Thứ Ba, 10 tháng 7, 2012

Hồi giáo với Malaysia, phần 2

1.4. Sự phân chia Hồi giáo
1.4.1. Phái Shiite
           Sau khi Muhammad chết, từ năm 632 đến 661, ở Ả rập thay đổi đến 4 caliph là Abu Bakr, Omar, Uthman và Ali và những người này là do quý tộc bầu ra theo chế độ tuyển cử [17, 15]. Một số tín đồ cho rằng chỉ có Ali, con rể của Muhammad mới xứng đáng được làm Caliph, còn những người khác là không hợp pháp vì không phải dòng dõi của Tiên tri. Như vậy, những bộ phận tín đồ đó đã hợp thành một phái gọi là phái Shiite (Shiite nghĩa là đảng phái). Đến năm 661, Ali bị ám sát. Năm 680, con trai ông là Husayn bị sát hại. Phái Shiite rất thương xót cho họ và lập đền thờ cho 2 người ở nhiều nơi. Và từ một phái chính trị, Shiite trở thành một phái quan trọng trong đạo Hồi giáo. Phái này tin rằng chỉ có Ali và dòng dõi của ông là người rất sáng suốt, là hóa thân của Allah (gọi là Imam (thầy tế, giáo sĩ Hồi giáo)). Có 12 vị Imam lãnh đạo phái này. Đặc biệt, sau khi Imam cuối cùng là Hasan mất lúc 12 tuổi, nhưng tín đồ phái này coi ông là tạm ẩn, đợi một lúc nào đó sẽ tái hiện và dẫn dắt loài người đến bến bờ hạnh phúc vĩnh viễn.[30, 56]. Về sau, do có hiện tượng các Imam chết bất ngờ mà phái Shitte chính thức bị chia thành các chi phái khác nhau.
          Chi phái đầu tiên của Shiite là phái Mười Hai Imam. Phái này cho rằng chỉ có những người thuộc dòng dõi Ali mới  được làm Imam và có 12 Imam lãnh đạo phái này. Sau khi Imam cuối cùng là Hasan mất, các tín đồ cho rằng ông đã ẩn náu và sẽ là Mahdi (đấng cứu thế) trong tương lai. Trong thời gian ông lánh ẩn, Mujtahid (nhà thần học và nhà giáo pháp học) là người thay mặt cho Imam quản lý tín đồ phái này. Chi phái này hiện nạy tồn tại ở Ấn Độ, PakistanSyria
           Một chi phái khác của phái Shiite là phái Ismaili, còn gọi là phái Bảy Imam. Phái này cho rằng Ismail (746 – 809) là cháu đời thứ sáu của Ali nên gọi là Imam đời thứ bảy. Về tư tưởng, phái này tuân theo chủ thuyết Platon chia thế giới vật chất thành 7 giai đoạn tương ứng với sự thể hiện của 7 vị tiên tri, sau đó là 7 Imam và cuối cùng là 7 vị chuyên truyền bá giáo lý Hồi giáo. Về sau đến thế kỷ IX, phái này phát triển thành phái Qarmati, có ảnh hưởng rộng lớn ở Iran, Iraq và tồn tại đến thế kỷ XI thì suy vong.
           Phái tiếp theo của Shiite là phái Assassin (nghĩa là ám sát)  ra đời vào thế kỷ XI ở Iraq. Thế kỷ XI – XIII, phái này hoạt động mạnh ở Tây Bắc IranIraq và Syria. Nhiệm vụ chủ yếu của phái này là chuyên ám sát các nhân vật quan trọng của vương triều Abbasid và Seljiuk thời đó. Sau khi phái này bị tiêu diệt vào thế kỷ XIII, một bộ phận khác tách ra lập phái Holka (nghĩa là người giàu có) tồn tại ở Pakistan, Ấn Độ ngày nay.
           Chi phái cuối cùng là phái Zaidiyyah, do Zayd (cháu sơ của Ali) sáng lập. Về tư tưởng, phái này thừa nhận chỉ có những người thuộc dòng dõi Ali mới được làm Imam và chủ trương những người nào học rộng, tài cao, đánh giỏi… đều được làm Imam. Trong lịch sử, phái này từng xây dựng các quốc gia thần quyền ở Iran, Tây Ban Nha, Marốc và hiện nay vẫn còn tồn tại (ở Yemen).
       Hiện nay, phái Shiite chiếm 15 – 20% tín đồ và có ảnh hưởng mạnh ở IraqYemenAzerbaijan… Họ coi trọng hành hương đến mộ của Ali, Husayn, tổ chức các lễ hội như tế giết sinh vật, tết ăn chay, tết Asura thu hút sự quan tâm của toàn thể tín đồ phái Shiite hiện nay.
1.4.2. Phái Sunni
            Phái Sunni [1] là một chi phái lớn trong đạo Hồi, ra đời cùng thời gian với phái Shiite. Phái Sunni thừa nhận 4 Caliph đầu tiên là người thừa kế hợp pháp của Muhammad và họ coi ngôn ngữ và hành động của Muhammad là chuẩn tắc trong cuộc sống của mình. Về tư tưởng, họ lúc đầu theo kinh Koran, nhưng về sau lại lấy tư tưởng thần học của Al Ash’ari (873? – 935) làm cơ sở. Sau thế kỷ XII, Al Ghazali (1095 – 1111) đã kết hợp chủ nghĩa thần bí và nhân tố truyền thống lại hình thành hệ thống tư tưởng thần học chính thống của phái Sunni thuộc Nhà nước.  Do phái Sunni từng nhận được sự ủng hộ của các vua Hồi và quý tộc nên còn gọi là “phái Chính thống”. Đa số tín đồ Hồi giáo theo phái này.
1.4.3. Phái Sufi
           Phái Sufi (tạm dịch: Hồi giáo mật tông) là một giáo phái thần bí xuất hiện gần như đồng thời với Hồi giáo trên cơ sở của chủ nghĩa khổ hạnh. Mục đích của Sufi là sự nhận thức chân lý tuyệt đối thông qua Tình yêu và sự hòa nhập với Thượng Đế. Vào thế kỷ IX, Al – Hallaj (Ba Tư) đi xa hơn mục đích ban đầu của Sufi đến nỗi ông tuyên bố rằng Thượng đế và con người là một. Thế kỷ XII, Al – Ghazali đã phát triển mục đích trên của Sufi lên một bước mới. Theo đó ông cho rằng các tín đồ nên tuân theo luật Hồi giáo và nhấn mạnh Hồi giáo là tôn giáo thờ một thần (Allah) chứ không phải đạo nhất nguyên cho rằng mọi vật (bao gồm cả Thượng đế và linh hồn) đều được tạo ra từ một chất liệu. Thế kỷ XII, phái này bị phân chia thành nhiều giáo phái khác nhau: Qadiriyya (Trung Đông, Phi Châu và Caucasus); Maulawiyya (Thổ Nhĩ Kỳ) và Chishtiyya, ở Pakistan, Ấn Độ và Đông Nam Á. Tín đồ Hồi giáo theo các giáo phái này rất đông đảo [11, 35 – 39].
1.5. Đời sống văn hóa của tín đồ Hồi giáo
1.5.1. Đời sống vật chất
1.5.1.1. Ăn, uống, mặc
           Về ăn, uống của tín đồ, đạo Hồi đặt ra các quy định chặt chẽ dựa trên hai giới luật căn bản halal (được phép) và haram (không được phép). Đạo Hồi quy định, tất cả các thức ăn, thức uống từ động vật, thực vật nếu là sạch (tohir) thì được phép ăn, uống thoải mái. Còn những thức ăn, thức uống không sạch thì được Hồi giáo gọi là haram (không được phép) và liệt vào danh sách cấm tín đồ không được ăn, uống những thứ đó. Các đồ ăn, đồ uống mà Hồi giáo cấm không được ăn, uống là xác chết, máu, thịt lợn, huyết của các sinh vật đã chết. Về ăn mặc, người dân Hồi giáo bất kể đàn ông hay đàn bà đều phải mặc một cái áo thụng dài từ đầu đến chân. Đàn ông thì mặc áo thụng dài màu trắng, đội khăn  vấn. Phụ nữ Hồi giáo thì mặc áo thụng nhiều màu từ đầu đến chân, không được “để lộ một phần nào của thân thể trước mặt bất cứ một người đàn ông nào, bao gồm cả mặt và tay"[2, 33:53] và phải choàng khăn lên đầu suốt đời.
1.5.1.2. Ở
            Ở một số vùng nông thôn của một quốc gia Hồi giáo, các thôn làng Hồi giáo thường có quy mô rất nhỏ, thường nằm rải rác bao quanh các thành phố và các thị trấn lớn. Trong làng, các ngôi nhà thường quy tụ lại một chỗ, nằm kề sát nhau, không phân tán trên những khu riêng biệt. Trong các làng xóm, người ta sẽ xây một thánh đường Hồi giáo, cử các thầy giáo (sheikh) về dạy học. Thánh đường này sẽ là nơi dạy học, nợi hội họp của dân làng để giải quyết những sự việc nảy sinh trong cộng đồng nhỏ của họ.
1.5.1.3. Gia đình Hồi giáo
           Gia đình là trung tâm của đời sống cá nhân người Hồi giáo. Trong gia đình, các thành viên đều có thứ bậc rõ ràng và mỗi người đều một vai trò riêng, trách nhiệm riêng dựa theo tuổi tác và giới tính của mình. Người lớn tuổi luôn được kính trọng và được chăm sóc chu đáo. Từ lúc còn bé cho đến khi trưởng thành, trẻ con được học cách lễ phép với ông bà, cha mẹ, anh chị em trong gia định. Kinh Koran nói: “Đấng Cứu nạn của ngươi tuyên bố rằng ngươi thờ phụng không ai khác ngoài Ngài, và rằng ngươi phải tử tế với cha mẹ. Dù có ai trong cha mẹ ngươi sống được đến già cùng ngươi hay không thì ngươi cũng đừng nói điều gì xúc phạm hay làm họ tức giận, mà hãy nói với họ bằng những lời tôn kính. Và vì lòng nhân từ, hãy cúi mình trước họ mà nói: Allah trên trời! Hãy ban cho họ sự Nhân từ của người, như họ đã chăm sóc âu yếm với con khi con còn bé” [29].
            Trong gia đình, đàn ông nắm quyền thống trị, phụ nữ chỉ ở vị trí phụ thuộc. Đàn ông suốt ngày chỉ đi làm kiếm tiền nuôi gia đình và khi về nhà thì anh ta chỉ cắm đầu làm những việc mình thích, không quan tâm gì đến công việc của phụ nữ. Hiện nay, đời sống vợ chồng người Hồi đã thay đổi. Người đàn ông bắt đầu chia sẻ công việc gia đình với phụ nữ, nhưng thường chỉ là trong việc chăm sóc dạy dỗ con cái.
1.5.1.4. Địa vị của phụ nữ Hồi giáo
           Trong xã hội Hồi giáo, đàn ông giữ vị trí thống trị, đàn bà chỉ vào vị trí phụ thuộc. Kinh Koran khẳng định rõ địa vị giữa đàn ông và đàn bà: "Đàn ông có quyền đối với đàn bà vì Chúa đã sinh ra đàn ông cao quí hơn đàn bà và vì đàn ông phải bỏ tài sản của mình ra để nuôi họ. Đàn bà tốt phải biết vâng lời đàn ông vì đàn ông săn sóc cả phần tinh thần của đàn bà. Đối với những phụ nữ không biết vâng lời, đàn ông có quyền ruồng bỏ, không cho nằm chung giường và có quyền đánh đập”  [2, 4:34]. Trong gia đình, người vợ phải là người mẫu mực, chung thủy với chồng, vâng lời chồng và cha chồng và làm những việc mà chồng, cha chồng cho phép. Ngoài việc nghe lời nhà chồng, phụ nữ còn phải giữ gìn danh dự cho nhà chồng nữa. Họ bắt buộc phải đoan trang, thùy mị và thận trọng. Mọi biểu hiện thiếu đúng đắn của họ, cho dù là nhỏ nhất, họ sẽ bị đàn ông trừng phạt ngay lập tức.
            Khi ra đường, cô phải có mạng che mặt để không “lộ một phần nào của thân thể trước mặt bất cứ một người đàn ông nào, bao gồm cả mặt và tay [2, 33:53]. Cô không bao giờ được ra khỏi nhà mà không có người đi kèm, và luôn phải chiếc áo dài lụng thụng che kín từ đầu đến chân. Khi có con, đặc biệt là con trai, phụ nữ sẽ có địa vị vững chắc hơn. Họ sẽ được thừa kế tài sản của nhà chồng, thường là 1/3 số tài sản đó, còn lại 2/3 thì sẽ chia cho các anh em bên nhà chồng. Cũng như vậy trong vấn đề ly dị, người đàn ông ly dị vợ rất dễ dàng, anh ta chỉ cần nói ba lần câu “Tôi bỏ bà” trước mặt một người làm chứng là xong, còn người phụ nữ chỉ có thể ly dị nếu chồng cô ta đồng ý. Trước tòa án, người phụ nữ được quyền bào chữa, nhưng theo luật Hồi giáo, nhưng lời bào chữa của một người đàn ông có giá trị bằng hai người phụ nữ, như thế muốn chống lại một nhân chứng là đàn ông thì phải có ít nhất hai nhân chứng là phụ nữ.
1.5.2. Đời sống tinh thần
           Đời sống tinh thần của người Hồi rất phong phú và đa dạng, gồm đức tin, hôn nhân và tang lễ.
1.5.2.1. Đức tin
           Theo đạo Hồi, đức tin có nghĩa là niềm tin của tín đồ vào một Chân lý, cụ thể là Chân lý của Allah. Có sáu đức tin (Lục tín) sau đây:
1.   Tin chỉ có một vị thánh duy nhất, đó là thánh Allah. Hồi giáo tin rằng “thánh Allah là duy nhất, độc nhất”[18, 73], là vị thần có thể nhìn thấu trời đất để thấy con người và các hành động của họ dưới trần thế để ra lời phán xét cuối cùng sau khi họ chết.
2.   Tin các vị thiên thần. Hồi giáo cho rằng, Allah đã sai các vị thiên thần thông thái, siêu phàm của mình giáng trần để thực hiện mệnh lệnh của Allah và truyền đạo. Họ chính là tai mắt của Allah, luôn hiện ra trong không gian mờ ảo để theo dõi con người và biên chép lại tội phúc của họ để Allah phán xét.
3.   Tin các sách mặc khải (Kinh Thánh). Các tín đồ luôn tin tưởng vào các sách kinh thánh mà Allah đã ban truyền, cử các thiên sứ giáng trần để truyền bá khắp thế gian. Theo đó, Allah truyền cho Moses kinh Cựu Ước (Taurat), cho David kinh Zaboor và Jesus kinh Tân Ước.
4.   Tin các vị thiên sứ. Các tín đồ tin tưởng rằng Allah đã cử các thiên sứ, người tin cẩn nhất của mình xuống trần gian truyền đạo. Kinh Koran thống kê có 28 vị, song nổi tiếng nhất là Noah, Moses, Abraham, Jesus và Muhammad là Tiên tri cuối cùng và vĩ đại nhất.
5.   Tin có ngày tận thế. Các tín đồ tin rằng, trên thế giới không có cái gì trường tồn cả, cứ trôi nhanh theo quy luật sinh – lão – bệnh – tử (giống với Phật giáo). Khi con người chết, linh hồn sẽ xuống địa ngục và khi đến cửa địa ngục, họ sẽ được hai thiên thần canh cửa xét hỏi kỹ càng về các hành động trên trần thế. Nếu phạm tội sẽ bị đày đọa ở địa ngục, nếu sống có đức độ sẽ được lên thiên đường. Đến ngày Phán xét cuối cùng, các linh hồn nhập vào xác rồi đi gặp Allah trên thiên đường. Đường đi thật hãi hùng: Toàn mặt đất và núi non đều bị nâng lên và đập xuống vỡ vụn. Bầu trời nứt ra từng mảnh [2, 50:42]. Đến nơi, họ sẽ được Allah xét xử công bằng, phân minh, nhân loại không thể nào tránh được.
6.   Tin tưởng nơi số mạng của con người.  Hồi giáo cho rằng, mọi việc trên đời đều do Allah an bài. Allah là kẻ sáng tạo ra vạn vật (trong đó có con người) và biết hết tất cả mọi hành động của con người làm ở trên trần thế, Ngài cũng không muốn con người bị cuốn vào vòng tội lỗi để rồi chịu hình phạt ghê gớm. Do đó, con người cần phải làm chủ cuộc đời của mình, ăn ở sao cho tốt thì được Allah cho lên thiên đường, bằng không sẽ bị đày đọa xuống địa ngục.
1.5.2.2. Hôn nhân Hồi giáo
           Trong các xã hội Hồi giáo, hôn nhân thường mang ý nghĩa là một sự liên kết giữa hai gia đình nhiều hơn là một sự ràng buộc về tình cảm và xã hội giữa hai cá nhân trai gái. Đa số các cuộc hôn nhân đều do gia đình hai bên sắp đặt, thậm chí có cuộc hôn nhân bị sắp đặt từ khi đương sự còn là đứa trẻ và xa hơn nữa thì được sắp đặt trước khi đương sự chưa được sinh ra. Do luật Hồi giáo cấm những người đàn ông và người đàn bà ở hai gia đình chạm mặt nhau, vì thế các chàng trai và con gái không thể nhìn thấy mặt nhau, thậm chí là không biết nhau cho đến ngày tổ chức đám cưới. Khi về nhà chồng, cô dâu phải bắt đầu làm việc quần quật để phục vụ cho gia đình chồng, và cô sẽ được bà mẹ chồng giám sát kỹ lưỡng. Trong gia đình chồng, nếu cô dâu co những hành động trái ý gia đình thì cô sẽ bị đuổi ra khỏi nhà mà không mang theo tài sản gì.
          Hồi giáo cho phép chế độ đa thê. Theo luật, đàn ông Hồi giáo được phép lấy bốn vợ miễn là anh ta có đủ tài chính và vật chất để lo bốn bà này sống no đủ. Anh ta cũng được phép lấy nhiều hơn bốn vợ để chứng tỏ mình là người Hồi giáo chân chính. Về ly hôn, đàn ông ly hôn vợ rất dễ dàng, anh ta chỉ cần nói ba lần “Tôi bỏ bà” trước mặt hai người làm chứng là xong. Người vợ thì khác, chị phải ra trước tòa để trình bày lý do ly dị. Sau khi ly dị xong, đàn ông sẽ phải làm nhiều việc như kiếm vợ mới, trang trải chi phí, cơ sở vật chất – tinh thần cho vợ cũ và các con… khiến đàn ông ngày nay không còn mặn mà với chuyện ly hôn.
1.5.2.3. Tang lễ Hồi giáo
           Người Hồi giáo luôn tin tưởng vào ngày Tận thế, tới ngày đó họ sẽ sống dậy để nghe phán quyết của Thượng đế. Quy trình tang lễ như sau: khi một người Hồi giáo đang hấp hối, gia đình và bạn bè sẽ tụ tập xung quanh người đó, đọc kinh Koran và than khóc, đồng thời cử người đi báo cho chức sắc tôn giáo biết rằng có người sắp mất. Người sắp mất sẽ được đưa vào thánh đường, gia đình và họ hàng tổ chức tắm rửa và khâm liệm chu đáo, cầu nguyện tiễn đưa người chết vào cõi vĩnh hằng. Khi chôn cất, người chết phải được chôn sâu trong huyệt để người chết có thể ngồi dậy vào ngày Phán xét, chân người chết phải quay về Mecca khi ngồi dậy mặt họ sẽ quay ngay về hướng đó.
1.5.2.4. Lễ hội Hồi giáo
Lễ hội chấm dứt mùa chay Ramadan. Đây là lễ hội quan trọng của người Hồi, được tổ chức sau khi mùa chay Ramadan kết thúc (1/10 theo lịch Hồi). Trong ngày này, các tín đồ được viếng thăm bạn bè và láng giềng, trao đổi quà tặng và dự tiệc vào buổi trưa. Ngày 1 tháng 10 theo lịch Hồi là ngày vui nhất trong năm của người Hồi giáo, cũng tương tự như tết Nguyên đán của người Trung Hoa và Việt Nam.
Lễ mừng sinh nhật của giáo chủ Muhammad (Mawlid). Đây là một lễ hội lớn của người Hồi, được tổ chức vào tháng 3 hằng năm theo lịch Hồi dể kỷ niệm ngày sinh của Muhammad, người sáng lập đạo Hồi. Trong ngày này, các tín đồ ở khắp nơi bắt đầu treo cờ, kết hoa và chăng đèn (tương tự như lễ Noel của đạo Thiên Chúa). Họ tổ chức kể chuyện, hát bài hát ca ngợi sự kiện này và mời mọi người dự tiệc trong ngày.
Lễ Mừng Muhammad lên trời (Miraj). Phái Sufi tin rằng, cả hai vị thánh là Muhammad và Jesus cùng lên trời ở thánh địa Jerusalem. Jesus đã tự mình bay lên trời, còn Muhammad được thiên thần Gabriel trao cho một con ngựa thần có cánh (Buraq) chở ông bay về trời. Phái Sufi của Thổ Nhĩ Kỳ thường tổ chức các cuộc hòa nhạc kích động và các cuộc khiêu vũ tưng bừng để mừng lễ này.
Lễ hội Ashura kích động hận thù của giáo phái Shiite. Lễ hội này được tổ chức vào ngày 10 của tháng Muarram để kỷ niệm thánh Husayn (cháu của Tiên tri) bị triều Umayyad sát hại ở Karbala vào thế kỷ VII. Vào ngày này, nhiều tín đồ đạo Hồi thuộc dòng Shiite thường than khóc, làm những hành động như “hành xác”, gây thương tích đối với thân thể mình để thể hiện lòng tôn kính đối Thánh Husayn, chia sẻ nỗi đau với cái chết của ông vào thế kỷ thứ VII.


[1] Sunni là một phái lớn của của Hồi giáo, có nghĩa là “những người tôn kính sunna” (sunna là “tuân theo hành động, việc làm của Muhammad).


CHƯƠNG 2
SỰ DU NHẬP VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA HỒI GIÁO ĐỐI VỚI MALAYSIA (THẾ KỶ XV – NAY)

2.1. Tổng quan về Liên bang Malaysia
           Malaysia là một nước liên bang lớn ở Đông Nam Á. Nước này gồm hai phần: miền Tây và miền Đông Malaysia. Miền Tây Malaysia nằm trên bán đảo Malacca, có diện tích 131.794 km2, bao gồm 13 bang và hai lãnh thổ liên bang (xem bản đồ). Ở các bang này, trên 50% cư dân nói tiếng Malay, trong đó người Melayu chiếm trên 90%. Miền Đông Malaysia bao gồm hai bang Sabah và Sarawak nằm ở phía bắc Borneo có tổng diện tích 198.000 km2, mới gia nhập Liên bang từ năm 1963.
Theo sử sách còn ghi lại, hàng ngàn năm trước Công nguyên, trên đất Malaysia đã có người sinh sống. Vào thiên niên kỷ I, vùng đất này chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ, rồi văn hóa Phật giáo dưới thời Srivijaya (thế kỷ VII – XIII). Sau khi Srivijaya sụp đổ, Malaysia bị Thái Lan đô hộ gần 200 năm trước khi trở thành một phần của đế quốc Majapahit. Trong thời gian đó, người Ấn Độ đã mang đến cho người Melayu[1] các phong tục, tập quán, lễ nghi cùng các yếu tố văn hóa khác của mình. Dưới ảnh hưởng của Ấn Độ, Malaysia đã có sự thay đổi rõ rệt: Các tổ chức nhà nước bộ lạc phát triển thành các vương quốc, các tập tục truyền thống văn hóa Ấn Độ dần lan tỏa vào dân gian và có tác động mạnh mẽ đến cư dân thời bấy giờ. Mặc khác, cùng với người Ấn Độ, người Hoa đã đến vùng đất này từ xa xưa và một trong số họ đã ở lại sinh sống, làm kinh tế, lấy vợ người bản địa và là dòng giống của người Baba hiện nay.
           Đầu thế kỉ XV, một hoàng tử người Melayu là Parameswara (1344 – 1424) từ Palembang (Sumatra) đến Melaka dựng nghiệp và lập lên vương quốc Melaka. Năm 1414, ông cải đạo theo Hồi giáo và  xây dựng Melaka thành một hải cảng lớn, một trung tâm buôn bán quốc tế sầm uất. Cuối thế kỷ XV, vương quốc Melaka đã trở thành một đế quốc hùng mạnh ở Đông Nam Á.
           Năm 1511, Bồ Đào Nha chiếm Melaka và cai trị ở đây trên 100 năm. Năm 1641 Hà Lan thay chân Bồ Đào Nha và đến năm 1824 thì rơi vào tay cai trị của người Anh. Năm 1826, Anh hợp nhất Singapore, Penang, Melaka và Wellesley để thành lập “Đất thực dân eo biển”, đặt dưới quyền quản trị của công ty Đông Ấn Anh. Năm 1896, Anh hợp nhất bốn tiểu bang Selangor, Negeri Sembilan, Pahang và Perak thành “Liên bang Malaya” và cai trị trực tiếp. [32, 57 – 58]. Năm 1941, Malaya bị Nhật chiếm đóng. Mặc dù nhân dân đã kháng chiến anh dũng, nhưng do bị chia rẽ trong nội bộ, đặc biệt là người Melayu và người Hoa, nên cuộc kháng chiến đã không giành được thắng lợi hoàn toàn. Chiến tranh kết thúc, ngày 3/9/1945, thực dân Anh quay lại đánh chiếm Malaya. Năm 1946, Anh công bố Hiến pháp Malaya[2]. Ngày 31/8/1957, Malaysia giành độc lập và đến năm 1963 thành lập Liên bang Malaysia.
           Malaysia là nước quân chủ lập hiến kiểu Anh, nghĩa là nước có vua cai trị, nhưng quyền lực tối cao không nằm trong tay nhà vua mà là Hiến pháp. Theo quy định của Hiến pháp, người đứng đầu Liên bang được gọi là vua hay Yang di-Pertuan Agong[3], được bầu lần lượt trong số chín nhà lãnh đạo (Ruler[4]) của các bang Malaysia, với nhiệm kỳ năm năm. Các nhà lãnh đạo của năm bang còn lại (Melaka, Penang, Sabah, Sarawak và Lãnh thổ Liên bang) được gọi là Yang Dipertua Negeri[5] , do Yang di-Pertuan Agong bổ nhiệm trong nhiệm kỳ bốn năm. Yang di-Pertuan Negeri là người đứng đầu Hồi giáo ở bang của mình và Hồi giáo ở 5 bang nêu trên.
          Về thành phần dân tộc và tôn giáo, Malaysia có ba nhóm dân tộc chính: người Melayu và các dân tộc bản địa khác (Bumiputra[6]), người Hoa và người Ấn. Theo Hiến pháp, Hồi giáo là tôn giáo chính thức của Liên bang. Tuy nhiên, các dân tộc khác cũng được tự do theo các tôn giáo khác như Phật giáo, Đạo giáo, Ấn Độ giáo… và các tín ngưỡng dân gian.
          Malaysia là một quốc gia đa tộc, đa tôn giáo và có một di sản văn hóa rất giàu có, phong phú. Vì vậy, để đảm bảo sự thống nhất dân tộc, Malaysia đã tích cực xây dựng nền quốc gia, lấy nền văn hóa Melayu làm cơ sở, và trong đó Hồi giáo là yếu tố quan trọng nhất để tạo dựng nền văn hóa quốc gia này. Vì vậy, việc tìm hiểu, nghiên cứu và truyền bá các giá trị văn hóa Hồi giáo không chỉ là nhiệm vụ của chính phủ, của đoàn thể, của các trung tâm nghiên cứu Hồi giáo, các nhà khoa học, mà còn là nhiệm vụ, là trách nhiệm của toàn thể nhân dân Malaysia.
2.2. Quá trình du nhập của Hồi giáo vào Malaysia
2.2.1. Các giả thuyết về quá trình du nhập của Hồi giáo vào Malaysia
           Về nguồn gốc của sự du nhập Hồi giáo, hiện nay các học giả đã nghiên cứu và đề ra nhiều giả thuyết cho vấn đề này. Vào thế kỷ XIX, đa số các học giả phương Tây đều cho rằng nguồn gốc của Hồi giáo ở Malaysia là bán đảo Ả rập, một số thì cho là từ Ai Cập thông qua các thương gia Hồi giáo và Ấn Độ truyền sang trong thế kỷ VII – XIII [7]. Trong quá trình Hồi giáo hóa, các thành phố lớn như Pasai, Melaka và Acheh trên thực tế đã trở thành các trung tâm buôn bán hàng hóa và truyền bá tôn giáo trong khu vực. Ionova, một nhà phương Đông học cho biết từ thế kỷ VII – XIII, người Ả rập đã đến đây, thành lập các khu buôn bán lớn dọc các con đường thương mại quan trọng, truyền bá Hồi giáo vào cư dân địa phương nơi họ trú ngụ. Điều đó đã khẳng định rằng, một trong những đặc trưng tôn giáo quan trọng nhất ở khu vực Đông Nam Á đó là có sự pha trộn giữa Hồi giáo và các tín ngưỡng địa phương. Tuy nhiên, bà cũng khẳng định: “Không chỉ có người Ảrập mà cả người Ba Tư, người Ấn Độ và người Trung Quốc đã cùng tham gia vào quá trình Hồi giáo hóa khu vực Đông Nam Á” [8].
           Theo Drewes, một số học giả mà điển hình là Pijnappel cho rằng, chính những thương gia của phái Shafi’i-yah đã dong thuyền từ Ấn Độ đến truyền bá Hồi giáo đến quần đảo Indonesia[9]. Sau đó, Snouk Hurgronje trong bài diễn văn đọc tại triển lãm thuộc địa Amsterdam tổ chức năm 1883 lại tuyên bố rằng nguồn gốc của Hồi giáo ở Indonesia chính là vùng Nam Ấn Độ. Marisson thì lại thu hẹp ở bờ biển Coromandel. Trong khi đó, Tomé Pires[10] và Fatimi thì khẳng định rằng chính Bengal là cái nôi của Hồi giáo ở khu vực Đông Nam Á hải đảo, bởi vì trước khi Hồi giáo đến, Bengal và quần đảo Indonesia có quan hệ với nhau từ lâu đời, hơn nữa Bengal được Hồi giáo hóa vào thế kỷ XIII nên việc truyền bá Hồi giáo đến đây cũng dễ dàng hơn.
           Một số bia mộ như quần thể bia mộ của Malik Ibrahim (niên đại 1419), bia mộ của Malik al-Salih, vua Hồi đầu tiên của nước Pasai (1267 – 1524)… đã góp phần khẳng định nguồn gốc Ấn Độ của Hồi giáo ở Malaysia. Trong khi các học giả phương Tây dần nghiên về giả thuyết cho rằng người Ấn Độ đã truyền bá đạo Hồi vào Malaysia, thì một số học giả ở Malaysia mà tiêu biểu là Al – Attas khẳng định rằng, chính người Ả rập đã truyền bá Hồi giáo vào Malaysia. Để thực hiện, một mặt ông phản bác các bằng chứng sai lầm (các ngôi mộ) của học giả phương Tây cho rằng Hồi giáo là do người Ấn Độ đưa đến và cho rằng cần tìm hiểu cái cốt lõi bên trong (ngôn ngữ, chữ viết) thì sẽ nhận ra vấn đề; mặc khác ông cũng bác bỏ luôn thuyết bản địa của học giả phương Tây về ưu thế đại lục, khẳng định rằng Hồi giáo là do người Ả rập truyền bá tới. Để bảo vệ quan điểm, ông dẫn chứng chữ viết Jawi được sử dụng rộng rãi ở bán đảo Malaya trước khi người phương Tây đến, tên các ngày, các tháng trong tuần, cách đọc kinh Koran…. tất cả đều mang tính Ả rập chứ không phải Ấn Độ. Tuy nhiên, ông cũng tuyên bố rằng: “Ý kiến của tôi không nhằm mục đích hạ thấp vai trò của người Ấn Độ và nước Ấn Độ trong trong việc phát triển Hồi giáo ở đây, mà chỉ muốn nói trong vấn đề nguồn gốc Hồi giáo, các học giả và những người theo khuynh hướng phương Tây đã theo dấu chân cũ mà thổi phồng vai trò của Ấn Độ và nước Ấn Độ đối với lịch sử phát triển của khu vực[11].
2.2.2. Quá trình du nhập của Hồi giáo vào Malaysia
          Cứ lần theo những tranh cãi vô tận của các học giả phương Đông và phương Tây thì đủ biết vấn đề này có ý nghĩa quan trọng đối với việc xác định tính chất, đặc trưng và bản sắc văn hóa Hồi giáo ở Malaysia. Tuy nhiên, nếu cứ đi theo bước chân của họ thì cũng chưa hình dung được quá trình Hồi giáo du nhập vào Malaysia như thế nào. Vì vậy, chúng tôi tạm theo những ý kiến tương đối thống nhất để khắc họa lại quá trình du nhập của Hồi giáo vào Malaysia.
           Từ thế kỷ IX, các thương gia Hồi giáo Ả rập đã biết đến vùng đất Đông Nam Á xa xôi này. Tuy nhiên, nền thương mai ở đây vẫn hướng về Trung Hoa mà chưa được họ quan tâm nhiều. Sử cũ Malaysia có nhắc đến các đoàn thuyền buôn đến các bờ biển thuộc Sumatra, đảo Riau Lingga và Pulau Tioman, nhưng không có tài liệu nào nói về sự buôn bán có tổ chức ở đây cho đến tận giữ thế kỷ X. Andaya cho rằng: “Chứng cứ đầu tiên nói về hoạt động của Hồi giáo ở Đông Nam Á là báo cáo của Marco Polo năm 1292[12] có đề cập đến thành phố Perlak ở miền Bắc Sumatra đã theo Hồi giáo”[ 4, 52].
           Đến thế kỷ XIII, trên thế giới diễn ra sự kiện quan trọng đối với thương mại thế giới: Mông Cổ, một đế quốc mới nổi lên ở Đông Nam Á, đã tiêu diệt đế quốc Ảrập (1258), chiếm lĩnh châu Á, một phần châu Âu, cắt đứt con đường buôn bán hương liệu từ Đông sang Tây[13] của các thương gia Ảrập Hồi giáo. Để cứu vãn, người ta đã mở con đường mới và con đường này do người Ấn Độ mở chứ không phải người Ả rập mở. Con đường này xuất phát ở phương Đông qua Ấn Độ, eo biển Aden, Hồng Hải, cảng Alexandria và tiến lên phía Bắc. Do vua Ai Cập cho mở cảng Alexandria nên các cảng lớn như Cambay, SuratDiu ở vùng Gujerat (Ấn Độ) phát triển sầm uất. Thêm nữa, châu Âu thời kỳ này phát triển thịnh vượng, nhu cầu hàng hóa, thị trường mở rộng khiến Gujerat chiếm vị trí nổi bật trong thị trường hương liệu.
Vào thế kỷ XIII – XV, các thương gia Hồi giáo đã đến quần đảo Malaya – Indonesia buôn bán, định cư, lấy vợ người bản xứ…nhiều đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho các tu sĩ Hồi giáo xâm nhập vào vùng đất này truyền đạo. Giới quý tộc bản xứ, từ lâu đã thèm khát của cải của người Hồi nên đã vui vẻ chào đón, kết thân và tiếp nhận tôn giáo của họ. Tuy nhiên, không chỉ thương gia ở Gujerat, mà các thương gia ở Malabar, bờ biển Coromandel, Bengal… cũng góp phần truyền bá Hồi giáo vào Đông Nam Á hải đảo. Kết quả là vào thế kỷ XIII – XV, đã có một số nước ở Đông Nam Á như Pasai (Indonesia) đã trở thành quốc gia Hồi giáo. Malaysia được cải giáo muộn hơn, thể kỷ XIV – XV[14]. Đầu thế kỷ XV, vua nước Melaka là Parameswara (1403 – 1424) đã cải theo Hồi giáo, lấy tên Hồi giáo là Iskandar Shah. Từ đây, Melaka không những là trung tâm buôn bán quốc tế mà còn là trung tâm truyền bá tôn giáo lớn nhất thời bấy giờ. Noi gương Melaka, các tiểu quốc khác ở phía bắc Demak, Terengganu, Kelantan… thông qua hôn nhân, buôn bán đã dần dần đặt quan hệ tốt với Melaka. Cũng từ con đường doanh thương, Hồi giáo từ Melaka đã đến Terengganu, Pattani, Kelantan, Borneo. Các Sultan Melaka coi Hồi giáo là vũ khí sắc bén để mở rộng lãnh thổ và truyền bá tôn giáo của mình, đã tuyên bố sẽ giúp các tiểu quốc đấu tranh thoát khỏi quyền lực nhà Majapahit với điều kiện là họ phải theo Hồi giáo của Melaka. Trong khi đó, tước hiệu “Sultan” đã cuốn hút mạnh mẽ giới quý tộc các tiểu quốc đua nhau cải đạo Hồi giáo, tạo điều kiện cho Hồi giáo phát triển mạnh mẽ. Trong suốt hơn một thế kỷ từ năm 1403 cho đến khi bị Bồ Đào Nha xâm lược (1511), Melaka là một nước giàu có, một trung tâm buôn bán quốc tế năng động và là trung tâm Hồi giáo lớn nhất Đông Nam Á và từ đây, Hồi giáo lan sang hầu hết ở miền Tây Malaysia và có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần, xã hội Malaysia.
           Sau khi xâm nhập vào Melayu, Hồi giáo đã nhanh chóng phát triển và chiếm được vị trí quan trọng ở Malaysia là điều dễ hiểu, bởi vì quá trình Hồi giáo hóa ở đây gặp nhiều thuận lợi:
           Thứ nhất, Hồi giáo đến Malaysia vào lúc đế quốc Ấn Độ giáo Majapahit đang rơi vào khủng hoảng và tan rã. Lúc này, thương mại ở Đông Nam Á bị cuốn vào vòng xoáy của cơn lốc thị trường quốc tế; hệ thống đẳng cấp của Ấn Độ giáo đã lỗi thời, không phù hợp với nhu cầu phát triển của thương trường và xã hội. Sự khủng hoảng của hệ tư tưởng Ấn Độ giáo đã tạo sự trống rỗng niềm tin, một lỗ hổng lớn cho Hồi giáo len vào và phát triển. Hồi giáo với tư tưởng tự do, bình đẳng, nó giúp giải phóng con người ra khỏi các quan niệm khắc nghiệt của Ấn Độ giáo và hướng tới cho họ một cộng đồng Hồi giáo rộng lớn.
           Thứ hai, ở khu vực Đông Nam Á khi đó đang có sự chuyển hướng kinh tế. Từ một nền kinh tế nông nghiệp tự cung tự cấp ban đầu, giờ đây nó đã trở thành trung tâm buôn bán hương liệu quan trọng, nhất là cho châu Âu đang phát triển. Qua các con đường trao đổi buôn bán, Hồi giáo đã dần dần xâm nhập vào Malaysia. Các nguyên tắc bình đẳng, phóng khoáng của Hồi giáo phù hợp với người dân, quý tộc nên đã được họ hào hứng đón nhận nồng nhiệt. Trong bối cảnh đó, Hồi giáo trở thành ngọn cờ của các tiểu quốc đấu tranh chống đế chế Majapahit và giành độc lập, tiêu biểu là Melaka. Từ một làng chài nghèo nàn, Melaka đã dần vươn lên thành quốc gia hung mạnh về quân sự và có tiềm lực kinh tế lớn. Chính sự thành công của Melaka đã cổ vũ các nước thuộc Majapahit cải theo Hồi giáo và tham gia vào thương trường quốc tế.
           Thứ ba, Hồi giáo đến với Đông Nam Á trong hòa bình nên phù hợp với tâm lý người dân địa phương, giúp họ dễ dàng hòa nhập vào tôn giáo mới này. Tính bao dung, độ lượng, và sự thích nghi tốt với các tín ngưỡng địa phương đã làm giảm đi sự đố kị, hận thù giữa các dân tộc bản địa, khiến họ dễ chấp nhận tôn giáo mới hơn. Ở các vương quốc Malaysia, các Quốc vương đóng một vai trò quan trọng trong việc truyền bá Hồi giáo ở Malaysia. Trong Sejarah Melayu, hình ảnh nhà vua được xem là trung tâm của vương quốc, là chủ thể để toàn thể thần dân trung thành và vâng lời. Không có vua sẽ không có vương quốc, vua theo Hồi giáo thì toàn dân tất sẽ noi theo. Một ví dụ cụ thể ở Melaka, là “nhà vua sau khi cải giáo theo Hồi giáo đã ra lệnh cho các quan chức và thần dân của mình ở Melaka, dù có địa vị cao hay thấp, đều phải trở thành tín đồ Hồi giáo[15]. Và một yếu tố nữa cũng tạo điều kiện để Hồi giáo lan nhanh sang Đông Nam Á là chủ nghĩa thần bí (Sufi). Nhiều học giả cho rằng, Hồi giáo khi qua Ấn Độ đã tiếp thu chủ nghĩa này và biến đổi nó thành một đặc trưng của văn hóa khu vực. Khi tới Malaysia, Hồi giáo có pha trộn yếu tố thần bí thâm nhập mạnh vào cư dân Malaysia trong lúc họ còn nặng mê tín dị đoan.
           Thứ tư, việc sử dụng tiếng Malay đã làm cho Hồi giáo lan truyền nhanh hơn trên bán đảo. Trước khi Hồi giáo tới, ngôn ngữ này đã được cư dân sử dụng nhiều trong giao tiếp, buôn bán ở quần đảo Malayu – Indonesia. Khi Hồi giáo vào thì ngôn ngữ này đã trở thành quốc tự (ngôn ngữ quốc gia) sử dụng nhiều trong các mặt chính trị, kinh tế, xã hội Malaysia. Và không chỉ có Malaysia mà ở trên Đông Nam Á lục địa, tiếng Melayu vẫn được sử dụng trong tôn giáo ở Nam Thái Lan, Campuchia và Việt Nam.

2.3. Hồi giáo trong đời sống xã hội – văn hóa Malaysia
2.3.1. Hồi giáo trong văn hóa Malaysia
2.3.1.1. Ngôn ngữ
           Khi xét đến ảnh hưởng của Hồi giáo vào ngôn ngữ Malaysia, người ta thường lấy mốc thời điểm là thế kỷ XV, là thời kỳ nước Melaka được thành lập. Trong thời kỳ này, ở Malaysia xuất hiện hai ngôn ngữ là Melayu và Jawi. Tiếng Melayu thuộc ngữ hệ Melayu – Rustronesia (còn gọi khác là ngữ hệ Melayu – Polinesia) [ 24, 111]. Ở Malaysia, tiếng Melayu là ngôn ngữ đầu tiên, xuất hiện ở nơi đây từ lâu trước khi Hồi giáo xâm nhập vào đây. Tiếng Melayu đã trở thành ngôn ngữ trung gian dùng trong giao tiếp buôn bán, sinh hoạt, và truyền bá tôn giáo. Chính trong việc truyền bá tôn giáo, tiếng Melayu ngày càng được củng cố, hoàn thiện thêm về vốn từ ngữ, đồng thời giúp cho ngôn ngữ này dần lên vị trí chính thức trong các hoạt động của người Melayu. Hiện nay, tiếng Melayu trở thành ngôn ngữ chính thức của 200 triệu người Hồi ở Đông Nam Á và có ảnh hưởng sâu sắc đến toàn thế giới.
           Một ngôn ngữ thứ hai đóng vai trò quan trọng trong việc Hồi giáo hóa Malaysia là tiếng Jawi. Do nhận thấy tiếng Ả rập quá phức tạp về cách đọc, cách viết và đọc kinh Koran nên người Malaysia cải tiến thành tiếng Jawi thích hợp cho mình. Theo Ishak, tiếng Jawi sử dụng 27 chữ cái Ả rập và 5 chữ cái Ba Tư. Sự ra đời của ngôn ngữ này giúp người Melayu sử dụng được dễ dàng hơn, tạo điều kiện cho việc học tập và giáo dục của người dân; góp phần giúp làm giàu ngôn từ, truyền bá tôn giáo nhanh hơn. Nhiều sách khoa học, thư từ, kinh thánh… đều được viết bằng chữ Jawi[16]. Chính nhờ những việc đó mà ngôn ngữ này tồn tại suốt 5 thế kỷ và không bị mất đi. Ngày nay, tuy tiếng Jawi không còn tồn tại nữa, nhưng nó góp phần như một dấu ấn trong lịch sử Malaysia nên cần được gìn giữ và phát huy.
           Sau khi đánh chiếm Melaka[17] (1511), Bồ Đào Nha đã đưa vào vùng đất này tiếng Bồ Đào Nha “bồi”, và nó được giai cấp thống trị và những người Bồ Đào Nha di cư vào đây tiếp nhận nồng nhiệt. Tuy nhiên, do chỉ hạn chế trong phạm vi giới quý tộc và không lan truyền vào cộng đồng dân cư Malaysia, nên ngôn ngữ này đã mất dần chỗ đứng và không có vị trí vững chắc ở Melaka. Đến năm 1641, Hà Lan thay Bồ Đào Nha thống trị vùng đất này, nhưng cũng thất bại trong việc áp đặt ngôn ngữ của mình vào Melaka và phải nhường lại cho người Anh, một tên thực dân đến muộn, nhưng thống trị lâu nhất và có ảnh hưởng sâu sắc đến Malaysia.
           Sau khi đánh chiếm Malaysia, người Anh đã đề ra chính sách đưa tiếng Anh vào thuộc địa mới này. Người Anh mở nhiều trường học và cấp học bổng cho con em quý tộc bản địa để khuyến khích họ học lên cao hơn. Ở Malaysia, trường học được chia thành hai loại: trường dành cho quý tộc và trường dành cho tầng lớp dưới. Tiếng Anh được dạy cho quý tộc; còn người nghèo thì được học miễn phí tiếng Melayu, tiếng Tamil. Khi học xong, người học sẽ được chính quyền cấp học bổng, tạo việc làm cho họ nhưng rất hạn chế. Do sự ảnh hưởng mạnh của tiếng Anh mà các Ulama, người trước đây dạy tiếng Ảrập, đã phải cho học trò học thêm tiếng Anh để mở rộng kiến thức mới và nhờ việc này mà tiếng Anh đã dần chiếm vị trí cao ở Malaysia [39, 34 – 38].
           Sau khi giành độc lập, ở Malaysia tồn tại hai ngôn ngữ chính: tiếng Anh và tiếng Melayu[18]. Hai ngôn ngữ này được sử dụng nhiều trong các cơ quan nhà nước (Nghị viện, Chính phủ) và trong các tầng lớp nhân dân. Trong một vài trường hợp, tiếng Melayu vẫn chiếm ưu thế, trong giao tiếp và khoa học – kỹ thuật mà thôi. Vì vậy, chính phủ đầu tiên là Rahman đã có chính sách tích cực cho vấn đề ngôn ngữ ở Malaysia. Trong điều 152 của Hiến pháp, tiếng Melayu là quốc tự của Malaysia và người dân được tự do học ngôn ngữ khác nếu họ muốn. Tiếp đó, chính phủ mở nhiều trường học, thư viện, tổ chức các hoạt động tuyên truyền rầm rộ tiếng Melayu vào quần chúng. Năm 1970, chính phủ tuyên bố tiếng Melayu là ngôn ngữ chính thức dùng trong học tập, thi cử và tuyển chọn nhân tài. Hưởng ứng chính sách của chính phủ, các trường đại học, học viện ở Malaysia đưa tiếng Melayu vào dạy học và thi cử, đồng thời các trường này cũng được học thêm tiếng Anh để nâng cao kiến thức, trình độ chuyên môn. Ngoài việc khuyến khích học tiếng Melayu, chính phủ còn mở các hoạt động khác để truyền bá tiếng Melayu: thi sáng tác văn học, viết báo, tạp chí, làm phim điện ảnh …bằng tiếng Melayu. Năm 1977, chính phủ ra luật quảng cáo đòi hỏi phải sử dụng tiếng Melayu, nếu không thì bị phạt 2000 ringgit[19]… [40, 107 – 108].
2.3.1.2. Văn học
           Đồng thời với chữ viết, văn học Malaysia đã ra đời và đạt nhiều thành tựu to lớn. Vào thời Melaka, văn học phát triển mạnh, có sự kết hợp giữa yếu tố Hồi giáo và yếu tố dân gian, thể hiện qua các thể loại như truyện sử và thơ ca. Về truyện sử (Hikayat[20]), lúc này người Melayu đã lấy bối cảnh để sáng tác và nội dung chủ yếu nói về giá trị đạo đức, chân lý, lòng trung thành với nhà vua. Có ba loại truyện sử: truyện sử Hồi giáo và truyện sử Ấn Độ giáo và truyện sử hỗn hợp Ấn – Hồi. Truyện sử Hồi giáo tiêu biểu là: Hikayat Faridah, Hikayat Saleh Salehan…. Bên cạnh truyện sử Hồi giáo còn có truyện sử Ấn Độ giáo (Hikayat Seri Rama, Hikayat Pandawa…) và truyện sử hỗn hợp Ấn – Hồi (Hikayat Si Mikhin, Hikayat Shah Mahdan, Hikayat Ahmad Muhammad…). Hikayat Hang Tuah [21] là tác phẩm duy nhất viết về thể loại xã hội và anh hùng dân tộc Hang Tuah của người Melayu. Ở Indonesia cũng có các truyện sử nổi tiếng như truyện vua Kuripan, Ismaili Alim [8, 89].
           Đồng thời với truyện sử (Hikayat), thể loại thơ ca (syair) ra đời. Thể thơ này viết theo kiểu thể tứ tuyệt, các câu không giới hạn số dòng và nội dung của nó là về chính trị, giáo huấn. Các loại syair tiêu biểu Syair Ken Tambuhan, Hikayat Andaken Pennurat mượn câu chuyện ngụ ngôn về các con vật (con cú, cá trích) răn dạy con người. Ngoài ra còn có Syiar lịch sử kể về các cuộc chiến tranh, nhân vật lịch sử như Syair Perang Mengkasar (trường ca về cuộc chiến Mengkasar); Syair Pera Siak (trường ca về cuộc chiến Siak)[21, 33].
           Truyện ngắn, tiểu thuyết Malaysia hiện nay cũng mang âm hưởng của Hồi giáo trong đất nước này. Trong truyện ngắn “Truyền thuyết của Tiny Siti”, nữ văn sĩ Siti Jainon Ismail đã khắc họa đời sống, thân phận của người phụ nữ Hồi giáo thời đó. Họ lớn lên trong Hồi giáo, bị Hồi giáo ràng buộc bởi những điều kiện khắc khe, ngay cả hôn nhân họ cũng không có quyền định đoạt, để rồi họ phải kêu lên như ai oán “một người trẻ như thế mà phải lấy một người già như thế”[26, 124]. Vào thời cận đại, A. Munshi trong tác phẩm “truyện Abdullah” đã bày tỏ sự thức tỉnh về chính trị, xã hội, phê phán chế độ phong kiến thối nát.[7, tr.11 – 12].
           Dù rằng nền văn học Malaysia đã trải qua cuộc đấu tranh phức tạp, nhiều quan điểm về lối sống, đạo đức được đưa ra tranh luận, song những giá trị về đạo đức và tinh thần của Hồi giáo vẫn luôn là kim chỉ nam, là đề tài cho các nhà văn, nhà thơ khai thác và ca ngợi.
2.3.1.3. Nghệ thuật
           Song song với văn học, nghệ thuật Malaysia từ thế kỷ XV trở lại đây cũng chịu ảnh hưởng rất nhiều của Hồi giáo. Do lệnh cấm tạo hình của đạo Hồi mà nghệ thuật điêu khắc và hội họa bị chững lại, dành chỗ cho nghệ thuật kiến trúc phát triển, trong đó kiến trúc thánh đường là tiêu biểu nhất. Vào thời kỳ khi Hồi giáo vào, các thánh đường được xây dựng chủ yếu bằng gỗ, nhưng do bị thời gian hủy hoại nên không còn thấy như ngày nay. Thánh đường Hồi giáo cổ nhất mà ta còn thấy hiện nay là thánh đường Kampung Laut (đầu thế kỷ XVIII). Thánh đường này được làm bằng gỗ và được đặt trên cột theo kiểu nhà sàn của người Melayu, với bộ mái 3 lớp hình bông sen lộn ngược xếp chồng lên nhau gọi là môtíp tangub [22]. Tiếp theo các thánh đường Hồi giáo được xây dựng trong thời kỳ Hà Lan chiếm đóng, mà tiêu biểu nhất là Masjid Terengkera, Masjid Kampung Hulu (1728); Masjid Kampung Kling (1748).  Các thánh đường xây trên mặt bằng hình vuông với bộ mái nhiều tầng theo kiểu mái chùa Trung Quốc, chóp mái có trang trí hình vương miện gọi là môtíp Melaka. Phong cách kiến trúc này vẫn tiếp tục phát triển ở các vương quốc Melayu trong thế kỷ XVII – XVIII, mặc dù có sự thay đổi về thành phần kiến trúc, tùy thuộc vào yếu tố địa – chính trị của từng địa phương [39, 89].
Đến thế kỷ XIX, do bị đe dọa bởi Phật giáo Thái Lan và Thiên Chúa giáo Anh, các thánh đường có khunh hướng trở về lối kiến trúc Trung Đông. Tiêu biểu cho loại thánh đường này là thánh đường Zahir ở Kedah, thánh đường Syed Alwi ở Perlis… Thế kỷ XIX – XX, kiến trúc Malaysia bắt đầu chịu ảnh hưởng của châu Âu mà tiêu biểu nhất là Anh. Ta có thể nhận thấy điều này ở thánh đường Abu Bakar, dựng năm 1892 ở bang Johor với những cửa ra vào và cửa số có mái vòm kiểu Ý ở phần kiến trúc bên dưới. Thánh đường Paloh dựng năm 1912 ở bang Perak với Minaret (tháp) dựng theo kiểu tháp đồng hồ, rất thịnh hành ở Anh thời bấy giờ. Thánh đường Jamek, dựng năm 1925 với các cột trụ và tháp nhỏ làm theo theo phong cách Hy Lạp và các cửa số theo phong cách Pháp [23, 63].
           Sau khi giành độc lập, cùng với chính sách Hồi giáo hóa của chính phủ, các thánh đường bắt đầu phát triển nhanh chóng. Bên cạnh các thánh đường xây theo kiểu Trung Đông, các thánh đường xây theo cách kết hợp yếu tố dân gian và hiện đại xuất hiện và phát triển mạnh. Tiêu biểu cho phong cách kiến trúc mới đó là Masjid Negara, một biểu tượng của quốc gia, được xây dựng trong những năm 1960 – 1965; thánh đường ở bang Negeri Sembilan với bộ mái hình sừng trâu của Minangkabau rất đặc sắc; thánh đường Sultan Salahuddin Abdul Aziz Shah (xây vào năm 1982 – 1988 ở Selangor) có vòm mái cao 10 m và có tới 4 minaret (tháp) cao 14,23 m (cao nhất trong số các tháp Hồi giáo), là thánh đường lớn nhất ở Malaysia ở Malaysia và Đông Nam Á.[24, 65]. Ở vương quốc Hồi giáo Brunei, kiến trúc thánh đường cũng rất phát triển, tiêu biểu như thánh đường Omar Ali Saifuddin, thánh đường Jame Asr, là 2 nơi người dân thường xuyên đến cầu nguyện.
           Bên cạnh kiến trúc thánh đường, ở Malaysia còn có loại kiến trúc quan trọng khác là các cung điện. Chúng ta biết được những cung điện cổ nhất Malaysia qua những dòng mô tả trong Sejarah Melayu. Theo những lời mô tả này thì cung điện này dựng năm 1460 dưới thời Mansur I Shah (1459 – 1477) gồm 7 tầng mái theo kiểu sừng trâu, 17 gian và phòng tiếp kiến chứa đầy đồ đạc và gương Trung Quốc. Các Sultan khác ở Tây Malaysia đã xây dựng cung điện theo kiểu mẫu này. Các cung điện tiêu biểu: cung điện Ampang Tinggi (Istana Ampang Tinggi) ở vương quốc Negeri Sembilan (1865 – 1870) với nhiều cột, xà ngang, trên đó khắc nhiều họa tiết rất tinh xảo; cung điện Teng Kunik ở vương quốc Terengganu xây dựng dưới thời Sultan Zainal Abidin III (1881 – 1918) vào những năm 1884 – 1888 có mái dốc, mặt bằng kép có 3 tầng, chạm khắc nhiều môtíp hoa lá đặc sắc.



[1] Melayu: còn gọi khác là Bahasa Melayu, là tên địa phương của tiếng Malay (tiếng Mã Lai), đồng thời cũng là tên gọi của tộc người bản địa sống lâu đời ở Malaysia (người Melayu). Theo Hiến pháp 1957, người Melayu nói tiếng Melayu, theo Hồi giáo và sống theo phong tục Melayu.
  Malaysia: tên gọi của quốc gia Malaysia sau năm 1963, tức là sau khi sát nhập hai bang miền Đông là Sabah và Sarawak (phía Bắc Borneo) vào mà thành. Trước năm 1963, Malaysia chưa có tên này mà có tên là Malaya mà thôi. Xem thêm: Huỳnh Văn Tòng (1993), Lịch sử MalaysiaSingapore - Philippines. Lưu hành nội bộ, ĐH Mở TPHCM.
[2] Hiến pháp Malaya: đây là Hiến pháp do Anh lập để công bố việc thành lập Liên hiệp Malaya. Theo Hiến pháp này, Liên hiệp Malaya bao gồm chín bang và Penang, Melaka và Singapore được công bố là thuộc địa của Anh. Những người đứng đầu các bang được giữ nguyên địa vị của mình, nhưng chủ quyền thuộc về chính phủ Anh. Tất cả công dân của Liên hiệp này đều có quyền bình đẳng ngang nhau, không phân biệt thành phần dân tộc và tôn giáo. Tuy nhiên, do sự đấu tranh quyết liệt của Tổ chức dân tộc thống nhất Malaya (UMNO), kế hoạch thành lập Liên hiệp Malaya đã không được thực hiện.
[3] Yang di-Pertuan Agong: Quốc vương Liên bang Malaysia, người có địa vị cao nhất trong Liên bang và sẽ không chịu trách nhiệm pháp lý về bất kỳ sự kiện tụng nào, ở bất kỳ tòa án nào. Yang di-Pertuan Agong được bầu lần lượt trong số 9 Sultan (Ruler) của các bang trong nhiệm kỳ 5 năm, Yang di-Pertuan Agong không thực hiện chức năng của người đứng đầu bang của mình, ngoại trừ các chức năng của người đứng đầu Hồi giáo.
[4] Ruler: Tước hiệu chỉ những người đứng đầu các bang ở Melayu Hồi giáo: Perlis, Kedah, Selangor, Perak, Negeri Sembilan, Johor, Pahang, Terengganu và Kelantan. Ruler còn được gọi là Sultan.
[5] Yang Dipertua Negeri: Theo sự giải thích trong điều 160 của Hiến pháp Liên bang, là người đứng đầu các bang Melaka, Penang, Sabah, Sarawak. Yang Dipertua Negeri do Yang di-Pertuan Agong bổ nhiệm với nhiệm kỳ 4 năm. Người đứng đầu bang Negeri Sembilan được gọi là Yang di-Pertuan Besar. Khác với Yang Dipertua Negeri, các Ruler và Yang di-Pertuan Besar vừa là người đứng đầu bang vừa là người đứng đầu Hồi giáo ở bang mình. Hiến pháp quy định các Ruler có địa vị cao hơn Yang Dipertua Negeri.
[6] Bumiputra: theo nghĩa đen, là “người con của đất”, được sử dụng để địa vị người Melayu và các cư dân bản địa (orang asli), những người mà theo Hiến pháp Liên bang thì có nhưng đặc quyền, đặc lợi.
[7] Fatimi, S.Q. (1963), Islam comes to Malaysia, Malaysian Sociological Research Intitute LTD, Singapore, tr.4.
[8] Ionova, I. I.  (1981), Hồi giáo ở Đông Nam Á, NXB Nauka, Matxcơva, tr.16.
[9] Drewes, G. W. J. (1985), “New light on the Coming to Islam to Indonesia, in Ahmad Ibrahim”, Sharon Siddique and Yasmin Hussain, (complied), Reading on Isalm in Southeast Asia, Institute of Southeast Asia Studies, Singapore, p. 7 – 19. 
[10] Tomé Pires: thầy thuốc người Bồ Đào Nha (1465 – 1540), người đã sang thăm Melaka trong những năm 1511 – 1515 khi Bồ Đào Nha đánh chiếm Melaka. Ông viết tác phẩm Suma Oriental kể lại chi tiết tình hình quần đảo Malaya hồi thế kỷ XVI.
[11] Al – Attas, S. M. Naguib (1972), Islam dalam Serajah dan Kebudayaan Melayu, Kuala Lumpur, Malaysia, tr.35. 
[12] Về báo cáo của Marco Polo về việc thành phố Perlak (hay Ferlec) theo Hồi giáo thì trong Marco Polo du ký, ông đã kể lại như sau: Ferlec là vương quốc nằm quá sâu về phía Nam biển Đông, những người Sarrasin (Hồi giáo) đến đây thường xuyên đến nỗi họ cải đạo cho người bản xứ để họ tin vào Muhammad, nhưng chỉ trong thành phố mà thôi, còn những người trên núi thì sống cuộc sống nguyên thủy, ăn thịt người và thờ các linh vật tự nhiên [2, 255].
[13] Con đường mà các thương gia Hồi giáo Ảrập trước thế kỷ XIII mở là từ phương Đông qua vịnh Ba Tư, bờ biển Levantine rồi lên Bắc Âu, rất nhộn nhịp thời đó.
[14] Có tài liệu viết rằng, trước khi Parameswara theo Hồi giáo thì đã có quốc gia trước đó ở Malaysia theo Hồi giáo, tiêu biểu là Kedah. Theo Biên niên sử Kedah thì vào đầu thế kỷ XIV, vị vua thứ 9 của nước Kedah là Ong Mahawangsa đã cải sang đạo Hồi và đổi tên thành Mudzaffar Shah I (1136 – 1179). Từ đó đến hiện nay đã có 27 vị vua Hồi giáo cai trị Kedah.
[15] Milner, A. C. (1985), “Islam in Malay Kingship”, in Ahmad Ibrahim Sharon Siddique and Yasmin Hussain, (compiled), Reading or Islam in Southest Asia, Institute of Southest Asia Studies, Singapore, tr.27. 
[16] Các tài liệu sau chứng minh sự có mặt của chữ Jawi trong văn hóa Malaysia: tấm bia đá khắc bảng chữ cái Jawi tìm thấy ở Terengganu (thế kỷ XIV); bài thơ lãng mạn Syair Bidasari (thế kỷ XIV, Sumatra); thư của Sultan Ternate Abu Hayat gửi vua Bồ Đào Nha Joao III (1521); thư của Sultan Johor Abdul Jalil IV gửi vua Pháp Louis XIV (1719)… Theo: Bảng chữ cái Jawi, http://en.wikipedia.org/wiki/Jawi_alphabet
[17] Melaka: tên một vương quốc hùng mạnh ở Malaysia thời trung đại. Chi tiết về vương quốc này xem ở phần 2.2.2: Quá trình du nhập của Hồi giáo vào Malaysia, tr. 34 – 35. Trong khóa luận, tác giả thống nhất dùng từ “Melaka” (là từ người Melayu bản địa thường dùng) xuyên suốt bài, thay cho từ “Malacca”.
[19] Ringgit: là đồng tiền của nước Malaysia, do Ngân hàng Negara Malaysia phát hành vào năm 1963 thay cho đồng của xứ Malaya thuộc Anh trước đây. 1 ringgit = 100 sen (xu).
[20] Hikayat (Truyện sử): là thể loại có nhiều tác phẩm lớn, chiếm số lượng lớn trong hệ thống văn học Malaysia. Hikayat xuất hiện khoảng thế kỷ X – XV là loại văn học viết đầu tiên của người Melayu. Chữ “Hikayat” bắt nguồn từ chữ “Hikaya”, ban đầu có nghĩa là “các lịch sử” sau chuyển sang nghĩa “truyện”; “trần thuật”. Theo nghĩa rộng, nó bao gồm các tác phẩm văn xuôi có yếu tố truyện, nhằm mục đích giải trí cho người dân những lúc nhàn rỗi.
[21] Hikayat Hang Tuah: là trường ca nổi tiếng của người Melayu, được viết từ thế kỷ XVI – XVII. Truyện kể về Đô đốc Hang Tuah, một chiến binh dũng cảm, là biểu tượng của long trung thành với nhà vua, dù ông ta là bạo chúa. Vì nghe những lời vu cáo của nịnh thần, nhà vua đã ra lệnh giết chết Hang Tuah. Hang Jebat – người bạn thân cận của Tuah, đã nổi loạn chống lại nhà vua, bất chấp quan niệm đạo đức thời bấy giờ “chống lại nhà vua tức là chống lại Thượng đế”. Hang Tuah được tể tướng cứu thoát, nhưng trớ trêu thay, chàng lại bị nhà vua buộc phải giết Hang Jebat, người đã vì chàng mà làm phản. Vì lòng trung thành với vua, Hang Tuah đã giết chết Jebat. Thế nhưng nỗi đau vì giết bạn đã ám ảnh Hang Tuah, nỗi trăn trở “chân lý sẽ thuộc về ai” vẫn còn tồn tại đến nay.
[22] Vlatseas, S. (1990), A History of Malaysian Architecture, Longman Singapore Publishers , tr.45. 
[23] Talaq: nghĩa đen là “bức thư bỏ vợ” theo ngôn ngữ hiện đại, là đơn ly dị của người chồng. sau khi gửi đơn hai lần đầu, người chồng vẫn có thể tái hợp với vợ một khi thời gian cấm phòng theo luật Hồi giáo đã kết thúc. Nếu gửi đi talaq thứ ba, muốn tái hôn trở lại thì phải đủ 5 điều kiện sau:
+ Đã kết thúc thời gian cấm phòng theo luật.
+ Người phụ nữ đã đi lấy một người chồng mới
+ Đôi vợ chồng mới đã chung sống với nhau.
+ Sau đó, đôi vợ chồng mới này dứt khoát ly dị nhau.
Thời gian cấm phòng dài ngắn tùy theo hoàn cảnh của người phụ nữ: tới khi sinh con với phụ nữ góa chồng mang thai; 4 tháng 10 ngày với phụ nữ góa chồng không mang thai; tới khi sinh con với phụ nữ mang thai không góa chồng;  sau 3 lần sạch kinh với phụ nữ mang thai co kinh nguyệt; 3 tháng với phụ nữ có kinh nguyệt hoặc đã mãn kinh [30, 155].
[24] Mamat, R. R. R. (1991), The Role and Status of Malay Women in Malaysia – Social and Legal Perspectives, Dewan Bahasa dan Pustaka, Kementerian Pendikkan Malaysia, Kuala Lumpur, tr. 69.
[25] Sultan Perak Idris Shah I (1887 – 1916) đã mở đường cho nhận thức mới mẻ này bằng cách đề nghị Công sứ Anh cho mở một trường của Anh ở Kuala Kangsa, thủ phủ của Perak vào năm 1888. Theo sau Perak, tiểu vương Samad của Selangor sau chuyến thăm London trở về thỉnh cầu chính quyền cho mở một trường học dành cho các hoàng tử trẻ ở Selangor vào năm 1890.
[26] Theo Rex Stevenson thống kê, trong tổng số 310.000 người dân Malay chỉ có 2.636 người làm việc tại các cơ quan chính phủ, trong đó có tơi 1.175 người làm cảnh sát. Dẫn lại theo Lý Tường Vân (2011), “Chính sách giáo dục của Anh đối với cộng đồng người Malay bản địa (từ nửa cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX)”, Nghiên cứu Đông Nam Á, số 5, tháng 5/2011, trang 15.
[27] Theo thống kê, tại Khu định cư eo biển (SS) (1826 – 1896) chỉ có 16 trường với 596 học sinh; đến 1882 tăng lên 85 trường, 2.230 học sinh và năm 1892 tăng đến 189 trường, 7.218 học sinh; Liên bang Malay (SMS) tăng mạnh từ 168 trường lên 400 trường trong những năm 1900 và 1920, số lượng học sinh tăng nhanh từ  6.000 lên đến 20.319 em.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét