Thứ Bảy, 24 tháng 9, 2011

Việt Nam 1945_1954

Đây là thời kỳ kháng chiến, kiến quốc:


I - TỪ ỦY BAN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG ĐẾN CHÍNH PHỦ
LÂM THỜI NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
  Tháng 8-1945, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc, phát xít Đức-ý đầu hàng Đồng minh. Hồng quân Liên Xô đánh tan đạo quân Quan đông-chủ lực của phát xít Nhật.
Từ ngày 13 đến ngày 15-8-1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng Cộng sản Đông Dương họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) nhận định cơ hội cho nhân dân Việt Nam giành quyền độc lập đã tới, những điều kiện cho cuộc khởi nghĩa ở Đông Dương đã chín muồi. Hội nghị chủ trương kịp thời lãnh đạo toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Hội nghị nêu rõ đường lối đối nội, đối ngoại của cách mạng Việt Nam trong tình hình mới; thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc, do ông Trường-Chinh, Tổng Bí thư của Đảng phụ trách. Ngay trong đêm 13-8-1945, Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc đã gửi Quân lệnh số 1 cho đồng bào và chiến sĩ cả nước nhanh chóng vùng dậy giành quyền độc lập.  
 
Ngày 16-8-1945, Đại hội Quốc dân họp ở Tân Trào đã thông qua Mười chính sách lớn của Việt Minh, thông qua Lệnh tổng khởi nghĩa, quyết định Quốc kỳ nền đỏ, ở giữa có sao vàng năm cánh, chọn bài Tiến quân ca làm Quốc ca và bầu ra Ủy ban Dân tộc giải phóng Trung ương tức Chính phủ lâm thời do Cụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. 
 
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” 1.   
 
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hơn 20 triệu nhân dân Việt Nam từ Bắc đến Nam đã đồng loạt vùng dậy tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa, giải phóng toàn bộ đất nước. 
 
Ngày 19-8, Hà Nội khởi nghĩa. Ngày 23-8 Huế khởi nghĩa, ngày 25-8 Sài Gòn khởi nghĩa. Chỉ trong vòng 12 ngày đêm trên đất nước Việt Nam, chính quyền của bọn đế quốc và phong kiến tay sai thống trị gần một trăm năm đã bị đập tan và chế độ quân chủ tồn tại hàng ngàn năm đã bị xoá bỏ vĩnh viễn, chế độ thuộc địa nửa phong kiến sụp đổ. Cách mạng Tháng Tám (1945) thành công. Lần đầu tiên chính quyền thật sự thuộc về nhân dân.  
 
Ngày 25-8-1945, Chủ tịch Ủy ban Dân tộc giải phóng Hồ Chí Minh về đến Hà Nội.
 
Ngày 27-8-1945, theo đề nghị của Người, Ủy ban Dân tộc giải phóng do Quốc dân Đại hội ở Tân Trào cử ra được cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Nhiều Ủy viên Việt Minh trong Chính phủ đã tự nguyện rút ra khỏi Chính phủ để mời thêm nhiều nhân sĩ ngoài Việt Minh tham gia. Chính phủ ra Lời tuyên cáo nói rõ: Nhiệm vụ của Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam hết sức nặng nề. Làm sao cho Chính phủ lâm thời tiêu biểu được Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi và đầy đủ. Bởi vậy, tuân theo chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ủy ban Dân tộc giải phóng đã quyết định tự cải tổ mời thêm một số nhân sĩ tham gia Chính phủ đặng cùng nhau gánh vác nhiệm vụ nặng nề mà quốc dân giao phó. Chính phủ lâm thời không phải là Chính phủ riêng của Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh (Việt Minh) như có người đã lầm tưởng. Cũng không phải là một Chính phủ chỉ bao gồm các đại biểu của các chính đảng. Nó thật là một Chính phủ quốc gia thống nhất, giữ trọng trách chỉ đạo trong toàn quốc, đợi đến ngày triệu tập được Quốc hội để cử ra một Chính phủ dân chủ cộng hòa chính thức.
 
Ngày 30-8-1945, tại Huế, các ông Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng, Cù Huy Cận thay mặt Chính phủ lâm thời tuyên bố chấp nhận sự thoái vị của Bảo Đại và nhận ấn, kiếm của nhà Vua giao nộp cho Chính phủ trước sự chứng kiến của hàng vạn đồng bào Thừa Thiên - Huế. 
 
Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ lâm thời đã làm lễ ra mắt quốc dân tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội.  
 
Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn Độc lập,trịnh trọng tuyên bố với quốc dân và thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.  
 
Ngày 3-9-1945, Chính phủ lâm thời đã họp phiên đầu tiên do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ tọa. Chính phủ đã thảo luận và tán thành 6 vấn đề cấp bách do Chủ tịch nêu ra là: 
1- Phát động phong trào tăng gia sản xuất để chống nạn đói, mở ngay cuộc lạc quyên gạo để giúp đỡ người nghèo.
2- Mở chiến dịch chống nạn mù chữ.
3- Tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu, soạn thảo Hiến pháp dân chủ..
4- Mở chiến dịch giáo dục cần, kiệm, liêm, chính để bài trừ thói hư tật xấu của chế độ thực dân để lại.    
5- Bỏ ngay thuế thân, thuế chợ, thuế đò, tuyệt đối cấm hút thuốc phiện.    
  6- Ra tuyên bố tự do tín ngưỡng và đoàn kết lương giáo.  
 
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945 tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội)
  
Quảng trường Ba Đình (Hà Nội) ngày 2-9-1945
  
Chủ tịch Hồ Chí Minh và các thành viên Chính phủ lâm thời sau phiên họp Chính phủ Đầu tiên (3-9-1945)
Từ trái sang phải: Hàng trước: Võ Nguyên Giáp (BT Nội vụ), Vũ Đình Hòe (BT Giáo dục), Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trần Huy Liệu (BT Thông tin), Nguyễn Văn Tố (BT Cứu tế)
Hai hàng sau: Nguyền Mạnh Hà (BT Kinh tế), Phạm Văn Đồng (BT Tài chính), Hoàng Tích Trí ( Thứ trưởng Y tế), Hoàng Minh Giám (BT Ngoại giao), Vũ Trọng Khánh (BT Tư pháp), Cù Huy Cận (BT Canh nông), Dương Đức Hiền (BT Thanh niên).

Ngày 4-9-1945, Chính phủ ra Sắc lệnh tổ chức Quỹ Độc lập, và Sắc lệnh ấn định Quốc kỳ Việt Nam hình chữ nhật, bề ngang bằng hai phần ba bề dài, nền màu đỏ tươi, ở giữa có sao năm cánh màu vàng tươi. Kèm theo đó là bản phụ định về kích thước cờ, mẫu sao, cách đặt sao. 
 
Chính phủ phát động “Tuần lễ vàng” (17 đến 24-9-1945), đã quyên góp được 370 kg vàng và 40 triệu đồng cho Quỹ Quốc phòng và 20 triệu đồng cho Quỹ Độc lập.     

Ngày 7-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh bãi bỏ thuế thân.
Ngày 8-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh thành lập Nha Bình dân học vụ để phụ trách việc chống nạn mù chữ trong cả nước.
Một lớp bình dân học vụ xoá mù chữ sau khi giành được chính quyền về tay nhân dân (1945)
Ngày 8-9-1945, Chính phủ ra Sắc lệnh mở cuộc Tổng tuyển cử để bầu Quốc dân đại hội (Quốc hội).     
Ngày 10-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 23-SL cử ông Vĩnh Thụy làm Cố vấn Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. 
Ngày 15-9-1945, Chính phủ thành lập Phòng Quân giới với hai nhiệm vụ mua sắm vũ khí và tổ chức sản xuất vũ khí.
Ngày 20-9-1945, Chính phủ ra Sắc lệnh số 34-SL thành lập Uỷ ban dự thảo Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (gồm 7 người).   
Ngày 22-9-1945, Chính phủ ra Sắc lệnh bãi bỏ thuế cho các môn bài có mức dưới 50 đồng, bãi bỏ thuế chợ, thuế xe đạp, thuế thổ trạch ở nông thôn.
Sau khi giành được độc lập, Nhà nước Dân chủ Cộng hoà non trẻ chẳng những phải giải quyết những hậu quả về kinh tế, xã hội do bọn đế quốc phong kiến để lại, mà còn phải đối phó ngay với nạn ngoại xâm. Mượn tiếng Đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật, quân đội Anh đã che chở cho bọn thực dân Pháp trở lại đánh chiếm Nam Bộ. Từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc, 20 vạn quân đội Tưởng Giới Thạch kéo vào đem theo cả bọn Việt gian phản động về nước, mưu toan chống phá cách mạng.     
 
Các hoạt động quyên góp cứu đói hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ (1945)
Ngày 23-9-1945, thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn rồi mở rộng chiến tranh ra toàn Nam Bộ, Nam Trung Bộ. Ngày 26-9-1945, qua Đài phát thanh, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi đồng bào Nam Bộ anh dũng kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Chính phủ đã ra huấn lệnh cho quân và dân Nam Bộ, đồng thời kêu gọi nhân dân cả nước chi viện sức người, sức của cho cuộc kháng chiến ở miền Nam; quyết định thành lập lực lượng Nam tiến, đưa ngay vào tham gia chiến đấu ở miền Nam.    

  Ngày 26-9-1945, Chính phủ ra Sắc lệnh số 39-SL lập Ủy ban dự thảo thể lệ Tổng tuyển cử (gồm 9 người). Sau đó, ngày 17-10-1945, Chính phủ ra Sắc lệnh số 51-SL quy định thể lệ Tổng tuyển cử, ấn định ngày 23-12-1945 sẽ mở cuộc Tổng tuyển cử trong toàn quốc.    

  Ngày 17-10-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư cách Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã gửi điện văn tới Tổng thống Mỹ H.Tơruman khẳng định địa vị pháp lý của Việt Nam trong các quan hệ quốc tế, trong việc giải quyết các vấn đề của Việt Nam và khu vực. Trong công điện gửi tướng Đờ Gôn, người đứng đầu Chính phủ Pháp; điện văn gửi Chủ tịch Quốc hội Pháp; điện văn gửi Hội nghị liên Phi; các điện văn gửi Thống chế Tưởng Giới Thạch; thư gửi Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ,v.v, và trong các cuộc trả lời phỏng vấn báo chí trong, ngoài nước tháng 9 và tháng 10-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn khẳng định chủ quyền của Việt Nam, xác định rõ địa vị pháp lý của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trên trường quốc tế. Người yêu cầu các quốc gia tôn trọng thực tế lịch sử hiển nhiên đó.
 
Ngày 20-10-1945, Chính phủ ra Thông tư giảm tô 25% so với mức địa tô trước Cách mạng .
Ngày 26-10-1945, Chính phủ ra Nghị định giảm thuế ruộng 20% và miễn thuế hoàn toàn cho những vùng bị ngập lụt.
Ngày 8-11-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn dân chống nạn đói, một trong những tai họa lớn và cấp bách. Trước đó trong phiên họp của Chính phủ ngày 3-9, Chủ tịch đã đề nghị phát động một chiến dịch cứu đói. Cuối tháng 9, Chủ tịch kêu gọi mọi người nhường cơm xẻ áo và Người “xung phong làm trước, cứ mười ngày nhịn ăn một bữa đem gạo để cứu dân nghèo”. Toàn dân ta hết lòng hưởng ứng phong trào tăng gia sản xuất do Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động. Nạn đói đã thu hẹp dần và cuối cùng bị dập tắt.   
Ngày 11-11-1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương rút vào hoạt động bí mật.
Ngày 22-11-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 63-SL về tổ chức, quyền hạn, cách làm việc của Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính các cấp. Theo Sắc lệnh trên, chính quyền ở mỗi địa phương sẽ có 2 cơ quan: thay mặt cho dân là Hội đồng nhân dân do phổ thông đầu phiếu bầu ra, vừa thay mặt cho dân vừa đại diện cho Chính phủ là Ủy ban hành chính do Hội đồng nhân dân bầu ra.  
 
Sau khi có Sắc lệnh số 63-SL, ở Bắc Bộ, trong số 227 huyện và thị xã, có 128 huyện và thị xã đã bầu được Ủy ban hành chính chính thức. ở Trung Bộ, trừ các tỉnh trực tiếp kháng chiến, tất cả các tỉnh còn lại đều đã có Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính chính thức. ở Nam Bộ, do hoàn cảnh chiến tranh bùng nổ sớm, sau một thời gian phân tán, Ủy ban nhân dân lâm thời khắp nơi lần lượt được tập trung và hoạt động trở lại (sau đó đổi thành Ủy ban kháng chiến lâm thời).  
 
Ngày 1-12-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 70-SL cử Bộ trưởng Lao động Lê Văn Hiến làm Đặc phái viên của Chính phủ ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ. 
 
Ngày 2-12-1945, Chính phủ ra Sắc lệnh số 71 và 72-SL về bổ sung thể lệ Tổng tuyển cử. Tiếp đó, ngày 18-12-1945, Chính phủ ra Sắc lệnh số 76-SL hoãn ngày Tổng tuyển cử đến ngày 6-1-1946 và gia hạn nộp đơn ứng cử đến hết ngày 27-12-1945.    
 
Ngày 21-12-1945, Chính phủ ra Sắc lệnh số 77-SL về việc thành lập thành phố trực thuộc Chính phủ Trung ương, hoặc Kỳ, thị xã thuộc Kỳ hoặc tỉnh.
Thực hiện Chỉ thị Kháng chiến, kiến quốc của Trung ương Đảng, ngày 31-12-1945, Chính phủ ra Sắc lệnh số 78-SL thành lập Ủy ban Nghiên cứu kế hoạch Kiến quốc của Chính phủ. Ủy ban này gồm 41 thành viên đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Chính phủ. Ủy ban có nhiệm vụ nghiên cứu một kế hoạch thiết thực để kiến thiết đất nước về mặt kinh tế, tài chính, hành chính, xã hội, văn hoá và nghiên cứu những dự án kiến thiết khác

II -  CHÍNH PHỦ LIÊN HIỆP LÂM THỜI VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA (1-1-1946)
    Nhằm mở rộng hơn nữa khối đoàn kết toàn dân, ổn định tình hình bên trong để tập trung đối phó với bọn xâm lược nước ngoài, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương thành lập Chính phủ liên hiệp lâm thời có sự tham gia của một số phần tử trong Việt Nam Quốc dân đảng và Việt Nam Cách mệnh đồng minh hội, với điều kiện: Chính phủ này phải tổ chức tốt cuộc Tổng tuyển cử, thống nhất các lực lượng vũ trang và sẽ từ chức khi triệu tập Quốc dân đại hội.          
 
Ngày 1-1-1946, Chính phủ liên hiệp lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Chủ tịch đã làm lễ ra mắt tại Nhà hát thành phố, trước 30 nghìn nhân dân Hà Nội.  
 
Thay mặt Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã công bố danh sách Chính phủ mới, và đường lối đối nội, đối ngoại của Chính phủ. Người cùng các thành viên Chính phủ tuyên thệ:
1- Chúng tôi kiên quyết lãnh đạo quốc dân; 
2- Giữ vững nền độc lập cho Tổ quốc;        
    3- Thực hiện quyền dân chủ cho nước Việt Nam đặng mang lại tự do chính thức cho dân tộc;
4- Trong lúc giữ nền độc lập, quyết vượt hết mọi nỗi khó khăn nguy hiểm, dù phải hy sinh tính mệnh cũng không từ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn thể nhân dân ủng hộ để Chính phủ có thể đi đến thành công.
Chính phủ liên hiệp lâm thời tồn tại từ ngày 1-1 đến ngày 2-3-1946. Trong thời gian đó, dưới sự lãnh đạo khéo léo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chính phủ đã dàn xếp ổn thoả với quân đội Tưởng Giới Thạch; lãnh đạo và chi viện tích cực cho cuộc kháng chiến ở miền Nam; tổ chức thắng lợi cuộc Tổng tuyển cử; phát hành giấy bạc Việt Nam, động viên toàn dân tham gia sản xuất, đẩy lùi nạn đói. 


 III - TỔNG  TUYỂN CỬ - THÀNH LẬP  CHÍNH PHỦ LIÊN HIỆP
KHÁNG CHIẾN

 
   Ngày 6-1-1946, cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên diễn ra trên đất nước Việt Nam. Lần đầu tiên trong lịch sử mọi người dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt nam, nữ đều được hưởng quyền bầu cử và ứng cử Quốc hội.  Hơn 90% tổng số cử tri đã đi bỏ phiếu. Nhân dân cả nước đã bầu 333 đại biểu vào Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Chủ tịch Hồ Chí Minh ứng cử ở Hà Nội và đã trúng cử với số phiếu cao nhất là 98,4%.
 
Ngày 26-1-1946, Chính phủ liên hiệp lâm thời ban bố Quốc lệnh gồm 10 điều thưởng và 10 điều phạt. Trong 10 điều thưởng có các điều: 1- Nhà nào có 3 con tòng quân sẽ được thưởng. 2- Ai lập được quân công sẽ được thưởng. 3- Ai vì nước hy sinh sẽ được thưởng. Trong 10 điều phạt có các điều: 1- Thông tin với giặc, phản quốc sẽ bị xử tử. 2- Trái quân lệnh sẽ bị xử tử. 3- Ra trận tự ý rút lui sẽ bị xử tử. 5- Phá hoại quân khí sẽ bị xử tử. 6- Để cho bộ đội hại dân sẽ bị xử tử.           
 
Chính phủ Liên hiệp kháng chiến ra mắt (2-3-1946)
Ngày 21-2-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 23-SL về việc thành lập “Việt Nam Công an vụ”. Với Sắc lệnh này, cơ quan An ninh quốc gia có hệ thống tổ chức từ Trung ương đến địa phương đã được thành lập.  
 
Ngày 2-3-1946, Quốc hội khoá I đã tiến hành  kỳ họp thứ nhất tại Thủ đô Hà Nội. Quốc hội đã thông qua danh sách 70 đại biểu của Việt Nam Quốc dân đảng và Việt Nam Cách mệnh đồng minh hội  bổ sung vào Quốc hội. Quốc hội đã  nhất trí bầu Cụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch  Chính phủ  liên hiệp kháng chiến; bầu Cụ Nguyễn Văn Tố làm Trưởng ban Thường trực Quốc hội.  Quốc hội công nhận Chính phủ liên hiệp kháng chiến do Chủ tịch Hồ Chí Minh thành lập. Quốc hội cũng đã bầu Tiểu ban dự thảo Hiến pháp, Kháng chiến uỷ viên hội và Đoàn cố vấn tối cao. Quốc hội trao cho Chính phủ liên hiệp kháng chiến nhiệm vụ “thực hiện triệt để sự thống nhất các lực lượng của quốc dân về phương diện quân sự, tuyên truyền, hành chính, tư pháp”, tổng động viên nhân lực và tài  sản của quốc gia theo nhu cầu của tình thế để đưa kháng chiến đến thắng lợi và nước nhà đến độc lập hoàn toàn. Chính phủ có quyền tuyên chiến hay đình chiến sau khi đã thoả thuận với Ban Thường trực Quốc hội. 
 
Trong phiên họp đầu tiên ngày 4-3-1946, Chính phủ liên hiệp kháng chiến đã quyết định một số chủ trương đối nội và đối ngoại:

Về đối nội:
1- Các đảng phái phải đoàn kết chặt chẽ, ngôn luận, hành động phải nhất trí để phụng sự quốc gia.
2- Sinh mệnh và tài sản của tất cả công dân Việt Nam và kiều dân ngoại quốc được hoàn toàn bảo đảm.
3- Hành chính và quân đội phải thống nhất, tài chính kinh tế tập trung.          
   4- Mọi lực lượng của quốc dân được huy động để dùng trong việc kháng chiến kiến quốc và toàn thể nhân dân, nhất là những người làm việc công phải tuân theo kỷ luật.
Về ngoại giao:
1- Đối với các nước Đồng minh, nước Việt Nam bao giờ cũng chủ trương thân thiện, nhất là đối với Trung Hoa.
2- Đối với các nước nhược tiểu đang đấu tranh giành độc lập thì dân tộc Việt Nam rất đồng tình.      
3- Đối với nhân dân Pháp, dân tộc Việt Nam không thù hằn, song cực lực phản đối chế độ thực dân và cương quyết giữ quyền độc lập. Chính phủ Việt Nam chỉ nhận điều đình với Chính phủ Pháp theo nguyên tắc “Dân tộc tự quyết” của Hiến chương Đại Tây Dương.1        
 
Do tình thế đặc biệt cấp bách về ngoại giao, nhất là sau khi Hiệp ước Pháp-Hoa đã được ký kết (28-2-1946), Chính phủ đã quyết định cử Cụ Hồ Chí Minh, các ông Nguyễn Tường Tam, Phan Anh, Võ Nguyên Giáp và Vũ Hồng Khanh phụ trách giải quyết công việc đàm phán.
Đối với Pháp, Chính phủ Việt Nam chủ trương “hoà để tiến”, tránh tình thế một lúc phải chiến đấu với nhiều kẻ thù, tranh thủ thêm thời gian hoà bình để củng cố và phát triển lực lượng.  
 
Ngày 6-3-1946,  tại nhà số  2 phố Lê Lai, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Việt Nam cùng với  đại diện Chính phủ Pháp J.Xanhtơny (Sainteny) ký Hiệp định Sơ bộ Việt - Pháp  -  Bản Hiệp định quốc tế đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà với nước ngoài. Nội dung tóm tắt của
Hiệp định là:    
 
- Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là một nước tự do, có Chính phủ, Nghị viện, quân đội, tài chính của mình, ở trong Liên bang Đông Dương và khối Liên hiệp Pháp .
- Pháp cam đoan thừa nhận kết quả của việc trưng cầu dân ý về thống nhất ba kỳ.   
 
- Việt Nam thỏa thuận để 15.000 quân Pháp ra Bắc Việt Nam, thay thế quân Tưởng và sẽ rút đi sau một thời gian quy định.    
 
- Đình chiến để đàm phán chính thức.          
 
Do kết quả của Hiệp định trên Việt Nam đã có gần một năm hoà bình để xây dựng lực lượng căn bản cho cuộc kháng chiến lâu dài.
Ngày 22-3-1946, Chính phủ ra Sắc lệnh số 33-SL quy định cấp bậc, quân phục, quân hiệu, cấp hiệu cho Lục quân.
Ngày 29-3-1946, Chính phủ ra Sắc lệnh số 40-SL về việc bảo vệ tự do cá nhân và Sắc lệnh số 41-SL về những quy định tạm thời cho chế độ báo chí và xuất bản.   
 
Ngày 10-4-1946, Chính phủ ra Sắc lệnh số 48-SL về việc thiết lập Đảm phụ quốc phòng, nhằm huy động của cải của nhân dân đóng góp cho nhu cầu kháng chiến và kiến quốc.
Ngày 22-4-1946, Chính phủ ra Sắc lệnh số 52-SL quy định thể thức xin lập hội (hoặc đoàn thể) của công dân Việt Nam.   
 
Để chuẩn bị cho cuộc đàm phán đình chiến, từ  ngày  18-4 đến ngày 12-5-1946 phái đoàn Chính phủ Việt Nam và Pháp đã họp trù bị ở Đà Lạt. Phái đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do ông Võ Nguyên Giáp lãnh đạo. Trong hội nghị phái đoàn  Việt Nam  đã  đấu tranh vạch trần âm mưu của thực dân  Pháp định xoá bỏ  Hiệp định Sơ bộ 6-3  hòng  lập lại chế độ thuộc địa ở Việt Nam, kiên quyết giữ vững lập trường: “hoà bình trong tự do, bình đẳng, phù hợp với Hiệp định Sơ bộ 6-3, chứ không phải hoà bình trong nô lệ”. 
 
Sau gần  1 tháng, Hội nghị bế tắc vì thái độ  ngoan cố của phái đoàn Pháp.  
 
Ngày 22-5-1946, Chính phủ ra Sắc lệnh số 71-SL về việc quân đội của nước Việt Nam là một quân đội quốc gia. Sắc lệnh đã đổi tên Vệ quốc đoàn thành Quân đội quốc gia của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Trong quân đội có một hệ thống biên chế thống nhất theo từng trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội.        
 
Từ  ngày 6-7 đến ngày 3-9-1946, phái đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa  do ông Phạm Văn Đồng làm Trưởng đoàn đã sang Pháp dự cuộc đàm phán Việt-Pháp ở Phôngtennơblô (Fontainebleau). Dưới sức ép của  các thế lực phản động Pháp và được  Mỹ ủng hộ, Chính phủ Pháp vẫn giữ nguyên những quan điểm từ Hội nghị trù bị Đà Lạt đối với những vấn đề cơ bản quyết định quan hệ giữa hai nước Việt-Pháp. Mặt khác, Chính phủ Pháp vẫn dung túng cho bọn thực dân hiếu chiến ở Đông Dương thực hiện từng bước chính sách lấn dần, trắng trợn xoá bỏ Hiệp định Sơ bộ. Vì thái độ ngoan cố đó, cuộc đàm phán phải đình chỉ.     
    
Ngày 27-5-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì phiên họp Hội đồng Chính phủ, quyết định Cụ Huỳnh Thúc Kháng tạm thay Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời gian Người đi vắng.  Sau đó ngày 29-5-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 82-SL về việc ủy nhiệm Cụ Huỳnh Thúc Kháng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ thay Chủ tịch Chính phủ đi vắng, ký  công văn hàng ngày và chủ toạ họp Hội đồng Chính phủ.         
 
Ngày 30-5-1946, Chính phủ ra Sắc lệnh số 89-SL về việc Chính phủ Việt Nam tạm thời giành quyền tìm kiếm mỏ và Sắc lệnh số 90-SL ấn định những khu mỏ thuộc quyền sở hữu của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Ngày 31-5-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư cách là thượng khách của Chính phủ Pháp đã lên đường sang thăm nước Pháp. Trước khi lên đường, Người viết  thư gửi đồng bào Nam Bộ, khẳng định:
“Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam.
Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi ”1.
Những ngày ở nước Pháp,  Chủ tịch Hồ Chí Minh  tiếp xúc với Đảng Cộng sản, các tầng lớp nhân dân Pháp, gặp gỡ đại biểu Việt kiều, các nhân sĩ, trí thức, một số người đứng đầu  các đảng phái ở Pháp. Người ra sức tuyên truyền, làm sáng tỏ cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam, tranh thủ sự đồng tình, nâng cao uy tín quốc tế của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Người tỏ rõ thiện chí hoà bình trên nguyên tắc bảo vệ chủ quyền và thống nhất của dân tộc Việt Nam.   
 
Do thái độ ngoan cố và hiếu chiến của thực dân Pháp, cuộc đàm phán giữa hai phái đoàn Chính phủ thất bại. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký với Chính phủ Pháp Tạm ước ngày 14 tháng 9 để tranh thủ thời gian tiếp tục xây dựng lực lượng, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến toàn quốc mà Người biết chắc chắn sẽ xảy ra. Ngày 16-9, Chủ tịch rời Pari và về đến Hải Phòng ngày 20-10-1946.       

IV -  THÔNG  QUA HIẾN PHÁP ĐẦU TIÊN CỦA NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ VÀ THÀNH LẬP CHÍNH PHỦ MỚI

 
   Từ ngày 28-10 đến ngày 9-11-1946, Quốc hội khoá I, trong kỳ họp thứ 2 đã thảo luận và thông qua những chủ trương cấp bách để chuẩn bị kháng chiến.  Chủ tịch Hồ Chí Minh trình Quốc hội danh sách Chính phủ mới thay cho Chính phủ liên hiệp kháng chiến. Quốc hội triệt để tín nhiệm  Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người công dân số một, và Chính phủ mới do Chủ tịch thành lập.  Các đại biểu thuộc các tổ chức chính trị đi ngược lại quyền lợi của dân tộc hoàn toàn bị gạt ra khỏi Chính phủ.  Quốc hội đã bầu Cụ Bùi Bằng Đoàn làm Trưởng ban Thường trực Quốc hội. Quốc hội đã thảo luận và thông qua  Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Ngày 9-11-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh công bố bản Hiến pháp này.   
 
Hiến pháp 1946 - đạo luật cơ bản của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã quy định Chính thể (chương I), Nghĩa vụ và quyền lợi công dân (chương II), Nghị viện (chương III), Chính phủ (chương IV), Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính (chương V), Cơ quan tư pháp (chương VI), Sửa đổi Hiến pháp (chương VII).  
 
Trong Hiến pháp, phần nói về Chính phủ, Chương IV, Điều  thứ 43 ghi rõ:
Chính phủ mới (3-11-1946)
Từ trái sang phải:
Hàng trước: Nguyễn Văn Tố (BT Cứu Tế), Chủ tịch Hồ Chí Minh, Huỳnh Thúc Kháng (BT Nội vụ)
Hàng giữa: Nguyễn Văn Huyên (BT giáo dục), Phạm Văn Đồng, Trần Đăng Khoa (BT Giao thông công chính), Hoàng Tích Trí (Thứ trưởng Bộ Y tế) Vũ Đình Hèo (BT Tư pháp), Lê Văn Hiến (BT Tài chính), Võ Nguyễn Giáp (BT Quốc phòng), Nguyễn Văn Tạo (BT Lao động).
Hàng sau: Trần Công Trường (Thứ trưởng Tư pháp), Trịnh Văn Bính (Thứ trưởng Tài chính), Đặng Phúc Không (Thứ trưởng Giao thông công chính), Cù Huy Cận (Thứ trưởng Canh nông), Bồ Xuân Luật (BT Canh nông), Hoàng Minh Giáp (Đổng lý Văn phòng Bộ Nội vụ), hai người cuối hàng chưa rõ.
Cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc là Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Điều  thứ  44: Chính phủ gồm có Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Phó Chủ tịch và Nội các. Nội các có Thủ tướng, các Bộ trưởng, Thứ trưởng. Có thể có Phó Thủ tướng.  
 
Điều  thứ 52. Quyền hạn của Chính phủ :
a- Thi hành các đạo luật và quyết nghị của Nghị viện.
b- Đề nghị những dự án luật ra trước Nghị viện.
c- Đề nghị những dự án Sắc luật ra trước Ban Thường vụ, trong lúc Nghị viện không họp mà gặp trường hợp đặc biệt.
d- Bãi bỏ những mệnh lệnh và Nghị quyết của cơ quan cấp dưới, nếu cần.
đ- Bổ nhiệm hoặc cách chức các nhân viên trong các cơ quan hành chính hoặc chuyên môn.
e- Thi hành luật động viên và mọi phương sách cần thiết để giữ gìn đất nước.
g- Lập dự án ngân sách hằng năm.
Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là bản Hiến pháp dân chủ, phản ánh rõ thắng lợi của cách mạng Việt Nam, khẳng định quyền dân tộc độc lập, thống nhất lãnh thổ và quyết tâm bảo vệ đất nước của toàn dân, xây dựng một thể chế dân chủ cộng hoà, một chế độ bảo đảm quyền dân chủ tự do của mọi công dân không phân biệt nam, nữ, đặc biệt ưu đãi đối với đồng bào các dân tộc thiểu số. Công dân Việt Nam được quyền trực tiếp bầu ra Nghị viện-cơ quan có
quyền lực cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đại diện cho quyền làm chủ đất nước của toàn dân và chịu trách nhiệm trước quốc dân với vận mệnh lịch sử của dân tộc, của mọi người dân trên con đường đấu tranh vì độc lập, tự do, hạnh phúc.   
 
Đánh giá về bản Hiến pháp này, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Đó là bản Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử nước nhà”. “Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới nước Việt Nam đã độc lập..., dân tộc Việt Nam đã có đủ mọi quyền tự do..., phụ nữ Việt Nam được đứng ngang hàng với đàn ông để được hưởng chung mọi quyền tự do của một công dân. Hiến pháp đó đã nêu một tinh thần đoàn kết chặt chẽ giữa các dân tộc Việt Nam và một tinh thần liêm khiết, công bình của các giai cấp”1.

Ngày 5-11-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Chỉ thị Công việc khẩn cấp bây giờ. Người chỉ rõ: Công việc khẩn cấp là kháng chiến và kiến quốc. Người dự đoán cuộc kháng chiến sẽ gay go, gian khổ, nhưng chúng ta kiên quyết chống chọi với các trận khủng bố của địch, thì ta sẽ thắng.       
 
Tháng 11-1946, cả nước chia thành 12 khu hành chính và quân sự. Mỗi khu có Uỷ ban kháng chiến khu phụ trách hành chính, Khu trưởng phụ trách quân đội.  
 
Ngày 20-11-1946, thực dân Pháp bội ước nổ súng đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn và đổ bộ hàng nghìn quân lên Đà Nẵng.              
 
Ngày 30-11-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 230-SL bổ nhiệm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Võ Nguyên Giáp giữ chức Tổng chỉ huy quân đội toàn quốc.          
Ngày 15-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thông điệp cho Thủ tướng Chính phủ Pháp Lêông Blum, nhắc lại lập trường đúng đắn của phía Việt Nam, nêu ra một số điều kiện để cải thiện mối quan hệ giữa Việt Nam và Pháp, nhưng bức thông điệp đã không được đáp lại.
Ngày 18 và 19-12-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp hội nghị mở rộng ở Vạn Phúc (Hà Đông) dưới sự chủ toạ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, hạ quyết tâm phát động toàn dân kháng chiến và quyết định đánh trước để giành thế chủ động.   
 
 Ngày 19-12-1946, Hà Nội mở đầu cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược. Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến: “Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa.         
 
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”1.      
 
Từ sau ngày toàn quốc kháng chiến, đến  tháng 2-1947, quân và dân Việt Nam  bao vây đánh địch ở khắp các mặt trận. Toàn bộ quân Pháp ở thành phố Vinh bị tiêu diệt gọn, quân Pháp ở Bắc Ninh, Bắc Giang phải rút chạy. ở Hà Nội, Nam Định, Huế, Đà Nẵng quân địch bị vây hãm, tiêu hao, tiêu diệt. Sau khi địch có thêm nhiều viện binh, với chủ trương không đánh trận địa với địch, không đương đầu với hỏa lực mạnh của địch và tránh mũi dùi chủ lực của địch, để bảo toàn lực lượng và duy trì sức chiến đấu lâu dài, các đơn vị bộ đội chủ lực đã rút ra ngoài thành phố sau thời gian vây hãm 60 ngày ở Hà Nội, 90 ngày ở Nam Định, 50 ngày ở Huế và 25 ngày ở Đà Nẵng. Cuộc kháng chiến lan rộng về vùng nông thôn.         
 
Tháng 3-1947, Chính phủ quyết định đổi tên Bộ Tổng chỉ huy quân đội quốc gia thành Bộ Tổng chỉ huy quân đội quốc gia và dân quân tự vệ, và thành lập các ban chỉ huy tỉnh đội, huyện đội, xã đội thuộc ủy ban kháng chiến các cấp.                      
 
Ngày 11 - 5 - 1947, tại thị xã Thái Nguyên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp Pôn Muýt (Paul Mus) đại diện Cao ủy Pháp Bôlae (Bollaert ) để trao đổi về điều kiện ngừng bắn của hai phía Việt - Pháp. Do dã tâm xâm lược và yêu sách ngang ngược của thực dân Pháp đòi phía Việt Nam phải đầu hàng, cuộc hội kiến đã không mang lại kết quả.  
Năm 1947, Chính phủ đã được cải tổ. Một số nhân sĩ, trí thức được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời giữ một số ghế trong Chính phủ nhằm thực hiện tính liên hiệp quốc dân rộng rãi hơn. Ông Phan Anh giữ chức Bộ trưởng Bộ Kinh tế; ông Hoàng Minh Giám giữ chức Bộ trưởng Bộ Ngoại giao; ông Tạ Quang Bửu giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; ông Đặng Văn Hướng giữ chức Bộ trưởng không bộ. Sau khi Bộ trưởng Huỳnh Thúc Kháng qua đời, tháng 11-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mời ông Phan Kế Toại giữ chức Quyền Bộ trưởng Bộ Nội vụ.
 
Ngày 1-10-1947, Chính phủ ra Sắc lệnh số 91-SL, hợp nhất ủy ban kháng chiến và ủy ban hành chính từ cấp tỉnh đến xã thành ủy ban kháng chiến kiêm hành chính; Quy định thành phần ủy ban và quan hệ làm việc giữa ủy ban các cấp.          
 
Ngày 17-10-1947, Chính phủ ra Sắc lệnh số 263-SL/M cử ông Phạm Văn Đồng làm Đặc phái viên Chính phủ tại Nam Trung Bộ.
 
Một cuộc họp Chính phủ tại chiến khu Việt Bắc trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp
Từ  ngày 7-10 đến 22-12-1947, Chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947 đã giành thắng lợi to lớn. Trong chiến dịch này, quân địch tập trung một lực lượng lớn gồm 15 nghìn quân (7 trung đoàn bộ binh và dù, 4 tiểu đoàn công binh, pháo binh, 1 tiểu đoàn cơ giới 800 xe, 2 phi đội máy bay 40 chiếc, 1 thủy đội xung kích 40 tàu xuồng), do Trung tướng Xa Lăng (Saland) chỉ huy, chia làm 3 hướng đánh vào Việt Bắc - căn cứ địa cách mạng của cả nước và là một vùng chiến lược quan trọng với hy vọng tiêu diệt cơ quan lãnh đạo Trung ương và bộ đội chủ lực của Việt Nam, chặn đường tiếp tế và liên lạc của Việt Nam  với bên ngoài, phá hoại kinh tế và tàn sát nhân dân vùng căn cứ địa.      
 Trong Chiến dịch Việt Bắc, quân và dân Việt Nam  đã đánh hơn 200 trận, loại khỏi vòng chiến đấu hàng nghìn tên địch, bắn rơi nhiều máy bay, phá hàng trăm xe cơ giới, bắn chìm nhiều tàu chiến và ca nô, thu hàng nghìn súng các loại và nhiều đồ dùng quân sự khác. Âm mưu thâm độc của thực dân Pháp hòng nhanh chóng kết thúc cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam đã bị thất bại.
Ngày 20-1-1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 110-sl phong quân hàm Đại tướng cho ông Võ Nguyên Giáp. Tháng 7-1948, ông Võ Nguyên Giáp giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, kiêm Tổng chỉ huy quân đội Quốc gia và dân quân Việt Nam.           
Ngày 25-1-1948, Chính phủ ra Sắc lệnh số 120-SL thành lập các liên khu trong cả nước để tăng cường chỉ đạo chiến tranh. Theo Sắc lệnh này, 7 khu ở Bắc Bộ đổi thành 3 liên khu: Liên khu I, X và III. Bốn khu ở Trung Bộ đổi thành 2 liên khu: Liên khu IV, V. Nam Bộ thành 1 Liên khu (gồm ba khu VII, VIII, IX và đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn.     
  
Ngày 1-6-1948, Chính phủ ra Sắc lệnh số 197-SL, thành lập Ban vận động thi đua các cấp.
Ngày 11-6-1948, nhân kỷ niệm 1.000 ngày kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết lời kêu gọi thi đua ái quốc.
Ngày 19-8-1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 206-SL thành lập Hội đồng Quốc phòng tối cao để nghiên cứu kế hoạch kháng chiến toàn diện và trình Chính phủ duyệt và thực hiện kế hoạch ấy. Hội đồng Quốc phòng tối cao do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Từ ngày 14 đến ngày 18-1-1949, Hội nghị cán bộ lần thứ 6 của Đảng đã nghe và thảo luận báo cáo “Tích cực cầm cự và chuẩn bị tổng phản công” do Tổng Bí thư Trường-Chinh trình bày. Hội nghị nhận định: “Giai đoạn cầm cự chiến lược đã bắt đầu từ năm 1948 sau Chiến dịch Việt Bắc và nhiệm vụ chủ yếu trong giai đoạn chiến lược thứ hai là tích cực cầm cự và chuẩn bị tổng phản công”. Khẩu hiệu của Đảng đề ra lúc này là: “Tất cả để đánh thắng”. Hội nghị đặc biệt chú trọng đến vấn đề thực hiện chính sách ruộng đất và đề nghị Chính phủ ra Sắc lệnh giảm tô.      
 
Tháng 2-1949, Chính phủ ra Sắc lệnh tạm cấp ruộng đất của Việt gian và Thông tư chia ruộng đất của thực dân Pháp cho nông dân nghèo, nhằm chấm dứt tình trạng một số đồn điền trại ấp lâu ngày không được canh tác.  
 
Ngày 12-3-1949, Chính phủ ra Sắc lệnh số 14-SL, đổi tên Bộ Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia và Dân quân Việt Nam thành Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội quốc gia và Dân quân Việt Nam; các bộ chỉ huy Liên khu quân sự thành Bộ Tư lệnh Liên khu; Tổng chỉ huy gọi là Tổng Tư lệnh; Liên khu trưởng gọi là Tư lệnh Liên khu.
 
Ngày 18-6-1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 72-SL thành lập Hội đồng tu luật do Bộ Tư pháp chủ trì. Từ năm 1950, Hội đồng tu luật được chuyển cho Ban Thường trực Quốc hội.        
 
Ngày 14-7-1949, Chính phủ ban hành Sắc lệnh ấn định mức địa tô và thành lập ở mỗi tỉnh một Hội đồng giảm tô. Sắc lệnh quy định chủ ruộng phải giảm 25% so với mức địa tô trước Cách mạng Tháng Tám; xoá bỏ tô phụ và chế độ quá điền.            
 
Ngày 25-7-1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh cử ông Phạm Văn Đồng giữ chức Phó Thủ tướng Chính phủ và được bổ sung giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng.
Ngày 4-11-1949, Chính phủ ban hành Sắc lệnh quy định nghĩa vụ quân sự cho nam công dân từ 18 đến 45 tuổi và Sắc lệnh hợp nhất Liên khu I  và Liên khu X thành Liên khu Việt Bắc, lập ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu Việt Bắc.
 
Ngày 18-12-1949, Chính phủ ra Sắc lệnh số 138b-SL, thành lập Ban Thanh tra Chính phủ trực thuộc Phủ Thủ tướng.           
 
Ngày 21-1-1950, Hội nghị toàn quốc lần thứ 3 của Đảng đã đề ra 10 nhiệm vụ công tác trong năm 1950 để hoàn thành nhiệm vụ chuyển mạnh cuộc kháng chiến sang tổng phản công.
Ngày 12-2-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh  ký Sắc lệnh Tổng động viên, để thực hiện khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”.
Chủ tịch Hồ Chính Minh thăm xưởng quân giới tại Việt Bắc trong kháng chiến chống Pháp.

Chủ tịch Hồ Chí Minh theo dõi mặt trận Đông Khê trong chiến dịch Lê Hồng Phong.
Được nhân dân tích cực hưởng ứng, cuộc tổng động viên kết hợp và hoà nhập với phong trào thi đua ái quốc đã phát triển sôi nổi và mạnh mẽ chưa từng thấy. Chỉ riêng từ liên khu IV trở ra đã có trên 500.000 thanh niên ghi tên tòng quân, hàng mấy chục vạn đồng bào hăng hái lên đường đi dân công phục vụ tiền tuyến. Nhân dân còn quyên góp tiền, của, thóc gạo cho kháng chiến. Trên cả nước, từ Việt Bắc đến Nam Bộ, đâu đâu đồng bào cũng ra sức đóng góp phần mình cho kháng chiến.    
 
Ngày 4-5-1950, Chính phủ ra Sắc lệnh số 68-SL thành lập Ban Kinh tế Chính phủ.
 
Ngày 22-5-1950, Chính phủ ra Sắc lệnh số 88-SL quy định thể lệ lĩnh canh ruộng đất và Sắc lệnh số 89-SL quy định việc giảm lãi, xoá nợ, hoãn nợ.  
 
Ngày 9-9-1950, Chính phủ Việt Nam  ban hành Công trái quốc gia để huy động nhiều thóc,  gạo phục vụ nhiệm vụ kháng chiến.
Chiến dịch Cao-Bắc-Lạng, tức Chiến dịch Biên giới thu đông năm 1950, còn được  gọi là Chiến dịch Lê Hồng Phong II được tiến hành theo Quyết định hồi tháng 6-1950 của Ban thường vụ Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Mục đích của chiến dịch là tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc, phá tan vòng vây của chủ nghĩa đế quốc.
 
Đầu tháng 9-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lên đường ra mặt trận, đi sát giúp đỡ Ban chỉ huy chiến dịch và động viên bộ đội, dân công.
 Trong Chiến dịch Biên giới (từ 16-9 đến 23-10-1950), quân và dân Việt Nam  đã tiêu diệt một nửa lực lượng cơ động chiến lược của địch ở Bắc Đông Dương (trong đó bắt sống 3.500 tên), thu nhiều vũ khí, giải phóng 5 thị xã, 13 thị trấn, nhiều vùng đất đai quan trọng cả dải biên giới dài 750 km, bao gồm 35 vạn dân. Căn cứ địa Việt Bắc được củng cố. Cách mạng Việt Nam lần đầu tiên đã phá tan vòng vây của chủ nghĩa đế quốc.        

V- THẮNG LỢI LỚN TRÊN MẶT TRẬN NGOẠI GIAO

  Ngày 14-1-1950, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra tuyên bố về đường lối ngoại giao.
 Ngày 15-1-1950, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa công nhận Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa.
 Ngày 18-1-1950, Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa là Chính phủ đầu tiên công nhận Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
 Tiếp đó, cũng trong năm 1950, các nước sau đây đã lần lượt công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa:
 Ngày 30-1, Chính phủ Liên bang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết,
 Ngày 31-1, Chính phủ Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên,
 Ngày 2-2, Chính phủ Cộng hoà Nhân dân Tiệp Khắc và Chính phủ Cộng hoà Dân chủ Đức,           
      Ngày 3-2, Chính phủ Cộng hoà Nhân dân Rumani,

VI- ĐẨY MẠNH CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP

    Từ 11 đến 19-2-1951, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, họp ở xã Vinh Quang (nay là xã Kim Bình, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang.          
 
Báo cáo Chính trị tại Đại hội đã nêu rõ rằng để hoàn thành nhiệm vụ lãnh đạo sự nghiệp đánh thắng giặc Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ, Đảng Cộng sản Đông Dương phải ra hoạt động công khai và tổ chức lại cho thích hợp với tình hình mỗi nước. Đại hội đã quyết định xây dựng ở mỗi nước Việt Nam, Lào, Campuchia một Đảng Cách mạng thích hợp với hoàn cảnh cụ thể để lãnh đạo cuộc kháng chiến ở từng nước đến thắng lợi hoàn toàn. ở Việt Nam, Đại hội quyết định xây dựng Đảng Lao động Việt Nam và đưa Đảng ra công khai. Đại hội đã thông qua Chính cương, Điều lệ mới của Đảng, bầu ra Ban Chấp hành Trung ương mới. Cụ Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng và ông Trường-Chinh được bầu làm Tổng Bí thư. Đại hội đã chỉ rõ: Nhiệm vụ cơ bản của Cách mạng Việt Nam là đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhất hoàn toàn cho dân tộc, thủ tiêu chế độ thuộc địa trong vùng tạm bị chiếm, xoá bỏ những tàn tích phong kiến và nửa phong kiến, thực hiện chủ trương người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội.
 
Về đường lối kháng chiến, Đại hội khẳng định: Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam là cuộc chiến tranh nhân dân. Đặc điểm của nó là toàn dân, toàn diện, trường kỳ và nhất định thắng lợi.          
 
Ngày 16-2-1951, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra Thông tư về việc vận động phê bình và tự phê bình trong các cơ quan và cán bộ chính quyền. Mục đích của cuộc vận động là nhằm giáo dục tinh thần phê bình và tự phê bình cho cán bộ, mở rộng dân chủ, củng cố chính quyền dân chủ nhân dân để chính quyền phục vụ nhân dân, phục vụ kháng chiến có hiệu quả hơn.          
 
Từ ngày 3 đến ngày 7-3-1951, Đại hội toàn quốc thống nhất Việt Minh và Liên Việt thành một mặt trận lấy tên là Mặt trận Liên hiệp quốc dân Việt Nam, gọi tắt là Mặt trận Liên Việt. Mặt trận Liên Việt bao gồm tất cả các đoàn thể, tôn giáo, đảng phái, các cá nhân yêu nước nhằm kết chặt khối đại đoàn kết toàn dân để kháng chiến kiến quốc. Tuyên ngôn của Đại hội ghi rõ mục đích của Mặt trận Liên Việt là: “Tiêu diệt thực dân Pháp, đánh bại bọn can thiệp Mỹ, trừng trị Việt gian phản quốc, thực hiện một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ, tự do, phú cường và góp sức vào việc bảo vệ hoà bình, dân chủ thế giới”.         
 
Ngày 1-5-1951, Chính phủ  ban hành Sắc lệnh số 13-SL bãi bỏ các thứ đóng góp về nông nghiệp cho ngân sách toàn quốc và quỹ địa phương như: thuế điền thổ, thóc công lương, thóc nộp cho quỹ xã, thóc đắp đường; bãi bỏ việc mua thóc định giá; đặt chế độ thu thuế nông nghiệp bằng thóc tính theo hoa lợi.    
 
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc báo cáo Chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 2 (1951)
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 2 tại Việt Bắc (Chiêm Hoá, Tuyên Quang tháng 2-1951)
Ngày 6-5-1951, Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 15-SL thành lập  Ngân hàng quốc gia Việt Nam và Sắc lệnh số 16-SL bổ nhiệm các ông: Nguyễn Lương Bằng và Lê Viết Lượng làm Tổng Giám đốc và Phó Tổng Giám đốc Ngân hàng quốc gia Việt Nam.                   
Ngân hàng quốc gia Việt Nam có nhiệm vụ:
1- Phát hành giấy bạc ngân hàng, điều hoà lưu thông tiền tệ.
2- Quản lý quỹ quốc gia, quỹ ngoại tệ.         
     3- Quản lý kim dụng bằng các thể lệ hành chính.
4- Đấu tranh tiền tệ với  địch.          
 
Ngân hàng quốc gia Việt Nam ra đời đã góp phần giải quyết những khó khăn về kinh tế, tài chính, đẩy mạnh kháng chiến. Ngân hàng có kế hoạch cho nhân dân vay vốn để phát triển sản xuất và giúp công thương nghiệp mở mang kinh doanh. 
 
Ngày 14-5-1951, Chính phủ ra Sắc lệnh số 21-SL đổi tên Bộ Kinh tế thành Bộ Công thương và Sắc lệnh số 22-SL thành lập Sở Mậu dịch trong Bộ Công thương. Sở Mậu dịch có nhiệm vụ: Tổ chức việc buôn bán trong nước, điều hoà thị trường, ổn định giá cả, giúp đỡ sản xuất, giúp đỡ hợp tác xã phát triển, cung cấp những nhu cầu thiết yếu cho bộ đội, cơ quan và nhân dân, hướng dẫn, tập hợp thương nhân phục vụ kháng chiến, phục vụ dân sinh. Tổ chức việc buôn bán, trao đổi với nước ngoài. Tổ chức việc đấu tranh mậu dịch với địch.        
Ngày 15-7-1951, Chính phủ ban hành Điều lệ tạm thời thuế nông nghiệp.
Ngày 22-7-1951, Chính phủ  ban hành Sắc lệnh bãi bỏ thuế môn bài, thuế lãi doanh nghiệp, thuế lợi tức tổng hợp và các thứ thuế gián thu hiện hành và đặt hai thứ thuế: Thuế công nghiệp và thương nghiệp, thuế hàng hoá.
Từ ngày 27-9 đến 5-10-1951, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam họp Hội nghị lần thứ 2 đã quyết định ba nhiệm vụ lớn:
- Ra sức tiêu diệt nhiều sinh lực địch, tiến tới giành ưu thế quân sự, phá kế hoạch phòng ngự của địch ở trung châu Bắc Bộ.      
    - Ra sức phá âm mưu thâm độc của địch “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt”.
- Củng cố và phát triển sức kháng chiến của toàn quân, toàn dân.
Hội nghị đã ra nghị quyết về nhiệm vụ, phương châm công tác trong vùng tạm bị chiếm và vùng du kích.        
Từ ngày 18-11-1951 đến ngày 23-2-1952, Chiến dịch Hoà Bình kết thúc thắng lợi. Quân và dân Việt Nam đã tiêu  diệt được nhiều sinh lực địch. Chiến dịch Hoà Bình đã giải phóng 1.000 km2 lãnh thổ và 2 vạn dân. Mặt trận sau lưng địch đã giải phóng 4.000 km2 lãnh thổ và 2 triệu dân, mở rộng và khôi phục nhiều căn cứ du kích.        
 
Chiến thắng Hoà Bình làm phá sản một kế hoạch chiến tranh lớn của địch trong Đông Xuân 1951-1952.

Ngày 17-3-1952, Chính phủ, Ban Thường trực Quốc hội và ủy ban Liên Việt toàn quốc phát động phong trào sản xuất, tiết kiệm và đợt thi đua sản xuất, lập công, đề cao chiến sĩ năm 1952.
 
Từ ngày 1 đến 6-5-1952, tại Việt Bắc, đã diễn ra Đại hội chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu toàn quốc. Tại Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ mục đích, phương pháp và ý nghĩa của việc thi đua yêu nước. Tổng Bí thư Trường-Chinh đọc báo cáo “Phong trào thi đua ái quốc và chủ nghĩa anh hùng mới”. Sau Đại hội, ngày 10-8-1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 107-SL tặng danh hiệu Anh hùng cho 7 chiến sĩ thi đua (trong tổng số 154 chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu toàn quốc), tiêu biểu cho công, nông, binh và lao động trí óc khắp các miền trong cả nước.       

Ngày 1-10-1952, Chính phủ công bố Tám điều mệnh lệnh đối với các vùng mới giải phóng:
1- Bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh với các đại biểu dự Đại hội chiến sỹ thi đua, cán bộ gương mẫu toàn quốc lần thứ 1 (từ ngày 1 đến ngày 6-5-1952).
2- Bảo vệ nghề nghiệp làm ăn của nhân dân.
3- Tịch thu tài sản của giặc Pháp và bọn phản quốc.
4- Bảo vệ đền chùa, nhà thờ, trường học, nhà thương và các cơ quan văn hoá - xã hội khác.
5- Thưởng người có công, phạt người có tội.                       
    6- Giữ gìn trật tự trị an.
7- Nhân dân, đặc biệt là nông dân nên tổ chức lại.
8- Bảo vệ tính mạng và tài sản của kiều dân nước ngoài.
Từ ngày 14-10 đến 10-12-1952, Chiến dịch Tây Bắc kết thúc thắng lợi. Kết quả toàn chiến dịch đã loại khỏi vòng chiến đấu một bộ phận sinh lực quan trọng của địch. Tại khu vực Tây Bắc hầu hết các viên chỉ huy các vị trí lớn của Pháp đã bị bắt sống. Chiến thắng Tây Bắc có ý nghĩa vô cùng quan trọng: đã giải phóng đồng bào Tây Bắc khỏi ách áp bức của giặc, giải phóng một bộ phận đất đai rộng lớn, một vùng chiến lược quan trọng (gần 30.000 km2, với 250.000 dân).  Đã tiêu diệt và chiếm lại gần 100 vị trí lớn nhỏ của địch ở Tây Bắc, tránh được sự uy hiếp của địch vào căn cứ địa Việt Bắc, tạo điều kiện về nhiều mặt cho Chiến dịch Điện Biên Phủ sau này.                                   
                                                                                                                    
Tháng Giêng năm 1953, Hội nghị lần thứ 4 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã họp. Tại Hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc một bản báo cáo quan trọng. Người nhấn mạnh hai vấn đề chính: một là lãnh đạo kháng chiến và chính sách quân sự, hai là phát động quần chúng triệt để giảm tô, tiến tới cải cách ruộng đất.

Hội nghị thông qua bản dự thảo Cương lĩnh của Đảng Lao động Việt Nam về chính sách ruộng đất.
Ngày 28-1-1953, Chính phủ ra Sắc lệnh số 134-SL thành lập Khu Tây Bắc gồm các tỉnh: Lào Cai, Yên Bái, Sơn La và Lai Châu.        
Ngày 16-2-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 141-SL thành lập Thứ Bộ Công an. Đến tháng 6-1953, Hội đồng Chính phủ đổi tên Thứ Bộ Công an thành Bộ Công an. Ông Trần Quốc Hoàn được cử giữ chức Bộ trưởng.
Đầu tháng 3-1953, Hội đồng Chính phủ họp thảo luận báo cáo của Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng về mục đích, phương châm, kế hoạch phát động quần chúng và về nhiệm vụ của chính quyền trong phong trào phát động quần chúng. Hội đồng Chính phủ đã thông qua các văn bản về chính sách ruộng đất và phát động quần chúng.
Ngày 16-3-1953, Chính phủ ra Thông tư về việc chỉnh đốn chính quyền dân chủ nhân dân cấp xã qua việc phát động quần chúng nhằm làm cho tổ chức chính quyền được trong sạch, quan hệ giữa chính quyền và nhân dân được chặt chẽ, bảo vệ được quyền lợi kinh tế và ưu thế chính trị mà nông dân đã giành được.          
 
Tiếp đó, ngày 12-4-1953, Chính phủ ban hành 3 Sắc lệnh về chính sách ruộng đất sau đây:
1- Sắc lệnh quy định chính sách ruộng đất, nội dung gồm các vấn đề: giảm tô, lĩnh canh ruộng đất, giảm tức, tịch thu ruộng đất của thực dân Pháp, Việt gian, phản động chia cho dân cày không có ruộng hoặc ít ruộng, chia ruộng hiến và ruộng đất công, sử dụng ruộng đất vắng chủ và ruộng của tư nhân bỏ hoang.  
    2- Sắc lệnh quy định việc thành lập Toà án nhân dân đặc biệt ở những nơi phát động quần chúng nhằm bảo đảm việc thi hành chính sách ruộng đất, giữ gìn trật tự xã hội.           
3- Sắc lệnh quy định việc trừng trị những địa chủ chống pháp luật ở những nơi tiến hành phát động quần chúng thi hành chính sách ruộng đất.
Thủ tướng Chính phủ còn ban hành hai bản Nghị định quy định chi tiết thi hành các Sắc lệnh trên.
Ngày 22-6-1953, Chính phủ ban hành Chính sách dân tộc dựa trên đường lối chung là đoàn kết dân tộc trên nguyên tắc bình đẳng, tương trợ để kháng chiến, kiến quốc, để giúp đỡ nhau tiến bộ, phát triển về mọi mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá và để tiến tới thành lập những khu tự trị dân tộc. Chính sách dân tộc góp phần tăng thêm sức mạnh đoàn kết kháng chiến của các dân tộc. 


Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc báo cáo tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khoá 1 (ngày 4-12-1953).

Thực hiện "cải cách ruộng đất", chia ruộng đất cho nông dân ở Thái Nguyên (1953)

Tiếp đó, ngày 4-10-1953, Chính phủ ban hành Chính sách tôn giáo, bao gồm những nội dung:
1- Tôn trọng tự do tín ngưỡng, mọi công dân có quyền tự do tín ngưỡng và quyền tự do không tín ngưỡng.
2- Đoàn kết nhân dân không phân biệt giáo lương để kháng chiến kiến quốc. Phá tan âm mưu của địch lợi dụng tôn giáo chia rẽ dân tộc, kiên quyết trừng trị những kẻ lợi dụng tôn giáo hành động phản quốc, hại dân.   
     3- Cải thiện đời sống, nâng cao trình độ chính trị, văn hoá của đồng bào tôn giáo.     

   Cuối tháng 10-1953, Hội đồng Chính phủ họp dưới sự chủ tọa của  Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định:
- Thông qua kế hoạch củng cố xã sau phát động quần chúng,
- Sửa đổi Điều lệ thuế nông nghiệp nhằm mục đích giảm nhẹ sự đóng góp của đồng bào vùng sau lưng địch và đồng bào miền núi,
- Thông qua kế hoạch củng cố và xây dựng khu Tây Bắc,
- Tiếp tục tổ chức học tập tại chức cho cán bộ, công nhân viên để củng cố và phát huy kết quả tốt của chỉnh huấn,   
    - Mở cuộc vận động chống bệnh quan liêu giấy tờ vào cuối năm 1953, bắt đầu từ các cơ quan Trung ương.
Tháng 11-1953, Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương và Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất Đảng Lao động Việt Nam đã họp.   
Hội nghị lần thứ 5 của Trung ương Đảng đã bàn về chính sách cải cách ruộng đất để đưa ra thảo luận ở Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất của Đảng. Tại Hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ hai nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn dân trong năm 1954 là đẩy mạnh kháng chiến, thực hiện cải cách ruộng đất.

   Ngày 26-11-1953, trả lời phỏng vấn chủ bút báo Expressen (Thụy Điển), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ nguyên nhân và tình hình cuộc chiến tranh ở Việt Nam; tuyên bố lập trường của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về việc giải quyết hòa bình vấn đề Việt Nam. Người khẳng định:“Cơ sở của việc đình chiến ở Việt Nam là Chính phủ Pháp thật thà tôn trọng nền độc lập thật sự của nước Việt Nam”1. “Việc thương lượng đình chiến chủ yếu là một việc giữa Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà với Chính phủ Pháp”2.   
 
Từ ngày 1 đến ngày 4-12-1953, Kỳ họp thứ 3 Quốc hội khoá I, đã nhất trí thông qua Luật cải cách ruộng đất. Luật cải cách ruộng đất do Quốc hội thông qua nêu rõ mục đích ý nghĩa cải cách ruộng đất là: “Thủ tiêu quyền chiếm hữu ruộng đất của thực dân Pháp và của đế quốc xâm lược khác ở Việt Nam, xoá bỏ chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ”, để thực hiện người cày có ruộng, giải phóng sức sản xuất ở nông thôn, cải thiện đời sống nông dân, đẩy mạnh kháng chiến.

Ngày 19-12-1953, Chính phủ đã ra Sắc lệnh số 197-SL ban bố Luật cải cách ruộng đất do Quốc hội đã thông qua. Luật cải cách ruộng đất đã đáp ứng yêu cầu căn bản và cấp bách của hàng triệu nông dân, nó là chỗ dựa vững chắc cho nông dân đấu tranh xoá bỏ chế độ bóc lột phong kiến, đưa kháng chiến đến thắng lợi.   
 

VII- CHIẾN DỊCH LỊCH SỬ ĐIỆN BIÊN PHỦ TOÀN THẮNG, HIỆP ĐỊNH GIƠNEVƠ ĐƯỢC KÝ KẾT

 
    Từ cuối tháng 9-1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết thông qua kế hoạch tác chiến Đông Xuân 1953-1954, giữ vững quyền chủ động, đánh địch trên cả hai mặt trận chính diện và sau lưng địch, phối hợp trên phạm vi cả nước và phối hợp trên toàn Đông Dương. Đầu tháng 12-1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng chủ trương mở chiến dịch đánh bại địch ở Điện Biên Phủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị: “Chiến dịch này là một chiến dịch rất quan trọng không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước mà đối với quốc tế. Vì vậy, toàn quân, toàn dân, toàn Đảng phải tập trung hoàn thành cho kỳ được”.
 
Đầu tháng 12-1953, công việc chuẩn bị cho Chiến dịch Điện Biên Phủ được khẩn trương tiến hành.
Bộ Chính trị quyết định thành lập Bộ chỉ huy và Đảng ủy Mặt trận do ông Võ Nguyên Giáp, ủy viên Bộ Chính trị, Tổng Tư lệnh quân đội Nhân dân Việt Nam trực tiếp làm Chỉ huy trưởng và Bí thư Đảng ủy Mặt trận. Chính phủ quyết định thành lập Hội đồng cung cấp mặt trận, do ông Phạm Văn Đồng, ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng làm Chủ tịch.    
 
Ngày 22-12-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh trao cờ “Quyết chiến quyết thắng” cho quân đội, động viên các đơn vị thi đua giết giặc lập công, hoàn thành cho kỳ được Chiến dịch Điện Biên Phủ.        
 
Ngày 13-3-1954, Chiến dịch Điện Biên Phủ bắt đầu. Trải qua ba đợt chiến đấu gay go và gian khổ, liên tục trong 55 ngày đêm, ngày 7-5-1954, quân và dân Việt Nam đã tiêu diệt và bắt sống toàn bộ quân địch ở Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, diệt và bắt sống trên 16.000 tên địch. Toàn thể bộ chỉ huy Tập đoàn cử điểm do tướng Đờ Cátxtơri cầm đầu đã bị bắt sống.   
Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ toàn thắng, kết thúc oanh liệt cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 của quân và dân Việt Nam.
Chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ “được ghi vào lịch sử dân tộc Việt Nam như một Bạch Đằng, một Chi Lăng hay một Đống Đa trong thế kỷ XX, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi đột phá thành trì của hệ thống nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc”.1 
Ngày 15-3-1954, Hội đồng Chính phủ thông qua Điều lệ tổ chức các ủy ban cải cách ruộng đất, thông qua bản Mười chính sách khuyến khích sản xuất nông nghiệp ở những xã chưa cải cách ruộng đất và bản Chính sách đối với những ngụy binh, nhân viên ngụy quyền bỏ hàng ngũ địch trở về với Tổ quốc.          
 
Ngày 8-5-1954, Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương khai mạc. Phái đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bước vào bàn hội nghị với tư thế của một dân tộc chiến thắng. Trong phiên họp toàn thể lần thứ 2 (10-5-1954), ông Phạm Văn Đồng, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Trưởng đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam trình bày lập trường Tám điểm với nội dung chủ yếu là: đình chỉ chiến sự trên toàn bán đảo Đông Dương đi đôi với một giải pháp chính trị cho vấn đề Việt Nam, vấn đề Lào và vấn đề Campuchia, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước Đông Dương.           
 
Đánh chiếm sở chỉ huy tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ do tướng Đờ Cátxtơri cầm đầu (ngày 7-5-1954)
Tù binh Pháp bị bắt tại chiến trường Điện Biên Phủ đang được giải về hậu phương (1954)

Quang cảnh buổi ký chính thức Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương (7-1954)

Trải qua 8 phiên họp toàn thể và 23 phiên họp hẹp rất căng thẳng và phức tạp, với tinh thần chủ động và cố gắng của phái đoàn Việt Nam, ngày 20-7-1954, các bản Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, Campuchia và Lào đã được ký kết. Các nước tham gia hội nghị thông qua Bản tuyên bố chung thừa nhận: tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhân dân Việt Nam, Campuchia và Lào, quy định quân đội Pháp phải rút khỏi các nước Đông Dương và ở mỗi nước Đông Dương sẽ tổ chức tổng tuyển cử tự do để thống nhất đất nước. Bản Tuyên bố chung ghi rõ ở Việt Nam: “Đường ranh giới về quân sự chỉ có tính chất tạm thời, không thể coi như là một biên giới về chính trị hoặc lãnh thổ” và quy định thời hạn dứt khoát về tổ chức Tổng tuyển cử, thống nhất đất nước Việt Nam vào tháng 7-1956. Bản “Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam” bao gồm 6 chương, 47 điều. Ngoài ra còn có phụ bản kèm theo nói rõ thêm về “giới tuyến quân sự tạm thời, khu phi quân sự và các khu đóng quân tạm thời”.   
 
Chính phủ họp nghe báo cáo về kết quả hội nghị Giơnevơ (8-1984)

Ngày 22-7-1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi nhân Hội nghị Giơnevơ thành công. Chủ tịch nêu rõ thắng lợi to lớn của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Người khẳng định công lao to lớn của đồng bào miền Nam anh hùng đi trước về sau trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc và kêu gọi nhân dân cả nước đoàn kết phấn đấu vì sự nghiệp thống nhất đất nước.     
 
Trung tuần tháng 8-1954, Hội đồng Chính phủ đã họp dưới sự chủ toạ của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Văn Đồng báo cáo về Hội nghị Giơnevơ và Đại tướng Võ Nguyên Giáp báo cáo về việc quân và dân Việt Nam đã thi hành đúng đắn mệnh lệnh ngừng bắn như Hiệp định Giơnevơ quy định. Hội đồng Chính phủ đã thông qua đề án tổ chức Ban tiếp đón bộ đội, cán bộ và đồng bào miền Nam tập kết.
 
Ngày 17-9-1954, Hội đồng Chính phủ ban hành Tám chính sách đối với các thành phố mới giải phóng nhằm bảo vệ tính mạng, tài sản của toàn thể nhân dân, bảo vệ công thương nghiệp tư doanh, bảo hộ tính mạng tài sản của mọi ngoại kiều, thực hiện tự do dân chủ, tự do tín ngưỡng của nhân dân.      
    Ngày 10-10-1954, Thủ đô Hà Nội được giải phóng.
Ngày 15-10-1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh về đến Hà Nội.

Giải phóng Thủ đô Hà Nội (1954)
Ngày 16-10-1954, trong buổi tiếp đoàn đại biểu  nhân dân Thủ đô tại Bắc Bộ phủ (Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh khen ngợi đồng bào đã cố gắng và hăng hái giúp đỡ bộ đội trong việc tiếp quản Thủ đô, động viên mọi người phát huy sáng kiến và nghị lực để giải quyết những khó khăn trong công cuộc khôi phục đời sống hoà bình. Người căn dặn: “Nhân dân Thủ đô ta có truyền thống cách mạng vẻ vang và lòng nồng nàn yêu nước, tôi chắc rằng đồng bào Thủ đô sẽ hăng hái phấn đấu làm cho mọi ngành hoạt động của Thủ đô ngày thêm phát triển, để làm gương mẫu, để dẫn đầu cho nhân dân cả nước ta trong công cuộc củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong khắp nước ta; để xây dựng một đời sống sung sướng, tươi đẹp, thái bình mãi mãi cho con cháu chúng ta”1. 
 
    Trong hai ngày 17 và 18-10-1954, Thủ tướng Chính phủ ấn Độ, J.Nêru sang thăm Việt Nam. Đây là lần đầu tiên một vị Nguyên thủ của một quốc gia nước ngoài đến thăm Việt Nam sau Cách mạng thành công.

Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra mắt quốc dân năm 1954

Nhân dân Hà Nội mừng Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Thủ đô Hà Nội (1954)


 +  So sánh cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ xâm lược:

* Về phía kẻ thù: 

- Hoàn cảnh, bối cảnh kinh tế, chính trị thúc đẩy Pháp, Mỹ xâm lược, can thiệp vào Việt Nam;

- Âm mưu, thủ đoạn của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đối với Việt Nam;

- Sức mạnh quân sự, kinh tế mà Pháp, Mỹ đã đổ vào cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam;

- Những thất bại nặng nề của Pháp, Mỹ trong thời gian hai nước này xâm lược Việt Nam.

* Về phía Việt Nam: 

- Đối diện với âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, nước ta đã nêu cao ý chí, tinh thần đoàn kết, thống nhất, quyết tâm bảo vệ nền độc lập dân tộc dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam và lãnh tụ Hồ Chí Minh;

- Vị thế và sức mạnh kinh tế, quân sự của Việt Nam ngày một tăng dần qua hai cuộc kháng chiến;

- Việt Nam ngày càng thắng to và thắng toàn diện trên các mặt trận từ quân sự, kinh tế đến ngoại giao, vị trí đất nước ngày càng được khẳng định trên trường quốc tế;

- Sự mất mát về người và của vô cùng to lớn của nước ta qua hai cuộc kháng chiến mà hậu quả đến hiện nay vẫn còn rõ rệt

* Những bài học lịch sử rút ra qua việc so sánh hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ: 

- Không có gì quý hơn độc lập tự do;

- Sự lãnh đạo tài tình của Đảng, Bác Hồ và truyền thống anh hùng bất khuất, đoàn kết tuyệt vời của dân tộc Việt Nam;

- Chiến tranh xâm lược, can thiệp vào các nước có nền độc lập, chủ quyền là những cuộc chiến tranh phi nghĩa, vô nhân đạo, đẩy lùi sự phát triển của lịch sử. 


+ Các bước phát triển mới về quân sự trong kháng chiến chống thực dân Pháp:

1. Khái quát về việc P xâm lược VN cuối năm 1945. Lúc này ta đang ở thế bị động.
2. Hiệp định sơ bộ 6-6 và Tạm ước 14-9, việc hòa Pháp để đuổi Tưởng.

3) Chiến thắng Việt Bắc 1947: 
a. Sau khi quân ta rút khỏi các đô thị, thực dân Pháp, tuy đã kiểm soát được nhiều địa bàn quan trọng, nhưng vẫn chưa thực hiện được âm mưu đánh nhanh thắng nhanh. Cuộc chiến tranh có nguy cơ kéo dài. Thu – đông 1947, thực dân Pháp tiến công lên Việt Bắc nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến và phần lớn bộ đội chủ lực của ta, từ đó thúc đẩy việc thành lập chính quyền bù nhìn và nhanh chóng kết thúc chiến tranh.
b. Từ ngày 7/10/1947, địch huy động 12.000 quân chia thành nhiều mũi (đường thuỷ, đường bộ, nhảy dù) tiến công lên Việt Bắc. Thực hiện chỉ thị của Thường vụ Trung ương Đảng "Phải phá tan cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp", sau 75 ngày chiến đấu (từ ngày 7/10/1947 đến ngày 19/12/1947) chiến dịch Việt Bắc toàn thắng. Đại bộ phận quân địch đã rút khỏi địa bàn này. Trong chiến dịch, ta đã tiêu diệt một lực lượng lớn quân địch và phá huỷ nhiều phương tiện chiến tranh (hơn 6.000 tên bị loại khỏi vòng chiến đấu, 16 máy bay bị bắn rơi, 11 tàu chiến, ca nô bị đánh chìm...).
c. Với chiến thắng Việt Bắc, cơ quan đầu não kháng chiến của ta được bảo vệ an toàn. Quân đội ta không những không bị tiêu diệt mà đã trưởng thành và được trang bị thêm nhiều vũ khí. Sau chiến thắng, so sánh lực lượng giữa ta và địch bắt đầu thay đổi theo chiều hướng có lợi cho ta. Với chiến thắng Việt Bắc, quân dân ta đã đánh bại hoàn toàn chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của địch, buộc chúng phải chuyển sang đánh lâu dài với ta.
2) Chiến thắng Biên Giới 1950
a. Qua mấy năm kháng chiến, quân dân ta đã thu được nhiều thắng lợi to lớn trên tất cả các mặt trận. Từ cuối năm 1949 đến giữa năm 1950, tình hình thế giới có nhiều chuyển biến quan trọng có lợi cho cuộc kháng chiến của ta. Để tranh thủ những điều kiện thuận lợi, phá thế bị bao vây bên trong và bên ngoài, đưa cuộc kháng chiến bước sang giai đoạn phát triển mới, Trung ương Đảng chủ trương mở chiến dịch Biên giới nhằm khai thông biên giới Việt - Trung để mở rộng đường liên lạc với các nước xã hội chủ nghĩa; củng cố và mở rộng căn cứ địa Việt Bắc; tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch.
b. Đây là chiến dịch lớn nhất của quân dân ta kể từ ngày đầu kháng chiến chống Pháp đến lúc đó. Gần 3 vạn bộ đội và hơn 12 vạn dân công tham gia chiến dịch. Sau hơn 1 tháng chiến đấu (từ ngày 16 tháng 9/1950 đến ngày 22/10/1950), chiến dịch Biên giới đã giành được thắng lợi to lớn: Diệt và bắt sống 8.300 tên địch, thu hàng ngàn tấn vũ khí; giải phóng tuyến biên giới dài 750 km với 35 vạn dân.
c. Trong chiến dịch Biên giới, lần đầu tiên nhiều đơn vị bộ đội phối hợp tác chiến, đánh địch trên một chiến trường rộng, diệt gọn nhiều tiểu đoàn cơ động tinh nhuệ của địch. Tuyến biên giới Việt - Trung từ Cao Bằng đến Đình Lập được khai thông; "Hành lang Đông - Tây" của địch bị chọc thủng; thế bao vây của địch cả trong và ngoài đối với căn cứ địa Việt Bắc bị phá vỡ. Từ đó, cách mạng Việt Nam có điều kiện mở rộng liên lạc quốc tế.
 Với chiến thắng Biên giới, ta đã giành được quyền chủ động về chiến lược trên chiến trường chính (Bắc Bộ). Từ đó về sau, quân dân ta mở nhiều chiến dịch tiến công, đánh tiêu diệt địch với quy mô ngày càng lớn.
3) Chiến thắng Điện Biên Phủ 1954
a. Sau 8 năm chiến đấu, ta đã lớn mạnh về mọi mặt và có đủ điều kiện đẩy mạnh cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn. Ngược lại, Pháp đang sa lầy trong cuộc chiến tranh Đông Dương. Cuộc chiến tranh lâu dài, tốn kém đã làm cho thực dân Pháp gặp nhiều khó khăn và ngày càng phụ thuộc vào Mĩ. Trước tình hình đó, được sự thoả thuận của Mĩ, Pháp đã đề ra kế hoạch Nava với hi vọng "chuyển bại thành thắng" trong vòng 18 tháng. Pháp xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương, một pháo đài "bất khả xâm phạm", sẵn sàng "nghiền nát" bộ đội chủ lực ta.Điện Biên Phủ
trở thành tâm điểm của kế hoạch Nava.
b. Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân dân ta khẩn trương vào chiến dịch với tinh thần "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng!". Hầu hết các đại đoàn bộ đội chủ lực và hơn 26 vạn dân công đã được huy động cho chiến dịch. Điện Biên Phủ là một chiến dịch tiến công địch liên tục gồm 3 đợt:
• Đợt 1 (từ ngày 13 đến ngày 17/3/1954) : Ta tiêu diệt cứ điểm Him Lam và toàn bộ phân khu phía Bắc.
• Đợt 2 (từ ngày 30/3 đến ngày 26/4/1954) : Ta tấn công các cứ điểm phía đông của phân khu trung tâm, khép chặt vòng vây quanh khu trung tâm Mường Thanh.
• Đợt 3 (từ ngày 1 đến ngày 7/5/1954) : Ta đánh chiếm các cao điểm còn lại phía đông và tổng công kích vào khu trung tâm. Bộ tham mưu tập đoàn cứ điểm bị bắt, gần một vạn quân địch ra hàng.
c. Sau 56 ngày đêm chiến đấu, ta đã giành được thắng lợi to lớn: Tiêu diệt và bắt sống toàn bộ lực lượng địch ở tập đoàn cứ điểm gồm 16.200 tên, bắn rơi và phá huỷ 62 máy bay, thu toàn bộ vũ khí, phương tiện chiến tranh.
+ Chiến thắng Điện Biên Phủ đã đập tan kế hoạch Nava, nỗ lực cuối cùng của thực dân Pháp và can thiệp Mĩ ở Đông Dương.
+ Chiến thắng Điện Biên Phủ đã đi vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa của thế kỉ XX.
+ Thắng lợi quân sự quyết định ở Điện Biên Phủ đã đưa phái đoàn chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà đến hội nghị Giơnevơ với tư thế đại biểu cho một dân tộc chiến thắng. Hiệp định Giơnevơ được kí kết; các nước tham dự đã cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam, Lào, Campuchia.
>>>Chiến thắng Điện Biên Phủ cùng với hiệp định Giơnevơ, đã chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và can thiệp Mĩ ở Đông Dương. Cách mạng Việt Nam bước sang thời kì mới. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng và chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, làm hậu phương vững chắc cho cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.


+ Cải cách ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam (1953_1956):

Cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam là chương trình nhằm xóa bỏ văn hóa phong kiến, tiêu diệt các thành phần bị xem là "bóc lột", "phản quốc" (theo Pháp, chống lại đất nước), "phản động" (chống lại chính quyền) như địa chủ, Việt gian, cường hào, các đảng đối lập... được Đảng Lao động Việt Nam và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thực hiện vào những năm 19531956. Cải cách ruộng đất tịch thu tài sản, đất đai của những người này và chia cho bần nông, cố nông; đồng thời tiến hành đấu tố và xử tội họ.

Đây là một trong những phương cách chính yếu mà những người theo chủ nghĩa cộng sản nghĩ rằng phải thực hiện để lập lại công bằng xã hội, đồng thời thiết lập nền chuyên chính vô sản nhằm tiến lên chủ nghĩa xã hội một cách nhanh chóng.  Dựa theo mô hình thổ địa cải cách của Trung Quốc (19461949), cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc được tổ chức với tinh thần đấu tranh giai cấp triệt để với sự cố vấn trực tiếp của các cán bộ đến từ Trung Quốc. Tuy nhiên, với tình hình nông thôn Trung Quốc và Việt Nam hoàn toàn khác nhau, việc áp đặt giáo điều tình hình hai quốc gia đã gây ra nhiều phương hại. Cuộc cải cách và đấu tố này đã gây một không khí kinh hoàng tại nông thôn miền Bắc lúc ấy, và tác hại mạnh đến sự đoàn kết dân tộc và nhiều thế hệ người Việt.

1. Mục đích:
  1. Tịch thu tài sản ruộng đất do người Pháp, người dân di cư, hay Việt gian (những người theo Pháp) bỏ lại, hay bỏ hoang vì chiến tranh;
  2. Phân chia cho tá điền;
  3. Cắt giảm địa tô;
  4. Bãi bỏ mọi khoản tiền thuê ruộng.

Trước đó, thông tư liên bộ của năm 1949 đưa ra nguyên tắc chủ yếu về phân chia tạm thời ruộng đất cho nông dân mà những ruộng đất này họ tịch thu được từ điền chủ của người Pháp, từ điền chủ là những người mà Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quy kết là "Việt gian", tức là những người bị kết tội thông đồng với Pháp.

2, Tổ chức:

Trước đó, thông tư liên bộ của năm 1949 đưa ra nguyên tắc chủ yếu về phân chia tạm thời ruộng đất cho nông dân mà những ruộng đất này họ tịch thu được từ điền chủ của người Pháp, từ điền chủ là những người mà Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quy kết là "Việt gian", tức là những người bị kết tội thông đồng với Pháp.

3. Lãnh đạo:

  1. Phát động và làm tư tưởng chiến dịch: Hồ Chí Minh (Chủ tịch Đảng Lao động Việt Nam và nhà nước)
  2. Trưởng ban chỉ đạo trực tiếp: Trường Chinh (Tổng Bí thư đảng)
  3. Trưởng ban chỉ đạo thí điểm Thái NguyênHoàng Quốc Việt (Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương đảng)
  4. Trưởng ban chỉ đạo thí điểm Thanh HóaNghệ AnHà TĩnhLê Văn Lương (Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương đảng)
  5. Giám đốc trực tiếp điều hành chiến dịch: Hồ Viết Thắng (Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương đảng)

4. Tiến hành: có 4 bước chính:

Huấn luyện cán bộ

Các cán bộ Đảng Lao động tham gia cải cách ruộng đất được đưa đi học khóa Chỉnh huấn 1953, và một số được đưa đi huấn luyện tại Trung Quốc. Các chương trình học tập nhằm giúp cán bộ nắm vững đường lối của đảng trong cải cách ruộng đất, quán triệt quan điểm: "trí, phú, địa, hào đào tận gốc trốc tận rễ" . Tổng số cán bộ được điều động vào công tác là 48.818 người.


Chiến dịch Giảm tô

Bước đầu, các đội cán bộ cải cách ruộng đất đi vào các làng xã và áp dụng chính sách "3 Cùng" (cùng ăn, cùng ngủ, cùng làm) với các bần cố nông trong làng xã đó, kết nạp họ thành "rễ", thành "cành" của đội, sau đó triển khai chiến dịch từng bước như sau:
  • Phân định thành phần: Đội Cải cách Ruộng đất ra mắt làng xã, và tất cả các gia đình trong xã được họ phân loại thành 5 thành phần: (a) địa chủ; (b) phú nông; (c) trung nông cứng - sở hữu 1 con bò, 1 con lợn, 1 đàn gà; (d) trung nông vừa - sở hữu 1 con lợn, 1 đàn gà; (e) trung nông yếu - sở hữu 1 đàn gà hay không có gì cả; (f) bần nông; (g) cố nông. Gia đình có 2 con lợn đã có thể gọi là phú nông. Tỷ lệ địa chủ được quy định trước là 5,68% dân số nông thôn và các đoàn và đội cải cách đều cố truy bức để đôn tỷ lệ địa chủ lên 5% như một quy định bắt buộc, gọi là "kích thành phần".
  • Phân loại địa chủ: Tất cả các gia đình bị xếp vào thành phần địa chủ như nói trên được đội cải cách phân loại thêm một lần nữa thành (a1) Địa chủ gian ác; (a2) Địa chủ thường; (a3) Địa chủ có ủng hộ kháng chiến. Thành phần địa chủ gian ác bị đội cải cách bắt ngay lập tức và quản thúc.
  • Áp dụng thoái tô: Đối với các gia đình có địa chủ bị bắt nói trên, đội cải cách thông báo với họ về các sắc lệnh giảm tô của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, bao gồm: sắc lệnh giảm tô xuống còn 25% vào tháng 11 năm 1945, sắc lệnh số 87/SL năm 1952 và 149/SL năm 1953 giảm tô thêm 25%. (Tại miền Bắc, tô hay địa tô là tiền thuê ruộng mà tá điền phải trả cho địa chủ sau mùa gặt, có thể trả bằng thóc.) Căn cứ theo đó, địa chủ nào chưa giảm tô cho nông dân thì bây giờ phải trả số nợ đó — gọi là "thoái tô". Nếu không trả đủ nợ thì tài sản bị tịch thu, phân phát do nông dân. Sau bước này, hầu hết gia đình địa chủ lâm vào hoàn cảnh khánh kiệt, nhiều người đến chỗ tự sát — vì nếu sống trong vùng kiểm soát của Pháp thì không biết gì về các sắc lệnh của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.[6]
  • Học tập tố khổ, lùng bắt địa chủ: Các bần nông, cố nông, "chuỗi", "rễ" được đội cải cách cho học lớp tố khổ do họ mở, qua đó học viên được nhận dạng các tội ác của địa chủ, và được khuyến khích nhớ ra tội ác của từng địa chủ đã bóc lột họ như thế nào. Sau khi học qua lớp tố khổ nhiều bi kịch xảy ra: con tố cha, vợ tố chồng... Du kích và cốt cán cải cách ruộng đất tìm bắt địa chủ, việt gian, thậm chí họ "vác súng vào thành phố lùng bắt địa chủ và con cái địa chủ là cán bộ công nhân viên chức nhà nước".[7]
  • Công khai đấu tố: Các buổi đấu tố được tổ chức, thông thường vào ban đêm. Số lượng người tham gia đấu tố được huy động từ vài trăm đến cả ngàn người, và thời gian đấu tố từ một đến ba đêm tùy theo mức độ tội trạng của địa chủ. Trong đêm đấu tố, các bần nông bước ra kể tội địa chủ đã bóc lột họ như thế nào. Tại các tỉnh có tổ chức cải cách ruộng đất, Đảng Lao động cho ra tờ báo lấy tên là Lá Rừng (ngụ ý tội ác địa chủ nhiều như lá rừng) tường thuật chi tiết các vụ đấu tố. Sau khi bị đấu tố các địa chủ được tạm giam trở lại để chờ tòa án nhân dân xét xử, cũng có người bị đánh chết ngay trong lúc đấu tố Gia đình và thân nhân người bị đấu tố thì bị cô lập, bị bỏ đói và chịu nhiều sự phân biệt đối xử và nhục hình.
  • Xử án địa chủ: Tại các huyện, một tòa án nhân dân đặc biệt được lập ra và đi về các xã xét xử các địa chủ. Sau khi kết án, địa chủ bị xử bắn trước công chúng do đội tự vệ xã hành quyết. Những người không được xử bắn thì bị cô lập trong các làng xã, một số bị thiệt mạng vì bị bỏ đói.
Tổng cộng có tám đợt giảm tô từ 1953 đến 1956 tiến hành tại 1.875 xã.


Nhiều tháng sau khi Chiến dịch Giảm tô được triển khai, chương trình Cải cách Ruộng đất chính thức bắt đầu, với hình thức tương tự nhưng trên địa bàn rộng lớn hơn, và các gia đình địa chủ có thành tích kháng chiến, kể cả các gia đình có đảng viên, cán bộ, bộ đội phục vụ trong kháng chiến cũng bị đấu tố. Tổng cộng có năm đợt cải cách ruộng đất từ 1953 đến 1956 tiến hành tại 3.314 xã. Người đầu tiên bị buộc tội chết trong cải cách ruộng đất là một phụ nữ, bà Nguyễn Thị Năm ở Thái Nguyên, bà là địa chủ kháng chiến có nhiều công lao lớn với cách mạng Việt Nam.
Tổng cộng có 6 đợt lớn cải cách ruộng đất. Từ cuối năm 1954, dưới sức ép của cố vấn Trung Hoa, chiến dịch cải cách ruộng đất bắt đầu được đẩy mạnh và nhanh, với cường độ lớn. Từ giữa năm 1955 ở một số nơi đã xuất hiện hiện tượng đấu tố tràn lan, mất kiểm soát. Từ đó đến cuối năm 1955, cảnh đấu tố địa chủ xảy ra tràn lan, nhiều lúc chỉ đơn thuần bằng một lời tố giác đơn giản, những thành viên trong tòa án nhân dân cũng có thể xử tử hình hay tù khổ sai đối với người bị tố giác. Đã xuất hiện tình trạng lạm dụng quyền hành của các cán bộ đội viên đội công tác ruộng đất trong công tác đất đai. Họ đấu tố mọi nhà, đấu tố mọi người, nhưng lại quên đấu tố bản thân. Số người chết trong đợt này là rất lớn, trong đó số người chết oan chiếm tỷ lệ cao. Quyết liệt nhất là ở Thái Bình, nơi có đến 294 xã được đưa vào cải cách.
Theo tài liệu của Đảng Cộng sản Việt Nam, tháng 11 năm 1953, Hội nghị Ban chấp hành trung ương đảng lần thứ 5 quyết định tiến hành việc cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam. Từ năm 1953 tới1957, 810.000 hécta ruộng đất ở đồng bằng và trung du miền Bắc đã được chia cho 2 triệu hộ nông dân, chiếm khoảng 72,8% số hộ nông dân ở miền Bắc. Trong khi đó, phân bố ruộng đất miền Bắc trước năm 1945, chỉ có 4% dân số đã chiếm hữu tới 24,5% tổng số ruộng đất.
Tuy nhiên, ở một góc độ khác việc thực hiện cải cách ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam đã gây ra nhiều hậu quả to lớn. Đã có rất nhiều người bị đấu tố oan. Theo tài liệu của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhiều nông dân trong tầng lớp trung nông đã bị đấu tố là địa chủ và việc đấu tố oan là do "bị địch lũng đoạn". Những sai lầm này, như đã được đề cập đến trong bài phát biểu tháng 10 năm 1956 tại Mặt trận Tổ quốc Việt Nam của giáo sư, luật sư Nguyễn Mạnh Tường, đã làm Đảng Cộng sản Việt Nam bị mất uy tín đối với nhiều người dân.


Chiến dịch Sửa sai

Trong tuyên bố của hội nghị TƯ 10, tháng 9/1956 đã nghiêm khắc phê bình:"Giai đoạn vừa qua có nhiều sai lầm và khuyết điểm. Đặc biệt là trong cuộc cải cách nông nghiệp và điều chỉnh tổ chức. Hội nghị TƯ lần thứ 10 đã phân tích chi tiết các khuyết điểm, tìm ra nguyên nhân và thống nhất những biện pháp khắc phục. Hội nghị thừa nhận nguyên nhân của những khuyết điểm là sự yếu kém của bộ máy lãnh đạo. Vì thế Ban chấp hành TƯ nhận khuyết điểm của mình. Các ủy viên tham gia trực tiếp đã kiểm điểm trước TƯ theo tinh thần tự phê, và chấp nhận những hình thức kỷ luật nghiêm khắc."
Do nhận định chiến dịch Cải cách Ruộng đất giết lầm nhiều người vô tội và gây ra chống đối mạnh trong dân chúng, Đảng Lao động Việt Nam và chính phủ tiến hành các bước sửa sai như sau:
  • Tháng 2 năm 1956, Hội nghị Trung ương đảng lần thứ 9 tuyên bố các sai lầm trong cải cách ruộng đất.
  • Tháng 3 năm 1956, Quốc hội họp lần thứ 4 tường trình bản báo cáo các sai lầm và biện pháp sửa sai.
  • Ngày 18 tháng 8 năm 1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào và cán bộ nhìn nhận sai lầm và cho biết Trung ương đảng và chính phủ đã nghiêm khắc kiểm điểm các sai lầm.
  • Ngày 24 tháng 8 năm 1956, báo Nhân Dân công bố có một số đảng viên trung kiên đã bị hành quyết sai lầm trong chiến dịch Cải cách Ruộng đất.
  • Tháng 9 năm 1956, Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương đảng (họp từ 25/8 đến 24/9/1956) nhận định các nguyên nhân đưa đến sai lầm, và thi hành biện pháp kỷ luật đối với Ban lãnh đạo chương trình Cải cách Ruộng đất như sau: ông Trường Chinh phải từ chức Tổng Bí thư đảng, hai ông Hoàng Quốc Việt và Lê Văn Lương ra khỏi Bộ Chính trị, và ông Hồ Viết Thắng bị loại ra khỏi Chấp hành Trung ương đảng.
  • Ngày 29 tháng 10 năm 1956, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, người không tham gia trực tiếp vào sai lầm chương trình Cải cách Ruộng đất, thay mặt chủ tịch nước đọc bản báo cáo của Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương đảng tại nhà hát lớn Hà Nội, kê khai sai lầm và phát động chiến dịch sửa sai, phục hồi các chức vụ tài sản cho cán bộ, bộ đội bị đấu tố.
Theo tổng kê đến tháng 9 năm 1957, thì chiến dịch sửa sai phục hồi khoảng 70-80% số người bị kết án. Theo báo Nhân Dân thì chiến dịch sửa sai cũng gây thêm chết chóc khi các đảng viên được phục hồi trả thù những người đã đấu tố họ oan ức, hoặc chưa kịp trả thù thị bị thủ tiêu trước để tránh việc trả thù.
Phong trào trả thù bằng bạo động lan rộng khiến nhà chức trách phải dùng quân đội trấn áp. Ở Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, có bản báo cáo ghi nhận 20.000 nông dân mang gậy gộc chống lại quân đội khi chính quyền dùng vũ lực để tái lập trật tự.
Tuy nhiên, theo nhiều nhân chứng, việc sửa sai chỉ đơn thuần là phục hồi đảng tịch, quy lại thành phần (từ địa chủ, phú nông trở lại thành trung nông) chứ không hề có trả lại tài sản, nhà đất. Đến năm2004, theo báo Hà Nội MớiỦy ban Nhân dân thành phố Hà Nội mới ra quyết định trợ cấp cho một số trường hợp bị qui sai thành phần và có tài sản bị trưng thu, trưng mua trong thời kì Cải cách Ruộng đất với mức ba triệu đồng một trường hợp. 


Các đợt cải cách

Đợt
Thời điểm↓
Địa bàn↓Số xã đưa vào
Cải cách Ruộng đất↓
Đợt Thí điểm
(25/12/1953 - 22/10/1954)
Thái Nguyênkhông rõ
Đợt 1
(1/4/1954 - 15/01/1955)
Một số các vùng kiểm soátkhông rõ
Đợt 2
(23/10/1954 - 15/01/1955)
Thái Nguyên22
Phú Thọ100
Bắc Giang22
Thanh Hóa66
Đợt 3
(18/02/1955 - 20/06/1955)
Vĩnh Phúc65
Phú Thọ106
Bắc Giang84
Sơn Tây22
Thanh Hóa115
Nghệ An74
Đợt 4
(27/06/1955 - 31/12/1955)
Vĩnh Phúc111
Phú Thọ17
Bắc Giang1
Bắc Ninh60
Sơn Tây71
Thanh Hóa207
Nghệ An5
Hà Tĩnh227
Hà Nam98
Ninh Bình47
Đợt 5
(25/12/1955 - 30/07/1956)
Bắc Ninh8
Nghệ An163
Hà Tĩnh6
Ninh Bình45
Quảng Bình118
Vĩnh Linh21
Hải Dương217
Hưng Yên149
Thái Bình294


Những thành tích và sai lầm trong chiến dịch


Thành tích

Năm 1953, giữa lúc Quân đội Nhân dân Việt Nam bắt đầu chiếm ưu thế trên chiến trường, cuộc cải cách ban đầu có những kết quả nhất định khi chỉ thực hiện việc tịch thu tài sản, đất đai của những thành phần địa chủ bị kết tội Việt gian (theo Pháp chống Việt Minh) chia cho bần nông, cố nông. Chính việc cải cách này đã góp một phần không nhỏ nâng cao sự ủng hộ của dân chúng để dốc toàn lực cho trận chiến quyết định.
Cuộc cải cách đã phân chia lại đất canh tác một cách công bằng cho đa số nông dân Bắc Bộ. Từ năm 1953 tới 1957, 810.000 hécta ruộng đất ở đồng bằng và trung du miền Bắc đã được chia cho 2 triệu hộ nông dân, chiếm khoảng 72,8% số hộ nông dân ở miền Bắc. Trong khi đó, phân bố ruộng đất miền Bắc trước năm 1945, chỉ có 4% dân số đã chiếm hữu tới 24,5% tổng số ruộng đất.


Sai lầm chung

  • Đánh giá sai lầm về tình hình khác biệt giữa nông thôn Trung Quốc và Việt Nam, quá tin tưởng và chịu sức ép của các cố vấn Trung Quốc.
  • Yếu tố bạo lực có nguồn gốc bột phát từ hận thù giai cấp và cá nhân đã được tích lũy bao đời nay trên những cánh đồng lúa. Địa chủ trở thành chỗ cho dân nghèo trút cơn giận dữ vì cuộc sống khó khăn của họ, số khác thì vì ghen tức với tài sản của địa chủ. Cộng với trình độ nhận thức thấp của đa số cán bộ cấp xã thời bấy giờ, dẫn tới nhiều trường hợp oan sai, lợi dụng trả thù cá nhân, và các hành vi bạo lực trong các cuộc đấu tố. Hậu quả của những hành động này nhiều khi rất bi thảm, nhưng có thể nhìn nhận như những sản phẩm phụ không thể tránh khỏi của bất cứ cuộc cách mạng nào] (tương tự như làn sóng tàn sát giới tăng lữ nhà thờ của người dân Pháp trong cuộc Cách mạng Pháp 1789)
  • Đánh giá sai và nâng sản lượng, nâng thuế lên quá cao, quá sức người dân. Như ở Hà Tĩnh, có những mẫu ruộng tính sản lượng là 32, 35 tạ một mẫu ta. Khá nhiều ruộng tốt được tính sản lượng ít nhất phải 25, 28 tạ. Trong khi đó như ở Liên Xô, theo ông Đặng Thái Mai: "ở LX cũng mới trù tính việc tăng năng suất các miền ruộng có thủy lợi (terres-irriguées) cho đến mức 40-50 tạ một hectare. Như vậy là với phương tiện kỹ thuật, nhân công, tổ chức của nông nghiệp Liên Xô, mà trong 4 năm nữa người ta mới yêu cầu tới mức 20 hay 25 tạ nửa hectare, nghĩa là còn hơn một mẫu ta...". [13]
  • Chiến dịch càng lên cao điểm càng mất kiểm soát dẫn đến tình trạng vô chính phủ, nhiều oan sai và cô lập, đối xử nhục hình với gia đình người bị đấu tố. Hơn 70% người bị quy vào thành phần địa chủ và phú nông là quy sai. Điển hình như:
  • Trường hợp tử hình bà Nguyễn Thị Năm, chủ hiệu Cát Thanh Long ở Hà Nội, mẹ nuôi của Lê Đức ThọPhạm Văn Đồng và Trường Chinh, có con trai một là trung đoàn trưởng một trung đoàn của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Trong Tuần Lễ Vàng, gia đình bà cũng đã hiến 100 lạng vàng cho chính quyền mới thành lập. 
  • Trường hợp thiếu tướng Vương Thừa Vũ, tư lệnh Đại đoàn 308, nguyên tư lệnh mặt trận Hà Nội năm 1946, chủ tịch Ủy ban quân quản Hà Nội bị các cán bộ cải cách bắt ở ngoại thành Hà Nội vì có người đấu tố ông là "địa chủ, có xuất thân là tư sản, lập trường chính trị không rõ ràng".
  • Các cháu nội của cụ Phan Bội Châu, trong đó có một người là Trung đội trưởng, nhà nghèo, 3 sào đất cho 3 mẹ con, nhưng cũng bị quy là địa chủ.
  • Đặc biệt, cụ Phó bảng Đặng Văn Hướng, Bộ trưởng phụ trách Thanh - Nghệ - Tĩnh của Chính phủ bị đấu tố chết tại quê nhà Diễn Châu. [14]
  • Ngoài việc tịch thu nhà đất của những người bị quy là địa chủ, những mục đích khác của chiến dịch không đạt được. Thực tế đau buồn khác là kết quả của cuộc cải cách ruộng đất lại không như người nông dân mong đợi khi ngay sau đó: vụ mùa năm 1957 được đánh giá là thất thu.
  • Cuộc đấu tố và cô lập, lùng bắt địa chủ và con cái của họ đã gây một không khí kinh hoàng tại nông thôn miền Bắc thời ấy. Giết lầm nhiều người vô tội và gây ra chống đối mạnh trong dân chúng, mất tin tưởng vào Đảng Cộng sản và nhà nước, gây chia rẽ trong nhiều thế hệ.


Sai lầm trên phương diện pháp lý

Theo bài diễn văn luật sư Nguyễn Mạnh Tường đọc tại cuộc họp Mặt trận Tổ quốc ở Hà Nội ngày 30 tháng Mười 1956, cuộc cải cách ruộng đất được thực hiện với phương châm "thà chết 10 người oan còn hơn để sót một địch"; phương châm này đi ngược lại với quy tắc cơ bản của pháp luật, trong trường hợp này là "thà 10 địch sót còn hơn một người bị kết án oan". Cụ thể các quy tắc pháp lý đã bị xâm phạm là:
  • Không xử phạt các tội đã phạm quá lâu đến hiện tại mới điều tra ra.
  • Trách nhiệm của phạm nhân thì chỉ một mình phạm nhân chịu, không quy kết cho vợ con, gia đình.
  • Muốn kết án một người phải có bằng chứng xác đáng.
  • Thủ tục điều tra, xét xử phải bảo đảm quyền lợi của bị can. Bị can có quyền nhờ luật sư bào chữa. Phải tôn trọng bị can trong quá trình truy tố và xét xử; khi bị can ra trước tòa không được xiềng xích và không được dùng nhục hình.
Các nguyên nhân sai lầm được cho là: quan điểm ta-địch, thù-bạn của chính quyền đương nhiệm rất mơ hồ; chính quyền bất chấp pháp luật, lấy chính trị lấn át pháp lý; bất chấp ý kiến của giới chuyên môn.[6]


Số người bị đấu tố

Tổng cộng chiến dịch Giảm tô tịch thu của địa chủ, phú nông 31.110 tấn thóc tô, 15.475 ha ruộng, 8.246 trâu bò. Tổng cộng chiến dịch Cải cách Ruộng đất tịch thu của địa chủ 810.000 ha ruộng, 106.448 trâu bò, 1.846.000 nông cụ, 148.565 ngôi nhà. Số tài sản này được phân chia cho 2.104.138 hộ bần nông, trung bình mỗi hộ được 0,38 ha, 0,87 nông cụ, 0,071 ngôi nhà. Giai cấp địa chủ hoàn toàn bị tiêu diệt tại miền Bắc. [cần dẫn nguồn]
Số lượng người bị giết trong chương trình Cái cách Rộng đất là không thể thống kê chính xác và còn gây tranh cãi. Nhưng theo chủ trương ở một số địa phương phải tìm cho ra tỷ lệ 5% địa chủ, "Việt gian" để mang ra đấu tố[3] thì con số sẽ không ít.
Theo nhiều nguồn tin khác nhau, số lượng người bị giết dao động khá lớn:
  • Theo Bernard Fall thì không thể biết chính xác con số, nhưng ít nhất khoảng 50.000 người bị giết và 100.000 người bị bắt giam(cần số trang).
  • Theo Tibor Mende, khoảng 15.000 người bị giết.
  • Theo Tiến sĩ Võ Nhân Trí, dựa trên tài liệu văn khố Trung ương đảng, thì khoảng 15.000 người bị giết.
  • Theo tuần báo Time ngày 1 tháng 7 1957 thì khoảng 15.000 người bị giết.
  • Theo Gareth Porter: từ 800 đến 2500; theo Edwin E. Moise (sau một công cuộc nghiên cứu sâu rộng hơn): vào khoảng 5.000. Theo giáo sư sử học James P. Harrison: vào khoảng 1500 cộng với 1500 bị cầm tù
  • Vũ Thư Hiên cho rằng con số nạn nhân là ít hơn con số năm chục vạn của ông Tín rất nhiều, tuy vậy ông chỉ có thể ước tính, chứ không có số liệu hoặc tài liệu nào cụ thể:
"Người ta thường nói tới con số khoảng 15.000 người. Tôi nghĩ con số có thổi phồng. Trong tài liệu của Bernard Fall và Wesley Fishel con số còn được đẩy tới 50.000. Nếu tính tổng số xã đã cải cách ruộng đất là khoảng 3.000, mỗi xã có trung bình một hoặc hai người bị bắn, bị bức tử, bị hãm cho chết đói, (những xã có số người bị bắn lên tới ba hoặc bốn rất ít gặp, có những xã không có ai bị) thì số người chết oan (kể cả trong Chỉnh đốn Tổ chức, tính cả người bị bức tử) nằm trong khoảng từ 4.000 đến 5.000 người. Nói chung, đó cũng là đoán phỏng. Chẳng bao giờ chúng ta biết được con số chính xác nếu không có một cuộc điều tra khoa học." 
  • Thống kê chính thức của nhà nước Việt Nam được đăng trong cuốn Lịch sử kinh tế Việt Nam (tập hai) cho biết là đã có 172.008 người bị quy vào thành phần địa chủ và phú nông (trong đó có 123.266 người bị quy sai, hơn 70%, tức là bị oan). Theo quan điểm của những người thực hiện cuộc cải cách ruộng đất, đây là những người bị xếp vào loại kẻ thù của nhân dân, bị "đào tận gốc, trốc tận rễ". Điều này đồng nghĩa với việc họ có thể bị bắn tại chỗ, hoặc bị lãnh án tù.
Về thành phần của con số 172.008 nạn nhân này, bảng thống kê ghi như sau: Địa chủ cường hào gian ác : 26.453 người, trong đó 20.493 người bị oan (77,4%). Địa chủ thường : 82.777 người, trong đó 51.480 người bị oan (62%). Địa chủ kháng chiến : 586 người, trong đó 290 bị oan (49%). Phú nông : 62.192 người, trong đó 51.003 người bị oan (82%). Tổng cộng : 172.008 nạn nhân, trong đó 123.266 người bị oan : 71,66%. Con số địa chủ kháng chiến theo thống kê trên là 586 người, trong khi theo báo cáo của Bộ chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 10 năm 1956 thì riêng tổng số đảng viên bị "xử trí" lên tới 84.000 người. Số lượng này chưa kể đến thân nhân, gia đình của những người bị quy sai, cũng bị cô lập và đối xử phân biệt.
Theo giáo sư Lê Xuân Khoa thì chương trình Cải cách Ruộng đất là một trong ba nguyên nhân chính đưa đến cuộc di tản 1954. Ngoài ra, ông nhận định lượng lúa gạo sản xuất ở đồng bằng sông Hồng bị giảm sút trầm trọng trong những năm cải cách ruộng đất và ngay sau đó. Tuy nhiên, nhận định này khác rất nhiều với các ý kiến, nhận định về cuộc di cư năm 1954 trong các sách chính thức về lịch sửở Việt Nam hiện nay. 


Ý kiến và nhận định riêng

  • Luật sư Nguyễn Mạnh Tường đã nói về tình cảnh oan sai như sau, trong diễn văn đọc trước Mặt Trận Tổ Quốc, ngày 30 tháng 10 năm 1956 tại Hà Nội: “Qua cuộc Cải cách Ruộng đất ta thấy bao nhiêu các chiến sĩ cách mạng thành tích lộng lẫy, có người ngực gắn tới hai huy chương kháng chiến bị kết án là phản động, cường hào gian ác và, sau khi nhận tội, bị tống giam hay bị hành hình” [...] “Trong cuộc kháng chiến anh dũng của ta, những đồng bào đã hi sinh, có thể nói được, chết với trong lòng chan chứa nỗi vui sướng vì chết cho sự nghiệp giải phóng dân tộc khỏi nanh vuốt của địch. Họ chết vì địch, cho ta, đó là cái chết tích cực, cái chết vẻ vang, cái chết oanh liệt mà Tổ quốc ghi nhớ muôn thuở. Trái lại, các người chết oan vì các sai lầm trong cuộc Cải cách Ruộng đất này, lúc tắt thở, cay đắng đau xót vì chết với một ô danh. Chúng ta đã xoá bỏ cái ô danh đó, nhưng con cháu của các nạn nhân tài nào mà không ngậm ngùi? Đau đớn hơn, bây giờ ta làm thế nào mà biến cái khổ cực của người tắt thở thành một niềm an ủi cho họ được?”. 
  • Năm 2005, nguyên Thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt nhìn nhận "Trong các chiến dịch cải cách ruộng đất và cải tạo công thương nghiệp, nhiều nhân sĩ yêu nước, nhiều nhà kinh doanh có công với cách mạng đã không được coi như bạn nữa, gây những tổn thất lớn về chính trị và kinh tế".

Tham khảo

  • Lịch Sử Việt Nam, 1954-1965, Cao Văn Lượng chủ biên, Nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1995.
  • Đại Cương Lịch Sử Việt Nam, 1945-2000 tập III, Lê Mậu Hãn chủ biên, Nxb Giáo Dục, Hà Nội, 2000.
  • Góp phần tìm hiểu Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt nam PGS TS Nguyễn Trọng Phúc chủ biên, Nxb Chính Trị Quốc Gia: Viện Lịch sử Đảng, Học Viên Chính trị Quốc Gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2002.
  • Việt Nam, 1945-1995 tập I, GS Lê Xuân Khoa, Nxb Tiên Rồng, Maryland, 2004.
  • Qua Những Sai Lầm Trong Cải Cách Ruộng Đất, Xây Dựng Quan Điểm Lãnh Đạo, LS Nguyễn Mạnh Tường, diễn văn đọc trước Mặt Trận Tổ Quốc, ngày 30 tháng Mười 1956 tại Hà Nội.
  • The Viet Minh Regime, Government and Administration in the Democratic Republic of Vietnam, Bernard Fall, Greenwood Press, Connecticut, 1975

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét