MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Malaysia là nước có nhiều tôn giáo,
các tôn giáo ở Malaysia có ý nghĩa nhất định về giáo dục ý thức cộng đồng, đạo
đức, phong cách, lối sống của một bộ phận nhân dân. Nhưng trong lịch sử, các
tôn giáo cũng đã từng bị các thế lực thù địch, xâm lược, các tập đoàn chính trị
phản động lợi dụng, sử dụng vào mưu đồ chính trị. Hồi giáo là một tôn giáo lớn
do người Ả Rập sáng lập, được truyền bá vào đất nước Malaysia qua các con đường
khác nhau và được tiếp nhận rất nồng nhiệt.
Hồi giáo là tôn giáo chính thức và
chiếm một vị trí đặc biệt trong đời sống chính trị, kinh tế xã hội, đồng thời
là tôn giáo của cộng đồng dân tộc Melayu – cộng đồng dân tộc bản địa lớn nhất,
có nhiều đặc quyền, đặc lợi trong mọi lĩnh vực, đặc biệt là trong đời sống
chính trị, kinh tế và văn hóa – xã hội của nước này. Số người theo đạo Hồi chiếm
hơn 60% tổng số dân cả nước; còn lại là theo Phật giáo, Ấn Độ giáo, Thiên chúa
giáo,… và các tín ngưỡng dân gian.
Trong bối cảnh đó, để xây dựng một
quốc gia độc lập, phồn vinh với một nền văn hóa thống nhất, Malaysia đã phải
giải quyết những vấn đề có liên quan đến dân tộc, tôn giáo của mình. Nhất là
trong bối cảnh hiện nay, khi Hồi giáo đang là vấn đề nổi cộm, phức tạp nhất của
khu vực và thế giới, gắn với mọi mặt trong đời sống chính trị của các nước, mà
Malaysia không phải là một ngoại lệ.
Việc nghiên cứu đạo Hồi nói chung và
đạo Hồi ở các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á nói riêng dưới góc độ lịch sử, để
góp phần hiểu rõ hơn về Hồi giáo và những ảnh hưởng của nó đến khu vực Đông Nam
Á là một công việc có ý nghĩa về mặt khoa học và thực tiễn. Từ ý nghĩa đó, tôi
chọn đề tài “Sự du nhập và ảnh hưởng của Hồi giáo ở Malaysia (thế kỷ XV – thế
kỷ XX) làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp cho mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Từ trước đến nay, đề tài nghiên cứu
về các nền văn minh trên thế giới đã thu hút không ít tổ chức và cá nhân nghiên
cứu trên cả hai hướng lý thuyết và thực tiễn. Có rất nhiều tài liệu nghiên cứu
về vấn đề này, cụ thể là:
+ Đại cương văn hóa phương Đông (Lương Duy
Thứ chủ biên): trình bày tổng quan về các nền văn hóa lớn ở phương Đông, trong
đó phần Ả Rập được giới thiệu một cách khái quát nhưng khá đầy đủ từ thời tiền
Hồi giáo cho đến năm 2007. Tác giả chỉ thuật lại phần lịch sử một cách sơ lược
nhưng vẫn làm nổi bật lên tầm quan trọng của tiến trình lịch sử khi xem lịch sử
như một quá trình liên tục, như “sợi chỉ dài” xuyên suốt các giai đoạn lịch sử
quyết định đến sự hình thành và phát triển của văn hóa Ả Rập.
Trong tác phẩm này, tác giả trình bày
dưới hình thức giới thiệu các thành tố của nền văn hóa: tôn giáo, văn hóa vật
chất, nghệ thuật tạo hình, nghệ thuật biểu diễn, khoa học – kỹ thuật, phong tục
tập quán … Tác giả đã giới thiệu khá đầy đủ những nét nổi bật và truyền thống
của nền văn hóa Ả Rập xưa và nay. Tuy nhiên, đúng như tên gọi của nó, quyển
sách này chỉ giới thiệu chứ nó chưa đi sâu vào các vấn đề khoa học phức tạp.
+
Lịch sử văn minh Ả Rập (Will Durant):
Tác giả đã khái quát nền văn minh Ả Rập từ thời kỳ tiền Muhammad cho đến lúc đế
quốc Ả Rập Hồi giáo bị quân Mông Cổ tấn công và suy yếu.
Durant đã trình bày rất kỹ về nền văn
minh Hồi giáo qua các thời kỳ lịch sử và các vùng lãnh thổ - những nơi mà các
đội quân Hồi giáo đã đặt chân đến. Tác giả làm rõ từ kinh Koran, phép tắc, tín
ngưỡng cho tới chính quyền và cả kinh tế, xã hội và phong tục tập quán. Ông
cũng trình bày khá rõ ràng về các thành tựu của nền văn minh Ả Rập tuy rằng
chưa xác định thời gian của các thành tựu này. Đồng thời thời ông cũng nêu được
nguồn gốc của việc hình thành các giá trị văn hóa đó và những ảnh hưởng của nó
đến người dân Ả Rập, phương Đông, phương Tây và thế giới…
+ Lịch sử văn minh thế giới (Vũ Dương Ninh): Ả Rập và Hồi giáo chỉ là
một phần nhỏ trong chương IV của cuốn sách, giới thiệu những thành tựu chủ yếu
của văn minh Ả Rập thời cổ trung đại. Tất cả đều mang tính khái quát, sơ lược
và căn bản. Tuy vậy, tác giả cũng thể hiện rõ sự khâm phục và ngưỡng mộ của
mình về những thành tựu của nền văn minh Ả Rập thời kỳ này.
+ Islam ở Malaysia
(Phạm Thị Vinh): Tác giả đã trình bày tổng quan về “Islam ở Malaysia ” trên tất cả các lĩnh vực xã hội, văn
hóa và chính trị Malaysia
từ sau khi nước này giành độc lập đến nay. Bà đã trình bày kỹ về ảnh hưởng của
Hồi giáo (bà gọi là “Islam”) ở Malaysia
qua từng thời kỳ lịch sử, trong đời sống văn hóa xã hội và chính trị (giáo dục,
luật pháp, vị trí của nó trong Hiến pháp Liên bang Malaysia …) qua các mốc thời gian cụ
thể (1414, 1511, 1824, 1957).
+ Liên
bang Malaysia, lịch sử văn hóa và những vấn đề hiện đại (Viện nghiên cứu
Đông Nam Á): Hồi giáo và Hồi giáo ở Malaysia chỉ là một mục nhỏ (mục 7) ở phần
II của cuốn sách, ở đây tác giả giới thiệu những nét cơ bản, toàn diện về Hồi
giáo, quá trình Hồi giáo xâm nhập và tác động đến các mặt như văn hóa, xã hội,
chính trị tuy rằng chưa đi sâu kỹ hơn vào mặt văn hóa, xã hội. Tuy vậy, tác giả
cũng thể hiện được sự khâm phục, ngưỡng mộ của mình đối với những ảnh hưởng của
Hồi giáo đến các mặt của Malaysia .
Qua những công trình trên cho thấy vấn
đề “sự du nhập và ảnh hưởng của Hồi giáo đến Malaysia” đã được nghiên cứu trên
nhiều góc độ khác nhau (chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội…), nhưng hầu như
các công trình này còn mang tính riêng lẻ, chưa toàn diện, về lịch sử hình
thành cũng như khuynh hướng phát triển, mức độ ảnh hưởng của Hồi giáo đến
Malaysia trên các mặt của đất nước này. Trong thời đại hiện nay, cùng với sự
phát triển chung của thế giới nói chung và Malaysia nói riêng, Hồi giáo ngày
càng biến đổi không ngừng và gia tăng ảnh hưởng của nó đến các nước trên thế
giới. Song, quá trình biến đổi bản thân đạo Hồi như thế nào, mức độ ảnh hưởng
của nó đến chính trị, văn hoá, xã hội… của Malaysia ra sao ? Đó là những vấn
đề đặt ra cần được nghiên cứu, làm rõ.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa
luận là Hồi giáo và những ảnh hưởng của tôn giáo này đối với Malaysia .
4. Phạm vi nghiên cứu
Thời gian nghiên cứu được giới hạn từ thế kỷ XV đến thế kỷ XX.
Không gian nghiên cứu của đề tài
được giới hạn trong phạm vi của Malaysia .
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp lịch sử: phương pháp này giúp ta thấy được một cách
tổng thể sự phát triển của Hồi giáo các giai đoạn lịch sử cụ thể cũng như khái
quát được ảnh hưởng của nó đến Malaysia .
- Phương pháp logic: để xem xét các sự kiện liên quan trong mối quan
hệ biện chứng của quá trình phát triển, quá trình nhận thức lịch sử, từ đó tìm
ra các vấn đề có tính mắt xích, quy luật của vấn đề nghiên cứu.
6. Cấu trúc
Nội dung của khóa luận gồm 2 chương:
Chương 1: Khái quát về Hồi giáo
Chương 2: Sự du nhập và ảnh hưởng
của Hồi giáo đối với nước Malaysia
(từ thế kỷ XV đến thế kỷ XX)
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ HỒI GIÁO
1.1. Sự ra đời và phát triển của đạo Hồi
1.1.1.
Muhammad và đạo Hồi
Muhammad (nghĩa là “người được ca ngợi”) sinh vào
tháng 4/571[1], trong một gia đình làm nghề buôn bán ở Mecca
bên bờ Tây bán đảo Ảrập. Mồ côi từ nhỏ, ông được ông nội và bác đem về nuôi
dưỡng. Lớn lên, ông theo bác đi dẫn đường cho các đoàn lái buôn qua sa mạc, và
chính việc này đã giúp ông có vốn kiến thức uyên bác, đặc biệt là những hiểu
biết về giáo lý độc thần giáo của Do Thái và Thiên Chúa giáo – hai tôn giáo có
chung nguồn gốc – để sau này ông đưa vào tôn giáo của mình.
Cho đến trước khi Hồi giáo ra đời, Ả rập
là một bán đảo rộng lớn (3 triệu km2 ) gồm phần lớn là sa mạc khô
cằn, hoang vắng, chỉ có một số ốc đảo ở phía Nam (vùng Yemen) là nhiều mưa, có
ruộng vườn, gia súc đông đúc (ngựa, cừu, lạc đà). Trong khi đó, vùng Hejaz nằm
ở phía Tây Nam
bán đảo cũng rất phát triển. Vùng này từ xưa đã thành lập nhiều thành phố lớn
như Mecca ,
Yathrib (sau đổi thành El Medina), Mokka nằm dọc con đường thương mại Đông –
Tây. Cho tới đầu thế kỷ VII, cư dân ở các thành phố này còn sống thành từng thị
tộc, bộ lạc. Tuy nhiên, trong các bộ lạc đó, sự phân hóa giai cấp ngày càng rõ
rệt. Tầng lớp quý tộc thị tộc trở thành kẻ có nhiều đặc quyền và của cải. Một
lần trong năm, các bộ tộc đều tạm dừng chiến tranh, xung đột để đến Mecca hành hương.
Ngoài Hejaz và Yemen ra, ở các vùng đất còn lại,
cư dân tiếp tục hành nghề chăn nuôi gia súc, nhiều nhất là dê và lạc đà. Tuy
lạc hậu hơn hai vùng trên, nhưng đến đầu thế kỷ VII ở đây cũng diễn ra sự phân
hóa giàu nghèo. Trong khi đó ở bên ngoài, do có vị trí quan trọng nên vùng đất
này trở thành đối tượng tranh giành giữa Ba Tư và Byzantium . Sau nhiều năm chiến tranh, Ba Tư
chiếm được vùng Yemen
giàu có, do đó khống chế luôn con đường thương mại Đông – Tây khiến hoạt động
thương mại gặp nhiều khó khăn. Như vậy, đến cuối thế kỷ VI – đầu thế kỷ VII,
trên bán đảo Ả rập, có nơi thành lập nhà nước, có nơi còn đang trong chế độ
công xã nguyên thủy. Do đó, nhu cầu thống nhất về mặt nhà nước đã trở nên cần
thiết. Sự ra đời của Islam
hay Hồi giáo[2] chính là sự đáp ứng cho nhu cầu phát triển
thời đó.
Đồng
thời với nhu cầu thống nhất về mặt nhà nước là nhu cầu thống nhất về mặt tôn
giáo. Trước khi Hồi giáo ra đời, trên bán đảo xuất hiện hình thức thờ vô số thần
(ngẫu tượng), mỗi bộ tộc đều thờ một vị thần duy nhất[3].
Trung tâm của của các tín ngưỡng đó chính là thánh địa Mecca và đền Kaaba
huyền bí. Nhận thức được điều đó, Muhammad đã sáng lập ra Hồi giáo để thống nhất
các tín ngưỡng trên lại thành một, tôn thờ Allah là thánh tối cao và đồng thời
thành lập ummah, cộng đồng
dân cư được kết hợp bằng niềm tin tôn giáo thống nhất và cai trị bởi luật Hồi
giáo. Sau đó, ông đại thắng quân Mecca , kéo quân đến đền
Kaaba phá bỏ 360 ngẫu tượng, buộc dân Mecca , buộc
dân Mecca cải sang đạo Hồi. Như vậy, chính trị và tôn giáo được thống nhất trong Hồi giáo: Là đấng tối cao, Allah có quyền truyền đạt ý muốn của mình qua trung gian Muhammad, còn ông trở thành nhà lãnh đạo chính trị thực hiện trung thành ý chí của Allah [18, 12].
Với sự thống nhất về chính
trị, tôn giáo này, Ả rập chính thức thành lập nhà nước và về sau trở thành một
đế quốc rộng lớn với đội quân hùng mạnh, sẵn sàng tử vì đạo với những ý đồ bành
trướng lãnh thổ ra bên ngoài của các Caliph – vua Ảrập.
1.1.2. Sự mở rộng lãnh
địa Hồi giáo ra khỏi biên giới Ảrập
Những người kế vị Muhammad tự xưng là
Caliph, có
nghĩa là “người nối nghiệp” nhà Tiên tri, quốc gia Hồi giáo của họ được gọi là
Caliphate. Thực hiện di huấn của Muhammad “truyền
bá lời dạy của Chúa tới chân trời góc bể”[22, 35], các tín đồ của ông đã “chỉ trong một thế kỷ đã thống trị cả một
vùng đất rộng lớn từ Tây Ban Nha, Marốc ở phía tây trải dài cho tới tận Ấn Độ ở
phía đông” [14]. Đây là việc có ý
nghĩa quan trọng đối với sự phát triển và truyền bá văn hóa Hồi giáo, biểu hiện
của sự hưng thịnh là sự nổi lên của 3 đế chế Hồi giáo:
Đế chế Umayyads (661 – 750): Chỉ
trong vòng một thế kỷ chinh chiến, Umayyads đã dựng lên một đế quốc rộng lớn
chưa từng thấy, trải dài suốt từ Ấn Độ đến bờ biển Đại Tây Dương, khiến cho Hồi
giáo trở thành một tôn giáo của thế giới.
Đế chế Abassids (750 – 1258): triều
đại nổi lên ở Iraq với trung tâm là Baghdad, đã làm chúa tể thống trị cả một
vùng rộng lớn bao gồm Sind, Afganistan, Ba Tư, Syria, Palestine, Ai
Cập, Bắc Phi.
Đế chế Andalusia (755-1492): đóng đô
ở Cordoba (Tây
Ban Nha).
Bên cạnh các đế chế này còn có các
đế chế khác như đế chế Fatimid (Ai Cập); Almoravid (Marốc), Safavid (Iran )…
Sở dĩ Hồi giáo bành trướng nhanh như vậy là có
nhiều lý do. Về quân sự, họ học hỏi rất nhiều từ Ba Tư và Byzantium . Các bộ lạc phía bắc Ả rập có
truyền thống đánh thuê cho các nước này, qua đó họ học rất nhiều về kỹ thuật
quân sự, như cách đánh thành chẳng hạn. Về mặt tinh thần, họ tin rằng nếu chiến
đấu vì Allah, tử vì đạo sẽ được lên thiên đường, không kể sau thẳng lợi họ được
chia phần. Nếu định cư ở đâu thì dân không theo đạo Hồi sẽ đóng thuế nuôi họ.
1.2.
Giáo lý đạo Hồi
1.2.1. Kinh Koran
Kinh Koran
(nghĩa là “đọc”) là bộ kinh điển tối thượng của người Hồi giáo.
Theo giáo lý đạo Hồi, Koran là sự tiết lộ những lời mặc khải của Thượng đế thông qua Thiên sứ Gabriel cho Muhammad. Tương
truyền, trong 23 năm cuối đời mình,
Muhammad đã đọc một vài thiên khải cho các tín đồ của ông ghi chép rải rác trên
các miếng da thú, tảng đá, mảnh xương, lá kè rồi đọc cho đám đông nghe, sau
cùng xếp chúng vào những cái hộp không theo trình tự hợp lý và thứ tự thời gian
nào cả [12, 55 – 56]. Sau khi ông tạ thế, Caliph đầu tiên là Abu Bakr ra lệnh
cho Zayd Ibn Thabit – người thư ký giỏi nhất của Tiên tri, tìm
kiếm những đoạn chép tay, những gì còn lại trong trí nhớ của các tín đồ thân
cận nhất của Muhammad, để tập hợp một cuốn kinh. Đến thời Uthman việc biên soạn
kinh Koran được thực hiện do công sức
của nhiều người [4].
Kinh Koran chia thành 30 phần (Just), 114
chương (Suras), 6.236 câu (Ayat, nghĩa là “điều lành”,
điều kỳ diệu”) [5] và 323.015 từ. Các chương đều khác nhau về khuôn khổ và
không theo trình tự nội dung. Kinh Koran có hai phần: phần Mecca và phần Medina .
Phần thứ nhất gọi là phần Mecca ,
có 85 chương, 4.780 câu, nội dung chủ yếu nói về Allah, vị thánh toàn năng,
siêu việt và là người sáng tạo ra muôn loài. Các tín đồ nếu làm đúng theo lời
dạy của Allah thì sẽ được lên thiên đường, còn ngược lại sẽ bị đày đọa ở địa
ngục. Phần thứ hai là phần Medina, phần này có 29 chương, 1.456 câu, nội dung chủ yếu đề cập
đến các giáo pháp của Hồi giáo như nghi lễ thờ phụng, trai giới, triều bái…
Nghiên cứu kinh Koran,
các nhà bác học nói chung không cho nó là một mớ nhảm nhí, bịa đặt. Nó chứa
đựng những tư liệu dân tộc học dù là nghèo nàn về cuộc sống, văn hóa và phong
tục tập quán của người Ảrập. Những tập quán
cổ xưa, những giai thoại về cuộc đấu tranh chống đa thần giáo, chống những tàn
dư của chế độ gia trưởng lỗi thời… được miêu tả trong quyển sách này là rất bổ
ích. Từ văn bản của kinh này, một di sản văn học cổ, các nhà ngôn ngữ học đã
khai thác được nhiều tư liệu bổ ích cho việc nghiên cứu thành phần từ vựng và
ngữ pháp của tiếng Ảrập. Trong kinh Koran có nêu ra các nguyên tắc tôn giáo,
nghĩa vụ tín đồ phải làm theo; chỉ dẫn về kinh doanh, quảng cáo, quy định về
quan hệ hôn nhân, gia đình, các quy tắc đạo đức trong xã hội, nhưng chủ đề
chính của no vẫn là khẳng định các nguyên tắc tôn giáo, các nghĩa vụ của tín đồ
đối với đức thánh Allah [28, 380].
Hiện nay, kinh Koran không đơn thuần chỉ là bộ
kinh của hơn 20 nước Ảrập mà còn là tác phẩm đồ sộ, kết tinh tài hoa, trí tuệ
và ước mơ của người Ảrập cần cù và giàu nghị lực. Nói về bộ kinh này, đại thi
hào Đức G.W.Goethe viết: “Kinh Coran là
bộ sách đọc mãi không thấy chán. Cứ mỗi lần đọc lại cảm thấy như nó luôn luôn
mới mẻ, cuốn hút con người, làm rung động lòng người, thúc giục con người… Do
nội dung cũng như giáo lý đa dạng, lời văn nghiêm túc, lúc đường hoàng, lúc
trang trọng… Bộ kinh này sẽ mãi mãi toát ra một sức mạnh vĩ đại” [42, 610].
1.2.2.
Luật Shari’ah
Shari’ah, nghĩa
là “con đường”, chỉ một hệ thống các nghĩa vụ hoàn chỉnh thông qua sự khải thị
của Allah về tôn giáo, đạo đức, pháp luật cần phải tuân theo. Nó ra đời từ rất
sớm, đồng thời với đạo Hồi.
Trước khi đạo Hồi được thành lập, xã hội Ả rập đã tồn tại chế độ thị tộc
bộ lạc và bị ràng buộc bởi các thói quen không thành văn. Khi có mâu thuẫn, các
bộ lạc đã dùng vũ lực để giải quyết; với vấn đề về dân sự, bộ lạc sẽ cử người
có đức cao vọng trong ra điều đình, giảng hòa các xung đột đó. Lâu dần, những
điều phán xử không thành văn đã hình thành một tập quán (gọi là Sunnah) và được các bộ lạc sử dụng rất
truyền thống. Nhận thức điều này, sau khi thành lập đạo Hồi, Muhammad đã thu
thập, chỉnh lý các tập quán không thành văn đó lập thành bộ luật mới, gọi là Shari’ah,
lấy danh nghĩa của thánh Allah để thi hành. Nội dung
của bộ luật bao gồm các vấn đề về thừa kế tài sản, hôn nhân – gia đình, xét xử
người phạm tội. Về thừa kế tài sản, luật cho phép người phụ nữ được thừa kế tài sản, nhưng quy
định người nam sẽ hưởng số tài sản gấp đôi người nữ. Về hôn nhân – gia đình,
luật cho phép nam giới đa thê, hạn chế quyền bỏ vợ và con trai sẽ giao sính lễ
cho gia đình vợ trong lễ cưới. Về tội ăn cắp, luật nghiêm cấm: phải chặt tay kẻ
cắp để trừng phạt; nghiêm cấm phụ nữ ngoại tình: nếu phụ nữ ngoại tình thì sẽ
bị ném đá cho đến chết.
Sau khi Muhammad qua đời, các Caliph thừa
kế ông đã dựa vào tình hình thực tế và định chế một số điều luật mới. Thời
Umayyads, Muawiyyah đã từ bỏ chế độ tuyển cử và thiết lập nhà nước quân chủ
chuyên chế. Ở thời kỳ này, Hồi giáo được tôn làm Quốc giáo và thực sự trở thành
chỗ dựa tinh thần cho cả trật tự thống trị Umayyads. Caliph Umayyads – người
đại diện cho Hồi giáo đã trở thành một con người khác biệt với thế giới và họ
được Hồi giáo tôn thờ như một vị thần và là người có thể trực tiếp nói chuyện
với Allah [3, 351 – 352].
Sau Muawiyyah, các caliph kế tiếp đã mở nhiều
cuộc chiến tranh xâm lược đến các vùng đất mới, tiếp thu tinh hoa văn hóa ở đó.
Sau khi tiếp thu các nền văn hóa khác ở các vùng bị chinh phục, các Caliph đã
mời các học giả (ulama) từ khắp nơi về đế quốc để soạn và san định luật Hồi
giáo. Mặc khác do có sự khác nhau về tư tưởng nên họ đã thành lập các giáo phái
để thực hiện tư tưởng họ định ra từ trước, đồng thời định chế luật cho phù hợp
với xã hội thời đó. Vào thời Umayyads, các nhà giáo pháp bị chia thành hai
phái: phái “Ý kiến” (dùng ý kiến của mình giải thích pháp luật, đại diện là
Omar); phái “Thánh huấn” (lấy kinh Koran, Thánh huấn[6] làm cơ sở lý luận và thực tiễn, đại diện là
Malik). Đến thời Abassids, trên cơ sở của 2 phái Giáo pháp học thời kỳ đầu, dần
dần hình thành bốn phái Giáo pháp học lớn lấy các nhà pháp học làm trung tâm,
đó là bốn phái Hanéfi (do Hanifa sáng lập), Maliki (do Malik sáng lập),
Shafi’i-yah (do Shafi’i sáng lập) và Hanabilah (do Hanbal sáng lập). Nhìn
chung, bốn phái này chuyên dựa vào kinh Koran
và Hadith để làm cơ sở lý luận nhưng
mỗi bên sẽ vận dụng hai sách này theo nhiều hướng khác nhau. Phái Hanéfi chủ
yếu dựa vào kinh Koran và Hadith để suy luận, diễn đạt vấn đề
theo cách riêng của mình, thịnh hành ở Iraq, Afganistan, Ai Cập, … Phái Shafi’i-yah thì coi trọng suy luận trong
2 sách này thậm chí còn kết hợp hai cái đó lại với nhau… Phái này phát triển
mạnh ở Iraq , Syria , Đông Nam Á (có Malaysia )…. Phái Maliki thì ngoài
việc căn cứ vào hai sách trên còn dựa vào tập quán địa phương Medina
làm căn cứ nên phái này có tên gọi là phái Sunnah, thịnh hành ở Maghrib, Lybia , Sudan ,…
Còn phái Hanabilah thì ngoài việc sử dụng hai sách ra, họ còn cho rằng có Imam (người lãnh đạo và nắm vương quyền,
thần quyền). Sau khi Imam ẩn đi thì Mujtahid, người đại diện ông sẽ đứng ra giải
thích kinh Koran, vận dụng suy luận, có những kiến giải cá nhân để giải quyết
các vấn đề đặt ra trước mắt.
Luật Shari’ah không giống như luật pháp thế
tục khác, nó được xây dựng dựa trên kinh Koran, xuất hiện với hình thái là thể
hiện ý chí của Allah để tập hợp các nghĩa vụ tôn giáo, quy phạm đạo đức thành
một quy chế chung. Shari’ah xem mọi hành vi của con người có phù hợp với luân
lý đạo đức không:
1. Những hành vi mang tính nghĩa vụ tuyệt đối (Fard)
mà người Hồi phải làm, như chăm sóc con cái, đóng thuế…
2. Những hành vi tán thưởng (Mustahabb), không mang
tính cưỡng chế, ai tuân theo sẽ được thưởng, còn chống lại cũng không bị tội, ví dụ
thăm một người bạn bị ốm, giúp người nghèo khó …
3. Những hành vi cho phép làm (Jaiz) về mặt pháp
luật mà nói thì không nghiêm trọng lắm như tham dự các trò
vui, tiêu khiển lành mạnh.
4. Những hành vi bị khiển trách (Makruk), tuy bị
khiển trách nhưng không bị tội như sai giờ hẹn, chậm trễ, nói lời không
tế nhị…
5. Những hành vi nghiêm cấm (Haram) như giết người, cướp của…[41,
610].
Trong lich sử, luật Shari’ah đang dần được các
nhà nước Hồi giáo củng cố và hoàn thiện rất nhiều. Sau khi giành được độc lập,
một số nước hiện nay đã lấy kinh Koran, luật Hồi giáo làm hiến pháp và cơ sở
lập pháp, vận dụng rất linh hoạt để tránh tương phản với luật tục truyền thống;
số khác thì kết hợp luật phương Tây với luật Hồi giáo, hạn chế hoặc bãi bỏ tòa án Hồi giáo. Mặc dù việc vận dụng Hồi
giáo ở các nước là không giống nhau, nhưng sức mạnh truyền thống, đặc biệt là
các quy định về thừa kế tài sản và hôn nhân gia đình…có liên quan mật thiết đến
đời sống cá nhân người Hồi, trải qua sự tu chỉnh nào đó và còn sử dụng được đến
ngày nay. Giai cấp thống trị tuy không hoàn toàn không đếm xỉa gì đến điều này,
nhưng những ý kiến của các nhà lập pháp, giáo pháp Hồi giáo thì vẫn được coi
trọng, nếu không thì sẽ làm bùng lên các cơn lốc chính trị rất nguy hiểm. Những
năm gần đây, theo đà nổi lên của phong trào
phục hưng Hồi giáo, đã khôi phục trở lại địa vị chí cao của Shari’ah và ngày
càng tăng cường thúc đẩy Shari’ah thành cao trào. Ở một số nước như Iran,
Pakistan, Malaysia, … đã sử dụng hàng loạt biện pháp tôn giáo, được sự ủng hộ
vô cùng mạnh mẽ của thế giới Hồi giáo, thu hút sự quan tâm chú ý của nhân loại.
1.3. Năm
cột trụ của Hồi giáo
Một tín đồ Hồi giáo cần phải thực hiện năm
bổn phận quan trọng thường được gọi là Năm
trụ cột của đạo Hồi. Đó là Shahadah, Salat, Zakat, Sawn và Hajj.
Shahadah – xác nhận đức tin: Các tín đồ Hồi giáo khi cầu nguyện đều phải tuyên
xưng đức tin rằng Allah là thánh duy nhất, thánh toàn năng có thể nhìn thấy vạn
vật trên thế gian. Kinh Koran có nêu 99 cái tên đẹp về Allah, như: “duy nhất”,
“đầu tiên”, “vĩnh cửu”,…. Mặc khác, Hồi giáo cho rằng những thời kỳ khác nhau
Allah đã từng cử các sứ giả (Thiên sứ) có năng lực siêu phàm để giáng trần
truyền bá tôn giáo trong nhân dân. Kinh Koran nêu tên các sứ giả tới 28 vị,
trong đó nổi tiếng nhất là Noah, Abraham, Moses, Jesus và Muhammad là người
cuối cùng và vĩ đại nhất. Khi cầu nguyện trong thánh đường, nội tâm của tín đồ phải
tĩnh lặng, miệng đọc liên tục sẽ làm cho các ý niệm Hồi giáo được thấm sâu.
Salat
là việc cầu nguyện (lễ bái). Đạo Hồi quy định các tín đồ cầu nguyện mỗi
ngày năm lần: bình
minh, giữa trưa, giữa chiều, khi mặt trời lặn và tối. Tín đồ có thể cầu nguyện tại bất cứ đâu – tại
trường học, nơi làm việc, tại nhà, trên giáo đường hay ngoài trời – nhưng phải
theo quy định. Nếu phụ
nữ tham gia cầu nguyện thì khi đến thánh đường, họ được tách riêng ra khỏi
người đàn ông. Việc cầu nguyện tuân theo một quy trình khá nghiêm ngặt: trước
khi cầu nguyện, các tín đồ sẽ phải tắm rửa thân thể thật sạch sẽ để cho con người
phải ở trong một trạng thái tinh thần và thể xác thanh khiết mới cầu nguyện
được. Đến thánh đường, các tín đồ sẽ thực hiện một loạt động tác như nghiêm,
tán tụng, cong lưng… với nghi thức lễ bái và số lần bái (vái) nhất định. Hành
lễ xong, họ sẽ được nghe các Imam giảng đạo…
Zakat là bố thí cho người nghèo[7]. Hồi giáo quy định, các tín đồ sẽ trích một phần
thu nhập của mình (khoảng 2,5% thu hoạch hằng năm; 10% lợi tức mùa màng) để bố
thí cho người nghèo. Những ai cho nhiều hơn số lượng quy định được coi là sadagah, tức là người thiện tâm. Về sau
trong nhiều thế kỷ tiếp theo, khoảng tiền này được nhà nước đưa vào dùng như
khoảng chu cấp đặc biệt (gọi là wafq)
cho các trường học và bệnh viện, để giúp người nghèo, để sửa chữa các thánh
đường và để tài trợ cho các hoạt động từ thiện khác. Hiện nay, nhiều nhà nước
Hồi giáo đã đưa khoảng tiền đó vào thuế nhà nước, trong khi đó một số nhà cải
cách Hồi giáo biện minh rằng nguyên tắc bố thí người nghèo có liên quan đến
chính sách phúc lợi xã hội, coi nó như một cách vận dụng lý tưởng đạo Hồi trong
xã hội hiện đại.
Sawm,
hay nhịn ăn trong tháng chay Ramadan (tức tháng 9 theo lịch Hồi giáo). Hồi giáo quy định, tất cả các tín đồ nam – nữ,
trừ người ốm và phụ nữ có thai, đều phải nhịn ăn từ lúc rạng sáng cho tới lúc
mặt trời lặn mỗi ngày trong tháng này. Theo kinh Koran, Ramadan là dịp để các tín đồ sám hối về các việc làm của bản thân mình, cầu nguyện và phải kiêng kị các nhu cầu tự nhiên trong 30 ngày của tháng như ăn, uống hay bất cứ nhu cầu nào khác của họ. Ngoài ra, tháng chay này còn là dịp để các tín đồ làm bố thí. Theo kinh Koran, ai khấm khá hơn sẽ chia sẻ miếng an, nước uống, thậm chí là bẻ một nửa cho người đói. Người ngoài khi đến đây đã được tận mắt chứng kiến nét nhân văn: các tín đồ đã tổ chức nhiều điểm bố thí dọc đường hành hương. Người nghèo khi đến đây đã được ăn uống rất no nê mà không phải ngại ngùng hay không có tiền chi trả, bởi vì chính những người khấm khá hơn sẽ chi trả cho họ. Các gia đình ở Cairo trong suốt tháng này đã chuẩn bị sẵn hàng trăm suất cơm, nước uống và phân phát miễn phí cho người nghèo, khách thập phương dọc đường hành hương. Sau một ngày nhịn chay, khi chiều xuống họ bắt
đầu họp gia đình và chuẩn bị bữa ăn tối (gọi là "iftah"), bắt đầu ăn khi nghe tiếng kinh Koran vang lên trong nhà thờ, và trong lúc ăn họ lẩm nhẩm kinh
Koran và cầu nguyện về tôn giáo của mình, cho đến tận khuya [14, 63 – 64].
Hajj,
tức là hành hương về Mecca. Đạo Hồi quy định, các tín đồ thanh niên nam, nữ
khỏe mạnh, đường đời xuôi thuận thì trong đời ít nhất phải đến Mecca một lần. Tín đồ hành
hương về thánh địa Mecca vào tháng 12 theo lịch Hồi giáo, họ phải đến đền Kaaba
là trung tâm của Hồi giáo, hôn hòn Đá Đen linh thiên và đi xung quanh đền này 7
lần, thăm đền thánh Abraham, giếng thần ZemZem, cắm trại ở thung lũng Mira, cầu
kinh trên đồi Arafat [8], viếng mộ Muhammad. Đến ngày cuối cùng, họ sẽ
giết một con cừu làm lễ hiến tế Allah. Những người Hồi giáo hành hương ở Mecca trở về thành công
thì được gọi là Hajji (nghĩa là người
đã hoàn thành bổn phận Hajji) và được
người ta chào đón với những nghi lễ long trọng và được tôn kính đặc biệt [13,
50 – 51].
[1]
Có nhiều tài liệu viết khác nhau về ngày tháng năm
sinh của Muhammad: sách Lịch sử Trung Cận Đông của Nguyễn Thị
Thư, tr.73 viết ông sinh năm 571, trang http://en.wikipedia.org/wiki/Muhammad,
mục Muhammad viết ông sinh ngày 26/4/570. Ở đây ghi theo khóa luận: Những thành tựu văn hóa tinh thần của Ả rập
thời kỳ “Văn minh Hồi giáo” (VII – XV) của Đỗ Thị Minh Trang (ĐHSP Tp.Hồ
Chí Minh), tr.13. Xin ghi lại đây tham khảo.
[2]
Cụm từ “Hồi giáo” (hay Islam), dịch nguyên nghĩa là: "vâng mệnh, quy phục Thượng đế".
Chữ “slam” trong từ Islam thì có liên quan đến từ Hebrew shalom nghĩa là “bắt đầu một tình trạng
hòa bình yên ổn với Thượng đế qua sự trung thành và quy phục Người”.
Từ “Hồi giáo” xuất xứ từ
người Hồi Hột (Trung Quốc) mà người ta hiểu theo nghĩa là đạo của người
Hồi và lan truyền sang nước ta đến tận ngày nay.
[3] Ví
dụ tiêu biểu: thần Abgal (thần đưa đường) của người Bedouin; thần Al – Qaum
(thần chiến tranh) của người Nabatan; thần El, Taalia của người Do Thái; thần
Taalab của người Sheba …
[4] Năm 657, Uthman công bố cuốn kinh này, đặt tên là “"Mus’haf" có nghĩa là "Kinh Thánh chính
thức của mọi người Hồi giáo". Ban biên tập của Zayd chép cuốn Kinh Thánh
này thành 4 bản giống nhau để lưu trữ tại 4 thành phố: Medina ,
Basrah và Kufa (Iraq ) và tại
Damacus (Syria ).
[5] Về
số câu trong kinh Koran thì nhiều tài liệu viết khác nhau: sách Lịch sử văn minh thế giới của TS Nguyễn
Đức Hòa (tr.49) viết là 6.211 câu, sách Tôn
giáo học nhập môn của TS Đỗ Minh Hợp (tr.313) viết là trong khoảng từ 6.204
đến 6.236 câu; sách Hồi giáo lược khảo
của Phan Thế Châu (tr.11) viết là 6.246 câu; trang web: http://vi.wikipedia.org/wiki/Qur'an,
mục từ Qur’an viết là 6.235 câu,
trang web tiếng Anh: http://en.wikipedia.org/wiki/Quran,
mục từ Kinh Qur'an chép: “Số lượng thực tế của ayat đã là một vấn
đề gây tranh cãi giữa các học giả Hồi giáo kể từ khi thành lập của Hồi giáo,
một số công nhận là 6.000, một số là 6.204, một số là 6.219, và một số là
6.236. Phiên bản phổ biến nhất của Kinh Qur'an ở Kufa chứa 6.236 ayat”. Xin ghi lại đây để tham khảo.
[6] Thánh
huấn (Hadith); sách viết về những hành động, việc làm của Tiên tri Muhammad –
người sáng lập đạo Hồi.
[7] Theo Hồi
giáo, người nghèo có 8 loại:(http://clb3v.ucoz.com/forum/8-67-2)
1.
Người bần
cùng, thiếu ăn, thiếu mặc
2.
Người gặp
hoàn cảnh khó khăn
3.
Người được
tập thể chỉ định đi thu góp của bố thí để phân phối lại
4.
Người mới
vào đạo
5.
Các nô lệ
muốn chuộc lại sự tự do
6.
Người mắc nợ
vì đạo
7.
Người đi
thánh chiến không lãnh lương
8.
Khách vãng
lai gặp khó khăn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét