của chúng càng giảm sút, nguồn bổ sung càng bị hạn chế.
Ta cũng đã tiêu hao, tiêu diệt sinh lực và phương tiện chiến tranh của quân Mỹ, làm giảm sút một phần quan trọng dự trữ vật tư chiến lược tại chỗ của địch, làm ảnh hưởng đáng kể đến tinh thần và sức chiến đấu của chúng.
Quân chư hầu cũng bị đánh thiệt hại nặng, nhất là quân đánh thuê Nam Triều Tiên, đó là đòn có ý nghĩa đánh vào chính sách dùng người châu Á đánh người châu Á của Mỹ.
Trên miền Bắc, quân và dân ta đã giành được thắng lợi to lớn và toàn diện, tiếp tục đánh bại chiến tranh phá hoại của địch, bảo đảm giao thông thông suốt trong điều kiện địch đánh phá rất ác liệt, tập trung sức người, sức của cho tiền tuyến lớn, mặt khác tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện có chiến tranh.
Trên thế mạnh của tiến công quân sự và tiến công chính trị trên chiến trường và phối hợp chặt chẽ với các mặt tiến công đó, chúng ta đã đẩy mạnh tiến công ngoại giao, buộc địch phải ngồi lại nói chuyện chính thức với ta ở Paris, làm cho địch càng bị động, cô lập và mâu thuẫn trong nội bộ bọn cầm quyền Mỹ, mâu thuẫn giữa Mỹ - Ngụy càng gay gắt.
Từ cuộc tổng tấn công mậu thân 1968 chúng ta đã đúc rút và vận dụng những bài học kinh nghiệm vào chiến tranh nhân dân, bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới:
Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nắm chắc tình hình; có các chủ trương, đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo phù hợp với thực tiễn phát triển của chiến tranh cách mạng trong điều kiện mới của Việt Nam.
Để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, trước hết, không ngừng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nền quốc phòng, xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh. Bài học kinh nghiệm của cuộc Tổng tiến công càng cho thấy, Đảng phải có đường lối đúng đắn, sáng tạo, trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xác định rõ mục tiêu cách mạng, phát triển học thuyết quân sự Việt Nam; xuất phát từ thực tiễn, phân tích tình hình cụ thể để tìm ra quy luật và hành động theo quy luật, nhất là quy luật chiến tranh kiểu mới của địch - chiến tranh vũ khí công nghệ cao.
Cách mạng nước ta hiện nay bên cạnh những nhân tố thuận lợi thúc đẩy quá trình đối mới đất nước, giành nhiều thành tựu quan trọng (đặc biệt khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và được bầu làm ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008 - 2009, uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng nâng cao), chúng ta cũng đang phải vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, nhất là việc các thế lực thù địch chống phá bằng chiến lược “diễn biến hoà bình”, gây bạo loạn, lật đổ, âm mưu thúc đẩy “tự diễn biến”, tạo cớ can thiệp dưới các hình thức. Vì vậy, đòi hỏi việc phát triển chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc cần có những bước phát triển mới, cả về quy mô, tính chất, yêu cầu các cấp, các ngành phải nhạy bén, sáng tạo, thường xuyên nắm chắc tình hình, xử lý tốt những tình huống phức tạp xảy ra, không để đất nước bị động, bất ngờ về chiến lược. Thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn thâm độc của kẻ thù, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, tạo môi trường hoà bình, thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước.
Hai là, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và yếu tố chính trị - tinh thần trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xây dựng và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược quan trọng tạo nên sức mạnh vô địch trong chiến tranh cũng như trong hoà bình xây dựng, phát triển đất nước. Do đó, cần chăm lo khối đại đại đoàn kết ngay từ thời bình, để “lo giữ nước khi nước còn chưa nguy” theo kinh nghiệm truyền thống của cha ông. Nghị quyết Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Đảng ta luôn coi vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc là vấn đề chiến lược, cơ bản, lâu dài của sự nghiệp cách mạng nước ta… là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(3) .
Xây dựng, phát huy tốt yếu tố chính trị - tinh thần của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là nhân tố làm chuyển hoá so sánh lực lượng để “lấy ít địch nhiều”, “lấy nhỏ thắng lớn”, là nét độc đáo của nền nghệ thuật quân sự Việt Nam cần nhân lên trong điều kiện mới. Phát huy yếu tố chính trị - tinh thần trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, khơi dậy tinh thần yêu nước, quả cảm, ý chí quyết tâm chiến đấu, trí thông minh, sáng tạo, truyền thống chống ngoại xâm trong suốt chiều dài lịch sử mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Ba là, xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững chắc, làm nền tảng của thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.
Thực tiễn sự kiện lịch sử này cho thấy, vai trò quan trọng của lực lượng tại chỗ, của thế trận chiến tranh nhân dân. Do đó, ngay từ thời bình phải chăm lo xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố thành thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân vững chắc, bảo đảm tính toàn diện, nhưng có trọng tâm, trọng điểm, trong đó tập trung xây dựng vững mạnh về chính trị, phát triển vững chắc về kinh tế, ổn định về xã hội. Trên cơ sở tạo thế bố trí chiến lược chung của cả nước, chú trọng vào các khu vực phòng thủ then chốt, các địa bàn chiến lược, vùng biên giới, biển, đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; gắn kết chặt chẽ giữa kinh tế với quốc phòng và quốc phòng với kinh tế ngay trong từng dự án cũng như trong quy hoạch của từng địa phương và tổng thể cả nước. Chăm lo bảo đảm tốt đời sống của nhân dân, thực hiện dân chủ, nhất là dân chủ ở cơ sở, góp phần xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc. Đồng thời, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng, hiệu lực quản lý, điều hành của chính quyền các cấp. Đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí nhằm củng cố vững chắc niềm tin của quần chúng nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Bốn là, phát triển tiềm lực quốc phòng và quân sự để tạo ra khả năng vật chất và tinh thần vững mạnh bảo vệ Tổ quốc.
Phát triển tiềm lực quốc phòng, quân sự tạo ra khả năng về vật chất và tinh thần có thể huy động được cho nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, giữ vững hoà bình, ngăn ngừa mọi âm mưu, hành động gây chiến tranh của các thế lực thù địch, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược ở mọi quy mô, nếu xảy ra. Sức mạnh của chiến tranh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp, vì vậy, xây dựng tiềm lực quốc phòng, quân sự phải nhằm góp phần tạo ra sức mạnh tổng hợp, chủ động chuẩn bị, gắn liền với mỗi bước tăng trưởng, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Hiện nay, cần tận dụng những thời cơ thuận lợi của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế để mở rộng quan hệ hợp tác, trao đổi, học tập kinh nghiệm, nhất là về khoa học - kỹ thuật hiện đại, nhằm đi tắt đón đầu, phục vụ sự phát triển công nghiệp quốc phòng, công tác nghiên cứu khoa học quân sự và nghệ thuật quân sự, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.
Năm là, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong sạch, vững mạnh làm nòng cốt của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.
Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, trước hết là quân đội nhân dân và công an nhân dân chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, xứng đáng là lực lượng chính trị tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, làm nòng cốt trong sự nghiệp củng cố quốc phòng - an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, phát huy sức mạnh tổng hợp của quần chúng nhân dân, các lực lượng và cả hệ thống chính trị, trong đó lực lượng vũ trang ba thứ quân đóng vai trò chủ đạo. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X xác định: “Nâng cao chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu để lực lượng vũ trang thật sự là lực lượng chính trị trong sạch, vững mạnh, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, được nhân dân tin cậy, yếu mến”. Theo đó, chúng ta phải thường xuyên xây dựng quân đội vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, có số lượng và cơ cấu hợp lý, có chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu ngày càng cao, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Trong quá trình xây dựng quân đội phải coi trọng cả lực lượng thường trực, lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ, nhằm đáp ứng tốt yêu cầu ngày càng cao của cách mạng./.
TRUYỀN THỐNG YÊU NƯỚC CỦA DÂN TỘC
VIỆT NAM - MỘT TRONG NHỮNG NHÂN TỐ
LÀM NÊN THẮNG LỢI TRONG CUỘC KHÁNG
CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC
VIỆT NAM - MỘT TRONG NHỮNG NHÂN TỐ
LÀM NÊN THẮNG LỢI TRONG CUỘC KHÁNG
CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC
ThS.Phạm Quang Tùng
Bộ môn Đường lối cách mạng…
Bộ môn Đường lối cách mạng…
Truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam là nét nổi bật trong đời sống văn hoá tinh thần của người Việt, là di sản quý báu của dân tộc được hình thành rất sớm, được củng cố và phát huy qua hàng ngàn năm lịch sử. Đương nhiên, không một dân tộc nào sống trên quả đất này mà lại không yêu đất nước của mình. Nhưng tùy theo sự hình thành quốc gia, dân tộc trên những vùng lãnh thổ khác nhau, trong những điều kiện không giống nhau, tính thường trực và nhạy cảm của lòng yêu nước cũng sẽ không có những biểu hiện như nhau. Điều kiện hình thành, tồn tại và phát triển của dân tộc ta trong một vị thế địa - chính trị “trứng nằm dưới đá”, triền miên phải đối diện với các thế lực xâm lược luôn lớn hơn mình gấp bội, “sự chống trả đối với thách thức” ấy quả là khốc liệt. Nhưng cũng chính vì thế, lòng yêu nước trở thành một đặc điểm nổi bật trong tính cách Việt Nam và đó là một trong những nhân tố góp phần làm nên thắng lợi trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
Sau chiến tranh năm 1975, các nhà phân tích chính trị và quân sự hàng đầu của Hòa Kỳ và Thế giới đã rút ra nguyên nhân thất bại chính của cuộc chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam đó là “Chủ nghĩa yêu nước”. Chủ nghĩa yêu nước là một nét truyền thống quý báu của dân tộc ta mà ít quốc gia nào có thể có được. Chính vì vậy trong một cuộc gặp giữa Đại tướng Võ Nguyên Giáp và một người lính Mỹ; người lính Mỹ hỏi Đại tướng rằng tại sao Hoa Kỳ có một sức mạnh quân sự rất mạnh như vậy mà lại thua Việt Nam và Đại tướng Võ Nguyên Giáp trả lời “Bởi vì các bạn chưa tìm hiểu kỹ về lịch sử dân tộc chúng tôi”.
Lịch sứ mấy nghìn năm của dân tộc Việt Nan là lịch sử đất tranh giành lại và bảo vệ nền độc lập từ tay kẻ thù xâm lược. Chính vì vậy mà tinh thần yêu nước đã ngấm sâu vào tình cảm, vào tư tưởng của mỗi người dân Việt Nam qua tất cả các thời đại, làm nên một sức mạnh kỳ diệu, giúp cho dân tộc ta đánh thắng hết kẻ thù này đến kẻ thù khác cho dù chúng có hùng mạnh đến đâu. Điều này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh tổng kết: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”.
Trong những thắng lợi vang dội của các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Vì tình yêu nước, nhiều thế hệ trẻ Việt Nam đã hiến dâng đời mình cho Tổ quốc, có vậy mới có ngày 30 tháng 4 lịch sử hôm nay. Trong những cuộc chiến tranh tàn khốc đó, lòng yêu nước ở mỗi người dân Việt nam đã được thể hiện ở tinh thần dám xả thân vì nước, sẵn sàng đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc lên trên lợi ích riêng tư của bản thân mình, đấu tranh không biết mệt mỏi cho sự nghiệp giải phóng đất nước, giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc. Biết bao người con của dân tộc đã tự nguyện hiến dâng tuổi thanh xuân của mình cho đất nước và đã anh dũng hy sinh nơi chiến trường như Bế Văn Đàn (1931 – 1954), Phan Đình Giót (1920 – 1954), Tô Vĩnh Diện (1924 – 1953), Nguyễn Viết Xuân (1934 – 1964) và nhiều liệt sĩ vô danh khác.
Rất nhiều người mẹ, người vợ đã bao lần tiễn con đi và bao lần khóc thầm lặng lẽ vì các anh không trở về. Như mẹ Nguyễn Thị Thứ quê ở Điện Thắng – Điện Bàn – Quảng Nam – Đà Nẵng có 9 con và 2 cháu nội là liệt sĩ, hay mẹ Lê Thị Tự quê ở Thanh Quýt – Điện Thắng – Điện Bàn – Quảng Nam – Đà Nẵng có 9 con là liệt sỹ và còn rất nhiều bà mẹ Việt Nam khác nữa . Đây là sự hy sinh to lớn được thúc đẩy bởi tinh thần yêu nước nồng nàn của dân tộc ta. Bấy nhiêu thôi cũng đã quá đủ để có thể thấy rằng, tư tưởng yêu nước đã đem lại một sức mạnh to lớn, là một trong những nhân tố làm nên thắng lợi trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
Ngày hôm nay Việt Nam đang bước vào thời kỳ hội nhập trong điều kiện đất nước đã hoàn toàn giải phóng, nhân dân được sống trong hoà bình. Nỗi nhục mất nước đã được rửa, nhưng nỗi nhục nghèo đói thì vẫn còn đó. Nước ta vẫn còn là một nước nghèo trên thế giới hiện nay, đời sống của nhân dân còn nhiều khó khăn, cơ sở vật chất còn thiếu thốn, khoa học và công nghệ còn lạc hậu. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch trong và ngoài nước vẫn đang từng ngày, từng giờ âm mưu chống phá nhằm lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng. Có thể nói, đây là thời kỳ đầy khó khăn, thách thức đối với cách mạng Việt Nam và mức độ khốc liệt của nó cũng không thua kém gì so với thời kỳ chiến tranh giành độc lập dân tộc. Chính vì vậy, hơn lúc nào hết, chúng ta cần phải phát huy tinh thần yêu nước truyền thống của dân tộc, tinh thần dám xả thân vì nước mà ông cha ta để lại để đưa đất nước vượt qua những thử thách khắc nghiệt này. Không những trước đây mà ngày nay yêu nước đã thực sự trở thành một thứ vũ khí tinh thần mà, theo Giáo sư Trần Văn Giàu, “vận nước suy hay thịnh, mất hay còn, nhục hay vinh, phần rất quan trọng là tuỳ thuộc ở chỗ ta ứng dụng và phát huy hay ta quên lãng và chôn vùi món vũ khí tinh thần ấy”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Văn Giàu. Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam. NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội,
2. Hồ Chí Minh. Toàn tập. t. 6. NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995.
3. Trần Xuân Trường. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh NXB. Quân đội nhân dân, 2001
4. Nguyễn Hùng Hậu, Từ chủ nghĩa yêu nước truyền thống đến chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh, NXB. Chính Trị Quốc Gia
5. Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương: Tuyên truyền 1995, tập I,Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.188
THẮNG LỢI CỦA SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC LÀ THẮNG LỢI CỦA CẢ DÂN TỘC,
CỦA MỌI NGƯỜI DÂN VIỆT NAM
CỦA MỌI NGƯỜI DÂN VIỆT NAM
Trần Thị Tân
Bộ môn TT. Hồ Chí Minh
Mùa xuân năm 1975, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, quân và dân ta mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đập tan toàn bộ quân đội và chính quyền tay sai Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, kết thúc vẻ vang 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, chấm dứt ách thống trị hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta, đưa đất nước ta sang một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Có được thành quả cách mạng vĩ đại ấy, dân tộc ta đã trải qua những chặng đường đấu tranh đầy gian khổ hy sinh, đã kế thừa, phát triển lên một tầm cao mới truyền thống yêu nước, ý chí bất khuất của con người Việt Nam, văn hóa Việt Nam. Thành quả vĩ đại ấy còn là kết quả của việc phát huy cao độ sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh
Hơn 20 năm sau khi cuộc chiến ở Việt Nam kết thúc, trong tác phẩm Nhìn lại quá khứ - tấn thảm kịch và bài học Việt Nam, cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mắc Na-ma-ra, người đã phục vụ qua hai đời Tổng thống Mỹ là Ken-nơ-đi và Giôn-xơn; người can dự vào việc Mỹ leo thang chiến tranh trên cả hai miền Nam - Bắc Việt Nam, đã thừa nhận sai lầm của nước Mỹ. Theo ông ta, trong cuộc chiến tranh này, nước Mỹ ''đã không nhận ra được những hạn chế của các thiết bị quân sự kỹ thuật cao và hiện đại, lực lượng quân sự và học thuyết quân sự trong sự đối đầu với những trào lưu nhân dân được thúc đẩy cao"; Mỹ đã "đánh giá thấp sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc thúc đẩy nhân dân Việt Nam đấu tranh và hy sinh cho lý tưởng và các giá trị của nó'' (1).
Dù chưa đầy đủ, thậm chí còn lệch lạc trong cách nhìn lại cuộc chiến tranh ở Việt Nam và nguyên nhân thất bại của Mỹ, thì ý kiến này của ông ta cũng đã phần nào chạm tới một sự thật mà lẽ ra ngay từ những ngày đầu can dự vào Việt Nam và Đông Dương, nhà cầm quyền nước Mỹ đã phải nhận biết để có thể tránh khỏi một cuộc chiến kéo dài và đẫm máu. Sự thật đó chính là: sức mạnh của lòng yêu nước, của "trào lưu nhân dân được thúc đẩy cao" mà thực chất, đấy là khối đại đoàn kết toàn dân tộc được Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu xây dựng, củng cố theo một đường lối đúng đắn vì độc lập - tự do của Tổ quốc Việt Nam; giữ vững nền hòa bình cho đất nước mình và sự hòa hiếu giữa các dân tộc. Sau này, trong Tổng kết chiến tranh Việt Nam, Bộ Quốc phòng Mỹ đã rút ra kết luận rằng, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã nắm được ngọn cờ dân tộc và chống thực dân.
Giữa những ngày chống Mỹ đầy gian lao, thử thách, Chủ tịch Hồ Chí Minh vững tin vào thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Bởi theo Người, "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước". "Từ xưa tới nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước"(2). "Làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn" ấy, thực chất là sức mạnh của lòng yêu nước, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Sức mạnh ấy là nền tảng vững bền bảo đảm cho dân tộc ta vượt qua bao nhiêu gian nan, thử thách trên dặm dài lịch sử - một lịch sử lắm gian truân, nhọc nhằn nhưng cũng đầy chiến công hiển hách. Sức mạnh ấy đã làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 với sự khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sau ngót 80 năm dưới ách đô hộ của đế quốc, thực dân, từ đây, "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy" (3). Ý chí, quyết tâm đó của mọi người Việt Nam yêu nước, của toàn thể dân tộc Việt Nam đã được thể hiện cụ thể trong 21 năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược (1954 - 1975).
Những năm sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, chế độ gia đình trị Ngô Đình Diệm được Mỹ dựng lên và nuôi dưỡng, đã lê máy chém đi khắp miền Nam, gây ra nhiều vụ thảm sát đẫm máu. Trong đau thương, đồng bào, cán bộ, đảng viên, chiến sỹ ta ở miền Nam vẫn vững tin vào Đảng và Bác Hồ kính yêu, vững tin vào thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà. Chính vì thế, trong những năm 1959 - 1960, mặc dù bị đế quốc Mỹ và tay sai khủng bố, đàn áp hết sức dã man, nhưng các tầng lớp nhân dân ở các địa phương miền Nam liên tục nổi dậy đấu tranh, đỉnh cao là phong trào Đồng Khởi cuối năm 1959 và trong năm 1960, đập tan từng mảng chính quyền ngụy Sài Gòn ở nhiều vùng nông thôn rộng lớn, đưa cách mạng miền Nam chuyển từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công. Ngày 20-12-1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam ra đời, tập hợp đông đảo lực lượng yêu nước, gắn bó với dân tộc, không phân biệt giai tầng, địa vị xã hội, tín ngưỡng. Mặt trận chủ trương: "đoàn kết tất cả các tầng lớp nhân dân, các giai cấp, các dân tộc, các đảng phái, các đoàn thể, các tôn giáo và thân sĩ yêu nước không phân biệt xu hướng chính trị, để đấu tranh lật đổ ách thống trị của đế quốc Mĩ và tập đoàn Ngô Đình Diệm tay sai Mĩ, thực hiện độc lập, dân chủ, hoà bình, trung lập, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc. Với Cương lĩnh đúng đắn, Chương trình hành động thiết thực, đáp ứng nguyện vọng của đông đảo lực lượng yêu nước miền Nam, Mặt trận nhanh chóng tập hợp được các lực lượng chính trị, xã hội, đảng phái, tôn giáo yêu nước... Mặt trận đã thu hút hơn hai mươi đoàn thể, tổ chức chính trị ở Miền Nam: Hội Liên hiệp Học sinh Sinh viên Giải phóng miền Nam; Giải phóng quân miền Nam; Hội Chấn hưng Đạo đức của Phật giáo, Hoà Hảo; Nhóm Công thương gia; Hội Lao động Giải phóng miền Nam; Hội Thanh niên Giải phóng miền Nam; Phong trào Dân tộc Tự trị Tây Nguyên; Nhóm những người đấu tranh cho hoà bình, thống nhất, độc lập Tổ quốc Việt Nam; Nhóm binh sĩ trở về với nhân dân; Hội những người kháng chiến cũ; Đảng Xã hội Cấp tiến miền Nam; Đảng Dân chủ miền Nam; Hội Văn nghệ Giải phóng miền Nam; Phái Cao Đài Tiên Thiên; Hội các gia đình binh sĩ; Uỷ ban Bảo vệ Hoà bình thế giới của miền Nam; Uỷ ban Đoàn kết Á - Phi của miền Nam; Đảng Nhân dân Cách mạng miền Nam; Hội các Nhà báo yêu nước và Dân chủ miền Nam.
Phong trào Đồng Khởi giành thắng lợi lớn đã tạo ra thế và lực mới của cách mạng miền Nam. Từ đây, cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng chuyển sang thế tiến công địch, đánh bại các chiến lược chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ. Những năm đầu thập niên sáu mươi của thế kỷ XX, khi đế quốc Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược "Chiến tranh đặc biệt", với đường lối chiến tranh nhân dân và bằng các phương pháp đấu tranh hết sức phong phú của Đảng và Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, quân và dân ta đã giành nhiều chiến công to lớn.
Phong trào đấu tranh quân sự, chính trị, binh vận của ta với những hình thức và phương pháp hết sức phong phú đang ngày càng phát triển trên cả ba vùng chiến lược; đặc biệt, khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng được củng cố vững chắc. Giữa năm 1964, các lực lượng vũ trang giải phóng đã kiểm soát (dưới các hình thức và mức độ khác nhau) gần 1/3 dân số toàn miền Nam; Ủy ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng thực sự trở thành Chính phủ Trung ương (tồn tại song song với chính quyền Sài Gòn), lãnh đạo các tầng lớp nhân dân tăng cường đoàn kết, tiếp tục đấu tranh giành nhiều thắng lợi về quân sự và chính trị. Chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" đứng trước nguy cơ bị thất bại, buộc đế quốc Mỹ phải tính toán đưa quân Mỹ và đồng minh vào miền Nam Việt Nam trực tiếp tham chiến hòng giành thắng lợi quyết định, buộc nhân dân Việt Nam phải khuất phục trước sức mạnh quân sự của chúng. Trước tình hình đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt (27-3-1964) với hơn 300 đại biểu gồm những nhà cách mạng lão thành, những người tiêu biểu cho các ngành, các giới, đại biểu anh hùng, chiến sỹ thi đua, trí thức tiến bộ và nhân sỹ yêu nước đại diện cho hơn 30 triệu đồng bào các dân tộc trong cả nước. Hội nghị biểu thị ý chí, quyết tâm của các tầng lớp nhân dân đoàn kết xung quanh Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chiến đấu bảo vệ miền Bắc, đẩy mạnh cuộc chiến tranh cách mạng giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Hội nghị chính trị đặc biệt được xem như một "Hội nghị Diên Hồng" của dân tộc trong thời đại mới.
Khi đế quốc Mỹ ồ ạt đưa quân viễn chinh vào miền Nam (Hè - Thu 1965) thực hiện chiến lược "Chiến tranh cục bộ"; đồng thời, phát động cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân chống phá miền Bắc, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi chống Mỹ, cứu nước (17-7-1966) nêu cao quyết tâm đoàn kết toàn dân tộc, vượt qua gian khổ ác liệt, chiến đấu hy sinh vì chân lý "Không có gì quý hơn độc lập, tự do". Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân miền Bắc - hậu phương chiến lược của miền Nam - dấy lên các phong trào thi đua "vì miền Nam ruột thịt" như: phong trào "thanh niên ba sẵn sàng", "phụ nữ ba đảm đang", nông dân "tay cày tay súng", công nhân "tay búa tay súng", học sinh "làm nghìn việc tốt"... để nhằm một mục tiêu "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược". Các phong trào thi đua thu hút đông đảo mọi tầng lớp, mọi thành phần, mọi lứa tuổi từ miền xuôi đến miền ngược, từ thành thị đến nông thôn, từ biên giới đến hải đảo. Trong khói lửa đạn bom của máy bay, tàu chiến Mỹ, miền Bắc không nao núng tinh thần, quyết tâm vừa chiến đấu, vừa sản xuất, vừa dồn sức chi viện mạnh mẽ, liên tục, ngày càng tăng cho tiền tuyến miền Nam và làm nghĩa vụ quốc tế. Bằng sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, quân và dân ta đã thực hành chiến lược tiến công quân địch rộng khắp, liên tục, ngày càng mạnh mẽ cả về quân sự và chính trị; bằng nhiều hình thức và bằng mọi thứ vũ khí có trong tay, kể cả việc tiến công các căn cứ xuất phát hành quân càn quét của địch. Mùa Xuân 1968, để đánh một đòn quyết định vào dã tâm xâm lược của Mỹ, quân và dân ta đã mở cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân nhằm vào toàn bộ các mục tiêu chủ yếu trong các thành phố, thị xã trên toàn miền Nam. Cuộc tiến công táo bạo này nổ ra vào lúc những nỗ lực chiến tranh của Mỹ lên tới đỉnh cao nhất, lúc chiến trường mà đặc biệt là vùng ven các đô thị, hầu như ken dày hệ thống đồn bốt và bộ máy ngụy quân, ngụy quyền, đã gây cú sốc mạnh làm choáng váng nước Mỹ, làm bàng hoàng, sửng sốt Nhà Trắng và Lầu Năm Góc.
Tuy nhiên, với bản chất ngoan cố và hiếu chiến, trong những năm 1969 - 1972, mặc dù phải ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Hội nghị Paris để rút lui trong "danh dự", đế quốc Mỹ vẫn tìm mọi cách thực hiện chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" nhằm giữ vững thể chế Việt Nam cộng hòa - "đồng minh đặc biệt" của Mỹ ở Đông Nam châu Á. Nhưng mọi mưu đồ toan tính xảo quyệt của đế quốc Mỹ đã bị thất bại. Với đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện; bằng sức mạnh đại đoàn kết dân tộc tiếp tục được mở rộng và phát huy, toàn quân, toàn dân ta đã anh dũng vượt qua mọi thử thách, hy sinh, liên minh với cách mạng Lào và Cam-pu-chia đánh thắng địch ở Đường 9 - Nam Lào, đông bắc Cam-pu-chia, Ngã ba biên giới (năm 1971); tiến công mãnh liệt đập vỡ tuyến phòng thủ vòng ngoài kiên cố của địch ở Trị Thiên, Bắc Tây Nguyên, Đông Nam Bộ; đập tan cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B52 của Mỹ trên vùng trời Hà Nội, Hải Phòng (tháng 12-1972), buộc đối phương dù rất ngoan cố và hiếu chiến vẫn phải ký kết Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, rút hết quân Mỹ và quân đồng minh của Mỹ ra khỏi miền Nam.
Những năm sau Hiệp định Paris (1973), sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta phát triển thuận lợi. Thế và lực của cách mạng trên ba vùng chiến lược được củng cố, mở rộng liên hoàn rất vững chắc; các binh đoàn chủ lực lần lượt ra đời có đầy đủ khả năng phát động những chiến dịch tiến công chiến lược lớn làm xoay chuyển cục diện chiến tranh. Còn quân xâm lược Mỹ trong cơn suy thoái trầm trọng cả về chính trị, tinh thần đã trút bỏ gánh nặng chiến tranh lên đầu chính quyền Sài Gòn, chỗ dựa của chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" đang bị lung lay đến tận gốc. Chớp thời cơ mới xuất hiện, Bộ Chính trị Trung ương Đảng hạ quyết tâm động viên sức mạnh cao nhất của cả nước để giải phóng hoàn toàn miền Nam. Hướng ra tiền tuyến lớn, miền Bắc dốc toàn bộ sức mạnh tiềm tàng và to lớn của mình cho miền Nam tổng tiến công và nổi dậy. 11 giờ 30 phút trưa ngày 30-4-1975, lá cờ cách mạng phấp phới tung bay trên nóc dinh Độc Lập, báo hiệu chiến dịch mang tên Bác Hồ kính yêu toàn thắng, sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam toàn thắng. Sài Gòn những ngày cuối tháng 4 đầu tháng 5-1975 ngập tràn sắc đỏ cờ, hoa mừng ngày hội lớn của non sông từ đây nối liền một dải.
Đại thắng mùa xuân năm 1975 được tạo nên bởi ý chí, nghị lực, trí tuệ của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân; của khối đại đoàn kết dân tộc; của sự giúp đỡ vô tư, chí tình của các nước anh em và bè bạn quốc tế giành cho dân tộc ta đang là nguồn cổ vũ mạnh mẽ tinh thần cách mạng của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Bài học về đại đoàn kết toàn dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vẫn còn nguyên giá trị, giúp cho toàn quân, toàn dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, trên nền tảng khối đại đoàn kết toàn dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Trong giai đoạn hiện nay, đất nước trong bối cảnh tình hình chính trị, kinh tế, xã hội thế giới có nhiều biến đổi phức tạp, xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế giữa các nước đang diễn ra khá mạnh tác động đến nước ta cả hai măt: tích cực và tiêu cực. Vì vậy, cần phải tăng cường khối đại đại kết dân tộc, tạo sức mạnh nội lực để hoàn thành thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì vậy, Đảng ta chủ trương phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh công nhân – nông dân – trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đoàn kết dân tộc phải đảm bảo công bằng, bình đẳng xã hội, chăm lo lợi ích chính đáng và hợp pháp của nhân dân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Rô-be Mắc-na-ma-ra: Nhìn lại quá khứ, tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.316
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1995, t.6, tr.171
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 1995, t.4, tr.4
4. Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam , Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007
5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.5.
6. 80 năm Đảng Cộng sản Việt Nam những mốc son vàng lịch sử 1930 - 2010, Nxb. Thanh niên, 2009
7. 65 năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng (1944 - 2009),Nxb. Quân đội nhân dân, 2009
8. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết với vấn đề phát huy sức mạnh đoàn kết dân tộc trong thời đại mới, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2004./.
ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG BẠO LỰC
CÁCH MẠNG HỒ CHÍ MINH ĐỐI VỚI
THẮNG LỢI TRÊN MẶT TRẬN NGOẠI
GIAO CỦA NƯỚC TA TỪ 1967 - 1973
CÁCH MẠNG HỒ CHÍ MINH ĐỐI VỚI
THẮNG LỢI TRÊN MẶT TRẬN NGOẠI
GIAO CỦA NƯỚC TA TỪ 1967 - 1973
Nguyễn Văn Hạnh
Bộ môn TT. Hồ Chí Minh
Đại thắng mùa xuân 1975 là bản hùng ca kết thúc hơn 20 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta. Chiến công này được coi là một trong những chiến công vĩ đại nhất trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc. Nhân lễ kỷ niệm 35 năm ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, chúng ta có dịp ôn lại một giai đoạn lịch sử có ý nghĩa quyết định cho mọi thắng lợi. Giá trị của tính bạo lực cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tính tất yếu cho mọi thắng lợi sau này.
Những năm cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 dưới ách áp bức và đô hộ của thực dân Pháp đã làm cho nhân dân ta phải sống trong cảnh nước mất nhà tan. Trong hoàn cảnh đó xuất hiện nhiều văn thân, sỹ phu yêu nước đứng lên lãnh đạo quần chúng, giải phóng dân tộc. Tiêu biểu phong trào Cần vương của vua Hàm Nghi, khởi nghĩa nông dân của Hoàng Hoa Thám, Đông du của cụ Phan Bội Châu, Duy tân của cụ Phan Chu Trinh...nhưng tất cả các phong trào đó đều thất bại. Một số học gỉa khi nghiên cứu về các phong trào yêu nước giai đoạn này đều cho đó là những giải pháp cách mạng mang tính ảo tưởng.
Hồ Chí Minh vốn rất khâm phục các bậc tiền bối nhưng người không tán thành con đường cứu nước của họ. Ngay từ đầu năm 1924, trong bản Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ, Người đã đưa ra nhận định về khả năng của một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương. Tuy nhiên, theo Hồ Chí Minh để cuộc khởi nghĩa vũ trang giành thắng lợi tất yếu phải thực hiện bằng con đường bạo lực cách mạng của quần chúng.
Quan điểm đầu tiên trong Tư tưởng Hồ Chí Minh, Người chỉ rất rõ tính tất yếu của bạo lực cách mạng. Các thế lực dùng bạo lực để xâm lược, thống trị, đàn áp dã man các phong trào yêu nước vì thế con đường giành và giữ độc lập chỉ có thể là con đường bạo lực cách mạng. Bạo lực cách mạng được Người xem là sự nghiệp của quần chúng, bao gồm đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang. Tuy nhiên tư tưởng bạo lực cách mạng ở Hồ Chí Minh luôn gắn bó hữu cơ với tư tưởng nhân đạo và hòa bình. Người có một quan niệm hết sức độc đáo, đánh giặc không phải là tiêu diệt địch mà đánh bại ý chí xâm lược của chúng. Với nhãn quan chính trị sắc bén và năng lực tổng kết thực tiễn, Người đã đưa ra các hình thức cụ thể của bạo lực cách mạng. Bạo lực cách mạng bao gồm chiến tranh nhân dân, trong đó quân sự là chủ chốt, cần kết hợp với đấu tranh chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao,...đánh lâu dài, tự lực cánh sinh dựa vào sức mình là chính.
Quán triệt tinh thần đó, Trung ương Đảng đã vận dụng hết sức linh hoạt trong công cuộc kháng chiến chống mỹ cứu nước. Đặc biệt là giai đoạn 1967 – 1973 được xem là giai đoạn có tính chất quyết định cho cuộc tổng tiến công giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn dân tộc Việt Nam đã đoàn kết một lòng, phát huy cao độ sức mạnh chính trị - tinh thần để tiến hành chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, hội tụ được đầy đủ những yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”, trong đó, quan trọng nhất là yếu tố “nhân hòa”, tạo nên sự chuyển hóa cả về thế, thời và lực đủ sức áp đảo và đánh bại kẻ thù xâm lược, giành toàn thắng. Thắng lợi này được xem là thắng lợi của việc vận dụng sáng tạo tư tưởng bạo lực cách mạng trong nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tháng 1-1967, Hội nghị Trung ương lần thứ 13 đã họp và ra nghị quyết nhấn mạnh: "Trong tình hình quốc tế hiện nay, với tính chất đấu tranh giữa ta và địch, đấu tranh ngoại giao giữ một vai trò quan trọng, tích cực và chủ động". Chủ trì hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói rõ ý nghĩa quan trọng của cuộc đấu tranh ngoại giao, đồng thời nhấn mạnh: "Cố nhiên ngoại giao là rất quan trọng nhưng cái vốn chính là mình vừa phải đánh thắng và mình vừa phải có sức mạnh thì ngoại giao sẽ thắng”.
Thực hiện đúng lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh và với phương châm "đánh thắng từng bước, đánh đổ từng bộ phận", Hội nghị vạch rõ nhiệm vụ của ngoại giao lúc này là tố cáo mạnh mẽ hơn nữa tội ác của đế quốc Mỹ, vạch trần những thủ đoạn hòa bình giả dối của họ, tranh thủ các nước anh em, bè bạn và nhân dân yêu chuộng hòa bình và công lý trên thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ. Bước thứ nhất mà ngoại giao cần làm để phối hợp với cuộc đấu tranh chung là đòi Mỹ phải chấm dứt không điều kiện và vĩnh viễn việc ném bom và mọi hành động chiến tranh chống nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Đây là một nhiệm vụ hết sức quan trọng để miền Bắc có thể hoàn thành sứ mệnh là hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn. Thực hiện chỉ thị của Bộ Chính trị, ngày 28-1-1967, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh tuyên bố: Chỉ sau khi Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hoạt động chiến tranh khác chống Việt Nam dân chủ cộng hòa, Việt Nam dân chủ cộng hòa mới có thể nói chuyện với Mỹ. Tuyên bố này đã làm xôn xao dư luận Mỹ và thế giới, tăng thêm sức ép đòi Mỹ chấm dứt ném bom để đi vào đàm phán. Nội bộ giới cầm quyền Mỹ đòi Giôn-xơn phải có một hành động đáp lại. Giôn-xơn đã nhân nhượng. Ngày 29-9-1967 ông ta đưa ra cái gọi là công thức Xan An-tô-ni-ô, rằng: "Hoa Kỳ sẵn sàng ngừng mọi cuộc bắn phá bằng không quân và hải quân chống Bắc Việt Nam khi điều này sẽ dẫn ngay đến các cuộc thảo luận có kết quả. Tất nhiên chúng tôi cho rằng trong khi các cuộc thảo luận diễn ra, Bắc Việt Nam sẽ không lợi dụng việc ngừng hoặc hạn chế ném bom". Tuy công thức này còn mơ hồ vì nó không nói rõ thế nào là "các cuộc thảo luận có kết quả" và thế nào là "việc lợi dụng việc ngừng ném bom" nhưng rõ ràng đây là một bước lùi.
Để thúc đẩy thêm Mỹ xuống thang, ngày 29-12-1967 Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh khẳng định: "Sau khi Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Việt Nam dân chủ cộng hòa sẽ nói chuyện với Mỹ về những vấn đề liên quan". Dư luận thế giới hoan nghênh phản ứng tích cực của ta từ chỗ nói có thể đến nói là sẽ nói chuyện. Tuy nhiên, thái độ của Mỹ vẫn còn nặng về thăm dò chứ chưa chịu đi vào đàm phán. Như vậy, có thể thấy rằng, những chuyển biến trên chiến trường tuy có lợi cho ta nhưng chưa đủ buộc Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán. Nhưng đây cũng chính là sự linh hoạt của Đảng ta khi gắn đấu tranh chính trị với quân sự.
Ngày 28-12-1967 Bộ Chính trị họp, chủ trương mở cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Cuộc tổng tiến công khiến địch bị bất ngờ và đã làm thay đổi hẳn tình hình. Ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ bị giáng một đòn nghiêm trọng. Ngày 31-3-1968, Tổng thống Mỹ Giôn-xơn lên vô tuyến truyền hình tuyên bố đơn phương chấm dứt ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra và đề nghị ta đàm phán.
Đối với ta, nếu nhận đàm phán ngay là quá sớm vì phía Mỹ vẫn chưa đáp ứng điều kiện của ta là phải chấm dứt hoàn toàn và vô điều kiện việc ném bom và các hành động chiến tranh khác, nhưng nếu bác bỏ đề nghị của Giôn-xơn thì không tranh thủ được dư luận Mỹ và thế giới. Do đó, ngày 3-4-1968, Chính phủ Việt Nam ra tuyên bố sẵn sàng cử đại diện của mình tiếp xúc với đại diện của Hoa Kỳ để xác định việc Mỹ chấm dứt hoàn toàn và không điều kiện việc ném bom miền Bắc để có thể bắt đầu cuộc nói chuyện. Tuyên bố của Chính phủ Việt Nam là một đòn tấn công ngoại giao chủ động, đúng lúc, tỏ rõ thiện chí của ta nhưng vẫn giữ vững lập trường nguyên tắc là Mỹ phải chấm dứt ném bom hoàn toàn và vô điều kiện. Tuyên bố đã mở ra cục diện "vừa đánh, vừa đàm" như tinh thần Nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ 13.
Ngày 13-5-1968, phiên họp đầu tiên giữa Việt Nam dân chủ cộng hòa và Hoa Kỳ khai mạc tại Paris. Cuộc đàm phán này diễn ra vừa công khai, vừa bí mật. Công khai để đấu lý nhằm tranh thủ dư luận; bí mật nhằm mặc cả để đi đến thỏa thuận. Do Mỹ không thể bác bỏ lập trường hợp tình, hợp lý của ta, lại bị dư luận thúc ép, nhất là khi bầu cử Tổng thống Mỹ sắp đến, cuối cùng Mỹ chỉ nêu ra một yêu cầu là sau khi chấm dứt ném bom phải "nói chuyện nghiêm chỉnh", tức là có thêm đại diện của chính quyền Sài Gòn và Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam.
Ngày 27-10-1968, hai bên đã thỏa thuận được tất cả các vấn đề và ngày 31-10-1968, Giôn-xơn ra lệnh chấm dứt hoàn toàn việc ném bom miền Bắc. Sự kiện ta buộc Mỹ phải chấm dứt hoàn toàn và không điều kiện việc ném bom và các hành động chiến tranh khác là một thắng lợi ngoại giao lớn góp phần vào việc tăng cường sự chi viện của miền Bắc đối với miền Nam, tạo điều thuận lợi cho cách mạng miền Nam.
Kiên quyết nhưng uyển chuyển bên bàn Hội nghị Paris bốn bên bắt đầu họp trong bối cảnh khá phức tạp. Ở Mỹ, chính quyền Ních-xơn của Đảng Cộng hòa đã thay thế Đảng Dân chủ, chủ trương tiến hành chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" nhằm rút dần quân Mỹ mà vẫn giữ được Ngụy quyền. Do đó, Mỹ chưa vội đi đến thỏa hiệp. Về phía ta, trên chiến trường, đặc biệt là sau Tết Mậu Thân (1968) lực lượng của ta bị tổn thất nặng, bộ đội chủ lực mất chỗ đứng chân, phải chuyển ra ngoài biên giới, thế tiến công yếu đi, phong trào cách mạng ở đồng bằng bị thất thế. Do đó, nhiệm vụ của ngoại giao lúc này là vừa phải đấu tranh vạch trần luận điệu hòa bình giả dối của địch, vừa phải liên tục đưa ra những đề nghị mới nhằm duy trì cục diện "vừa đánh, vừa đàm" để hỗ trợ cho chiến trường.
Bắt đầu từ tháng 2-1970, ta và Mỹ mở diễn đàn mới là các cuộc họp bí mật giữa đồng chí Lê Đức Thọ và Bộ trưởng Xuân Thủy với Hen-ri Kít-xinh-giơ - cố vấn an ninh của Tổng thống Mỹ. Đây là một đặc điểm của Hội nghị Paris về Việt Nam. Vừa họp 4 bên, vừa họp 2 bên. Họp 4 bên là công khai để tố cáo, thăm dò lẫn nhau. Họp 2 bên chỉ giữa Việt Nam dân chủ cộng hòa với Hoa Kỳ là bí mật nhằm thương thảo các vấn đề thực chất làm nội dung cơ bản cho việc đi đến hiệp định.
Một là, các lĩnh vực Hiệp định cần giải quyết. Lúc đầu, phía Mỹ chủ trương chỉ giải quyết vấn đề quân sự. Ta đã bác bỏ kế hoạch này. Kế hoạch của ta là giải quyết cả vấn đề quân sự và vấn đề chính trị tức là chấm dứt chiến tranh, Mỹ rút quân, đồng thời thiết lập ở miền Nam một chính phủ hòa bình, độc lập, dân chủ, trung lập và Nguyễn Văn Thiệu phải từ chức.
Hai là, vấn đề rút quân Mỹ. Kế hoạch của ta là dù đánh hay đàm đều phải đạt cho được việc Mỹ rút quân. Lúc đầu Kít-xinh-giơ nêu nguyên tắc có đi có lại, tức là Mỹ rút thì quân đội Bắc Việt Nam cũng phải rút. Lập trường của ta là "bất cứ người Việt Nam nào cũng có quyền chiến đấu chống quân xâm lược trên lãnh thổ Việt Nam". Sau ta nêu công thức để ghi vào Hiệp định là "vấn đề các lực lượng vũ trang ở miền Nam Việt Nam sẽ do các bên ở miền Nam Việt Nam bàn bạc giải quyết". Hoa Kỳ một mặt yêu cầu rút quân Mỹ theo chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh, mặt khác trên thực tế không thể đòi quân miền Bắc rút được và phải chống đỡ với sức ép của dư luận. Mỹ quay sang chiến thuật rút quân nhỏ giọt và không đề ra thời hạn để rút hết quân Mỹ. Ta tấn công thêm bằng việc gắn vấn đề thả tù binh Mỹ (việc thả tù binh Mỹ sẽ kết thúc cùng ngày với việc rút hết quân Mỹ). Sức ép của dư luận Mỹ đối với Ních-xơn tiếp tục tăng lên cho đến khi có giải pháp toàn bộ về vấn đề Việt Nam.
Ba là, vấn đề chính quyền ở miền Nam Việt Nam. Kế hoạch của Mỹ là làm sao rút được quân Mỹ nhưng đồng thời vẫn giữ được chính quyền Thiệu trong một "thời gian vừa phải". Nắm được ý đồ đó của Mỹ, trong dự thảo Hiệp định ngày 8-10-1972, để thúc đẩy nhanh Mỹ rút quân và đi đến ký kết Hiệp định, ta đồng ý duy trì ở miền Nam Việt Nam chính quyền Sài Gòn trong một thời gian để cùng Chính phủ cách mạng lâm thời thành lập một "cơ cấu chính quyền" có tên là "Hội đồng tối cao hòa hợp dân tộc" có nhiệm vụ "đôn đốc" và giám sát việc thi hành Hiệp định. Phía Mỹ không đồng ý từ "cơ cấu chính quyền" và từ "đôn đốc". Cuối cùng ta đồng ý bỏ từ "cơ cấu chính quyền" và thay vào đó thành lập ngay Hội đồng hòa giải và hòa hợp hợp dân tộc.
Bốn là, vấn đề tù dân sự. Trong đàm phán, đồng chí Lê Đức Thọ nói rõ là phía Việt Nam sẽ trao trả hết tù binh Mỹ và tù binh Sài Gòn. Kít-xinh-giơ lại tách vấn đề tù binh và vấn đề tù dân sự. Âm mưu của Mỹ và chính quyền Sài Gòn là không muốn trao trả hết cán bộ của ta còn bị giam giữ. Ta kiên quyết chống lại âm mưu này. Sau nhiều phiên đấu tranh căng thẳng, cuối cùng Mỹ phải cam kết dùng ảnh hưởng tối đa của mình để thúc đẩy việc trao trả tất cả những người bị giam giữ trong vòng 60 ngày sau khi Hiệp định được ký kết.
Năm là, vấn đề khu phi quân sự. Ta và Mỹ đều muốn duy trì khu phi quân sự. Ta chỉ muốn khu phi quân sự là giới tuyến tạm thời. Còn Mỹ muốn duy trì khu phi quân sự làm giới tuyến không cho quân đội miền Bắc thâm nhập vào miền Nam.
Sáu là, việc Mỹ đóng góp hàn gắn vết thương chiến tranh. Phía Mỹ không đồng ý có một nghị định thư về vấn đề này và nói sẽ nêu vấn đề này trong một công hàm riêng của Tổng thống Ních-xơn gửi Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Trong dự thảo công hàm, lúc đầu Ních-xơn ghi số tiền đóng góp là 3 tỉ USD, ta đấu tranh là 4,5 tỉ USD. Thực tế công hàm chính thức ghi 3,25 tỷ USD, Hiệp định Paris được ký kết.
Hiệp định Paris được ký kết là thành quả của sự đấu tranh quyết liệt trên mặt trận ngoại giao, đồng thời những chiến thắng về quấn sự là yếu tố không thể thiếu góp phần đi đến đàm phán nhanh hơn. Tiếp theo những thắng lợi trong các mùa khô (1969 - 1970 và 1970 - 1971), trên chiến trường, ta mở cuộc tiến công chiến lược 1972 trên ba hướng: Trị Thiên, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ với hướng chủ yếu là Đường 9 - Trị Thiên, khiến Mỹ - Ngụy hoàn toàn bất ngờ, bị sụp đổ từng mảng, suy yếu nghiêm trọng. Đặc biệt, lần đầu tiên ta giải phóng một tỉnh là Quảng Trị, một thị trấn là Lộc Ninh, đã đập tan ảo tưởng của Mỹ vào chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”.
Sau 12 ngày thảo luận, ngày 20-10-1972, phía Mỹ đã cùng ta thỏa thuận được một Hiệp định trên cơ sở dự thảo Hiệp định của ta đưa cho Mỹ.
Chủ trương của ta trong đàm phán là giữ vững những vấn đề nguyên tắc và nội dung đã đạt được trong thỏa thuận 20-10-1972, đòi Mỹ không được sửa đổi. Từ lâu Mỹ đã dùng chiêu bài "thể thức" hoặc "trao đổi" với Sài Gòn để kéo dài đàm phán. Phía Mỹ cho rằng sau bầu cử Tổng thống, Ních-xơn ở thế mạnh nên tìm cách sửa đổi nội dung Hiệp định, lật ngược lại toàn bộ những vấn đề về thực chất, đặc biệt Mỹ nêu lại những yêu sách đòi rút quân miền Bắc, đòi hủy điều khoản về "hai chính quyền, hai quân đội... ở miền Nam Việt Nam". Đồng thời, Mỹ dùng thủ đoạn đe dọa với ý đồ phá đàm phán. Do quan điểm hai bên còn xa nhau nên đã thỏa thuận ngừng các cuộc họp chính thức. Ngày 18-12-1972, Mỹ bắt đầu cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B52 trong suốt 12 ngày đêm xuống Thủ đô Hà Nội, Hải Phòng và thành phố khác. Sau khi bị thất bại trong cuộc tập kích này, ngày 27-12-1972 Mỹ gửi công hàm đề nghị gặp chuyên viên hai bên vào ngày 2-1-1973 và gặp chính thức vào ngày 8-1-1973 trên cơ sở các thỏa thuận đã đạt được ngày 20-10-1972 và những bổ sung sau đó. Đợt đàm phán chính thức này cũng là đợt đàm phán cuối cùng kéo dài 15 ngày. Ngày 23-1-1973, hai bên đạt được thỏa thuận và ký tắt Hiệp định. Ngày 27-1-1973 Hiệp định Paris về Việt Nam đã được bộ trưởng 4 bên ký chính thức.
Đi đôi với việc đấu tranh đòi Mỹ thực hiện Hiệp định, ta đã nỗ lực tranh thủ sự ủng hộ và cảm tình của nhân dân thế giới, tranh thủ sự chi viện của bạn bè và mở rộng quan hệ ngoại giao với tất cả các nước để tạo nên một sự hậu thuẫn vững chắc. Chỉ trong thời gian ngắn chúng ta đã được hơn 30 nước thừa nhận, đặc biệt là trở thành thành viên chính thức của phong trào không liên kết. Chúng ta có thể tự hào về vai trò là một mặt trận quan trọng trong ba mặt trận: quân sự, chính trị và ngoại giao, đã thực hiện tốt tư tưởng bạo lực cách mạng của Bác trong cuộc cách mạng của toàn dân ta nhằm đưa giang sơn về một mối, cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Chiến tranh đã đi qua 35 năm nhưng những bài học xương máu của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vẫn còn nguyên giá trị. Đó chính là bài học của việc sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng trên bàn ngoại giao. Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, chính sách đối ngoại đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, ngoại giao đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu giữ vững an ninh, phục vụ phát triển kinh tế và nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế. Những thành tựu mà ngoại giao Việt Nam gặt hái được trong những năm qua là nhờ kết hợp được sức mạnh của dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp to lớn của đất nước. Bằng sự kết hợp chặt chẽ giữa phát huy sức mạnh của cả dân tộc với tranh thủ sự ủng hộ to lớn về vật chất và tinh thần của các lực lượng cách mạng và nhân loại tiến bộ khắp năm châu, chúng ta đã góp phần làm nên thắng lợi vĩ đại và hào hùng của dân tộc trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb.Chính trị quốc gia, H. 2009
2. Tạp chí Cộng sản
3. Tạp chí Xây dựng Đảng
3. Lịch sử Việt Nam qua các thời kỳ
4. Một số chuyên đề về Tư tưởng Hồ Chí Minh
TINH THẦN ĐOÀN KẾT CỦA QUÂN VÀ
DÂN TA TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC
DÂN TA TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC
Hoàng Thị Tuyết Thanh
Bộ môn Những nguyên lý…
Bộ môn Những nguyên lý…
Trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo là một trong những cuộc kháng chiến kéo dài nhất, oanh liệt nhất và đã chiến thắng vẻ vang, trọn vẹn. Đại thắng mùa Xuân 1975 là bước phát triển ở quy mô cao nhất của toàn bộ tiến trình cách mạng ở miền Nam và của cuộc kháng chiến. Toàn thắng 30 tháng 4 năm 1975 là kết quả của cả chặng đường dài chiến đấu đầy gian khổ, hy sinh của mọi người Việt Nam yêu nước; của khối đại đoàn kết 54 dân tộc trên toàn cõi Việt Nam dưới ngọn cờ lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đứng trước những khó khăn thử thách, tinh thần đoàn kết của quân và dân ta được phát huy cao độ.
Trong Đảng, đoàn kết thống nhất từ Trung ương đến cơ sở. Sự đoàn kết thống nhất trong Đảng đã tạo nên sức mạnh lãnh đạo cách mạng, nâng cao lòng tin của toàn dân với Đảng và trở thành động lực xây dựng khối đoàn kết toàn dân. Đoàn kết thống nhất là một yêu cầu tất yếu, một thuộc tính có tầm quan trọng đặc biệt của Đảng, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối cách mạng Việt Nam. Từ ý nghĩa quan trọng của vấn đề nên suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, trên cương vị lãnh đạo Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vấn đề đoàn kết thống nhất trong Đảng. Trước khi đi xa, Người căn dặn: “các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.
Nhân dân ta đoàn kết trong chiến đấu, lao động sản xuất, khắc phục khó khăn, thiếu thốn, thống nhất về chính trị, về nhận thức và hành động, trên cơ sở tình cảm giai cấp, tình đồng chí, nghĩa đồng bào. Sức mạnh ấy đã thể hiện rõ trong cuộc đại cách mạng mùa thu tháng Tám năm 1945 và trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của dân tộc ta. Chúng ta thắng là nhờ vào tinh thần đoàn kết quân dân một lòng, cả dân tộc là một chiến hào.
Điểm nổi bật về sự đoàn kết thống nhất là tình đoàn kết Bắc - Nam. Mỹ - Nguỵ tìm trăm phương ngàn kế chia rẽ Bắc - Nam hòng cô lập cách mạng miền Nam, nhưng Bắc - Nam luôn là một nhà, là anh em ruột thịt. Cả miền Bắc ngày đêm hướng về miền Nam, dốc hết sức người, sức của cho cách mạng miền Nam với khẩu hiệu: “Tất cả cho tiền tuyến; Gạo không thiếu một cân; Quân không thiếu một người; Tất cả cho chiến thắng” được coi là lẽ sống còn của mỗi người dân Việt Nam. Cả miền Nam hướng về miền Bắc và Thủ đô Hà Nội với niềm tin lớn lao, chỗ dựa vững chắc cả về vật chất và tinh thần.
Trong suốt chặng đường chiến đấu, xây dựng, trưởng thành, tinh thần đoàn kết quân dân luôn được phát huy. Quân đội nhân dân Việt Nam đã tỏ rõ bản chất của một quân đội “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu”. Trong các mối quan hệ xã hội thì quan hệ quân - dân là một trong những mối quan hệ gần gũi, tốt đẹp nhất. Quân đội ta được nhân dân đùm bọc, chở che, nhờ vậy mà “nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Sự đoàn kết thống nhất giữa nhân dân với quân đội được tăng cường. Nhân dân sẵn sàng giúp đỡ bộ đội. Bộ đội chiến đấu quên mình vì dân tạo nên sự gắn bó máu thịt với nhân dân. Sự đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã trở thành nhân tố quan trọng, sức mạnh to lớn, góp phần đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược.
Sức mạnh của lòng yêu nước, của tinh thần đoàn kết, của “trào lưu nhân dân được thúc đẩy cao” mà thực chất, đấy là khối đại đoàn kết toàn dân tộc được Ðảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu xây dựng, củng cố theo một đường lối đúng đắn vì độc lập - tự do của Tổ quốc Việt Nam. Giữa những ngày chống Mỹ đầy gian lao, thử thách, Chủ tịch Hồ Chí Minh vững tin vào thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Bởi theo Người, “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước”. “Từ xưa tới nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. “Làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn” ấy, thực chất là sức mạnh của lòng yêu nước, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Sức mạnh ấy là nền tảng vững bền bảo đảm cho dân tộc ta vượt qua bao nhiêu gian nan, thử thách trên dặm dài lịch sử - một lịch sử lắm gian truân, nhọc nhằn nhưng cũng đầy chiến công hiển hách. Sức mạnh ấy đã làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 với sự khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sau ngót 80 năm dưới ách đô hộ của đế quốc, thực dân, từ đây, “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Ý chí, quyết tâm đó của mọi người Việt Nam yêu nước, của toàn thể dân tộc Việt Nam đã được thể hiện rực rỡ trong chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954) và 21 năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược (1954 - 1975).
Nhìn lại chặng đường đi đến chiến thắng lịch sử 30-4-1975, càng thấm thía và tự hào về sức mạnh toàn dân tộc đoàn kết một lòng, dốc sức đánh giặc vì sự toàn vẹn của non sông, vì khát vọng về nền thái bình bền vững của một nước Việt Nam độc lập, tự do, giàu mạnh. Ðoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh to lớn và tiềm tàng của khối đại đoàn kết đó là truyền thống tốt đẹp, là nhân tố lớn góp phần làm nên ngày toàn thắng 30-4-1975 vẻ vang. Bài học phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc vẫn còn nguyên giá trị trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hôm nay. Đảng và Nhà nước ta đã luôn coi “Đoàn kết dân tộc... là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945-1975 - Thắng lợi và bài học. Nxb. CTQG, Hà Nội 2000, tr.601.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 1996, tập 12
3. Văn kiện Đại hội X của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2006
TRẬN “ĐIỆN BIÊN PHỦ TRÊN KHÔNG”
VÀ Ý NGHĨA THẮNG LỢI CỦA NÓ
VÀ Ý NGHĨA THẮNG LỢI CỦA NÓ
ThS-GVC-Phạm Quang Huy
Bộ môn Những nguyên lý cơ bản…
Bộ môn Những nguyên lý cơ bản…
Mê Lê La – một nhà thơ nổi tiếng người Hy Lạp đã có những vần thơ rất hay về Việt Nam như sau:
"Ôi! Việt Nam, đất nước của những căn nhà nhỏ.
Của những con người mà tầm vóc không cao.
Nhưng chiến công của họ
Thật vô cùng hiển hách lớn lao”
Của những con người mà tầm vóc không cao.
Nhưng chiến công của họ
Thật vô cùng hiển hách lớn lao”
Những vần thơ trên cho thấy rằng: Việt Nam, một đất nước nhỏ bé, đất không rộng lắm, người không đông lắm, kinh tế lạc hậu nhưng vẫn chiến thắng được những đội quân xâm lược hùng mạnh nhất, lập nên những chiến công hiển hách chấn động cả thế giới. Một trong những chiến công đó là trận “Điện Biên Phủ trên không” trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta. Cụm từ “Điện Biên Phủ trên không” là do báo chí phương tây lúc bấy giờ dùng để mô tả thất bại thảm hại cuộc tấn công chiến lược của Mỹ vào miền Bắc Việt Nam.
Vì sao Mỹ tiến hành cuộc tấn công chiến lược của Mỹ vào miền Bắc Việt Nam vào tháng 12 năm 1972?
- Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968, đã làm rung chuyển Nhà Trắng và Lầu Năm Góc, cùng với thất bại nặng nề trong cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất đã làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh, ngừng ném bom miền Bắc và chấp nhận cùng ta ngồi vào bàn thương lượng ở Paris. Giôn-xơn đã phải tuyên bố không ra tranh cử tổng thống Hoa Kỳ trong nhiệm kỳ sau đó.
- Sang năm 1971, chiến thắng oanh liệt Đường 9 - Nam Lào, tiếp theo là chiến thắng to lớn của cuộc tiến công chiến lược trên toàn miền Nam năm 1972 đã giáng những đòn nặng vào chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của Tổng thống Mỹ Ních-Xơn, dẫn nó đến nguy cơ sụp đổ hoàn toàn.
Thất bại trên chiến trường đã buộc Mỹ phải thỏa thuận với ta về việc ký kết một hiệp định chấm dứt chiến tranh vào tháng 10 năm 1972. Nhưng rồi Mỹ nuốt lời hứa, không chịu ký kết như đã thỏa thuận. Vừa để khỏi bị mang tiếng là bỏ rơi "đồng minh”, vừa để gây sức ép tối đa buộc phía ta phải chấp nhận những điều kiện của Mỹ, một âm mưu đã hình thành trong bộ óc của Tổng thống Mỹ Ních-xơn: Đưa B52 ném bom Hà Nội, Hải Phòng, dùng sức mạnh hủy diệt của B52 làm áp lực để buộc Hà Nội phải quỳ gối. Ngày 14-12-1972, Tổng thống Nixon phê chuẩn kế hoạch tập kích bằng không quân chiến lược vào Hà Nội, Hải Phòng và một số địa phương khác. Cuộc tấn công này diễn ra từ ngày 18-12 đến ngày 29-12-1972. Trong cuộc tấn công này, lực lượng của hai bên quá chênh lệch.
Lực lượng quân sự được Mỹ huy động vào cuộc tấn công này gồm có:
- Gần một nửa số máy bay chiến lược B52 của toàn nước Mỹ (193 trên tổng số 400 chiếc). Thực tế xuất kích: 663 lần chiếc.
- Gần một phần ba số máy bay chiến thuật của toàn nước Mỹ (1.077 trên tổng số 3.041 chiếc). Thực tế xuất kích: 3.920 lần chiếc.
- Một phần tư số tàu sân bay của toàn nước Mỹ (6 trên tổng số 24 chiếc), cùng nhiều tàu chỉ huy - dẫn dường, tàu khu trục, tàu tên lửa, tàu ra-da, tàu bảo vệ, tàu cấp cứu, tàu sửa chữa. . . của Hạm đội 7 ở Thái Bình Dương.
Đó là chưa kể 50 máy bay tiếp dầu trên không và một số lượng lớn những máy bay phục vụ khác như: máy bay gây nhiễu điện tử từ xa, máy bay trinh sát, máy bay chỉ huy, dẫn đường, liên lạc, cấp cứu... Chỉ tính riêng không quân chiến thuật đã bằng tổng lực lượng của hai nước mạnh nhất châu Âu hồi đó gộp lại (Anh Quốc: 600 chiếc, Tây Đức: 500 chiếc). Số máy bay chiến lược, chiến thuật được Mỹ đưa vào cuộc tập kích lần này đều là những thứ vũ khí vào loại hiện đại bậc nhất thời ấy. Đặc biệt là máy bay chiến lược B52:
- B52 là loại pháo đài bay khổng lố, có uy lực rất lớn. Thân hình nó cao hơn 12 mét, dài hơn 49 mét, sải cánh hơn 56 mét, nặng trên 200 tấn.
- B52 có 8 động cơ phản lực, nhờ vậy có thể mang được hơn 100 quả bom với tổng trọng lượng xấp xỉ 30 tấn, nghĩa là gấp khoảng 10 lần một máy bay cường kích F4 (Chú thích: Một chiếc B52D mang 84 quả bom trong khoang bụng và 24 quả đeo dưới cánh: với tổng trọng lượng 27 tấn.) .
- B52 có tầm bay cao tới 20 ki-lô-mét, ném bom ở độ cao 17 ki-lô-mét, hiệu quả nhất là từ 9 đến 11 ki-lô-mét. Nó có thể bay xa nhiều ngàn ki-lô-mét không phải tiếp dầu. B52 lại còn được máy bay tiêm kích bảo vệ rất chặt chẽ. Mỗi khi đi ném bom, B52 bay tối thiểu một tốp (3 chiếc), trung bình sáu tốp (18 chiếc), cao nhất có thể lên tới 31 hoặc 33 tốp (93 đến 105 chiếc). Đi kèm B52 là một lực lượng rất đông máy bay F4 hộ tống, trước, sau và hai bên sườn, cách B52 từ 18 đến 20 ki-lô-mét, tạo thành một "hàng rào không thể chọc thủng", chặn đứng mọi sự tiến công của máy bay MIG của lực lượng không quân nhân dân Việt Nam, để bảo vệ cho đội hình B52 an toàn khi bay vào, cũng như khi bay thoát khỏi vùng trời đối phương.
- Để khống chế từ đầu hoạt động của không quân ta, những máy bay "cánh cụp cánh xòe" F111 được giao nhiệm vụ đến trước B52, bay thật thấp để tránh ra-đa phát hiện rồi bất ngờ lao vào ném bom các sân bay. Trong quá trình chiến dịch tập kích, cả ngày lẫn đêm, nhiều tốp máy bay chiến thuật của Mỹ gồm F111, F105, F4, A6, được phân công chế áp các trận địa ra-đa, cao xạ và tên lửa, bằng bom và bằng hỏa tiễn (cũng tức là tên lửa) không đối đất rất quyết liệt, nhằm triệt tiêu hỏa lực phòng không của ta, đồng thời tiếp tục đánh phá các sân bay, nhất là các đường băng cất, hạ cánh.
- Khi vào đánh miền Bắc nước ta, B52 hoàn toàn bay đêm để loại trừ mọi khả năng quan sát bằng những ống kính nhìn xa của các đài quan sát dưới đất, của các trận địa pháo tầm cao và khả năng nhìn trực tiếp của các phi công MIG.
Tuy nhiên, sức mạnh của không quân chiến lược Mỹ trong đợt tập kích này không chỉ ở tính chất ồ ạt của cuộc hành binh với số lượng lớn máy bay B52, máy bay tiêm kích, cường kích được đưa vào sử dụng, cùng với khối lượng bom đồ sộ và với thủ đoạn lợi dụng màn đêm, mà còn ở - đây là điều chủ yếu nhất - hệ thống gây nhiễu điện tử cực mạnh (trong cùng một lúc, tác động lên mọi dải tần số của ra-đa đối phương, khiến cho ra-đa đối phương hoàn toàn mất mục tiêu), tạo thành cái "áo giáp điện tử" vững chắc, một "tấm màn điện tử" che giấu toàn bộ lực lượng tiến công, biến mỗi chiếc B52 thành một "máy bay tàng hình" đúng nghĩa, trước mắt các chiến sĩ phòng không của ta.
Điều làm cho ta gặp khó khăn nhiều nhất chính là ở đó. Viên tướng Giôn Mai-ơ (John C.Mayer), Tư lệnh Không quân chiến lược Mỹ đã từng nói: "Chúng ta coi chiến tranh điện tử là con đường sống còn của không lực Hoa Kỳ". Chính vì vậy, nhiễu điện tử đã trở thành thủ đoạn chủ yếu nhất trong chiến dịch 12 ngày đêm.
Trong trận "không tập đại qui mô" này, khối lượng khổng lồ về máy bay và bom đạn, của hai căn cứ cách xa nhau hàng ngàn cây số, cùng với tính năng siêu việt của các phương tiện điện tử, đã được bộ máy chiến tranh Mỹ tổ chức và điều hành một cách hết sức chặt chẽ, chính xác theo một chương trình vạch sẵn, biến tất cả các yếu tố tổng hợp ấy trở thành một lực lượng tiến công mạnh mẽ chưa từng thấy. Họ tin tưởng một cách chắc chắn rằng cuộc "hành binh Lai-nơ-bếch-cơ II" nhất định thắng.
Lực lượng của ta:
- 3 sư đoàn phòng không: F.361, F.363, F.375.
- 23 tiểu đoàn tên lửa.
- 13 trung đoàn cao xạ.
- 4 trung đoàn không quân.
- 4 trung đoàn ra-đa; ba trung đoàn, hai tiểu đoàn phòng không của các quân khu: Việt Bắc, Hữu Ngạn, Tả Ngạn.
- Ngoài ra còn có 346 đội (1.428 khẩu pháo) phòng không của dân quân, tự vệ.
Về chất lượng vũ khí, tuy chúng ta đã có rađa п35, máy bay MIG 21, tên lửa SAM 2, pháo cao xạ 57 và 100 ly được điều khiển bằng máy chỉ huy K6-60, K6-19 và rađa COH9, là những thứ khá hiện đại do Liên Xô giúp, nhưng chưa phải là hiện đại nhất. Trong lúc đó phía Mỹ đã tung ra phần lớn những gì hiện đại và tối tân nhất của họ.
Như vậy, lực lượng của 2 bên quá chênh lệch với ưu thế nghiêng hẳn về phía lực lượng quân sự Hoa Kỳ. Qua 12 ngày đêm chiến đấu kiên cường (từ 18 đến 30-12-1972) quân và dân ta đã đánh bại cuộc tập kích chiến lược bằng không quân của Mỹ, bắn rơi 81 máy bay các loại, trong đó có 34 máy bay B52.
Nguyên nhân của sự thắng lợi:
- Sự lãnh đạo sáng suốt của Trung ương Đảng, Chính phủ; tài thao lược của Quân ủy Trung ương; thực hiện ý kiến chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh; chúng ta đã có sự chuẩn bị trước cho trận đánh này, tập trung lực lượng mạnh nhất có thể có cho trận chiến này.
- Cách đánh sáng tạo và hiệu quả của bộ đội rađa, tên lửa, phòng không...
Ý nghĩa thắng lợi của trận đánh:
- Thắng lợi của trận "Điện Biên Phủ trên không" đã góp phần buộc đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định Paris, rút quân khỏi miền Nam Việt Nam. Việc "quân đội Mỹ rút hết" đã đưa đến cho nhân dân ta một thuận lợi cực kỳ to lớn. Quân đội Mỹ buộc phải rút hết thực sự là việc chấm dứt hoàn toàn trên lãnh thổ miền Nam Việt Nam sự có mặt của một đội quân khét tiếng tàn bạo của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, đông hàng chục vạn tên, mà lúc cao nhất lên tới 536.000 tên (1968), chưa kể 69.000 quân nhân các nước phụ thuộc, với các sư đoàn bộ binh, kỵ binh bay, thủy quân lục chiến Mỹ và các sư đoàn, trung đoàn mang tên Mãnh Hổ, Rồng Xanh, Ngựa Trắng, Báo Đen, Hổ Mang. . . của Đại Hàn và Vương quốc Thái Lan với hình ảnh những đoàn xe tăng, xe bọc thép, những đàn máy bay trực thăng vũ trang, như những bầy dã thú điên loạn, ào ạt tràn vào các làng mạc miền Nam, thả sức càn quét, tàn phá, giết chóc. Khi những đội quân này rút hết thì sẽ bớt đi được nhiều khó khăn gian khổ cho cách mạng Việt Nam. Sự kiện quân đội Mỹ và chư hầu rút hết còn Quân chủ lực của miền Bắc vẫn ở lại miền Nam như Hiệp định Paris quy định, đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của cách mạng Việt Nam, dẫn tới kết quả tất yếu miền Nam được giải phóng vào mùa xuân năm 1975. Nhân dân ta đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và hoàn thành vẻ vang sự nghiệp giải phóng dân tộc kéo dài 30 năm.
- Bằng những "chiến công hiển hách lớn lao", trong đó có chiến thắng "Điện Biên Phủ trên không”, nhân dân ta đã cho thấy một quốc gia nhỏ bé, kinh tế lạc hậu hoàn toàn có thể chiến thắng những đội quân xâm lược hùng hậu với vũ khí hiện đại nhất, qua đó giúp cho các dân tộc bị áp bức ngẩng cao đầu, cho các nước nhỏ yếu đang tiến hành những cuộc chiến tranh tự vệ, chiến tranh giải phóng củng cố thêm niềm tin vào thắng lợi của mình, góp phần cống hiến rất quan trọng vào sự đi lên của quá trình cách mạng thế giới. Trong cuốn sách "Không còn những Việt Nam nữa" cựu Tổng thống Mỹ Ních-xơn đã viết: "Trong lịch sử nhân loại chưa hề có một quốc gia nào chiếm ưu thế hơn hẳn về vũ khí như Hoa Kỳ so với Bắc Việt Nam. Hoa Kỳ, một cường quốc hạt nhân, có 180 triệu dân, với GDP hơn 500 tỉ đô la và một quân đội đông hơn 1 triệu người, chống lại một nước nhỏ bé 16 triệu dân, GDP không đến 2 tỉ đô la, với một đội quân chỉ có khoảng 25 vạn người... Đỉnh cao của cuộc leo thang chiến tranh ở Việt Nam là đợt chúng ta đưa B52 ném bom Hà Nội, Hải Phòng vào dịp lễ Nô-en năm 1972. Nhưng chúng ta đã thất bại và buộc phải ký Hiệp định Paris... Thất bại ở Việt Nam là thảm họa lớn đối với nước Mỹ. Từ nay không còn ai muốn có những Việt Nam nữa". ông Kôn-dơ, cựu Thủ tướng Ô-xtrơ-rây-lia khẳng định: "Nhân dân Việt Nam đã đấu tranh không chỉ cho riêng họ, mà còn cho cả thế giới. Thắng lợi của người Việt Nam là thắng lợi của lý tưởng cao đẹp nhất của thời đại ngày nay!". Phóng viên Mỹ Rai-bâu nhận xét, trong tờ "Tin nhanh": "Xưa nay chưa từng có một dân tộc nào nhỏ như vậy lại có một trọng lượng lớn như vậy đối với lịch sử".
"Điện Biên Phủ trên không", trận quyết chiến chiến lược vĩ đại đã đi vào lịch sử dân tộc như những Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa, Điện Biên Phủ, chiến dịch Hồ Chí Minh bất diệt. Nó để lại cho đời sau những bài học vô giá về ý chí tự cường và tinh thần sáng tạo không ngừng để giành chiến thắng. "Điện Biên Phủ trên không", chiến thắng của ý chí và trí tuệ Việt Nam, sẽ vĩnh viễn tồn tại như một mốc son sáng chói mãi ngàn năm sau.”
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoài Hương: Thảm bại của pháo đài bay, http://vietnamnet.vn, cập nhật lúc 13h29’ ngày 18-12-2007.
2. Lưu Trọng Lân: Điện Biên Phủ trên không-Chiến thắng của ý chí và trí tuệ Việt Nam, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, 2002.
3. Tấn Tú: Oai hùng không quân Việt Nam,www.thanhnien.com.vn, cập nhật lúc 14h35’ ngày 21-12-2009.
4. Trần Việt Anh: Trận Điện Biên Phủ trên không, www.cpv.org.vncập nhật lúc 9h20’ ngày 14-12-2004.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét