Chủ Nhật, 12 tháng 5, 2013

Những câu chuyện vui về Hội nghị Paris

Những câu chuyện vui về Hội nghị Paris
Ông Trịnh Ngọc Thái, người thứ tư từ trái sang.
Có mặt tại Paris với tư cách thành viên Đoàn VNDCCH từ những ngày đầu phái đoàn đặt chân lên đất Pháp cho đến khi các bên đặt bút ký vào thỏa thuận lịch sử, với ông Trịnh Ngọc Thái - hành trình mang tên Hòa đàm Paris 1973 có nhiều chuyện vui đáng nhớ.
Đoàn 37
Ở miền Nam, trong kháng chiến chống Pháp có Tiểu đoàn 307 và người dân Việt Nam đa số đều thuộc bài hát tôn vinh Tiểu đoàn này. Trong Hội nghị Paris cũng có một đoàn 37, nhưng đoàn này không chiến đấu trên chiến trường mà trên mặt trận ngoại giao.
Đoàn 37 chính là tên gọi của Đoàn đại biểu Chính phủ VNDCCH - sau đây gọi tắt là Đoàn Việt Nam, xuất phát từ Hà Nội đầu tháng 5/1968 sang Paris dự Hội nghị Paris về Việt Nam. Gọi như vậy bởi Đoàn có tổng cộng 37 người, nên con số 37 được dùng để đặt tên riêng cho Đoàn. Trưởng đoàn là ông Xuân Thủy.
Ông Xuân Thủy từng làm Bộ trưởng Ngoại giao của nước VNDCCH trong những năm 1963-1965, nhưng khi nhận nhiệm vụ Trưởng phái đoàn đàm phán tại Paris thì ông không làm Bộ trưởng Bộ nào. Tuy nhiên, thời điểm đó, ông Xuân Thủy đang đảm nhiệm cương vị Bí thư Trung ương Đảng. Vì thế, khi Chính phủ cử ông đi với tư cách Bộ trưởng là một chức vụ để có danh nghĩa làm Trưởng đoàn đàm phán. Ông cũng không phải là "Bộ trưởng không Bộ" như nhiều người lầm tưởng.
Ông Trịnh Ngọc Thái sinh năm 1930 tại Hà Nội, sống tại Hà Nội. Nguyên thành viên đoàn đàm phán Chính phủ VNDCCH tại Hội nghị Paris từ 1968 đến 1973, nguyên Phó Trưởng ban Đối ngoại Trung ương, Đại sứ Việt Nam tại Pháp, ông hiện là Phó Chủ tịch Quỹ hòa bình và phát triển Việt Nam.
Trong Đoàn còn có ông Lê Đức Thọ được Bác Hồ cử làm cố vấn đặc biệt cho Đoàn đàm phán. Khi đó, ông Thọ đang là UV Bộ Chính trị - Trung ương Đảng. Tuy nhiên, ông Lê Đức Thọ không xuất phát cùng với Đoàn 37 mà đến Paris sau đó. Bác Hồ giao cho ông Thọ nhiệm vụ cố vấn là bởi ông đã từng là Phó Bí thư Trung ương cục miền Nam nên ông hiểu rõ tình hình trên chiến trường, tương quan lực lượng, không những mặt trận quân sự giáp mặt với quân Mỹ, quân chư hầu và quân ngụy, mà cả mặt trận chính trị ngay trong lòng địch.
Về phái đoàn của MTDTGPMNVN (viết tắt là Mặt trận) thì có ông Trần Bửu Kiếm làm Trưởng đoàn, còn bà Nguyễn Thị Bình làm Phó Trưởng đoàn. Từ tháng 6/1969, khi Chính phủ CMLTCHMNVN (sau đây viết tắt là Chính phủ CMLT) ra đời, bà Nguyễn Thị Bình được cử làm Bộ trưởng Ngoại giao và trở thành Trưởng đoàn Chính phủ CMLT. Trước khi Đoàn lên đường, bà Nguyễn Thị Bình cũng được Bác Hồ mời lên dặn dò chu đáo.
Việc Bác Hồ và lãnh đạo Đảng ta cử các ông Lê Đức Thọ, Xuân Thủy và bà Nguyễn Thị Bình lãnh đạo cuộc đàm phán, trên chiến trường ngoại giao, mở ra giai đoạn "vừa đánh vừa đàm" đi đến thắng lợi ký kết Hiệp định Paris là một sự lựa chọn chính xác tuyệt vời. Tuy Bác Hồ không kịp chứng kiến ngày ký kết Hiệp định nhưng lúc sinh thời Bác đã chỉ đạo và theo dõi Hội nghị từng ngày từng giờ. Trong hồi ký của mình, Cố vấn an ninh của Tổng thống Nixon đã viết rằng: Trong suốt thời gian diễn ra Hội nghị, Đoàn Mỹ thì lủng củng và không ổn định, phải thay Trưởng đoàn đến 4 lần. Còn phía 2 Đoàn Việt Nam và Đoàn Chính phủ CMLT thì đoàn kết với nhau. Suốt thời gian đàm phán vẫn là những đại diện ông Xuân Thủy, bà Nguyễn Thị Bình và cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ.
Tại sao nơi họp lại là Paris?
Sau khi phía Việt Nam và Mỹ đồng ý ngồi vào bàn thương lượng thì vấn đề phải giải quyết đầu tiên là ngồi họp ở đâu. Tất nhiên không phải là Washington, Hà Nội hay Sài Gòn được. 8 địa điểm được Mỹ, Việt Nam và vài nước khác đưa ra, nhưng bên này đồng ý thì bên kia phản đối. Cuối cùng Việt Nam đề nghị Hội nghị họp ở Paris và phía Mỹ đã chấp nhận.
Vì sao Việt Nam đề nghị họp ở Paris? Trước hết, Paris là Thủ đô của một nước lớn không những ở châu Âu mà của cả thế giới, trung tâm truyền thông trên toàn cầu. Một sự kiện, một thông tin phát đi từ Paris thì ngay lập tức cả thế giới đều biết. Cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược là một cuộc chiến tranh chính nghĩa. Lập trường của Việt Nam là chống xâm lược để giành lại độc lập, tự do và thống nhất đất nước. Lập trường của Việt Nam đã khơi dậy lương tri của nhân loại yêu chuộng hòa bình và công lý và Việt Nam muốn lập trường đó được công khai truyền đi cho dư luận hiểu và đồng tình.
Hai là, ở Paris có phong trào của nhân dân Pháp yêu chuộng hòa bình và công lý ủng hộ cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam, đặc biệt là Đảng cộng sản Pháp và các tổ chức hữu nghị luôn luôn lên án sự xâm lược của Mỹ, đòi quân Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam.
Ba là, ở Pháp có một phong trào yêu nước của người Việt Nam mạnh mẽ, là nơi mà lúc đó có đông đảo Việt kiều nhất. Phong trào này có truyền thống đã có bề dày một thế kỷ qua và do chính Bác Hồ xây dựng trong thời gian hoạt động ở Pháp.
Bốn là, Chính quyền Pháp lúc đó cũng không đồng tình với sự xâm lược của Mỹ, là kẻ đã hất cẳng Pháp để hòng chiếm đóng Việt Nam, phế truất Bảo Đại để đưa Ngô Đình Diệm thay thế. Thực tế đã chứng minh điều đó, Pháp vui mừng khi Việt Nam và Mỹ đề nghị họp ở Paris vì nếu Hội nghị thành công thì Pháp cũng có phần vinh dự. Chính vì vậy mà phía Pháp tiếp đón đoàn Việt Nam từ khi đặt chân đến Paris, bảo vệ an ninh cho tất cả các hoạt động của đoàn Việt Nam trong suốt thời gian 4 năm đàm phán. Thêm vào đó, phía Pháp cũng chuẩn bị phòng họp riêng với bàn ghế thiết kế riêng phục vụ Hội nghị. Việc ăn uống của từng đoàn trong các phiên họp chính thức cũng được chuẩn bị rất chu đáo. Khi Hội nghị kết thúc, chính phủ Pháp thông báo "miễn phí" cho tất cả những chi tiêu phục vụ Hội nghị và sau đó ít lâu, hai nước Pháp và Việt Nam đã nâng cấp quan hệ ngoại giao từ Tổng đại diện lên cấp Đại sứ.
Đó là 4 lý do chính vì sao ta đề nghị họp Hội nghị ở Paris.
Đoàn Việt Nam ở đâu?
Khi rời Hà Nội còn bom đạn để đi Paris, không ai biết cụ thể là Hội nghị kéo dài bao lâu, chỉ biết lên đường đến Paris cho kịp họp phiên đầu tiên vào ngày 13/5/1968. May là thời gian chuẩn bị lên đường rất gấp, mà lại đi vào mùa hè nên chỉ cần có nhất bộ complet, không cần chuẩn bị quần áo ấm.
Lúc đó ở Paris, Việt Nam có Tổng đại diện là cơ quan đại diện cao nhất cho Nhà nước, đứng đầu là ông Mai Văn Bộ - một người có tác phong chững chạc, phong độ và lịch thiệp. Đón một đoàn quan trọng nhất từ trước đến nay sang dự một Hội nghị có tính chất quyết định đối với vận mệnh của đất nước, ông Bộ muốn bố trí cho Đoàn ở một nơi đàng hoàng, sang trọng để cho người ta biết "Mình là ai?". Ông Bộ nghĩ mãi và quyết định thuê cho đoàn ăn ở tại khách sạn Lutétia, một khách sạn loại sang, 5 sao, ở số 45 trên Đại lộ Raspail - trung tâm của Thủ đô ánh sáng. Thậm chí, ông Mai Văn Bộ còn bắt khách sạn treo cờ đỏ sao vàng trước cửa để đón Đoàn Việt Nam. Khi Đoàn đặt chân xuống sân bay và về khách sạn, giới truyền thông các nước đã chờ sẵn để quay phim chụp ảnh lóa cả mắt. Kiều bào Việt Nam tại đây thì hãnh diện tập trung rất đông ở sân bay rồi hộ tống Đoàn về khách sạn, tay cầm cờ đỏ sao vàng và khẩu hiệu hoan nghênh.
37 thành viên trong Đoàn chưa kịp làm quen với nếp sinh hoạt của người châu Âu: Ngủ thì nằm giường đệm "đau cả lưng"; Ăn thì chẳng biết cầm dao, nĩa thế nào, cứ món nào chưa biết thì gọi; Quần áo thì chỉ có duy nhất bộ complet mà người ta không cho giặt rũ phơi phóng tự do như ở nhà, còn giặt quần áo ở khách sạn thì rất đắt. Trong phòng ông Xuân Thủy thì luôn có hoa, trái cây tươi và một tủ rượu đủ loại...
Sau vài ngày, Khách sạn đưa cho Trưởng đoàn lễ tân của Đoàn là bà Vũ Thị Đạt cái "phắc - tuya" (hóa đơn). Nhìn thấy số tiền ghi trong hóa đơn, bà Đạt suýt ngất, bèn báo cáo với Trưởng đoàn. Ông Xuân Thủy bàn với Phó đoàn là ông Hà Văn Lâu và ông Mai Văn Bộ. Sau đó, Đoàn quyết định phải chuyển chỗ ở, không cần 5 sao, thậm chí không có sao nào - miễn là có chỗ ăn ngủ, tiện làm việc và có chỗ dựng cột điện đài để liên lạc với trong nước là được… Trưởng đoàn Xuân Thủy giao cho ông Mai Văn Bộ đi nhờ Đảng Cộng sản Pháp giúp đỡ.
Lúc đó, Đảng Cộng sản Pháp có hai người là đồng chí Gaston Plissonnier (Bí thư Trung ương Đảng) và Elie Mignot được phân công liên hệ với đoàn Việt Nam. Sau khi bàn bạc, đồng chí Gaston Plissonnier bố trí cho Đoàn tới ăn ở tại Trường đào tạo cán bộ Đảng của Trung ương Đảng Cộng sản Pháp (còn gọi là Trường Đảng Maurice Thorez). Ngôi trường này nằm ở Choisy Le Roi - thành phố ngoại ô Paris do Đảng cộng sản Pháp nắm chính quyền và đồng chí Fermand Dupuis làm Thị trưởng. Lúc đó, các học viên của Trường đang nghỉ hè nên có thể cho Đoàn Việt Nam ở tạm một thời gian. Có được địa điểm, mừng quá, Đoàn Việt Nam chuyển đến ngay, còn hạ hồi phân giải tính sau.
Trường Đảng Maurice Thorez thật lý tưởng vì có đầy đủ phương tiện cho đoàn ăn ở và làm việc. Trong trường có một căn nhà trước đây đồng chí Maurice Thorez, nguyên Tổng Bí thư Đảng cộng sản Pháp ở. Ông Xuân Thủy và ông Lê Đức Thọ được sử dụng căn nhà này vì có đủ phòng khách, phòng ở, nơi làm việc và đặc biệt là có phòng kín dành cho các cuộc họp quan trọng. Các thành viên còn lại của Đoàn ở trong một khu nhà ngay bên cạnh, có phòng đơn, phòng đôi để nghỉ, phòng ăn lớn liền với nhà bếp và có phòng tiếp khách ở tầng trệt. Trong trường còn có một sân rộng có thể tập thể dục, chơi boule (bi sắt), chơi cờ, đánh bóng chuyền. Còn ai muốn chơi bóng bàn thì có thể xuống chơi ở tầng hầm khu nhà.
Thấm thoắt, thời gian nghỉ hè của Trường Đảng Maurice Thorez đã trôi qua mà Hội nghị thì chưa đi đến đâu cả và cũng không ai nói trước được là còn kéo dài đến bao giờ. Đoàn Việt Nam thì hết sức bối rối, còn phía Đảng Cộng sản Pháp thì cũng chưa biết giải quyết thế nào. Trước mắt, phía bạn hoãn ngày tựu trường và cuối cùng thì chuyển trường Đảng tới một địa điểm khác ở xa Paris để tiếp tục chương trình giảng dạy. Còn Đoàn Việt Nam thì đành "xem của bạn cũng là của ta" và ở Choisy Le Roi mãi 1 năm, 2 năm, 3 năm, rồi 4 năm,… Đến khi Hội nghị kết thúc, phía bạn không lấy của Đoàn bất kỳ chi phí nào, gồm cả tiền thuê nhà và số cán bộ bạn cử đến giúp đỡ và phục vụ cho Đoàn Việt Nam và Đoàn Mặt trận trong công việc bảo vệ, lái xe, cấp dưỡng, giặt là quần áo… tự nguyện và không lương trong suốt hơn 4 năm trời.
Nghễnh ngãng
Hội nghị Paris về Việt Nam gồm hai cuộc hội nghị kế tiếp nhau. Hội nghị hai bên giữa VNDCCH và Mỹ, từ 13/5/1968 đến 1/11/1968. Hội nghị 4 bên giữa VNDCCH, Mỹ, Đoàn Mặt trận và VNCH (tức chính quyền Sài Gòn) từ 25/1/1969 đến 27/1/1973.
Về hội nghị hai bên, Trưởng đoàn Việt Nam là ông Xuân Thủy, Trưởng đoàn Mỹ là nhà Ngoại giao kỳ cựu Averell Harriman. Trong suốt hơn 5 tháng Hội nghị 2 bên với nội dung chấm dứt ném bom miền Bắc. Lập trường của phía Việt Nam là yêu cầu Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc rồi mới bàn sang các vấn đề khác. Lập trường của Mỹ là đồng thời bàn về cả hai vấn đề quân sự, chính trị và đòi "có đi có lại". Phía Việt Nam kiên quyết không thảo luận bất cứ vấn đề nào khác nếu Mỹ còn tiếp tục ném bom trên lãnh thổ VNDCCH.
Nhiều người khen ông Xuân Thủy tài thật. Suốt 5 tháng trời chỉ nhắc đi nhắc một yêu cầu là Mỹ chấm dứt hoàn toàn và vô điều kiện mà Thứ năm tuần nào họp ở Kléber ông cũng đọc một bài dài 4-5 trang chỉ nói một vấn đề nhưng Mỹ vẫn không chịu. Nhà báo thì nói đây là "cuộc nói chuyện giữa những người điếc", còn người phát ngôn của Đoàn Việt Nam là ông Nguyễn Thành Lê thì nói "con kiến mà leo cành đào, leo phải cành cụt, leo vào leo ra"...
Đến ngày 30/10/1968, Tổng thống Mỹ Johnson phải tuyên bố chấm dứt ném bom miền Bắc Việt Nam hoàn toàn và vô điều kiện. Hai bên bắt đầu thảo luận về Hội nghị tiếp theo để giải quyết các vấn đề khác ở miền Nam Việt Nam.
Trong một buổi ngồi nói chuyện khi kết thúc hội nghị 2 bên giữa ông Xuân Thủy và Averell Harriman - Trưởng đoàn đàm phán phía Mỹ, Harriman tâm sự với ông Xuân Thủy rằng: "Tôi già rồi, trên 80 tuổi rồi, nên tai hơi khó nghe". Ông Xuân Thủy trả lời: "Bây giờ tôi mới biết ông nghễnh ngãng. Thảo nào chỉ có một câu là "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc" thôi mà tôi nói suốt gần 6 tháng ông mới nghe ra".
Bàn vuông, bàn tròn
Từ tháng 1/1969, cuộc đàm phán bước sang giai đoạn mới - đó là giải quyết vấn đề quân sự và chính trị ở miền Nam Việt Nam. Hai bên đều cho rằng, để giải quyết vấn đề này phải có mặt các bên miền Nam Việt Nam. Vì thế, phía Việt Nam đề nghị có đại diện của Mặt trận, còn phía Mỹ đề nghị có Đại diện của Việt Nam Cộng hòa.
Hội nghị 2 bên đã trở thành hội nghị 4 bên nhưng phía VNDCCH thì không công nhận VNCH, còn phía Mỹ thì không công nhận Mặt trận. Từ đó nảy ra vấn đề hình thù cái bàn. Đây không phải câu chuyện hình học mà là vấn đề chính trị. Nhiều người không hiểu được điều đó nên đã gửi cho Đoàn Việt Nam hàng chục bức phác họa hình thù cái bàn đủ hình dạng như hình vuông, hình chữ nhật, hình tam giác, hình oval, hình tròn… Chính phủ Pháp thì yêu cầu quyết định sớm để còn đóng bàn, nếu có quyết định rồi thì chỉ đóng trong một ngày là xong.
Ấy thế nhưng, cuộc tranh cãi về hình thù cái bàn kéo dài đến 2 tháng, từ 1/11/1968 đến 25/1/1969 mới họp được phiên đầu tiên của Hội nghị 4 bên là VNDCCH, Mỹ, Mặt trận và VNCH. Cuối cùng chiếc bàn họp Hội nghị 4 bên có dạng hình tròn và ở hai đầu đường kính có hai bàn hình chữ nhật. Như vậy, ai muốn hiểu là Hội nghị 2 bên hay 4 bên cũng được. Xung quanh bàn, Đoàn Việt Nam và Đoàn Mặt trận ngồi cách biệt nhau như hai Đoàn độc lập, còn Đoàn Mỹ và Đoàn VNCH thì ngồi sát với nhau.
Từ "bóng ma" thành Nữ hoàng
Trước đây Mỹ tuyên truyền rằng Mặt trận không có thật mà chỉ là bóng ma và chỉ có quân miền Bắc vào "xâm lược" miền Nam Việt Nam. Thế mà nay, Đoàn Mặt trận đã ngang nhiên đến Paris trong sự đón tiếp nồng nhiệt của bạn bè Pháp và Việt kiều mang theo khẩu hiệu và cờ của Mặt trận.
Lúc đầu, Đoàn Mặt trận do ông Trần Bửu Kiếm làm trưởng đoàn, bà Nguyễn Thị Bình là phó đoàn. Sau ngày 6/6/1969, Chính phủ CMLT được thành lập thì bà Nguyễn Thị Bình được cử làm Bộ trưởng Ngoại giao và làm Trưởng đoàn. Trên cương vị này, bà Nguyễn Thị Bình đầy duyên dáng, chững chạc và đàng hoàng đến Paris trong tiếng hoan hô nhiệt liệt của kiều bào. Hóa ra Việt cộng không phải là bóng ma mà là người thật, đại diện cho nhân dân miền Nam Việt Nam anh dũng chiến đấu và chiến thắng quân xâm lược. Truyền thông phương Tây gọi bà là "Nữ hoàng Việt cộng" (Queen of the Viet Cong).
Hai đoàn VNDCCH và Chính phủ CMLT là hai đoàn độc lập nhưng đều dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam, nên có người nói "hai là một, tuy một là hai".
Theo quy định thì Hiệp định do 4 Bộ trưởng ngoại giao ký. Trong số đó, đến nay, chỉ còn bà Nguyễn Thị Bình còn sống và tiếp tục hoạt động. Nhớ lại lúc ký Hiệp định, bà Bình tâm sự: Khi cầm bút ký, bà cảm thấy vừa vinh dự, vừa tưởng nhớ đến những chiến sĩ, đồng bào, bạn bè đã hy sinh trong chiến đấu, mà xúc động đến rơi nước mắt.
Cách đây ít lâu, một người bạn nước ngoài hỏi riêng bà Nguyễn Thị Bình rằng khi bà làm Trưởng đoàn đàm phán của Chính phủ MTLT ở Hội nghị Paris, bà có phải là Đảng viên Cộng sản không? Bà Bình mỉm cười trả lời: "Tôi đã được tặng huy hiệu 60 năm tuổi Đảng". Vừa qua, bà Nguyễn Thị Bình xuất bản cuốn hồi ký mang tên Gia đình, bạn bè và đất nước. Cuốn hồi ký này sẽ sớm có bản dịch tiếng Anh và một số ngôn ngữ quốc tế khác.
Ở tuổi 86, bà vẫn làm việc tích cực với cương vị Chủ tịch Quỹ Hòa Bình và Phát Triển VN, Chủ tịch danh dự Hội nạn nhân chất độc da cam. Chủ tịch danh dự Hội bảo trợ trẻ em, chủ nhiệm một đề tài khoa học về giáo dục cấp Nhà nước vì bà đã có 10 năm làm Bộ trưởng Giáo dục nước ta sau ngày thống nhất, cho đến nay vẫn là Nữ Bộ trưởng Ngoại giao đầu tiên và duy nhất của nước ta.
Kết thúc là Khởi đầu
Nếu Hiệp định Paris là kết thúc cho giai đoạn vừa đánh vừa đàm thì dó cũng là mở đầu cho một giai đoạn đấu tranh mới để đạt mục đích cuối cùng là giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Như trong thư chúc Tết của Bác Hồ "Vì độc lập vì tự do. Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào. Tiến lên chiến sĩ, đồng bào. Bắc Nam xum họp Xuân nào vui hơn". Hiệp định Paris quyết định hai vấn đề rất cơ bản, đó là sự thừa nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, là độc lập, tự do, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Hai là Mỹ phải rút hết quân đội, nhân viên và thiết bị quân sự ra khỏi miền Nam Việt Nam, còn quân đội VNDCCH vào giúp đồng bào miền Nam Việt Nam chống xâm lược thì không phải rút đi đâu cả.
Hiệp định đã được Hội nghị quốc tế gồm Bộ trưởng Ngoại giao 12 nước Ký định ước vào ngày 2/3/1973 thừa nhận. 12 nước bao gồm 4 Bộ trưởng ký Hiệp định Paris, 5 nước Hội đồng bảo an LHQ, 4 nước trong Ủy ban quốc tế Kiểm soát và giám sát (có 1 nước trùng là Mỹ), với sự hiện diện của Tổng thư ký LHQ. Điều này đã tạo ra một cục diện mới làm thay đổi cơ bản tương quan lực lượng để quân và dân Việt Nam có điều kiện giải phóng miền Nam Việt Nam, thống nhất đất nước, thực hiện lời tiên đoán và mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.
Đây là kết quả của cuộc đấu tranh kết hợp chặt chẽ của 3 mặt trận quân sự, chính trị và ngoại giao. Có thể nói nếu không có Tổng tấn công Tết Mậu Thân thì không có Hiệp định Paris. Nếu không có Hiệp định Paris thì không có Chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Trịnh Ngọc Thái

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét