TÍNH CHẤT MỞ RỘNG LÃNH THỔ
DƯỚI THỜI HẬU LÊ
GS.TS. Song Jung Nam *
Trường Đại học Ngoại ngữ Hàn Quốc - Bài viết cho Hội thảo Việt Nam học lần 3 (2008)
I. MỞ ĐẦU
Việc mở rộng lãnh thổ
của Việt Nam được tiến hành
chủ yếu về phía Nam
bởi hai nguyên nhân chính là dùng triết lý sức mạnh và do yếu tố địa chính học.
Nguyên nhân thứ nhất cụ thể là sự hùng mạnh của Trung Quốc, nguyên nhân thứ hai
là dãy Trường Sơn.
Với mục đích chính trị
– kinh tế, khi tiến hành quá trình mở mang lãnh thổ và tăng cường sức mạnh của
mình, Việt Nam
đã không thể tiến lên phía Bắc vì có Trung Quốc mạnh hơn mình. Vô hình trung,
Việt Nam không còn cách nào khác là phải chống lại quá trình mở mang lãnh thổ
về phía Nam của Trung Quốc và kết quả là Việt Nam đã phải trải qua một quá
trình lịch sử đấu tranh lâu dài.
Mặt khác, Việt Nam cũng đã mấy
lần thử tiến về phía Tây là nước Lào với mục đích và nguyên nhân như đã nêu
trên nhưng giữa hai nước có dãy núi dài hiểm trở nên không được như mong muốn.
Kết quả là Việt Nam
và Lào tiếp tục duy trì mối quan hệ hữu nghị truyền thống bất chấp quy luật lịch
sử “giữa các nước láng giềng không có quan hệ tốt”.
Dù thế, trong lịch sử,
quan hệ giữa hai nước Việt Nam
và Lào không hẳn đều tốt đẹp. Dưới triều đại Hậu Lê hay triều đại nhà Nguyễn,
Việt Nam
đã hợp nhất một phần lãnh thổ ở phía Đông Bắc Lào với vùng biên giới của mình.
Tuy nhiên, mức độ và số lần căng thẳng về chính trị không nhiều và sâu sắc, đất
chiếm lĩnh thì chưa được khai thác, dân số của Lào ít nên sau khi chiếm lĩnh
được cũng không đủ lực lượng lao động tại chỗ để khai thác. Hơn nữa, có nhiều lý
do nên không thu hút được dân nước mình khai thác vùng đất đó nên việc tiến
sang Lào của Việt Nam
không dễ dàng. Tương tự, triều Nguyễn đã lấy đất của Lào và nhập vào lãnh thổ
của mình 6 trấn là Trấn Man, Trấn Biên, Trấn Ninh, Trấn Tĩnh, Trấn Định, Lạc Biên
và rồi trả lại cho Lào khi Pháp tiến vào 2.
Vì khó tiến lên phía
Tây Bắc nên Việt Nam tiến về
phía Nam
là một kết quả tất yếu. Ở đây, so với các nước ở phía Nam, Việt Nam chiếm ưu
thế về sức mạnh, so với phía Tây Bắc thì không tồn tại trở ngại nào, sau khi
chiếm lĩnh có thể khai thác mở rộng bằng lực lượng lao động phong phú tại chỗ.
Không những thế, về mặt địa lý, phía Nam nối liền với đường biển rất
thuận tiện nên dễ tiến hơn đường bộ. Việc chinh phục được Champa hiếu chiến là
đỉnh cao của vị thế và sự phát triển của Việt Nam .
Cũng như lịch sử
trường kỳ của Việt Nam ,
việc mở rộng lãnh thổ mất thời gian dài. Trong thời gian đó, việc mở rộng lãnh
thổ bắt đầu từ triều nhà Lý. Bài nghiên cứu này xem xét việc mở rộng lãnh thổ
về phía Nam của triều đại
hậu Lê, thời kỳ mà công cuộc mở mang lãnh thổ được tiến hành sâu rộng và mạnh
mẽ nhất trong lịch sử Việt Nam .
Nhà Lý là triều đại
tồn tại lâu nhất trong lịch sử Việt Nam , ngoại trừ 100 năm hưng thịnh,
còn lại đều là thời kỳ bất ổn. Việc mở rộng lãnh thổ dưới triều đại Lý được
hoàn thành trong 260 năm, thời kỳ bất ổn định bởi Trịnh – Nguyễn phân tranh,
tức là thời kỳ đối lập và phân chia Nam Bắc.
Tài liệu tham khảo của
bài nghiên cứu này là Đất nước Việt Nam qua các đời của Đào Duy Anh, Việt
Nam quốc hiệu và cương vực qua các thời đại của Nguyễn Đình Đầu, Khảo
sát chế độ đất đai và mở rộng lãnh thổ phía Nam Việt Nam và Quốc hiệu và
lãnh thổ của Việt Nam của Song Jung Nam 3.
Khác với các bài
nghiên cứu trước, bài nghiên cứu này mang tính phức hợp và xem xét đến các vấn
đề lịch sử trong giới hạn một thời đại và một chủ đề, đồng thời có mục đích
phân tích tính chất thời đại trong việc mở rộng lãnh thổ – vấn đề chưa được đề
cập trong các bài nghiên cứu trước. Để thực hiện mục đích này, bài viết phân
chia thời kỳ trước và sau khi chúa Trịnh và chúa Nguyễn – 2 nhà quyền lực dưới
1 triều đại trong 1 quốc gia – phân tranh quyền lực và xem xét bối cảnh, quá
trình triển khai, tính chất của việc mở rộng lãnh thổ trong từng thời kỳ. Ở
thời kỳ trước khi Trịnh Nguyễn phân tranh, trong mối liên hệ với thời kỳ sau,
chúng tôi xem xét đến thời điểm việc mở rộng lãnh thổ được triển khai; Thời kỳ
sau Trịnh Nguyễn phân tranh, bài viết sẽ xem xét đến khi Pháp tiến vào ngăn
chặn việc mở rộng lãnh thổ của Việt Nam.
II. THỜI KỲ TRƯỚC KHI PHÂN CHIA NAM BẮC
Ngay sau thời kỳ Bắc
thuộc tức là sau thời kỳ thuộc địa của Trung Quốc thì ranh giới phía Nam của
Việt Nam là Hà Tĩnh. Lợi dụng lúc nước Đường khó giữ được An Nam bởi tình hình
hỗn loạn nghiêm trọng cuối thời Đường như sự xâm chiếm Java, Chiêm Thành, Nam
Triều, Campuchia và sự nổi dậy của An Nam… cũng là lúc mà Chiêm Thành đang ở
trong thời kỳ hưng thịnh mở rộng lãnh thổ từ Ai Vân (còn gọi là Hải Vân) đến
Hoành Sơn, nay được phỏng đoán là đã quyết định Indrapura của huyện Thăng Bình
tỉnh Quảng Nam làm thủ đô 4.
Việc mở rộng lãnh thổ
về phía Nam được bắt đầu từ
thời kỳ Việt Nam
có vương triều độc lập. Nhưng vì thời gian tồn tại của Ngô, Đinh, Tiền Lê ngắn
và chưa được vững vàng, thiếu chuẩn bị nên lãnh thổ không có thay đổi gì kể cả
phía Nam .
Trong 3 triều đại kể trên thì triều đại Tiền Lê đã viễn chinh đến thủ đô của
Chiêm Thành nhưng không thể mở rộng được lãnh thổ. Nhưng kể từ đấy, Chiêm Thành
đã trở thành nước triều cống của Việt Nam 5.
Trong lịch sử Việt
Nam, việc mở rộng lãnh thổ về phía Nam được bắt đầu từ năm 1069 dưới triều đại
Lý – triều đại đầu tiên có thời gian tồn tại lâu nhất. Kết quả là Chiêm Thành
đã nhường 3 châu Bố Chánh, Địa Lý, Ma Linh 6. Căn cứ vùng đất thuộc Địa Lý ở
huyện Lê Ninh, tỉnh Quảng Bình, Ma Linh ở huyện Bến Hải, tỉnh Quảng Trị, Bố
Chính ở huyện Quảng Trạch, Bố Trạch, Tuyên Hóa tỉnh Quảng Bình thì có thể nói
là triều đại Lý đã mở rộng lãnh thổ phía Nam đến tỉnh Quảng Trị ngày nay.
Năm 1075, Địa Lý và Ma Linh đã đổi tên thành châu Lâm Bình và Minh Linh 7. Năm
1104, với sự xâm lược của Chiêm Thành 3 châu này bị chiếm mất nhưng ngay sau đó
với sự tấn công của Lý Thường Kiệt, Việt Nam đã giành lại được 8.
Năm 1307, thông qua
cuộc hôn nhân với Chế Mân –vua của Chiêm Thành, Trần Nhân Tông đã nhận được
châu Ô, Lý. Đại Việt sử ký toàn thư có ghi “Trước đây vua Chiêm Thành là
Chế Mân đem đất đó làm lễ vật dẫn cưới, dân các thôn La Thủy, Tác Hồng, Đà Bồng
không phục, vua bèn sai Đoàn Nhữ Hài đến đó để tuyên thị đức ý của triều đình,
chọn dân ở đấy ban cho chức quan, cấp cho ruộng vườn, miễn tô thuế 3 năm để vỗ
về”9.
Trong lịch sử chinh
phục Chiêm Thành của Việt Nam ,
việc nhận được lãnh thổ do nhà trai cho nhà gái là việc lấy lãnh thổ thông qua
quan hệ hữu nghị 10. Chúng tôi sẽ đề cập sau, trong lịch sử cũng có sự kiện
tương tự như thế nhưng lại kết thúc bởi sự di trú của người dân thông qua quan
hệ hôn nhân. Năm sau đó, triều đại nhà Trần đã đổi vùng đất này thành Thuận
Châu (bây giờ là Quảng Trị), Hóa Châu (bây giờ là Thừa Thiên Huế) 11. Triều đại
nhà Trần vì phải đương đầu với 3 cuộc xâm lược kéo dài và quyết liệt của quân
Mông Cổ nên cũng như các triều đại trước và sau đó, ngoài trường hợp trên, Việt
Nam không nhận được một tất đất nào từ Champa. Ngược lại, do bị tổn thất nặng
nề trong thời kỳ chiến tranh chống Mông Cổ và sự mạnh lên của Chiêm Thành,
Thăng Long đã vài lần phải lâm vào thế tự vệ và thậm chí năm 1368 còn bị Chiêm
Thành yêu cầu trả lại châu Hóa – một phần trong lãnh thổ là lễ vật hôn thú
trước đây.
“Tháng 2 năm 1368,
Chiêm Thành sai Mục Bà Ma sang đòi lại đất biên giới Hóa Châu”12.
Với yêu cầu này của
Chiêm Thành, trước hết nhờ sức mạnh sẵn có nhưng Việt Nam còn có tư
cách đòi phạt hay bồi thường đối với một phần lễ hôn thú bị mất. Kết hôn chưa
được một năm thì vua Chiêm Thành mất, theo phong tục Suttee của Ấn Độ, công
chúa phải chết cùng với vua, phía Việt Nam đã dùng mưu lược phục thù nhằm cứu
công chúa 13.
Việc mở rộng lãnh thổ
về phía Nam cũng được tiếp tục với triều Hồ. Năm 1402, nhà Hồ xâm chiếm Chiêm
Thành và nhận được Chiêm Động chia thành hai châu Thăng và Hóa; đồng thời nhận
được Cổ Lũy chia thành 2 châu Tư và Nghĩa 14. Châu Thăng và Hóa ngày nay thuộc
huyện Duy Sơn, Quế Sơn, Tam Kỳ Thăng Bình của tỉnh Quảng Nam, Châu Tư và Nghĩa
nay thuộc huyện Đức Phổ, Mộ Đức, Tư Nghĩa, Sơn Tịnh, Bình Sơn của tỉnh Quảng Ngãi.
Điều này có nghĩa là lãnh thổ phía Nam Việt Nam
được mở rộng đến Quảng Nam
và Quảng Ngãi.
Nhưng khi nhà Minh cai
trị thì khu vực này bị Chiêm Thành chiếm lại. Đại Việt sử ký toàn thư có
ghi “Minh Vĩnh Lạc thứ 12, Phủ Thăng Hoa tuy có đặt quan, nhưng Chiêm Thành vẫn
có trưởng lộ chiếm giữ, nên nhà Minh chỉ ghi tên không mà thôi 15. Đào Duy Anh
đã lấy ở Hoàng Minh thực lực và đưa ra bằng chứng về điều này “Năm Vĩnh
Lạc thứ 13, tháng 11, vua nước Chiêm Thành là Chiêm Ba Dịch Lai… lại xâm đoạt
đất 4 châu 11 huyện thuộc phủ Thăng Hoa đuổi cướp nhân dân”16.
Trong lịch sử Việt Nam , triều đại
hậu Lê là triều đại có được nhiều lãnh thổ nhất. Kết quả là Việt Nam có lãnh thổ gồm phần phía Nam ngày nay.
Việc mở rộng lãnh thổ của triều đại hậu Lê có thể chia thành 100 năm hưng thịnh
và 260 năm suy vong. Ở chương này chủ yếu tập trung vào thời kỳ hưng thịnh.
Năm 1470, Lê Thánh
Tông đem 26 vạn đại quân chiếm Chiêm Thành và năm 1471 đã lấy lại 4 châu Thăng,
Hoa, Tư, Nghĩa bị mất trong thời gian cai trị của nhà Minh đặt tên gọi là Quãng
Nam thừa tuyên 17. Ngoài ra, qua cuộc viễn chinh này, vua Lê Thánh Tông đã
chiếm được vùng đất từ Hoài Nhân đến đèo Cù Mông 18. Do đó, Việt Nam đã mở rộng
lãnh thổ đến Bình Định ngày nay, và năm 1490 đưa Quảng Nam và Thăng Hoa nhập
vào lãnh thổ đã chiếm được 19.
Cuộc viễn chinh lớn
vào năm 1470 đã giúp cho Việt Nam sau này có bàn đạp để có thể dễ dàng hợp nhất
Chiêm Thành. Ngoài lãnh thổ chiếm được, Việt Nam chia Chiêm Thành thành 3 khu
vực Nam Bàn, Hoa Anh, Phiên Lung vốn đã chịu nhiều thất bại nặng nề20 để có thể
dễ dàng hợp nhất khu vực này vào bất cứ lúc nào. Cụ thể là Việt Nam cho Nam Bàn
nhập vào Gia Lai, Kon Tum, Đắc Lắc; Hòa Anh vào Phú Yên, Khánh Hòa; Phiên Luân
vào Ninh Thuận thuộc Phan Rang. Việt Nam đã phân ly Chiêm Thành thành 3 vùng
ban sắc phong cho 3 vua và đặt nền móng cho việc hợp nhất Chiêm Thành. Ngoài
ra, trong thời kỳ hưng thịnh triều đại hậu Lê cũng đã mở rộng lãnh thổ về phía
Tây. Khác với cách xâm lược và hợp nhất như khi mở rộng lãnh thổ ở phía Nam, ở
đây có tính chất lệ thuộc và hợp nhất nhiều hơn.
Vào năm 1353, Angcowat
độc lập, ở vương quốc Lan Xang của Lào có bộ lạc Bồn Man ở khu vực trung tâm
Quảng Bình thuộc Sơn La – vùng tiếp giáp với biên giới Việt Nam. Tộc họ Câm cai
trị khu vực này nhiều đời và có quan hệ đối ngoại với Việt Nam từ thế kỷ 15.
Năm 1447, theo đề nghị quy phục của Bồn Man, Việt Nam đã tiếp thu điều này và
đổi thành châu Quy Hợp 21 nhập vào phủ Lâm An 22. Cho dù bị quy phục Việt Nam
nhưng cũng như lúc quy phục Lan Xang, vùng này vẫn được công nhận là tự trị như
trước23. Đất này bị hợp nhất cho đến khi Việt Nam bị Pháp xâm chiếm.
Sau vương triều độc
lập, đến thời kỳ hưng thịnh của triều đại hậu Lê, việc mở rộng lãnh thổ của
Việt Nam được tiến hành trong điều kiện năng lực quốc gia yếu kém. Cho dù là
triều đại độc lập, nhưng thời kỳ Ngô, Đinh, tiền Lê ở trong tình thế bị đóng
khung trong một quốc gia, thời nhà Trần thì tuy là một đất nước có một không
hai trên thế giới có khả năng đẩy lùi quân Mông Cổ 3 lần nhưng vì hậu quả chiến
tranh, gặp phải nhiều khó khăn nên không thể tiến hành mở rộng lãnh thổ bằng vũ
lực.
Việc mở rộng lãnh thổ
có tính cách hợp nhất vĩnh viễn đã đẩy mạnh sự phát triển của Việt Nam thông
qua sự di trú của người Việt và chính sách phái quan lại người Việt làm quản lý
và tiến hành Việt Nam hóa người bản địa. Với sự lệ thuộc của Bồn Man, lãnh thổ
của Lào được sát nhập vào lãnh thổ Việt Nam và tuy chính sách phát triển thông
qua sự di trú của người dân như ở phía Nam cho dù không được thực hiện nhưng
Việt Nam phái người quản lý tới địa phương để trực tiếp quản lý đã cho thấy
tính chất chiếm lĩnh vĩnh viễn ở đây. Để dàn xếp sự chống đối của Bồn Man, từ
năm 1460 Lê Thánh Tông đã nhiều lần gửi quân đội đến trấn áp, thậm chí tháng 8
năm 1479 đã điều động 18 vạn đại quân bình định đến Luang Prahang 24. Năm 1474,
chính sách di trú người Việt tới khu vực Chiêm Thành ra sắc chỉ rằng: Tù nhân
bị tội lưu, ở châu gần thì sung làm quân vệ Thăng Hoa, ở châu ngoài thì sung
làm quân vệ Tư Nghĩa, ở châu gần thì sung làm quân vệ Hoài Nhân, những kẻ được
tha tội cũng sung làm quân vệ Hoài Nhân 25.
Đặc trưng của việc mở
rộng lãnh thổ trong thời gian này có khác với thời kỳ suy thoái là đối tượng mở
rộng lãnh thổ là ngoài một phần của Lào ra chỉ giới hạn trong khu vực Chiêm
Thành. Kết quả là Chiêm Thành ở vùng đệm nên có thể duy trì quan hệ đối ngoại
giữa Thái Lan, Campuchia với Việt Nam. Nhưng thời kỳ sau, đối tượng mở rộng
lãnh thổ đến cả Campuchia, quan hệ giữa Việt Nam – Campuchia hay Việt Nam –
Thái Lan trở thành mối quan hệ đối lập sâu sắc, thậm chí Campuchia là trục
chiến lược trong sự cạnh tranh của Việt Nam và Thái Lan.
III. THỜI KỲ SAU PHÂN CHIA NAM BẮC
Việc mở rộng lãnh thổ
trong lịch sử Việt Nam được thực hiện sôi động, nhanh và trong phạm vi rộng lớn
nhất là vào thời kỳ Trịnh – Nguyễn phân tranh. Việc mở rộng lãnh thổ trong thời
kỳ này hay được triển khai với mục đích cơ bản vốn có nhưng có thể thấy được sự
khác nhau với thời kỳ trước ở chỗ được tiến hành trong sự chia rẽ và đối lập
sâu sắc về quyền lực. Việc mở rộng lãnh thổ trong thời gian này không được
triển khai qua thời gian lâu dài như thời kỳ trước mà được thực hiện trong thời
gian ngắn khoảng 250 năm. Dĩ nhiên có khả năng là vì đã chuẩn bị bàn đạp trong
thời kỳ trước. Giống như khi xem xét thời gian tồn tại dài hay ngắn của một
vương quốc, thông qua việc mở rộng lãnh thổ cũng có thể nhìn thấy được sức mạnh
của quốc gia và tổn thất của Chiêm Thành.
Một mặt, việc mở rộng
lãnh thổ ở thời kỳ sau phân chia Nam Bắc được thực hiện thông qua việc hợp nhất
hoàn toàn Chiêm Thành và sự mở rộng về phía Campuchia đã kéo theo sự căng thẳng
sâu sắc trong quan hệ giữa Việt Nam và Campuchia và dĩ nhiên ảnh hưởng tới cả
quan hệ Campuchia và Thái Lan. Kết quả là ngày nay, đối ngoại giữa 3 nước, đặc
biệt Việt Nam – Campuchia hay Thái Lan – Campuchia vẫn còn chịu ảnh hưởng không
nhỏ 26.
Để thoát khỏi sự uy
hiếp của chúa Trịnh, chúa Nguyễn đi xuống phía Nam thúc đẩy chính sách một cách
năng động như chính sách đối ngoại thông thương, chính sách mở rộng lãnh thổ để
xây dựng sức mạnh nhằm khôi phục quyền lực đã mất27.
Do đó, việc mở rộng
lãnh thổ của chúa Nguyễn tiếp tục được thúc đẩy không quan tâm đến thời gian 7
lần phân tranh với chúa Trịnh như trích đoạn dưới đây.
“Năm 1611, quân Chiêm
Thành xâm lấn biên giới. Chúa sai chủ sự là Văn Phong (không rõ họ) đem quân đi
đánh lấy được đất ấy, bèn đặt làm một phủ, cho hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa
lệ thuộc vào. Nhân sai Văn Phong làm lưu thủ đất ấy28.
Sự kiện năm 1611 đã
chứng minh rằng khác với thời kỳ đầu, đặc trưng của thời kỳ sau là chiếm lĩnh
đồng thời sát nhập và hợp nhất lãnh thổ. Đặc trưng này cũng có thể thấy được
qua sự kiện xảy ra vào năm 1653. “Vua nước Chiêm Thành là Bà Tấm quấy rối đất
Phú Yên. Sai cai cơ Hùng Lộc hầu làm tổng binh và xá sai Minh võ làm tham mưu
đem 3000 quân đi đánh. Đến phủ Phú Yên, ngày 3 tháng 4, nhân đêm qua đèo Hổ
Dương núi Thạch Bi, ruổi thẳng đến trại của Bà Tấm, phóng lửa đánh gấp, phá
tan, đuổi dài đến sông Phan Lang. Bà Tấm sai con là Xác Bà Ân nộp lễ xin hàng.
Phúc Tần cho, bắt chia đại giới, lấy đất tự phía đông sông ấy đến Phú Yên đặt
làm hai phủ Thái Khang và Diên Ninh, đặt dinh trấn thủ Thái Khang, phía Tây
sông vẫn là nước Chiêm Thành, khiến giữ bờ cõi mà nộp cống”29 Thái Khang và
Diên Ninh bây giờ là Ninh Hòa và Diên Khánh, lúc này lãnh thổ của Việt Nam được
mở rộng đến Khánh Hòa.
Tháng 8 năm 1692, chúa
Nguyễn chiếm Chiêm Thành và nhân cơ hội chiếm Diên Ninh của Chiêm Thành và
tháng 3 năm sau đã bắt được vua Chiêm Thành là Bà Tranh. Lúc này, chúa Nguyễn
đã đổi tên Chiêm Thành là Thuận Thành. Chúa Nguyễn đã sai cai đội Nguyễn Trí
Thắng, cai cơ Nguyễn Tân Lễ, cai đội Chu Kiêm Thắng đến Phố Hài, Phan Rí, Phan
Rang thuộc Bình Thuận ngày này để phòng ngự tàn đảng của Thuận Thành 30.
Đất nước Chiêm Thành
đến bây giờ đã hoàn toàn bị biến mất trên bản đồ. Chiêm Thành đã bị hợp nhất hoàn
toàn vào Việt Nam năm 1697 nhưng trên thực tế, với tư cách là một quốc gia thì
đã bị xóa bỏ vào năm 1693.
“Tháng 8 năm 1693, đổi
trấn Thuận Thành làm phủ Bình Thuận, lấy tả trà viên Kế Bà Tử làm khám lý, ba
người con Bà Ân làm đề đốc, đề lãnh và cai phủ, bắt mặc quần áo theo lối người
kinh và sai về để vỗ yên lòng dân”31 Việc lấy người Chiêm Thành cai trị người
Chiêm Thành thế này là hình thức mà lịch sử Việt Nam đã đối xử với tất cả các
dân tộc thiểu số từ trước đến nay. Công nhận sự tự trị nhưng có nghĩa là tự trị
dưới cơ cấu cai trị dạng piramid trong quốc gia. Do đó, kể từ bây giờ Chiêm
Thành đã trở thành một dân tộc thiểu số của Việt Nam.
Nhưng việc loại trừ
hoàn toàn Chiêm Thành làm chúa Nguyễn gặp nhiều khó khăn và trở thành gánh
nặng. Từ tháng 12 năm 1693 đến tháng 2 năm sau, người Thanh A Ban và người
Chiêm Thành Oc Nha That liên kết với nhau gây ra phản loạn ở Thuận Thành; Tháng
9 năm 1695 người lái buôn Lính đã liên kết Quy Ninh và Quảng Phú ở Quảng Ngãi
gây phản loạn; tháng 3 năm 1697, 5 sách huyện Phú Vang nổi dậy… là những ví dụ
có thật gây khó khăn cho chúa Nguyễn32.
Sau khi chiếm Chiêm
Thành vào năm 1693, chúa Nguyễn đã thi hành một số chính sách để giảm thiểu
gánh nặng và những mối lo lắng đó. Thứ nhất, hợp nhất hoàn toàn đất chiếm lĩnh
Thuận Thành vào lãnh thổ của mình, đặt theo hình thức trấn hơn là đơn vị hành
chính. Cho dù đã đặt lãnh, phủ, huyện, tổng, tư là đơn vị hành chính địa phương
đối với khu vực đồng bằng của chúa Nguyễn lúc đó nhưng chúa Nguyễn đã không áp
đặt mà đặt Thuận Thành là trấn. Đây cũng là hình thức cai trị dân tộc thiểu số
trong quá khứ. Do đó, ngoài việc dùng phương pháp cực đoan là đàn áp phản loạn,
vào tháng 8 năm 1693, chúa Nguyễn đã đổi trấn Thuận Thành thành phủ Bình Thuận
rồi tháng năm năm sau lại đổi thành trấn Thuận Thành33.
Thứ hai, như đã viết ở
trên, chúa Nguyễn đã thi hành chính sách đồng hóa hay lấy người Chiêm Thành cai
trị người Chiêm Thành. Với phương pháp cụ thể hơn đối với điều này chúa Nguyễn
đã dùng Kế Ba Tư làm tả đô đốc của phủ Thuận Thành và tiếp tục cai trị nơi này,
đã nộp cống ông ta bởi phiên vương của trấn Thuận Thành và thu thập quân dân
nộp cống hằng năm, và đã trả lại những vật lấy được trong cuộc chiến như ấn,
gươm, yên, ngựa và những người bị bắt trước đây. Lúc này chúa Nguyễn đã chỉ định
những danh sách nộp cống cho Việt Nam là voi đức 2 thớt, bò vàng 20 con, ngà
voi 6 cái, sừng tê 10 tòa, khăn vải trắng 500 bức, sáp ong 50 cân, da cá 20
tấm, cát sủi 400 thúng, chiếu tre trắng 500 lá, gỗ mun 200 cây, thuyền dài 1
chiếc34.
Việc quy định đối với
các vật nộp cống và dâng phiên vương có thể nói là một điển hình trong việc
nâng cao vị thế so với các nước nhỏ xung quanh của Việt Nam. Cho đến bây giờ
khi xem xét đến thông lệ ban sắc phong cho các tù trưởng các dân tộc thiểu số
thì có thể thấy đó là mắt xích trong chính sách hợp nhất Chiêm Thành như đã
nêu. Khi so sánh thời gian tồn tại hay diện tích lãnh thổ, chính sách thôn tính
một quốc gia có thế lực không thua kém mình là một sách lược chính trị khổ
nhục.
Nhưng vào năm 1697,
Việt Nam đổi trấn Thuận Thành thành Bình Thuận và sát nhập vào một đơn vị hành
chính của Việt Nam đồng thời hợp nhất lãnh thổ còn lại của Chiêm Thành từ Phan
Rang đến Phan Rí đổi thành 2 huyện An Phuc và Hoa Da rồi sát nhập vào Bình
Thuận nên dấu tích của Chiêm Thành hoàn toàn đã bị xóa bỏ trên bản đồ35.
Việc hợp nhất hoàn
toàn Chiêm Thành thể hiện sự vững vàng của một quốc gia thống trị nhưng cũng
cho thấy đây là một mắt xích trong việc thực hiện ý định hợp nhất Campuchia có
chung đường biên giới. Kể từ trước đó rất lâu, khi trấn Thuận Thành và Phan
Rang, Phan Rí vẫn còn là khu vực tự trị của Chiêm Thành, sự tiến vào Campuchia
của Việt Nam đã được thúc đẩy qua việc lợi dụng những người di cư của nước Minh
để phát triển lãnh thổ Campuchia nhưng lúc này thì Việt Nam không còn lý do gì
để tiếp tục giữ chế độ tự trị ở khu vực này. Việc chia rẽ mục đích chính sách
này mất cân bằng đối với nhiều dân tộc thiểu số và dân tộc Khơme của Campuchia.
Tham vọng mở rộng lãnh
thổ của Chúa Nguyễn không dừng lại ở Chiêm Thành. Điều đó có thể nhìn thấy được
vào năm 1621, chúa Nguyễn đã có quan hệ hôn thú với đời thứ 2 Chey Chettha của
Campuchia36. Lúc đó, chúa Nguyễn đã yêu cầu vua Campuchia cho người Việt Nam di
trú tự nhiên, di trú Thủy Chấn Lạp với những hình thức miễn thuế, thương mại,
phát triển. Kết quả là việc di trú đến Campuchia của người Việt Nam được bắt
đầu từ tỉnh Đồng Nai và Mỗi Xoài thuộc Bà Rịa, Vũng Tàu bây giờ 37.
Lúc đó Campuchia lệ
thuộc vào vương quốc Ayuthaya của Thái Lan đã mượn sức mạnh của Việt Nam để
thoát khỏi sự cai trị của Thái, Việt Nam đã có được cơ hội tiến vào Campuchia
một cách hợp pháp và đồng thời trên cơ sở đó, đã có được cơ hội tuyệt vời để có
thể cản trở sự tiến vào Campuchia của Thái và xâm chiếm lãnh thổ Campuchia38.
Sau đó, dưới chính sách ngoại giao cận Việt viễn Thái của Campuchia (chữ Hán),
năm 1658, lần đầu tiên Việt Nam có cơ hội gửi quân đội theo yêu cầu của
Campuchia để giải quyết phân tranh vương vị và kết quả là nhận được sự cư trú
hợp pháp ở Mỗi Xoài, Đồng Nai và nộp cống, thần phục từ Campuchia39.
Vào năm 1674, Việt Nam
đã gửi quân đội đến Campuchia lần thứ hai để giải quyết tranh chấp vương vị và
có thể bước một bước sâu hơn vào việc hợp nhất lãnh thổ Campuchia bằng cách đặt
ra chế độ chính vương và phó vương (chữ Hán). Lúc này, phó vương sống ở Sài
Gòn. Trên cơ sở này, vào tháng 1 năm 1679 Việt Nam đã đem 50 chiến thuyền với
hơn 3 nghìn quân, lợi dụng những người quản lý của nước Minh Trung Quốc đầu
hàng như Dương Ngan Địch, Hoàng Tiến, Trần Thượng Xuyên, Trần An Bình … tiến
hành thực hiện việc phát triển Mỹ Tho và Biên Hòa40. Những khu vực này là kết
quả chiến thắng trong cuộc phân tranh vũ lực với Thái trên lãnh thổ Campuchia
của Việt Nam, vì một phần thuộc khu vực mà Nạc Ông Nộn được bổ nhiệm cai trị,
nên Việt Nam có thể định cư ở đó. Năm 1679, do chính vương và phó vương của
Campuchia xung đột, Việt Nam và Thái đều gửi quân đội can thiệp nên chiến tranh
đã xảy ra, Việt Nam đã hoàn toàn không thể đưa ra các giải quyết vấn đề này.
Những người có thế lực
khai phá đất, xây dựng thành Đông Phố và biến nơi đây thành nơi thương mại quốc
tế đông đúc với những chiếc thuyền của nhà Thanh – phương Tây – Nhật – Java.
Thời điểm này, có thể nói ngoài người Việt Nam ra, người Trung Quốc cũng phát
triển Thủy Chân Lạp. Vào năm 1680, việc phát triển Thủy Chân Lạp dựa vào Mạc
Cửu người Quảng Đông Trung Quốc. Ông ta được bổ nhiệm làm quản lý của Campuchia
và đã phát triển Phú Quốc, Cần Bọt, Gia Khê, Luỗng Cây, Hương Úc, Cà Mau41. Ở
đây, vào năm 1810 đã đổi thành trấn Hà Tiên rồi năm 1831 đổi thành tỉnh Hà
Tiên.
Năm 1688, với cuộc
phản loạn của Hoàng Tiến đã trở thành cơ hội cho Việt Nam thực hiện hợp nhất
lãnh thổ Campuchia. Hoàng Tiến gây ra phản loạn, quốc vương của Campuchia Nặc
Ông Thu đã từ chối thần phục và nộp cống cho Việt Nam và dương ngọn cờ phản
loạn. Việt Nam đã gửi quân vào Sài Gòn để bình định việc này nhưng không thành
công. Tuy nhiên, trong trong một thời gian dài nắm giữ, Việt Nam thực sự đã có
ảnh hưởng ở khu vực này. Tiếp đó, năm 1691, người có thực quyền ở đây là phó vương
Nặc Ông Nộn tử vong đã tạo ra một khoảng trống quyền lực đã xúc tiến quá trình
hợp nhất của Việt Nam ở khu vực này. Trên cơ sở đó, từ năm 1698, bắt đầu hợp
nhất khu vực Gia Định khai thác được dựa vào người Trung Quốc và người bản xứ
trước đây.
Năm 1698 là năm sau
khi Việt Nam hoàn toàn hợp nhất Chiêm Thành. Điều này rất quan trọng vì thể
hiện được tính quan hệ tương hỗ trong việc hợp nhất Chiêm Thành và Campuchia
của Việt Nam. Tức là, trước năm 1698, Việt Nam có thể lợi dụng khoảng trống cai
trị của Campuchia trên mảnh đất do người Trung Quốc và người bản xứ khai phát
và hợp nhất nhưng trong khi chưa hợp nhất hoàn toàn Chiêm Thành nên có thể gặp
nhiều khó khăn; hoặc trong trường hợp đã hợp nhất hoàn toàn Chiêm Thành nhưng
có khả năng xảy ra phản loạn và chống đối nên có thể cho rằng sức lực sẽ bị
phân tán nên đã không thực hiện và chuẩn bị cho đến năm 1698 mới tiến hành hợp
nhất Campuchia.
“Bắt đầu đặt phủ Gia
Định. Sai thống suất Nguyễn Hữu Kính kinh lược đất Chân Lạp, chia đất Đông Phố,
lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phúc Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm
huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, mỗi dinh đều đặt các chức lưu thủ, cai
bạ, ký lục và cơ độ thuyền thủy bộ tinh binh và thuộc binh. Mở rộng đất được
nghìn dặm, được hơn 4 vạn hộ, bèn chiêu mộ những dân xiêu dạt từ Bố Chính trở
về nam cho đến ở cho đông. Thiết lập xã thôn phường ấp, chia cắt giới phận,
khai khẩn ruộng nương, định lệ thuế to dung, làm sổ đinh điền. Lại lấy người
Thanh đến buôn bán ở xã Minh Hương. Từ đó người Thanh ở buôn bán đều thành dân
hộ của ta”42.
Nội dung trên cho thấy
việc hợp nhất lãnh thổ Campuchia của Việt Nam khác với phương pháp hợp nhất
Chiêm Thành trong thời kỳ trước. Khi hợp nhất lãnh thổ của Chiêm Thành, đa số
dùng phương pháp chiếm bằng vũ lực nhưng khi hợp nhất lãnh thổ Campuchia thì
lợi dụng người trong nước hay người nước ngoài trước hết là khai thác rồi lợi
dụng khi quyền lực cai trị của Campuchia yếu đi thì hợp nhất một cách tự nhiên.
Không những thế, ở đây còn cho thấy sự ưu tiên phương pháp nhận lãnh thổ bằng
cách hỗ trợ giải quyết nội chiến của Campuchia hơn là dùng vũ lực trực tiếp.
Vào năm 1708, Mạc Cửu
cảm thấy bất an với nội tình của Campuchia, nhờ thần phục Việt Nam mới có được
đường biên giới của Campuchia bây giờ còn Việt Nam thì có được khu vực ở phía
cực nam bao gồm đảo Phú Quốc, Kiên Giang, Cà Mau, Bạc Liêu43. Khu vực này là
một trong 6 tỉnh thuộc tỉnh Hà Tiên thời nhà Nguyễn. Điều này cũng như đã đề
cập ở trên cho thấy hình thức hợp nhất không liên quan đến vũ lực của Việt Nam.
Do đó, trong 6 tỉnh,
Việt Nam đã hợp nhất 3 tỉnh là Biên Hòa, Gia Định, Hà Tiên. Ba tỉnh còn lại vẫn
trong tình trạng chưa hợp nhất được là Định Tường, Vĩnh Long, An Giang. Ba tỉnh
này ở trong địa thế hình răng cưa, nằm xem kẽ giữa hai tỉnh Biên Hòa – Gia Định
và tỉnh Hà Tiên. Vì thế, để bảo tồn tỉnh Hà Tiên ở vị trí xa nên việc hợp nhất
3 tỉnh còn lại là một việc cần thiết. Do đó qua 3 lần liên tiếp thực hiện hợp
nhất, khu vực này được hợp nhất với phương pháp khác với trước đây là bằng vũ
lực.
Lần thứ 1, năm 1732,
Việt Nam đã gửi quân đội tới, lấy Mỹ Tho, Sa Đéc ở phía Tây Gia Định, và đặt
châu Định Viễn, lĩnh Long Hồ44. Những khu vực này thuộc tỉnh Định Tường. Những
khu vực này bây giờ thuộc tỉnh Tiền Giang, Đồng Tháp. Với cơ hội này, vào năm
1744 chúa Nguyễn đã xác lập khu vực hành chính với cơ cấu 12 lĩnh và 1 trấn45.
Lần thứ 2 cũng dành
được thành quả bằng vũ lực. Chúa Nguyễn đã hai lần viễn chinh Campuchia vào năm
1753 và 1755 do hiệp ước quan hệ của chúa Trịnh và YuRin Côn Man của Nạc Ông
Nguyên là vua Campuchia. Lúc này Nạc Ông Nguyên tị nạn ở Hà Tiên và năm 1756,
đưa Mạc Thiên Tứ đề nghị thần phục và nộp cống cho chúa Nguyễn và đã dâng 2 phủ
Tam Bon, Loi Lap46. Nơi này giáp với tỉnh Định Tường thuộc tỉnh Vĩnh Long.
Lần cuối cùng, năm
1757, trong quá trình lên ngôi, vua Cao Miên nhận sự giúp đỡ đã nhận từ Nạc Ông
Tôn 2 phủ Trà Vinh, Ba Thắc và Tầm Phong Long47. Trong 6 tỉnh, những khu vực
này thuộc tỉnh An Giang. Do đó, Việt Nam đã xác lập được lãnh thổ phía Nam bây
giờ.
Đối với sự kiện của
năm 1757, khi xem xét biên giới lãnh thổ Việt Nam qua ghi chép là “Năm 1757,
Nạc Ông Nguyên nước Chân Lạp chết. Người chú họ là Nạc Nhuân Tạm coi việc nước.
Biên thần tâu xin nhân đó lập Nhuận để tỏ ân nghĩa, cho vững biên cương. Chúa
bắt phải hiến hai phủ Trà Vinh, Ba Thắc, rồi sau mới y cho …”48 chúng ta có thể
thấy rõ hơn. Nói cách khác, cho dù đã hợp nhất Định Tường và Vĩnh Long nhưng
dưới thời chúa Nguyễn, không có tỉnh An Giang nên Châu Đốc, Cần Thơ, Sóc Trăng
có địa thế như răng rụng nên Việt Nam cần có được vùng này với cái giá là phải
can thiệp chính trị.
Ngoài ra, cùng năm
1757, Việt Nam đã được vua Camphuchia Nạc Ông Tôn dâng 5 phủ Hương Úc, Cần Bọt,
Chân Sum, Sài Mạt, Linh Quỳnh49. Khu vực này tiếp giáp với Hà Tiên nhưng trong
thời gian vua Tự Đức tại vị đã trả lại cho Campuchia50.
Việc mở rộng lãnh thổ
phía Nam của chúa Nguyễn đã gặp phải một số yếu tố nên phải tạm dừng ở đây. Thứ
nhất, do sức lực quốc gia của chúa Nguyễn bị yếu đi nên không đủ nội lực để mở
rộng lãnh thổ hơn nữa. Thứ hai, trong thời gian ngắn không đủ năng lực để khai
thác quản lý lãnh thổ tăng nhiều51.
Việc mở rộng lãnh thổ
về phía nam của Việt Nam cũng được tiếp tục dưới triều đại cuối cùng trong lịch
sử Việt Nam là triều đại nhà Nguyễn. Như đã đề cập ở trên, Việt Nam đã hợp nhất
một phần lãnh thổ của Lào tiếp giáp với khu vực từ Quảng Bình tới Lạng Sơn, đã
gửi quân đi 6 phủ và bổ nhiệm làm tộc trưởng ở đây theo hình thức cai trị gián
tiếp. Khi xem xét đến nhiều điều kiện như chính trị – kinh tế – địa chính học,
Việt Nam tiếp tục thúc đẩy hợp nhất Cao Miên để dành lợi cho quốc gia, và kết
quả là năm 1835, Chân Lạp – quốc hiệu của Cao Miên đã đổi thành Chân Tây Thành
và lập 2 huyện, 32 phủ52. Nhưng cuộc xung đột dành quyền cai trị Campuchia giữa
Việt Nam và Thái kéo dài, cộng với việc phản đối sự cai trị của Việt Nam trên
toàn Campuchia và các cuộc phản loạn trong nước nên đã đẩy Việt Nam vào thế bất
lợi. Cho nên, năm 1847, Việt Nam đã ký hiệp định với Thái và rút quân. Do đó,
cho đến khi Việt Nam và Campuchia đều trở thành thuộc địa của Pháp thì
Campuchia chỉ duy trì mối quan hệ nộp cống cho Việt Nam53. Qua đây, có thể thấy
việc mở rộng lãnh thổ của Việt Nam được điều khiển bởi Thái và Pháp. Nếu giả
định trường hợp Pháp không tiến hành xâm lược hay không có mâu thuẫn với Thái
thì Việt Nam đã có được một vùng rộng lớn trong lãnh thổ của Lào và Campuchia.
IV. KẾT LUẬN
Việc mở rộng lãnh thổ
của Việt Nam cho thấy một quy luật điển hình trong lịch sử nhân loại là cá lớn
nuốt cá bé. Việt Nam đã không ngừng đấu tranh trong trường kỳ lịch sử để sinh
tồn bên cạnh một Trung Quốc mạnh hơn mình nhưng ngược lại cũng tiến hành chinh
phục Chiêm Thành và Campuchia yếu hơn. Điều này thể hiện hai mặt trong đặc
trưng lịch sử của Việt Nam là chủ nghĩa dân chủ đấu tranh và chủ nghĩa dân chủ
xâm lược.
Việt Nam đã trải qua
quá trình dân chủ đấu tranh và bồi dưỡng sức mạnh quốc gia rồi trên cơ sở đó
hướng đến chủ nghĩa dân chủ xâm lược và kết quả là xác lập được lãnh thổ phía
Nam bây giờ.
Việc mở rộng lãnh thổ
về phía Nam đã thúc đẩy sự phát triển kinh tế của Việt Nam, đặc biệt là trong
việc sản xuất ngũ cốc. Ngoài khí hậu nhiệt đới gió mùa có lượng mưa và lượng
nắng nhiều thì vùng này còn có tài nguyên phong phú và đất đai màu mỡ và rộng
lớn.
Ở đây cũng không thể
bỏ qua sự đóng góp của người dân di trú Trung Quốc. Trong khi không đủ nhân lực
phát triển thì việc tham gia của người dân Trung Quốc đã giảm bớt đi gánh nặng
cho người dân Việt Nam, thúc đẩy sự phát triển thương mại của phía Nam và đã
tăng cường tính đặc trưng đa văn hóa – đa dân tộc của Việt Nam.
Liên quan đến việc
tăng cường tính đặc trưng đa văn hóa – đa dân tộc của Việt Nam không thể loại
trừ vai trò của Campuchia. Việc hợp nhất Thủy Chân Lạp tức 6 tỉnh phía Nam dành
được ngoài mảnh đất màu mỡ và rộng lớn còn có được dân tộc Khơme đông nhất
trong 54 dân tộc đã biến Việt Nam từ một nước có văn hóa Phật giáo Đại thừa
sang một nước văn hóa Phật giáo Tiểu thừa.
Đồng thời, việc mở
rộng lãnh thổ của Việt Nam cũng là một trường hợp điển hình minh chứng cho quy
luật lịch sử “giữa các nước láng giềng không có quan hệ tốt ”. Nếu như quan hệ
ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc mới được tái lập vào năm 1991 thì quan
hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Campuchia cũng không được mặn mà khi 20 vạn quân
Việt Nam rút lui khỏi Campuchia dưới áp lực của chủ nghĩa tư bản đứng đầu là Mỹ
vào năm 1989. Quan hệ giữa Việt Nam và Thái cũng đối lập sâu sắc trong việc gây
ảnh hưởng trên đất Campuchia. Xét trên quan điểm địa chính học, quan hệ giữa
Việt Nam và Lào có thể là một dị biệt nhưng xét cho cùng thì có thể cũng không
khác với những mối quan hệ nước láng giềng đã nêu trên.
————-
2 Phan Huy Lê, Chu Thiên, Vương
Hoàng Tuyên, Đinh Xuân Lâm, Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, T.III,
Nxb Giáo dục, H.1961, p.484.
3 Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam
qua các đời, Nxb Văn hóa, H.2006; Nguyễn Đình Đầu, Việt Nam quốc hiệu và
cương vực qua các thời đại, Nxb BT, 2003; Song Jung Nam, A study on the
land system and territorial expansion in southern part of Vietnam: from the mid
– 16 century to 18 century SHPS T 36, 1999; Song Jung Nam, The Name and
Territory of Vietnam NCĐNA 16 – 2, 2007.
4 Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam
qua các đời, Sđd, p.227.
5 Đại Việt sử ký toàn thư, T.I,
Nxb KHXH, H.1998, p.228 tham khảo; Đại Việt sử ký tiền biên, Nxb KHXH,
H.1997, p.174 tham khảo; Song Jung Nam, Lịch sử Việt Nam, Nxb ĐHPS,
2001, p.134.
6 Đại Việt sử ký toàn thư, T.I,
Sđd, pp.274 – 275; Đại Việt sử ký tiền biên, Sđd, p.238; Lê Quý Đôn
toàn tập: Phủ biên tạp lục, T.I, Nxb KHXH, H.1977, p.32; Trần Trọng Kim, Việt
Nam sử lược, Nxb VHTT, H.1999, p.107; Song Jung Nam, The Name and Territory
of Vietnam NCĐNÁ 16 – 2, 2007, p.106.
7 Đại Việt sử ký toàn thư, T.I,
Sđd, p.278; Lê Quý Đôn toàn tập: Phủ biên tạp lục T.I, Sđd, p.32.
8 Đại Việt sử ký toàn thư, T.I,
Sđd, p.284; Đại Việt sử ký tiền biên, Sđd, p.546; Lê Quý Đôn toàn
tập: Phủ biên tạp lục, T.I, Sđd, p.32.
9 Đại Việt sử ký toàn thư, T.II,
Nxb KHXH, H.1998, p.91; Đại Việt sử ký tiền biên, Sđd, p.407; Lê Quý
Đôn toàn tập: Phủ biên tạp lục, T.I, Sđd, p.32.
10 Jung Nam, The Name and
Territory of Vietnam NCĐNÁ 16 – 2, 2007, p.107.
11 Đại Việt sử ký toàn thư, T.II,
Sđd, p.91; Lê Quý Đôn toàn tập: Phủ biên tạp lục, T.I, Sđd, p.32.
12 Đại Việt sử ký toàn th,ư T.II,
Nxb KHXH, 1998, p.145; Đại Việt sử ký tiền biên, Sđd, p.458 tham khảo.
13 Đại Việt sử ký toàn thư,T.II,
Sđd, p.91; Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Sđd, p.170.
14 Đại Việt sử ký toàn thư, T.II,
Sđd, pp.202 – 203; Đại Việt sử ký tiền biên, Sđd, p.512; Đào Duy Anh, Đất
nước Việt Nam qua các đời, Sđd, p.127; Lê Quý Đôn toàn tập: Phủ biên tạp
lục T.I, Sđd, p.35.
15 Đại Việt sử ký toàn thư, T.II,
Sđd, p.235; Đại Việt sử ký tiền biên, Sđd, p.546; Lê Quý Đôn toàn
tập: Phủ biên tạp lục ,T.I, Sđd, pp.37 – 38 tham khảo.
16 Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam
qua các đời, Sđd, p.168.
17 Đại Việt sử ký toàn thư, T.II,
Sđd, pp.441 – 452; Lê Quý Đôn toàn tập: Phủ biên tạp lục T.I, Sđd, p.43.
18 Phan Huy Lê, Lịch sử chế độ
phong keiens Việt Nam, T.II, Nxb GD, 1960, p.182; Đại Việt sử ký toàn
thư T.II, Sđd, p.464.
19 Đại Việt sử ký toàn thư, T.II,
Sđd, p.507.
20 Đại Việt sử ký toàn thư, T.II,
Sđd, p.450; Việt sử thông giám cương mục, T.XI, Nxb Văn Sử Địa, 1959,
pp.68 – 69; Lê Quý Đôn toàn tập: Phủ biên tạp lục, T.I, Sđd, p.43.
21 Đại Việt sử ký toàn thư, T.II,
Sđd, p.363 tham khảo.
22 Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam
qua các đời, Sđd, p.199.
23 Phan Huy Lê, Lịch sử chế độ
phong kiến Việt Nam, T.II, Sđd, p.174 – 177.
24 Đại Việt sử ký toàn thư, T.II,
Sđd, p.477.
25 Đại Việt sử ký toàn thư, T.II,
Sđd, p.464.
26 Song Jung Nam, Quan hệ giữa
Việt Nam và Thái Lan thời kỳ truyền thống, Hội thảo khoa học 2007 của hội Việt
Nam học Hàn Quốc, 2007, p.44.
27 Song Jung Nam, A Study on the
Development Factor of Trade in Dang Trong in 16th – 18th centuries NCĐNÁ 14
– 1, 2004, p.133.
28 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I,
Nxb Sử học, 1962, pp.43 – 44.
29 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I,
Sđd, p.83; Lê Quý Đôn toàn tập: Phủ biên tạp lục, T.I, Sđd, p.56 tham
khảo.
30 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I,
Sđd, p.147; Phan Khoang, Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558 – 1777, nhà sách
Khai Trí, 1969, pp.217 – 218.
31 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I,
Sđd, p.148.
32 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I,
Sđd, pp.148 – 153.
33 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I,
Sđd, p.150.
34 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I,
Sđd, pp.150 – 151; Phan Khoang, Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558 – 1777, Sđd,
pp.217 – 218.
35 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I,
Sđd, p.153.
36 Lê Nguyễn, Xã hội Đại Việt qua
bút ký của người nước ngoài, Nxb VN TP HCM, 2004, p.174; Phan Huy Lê, Chu
Thiên, Vương Hoàng Tuyên, Đinh Xuân Lâm, Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam,
T.III, Sđd, p.105; Song Jung Nam, Quan hệ giữa Việt Nam và Thái Lan thời kỳ
truyền thống, Bđd, p.43.
37 Phan Huy Lê, Chu Thiên, Vương
Hoàng Tuyên, Đinh Xuân Lâm, Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, Sđd,
pp.105 – 106; Phan Khoang, Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558 – 1777, Sđd,
pp.400 – 402.
38 Phan Huy Lê, Chu Thiên, Vương
Hoàng Tuyên, Đinh Xuân Lâm, Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, Sđd,
p.105; Yu In Sun, Lịch sử Việt Nam viết mới, Nxb Y San, 2002, 219 tham
khảo.
39 Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành
thông chí, Nxb Giaos dục, H.1998, pp.74 – 75; Đại Nam thực lực tiền
biên, T.I, Sđd, p.98 tham khảo; Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập,
Nxb Thuận Hóa, 1993, p.542; Lê Quý Đôn toàn tập: Phủ biên tạp lục, T.I,
Sđd, p.58 tham khảo.
40 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I,
Sđd, p.125; Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập, Sđd, p.542; Lê Quý
Đôn toàn tập: Phủ biên tạp lục, T.I, Sđd, p.62 tham khảo.
41 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I,
Sđd, p.167.
42 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I,
Sđd, pp.153 – 154; Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập, Sđd, p.542
tham khảo.
43 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I,
Sđd, p.167; Song Jung Nam, A study on the land system and territorial
expansion in southern part of Vietnam: from the mid – 16 century to 18 century SHBS
T 36, 1999, p.57.
44 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I,
Sđd, 1962, p.195; Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Sđd, p.78;
p.241; Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, Sđd, p.241; Phan
Khoang, Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558 – 1777, Sđd, p.232.
45 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I,
Sđd, 1962, p.208.
46 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I,
Sđd, p.224; Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập, Sđd, p.544; Trịnh
Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Sđd, p.78; Lê Quý Đôn toàn tập:
Phủ biên tạp lục T.I, Sđd, p.69; Phan Khoang, Việt sử: Xứ Đàng Trong
1558 – 1777, Sđd, p.242.
47 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I,
Sđd, p.226; Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập, Sđd, p.544; Trịnh
Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Sđd, pp.79 – 80; Phan Khoang,
Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558 – 1777, p.242; Song Jung Nam, A study on the
land system and territorial expansion in southern part of Vietnam: from the mid
– 16 century to 18 century SHBS T 36, 1999, p.58.
48 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I,
Sđd, pp.225 – 226; Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Sđd, p.79; Đại
Việt sử ký tục biên 1676 – 1789, Nxb KHXH, 1991, pp.257 – 258.
49 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I,
Sđd, p.226; Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập, Sđd, p.544; Trịnh
Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Sđd, p.79, p.80.
50 Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam
qua các đời, Sđd, p.243.
51 Song Jung Nam, The Name and
Territory of Vietnam NCĐNA 16 – 2, 2007, p.110.
52 Phan Huy Lê, Chu Thiên, Vương
Hoàng Tuyên, Đinh Xuân Lâm, Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, T.III,
Sđd, p.479.
53 Phan Huy Lê, Chu Thiên, Vương
Hoàng Tuyên, Đinh Xuân Lâm, Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, T.III,
Sđd, p.481.
——–
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét