HƯỚNG DẪN ÔN TẬP VĂN
MINH PHƯƠNG ĐÔNG
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Phụng Hoàng (Chủ biên): Lịch sử văn minh
thế giới, NXB TP Hồ Chí Minh (6lần).
2. Vũ Dương Ninh (Chủ
biên), 1997. Lịch sử văn minh nhân loại. NXB Giáo dục.
(Sau này xuất bản dưới
tên Lịch sử văn minh thế giới), 2001.
3. Lương Duy Thứ (Chủ
biên), 1998. Đại cương văn hoá phương Đông. NXB Giáo dục Hà Nội.
4. Lương Ninh (Chủ
biên), 1998. Lịch sử văn hoá thế giới (cổ, trung đại). NXB Giáo dục.
5. Trần Ngọc Thêm,
2001. Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam. NXB T.P Hồ Chí Minh.
6. Ngô Minh Oanh (chủ
biên), Tài liệu học tập và ôn thi Lịch sử văn minh thế giới, NXB Giáo dục, 1999
Dẫn nhập
Xét về vùng lãnh thổ, phương Đông ngày nay
được hiểu là khu vực bao phủ toàn bộ châu Á và phần Đông Bắc châu Phi. Nói đến phương
Đông, người ta không thể không nhắc đến những nền văn minh nổi tiếng như Ai Cập,
Lưỡng Hà, Ấn Độ, Arập, Trung Hoa, không thể không nhắc đến Nho giáo, Hồi giáo,
Phật giáo, Hinđu giáo và hàng loạt tín ngưỡng bản địa mang màu sắc phương Đông.
Tóm lại, phương Đông là một khu vực văn minh có “bản sắc” riêng cả về phương diện
truyền thống lẫn hiện đại. Ngày nay, xét trên nhiều góc độ như lịch sử, chính
trị, kinh tế, văn hoá,... phương Đông chiếm một vị trí vô cùng quan trọng trong
lịch sử thế giới.
Vấn đề thứ 1
Cơ
sở cho sự hình thành văn minh phương Đông
Châu Á và Đông Bắc châu
phi là nơi ra đời những nền văn minh cổ kính của phương Đông nói riêng và của
loài người nói chung. Ở đây đã xuất hiện những quốc gia chiếm hữu nô lệ tối cổ
xây dựng trên sự tan rã của chế độ công xã nguyên thủy.
1.Điều kiện tự nhiên:
Những nền văn minh cổ
kính đó xuất hiện trên lưu vực những con sông lớn như sông Nile (Ai Cập),
Tigris và Euphrates (Lưỡng Hà), sông Ấn (Indus) và sông Hằng (Gange) (Ấn Độ),
sông Hoàng Hà và Trường Giang (Trung Quốc)…
-
Nhìn chung lưu vực các con sông nói trên là những vùng đồng bằng phì nhiêu rất
thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp. khí hậu ấm áp, nguồn nước phong phú,
đất đai màu mỡ và dễ canh tác đã cho phép các quốc gia cổ đại phương Đông phát
triển nông nghiệp thuận lợi.
-
Người phương Đông cổ đại sống trên lưu vực các con sông từ thời nguyên thủy đã
sớm phát hiện và lợi dụng những thuận lợi đó để phát triển sản xuất. Cùng với
nông nghiệp, thủ công nghiệp cũng phát triển mạnh, xã hội sớm xuất hiện giai cấp
và nhà nước.
Cụ thể:
* Ai Cập ở Đông Bắc châu
Phi, là một thung lũng nằm dọc theo lưu vực sông Nile .
Phía tây giáp sa mạc Libi, phía đông giáp Hồng Hải, phía bắc giáp Địa Trung Hải,
phía nam giáp dãy núi Nubi và Ethiopia. Địa hình chia làm hai khu vực: Thượng
Ai Cập ở phía nam là một dãi thung lũng dài và hẹp, có nhiều núi đá. Hạ Ai Cập ở
phía bắc là vùng châu thổ đồng bằng sông Nile
rộng lớn hình tam giác. Sông Nile là một trong những con sông dài nhất thế giới,
khoảng 6500km, với bảy nhánh đổ ra Địa Trung Hải, phần chảy qua Ai Cập dài
700km. Hàng năm nước lũ dâng khiến cho phù sa từ thượng nguồn tuôn xuống gia
tăng màu mỡ cho đồng bằng châu thổ, thuận lợi cho việc trồng trọt. Sông Nile
cung cấp nguồn thực phẩm thủy sản dồi dào cho sư dân và là con đường giao thông
quan trọng nhất của vùng này. Do đất đai màu mỡ, các loại thực vật như đại mạch,
tiểu mạch, chà là, sen, cây papyrus làm giấy… sinh trưởng và phát triển quanh
năm. Ai Cập có một quần thể động vật đồng bằng và sa mạc rất phong phú, đa dạng
: trâu bò, voi, hươu cao cổ, tê giác, hà mã, cá sấu, hỗ, báo… các loại thủy sản
cũng rất nhiều, tạo thuận lợi cho nghề đánh cá..
* Lưỡng Hà: Lưỡng Hà là
vùng bình nguyên giữa hai con sông Tigris và Euphrates ,
người Hy Lạp cổ đại gọi là Mésopotamie. Từ xa xưa vùng này đã nổi tiếng là vùng
đất phì nhiêu, rất thuận lợi cho cuộc sống con người.
* Ấn Độ: Ấn Dộ là một bán đảo ở Nam Á, thời cổ
- trung đại bao gồm cả các nước Pakistan ,
Nepan, và Bangladesh
ngày nay. Ấn Độ có sự đa dạng về địa hình và khí hậu ở các vùng Bắc Ấn, Trung Ấn
và Nam Ấn. Sông Ấn (Indus), sông Hằng (Gange hay Gangga) đã tạo nên những vùng
đồng bằng màu mỡ, có vai trò rất quan trọng dẫn đến sự ra đời sớm của nền văn
minh nông nghiệp ở đây. Nhìn chung điều kiện tự nhiên Ấn Độ rất phức tạp, vừa
có núi non trùng điệp, vừa có nhiều sông ngòi với những đồng bằng trù phú, khí
hậu có vùng nóng ẩm nhiều mưa, có vùng quanh năm tuyết phủ, lại có cùng sa mạc
khô cằn nóng nực. Tính đa dạng và phức tạp của thiên nhiên Ấn Độ, một mặt là điều
kiện thuận lợi cho cư dân cổ tụ cư và phát triển, mặt khác là những thế lực đè
nặng lên số phận con người Ấn Độ khi nhận thức của họ còn thấp kém.
* Trung Quốc: Lãnh thổ
Trung Quốc mênh mông nên địa hình đa dạng và phức tạp. Phía tây có nhiều núi và
cao nguyên, khí hậu khô hanh, phía đông có các bình nguyên châu thổ phì nhiêu,
các sông lớn đều chảy ra Thái Bình Dương tạo nên khí hậu ôn hòa. Trong số 5.000
dòng sông của nước này thì Hoàng Hà (dài 5.464km) và Dương Tử (dài 5.800) là
hai con sông lớn nhất . Tuy thường xuyên gây ra lũ lụt, nhưng Hoàng Hà và Dương
Tử đã mang đến nguồn phù sa bồi đắp cho đất đai thêm màu mỡ, tạo điều kiện thuận
lợi cho nông nghiệp phát triển, mang lại giá trị kinh tế cao. Từ xa xưa, những
con sông này là những tuyến giao thông huyết mạch nối liền các vùng trong lãnh
thổ Trung Quốc. Các triều đại đã xuất hiện, tồn tại và lớn mạnh trên lưu vực
hai dòng sông này và xây dựng nên nền văn minh Trung Quốc độc đáo.
-
Bên cạnh những thuận lợi nói trên, những con sông này lại bị ngăn cách bởi hệ
thống núi non trùng điệp và những vùng sa mạc mênh mông. Địa thế hiểm trở đó
cùng với những phương tiện giao thông hết sức hạn chế thời cổ đại đã làm cho
các nền văn minh này xuất hiện và phát triển một cách độc lập. Sự liên hệ buổi
đầu hầu như không xảy ra, do đó mỗi nền văn minh đã phát triển một cách độc
đáo, mang đậm bản sắc dân tộc. Về mặt này, Ai Cập là một ví dụ điển hình: Địa
hình Ai Cập gần như đóng kín, phía Bắc và phía Đông giáp Địa Trung Hải và Hồng
Hải, phía Tây bị bao bọc bởi sa mạc Sahara. Ở Ấn Độ thì hai mặt Đông Nam và Tây
Nam đều tiếp giáp với Ấn Độ Dương, phía bắc án ngữ bởi dãy Hymalaya (tức là xứ Tuyết)
thành một vòng cung dài 2600km, trong đó có hơn 40 ngọn núi cao trên 7000m như
những trụ trời.
2) Cơ sở
dân cư:
Trên cơ sở những điều kiện tự nhiên như vậy,
cư dân ở phương Đông ra đời sớm và phát triển nhanh chóng. Tuy nhiên, quá trình
hình thành các cộng đồng dân cư ở phương Đông diễn ra rất đa dạng và phức tạp.
Cụ thể:
-
Ai Cập: Ở lưu vực sông Nile từ thời đồ đá cũ
đã có con người sinh sống. người Ai Cập thời cổ là những thổ dân châu Phi, hình
thành trên cơ sở hỗn hợp rất nhiều bộ lạc. Do đi lại săn bắn trên lục địa, khi
đến vùng thung lũng sông Nile , họ định cư ở
đây phát triển nghề nông và nghề chăn nuôi từ rất sớm. Về sau, một chi của bộ tộc
Hamites từ Tây Á xâm nhập vùng hạ lưu sông Nile ,
chinh phục thổ dân người châu Phi ở đây. Trải qua quá trình hỗn hợp lâu dài,
người Hamites và thổ dân đã đồng hóa với nhau, hình thành ra một tộc người mới,
đó là người Ai Cập.
-
Lưỡng Hà: Người Sumer từ
thiên niên kỉ IV.TCN đã di cư tới đây và sáng lập ra nền văn minh đầu tiên ở
lưu vực Lưỡng Hà, chung sống và đồng hóa với người Sumer . Ngoài ra còn rất nhiều bộ lạc
thuộc nhiều ngữ hệ khác nhau ở các vùng xung quanh di cư đến. Trải hàng ngàn
năm, qua quá trình lao động, họ đã hòa nhập thành một cộng đồng dân cư ổn định
và xây dựng nên nền văn minh rực rỡ ở khu vực Tây Á.
-
Ấn Độ: Cư dân Ấn Độ đa dạng về tộc người và ngôn ngữ. Có hai chủng tộc chính là
người Dravida chủ yếu cư trú ở miền Nam, và người Aria cư trú ở miền Bắc. Ngoài
ra còn có nhiều tộc người khác như người Hy Lạp, Hung Nô, Arập cũng sinh sống ở
đây…
-
Trung Quốc: Do điều kiện tự nhiên thuận lợi, từ xa xưa, vùng châu thổ Hoàng Hà
đã là quê hương của các bộ tộc Hạ, Thương, Chu .
Họ chính là tổ tiên của dân tộc Hán – người sáng tạo ra nền văn minh Hoa Hạ.
Phía Tây và Tây Nam là
nơi sinh sống của các bộ tộc thuộc ngữ hệ Hán – Tạng, Môn – Khmer
Phía Bắc, Đông Bắc là
nơi cư trú của các bộ tộc thuộc ngữ hệ Tungut. Con cháu của họ sau này là các
dân tộc ít người như Mông Cổ (lập ra nhà Nguyên), Mãn (lập ra triều Mãn Thanh),
Choang, Ngô, Nhĩ… các dân tộc trên đất này còn rất nhiều dân tộc khác sinh sống,
cùng người Hán xây dựng đất nước.
3) Cơ sở
kinh tế:
-
Về kinh tế, các quốc gia cổ đại phương Đông ra đời ở thời kì mà sức sản xuất xã
hội đang ở trình độ hết sức thấp kém. Với một trình độ sản xuất như vậy không
cho phép các quốc gia cổ đại phương Đông phát triển chế độ chiếm hữu nô lệ của
mình một cách thuần thục và điển hình.
-
Sự phát triển rất yếu ớt chế độ tư hữu ruộng đất và sự tồn tại dai dẳng những tổ
chức công xã nông thôn, tàn tích của xã hội thị tộc nguyên thủy có thể coi là
những nguyên nhân gây nên tình trạng trì trệ, yếu kém của các nền văn minh cổ đại
phương Đông.
4) Cơ sở chính
trị-xã hội:
-
Ở phương Đông ra đời và tồn tại một hình thức nhà nước đặc thù, nhà nước quân
chủ chuyên chế trung ương tập quyền mà mọi quyền lực đều ở trong tay nhà vua và
một bộ máy quan lại cồng kềnh, quan liêu.
-
Các quốc gia cổ đại phương Đông đã duy trì lâu dài chế độ nô lệ gia trưởng và
các hình thức áp bức bóc lột kiểu gia trưởng nên vai trò của nô lệ trong xã hội
chưa nổi bật.
Chính trên cơ sở như vậy
mà nền văn minh phương Đông ra đời và phát triển và cũng chính các yếu tố đó đã
ảnh hưởng, chi phối tạo nên những nét đặc thù của nền văn minh phương Đông.
Vấn đề thứ 2
Trình
độ sản xuất và chinh phục tự nhiên
của
các quốc gia phương Đông
Trên cơ sở điều kiện tự
nhiên thuận lợi, cư dân phương Đông cổ đại đã sớm biết lợi dụng điều kiện tự
nhiên để sản xuất, chế tạo công cụ lao động, chinh phục tự nhiên xây dựng những
nền văn minh đầu tiên trên thế giới.
- Muốn chinh phục được tự
nhiên, con người phải có công cụ lao động, bởi công cụ lao động là tiêu chí để
đánh giá trình độ sản xuất của một xã hội.
Ngay từ thời nguyên thủy
con người đã biết chế tạo công cụ lao động, từ những công cụ thô sơ bằng đá, gốm
đến những công cụ bằng đồng, sắt… đã cho phép con người tạo ra một năng suất
lao động ngày càng cao.
Người Ai Cập ngay từ thời
Cổ vương quốc đã biết dùng cuốc bằng đá hoặc bằng gỗ để trồng trọt, dùng liềm bằng
đá để gặt lúa, dùng trâu bò để đập lúa. Thời Trung vương quốc, người ta đã biết
mở rộng các công trình thủy lợi thành một hệ thống rộng lớn với nhiều công dụng
khác nhau như điều tiết thủy lượng, dẫn, tháo nước để chống hạn và chống úng…
người Ai Cập còn biết xây hồ Mơrit thành một bể chứa nước lớn ăn thông với sông
Nile, có khả năng cung cấp nước cho một vùng rộng lớn có thể gieo trông hai vụ
trong năm.
Ở Lưỡng Hà người ta đã
xây dựng một hệ thống đê điều hoàn chỉnh gồm đập nước, mương dẫn… như mạng nhện.Từ
đầu thiên niên kỉ II, người Ấn Độ đã biết dùng lưỡi cày bằng đá để cày ruộng.Còn
ở Trung Quốc, thời Ân-Thương người ta dùng liềm bằng đá hoặc vỏ ngao để gặt
lúa, dùng lưỡi cày bằng gỗ. Sang thời Xuân Thu, người ta đã biết dùng những
công cụ bằng sát, có những lò luyện sắt có trên 300 công nhân.
Những công cụ bằng kim
loại đã cho phép con người nâng cao năng suất lao động.
- Bên cạnh việc sáng tạo
ra những công cụ lao động, cư dân cổ đại phương Đông cũng đã đạt một trình độ tổ
chức sản xuất tương đối cao.
Do yêu cầu phải hợp sức
với nhau để xây dựng các công trình thủy lợi nên việc tổ chức sản xuất là một
công việc rất cần thiết để thống nhất kế hoạch, và tập trung sức sản xuất.
Ở Ai Cập vào thời Tân
vương quốc, sản xuất đã được chuyên môn hóa và được phân công tỉ mỉ. Có Thừa tướng
là (Vidia) chịu trách nhiệm quan sát, điều hành sản xuất nông nghiệp trong toàn
quốc. việc tổ chức điều hành sản xuất trong toàn quốc có ý nghĩa sống càn đối với
các quốc gia phương Đông cổ đại, bởi vì nền văn minh phương Đông chủ yếu hình
thành trên lưu vực của những con sông lớn. Nhà nước đã đứng ra huy động sức người
sức của để xây dựng và bảo vệ các công trình thủy lợi.
- Các quốc gia cổ đại
phương Đông cũng đã biết thuần dưỡng súc vật làm vật nuôi phục vụ sản xuất và
cung cấp thực phẩm cho đời sống hằng ngày.
- Nhờ quan tâm đến sản
xuất nông nghiệp mà trình độ tổ chức sản xuất của nhà nước và công xã nông thôn
được nâng cao đem lại hiệu quả đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của cư dân. Trong
những ngành thủ công nghiệp người ta cũng đã biết làm đồ gốm, đồ thủy tinh, thuộc
da, dệt …. ở Ấn Độ người ta đã biết làm đồ trang sức tinh xảo và chạm trổ trên
đá.
- Nhờ sản phẩm của nông
nghiệp và thủ công nghiệp phát triển đã thúc đẩy việc giao lưu buôn bán với các
nước. Từ chổ chỉ dùng vật trung gian để trao đổi, người ta đã biết chế ra tiền
bằng đồng và bằng vàng thuận tiện cho việc buôn bán. Việc mở rộng giao lưu buôn
bán giữa các quốc gia đã tạo điều kiện để giao lưu văn hóa và thúc đẩy sản xuất
làm cho xã hội phương Đông cổ đại phát triển ngày càng cao hơn.
Vấn đề thứ 3
Sự ra đời
của nhà nước và trình độ quản lý xã hội của các quốc gia phương Đông
Nhà nước xuất hiện lần đầu
tiên trong lịch sử vào khoảng cuối thiên niên kỉ IV - đầu thiên niên kỉ
III.TCN. Những nhà nước cổ đại Ai Cập, Lưỡng Hà, Trung Quốc, Ấn Độ … là những
nơi có điều kiện thiên nhiên thuận lợi cho sự phát triển kinh tế nông nghiệp,
nơi mà quá trình phân hóa xã hội, tập trung của cải tư hữu và đấu tranh giai cấp
diễn ra sớm nhất.
- Do nhu cầu chống chọi
với thiên nhiên và tổ chức sản xuất mà các nhà nước phương Đông đã ra đời.
Vào nửa sau thiên niên kỉ
IV. TCN, cư dân Lưỡng Hà đã bắt đầu xây dựng nhà nước của mình trên cơ sở chế độ
chiếm hữu nô lệ. Mỗi thành thị kết hợp với vùng đất đai phụ cận hợp thành một
quốc gia nhỏ. Đứng đầu mỗi quốc gia là một ông vua gọi là Patesi. Patesi lúc đầu
do quý tộc bầu ra, về sau trở thành cha truyền con nối. Patesi đại diện cho nhà
nước chịu trách nhiệm trước Thần coi sóc các công trình thủy lợi, quản lý kinh
tế, chỉ huy đội quân. Ở Sumer ,
ngoài Patesi còn có hội nghị nhân dân và hội đồng bô lão. Các cơ quan này bầu
ra các quan chức của tòa án, và bộ máy hành chính cũng như có quyền tuyên chiến
hay hòa hoãn.
Ở Ai Cập, nhiều công xã
nông thôn liên minh lại thành một liên minh công xã lớn hơn gọi là “nôm” (hay
châu), về sau các châu đó hợp nhất lại và phát triển thành nhà nước Ai Cập.
Châu là hình thức nhà nước phôi thai, đứng đầu châu là một “nômáccơ” vưa là thủ
lĩnh quân sự, một thẩm phán và là một tăng lữ tối cao. Nômáccơ đước coi như một
vị thần sống. Dần dần do nhu cầu thống nhất lại thành thượng và hạ Ai Cập, đến
cuối thiên niên kỉ IV.TCN thống nhất lại thành quốc gia Ai Cập.
Ở Ấn Độ, người Arian ở
vùng Tây Bắc đã liên hiệp các bộ lạc lại thành liên minh bộ lạc. Đứng đầu các
liên minh bộ lạc có vua (Radjah) mà thực chất là tù trưởng hay thủ lĩnh quân sự,
quyền lực chủ yếu vẫn thuộc về đại hội các thành viên nam giới của bộ lạc. Về
sau Radjah tập trung quyền lực vào trong tay mình và truyền ngôi cho con cháu.
Xung quanh nhà vua có đội ngũ quan lại lo các công việc như chỉ huy quân đội,
thu thuế, tế lễ, thủy lợi… Đến vương triều Môria (321-184.TCN), bộ máy nhà nước
của Ấn Độ cổ đại tương đối hoàn chỉnh có những đặc trương của một bộ máy nhà nước
chuyên chế phương Đông. Vua được tôn sùng như một vị thần sống và được coi như
người đại diện cho thần. Dưới nhà vua là hội đồng cơ mật “Parisát” gồm đại biểu
của những gia đình quý tộc tiếng tăm nhất. Trong bộ máy nhà nước cồng kềnh, đứng
đầu là các thừa Tướng cùng nhiều chức thượng thư trông coi các bộ.
Đơn vị hành chính cơ sở ở
địa phương là làng. Ấn Độ được chia thành nhiều khu vực hành chính lớn nhỏ khac
nhau, đứng đầu các khu vực hành chính đó là những người trong hoàng tộc hoặc cận
thần được nhà vua tin cẩn. Nhà vua cũng có một đội quân hùng hậu gồm đủ các
binh chủng như bộ binh, kị binh, tượng binh…
Ở Trung Quốc bộ máy nhà
nước cũng tiêu biểu cho kiểu nhà nước chuyên chế phương Đông. Nhà Hạ mở đầu cho
nhà nước chiếm hữu nô lệ ở Trung Quốc. Đứng đầu nhà nước là nhà vua, dưới là “lục
khanh” (6 chức tướng) giúp vua cai trị đất nước. Nhưng nhà nước hoàn chỉnh nhất
là vào thời Tây Chu. Vua được coi là thiên tử (con trời), dưới vua là tầng lớp
quý tộc quan lại phụ trách các công việc hành chính, quân đội, nông nghiệp… Vua
và tước hiệu quý tộc được truyền lại cho con cháu.
Như vậy, ở phương Đông cổ
đại đã xuất hiện và tồn tại một hình thức nhà nước đặc biệt.Nhà nước quân chủ
chuyên chế trung ương tập quyền, còn gọi là chủ nghĩa chuyên chế phương Đông. Đặc
trưng của kiểu nhà nước này là quyền lực vô hạn của nhà vua về thần dân và ruộng
đất. Nhà vua đã cùng với bộ máy quan lại tổ chức quản lí xã hội tương đối chặt
chẽ từ trung ương đến địa phương, trong đó hình pháp được đề cao.
Việc xuất hiện nhà nước
và trình độ tổ chức quản lí xã hội ở phương Đông cổ đại đã góp phần xây dựng
nên những nền văn minh rực rỡ ở khu vực này.
Vấn đề thứ 4
Những đặc điểm của văn minh phương
Đông
Văn minh phương Đông rất rộng lớn về quy mô,
lãnh thổ, rất đa dạng về màu sắc và có sự tồn tại rất lâu dài về mặt lịch sử.
Khái quát cho đúng, cho hết những đặc điểm của văn minh phương Đông quả là một
công việc không hề đơn giản, nếu không nói là hết sức khó khăn. Đây là vấn đề
phức tạp và còn phải nghiên cứu nhiều. Ở đây chúng tôi mới chỉ tập hợp và nêu
lên một số nhận xét bước đầu.
1. Văn minh phương Đông mang đậm tính chất văn
minh nông nghiệp, văn minh sông nước.
Tính chất nông nghiệp, sông nước là đặc
điểm nổi bật nhất, là bản sắc dễ thấy nhất của văn minh phương Đông. Đặc điểm
này thuộc về loại hình văn minh: Văn minh phương Đông chủ yếu là văn minh gốc
nông nghiệp, trong khi văn minh phương Tây chủ yếu thuộc loại hình gốc du mục
và thương nghiệp. Tất nhiên nói như thế không có nghĩa là trong văn minh phương
Đông không có các yếu tố du mục và thương nghiệp nhưng nhìn một cách tổng thể
thì tính chất nông nghiệp, tính sông nước là nét chủ đạo.
a)
Điều kiện địa lí tự nhiên của các quốc gia phương Đông nói chung đều thuận lợi
cho sự phát triển nông nghiệp. Biểu hiện rõ nhất của các điều kiện này là sự có mặt của những con sông
lớn: Sông Nile ở Bắc Phi; sông Tigrơ, sông Ơphơrat ở Tây Á; sông Ấn (Hindus),
sông Hằng (Gangga) ở Ấn Độ; sông Hoàng Hà, sông Dương Tử (Trường Giang) ở Trung
Quốc; sông Mekong ở bán đảo Trung - Ấn, sông Menam ở Thái Lan, sông Hồng ở
Trung Quốc, Việt Nam, v.v. Lưu vực các con sông này tạo ra những đồng bằng rộng
lớn, vựa lúa của phương Đông và thế giới. Và cũng chính từ các dòng sông ấy đã
xuất hiện các nhà nước cổ đại – các nền văn minh phương Đông. Rõ ràng không phải
ngẫu nhiên mà người ta lại đưa ra các cụm từ như “văn minh sông Nile”, “văn
minh sông Hoàng Hà, Trường Giang”, “văn minh sông Ấn-sông Hằng”, v.v. Có thể
nói, ngay từ đầu, văn minh phương Đông đã là văn minh nông nghiệp. Và đặc điểm
này “đeo đuổi” văn minh phương Đông cho đến tận ngày nay.
Như vậy rõ ràng là sản xuất nông nghiệp gắn
chặt với các quốc gia phương Đông, và đó là cơ sở tạo ra tính chất nông nghiệp-
sông nước của văn minh phương Đông.
b) Tính chất nông nghiệp – sông nước được
thể hiện ở rất nhiều bình diện văn minh và là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình
phát triển của các nền văn minh phương Đông.
Những biểu hiện của tính chất nông nghiệp-sông nước của văn minh phương Đông rất
đa dạng. Có thể nêu ra ở đây một vài ví dụ.
Trước hết xin nói về văn hoá vật chất
liên quan đến những nhu cầu thiết yếu nhất của con người, đó là ăn, mặc, ở, đi
lại.
Nguồn lương thực chính của người phương Đông
chủ yếu là lúa gạo và các loại ngũ cốc do nền sản xuất nông nghiệp tạo ra. Người
phương Đông thường ăn cơm với các loại thực phẩm mang tính tự cung tự cấp như
rau, cá và một số loại thịt gia cầm. Các loại gia vị, hương liệu như ớt, tiêu,
rau thơm, cari, v.v. vốn là sản phẩm của sản xuất nông nghiệp cũng được dùng phổ
biến ở nhiều nơi.
Cách ăn mặc của cư dân phương Đông cũng phù
hợp với công việc sản xuất nông nghiệp: Nói chung mặc ấm về mùa lạnh (hoặc ở xứ
lạnh) và mát mẻ về mùa nóng (hoặc ở xứ nóng); mặc gọn gàng, tiện lợi (khố, váy,
v.v.).
Nói chung, trừ một số khu vực dân cư theo loại
hình kinh tế du mục nên ở lều di động, đa số cư dân còn lại sống trong một ngôi
nhà cố định. Đó có thể là nhà “nửa nổi nửa chìm”, tức là đào sâu xuống lòng đất
một chút, hoặc là ngôi nhà sàn tiện lợi về mọi mặt.
Trong số các phương tiện đi lại thì thuyền
phổ biến ở nhiều nơi, và hình thức di chuyển này ở phương Đông rõ ràng trước hết
gắn với sông nước, sau đó mới đến yếu tố thương mại.
Tính chất nông nghiệp của văn minh phương
Đông còn được biểu hiện ở các tín ngưỡng và sinh hoạt văn hoá dân gian rất độc
đáo của cư dân phương Đông.
Có thể nói bao trùm lên đời sống cư dân nông
nghiệp phương Đông là niềm tin tín ngưỡng và các sinh hoạt văn hoá dân gian như
lễ hội... Tín ngưỡng là cội nguồn của lễ hội. Lễ hội vừa là dịp tiến hành các
nghi lễ có tính ma thuật để cầu xin thần linh giúp đỡ, xua đuổi tà ma, vừa là dịp
để người dân vui chơi giải trí.
Trong số các loại tín ngưỡng tồn tại ở
phương Đông, phổ biến nhất là tín ngưỡng sùng bái tự nhiên. Điều này
hoàn toàn có cơ sở bởi sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ở thời kì sơ khai
khi khoa học kĩ thuật chưa phát triển, gần như tất cả đều phụ thuộc vào thiên
nhiên, vào ý Trời. Vì vậy, ở khắp nơi, từ Đông Bắc Phi-Tây Á đến lưu vực sông
Hoàng Hà rộng lớn v.v. đâu đâu người ta cũng thờ cúng các vị Thần liên quan đến
sản xuất nông nghiệp như Thần Mặt trời, Thần Đất, Thần Nước, Thần Lúa, Thần
Gió, Thần Sông...
Gắn liền với tín ngưỡng sùng bái tự nhiên là
hàng loạt các lễ hội nông nghiệp như lễ hội té nước, lễ hội cầu mưa, cầu nắng,
hội đua thuyền, lễ tịch điền, lễ hội mừng được mùa...
Nông nghiệp gắn liền với nông thôn. Tính chất
nông nghiệp của phương Đông được nảy sinh, nuôi dưỡng và phát triển trong một
mô hình xã hội đặc biệt: mô hình làng xã. Các công xã nông thôn, theo cách nói
của K. Marx, có ảnh hưởng rất sâu đậm đến đời sống của cư dân nông nghiệp
phương Đông.
2. Văn minh phương
Đông nặng về tính cộng đồng
Trong sản xuất nông nghiệp, các gia đình
nông dân cùng canh tác trên một cánh đồng, ruộng đất nhà này tiếp giáp ruộng đất
nhà kia. Để có được năng suất, những người nông dân trong làng không thể không
liên kết với nhau. Chỉ có đoàn kết con người mới chống được thiên tai. Muốn chống
hạn, diệt sâu bọ,... cũng cần sức mạnh của cả làng. Môi trường canh tác mang
tính tập thể như thế chính là cơ sở để nảy sinh tính cộng đồng.
Đặc trưng này của văn minh phương Đông khiến
mỗi người khi hành động luôn luôn phải nghĩ đến cộng đồng, đến tập thể, xã hội.
Trong làng, người dân thường tránh những việc làm phương hại đến tập thể. Từ
đây nảy sinh quan điểm sống vì tập thể. Vì tập thể, người ta sẵn sàng hi sinh lợi
ích cá nhân. Cũng vì thế mà người phương Đông thường đề cao nghĩa vụ, trách
nhiệm (trong khi phương Tây thì coi trọng quyền lợi). Quả thực, trong việc
chống chọi với thiên tai, địch hoạ, nếu không có tinh thần trách nhiệm được đề lên
thành nghĩa vụ thì không thể có được chiến thắng.
Từ tính cộng đồng, từ sự đùm bọc làng xã,
sau này truyền thống tốt đẹp ấy phát triển thành tinh thần dân tộc và chủ
nghĩa yêu nước phương Đông.
Nếu so sánh với văn hoá phương Tây thì cũng
thấy một sự khác biệt nhất định. Có thể nói, trong quan hệ ứng xử, phương Tây
thiên về cá thể, trọng lí. Điều này có điểm mạnh là phát huy cao
độ sức sáng tạo cá nhân, tránh được sự dựa dẫm, ỷ lại.
Cũng có người cho rằng, ở phương Đông, tâm
thức duy cộng đồng luôn luôn chiếm ưu thế đối với tâm thức duy cá
nhân.
3. Hoà đồng, thuận tự
nhiên
Đặc điểm hoà đồng, thuận tự nhiên của
văn minh phương Đông thường được đặt trong sự so sánh với đặc điểm chinh phục
tự nhiên của văn hoá phương Tây. Văn hoá phương Tây thiên về giải thích, cải
tạo thế giới. Tất nhiên nói như trên không có nghĩa là đối lập tuyệt đối giữa
văn minh phương Đông và văn minh phương Tây trong vấn đề đối xử với môi trường
tự nhiên.
Thái độ hoà đồng với tự nhiên của văn minh
phương Đông đã được hình thành từ rất lâu và định hình trên cơ sở của những
quan niệm về con người trong các học thuyết phương Đông. Theo nhiều tác giả,
con người trong quan niệm của tất cả các tôn giáo phương Đông và trong hầu hết
các học thuyết triết học phương Đông truyền thống đều không đối lập với giới tự
nhiên. Nó luôn luôn được coi là một thành tố, một bộ phận của giới tự nhiên.
Có thể cắt nghĩa đặc điểm hoà đồng, thuận tự
nhiên bằng cơ sở kinh tế – xã hội của phương Đông.
Trước hết có thể giải thích bằng nền sản
xuất nông nghiệp. Như đã nói ở trên, sản xuất nông nghiệp phụ thuộc rất nhiều
vào thiên nhiên. Bởi vậy từ trong tâm khảm của người dân, tự nhiên là đấng tối
cao. Sản xuất nông nghiệp chỉ có thể đạt hiệu quả khi thuận theo tự nhiên.
Một trong những biểu hiện của sự thuận theo ấy là tính thời vụ. Có thể
nói, kinh nghiệm sống, nói cụ thể hơn là kinh nghiệm sản xuất, đã khiến cư dân
nông nghiệp phương Đông phải hành động thuận theo tự nhiên. Trái ý tự nhiên,
trái ý Trời sẽ bị trả giá. Không còn cách nào khác, Nhật Bản vẫn phải “sống
chung với động đất”, Indonesia
phải “sống chung với núi lửa”, Philippines
phải “sống chung với bão” còn đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam
thì phải chấp nhận “sống chung với lũ” như là một lẽ tự nhiên.
Một lí do khác nữa cắt nghĩa cho đặc điểm
hoà đồng, thuận tự nhiên là ở tổ chức của xã hội truyền thống phương Đông,
đó là xã hội nông nghiệp với chế độ công xã nông thôn. Chế độ này, như
đã nói, mang lại cho mỗi đơn vị nhỏ bé (làng xã) một cuộc sống cô lập, tách biệt.
Công xã tổ chức theo lối gia đình tự cấp, tự túc. Con người bị trói buộc bởi những
quy tắc truyền thống, do đó hạn chế sự phát triển của lí trí, từ đó rất
dễ trở thành nô lệ của những điều mê tín dị đoan. Những công xã nông
thôn phương Đông, do vậy, hạn chế con người ở việc chủ yếu phục tùng những hoàn
cảnh bên ngoài, phục tùng tự nhiên chứ không có ý thức và năng lực làm chủ hoàn
cảnh, chinh phục tự nhiên. Đây cũng chính là lí do để chế độ chuyên chế
phương Đông tồn tại và phát triển.
4. Văn minh phương
Đông hướng nội và khép kín
Cuộc sống nông nghiệp luôn luôn cần một sự ổn
định. Người dân thường rất sợ những điều xảy ra bất thường. Lối sống hài hoà với
tự nhiên, tình cảm với mọi người, suy cho cùng, cũng là nhằm đạt tới sự ổn định.
Từ đây xuất hiện phương thức sống hướng nội và khép kín.
Sống trong các công xã nông thôn cô lập,
tách biệt, xét ở một góc độ nào đó, tính tự trị đồng nghĩa với hướng nội và
khép kín. Trong xã hội phong kiến, mô hình làng xã “kín cổng cao tường”
cùng với những thiết chế xã hội ngặt nghèo của nó càng làm cho “tầm nhìn” của
cư dân nông nghiệp không vượt khỏi “lũy tre làng”.
Nền nông nghiệp tự cấp tự túc chỉ tạo ra được
những sản phẩm vừa đủ để lưu thông trong phạm vi “chợ làng”, không trở thành
hàng hoá thương nghiệp của nền kinh tế thị trường kiểu phương Tây. Đó cũng là
hướng nội, khép kín.
Lối sống hướng nội và khép kín không thể tạo
ra sự phát triển đột biến. Có lẽ đây cũng là một trong nhiều nguyên nhân làm
cho chế độ phong kiến phương Đông kéo dài sự trì trệ nhiều thế kỉ.
Trái với phương Đông, phương Tây hướng ngoại
và cởi mở. Điều này cũng dễ hiểu. Ở đó nền kinh tế thương mại và du mục
buộc người ta phải năng động, phải đi tìm thị trường ở bên ngoài và mở rộng
quan hệ.
Vấn đề
thứ 5
Lịch sử hình thành các nền văn
minh phương Đông
1. Phương Đông là nơi có điều kiện tự nhiên
phong phú và đa dạng. Vì vậy, ngay từ khi có xã hội loài người, nơi đây đã từng
là khu vực sinh tồn của bầy người nguyên thuỷ. Rồi theo sự phát triển của lịch
sử, ở phương Đông dần dần xuất hiện công xã thị tộc, bộ lạc và sau đó là các
nhà nước.
Ngày nay các nhà khoa học đã khẳng định một
cách chắc chắn rằng phương Đông là nơi xuất hiện những nhà nước chiếm hữu nô
lệ tối cổ. Các nhà nước ấy chính là các nền văn minh. Người ta thường nói đến
bốn nền văn minh Phương Đông: Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ và Trung Quốc. Và có một
nét đặc biệt là những nhà nước gắn liền với các nền văn minh phương Đông thường
xuất hiện trên lưu vực những dòng sông lớn từ bờ biển phía đông Địa Trung Hải đến
bờ biển Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương: Lưu vực sông Nin ở Ai Cập; lưu vực Lưỡng
Hà tạo bởi sông Tigrơ (Tigre) và Ơphơrat (Euphrate) cùng chảy ra vịnh Persi;
lưu vực đồng bằng Bắc Ấn Độ tạo bởi sông Ấn (Hindus) và sông Hằng (Gangga); và
lưu vực hai con sông lớn Hoàng Hà và Dương Tử (Trường Giang) tạo ra vùng đồng bằng
Hoa Bắc và Hoa Trung màu mỡ. Phân lập các lưu vực rộng lớn nói trên là những hệ
thống núi non trùng điệp và những sa mạc mênh mông: sa mạc Arập ở đông Ai Cập,
dãy núi Zagrôt ở phía đông Lưỡng Hà, dãy Himalaya và cao nguyên Pamir ở bắc và
đông bắc Ấn Độ, rồi vùng sa mạc Nội Mông, Ngoại Mông ở Bắc và Tây Bắc Trung
Hoa. Địa thế hiểm trở cùng với những phương tiện giao thông hết sức hạn chế thời
đó đã làm cho các nền văn minh cổ đại phương Đông xuất hiện và phát triển một
cách tương đối độc lập, vì vậy mỗi nền văn minh có tính chất độc đáo riêng và
mang dấu ấn dân tộc đậm đà.
Nói chung, các lưu vực sông ở phương Đông
nói trên đều tạo thành những đồng bằng rộng lớn và phì nhiêu, rất phù hợp với sự
phát triển của nông nghiệp. Ở đây, điều kiện tự nhiên thuận lợi: thuỷ lượng
cao, khí hậu ấm áp, đất đai màu mỡ, dễ canh tác. Chính vì vậy cư dân các khu vực
nói trên đã sớm gắn bó với việc sản xuất nông nghiệp, nhất là nghề trồng lúa nước.
Bên cạnh trồng trọt, các gia đình còn chăn nuôi gia súc và gia cầm, một số làm
các nghề thủ công như sản xuất nông cụ, dệt vải, làm đồ gốm, v.v. Tuy nhiên nghề
thủ công phương Đông chỉ có tính chất bổ trợ cho nền kinh tế khép kín của làng
xã, không phát triển thành kinh tế hàng hoá thị trường. Như vậy là kinh tế nông
nghiệp đóng vai trò chủ đạo của các quốc gia phương Đông.
2. Phương Đông bước vào xã hội chiếm hữu
nô lệ – xã hội có giai cấp đầu tiên trong lịch sử phát triển của nhân loại
– tương đối sớm. Điều này cũng dễ hiểu. Như trên đã nói, nông nghiệp ở
phương Đông ra đời sớm và giữ vai trò chủ đạo. Khi nông nghiệp phát triển thì tổ
chức xã hội cũng phát triển, dẫn đến việc xã hội sớm phân hoá thành giai cấp và
hệ quả là nhà nước sớm ra đời. Thời gian xuất hiện nhà nước phương Đông cổ đại
sớm nhất (dưới hình thức nhà nước chiếm hữu nô lệ) là vào khoảng thế kỉ thứ IV
TCN. Dĩ nhiên các nhà nước chiếm hữu nô lệ không ra đời cùng một lúc và cũng
không chấm dứt cùng một lúc. Ra đời sớm nhất là nhà nước chiếm hữu nô lệ ở Ai Cập
và Lưỡng Hà (thế kỉ thứ IV TCN), sau đó mới đến các nhà nước ở khu vực sông Ấn,
sông Hằng và Hoàng Hà, Dương Tử (thế kỉ thứ III TCN). Về sự “lụi tàn” của các
nhà nước chiếm hữu nô lệ phương Đông cũng tương tự. Nếu như đế quốc Ba Tư ở
vùng Trung Cận Đông sụp đổ ngay từ thế kỉ thứ IV TCN thì nhà nước cổ đại Ấn Độ
còn kéo dài mãi đến tận những thế kỉ đầu công nguyên.
Các nhà nước cổ đại phương Đông không chỉ có
những đặc trưng chung của một xã hội chiếm hữu nô lệ mà còn có những đặc điểm
riêng mang màu sắc phương Đông, như sau.
- Do các quốc gia cổ đại phương Đông ra đời ở
thời kì mà sức sản xuất xã hội đang còn ở trình độ thấp kém, tức là ở giai đoạn
cuối của thời đại đồ đá mới, nên xã hội chiếm hữu nô lệ không thể phát triển
nhanh chóng, khiến các quốc gia đó, nói chung, không trở thành những xã hội chiếm
hữu nô lệ phát triển thành thục và điển hình.
- Sự tồn tại dai dẳng và ngoan cố của các tổ
chức công xã nông thôn, tàn tích của xã hội thị tộc thời nguyên thuỷ, và sự
phát triển rất yếu ớt của chế độ tư hữu về ruộng đất trong các xã hội cổ đại
phương Đông.
- Sự bảo tồn lâu dài của chế độ nô lệ gia
trưởng và của các hình thức áp bức, bóc lột kiểu gia trưởng, việc sử dụng lao động
của nô lệ chưa được phổ cập trong các ngành sản xuất xã hội và vai trò của nô lệ
trong sản xuất kinh tế chưa chiếm vị trí chủ đạo. Nô lệ phương Đông không phải
là lực lượng chính làm ra của cải vật chất. Tuyệt đại đa số nô lệ được sử dụng
để hầu hạ, phục dịch trong các gia đình quan lại, chủ nô quyền quý. Điều này
cũng dễ hiểu bởi ở các quốc gia nông nghiệp phương Đông, nhà nước bóc lột nông
dân là chính, bằng chế độ lao dịch, thuế khoá.
- Sự xuất hiện và phát triển mạnh của một
hình thức tổ chức nhà nước đặc biệt - nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập
quyền – gọi là chủ nghĩa chuyên chế phương Đông. Các quốc gia phương
Đông sở dĩ thiết lập được thiết chế chính trị này bởi vua các nước đó nắm được
quyền sở hữu tối cao về ruộng đất và về thần dân trong cả nước. Có thể nói khắp
dưới gầm trời không đâu không phải đất nhà vua, khắp dưới mặt đất không đâu
không phải thần dân của nhà vua. Do nắm được tư liệu sản xuất là toàn bộ ruộng
đất nên các nhà vua đã dùng nó để ràng buộc các thần dân và nắm trọn quyền
chính trị. Một lí do nữa về sự tồn tại của nhà nước quân chủ chuyên chế trung
ương tập quyền là yêu cầu của việc trị thuỷ, đắp đê phòng lụt, bảo vệ mùa màng.
Nhu cầu này đòi hỏi phải tập trung quyền lực vào trung ương để có thể huy động
được sức người sức của, nhân tài vật lực. Ngoài ra các nhà nước chiếm hữu nô lệ
phương Đông còn phải tiến hành các cuộc chiến tranh để mở rộng bờ cõi hoặc bảo
vệ lãnh thổ của mình, do đó cũng cần phải tập trung quyền lực vào tay trung
ương để huy động lực lượng vật chất và tinh thần.
Tóm lại, với bộ máy bạo lực to lớn, với việc
đề cao đến mức thần thánh hoá nhà vua, các nhà nước chiếm hữu nô lệ phương Đông
đã phục vụ đắc lực cho giai cấp chủ nô, bảo vệ quyền lợi và tài sản của giai cấp
thống trị, đàn áp những cuộc khởi nghĩa của nông dân, giữ vững địa vị thống trị
của chủ nô. Tuy nhiên cũng cần nhấn mạnh rằng các nhà nước chiếm hữu nô lệ
phương Đông đã làm nòng cốt cho nhân dân xây dựng, phát triển được những nền
văn hoá đa dạng, độc đáo, với nhiều thành tựu rực rỡ về chữ viết, văn học nghệ
thuật, khoa học tự nhiên, triết học, v.v. và hàng loạt những công trình văn hoá
vật chất đồ sộ vẫn sống mãi với thời gian. Những thành tựu văn hoá rực rỡ ấy đã
làm cho các quốc gia cổ đại phương Đông trở thành những trung tâm của các nền
văn minh thế giới cổ đại.
3. Vào những năm cuối cùng TCN hoặc những
năm đầu công nguyên, nhìn chung các quốc gia phương Đông đều kết thúc chế độ nô
lệ và lần lượt chuyển sang xã hội phong kiến.
Vào thời kì trung đại, nền kinh tế chủ yếu của
các nhà nước phong kiến phương Đông vẫn là nền kinh tế nông nghiệp, tự cung tự
cấp. Trong xã hội phong kiến, giai cấp phong kiến quý tộc và sau này thêm tầng
lớp địa chủ, là giai cấp nắm tư liệu sản xuất, nắm ruộng đất nên là giai cấp thống
trị. Giai cấp bị trị là nông dân. Ở phương Đông, khi kinh tế phong kiến là điền
trang thái ấp thì nông dân chịu thân phận nông nô còn khi kinh tế phong kiến
chuyển sang hình thức địa chủ thì nông dân trở thành tá điền.
Trong các nhà nước phong kiến phương Đông,
nhà nước phong kiến Trung Hoa là một điển hình. Đặc trưng của kiểu nhà nước này
là có một chính thể quân chủ chuyên chế tập quyền cao độ, hoàn hảo. Dưới
chế độ phong kiến, vua là người nắm trong tay toàn bộ quyền lực: lập pháp, hành
pháp, tư pháp. Vua được mệnh danh là Thiên tử. Và bộ máy nhà nước do vua đứng đầu
có một uy quyền vô cùng to lớn.
Trong lịch sử, chế độ phong kiến phương Đông
tồn tại dai dẳng: khoảng 20 thế kỉ (tính từ đầu công nguyên đến những năm đầu của
thế kỉ XX). Thời điểm bắt đầu suy thoái của của các nhà nước phong kiến phương
Đông có thể tính từ thế kỉ XVI-XVII trở đi. Vào thời điểm đó, giai cấp phong kiến
phương Đông trở nên phản động, kìm hãm sự phát triển của đất nước. Các nhà nước
phong kiến phương Đông vẫn duy trì tình trạng kinh tế tự cung tự cấp, kinh tế
nông nghiệp lạc hậu, bóp chết những mầm mống của nền kinh tế hàng hoá và những
quan hệ sản xuất mới - quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Hơn nữa các nhà nước còn thi hành chính sách
bế quan toả cảng, đóng cửa, không giao lưu với thế giới bên ngoài. Trong khi đó
thì cũng đúng vào thời điểm ấy, các nước phương Tây tiến hành cách mạng tư sản,
xác lập chủ nghĩa tư bản và tiến hành xâm lược các nước nhằm mở rộng thị trường
mà đối tượng được chúng “để mắt đến” chính là các quốc gia phương Đông. Khi cuộc
chiến tranh xâm lược của phương Tây nổ ra, giai cấp phong kiến phương Đông nói
chung đều nhân nhượng, thoả hiệp và đầu hàng. Do vậy từ thế kỉ XVI đến XIX, trừ
Nhật Bản, tất cả các nước phương Đông đều bị biến thành nước nửa thuộc địa hoặc
thuộc địa của các nước tư bản phương Tây.
Nhìn chung, trong chế độ phong kiến, các nền
văn minh phương Đông vẫn toả sáng. Những “chiếc nôi” văn hoá cổ đại phương Đông
vẫn có sức lan toả mạnh mẽ ra các khu vực xung quanh: Nhiều yếu tố văn minh Ấn Độ được truyền bá
sang Đông Nam Á, Tây Tạng, Bắc Á, Đông Bắc Á và các khu vực khác trên thế giới;
văn minh Trung Quốc, đặc biệt là Nho giáo, có ảnh hưởng mạnh mẽ đến Nhật Bản,
Korea, Việt Nam và các nước khác; Văn hoá Ai Cập-Lưỡng Hà mặc dù tồn tại không
lâu song những thành tựu của nó không chỉ có ảnh hưởng trong khu vực mà còn toả
sáng ra các khu vực khác của thế giới, v.v. Cùng với sự lan toả của các nền văn
hoá cổ đại là sự xuất hiện của các nền văn hoá mới như Arập, Nhật Bản,
Korea, v.v. Bức tranh văn minh phương Đông, do vậy càng phong phú, đa dạng,
nhiều sắc vẻ. Thêm nữa, vừa đấu tranh chống lại sự đô hộ của chủ nghĩa tư bản
phương Tây, các dân tộc phương Đông vừa tiếp thu những yếu tố văn minh mới,
tiến bộ từ phương Tây để làm giàu cho văn minh của dân tộc mình. Văn minh
phương Đông từ đây càng ngày càng phát triển đa dạng và phong phu.
Vấn đề
thứ 6
Những hạn chế của nề văn minh
phương Đông
Văn minh phương Đông, như đã nói ở trên ở
trên, có nhiều thành tựu vĩ đại. Tuy nhiên văn minh phương Đông không phải
không có những hạn chế nhất định.Các hạn chế của văn minh phương Đông, suy cho
cùng, chủ yếu do đời sống nông nghiệp chi phối.
1 .Văn minh gốc nông nghiệp mang tính làng xã
của phương Đông đã tạo ra những hạn chế. Nền kinh tế nông nghiệp tự cung
tự cấp với tính tự trị làng xã buộc mỗi cá nhân, mỗi gia đình phải tự làm ăn, tự
lo liệu cuộc sống của mình. Do khoa học kĩ thuật chưa phát triển, sản xuất phụ
thuộc vào thiên nhiên nên người dân thường chỉ đủ ăn, đủ mặc. Đó là cơ sở tạo
ra tính tư hữu, tính ích kỉ, gắn với nó là tâm lí sợ người khác hơn
mình. Họ dễ bì tị, đố kị với những người giàu có, với những người có cuộc sống
dư dả hơn mình. Hơn nữa tính cộng đồng làng xã lại có mặt trái là dễ tạo ra thứ
chủ nghĩa tập thể bình quân, lối sống ỷ lại, dựa dẫm, cam phận trong cái
tôi nhỏ bé của mình, làm cản trở tính sáng tạo của mỗi cá nhân. Chính vì lối sống
ấy mà ý thức cá nhân trong mỗi con người không phát huy mạnh mẽ để trở thành ý
thức sáng tạo. Người ta không nghĩ hay không dám hướng đến một cung cách làm ăn
khác hơn để cải tiến cuộc sống đơn sơ, thiếu thốn của mình, và cam chịu, chấp
nhận nó như một điều tất yếu. Họ bằng lòng với cuộc sống theo cách thức sản xuất
mà ông cha để lại, không dám đi xa, mạo hiểm vì cả đời chỉ quen với làng xã và
mảnh ruộng cỏn con của mình. Thêm nữa lối sống nông nghiệp còn tạo ra cho người
nông dân tính cách lề mề, tuỳ tiện và sự yếu kém về tính tổ chức.
Nền sản xuất nông nghiệp vốn ít có những đòi hỏi khắt khe về thời gian, người
ta không phải lo cạnh tranh gay gắt, không bị ai thúc ép. Vì thế nên khi bước
vào xã hội hiện đại với yêu cầu phát triển công nghiệp thì tính cách tuỳ tiện,
thiếu kỉ luật, thiếu tính tổ chức mới bộc lộ tất cả những yếu kém của nó. Đó là
mặt hạn chế cơ bản của con người nông nghiệp phương Đông trong sự so sánh với
con người phương Tây vốn quen tác phong nhanh nhẹn, chính xác và làm việc hết
mình.
Tư tưởng cục bộ địa phương cũng là một hạn chế của con người nông nghiệp
quen sống trong cộng đồng làng xã mình mà ít mở rộng hiểu biết, giao tiếp ở phạm
vi rộng hơn, xa hơn. Tâm lí “người cùng làng” trong phạm vi cộng đồng có thể dễ
đố kị nhau nhưng khi ra ngoài làng thì họ lại bênh vực cho những người cùng
làng xã mình, hay có thể từ một việc va chạm nhỏ nhưng nếu động đến làng thì cả
làng sẵn sàng kéo nhau ra bảo vệ làng mình một cách cực đoan bất kể tốt, xấu,
phải, trái.
2. Như đã phân tích ở trên, xã hội nông nghiệp
với chế độ công xã nông thôn cô lập, tách biệt, cộng với những xiềng xích nô lệ
của các quy tắc hà khắc cổ truyền “đã làm hạn chế lí trí của con người
trong những khuôn khổ chật hẹp và trở thành công cụ ngoan ngoãn của mê tín. Những
công xã này chủ yếu làm cho con người phục tùng những hoàn cảnh bên ngoài chứ
không nâng con người lên địa vị làm chủ những hoàn cảnh ấy”.
Xã hội phương Đông, vì vậy, mang tính chất thụ
động, quân bình, ít thay đổi. Tình trạng tĩnh tại, trì trệ của xã hội
phương Đông kéo dài đến tận mươi năm đầu của thế kỉ XIX. Và đó chính là cơ sở
để chế độ chuyên chế phương Đông tồn tại quá dai dẳng, làm cản trở sự phát triển
của xã hội.
Lối tư duy thiên về trực giác của phương
Đông, ít óc duy lí, phân tích, mổ xẻ cũng phần nào làm cho khoa học kĩ thuật
không phát triển mạnh được như phương Tây. Những phát kiến về khoa học – kĩ thuật của phương Đông
trước đây chủ yếu gắn với sản xuất, nảy sinh từ sản xuất.Trên một ý nghĩa nào đấy,
đó cũng là một hạn chế của văn minh phương Đông.
3 Phương Đông đã có những tấm gương sáng về
sự phát triển vượt trội: Nhật Bản, Hàn
Quốc , Singapore ,...
Trong số những bài học có thể rút ra được từ các quốc gia nói trên có bài học về
giữ gìn bản sắc ưu việt của văn hoá truyền thống, loại bỏ những yếu tố văn
hoá lạc hậu, lỗi thời, hạn chế do nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu gắn liền với
công xã nông thôn quy định, và tiếp thu những yếu tố văn hoá mới, tiên tiến của
phương Tây. Nói cách khác, đồng thời với việc bảo tồn và phát huy những
thành quả, những yếu tố tích cực xây dựng một nền văn minh công nghiệp (và hậu
công nghiệp) tiên tiến cho sự phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia và
toàn khu vực.
Vấn đề thứ 7
Những thành tựu của văn minh phương Đông
(1) Những thành tựu về chữ
viết-văn học:
1. Ai Cập:
+ Ở giai đoạn đầu văn học mang đậm tính tôn giáo như ca ngợi các thần, miêu
tả nghi lễ thờ cúng và tang lễ. Đến thời Tân và Trung Vương quốc, văn học đã phản
ánh những mâu thuẫn xã hội, phê phán bọn quan lại và nói lên nỗi khổ của những
người lao động.
-
Tiêu biểu là các tác phẩm: “Truyện
kể của Lpouer”, “Truyện Sinouhé” (Xinuhê), tập truyện “Người nông phu biết nói
những điều hay” phê phán tầng lớp quan lại ức hiếp người dân và sự khốn khổ của
những người lao động.
-
Thơ ca trữ tình: Các bài
thơ ca ngợi tình yêu, và sự gắn bó giữa con người với thiên nhiên được tập hợp
trong cuốn “Papyrus Haris 500”.
-
Văn học mang tính chất triết
lí: Tiêu biểu là cuốn “Đối thoại một người thất vọng với linh hồn của mình”,
nói đến sự suy sụp của người Ai Cập trước sự đổ vỡ của các giá trị truyền thống,
tâm trạng chán đời.
+ Văn học Ai Cập đã có những bước tiến khá rõ rệt, từ những tác phẩm thô sơ
mang tính chất tôn giáo, đến chỗ xuất hiện nhiều tác phẩm với nhiều thể loại,
phản ánh tình hình xã hội, thể hiện sức sáng tạo kì diệu cỉa người Ai Cập cổ đại.
2. Lưỡng Hà:
+ Chữ viết
Chữ viết ở Lưỡng Hà xuất hiện từ khá sớm. Người Sumer sáng tạo ra chữ tượng
hình vào khoảng đầu TNK III.TCN. Đầu tiên người Sumer dùng những hình vẽ về sau
là những nét vạch hợp lại thành ý. Họ dùng một thanh gỗ hay sậy nhỏ, vót nhọn một
đầu, ấn trên phiên đất mềm tạo thành một đầu nhọn, đáy bằng, trở ngược thanh gỗ
vạch một đường thẳng, trông như mũi tên hay chiếc đinh. Một số chiếc đinh này tập
hợp lại thành từ.
Chữ
viết của người Lưỡng Hà được viết trên đất sét, mỗi tấm đất sét là một trang
sách. Chữ có hình như những góc nhọn, nên thường được gọi là chữ hình góc nhọn,
chữ hình nêm hay chữ tiết hình.
Rất nhiều dân tộc ở Tây Á thời cổ đại đã dùng loại chữ viết
này để ghi lại sinh hoạt kinh tế, xã hội và những diễn biến chính trị thời đó.
Vì vậy, có thể coi chữ viết của người Sumer phát minh ra là nguồn gốc của nhiều
chữ viết khác của người Akkad, Babylone, Hittiles, Assyria, Ba Tư.
+ Văn học:
Văn học Lưỡng Hà phong phú về nội dung và thể loại, với nhiều tác phẩm có
giá trị nghệ thuật cao. Các thể loại văn học chính là văn học dân gian, thơ và
anh hùng ca. Nội dung thường gắn liền với tín ngưỡng và phản ánh đời sống thường
ngày của người lao động. Điển hình nhất là hai trường ca: Anuma Elit và
Gilgamesh.
- Trường ca Anuma Elit ca ngợi sự sáng tạo của vũ trụ, một khối hỗn mang
thuở ban đầu, từ đó sinh ra con người và muôn vật trên trên mặt đất.
- Trường ca Gilgamesh ca ngợi tinh thần anh dũng của những nhân vật có thật
được thần thánh hóa, phản ánh với mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Đó
là nhữnh cuộc đấu tranh quyết liệt trước sự tàn phá của thác lũ, hạn hán và thú
dữ để bảo vệ đời sống yên lành của cư dân.
* Văn học Ả rập:
+ Văn xuôi:
- Kinh Koran không chỉ là kinh thánh của các tín đồ Hồi giáo mà còn là một
tác phẩm văn học đồ sộ, ảnh hưởng sâu sắc đến ngôn ngữ, và văn hóa Hồi giáo.
Kinh Koran đã làm cho ngôn ngữ Arập thống nhất, bảo tồn, và được truyền bá rộng
rãi trong các nước theo Hồi giáo. Đạo Hồi truyền bá tới đâu kinh Koran và ngôn
ngữ Arập cũng được truyền tới đó tạo điều kiện thuận lợi cho sự giao lưu văn
hóa, giữa các quốc gia. Kinh Koran được xem như một bộ sách giáo khoa, là cuốn
sách học tiếng Arập. Đạo Hồi quy định tín đồ ở bất kỳ nơi đâu khi đọc kinh cũng
đều phải đọc bằng tiếng Arập, vì vậy ngôn ngữ Arập được bảo tồn và duy trì sức
sống cho tới tận ngày nay.
Ngoài ra kinh Koran còn chứa đựng nhiều truyền thuyết, những câu chuyện lịch
sử, phản ánh sinh động bộ mặt xã hội lúc bấy giờ, là những tư liệu lịch sử, và
nguồn cảm hứng bất tận cho biết bao thế hệ nhà thơ, nhà văn sáng tác ra những tác
phẩm bất hủ, làm phong phú thêm cho nền văn học Arập.
- Nghìn lẻ một đêm, tác phẩm vĩ đại nhất của nền văn học Arập, là một trong
những công trình sáng tạo đồ sộ và tuyệt diệu của nền văn họcthế giới. Đay là
câu chuyện dân gian bao gồm nhiều chuyện nhỏ nối tiếp nhau có từ lâu đời ở miền
đông đế quốc của các hoàng đế Arập thời cổ, được bổ sung qua nhiều thế kỷ và được
phổ biến rộng rãi ở trong nước cũng như thế giới. Tập truyện phản ánh phong tục
tập quán, thói quen sinh hoạt của giai cấp thống trị và ước nguyện của nhân
dân, thể hiện sức tưởng tượng phong phú và óc sáng tạo tuyệt vời của nhân dan
Arập.
- Arập còn có tập “ngụ ngôn” cũng rất nổi tiếng. Tập truyện này vốn của Ấn
Độ, được truyền sang Ba Tư từ khoảng thế kỷ VI đến thế kỷ VIII, sau đó được dịch
sang tiếng Arập và phổ biến toàn thế giới.
+ Về thơ ca cũng có rất nhiều các tác giả và tác phẩm tiêu biểu.
- Nhà thơ Abu Tamman, giữa thế kỷ IX đã sưu tập và hiệu đính tác phẩm “Anh
dũng ca” 2 tập bao gồm tác phẩm của hơn 500 thi sĩ Arập cổ đại.
- Đến thế kỷ X, Abu Lơ Faraj lại soạn một tuyển tập thơ lớn gần 20 cuốn, lấy
tên là “Thi ca tập” bao gồm rất nhiều thơ ca của các tác giả trước đó.
3. Ấn Độ:
+ Ngôn ngữ và chữ viết: Ấn Độ có rất nhiều ngôn ngữ, những ngôn ngữ chính
được biểu đạt bằng hệ thống chữ viết riêng. Chữ viết đầu tiên của Ấn Độ dưới dạng
đồ họa có từ thời Harappa. Sau đó xuất hiện chữ cổ Brahma, chữ Phạn (Sanskrit),
chữ Pali … Nhiều loại ngôn ngữ đang lưu hành hiện nay ở Ấn Độ như Hindi, Benga,
Urdu … là biến thái của ngôn ngữ Phạn.
+ Chữ viết đã chuyển tải được một nền văn chương Ấn đầy sắc thái, một kho
tàng văn hóa vô cùng phong phú bao gồm các bộ kinh Hindu và kinh Phật, Sử thi,
kịch và thơ ca trữ tình. Hai viên ngọc quý nhất trong kho tàng văn học Ấn Độ là
hai bộ sử thi Mahabharata và Ramayana.
- Mahabharata là bản trường ca gồm 110.000 khổ thơ (220.000 câu). Chủ đề của
bộ sử thi nói về cuộc đấu tranh trong nội bộ một dòng họ đế vương ở miền bắc Ấn
Độ. Mahabharata được coi là một bộ (bách khoa toàn thư) của Ấn Độ.
- Ramayana dài 48.000 câu thơ là thiên tình sử đầy trắc trở giữa hoàng tử
Rama tuấn tú và nàng công chúa kiều diễm Sita. Thông qua câu chuyện tình đó, bộ
sử thi phản ánh những ngành nghề, việc làm ăn sinh sống, phong tục cưới xin,
quan niệm của người Ấn Độ về con người, cha con, vợ chồng, anh em, lòng chung
thủy và đức tính trung nghĩa ở đời.
- Nhà thơ- nhà viết kịch Kalidasa sống vào thế kỉ IV thời vương triều
Gúpta, ông là tác giả của tác phẩm văn học trữ tình nỗi tiếng Sacuntala. Tác phẩm
phỏng theo một câu chuyện dân gian trong sử thi Mahabharata, mô tả cuộc tình
duyên trắc trở của Sacuntala và nhà vua Dusianta. Mối tình tuyệt đẹp đã sinh ra
Bharata vị thủy tổ của nhân dân Ấn Độ. Tuy chịu ảnh hưởng của đạo Bàlamôn nhưng
Kalidasa đã thể hiện trong tác phẩm của mình tư tưởng tự do, chống lại lễ giáo
khắt khe, lên án bản chất giả dối của giai cấp thống trị.
- Ngoài ra văn học Ấn Độ còn xuất hiện nhiều tác phẩm viết bằng nhiều loại
phương ngữ khác nhau.
4. Trung Quốc:
a. Chữ viết:
+ Văn tự đầu tiên của
người Trung Quốc là văn tự kết thừng. Đến thiên niên kỉ II.TCN, người Ân Thương
đã viết lên mai rùa, xương thú gọi là giáp cốt văn. Ngoài ra còn có chữ được khắc
trên đồ vật (Ân khư khư thế), chữ khắc trên đá (Thạch cổ văn), chữ khắc hay đúc
trên đồng (Kim văn), chữ trên chuông đỉnh (Chung đỉnh văn). So với Giáp cốt
văn, Kim văn không khác biệt về bản chất, nhưng chữ ngay ngắn, vuông vắn, thành
hàng lối rõ rệt và nhiều chữ phức tạp hơn.
+ Đến nhà Tần, chữ viết
được chỉnh lí, đơn giản và cải tiến … khuôn trong hinh vuông gọi là chữ Tiểu
triện. Đây là lần thống nhất quan trọng cơ bản đầu tiên trong lịch sử phát triển
chữ viết của Trung Quốc … ra đời từ thiên niên kỉ thứ II.TCN, chữ viết Trung Quốc
là hệ chữ viết duy nhất hiện còn được sử dụng.
b. Văn học:
+ Thơ:
- Kinh thi: là tập thơ cổ
nhất do nhiều tác giả sáng tác từ đầu Xuân Thu đến giữa Tây Chu (khoảng 500
năm) gồm 3 phần: Phong, Nhã, Tụng, trong đó Phong chiếm số lượng nhiều nhất và
cũng có giá trị cao nhất. Kinh thi đã ảnh hưởng sâu sắc đến văn học Trung Quốc
sau này.
- Thơ Đường: Thơ Đường
là đỉnh cao của nền thơ ca Trung Quốc, nó trở nên vô giá bởi nội dung và giá trị
nghệ thuật tuyệt vời của mình. Hiện nay còn lại khoảng 48.000 bài thơ của 2300
tác giả. Các tác giả nỗi tiếng như Lí Bạch (701-762) đã để lại trên 1200 bài, Đỗ
Phủ (712-770) khoảng 1400 bài, Bạch Cư Dị (772-846) khoảng 2800 bài …
+ Tiểu thuyết Minh-Thanh:
Thời Minh - Thanh đã để
lại cho hậu thế một số lượng lớn tiểu thuyết chương hồi phong phú về nội dung,
đa dạng về hình thức. Có các tác phẩm tiêu biểu như: Tam quốc chí diễn nghĩa của
La Quán Trung, Thủy hử của Thi Nại Am, Tây du kí của Ngô Thừa Ân …
Từ đầu nhà Thanh tới cuối
thời vua Càn Long là thời kì tiểu thuyết cực thịnh. Các tác phẩm tiêu biểu như
Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh, Nho lâm ngoại sử của Ngô Kính Tử, Hồng Lâu Mộng
của Tào Tuyết Cần… Trong đó Hồng lâu mộng là tiểu thuyết có giá trị nhất, là một
kiệt tác của nhân loại.
c. Sử học:
Người Trung Quốc có ý thức
cao về lịch sử và rất giàu kinh nghiệm trong việc biên soạn sử, vì vậy sử học
nước này rất phát triển.
- Người tiêu biểu cho nền
sử học Trung Quốc là Tư Mã Thiên (sinh năm 135 hay 145.TCN), ông là người đầu
tiên trên thế giới chép sử bằng thể kí. Tác phẩm tiêu biểu là Sử kí, bộ sử đồ sộ
nhất của nhân loại, gồm 5265000 chữ được Lỗ Tấn ca ngợi “Lời hát tuyệt vời của
các sử gia, thiên Li tao không vần”.
- Ban Cố thời Đông Hán
là người mở đầu cho cách viết sử theo triều đại (tác phẩm Hán thư), sau đó có
Tam quốc chí của Trần Thọ, Hậu Hán thư của Phạm Diệp…
- Tư Mã Quang và nhiều
tác giả khác cùng biên soạn tác phẩm Tư trị thông giám theo thể biên niên, tổng
cộng có 354 cuốn (kể cả 30 cuốn mục lục).
- Thời Minh -Thanh còn
có các bộ “Minh sử”, “Tứ khố toàn thư”… Các bộ sách trên đều là những di sản
văn hóa vô giá của nhân dân Trung Quốc.
(2) Tôn giáo và tư tưởng phương Đông
1. Ai Cập:
+ Tôn giáo của người Ai Cập rất phong phú, gồm nhiều hệ thần linh địa
phương hỗn dung với nhau. Ban đầu mỗi vùng thờ những vị thần của mình, chủ yếu
là những vị thần tự nhiên, linh hồn người chết...
+ Đến thời kì thống nhất quốc gia, ngoài việc thời cúng các thần riêng của
từng địa phương, còn xuất hiện những vị thần chung. Người Ai Cập thờ thần Ra
(Thần mặt trời), thần Ptah (thần sáng tạo vũ trụ và con người), thần Amon (thần
đem lại sức mạnh cho vương quốc và Pharaon), thần Osiris (được coi là thần Nông
nghiệp, thần sông Nile), thần Montou (thần chim ưng), Sobek (thần Cá sấu)...
+ Người Ai Cập tin linh hồn bắt tử, nên việc chôn cất thi hài gắn liền với
quan niệm hồn và xác. Khi chết, linh hồn tuy thoát ra ngoài nhưng vẫn còn tìm
chỗ dựa ở nơi xác, vì vậy khi con người cần phải giữ lại xác. Việc xây dựng các
Kim tự tháp (các lăng mộ của nhà vua) và kĩ thuật ướp xác bắt nguồn từ quan niệm
trên.
2. Lưỡng Hà:
- Trong thời kỳ đầu, người Lưỡng Hà theo đa thần giáo. Họ tôn sùng những lực
lượng tự nhiên, coi đó là những lực lượng thống trị cuộc sống của mình. Người
Lưỡng Hà thờ thần Anu, Eaua, thần Enlin... ngoài các thần chủ, người Lưỡng Hà
còn tôn thờ nhiều thần khác như thần trồng trọt, thần chăn nuôi và các hiện tượng
tự nhiên như thần Samat (thần Mặt trời). Thần Istaro (thần Ái tình)... người ta
tin rằng thần Mẹ (Inana) còn là thần bảo hộ nông nghiệp, thần của sinh nở, thần
Ea (thần Biển) còn dạy cho người ta biêt nghề thủ công, nghệ thuật, khoa học,
thần Tamuz (thần Nước) được coi như vị thần dạy bảo cư dân trông trọt, làm nghề
thủ công và là vị thần của lòng nhân ái, bảo vệ mùa màng...
- Cùng với sự xác lập quyền lực tối cao, trong toàn Lưỡng Hà của
Hammourabi, thần Mardouk đã trở thành vị thần tối cao trong toàn quốc, bản thân
nhà vua cũng được thần thánh hóa, thay mặt thần Mardouk cai trị muôn dân.
- Người ta xây dựng nhiều đền miếu thờ thần và tiến hành nhiều nghi lễ phức
tạp. Việc xây dựng đền miếu đã trở thành gánh nặng đối với quần chúng. Nhân dân
đã bị tập đoàn tăng lữ nô dịch về tinh thần và bóc lột về kinh tế. Tập đoàn
tăng lữ của Babylone rất cồng kềnh, có đến hơn 30 đẳng cấp.
* Đạo Hồi của Arập:
- Đạo hồi, tiếng Arập là Islam, có nghĩa là phục tùng, tuân theo thánh
Allah tối cao và duy nhất, tuân theo vị sứ giả của thánh Allah là Muhammad.
Những tư tưởng chính trị của đạo Hồi nằm trong kinh Koran gồm 30 quyển, 114
chương, 6236 tiết. Các tín đồ Hồi giáo coi kinh Koran như một vật linh thiêng,
thần thánh.
Trong kinh Koran luân lí và pháp luật, thế tục và tôn giáo là một, mọi giới
luật đều do thánh Allah ban ra, đó là quy tắc cho mọi hành vi, từ lễ giáo đến
hôn nhân, từ các hoạt động kĩ nghệ, thương mại đến chính trị, di chúc, chiến
tranh và hòa bình... Những hiểu biết về y, dược và cách chữa trị một số bệnh
cũng thấy nói đến trong kinh Koran.
- Kinh Koran gọi tín ngưỡng của đạo Hồi là lman là chỉ tất cả những tín điều
của thánh Allah do nhà tiên tri Muhammad truyền đạt lại. Đạo Hồi có 6 tín ngưỡng
lớn gọi là Lục tín’
Tin chân thánh: tức là tin rằng ngoài thánh Allah không còn vị thần nào
khác, thánh Allah là duy nhất, là độc nhất. Đây là hạt nhân cơ bản nhất của tín
ngưỡng của đạo Hồi.
Tin thiên sứ: Theo kinh Koran thì có rất nhiều thiên sứ, mỗi thiên sứ cai
quản một công việc. Thiên sứ do Allah sáng tạo ra từ ánh sáng, để theo dõi, ghi
chép tất cả mọi hành vi thiện, ác, tốt, xấu của con người.
Tín kinh điển: Tức là tin rằng kinh Koran là bộ kinh Thần thánh do đâng
Allah khải thị cho nhà tiên tri Muhammad, từ đó xây dựng uy quyền tuyệt đối của
kinh Koran đối với các tín đồ.
Tín sứ giả: Muhammad là sứ giả và nhà tiên tri của thánh Allah, được phái
xuống để thực hiện những sứ mệnh do Allah ủy thác, vì vậy mọi tín đồ phải tôn
sùng.
Tín tiên định: Các tín đồ Hồi giáo tin rằng, số phận con người do thánh
Allah an bài, con người không có cách gì cưỡng lại được. Đó là định mệnh.
Tín kiếp sau: Các tín đồ Hồi giáo tin rằng, sau khi chết, con người có thể
sống lại và chịu sự phán xét của thánh Allah vào ngày tận thế.
- Về nghĩa vụ của tín đồ, đạo Hồi quy định:
Phải có đức tin kiên định và chỉ thừa nhận chỉ có thánh Allah còn Muhammad
là sứ giả và là vị tiên tri (Nêbi) cuối cùng. Hàng ngày phải cầu nguyện 5 lần
vào sáng, trưa, chiều, tối và đêm. Khi cầu nguyện phải hướng về Mecca. Thứ sáu
hàng tuần phải đến thánh thất làm lễ.
Hàng năm đến tháng Ramadan phải trai giới một tháng. Trong tháng này, từ
khi mặt trời mọc đến khi mặt trời lặn, các tín đồ tuyệt đối không được ăn uồng,
hút thuốc... nhưng những người già, người bệnh, trẻ em dưới 10 tuổi, phụ nữ có
thai thì được miễn.
3. Ấn Độ:
- Bàlamôn giáo ra đời vào những thế kỉ đầu thiên niên kỉ I.TCN do sự phát
triển của xã hội có giai cấp và sự bất bình đẳng về đẳng cấp. Là một tôn giáo
đa thần, cao nhất là thần Brama, vị thần sáng tạo thế giới. Ngoài thần Brama
còn có thần Visnu, Siva … nội dung quan trọng trong giáo lí của Bàlamôn giáo là
thuyết luân hồi. Về mặt xã hội, Bàlamôn giáo là công cụ đắc lực bảo vệ chế độ đẳng
cấp ở Ấn Độ. Bàlamôn được truyền bá rộng rãi trong nhiều thế kỉ, đến thế kỉ
VI.TCN bị suy thoái do sự phát triển mạnh mẽ của đạo Phât.
- Khoảng thế kỉ VII, đạo Phật bị suy sụp, nhân đó đạo Bàlamôn phục hồi và
phát triển. Đến khoảng thế kit VIII-IX, Bàlamôn giáo được bổ sung thêm nhiều yếu
tố về đối tưựong sùng bái, kinh điển và nghi thức… từ đây Bàlamôn giáo được gọi
là Hinđu giáo (Ấn Độ giáo). Đối tượng sùng bái chủ yếu của Hinđu giáo vẫn là ba
thần Brama, Visnu, Siva. Các loài động vật như rắn, hổ, khỉ, bò, cá sấu… cũng
được Hinđu giáo coi là các thần và rất được tôn sùng, Giáo lí của Hinđu giáo được
thể hiện trong các bộ kinh Vêđa, Upanisad và các sử thi Mahabharata, Ramayana,
Bhagavad….
- Phật giáo: Ra đời vào cuối thiên niên kỉ I.TCN, Siddharata Gautama là người
sáng lập. Nội dung chủ yếu của Phật giáo là chỉ ra chân lí về nguyên nhân cảu
các nổi khổ ở đời và sự giải thoát khỏi nỗi đau khổ ấy.
Chân lí về nỗi đau và sự giải thoát khỏi nỗi đau khổ đó được thể hiện trong
“Tứ diệu đế”.
Khổ đế là chân lí về các nỗi khổ.
Tập đế là chân lí về nguyên nhân của các nỗi khổ.
Diệt đế là chân lí về sự chấm dứt các nỗi khổ.
Đạo đế là chân lí về con đường diệt khổ (Bát chính đạo).
Về mặt thế giới quan nội dung cơ bản của học thuyết Phật giáo là thuyết “duyên
khởi”. Mọi vật đều do nhân duyên hòa hợp mà thành, duyên khởi do tâm mà ra, tâm
là nguồn gốc của duyên khởi và cũng là nguồn gốc của vạn vật.
Về mặt xã hội, đạo Phật không quan tâm đến chế độ đẳng cấp vì nguồn gốc xuất
thân không phải là điều kiện để được cứu vớt.Đạo Phật khuyên con người phải từ
bỏ ham muốn, tránh điều ác, làm điều thiện để được cứu vớt. Phật giáo được truyền
bá nhanh chóng không những ở Ấn Độ mà còn sang các nước khác. Khoảng 100 năm
sau công nguyên, đạo Phật chia làm hai phái là Tiểu thừa và Đại thừa.
Ảnh hưởng của các tôn giáo trên đã vượt ra khỏi biên giới quốc gia, có mặt ở
nhiều nước trên thế giới. Ngay cả Hindu giáo cũng có thể coi nó là tôn giáo
mang tính quốc tế, bởi vì sự ảnh hưởng đậm nét của nó đối với vùng Đông Nam Á.
- Ấn Độ còn là quê hương thứ hai của Hồi giáo, một tôn giáo lớn trên thế giới,
và Jain giáo, Xích giáo…
+ Triết học:
Triết học Ấn Độ rất phong phú và đa dạng với nhiều quan điểm và trường phái
khác nhau.
- Bàlamôn giáo cho rằng thế giới vật chất cũng như thần thánh đều do Brama
sáng tạo ra, về sau trong sách Upanisad, Bàlamôn đem cái “bản ngã ” (at man) của
con người kết hợp với Brama làm một và cho rằng chính cái bản ngã này sáng tạo
ra thế giới. Triết học Bàlamôn chia ra làm sáu trường phái triết học như Yoga,
Purova Mimãna, Vêđanta, Niaga, Xankia, Vaisêrica. Phái Vaisêrica do Canada
đề xướng ra thuyết nguyên tử. Ông cho rằng, vũ trụ gồm vô số vật khác nhau
nhưng vật nào cũng được cấu tạo từ những nguyên tử, ngoài nguyên tử và chân
không ra thì không có gì hết. Nguyên tử vận động là do một lực lượng vô hình chứ
không phải do một vị thần linh nào cả.
- Triết học Phật giáo:
Triết học Phật giáo phủ nhận hai yếu tố Brama và Át man của Bàlamôn giáo, không
thừa nhận có đấng thần linh tối cao sáng tạo ra vũ trụ và phủ nhận luôn cả tồn
tại khách quan. Những yếu tố của phép biện chứng của triết học Phật giáo tuy
còn ở mức độ tự phát, chưa hoàn chỉnh nhưng đã nhìn thấy sự vận động biến đổi của
thế giới, thấy được sự đối lập trong thống nhất, vạch ra những mâu thuẫn nội tại
của chúng như ý thức và vô thức, niết bàn và vô minh…
- Triết học Sácvaca: Đây
là trường phái triết học duy vật cổ đại, cho thế giới chung quanh là vật chất
được tạo nên bởi bốn nguyên tố: đất, lửa, nước và không khí. Con người nhận thức
được thế giới là do cảm giác. Con người có ý thức và ý thức là sản phẩm của thể
xác, khi con người ta chết thì ý thức cũng mất theo. Triết học Sácvaca cũng phủ
nhận những quan niệm về thần sáng tạo thế giới của tôn giáo.
4.
Trung Quốc:
a.
Thuyết Âm dương, Bát quái,
Ngũ hành, Âm dương gia:
Vào thời Ân, Chu, người Trung Quốc đã có các thuyết: Bát quái (cho rằng thế
giới do 8 loại vật chất cấu tạo thành, âm dương là hai yếu tố căn bản của Bát
quái ...). Người ta dùng ngũ hành (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ) và âm dương để giải
thích nguồn gốc của vũ trụ, mọi vật sinh sinh hóa hóa đều do sự tác động tương
hỗ hay sự phối hợp không điều hòa các yếu tố trên mà thành. Những người theo học
phái Âm dương gia đã đem kết hợp thuyết Âm dương với thuyết Ngũ hành rồi thần
bí hóa các thuyết này... để giải thích các biến động của lịch sử xã hội.
b.
Nho gia -Nho giáo:
+ Nho gia:
Khổng Tử (551-479. TCN) nhà tư tưởng lỗi lạc, người sáng lập phái Nho gia. Khổng
Tử chủ trương “nhân”, khôi phục “lễ” của nhà Chu. Từ hại nhân tư tưởng là “nhân”
ông đã chỉ ra mối quan hệ khăng khít giữa nhân và lễ. Ông đưa ra thuyết “chính
danh định phận”, đề cao tư tưởng “Thiên mệnh”... Cái có giá trị nhất trong học
thuyết của ông là tư tưởng giáo dục: ông là người đầu tiên đề xuất có thể dạy học
cho tất cả mọi người “Hữu giáo vô loại”... Học trò của ông và những môn đệ của
họ hợp thành học phái Nho gia. Tư tưởng triết học Nho gia chính là cội nguồn
nhân đạo chủ nghĩa của văn hóa truyền thống Trung Quốc.
+ Nho giáo:
- Từ thời Hán Vũ Đế (140-87.TCN) với lệnh “bãi truất bách gia, độc tôn Nho
thuật” Nho học trở thành trường phái tư tưởng quan trọng nhất ở Trung Quốc.
- Đổng Trọng Thư (179-104.TCN) đã phát triển Nho học lên một bước mới, đồng
thời dùng thần học để giải thích nó làm cho học thuyết này mang màu sắc thần học
tôn giáo nên từ đó người ta thường gọi là Nho giáo. Nho giáo trở thành cơ sở lí
luận và tư tưởng của chế độ phong kiến Trung Quốc suốt 2000 năm lịch sử.
c.
Đạo gia – Đạo giáo.
+ Đạo gia:
Lão Tử (không rõ năm sinh, năm mất) là đại biểu chủ yếu của học phái Đạo
gia. Trang Tử (khoảng năm 369-286.TCN), người phát triển học thuyết của Lão Tử
thành một học thuyết tư tưởng, cùng với Lão Tử hợp thành học phái Đạo gia.
Hệ thống tư tưởng của Đạo gia được thể hiện trong các tác phẩm “Đạo đức
kinh” và “Nam Hoa kinh”: “Đạo” là cơ sở đầu tiên của thế giới, có trước đất trời,
từ “Đạo” sinh ra tất cả. “Đạo”còn để chỉ quy luật biến hóa của sự vật, vừa có
trước sự vật, vừa nằm trong sự vật. Quy luật biến hóa tự thân của mỗi sự vật gọi
là “Đức”. Như vậy “Đạo” và “Đức” của Lão Tử là phạm trù thuộc thế giới quan,
ông là người đầu tiên xác lập nên thế giới quan của triết học Trung Quốc.
Về quan điểm lịch sử-xã hội: Lão Tử đề xướng quốc gia lí tưởng là “tiểu quốc
quả nhân” (nước nhỏ dân ít), “vô vi nhi trị” (không làm gì mà thịnh trị)... Đạo
gia không chỉ là cơ sở triết học của văn hóa truyền thống mà còn ảnh hưởng đến
mọi mặt đời sống của dân tộc Trung Quốc.
+ Đạo giáo:
-
Là tôn giáo ra đời vào giữa
thời Đông Hán, đến thời Đường, Tống được sự hỗ trợ của vương triều, Đạo giáo
phát triển mạnh. Từ thời Minh, Đạo giáo bị suy vi.
-
Đạo giáo có nguồn gốc phức
tạp, tín ngưỡng cơ bản là Đạo, hạt nhân là tư tưởng thần tiên.
-
Đạo giáo cho rằng sống ở đời
là việc sung sướng nên họ cổ vũ tư tưởng trọng sinh, lạc quan. Quan niệm thế giới
thần tiên của Đạo giáo không giống thế giới hiện thực, không hoàn toàn tách biệt
thế giới hiện thực và thế giới bên kia. Đạo giáo là tôn giáo đa thần.
-
Ảnh hưởng của Đạo giáo đối
với văn hóa truyền thống rất rộng rãi và sâu sắc.
d.
Mặc gia:
- Mặc Tử (khoảng 479-381TCN), nhà tư tưởng, nhà giáo dục kiệt xuất, người
sáng lập học phái Mặc gia. Hạt nhân của tư tưởng triết học Mặc gia là nhân và
nghĩa (nhân là kiêm ái, nghĩa là nghĩa lợi) với 10 chủ trương lớn...
- Là người đầu tiên đề xuất “thủ thực dư danh” (lấy thực đặt tên) như một
phạm trù triết học, cũng là một trong những người đi tiên phong trong ngành
logic học của nhân loại.
- Tư tưởng của học phái Mặc gia đầy thiện chí, có ảnh hưởng lớn một thời
nhưng chứa đựng nhiều ảo tưởng, nên từ Tần, Hán về sau Mặc gia dường như không
còn tồn tại nữa.
e.
Pháp gia:
- Pháp gia là học phái triết học đại biểu cho lợi ích của gia cấp địa chủ mới
ra đời trong thời kì Xuân Thu. Sở dĩ gọi là Pháp gia vì học phái này chủ trương
“pháp trị”, cai trị đất nước theo pháp luật.
- Người tiêu biểu cho Pháp gia là Hàn Phi (khoảng 280-233.TCN), công tử nước
Hàn, đã tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và lí luận của các pháp gia thời kì đầu,
hình thành hệ thống tư tưởng Pháp gia hoàn chỉnh hơn. Ông phản đối tư tưởng phục
cổ, lấy pháp, thuật, thế làm nội dung cơ bản cho hệ thống chính trị của mình,
chủ trương vô thần. Lí luận của học phái Pháp gia có đóng góp lớn trong cuộc thống
nhất đất nước, đưa lịch sử Trung Quốc phát triển lên một bước mới.
(3) Nghệ thuật-Kiến trúc
1. Ai Cập:
+ Kiến trúc: Người Ai Cập đã xây dựng nhiều công trình kiến trúc như đền
đài, cung điện, kim tự tháp nổi tiếng làm người phải kinh ngạc và cúi đầu trước
cái uy nghi hùng vĩ, biểu hiện quyền lực vô biên của thần và của nhà vua. Trong
kiến trúc, nỗi bật nhất là các kim tự tháp. Cho đến nay, người ta đã phát hiện
được trên 70 kim tự tháp, chủ yếu là ở khu vực phía bắc Ai Cập, gần thủ đô
Cairo nằm ở phía tây sông Nile.
Việc xây dựng lăng mộ được các Pharaon từ vương triều III chú ý. Kim tự
tháp Djoser, do kiến trúc sư Imhotép xây dựng, là kim tự tháp đầu tiên. Tới
vương triều IV, kim tự tháp được xậy dựng nhiều nhất, quy mô và kết cấu hoàn chỉnh,
kĩ thuật tinh xảo và nghệ thuật trang trí đạt tới trình độ cao. Nỗi bật nhất là
kim tự tháp của Kheops có chiều cao 148m, phải mất 30 năm mới xây dựng xong.
Việc xây dựng kim tự tháp “đã đem lại cho nhân dân Ai Cập cổ đại không biết
bao nhiêu tai họa”. Nhưng nhân dân Ai Cập, bằng bàn tay khối óc của mình, đã để
lại cho nền văn minh nhân loại những công trình kiến trúc vô giá.
+ Điêu khắc: Ngoài việc xây dựng lăng mộ, người Ai Cập còn đạt tới trình độ
cao về điêu khắc. Đặc biệt là tượng Sphinx (nhân sư) ở gần kim tự tháp
Khéphren, mình sư tử, đầu vua Khéphren, ý muốn ca ngợi vua không những có trí
tuệ của loài người mà còn có sức mạnh của sư tử.
+ Nghệ thuật tạo hình thời Trung và Tân vương quốc phát triển. Thời Trung
vương quốc có rất nhiều tượng nổi khắc trên tường đá và những bức tranh vẽ trên
tường mộ. Thời Tân vương quốc đã để lại một tác phẩm điêu khắc xuất sắc nhất của
nghệ thuật Ai Cập là những tượng nữ thần Neferti.
Những công trình kiến trúc, điêu khắc trên là kết quả của
quá trình lao động, là đỉnh cao của sự sáng tạo của con người ở lưu vực sông
Nile.
2. Lưỡng Hà:
Nổi bật nhất trong nghệ thuật kiến trúc của Lưỡng Hà là thành Babylone và
khu vườn treo Babylone được xây dựng trong thời kỳ trị vì của Nabuchodonosor –
quốc vương tân Babylone, sau này được coi là một trong bảy kỳ quan của thế giới
cổ đại.
- Thành Babylone có chu vi 16km, tường thành bằng gạch cao 30m, dày 8,5m có
7 của và các tháp canh. Thành phố được trang trí tỉ mỉ bằng phù điêu, tượng với
các cánh cử thành bằng đồng vững chắc. Tổng thể kiến trúc thành Babylone được kết
hợp hài hòa với cảnh quan thiên nhiên làm tăng thêm vẻ thơ mộng.
- Vườn treo Babylone: được xây dựng kề bên cung điện của vua
Nabuchodonosor. Tương truyền khu vườn thượng uyển độc đáo này được
Nabuchodonosor xây dựng để chiều ý vương hậu sủng ái của ông vốn là cồn chúa xứ
Mèdes, xứ sở của núi rừng, cây, cảnh.
- Đền tháp Ementélauki cũng là một loại hình kiến trúc độc đáo của Lưỡng
Hà. Tháp cao 90m, từ xa trông ngọn tháp bảy tầng như một cái thang khổng lồ
vươn thẳng lên trời.
- Cung điện của vua Giudéa dài tới 50m, rộng 30m, tường xây bằng gạch đá có
trang trí chạm khắc sặc sỡ và cung điện của vua Nabuchodonosor cũng là những
công trình kiến trúc độc đáo của người Lưỡng Hà.
* Nghệ thuật, kiến trúc Arập:
- Nghệ thuật kiến trúc Hồi giáo có vị trí rất cao trong kho tàng tri thức
kiến trúc nhân loại. Nhiều cung điện và thánh thất Hồi giáo với mái vòm và các
tháp nhọn được xây cất công phu và trang hoàng rực rỡ, chạm trổ tinh vi, trang
trí bằng hoa lá và các hình kỉ hà, vòi phun nước... nghệ thuật kiến trúc Arập
thừa hưởng những nét đẹp của các công trình xây dựng Ba Tư với những cây cột mảnh,
vòng cung nhọn hình móng ngựa hoặc học theo người Byzantin cách xây vòm tròn, đồng
thời học tập nghệ thuật của Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ, cho nên nghệ thuật của người
Arập rất phong phú và đa dạng.
3. Ấn Độ:
Ấn Độ là nơi có nền nghệ thuật tạo hình phát triển rực rỡ nhất phương Đông.
Chính vì thế đây là nơi cung cấp nguyên mẫu cho nền nghệ thuật của nhiều nước,
trong đó có Trung Quốc.
Nghệ thuật Ấn Độ mang tính chất bền vững và lấu đời. Đó là nền nghệ thuật
chuyển tải nội dung tôn giáo, do đó ứng với mỗi tôn giáo sẽ có một mảng nghệ
thuật riêng biệt, trong đó phải kể đến ba mangr nghệ thuật lớn, nhiều về số lượng,
phong phú về nội dung là nghệ thuật Hindu giáo, Phật giáo và Hồi giáo.
Điểm chung của những mảng
nghệ thuật tôn giáo Ấn Độ là khát vọng tâm linh, khát vọng về cái đẹp và sự giải
thoát. Tất cả những đặc điểm trên được thể hiện thông qua một số công trình kiến
trúc tiêu biểu sau đây:
-
Stupa
Sanchi và chùa Hang Ajanta là những công trình kiến trúc Phật giáo sớm nhất của
Ấn Độ, đây là những mẫu lí tưởng của kiến trúc Phật giáo.
-
Các
công trình kiến trúc Hindu giáo được xây dựng nhiều nơi trên đất Ấn, và phát
triển cực thịnh từ thế kỉ VII đến thế kỉ XI. Tiêu biểu có các công trình như cụm
đền tháp Khajuraho ở Trung Ấn được xây dựng trong khoảng thời gian từ năm 900 –
1150, gồm 85 đền đài trải rộng giữa những hồ nước và cánh đồng.
-
Kiến
trúc Hồi giáo tiêu biểu là các giáo đường và lăng mộ với những đường cổng đồ sộ,
những tháp xây cao vút và được trang trí bằng những hoa văn đặc trưng phi hình
tượng. Tháp Mina được xây dựng từ TK XIII và lăng Mahah được xây dựng từ TK XII
là những công trình nỗi tiếng của dạng kiến trúc này.
4.
Trung Quốc:
+ Hội họa
-
Từ
thời đại đồ đá mới, người Trung Quốc đã từng biết dùng màu sắc để trang trí.
-
Cách
đây 2000 năm, đã xuất hiện những bắc tranh lụa như “Phượng quỳ mỹ nữ” và “Nhân
vật Ngự Long” cho thấy hội họa Trung quốc đã dạt trình độ cao.
-
Từ đời Hán trở về sau, hội
họa Trung Quốc ngày càng phát triển, chất liệu để vẽ đa dạng (Lụa, đất nung, tượng
đá, tường… ). Nổi tiếng là tranh lụa thời hán, tranh Phật thời Ngụy, Tấn, Nam –
Bắc triều. Cố Khải Chi với những bức “Nữ sử châm đồ”, “Lạc thần phú đồ”… là mẫu
mực về họa pháp. Tranh vẽ người thời Đường đạt đến đỉnh cao như tranh của Thánh
họa Ngô Đạo Tử. Thời Minh – Thanh tranh sơn thủy, mai, lan, trúc, thạch, cỏ
cây... được thể hiện nhiều.
-
Về lí luận hội họa: “Lục
pháp luận” của Tạ Hách tổng kết kinh nghiệm sáng tác từ đời Hán đến đời Tùy, “Khổ
qua hòa thượng họa ngữ lục” của Thạch Thọ (Minh - Thanh) viết về lịch sử hội họa
rất nổi tiếng.
+ Điêu khắc:
Trung quốc có một nền nghệ thuật điêu khắc từ rất sớm (ngọc điêu có cách
đây 6000 năm, sớm nhất thế giới), và rất phong phú về cách thể hiện (điêu khắc
trên ngà voi, trên gỗ, gạch đá...).
Thach điêu là một ngành nghệ thuật nổi tiếng đã để lại những
công trình vô giá như cặp tượng “Tần Ngẫu” đời Tần, “Lạc sơn Đại Phật” đời Tây
Hán là pho tượng lớn nhất hành tinh, tượng phật “Nghìn mắt nghìn tay” và 500 vị
La Hán “Vạn Tự Bi” có 39 vạn chữ thời Tống...
+ Kiến trúc:
Trung Quốc là nước có nền kiến trúc phát triển rực rỡ với nhiều công trình
độc đáo, có tầm cỡ quốc tế. Thời Cổ-Trung đại, lịch sử phát triển kiến trúc
Trung Quốc được chia làm 4 giai đoạn, mỗi giai đoạn mang một nét đặc trưng
riêng. Có những công trình kiến trúc nỗi tiếng như: Thành Trường An, Vạn Lí Trường
Thành, chùa Phật Quang ở Ngũ Đài Sơn, tháp chùa Giang Thiên trên ngọn Kim Sơn,
thành phố Lạc Dương, Điện Màu Ni (Hà Bắc), Cổ Cung, Viên Minh Viên, Tử Cấm Thành....
(4) Những thành tựu về khoa học tự nhiên của phương Đông
1. Ai Cập:
Toán học:
Nhu cầu đo đạc ruộng đất, làm thủy lợi, xây dựng đền miếu, kim tự tháp,
tính toán thu nhập... là những nguyên nhân thúc đẩy toán học, hình học cổ Ai Cập
ra đời.
- Thiên niên kỉ thứ III.TCN là thời kì xuất hiện từng bước quan niệm trừu
tượng về số của người Ai Cập. Sang đầu thiên niên kỉ thứ II.TCN, người Ai Cập
đã phát triển thành công hệ đếm của mình.
Người Ai Cập đã biết dùng hệ thập phân. Nhờ có hệ đếm,
người Ai Cập đã biết làm các phép tính cộng và trừ, còn nhân và chia thì thực
hiện bằng cách cộng hoặc trừ nhiều lần. Tri thức đại số của người Ai Cập đã đạt
tới việc giải phương trình bậc nhất.
- Về hình học, họ biết tính diện tích hình tam giác, tứ giác, biết rằng bình
phương cạnh huyền bằng tổng bình phương hai cạnh trong một tam giác vuông. Người
Ai Cập đã tìm được Pi = 3,14.
+ Thiên văn học:
- Người Ai Cập sớm phát hiện ra các chòm sao và đã soạn ra bản đồ các thiên
thể. Loại bản đồ thiên thể này được vẽ trên trần nhà của đền đài cổ. Bản đồ 12
cung hoàng đạo có từ thời Vương triều XIV. Họ cũng biết sao Thủy, sao Kim, sao
Hỏa, sao Mộc, sao Thổ và các hành tinh khác.
- Từ thời Tảo Vương quốc và Cổ Vương quốc người Ai Cập đã tính toán khá
chính xác mực nước sông Nile hành năm. Nắm được quy luật về thời gian, biết
tính năm, tháng, ngày, giờ, thời gian gieo hạt, gặt hái, và thời điểm để làm
các nghi lễ tôn giáo...
- Ở Ai Cập, việc xậy dựng lịch gắn liền với việc quan sát sao Lang (Sirius)
trên bầu trời. Một năm – 365 ngày là thời gian giữa hai lần sao Lang xuất hiện
đúng ở đường chân trời. Người Ai Cập chia năm thành 3 mùa, mỗi mùa 4 tháng, mỗi
tháng 30 ngày. Năm ngày còn lại được xếp vào cuối năm thành năm ngày lễ.
- Việc tính toán vị trí các ngôi sao trên trời và việc phát minh ra đồng hồ
nước, đồng hồ mặt trời là những thành tựu của thiên văn thời Tân Vương Quốc.
Những tri thức thiên văn của người Ai Cập cổ xưa là những thành tựu khoa học
rất đáng khâm phục.
+ Y học:
- Ngay từ thời Cổ Vương quốc, do tục ướp xác người Ai Cập đã biết về cấu tạo
cơ thể người. Trong y học đã có các chuyên khoa như khoa nội, ngoại, khoa mắt,
răng, dạ dày... Trong các bộ phận của cơ thể thì họ cho tim là quan trọng nhất.
Khi mổ để ướp xác, họ vẫn giữ trái tim lại, và tay nghề của các thầy thuốc được
đánh giá bằng sự hiểu biết về trái tim. Trong các tài liệu cổ, thấy người Ai Cập
đã có khoảng 100 từ là những từ thuộc về giải phẩu học.
- Sách thuốc (Papyrus Medicad) của người Ai Cập được biên soạn trong khoảng
năm 1500-1450.TCN, nói về nhiều cách chữa bệnh.
+ Các lĩnh vực khác như vật lí, hóa học... người Ai Cập cũng có những thành
tựu rất đáng kể như việc sử dụng kỹ thuật ướp xác, kĩ thuật xây dựng kim tự
tháp...
2. Lưỡng Hà:
+ Toán học:
- Người Lưỡng Hà đã sáng tạo ra hệ đếm lấy 60 làm cơ sở (hệ lục thập phân).
Đây là hệ đếm tiến bộ nhất của toán học. Trước đó người Lưỡng Hà đã sử dụng nhiều
hệ đếm khác nhau, như hệ đếm lấy số 5 làm cơ sở của người Sumer thời cổ. Với hệ
đếm lấy 60 làm cơ sở, việc biểu đạt chữ số của người Lưỡng Hà đã tiến thêm một
bước quan trọng, và đặc biệt ở đây đã có cách ghi số theo vị trí. Hệ mới này
tách khỏi các cách đếm cổ truyền. Các con số đã giành được sự độc lập của
chúng. Cho đến ngày nay chúng ta vẫn sử dụng cách tính giờ theo kiểu số đếm 60
bậc của người Lưỡng Hà.
- Hình học của người Lưỡng Hà cũng phát triển sớm. Họ đã biết tính diện
tích các hình chữ nhật, tam giác, hình thang, hình tròn... Họ đã biết trong một
tam giác vuông, bình phương của cạnh hyền bằng tổng bình phương của hai cạnh
góc vuông, biết phân số, lũy thừa, căn số bậc 2 và bậc 3, biết giải phương
trình có 3 ẩn số, biết dùng số pi (π) bằng 3 để tính diện tích
và chu vi hình tròn...
+ Thiên văn học:
Người Lưỡng Hà xây dựng nhiều đài chiêm tinh để quan sát bầu trời, vì vậy
thiên văn học có điều kiện để phát triển và có nhiều thành tựu to lớn. Họ đã
chia các thiên thể trên bầu trời thành 12 cung, gọi là “12 cung hoàng đạo”, biết
chính xác hiện tượng nhật thực, nguyệt thực, biết được 5 hành tinh của Thái
Dương hệ và gọi tên theo các vị thần của mình. Học lập được hệ thống lich theo
mặt trăng (âm lịch), một năm có 12 tháng, xen cẽ một tháng có đủ 30 ngày, là một
tháng thiếu chỉ có 29 ngày, tổng cộng cả năm là 354 ngày. Như vậy so với năm
dương lịch còn thiếu mất 11 ngày 5 giờ 48’ 46”. Để khắc phục nhược điểm ấy, họ
đã biết thêm tháng nhuận. Để đo thời gian, người Lưỡng Hà dùng đồng hồ ánh nắng
và đồng hồ nước.
+ Y học:
- Người Lưỡng Hà đã biết chữa trị các loại bệnh khác nhauvề tiêu hóa, hô hấp,
thần kinh, dau mắt và hình thành nhiều nghành như nội khoa, ngoại khoa, giải phẫu...
- Tuy vậy, những quan niệm mê tín, dị đoan hãy còn phổ biến trong y học như
chữa bệnh bằng ma thuật, bùa chú, đặc biệt là không được chữa bệnh vào các ngày
xấu. Họ đề cao vị thần bảo hộ y học Ninghitzita với hình tượng con rắn quấn
quanh cay gậy mà ngày nay trong nghành y vẫn coi là biểu tượng.
Văn minh Lưỡng Hà ra đời sớm và đạt được những thành tựu rực rỡ trên các
lãnh vực khác nhau, có ảnh hưởng to lớn đối với văn minh trong khu vực và trên
thế giới.
* Những thành tựu
khoa học tự nhiên của Arập.
+ Do sự bành trướng của đế quốc Arập, sự giao lưu văn hóa, khoa học với các
nền văn minh xung quanh như Ấn Độ, Trung Quốc, Hy Lạp, Ai Cập … có điều kiện để
phát triển. Người Arập đã tiếp thu các thành tựu văn hóa của các nền văn minh
có trước mình, sáng tạo ra một nên văn hóa mang bản sắc dân tộc độc đáo.
-Sau khi lập nước một thời gian, năm 830, triều Abassid xây dựng một trung
tâm khoa học gồm viện khoa học, đài thiên văn và thư viện. Trung tâm khoa học
này đã tiến hành dịch nhiều tác phẩm viết bằng tiếng Hy Lạp, Sanskrit … người đứng
đầu đội ngũ dịch thuật này là Hunai Ibn Ishak (Hunai Ibơn Isac). Tương truyền,
riêng ông đã dịch được hơn 100 tác phẩm ra tiếng Arập, trong đó có kinh Cưu Ước
và nhiều tác phẩm của Aristote, Platon … tiền thù lao cho công việc dịch thuật
cũng được trả rất hậu, tác phẩm cân nặng bao nhiêu thì được trả bấy nhiêu vàng,
riêng bản dịch đầu tiên tác phẩm của Aristote được trả công bằng cách đặt lên
cân một bên là sách bên kia là kim cương. Đến giữa thế kỉ IX, có thể nói rằng hầu
hết các tác phẩm lớn về toán học, thiên văn, y học … của Hy Lạp đã được dịch
sang tiếng Arập.
- Người Arập trên con đường chinh chiến cũng rất chú trọng đến việc tiếp
thu các thành tựu văn hóa và chú ý lưu giũ các tác phẩm nghệ thuật, những công trình
khoa học, sách vở… chính vì vậy nhiều tác phẩm có giá trị được phát minh ở Hy Lạp,
Ấn Độ, nhưng sau đó lại được tìm thấy và phổ biến rộng rãi ở Arập.
+ Toán học: Người Arập tiếp tục phát triển các môn đại số, lượng giác, hình
học và hoàn thiện hệ thống chữ số thập phân của người Ấn Độ ma cho đến ngày nay
người ta vẫn quen gọi là chữ số Arập. Các khái niệm trong môn lượng giác: Sin,
Cosin, Tang, Cotang mà ngày nay chúng ta sử dụng là do nhà toán học Abu Apdala
al-Battani của Arập đặt ra.
+ Vật lí: Có nhà khoa học tiêu biểu Al Haitham là tác giả cuốn “Sách quang
học”, được coi là tác phẩm có tính chất khoa học nhất thời trung đại.
+ Hóa học: Người Arập cũng có những long góp rất to lớn, có thể nói rằng nhờ
họ mà hóa học mới trở thành một ngành khoa học. Họ tìm ra nhiều hóa chất mới,
chế tạo ra nồi nước cất trước tiên và đặt tên là Al-ambik biết nấu rượu Roum từ
đường mía.
+ Sinh học: Người Arập đã biết ghép cây, tạo ra các giống cây trồng mới từ
rất sớm.
+ Y học: Họ biết chữa trị rất nhiều loại bệnh nội, ngoại khoa, và đặc biệt
giỏi về nhãn khoa. Nhiều tác phẩm y học nổi tiếng được biên soạn như “Mười khái
luận về mắt” của Ishak; “Sách chỉ dẫn cho các thầy thuốc khoa mắt” của Isha; “Tiêu
chuẩn y khoa” của Sihna …
3. Ấn Độ:
+ Thiên văn học: Người Ấn Độ biết chia một năm thành 12 tháng, mỗi tháng 30
ngày, cứ năm năm thì có một tháng nhuận. Họ đã biết Trái đất và Mặt Trăng hình
cầu, biết được các hành tinh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Đặc biệt họ đã biết tổng
kết những hiểu biết về thiên văn học trong tác phẩm Sidhanta, một tác phẩm
thiên văn cổ vào loại sớm nhất thế giới.
+ Toán học: Người Ấn Độ đã phát minh ra 10 chữ số tự nhiên, đã đưa ra được
những khái niệm cơ bản về hình học và lượng giác, hoàn thiện hệ thống số thập
phân có số 0.
+ Y học:
-
Có
nhiều thành tựu cả trên lĩnh vực lí thuyết và thực hành, không chỉ dừng lại
kinh nghiệm mà đã tổng kết để viết thành sách. Nỗi tiếng là các tác phẩm “Y học
toát yếu”, “Luận khảo về trị liệu”…
-
Người
Ấn Độ đã biết mô tả các dây gân, cách chắp xương sọ, cắt màng mắt, theo dõi được
qua trình phát triển của thai nhi …
-
Người
Ấn Độ đã biết đề cao y đức của người thầy thuốc. Thầy thuốc Saraca sống vào thế
kỉ II, đã đưa ra câu nói nỗi tiếng về đạo đức của người thầy thuốc: “Trị bệnh
thì đừng nghĩ tới mình, đừng vì lợi mà chỉ nên nghĩ đến nhiệm vụ cứu nhân độ thế
mà thôi”.
+
Vật lí và hóa học:
Người Ấn Độ đã nêu ra
thuyết nguyên tử, biết chế những chiếc la bàn đơn giản phục vụ cho các nhà hàng
hải, biết được sức hút của Trái Đất … thời Gúpta, nghề nấu sắt đã phát triển
khá cao, một số nghề khác cũng phát triển như nghề nhuộm, thuộc da, nấu thủy
tinh, xi măng …
4.
Trung Quốc’
a.
Khoa học tự nhiên:
+ Toán học:
Trung Quốc là nước biết
sử dụng phép ghi số tính mười bậc sớm nhất thế giới. Đời Chu
đã rất coi trọng việc giáo dục toán học trong nhà trường… Thời Tây Hán có sách “Chu bể toán kinh”, thời Đông Hán sách toán đã đạt trình độ
nhất định và thành hệ thống. Nhà toán học Tổ Xung Chi (429-500) đã tìm ra số Pi
chính xác đến con số thập phân thứ 10, đi trước thế giới 1000 năm.
+ Thiên văn học:
Để phục vụ sản xuất nông
nghiệp, thiên văn học ra đời rất sớm. Đời nhà Thương (cách đay 3000 năm) người
ta đã ghi chép đúng về hiện tượng nhật thực, nguyệt thực. Bộ sách “Cam Thạch
kinh tinh” thời Chiến Quốc là sách ghi chép về các hành tinh sớm nhất thế giới.
Người Trung Quốc đã biết chế tạo ra nhiều dụng cụ để đo bóng Mặt Trời tính lịch
(Thổ Khuê), đo động đất (Hồn thiên nghi)…
+ Lịch pháp:
Từ thời Ngũ đế, người
Trung Quốc đã biết làm lịch,đến nhà Hạ, người ta làm lịch dựa trên sự vận hành
của Mặt Trăng (gọi là Hạ lịch, hay âm lịch) nay vẫn dùng ở cả Trung Quốc và Việt
Nam .
Thời Tây Hán, Tư Mã Thiên và những người khác soạn ra “Lich Thái Sơ” nỗi tiếng
(chỉ ra chu kì nhật thực là 135 tháng, chia một năm ra 24 tiết…) có ý nghĩa
quan trọng đối với sản xuất nông nghiệp. Năm 1230, Quách Thủ Kính (đời Nguyên)
soạn ra “Thụ Thời lịch”. Chia một năm ra 365,2425 ngày đi trước nhân loại rất
xa về cách tính lịch.
+ Nông học:
Nghề trồng trọt có cách
đây khoảng 7000 năm, bên cạnh trồng ngũ cốc, còn trồng dâu, chè… “Trà kinh” của
Lục Dã là sách đầu tiên trên thế giới viết về trà. Giả Hiệp với cuốn “Tề dân yếu
thuật” viết về trồng trọt và chăn nuôi sớm nhất thế giới… Từ Quang Khải (nhà
Minh) viết cuốn “Nông chính toàn thư” trên 50 vạn chữ, lí giải tường tận mọi mặt
của nghề nông được xem là đỉnh cao của sự am hiểu về nền nông học cổ đại Trung
Quốc.
+ Y dược học:
Nền y học Trung Quốc đã
có nhiều thành tựu đáng khâm phục. Về lí thuyết, thời chiến Quốc có sách “Hoàng
đế nội kinh”, được coi là bộ sách kinh điển bậc nhất của y học cổ truyền Trung
Quốc. Thời Hán có “Thương hàn tạp bệnh” của Trương Trọng Cảnh, thời Đường có “Tiên
thụ lí thương, kế tục mật phương” của Lan Đạo Nhân…
Về Đông y: Có rất nhiều
sách viết về các dược liệu như “Sơn hải kinh” (Tiên Tần), “Thần nông bản thảo
kinh”(Hán), “Bào cứu luận”(Nam Triều)… Đặc biệt “Bổn thảo cương mục” do Lí Thời
Trân (nhà Minh) soạn đã phê phán và kế thừa được những tinh túy của các sách
thuốc trước đó, đồng thời giới thiệu các loại thuốc mới…. được dịch ra tiếng
Latinh và nhiều thứ tiếng khác. Darwin
coi đây là bộ “bách khoa toàn thư” của Trung Quốc cổ đại.
+ Địa lí học:
-
Địa
lí tự nhiên đã được nghiên cứu và viết thành sách từ cuối thời Xuân Thu như cuốn
“Sơn hải kinh”, vào cuối thời Chiến Quốc như cuốn “Vũ Cống”, giúp người đời sau
tìm hiểu lịch sử, địa lí thời Tần.
-
Địa
đồ học có từ thời Chu, Bản đồ vẽ trên gỗ phát hiện vào năm 1986 ở ngôi mộ Tần sớm
hơn bản đồ sớm nhất thế giới hơn 300 năm. Các ông Bùi Tú, Giả Đam, Thẩm Quát…
đã để lại nhiều kinh nghiệm và tác phẩm quý cho ngành địa đồ học.
b. Bốn phát minh quan trọng:
+ Phát minh thuốc súng:
Thuôc súng còn gọi là “hỏa
dược” (thuốc lửa), do ngẫu nhiên mà các nhà luyện đạn cổ phát hiện ra. Đầu TK.X,
thuốc súng được dùng làm vũ khí, từ đó được ứng dụng rộng rãi làm cho hệ thống
vũ khí và cả khoa học quân sự biến đổi hẳn. Càng ngày thuốc súng càng được lan
truyền rộng sang cả phương Tây.
+ Phát minh kim chỉ nam:
Từ việc biết được từ
tính và chỉ hướng của nam châm, người ta đã làm ra kim chỉ nam mà thời đó gọi
là “Tư nam”. Đến thời Bắc Tống, người Trung Quốc chế tạo ra la bàn, và cải tiến
nó ngaỳ càng hoàn chỉnh hơn.
+ Phát minh ra nghề làm
giấy:
Trước khi làm ra giấy,
người Trung Quốc dùng qua nhiều loại “giấy” nhưng chất lượng còn kém, mặt không
phẳng khó viết và khó bảo quản. Năm 105, Thái Luân đã làm ra giấy từ các nguyên
liệu dễ kiếm như lưới cũ, giẻ rách và cỏ cây… có chất lượng tốt hơn. Như vậy,
người Trung Quốc đã làm ra giấy trước châu Âu hàng nghìn năm. Đó chính là một
cuộc cách mạng trong việc truyền bá chữ viết, trao đổi tư tưởng phổ biến kiến
thức của con người.
+ Phát minh nghề in
Vốn có nghề truyền thống
khắc vào đá, đến đời Tùy nghề in khắc bản ra đời và ngày một cải tiến: từ in chữ
rời bằng đất sét nung của Tất Thăng đến in chữ rời bằng gỗ, thiếc, đồng, chì… kỹ
thuật in của Trung Quốc đã đi trước người Đức 400 năm
Bốn phát minh trên được
hậu thế đánh giá rất cao.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét