Dấu ấn của văn hóa Ấn Độ trong văn hóa ở Đông Nam Á:
lịch sử và hiện tại
Thái Nguyễn Đức Minh
Quân[1]
Đông Nam Á là môt khu vực
lịch sử - văn hóa đặc biệt, có nền tảng chung được sản sinh trong điều kiện tự
nhiên thuận lợi ở khu vực, đồng thời nơi đây là cái nôi của nền nông nghiệp lúa
nước từ lâu đời, trải dài từ phía Nam sông Dương Tử đến vùng Đông Bắc Ấn Độ và
thậm chí sang cả châu Đại Dương. Trong lịch sử phát triển của mình, người dân
các nước Đông Nam Á đã không ngừng củng cố văn hóa bản địa, tăng cường tiếp thu
nền văn hóa bên ngoài, trong đó có văn hóa Ấn Độ, tạo điều kiện để văn hóa này
giao thoa với Đông Nam Á và để lại những dấu ấn văn hóa rất riêng, đậm chất Ấn
Độ ở khu vực Đông Nam Á. Chính việc giao thoa giữa Ấn Độ với Đông Nam Á đã hình
thành nhiều nền văn hóa khác nhau trên vùng đất này. Tất cả đã tạo nên sự thống
nhất và đa dạng của văn hóa khu vực Đông Nam Á ngày nay. Trong tham luận này, chúng
tôi không có tham vọng trình bày hết về những dấu ấn tiêu biểu của Ấn Độ trong
giao thoa văn hóa với Đông Nam Á, mà chỉ muốn trình bày những đặc trưng tiêu biểu
của văn hóa Ấn Độ trong việc giao thoa, tạo dấu ấn riêng biệt ở Đông Nam Á về một
số lĩnh vực chủ yếu, từ đó giúp người đọc có cái nhìn toàn cục về những dấu ấn
của văn hóa Ấn Độ trong văn hóa Đông Nam Á, từ đó giúp củng cố và phát triển
quan hệ Việt Nam - Ấn Độ ngày càng bền vững và lâu dài.
1. Khái quát về khu vực Đông Nam
Á và quá trình tiếp xúc văn hóa Ấn Độ vào khu vực Đông Nam Á
1.1. Khái quát về Đông Nam Á
Đông Nam Á – khu vực nằm giữa
Trung Quốc và Ấn Độ - từ lâu được xem là một khu vực địa lý - lịch sử, văn hóa,
đồng thời cũng là một trong những trung tâm văn minh phát triển nhất thế giới
với nhiều nét phát triển độc đáo. Về vị trí địa lý thì đây là một khu vực khá
rộng lớn với diện tích là 4,45 triệu km2, dân số là 568,3 triệu
người (số liệu năm 2012); phạm vi khu vực khu vực trải dài trên một phần Trái
Đất từ 92 – 140oĐ và từ 28oB đến 15oN. Về địa
lý hành chính, khu vực này gồm 2 phần đất liền và hải đảo, gồm 11 quốc gia là Brunei, Campuchia, Đông Timor,
Indonesia, Lào, Malaysia, Myanmar, Thái Lan, Philippines, Singapore
và Việt Nam. Với vị trí địa lý và phạm vi hết sức rộng lớn như vậy, Đông Nam Á
đã gần như thừa hưởng tất cả mọi đặc điểm mà hầu hết các vùng khác trên thế
giới đều có: khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm, cảnh quan sinh thái rất phong
phú và đa dạng. Ở Đông Nam Á do điều kiện địa lý của mình nên ngay từ thời xưa,
Đông Nam Á đã là nơi chịu ảnh hưởng của gió mùa (gió Tín phong, gió mậu dịch)
nên thời tiết ở khu vực này tương đối dễ chịu, con người sống một cuộc sống
thoải mái, tạo nên những cánh rừng nhiệt đới lớn và cũng chính vì thế mà Đông
Nam Á trở thành quê hương của nền văn minh nông nghiệp lúa nước, cây gia vị và
hương liệu. Ngoài ra, do vị trí địa lý đặc biệt của mình nên Đông Nam Á từ lâu
đã là nơi đan xen của nhiều loại địa bàn quy tụ như đồi núi, duyên hải, đồng
bằng, ven biển đã góp phần tạo nên sự đa dạng và phong phú của văn hóa tộc
người ở khu vực Đông Nam Á[2]. Trong quá trình phát
triển của mình, lãnh thổ Đông Nam Á gần tương đương với hiện nay cùng với nền
văn hóa Nam Á đặc trưng, mang tính bản địa sâu sắc. Cư dân Đông Nam Á hiện nay
là nói 4 ngữ hệ chính: Thái – Kadai , Nam Á, Nam Đảo, Tạng – Miến. Về mặt nhân
chủng, cư dân Đông Nam Á thuộc tiểu chủng Mongoloid phương Nam, người
Indonesiens cổ là tộc người đầu tiên và là tổ tiên của các tộc người có mặt ở
khu vực Đông Nam Á rộng lớn này. Tộc người này trong quá trình phát triển (gốc
gác là ở Trung Quốc, nhiều nhất ở Nam Trường Giang) đã thực hiện nhiều cuộc di
cư lớn về phía Nam; nhưng tiêu biểu nhất là sự kiện quân Tần tấn công vùng Lĩnh
Nam (tức nước Việt cổ) vào cuối thế kỷ III TCN. Trong cuộc tấn công này, trong
khi một số nhóm người Việt trụ lại ở Bắc Việt Nam và hình thành các tộc người
Việt (Bách Việt, Nam Việt, Đông Việt…) thì nhiều nhóm người Indonesiens di cư
vào phía Nam và dần bị phân hóa: một nhóm Indonesiens nói ngữ hệ Nam Á
chạy xuống vùng Miến Điện, Bắc Campuchia và hình thành người Môn; đại bộ phận
người Indonesiens còn lại rút về phía Nam. Ở Trung Bộ (vùng Quảng Nam – Quảng
Ngãi), người Indonesiens phân thành 5 tộc người là Churu, Giarai, Raglai, Edeh
và Chăm. Người Chăm chịu ảnh hưởng của Ấn Độ giáo nên sống ở miền biển, 4 tộc
người còn lại dị ứng với văn hóa Ấn Độ thì rút lên Tây Nguyên ở, giữ lại tính
Indonesiens bản địa, nói ngữ hệ Nam Á; một số tộc khác như Stieng, Mạ sinh sống
ở vùng Đông Nam Bộ ngày nay[3].
Chính sự di cư, phân hóa giữa các dân tộc trong khu vực đã làm cho dân cư Đông
Nam Á phong phú, đa dạng như ngày nay.
Do vị trí địa lý nằm ngay trên
con đường hàng hải giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương cho nên Đông Nam Á ngay
từ rất lâu đã được coi là hành lang, cầu nối giữa Trung Quốc, Nhật Bản với Ấn
Độ, Tây Á và Địa Trung Hải. Ngay từ sớm, đã có nhiều thương nhân, người đi buôn
đóng thuyền vượt biển sang buôn bán ở Đông Nam Á. Theo tài liệu khảo cổ học, W.
G. Solheim II nhận định những người sống ở vùng duyên hải Zulu, Mindanao,
Borneo là những người đầu tiên đóng thuyền vượt biển sang các vùng khác để trao
đổi, buôn bán từ 9.000 năm trước đây[4].
Thư tịch cổ Trung Hoa cũng ghi nhận các sư tăng như Khang Thái, Pháp Hiển,
Nghĩa Tĩnh, Trịnh Hòa, Chu Đạt Quan và Marco Polo đều đi thuyền sang Đông Nam Á
với các vai trò như buôn bán, truyền đạo hay lo công việc nhà nước. Họ đã ghi
chép và để lại nhiều tài liệu quý cho chúng ta nghiên cứu về Đông Nam Á. Người
Trung Quốc thời xưa gọi là Nam Dương (chỉ những nước nằm ở vùng đất phía Nam
Trung Quốc); Nhật Bàn gọi là Nam Yo (Nam Dương); người Arab gọi là Waq Waq,
Zabag; người Ấn Độ gọi là Suvanabhumi (Đất Vàng). Trong Thế chiến 2, Lord
Mountbatten (người thống lĩnh Bộ Tư lệnh tối cao của Anh ở Đông Nam Á) đã gọi
vùng đất này là Southeast-Asia.
Như vậy thì với vị trí địa lý
thuận lợi này đã tạo điều kiện cho cư dân Đông Nam Á phát huy những thành tựu
mình đạt được trong khu vực, đồng thời còn muốn tiếp nhận và giao lưu với các
nền văn hóa bên ngoài khu vực để làm văn hóa trong khu vực thêm phong phú, đa
dạng hơn và tạo sự phát triển mạnh mẽ hơn trong khu vực Đông Nam Á vốn đa dạng
này; trong đó nền văn hóa Ấn Độ là nền văn hóa tiêu biểu nhất và đó cũng chính là vấn đề chính mà chúng tôi muốn
đề cập trong bài tham luận này. Ấn Độ là một quốc gia rộng lớn do người Arya
thành lập vào thiên niên kỷ II – I TCN ở miền Bắc Ấn Độ. Người Arya xâm nhập vào
Ấn Độ vào năm 1500 TCN, chiếm đất của người bản địa Dravida và nhanh chóng xác
lập sự thống trị của mình ở Ấn Độ ở thời kỳ Vedda (1.500 – 1.000 TCN). Đến thời
kỳ thành lập nhà nước, người Arya bắt đầu tạo lập nền văn hóa Ấn Độ sơ khai:
công nhận Balamon là quốc giáo, hai sử thi Mahabharata - Ramayana của Balamon
và 2 tôn giáo lớn là đạo Phật, đạo Jaina ra đời[5]
và cho ra nhiều thành tựu đặc sắc. Đến thời kỳ vương triều Morya của đế quốc
Magadha (321 – 187 TCN) và vương triều Gupta – Harsha (320 – 647) thì văn hóa
Ấn Độ mới có điều kiện thuận lợi để tràn xuống phía Nam và ảnh hưởng ra xung
quanh, trong đó có vùng Đông Nam Á rộng lớn này. Đối với vùng đất Đông Nam Á
này, văn hóa Ấn Độ đã xâm nhập vào sâu trong vùng đất này, phát triển và bước
đầu tạo những dấu ấn riêng biệt góp phần làm cho văn hóa Đông Nam Á vốn đã đa
dạng trên nền tảng nền văn hóa bản địa vốn có từ lâu đời lại càng phát triển,
tạo nên nền văn hóa ở Đông Nam Á phong phú, đa dạng như hiện nay.
1.2. Quá trình du nhập và lan tỏa của văn hóa Ấn Độ
vào khu vực Đông Nam
Á
Trước khi người Hồi và người
phương Tây biết tới Đông Nam Á thì người Ấn Độ đã biết đến vùng đất này từ khá
sớm, khoảng thiên niên kỷ II – I TCN. Nhiều tài liệu lịch sử ghi nhận, trong
thời kỳ này đã có người Ấn Độ đến vùng Đông Nam Á, nhưng người ta cũng chưa rõ
là họ đến đây từ sớm để làm gì (buôn bán, truyền giáo ?) mà chỉ biết rằng, họ
đến nơi này để tìm vàng vì nhiều sách viết rằng, nơi đây có nhiều vàng (nhiều
tài liệu gọi là Suvanabhumi – Xứ sở Vàng), nhiều hương liệu quý giá nên đã kích
thích họ đến vùng Đông Nam Á này; tuy nhiên vào thời kỳ đó thì dân cư cũng còn
thưa thớt (vài chục đến vài trăm nghìn người), phương tiện di chuyển còn thiếu
thốn nên việc sang khu vực Đông Nam Á có phần bị hạn chế. Nhưng về sau, do nhu
cầu phát triển kinh tế, cộng với dân cư tăng nhanh và phương tiện di chuyển
trên biển được cải tiến nhiều, người Ấn Độ đã có thể đi sang Đông Nam Á và lúc
này, mục đích rõ ràng hơn: họ không phải đến đây tìm vàng nữa mà đến để trao
đổi, buôn bán với các xứ khác.
Niddesa, một thư tịch Phật
giáo viết bằng tiếng Pali đã ghi nhận, người Ấn Độ đã thường xuyên qua lại ở
các địa điểm: Takkola (chợ Đậu khấu) ở Bắc Malaysia, Kupuradvipa (Đảo Long
não), Nakikelavidpa (Đảo Dừa) và Đảo Vàng – chỉ vùng Indonesia; với mục đích là
buôn bán các sản vật quý, gia vị, hương liệu… với Đông Nam Á để trao đổi với
các xứ khác. Đặc biệt thì từ sau Đại hội Phật giáo đầu tiên ở Pataliputra (242
TCN), đại đế của nước Magadha là Ashoka đã khuyến khích các nhà sư, nhà tu hành
Ấn Độ sang Đông Nam Á, trước hết là Ceylan, Myanmar, Malayu (thuộc Malaysia)…
mà dấu tích còn để lại ở vùng lưu vực Menam: các tượng Phật theo phong cách
Dvaravati ở Myanmar; tượng Phật ở Đồng Dương, Sumatra và một số hiện vật ở Óc
Eo (An Giang). Tiếp đó, từ thế kỷ I – II thì do Ấn Độ loạn lạc nên làn sóng di
cư của người Ấn Độ sang Đông Nam Á ngày càng nhiều hơn, mà nguyên nhân dẫn đến
hiện tượng này có thể là:
Thứ nhất, một số tiểu quốc,
vương quốc lớn thấy dân cư của vương quốc mình quá nhiều nên ra chính sách di
cư để đưa dân sang nơi khác để tránh sức ép về gia tăng dân số; tiêu biểu là
các vương quốc Kushan, Adhra, Gupta… Dưới tác động của chính sách trên, nhiều
người Ấn đã di cư sang các vùng đất mới lạ ở Đông Nam Á, thiết lập các khu định
cư và thường thì các khu định cư là tên của các địa danh Ấn Độ cũ: Campuchia –
tên gốc là Kambuja (một thành phố nổi tiếng ở Tây Bắc Ấn Độ cổ xưa).
Thứ hai, người Ấn Độ di cư
mạnh mẽ sang Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng, trước hết là do sự gần
gũi về địa lý, sự tương đồng về cơ tầng văn minh nông nghiệp cổ xưa, sự giống
nhau về phong tục tập quán, văn hóa dân gian, di tích khảo cổ…
Thứ ba, do nhu cầu tìm sản
vật địa phương và mở rộng địa bàn buôn bán mới. Đúng như vậy, việc các lái buôn
Ấn thi nhau sang tìm vàng ở khu vực Đông Nam Á đã đẩy nhanh tốc độ giao lưu,
giao thoa văn hóa giữa hai khu vực. Do được buôn bán ở Đông Nam Á, người Ấn Độ
học được của họ kỹ thuật hàng hải – nghề đi biển, một thứ kỹ thuật mà xưa kia
họ chưa hề biết đến, hoặc nếu có thì biết qua sách vở chứ chưa có thực tế. Họ
học được nghề đóng thuyền, đóng tàu buồm lợi dụng sức gió mùa của người Ba Tư
để chở nhiều người (600 – 700 người), thực hiện chuyến đi dài ngày trên biển và
vận chuyển nhiều hàng hóa hơn để sang khu vực Đông Nam Á trao đổi, buôn bán. Để
tạo điều kiện cho các chuyến đi biển diễn ra thuận lợi, người Ấn Độ lập chợ
búa, hải cảng ở Nam Ấn, Đông Ấn, Java, Malaya… để hoạt động đường biển được
tiện lợi hơn.
Thứ tư, đó là do sự phát
triển của các tôn giáo, nhất là Phật giáo; các tư tưởng của Phật giáo nhanh
chóng phát triển thuận lợi là do giáo lý của nó. Trước kia, người Ấn Độ theo
Balamon giáo rất sợ tiếp xúc với người bên ngoài, vì nếu tiếp xúc thì họ sẽ bị
xem là “không trong sạch” và bị đuổi ra khỏi đẳng cấp. Quy định ngặt nghèo đó
phần nào cản trở việc xuất dương của họ ra bên ngoài. Nhưng các tín đồ Phật
giáo đã gạt bỏ những điều cấm đoán đó; dùng tư tưởng “không thành kiến về chủng
tộc” của mình để mở đường cho người Ấn Độ di cư sang Đông Nam Á một cách thuận
lợi. Tận dụng điều kiện thuận lợi đó, nhiều thương nhân, nhà tu hành vả thủy
thủ và cả những vị tu sĩ Balamon đã vứt bỏ thành kiến đã xuất dương sang Đông
Nam Á. Đông Nam Á với những mảnh đất xanh tươi màu mỡ, dân cư hiền hòa và hiếu
khách đã hấp dẫn họ. Khi định cư hẳn nơi này, họ bắt đầu lập những khu định cư
rồi sau đó biến những nơi này thành những trung tâm văn hóa, kinh tế với biểu
hiện ngày càng rõ nét của văn hóa Ấn Độ, đồng thời có sự đan xen của văn hóa
địa phương.
Ở những nơi thuận lợi, từ các
tổ chức kinh tế sơ khởi thì người Ấn Độ bắt đầu hình thành các quốc gia chính
trị có tổ chức; và các quốc gia này được người phương Tây gọi là các quốc gia
“Ấn Độ hóa” (Hindouisés – từ dùng của Coedes) và thời kỳ này người ta gọi là
thời kỳ “Ấn Độ hóa”. Mặc dù cách dùng như vậy chưa đúng lắm vì nhiều quốc gia ở
khu vực Đông Nam Á còn đang thời kỳ tiền văn minh, mông muội và những nước này
vẫn còn giữ lại bản sắc văn hóa dân tộc riêng mình, khác Ấn. Chúng ta dùng
thuật ngữ “Ấn Độ hóa” với 2 ý nghĩa: Một
là, “Ấn Độ hóa” là chỉ các quốc gia chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Ấn
Độ; Hai là, “Ấn Độ hóa” còn có ý
nghĩa chỉ một quá trình dài ngày diễn ra trong nhiều thế kỷ, thâm chí cho đến
nay ngoài hàm ý dẫn dắt, hướng dẫn người dân hướng theo tôn giáo mới (Ấn Độ
giáo, Phật giáo), còn cố gắng sàng lọc những cái gì không phải của Ấn Độ và cố
gắng cho trào lưu này (ý nói: trào lưu Ấn Độ hóa) được hiện thực hóa trong cuộc
sống hàng ngày từ chính trị, kinh tế đến văn hóa – nghệ thuật[6].
Về thực chất, công cuộc “Ấn Độ hóa” của người Ấn Độ đến Đông Nam Á không phải
là dùng vũ lực để đánh chiếm, mà là cuộc thâm nhập hòa bình không có kế hoạch
nào cả. Các quốc gia này không lệ thuộc vào Ấn Độ mà nó chỉ quan hệ với người
Ấn về kinh tế, chính trị, xã hội. Tuy nhiên, kết quả của sự thâm nhập đó là hết
sức to lớn: thúc đẩy nhanh quá trình truyền bá văn minh Ấn Độ sang Đông Nam Á,
góp phần đẩy mạnh quá trình tan rã của công xã thị tộc bộ lạc và sự hình thành
xã hội có giai cấp và nhà nước ở đây; đồng thời thì ảnh hưởng này cũng lan rộng
trong chiều dài lịch sử các nước Đông Nam Á về sau này.
2. Những dấu ấn của văn hóa Ấn Độ qua từng phương diện
trong giao thoa văn hóa với khu vực Đông Nam Á
Ở phần trên chúng ta đã đề cập
thì, do tình hình Ấn Độ bị loạn lạc – chia cắt liên tục (lịch sử Ấn Độ là lịch
sử của sự chia cắt - sự tồn tại lâu dài thiết chế công xã làm cản trở sự thống
nhất của Ấn Độ[7])
nên người Ấn Độ có xu hướng muốn ra bên ngoài để sinh sống và làm ăn. Trong Phát hiện Ấn Độ, Nehru chỉ ra rằng những
người Ấn Độ sau khi vượt qua hàng rào núi cao, biển rộng, không chỉ mang theo
tư tưởng mà còn mang theo nghệ thuật, ngôn ngữ, văn học và thiết chế chính trị
để rồi từ đó, họ đã cùng với dân bản địa xây dựng các quốc gia “Ấn Độ hóa”, và
để lại những dấu ấn không thể phai nhạt trong quá trình giao thoa với văn hóa
Đông Nam Á trên nhiều phương diện như: ngôn ngữ, tôn giáo, văn học, thiết chế
nhà nước ở các quốc gia Đông Nam Á. Và một điều chắc chắn rằng, nền văn hóa Ấn
Độ khi du nhập và giao thoa với văn hóa bản địa thì sẽ tạo nên nhiều sắc thái
đa dạng song không làm mất đi bản sắc địa phương. Giáo sư Lương Ninh đã nhận
xét rất xác đáng: “Hình như mỗi nước Đông Nam Á đã chọn trong cây cổ thụ xum
xuê của Ấn Độ một vài cành lá thích hợp với mình”[8].
2.1. Thiết chế nhà nước
Dấu ấn đầu tiên của văn hóa Ấn
Độ trong quá trình giao thoa với văn hóa Đông Nam Á được thể hiện ở phương diện
thiết chế nhà nước. Thời kỳ đầu trước khi người Ấn Độ di cư vào Ấn Độ thì cư
dân ở khu vực Đông Nam Á còn đang sống trong thời kỳ mông muội, thời kỳ nông
nghiệp Đông Nam Á rất phát triển nên dẫn tới xu hướng tập quyền là phổ biến.
Biết được điều này, cư dân Đông Nam Á đã hợp nhau hình thành những liên minh bộ
lạc – tiền đề cơ bản cho sự thành lập của quốc gia thống nhất. Nhưng do trình
độ nhận thức còn hạn chế nên họ chưa biết chon hình thức nào làm hình thức
chính cho quốc gia mới sắp thành lập của mình; trong lúc họ đang bí về thiết
chế nhà nước thì người Ấn Độ đã đến, mang theo một thiết chế nhà nước vốn còn
rất xa lạ với người bản xứ - thiết chế Mandala. Mandala là thiết chế nhà nước đặc
biệt trong lịch sử Đông Nam Á, là dấu ấn
quan trọng nhất của người Ấn Độ trong quá trình giao thoa văn hóa với vùng Đông
Nam Á lịch sử. Về khía cạnh tôn giáo, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, nó có
nguồn gốc từ thần thánh – hàm ý chỉ một thể chế chính trị, xã hội và tôn giáo
phổ biến ở Đông Nam Á. Trong tiếng Sankrit, mandala
có nghĩa là vòng luân xa thần thánh (sacred circle); dịch theo tiếng Hán nghĩa
là một hình vẽ biểu thị vũ trụ. Đó là một biểu đồ bao gồm những hình vuông,
vòng tròn đồng tâm, có các vị thần ngồi trên tòa sen theo một hệ thống rất có trật
tự. Nhiều nghiên cứu chi tiết hơn thì cho rằng, mandala là một từ ghép gồm hai
từ “manda” là “bản chất”; “la”
là “cái chứa đựng”, “người sở hữu” và “biển chỉ đường”[9].
Như vậy, mandala xét về thực chất thì nó là một thể tổng hợp của nhiều yếu tố
khác biệt vào một sơ đồ chung duy nhất mà thông qua sự thiền định có thể nhận
thức bản chất của sự tồn tại.
Về phương diện chính trị,
mandala phát sinh từ một chữ Phạn dịch ra tiếng
Tây Tạng là “Dkyilkhor”, nghĩa là “Trung tâm và ngoại vi”; tuy nhiên
do ý nghĩa còn chung chung nên người ta chưa hiểu rõ tường tận: vậy thiết chế
chính trị của Đông Nam Á là thiết chế gì ? Thiết chế đó được biểu hiện như thế
nào trong tổ chức nhà nước Đông Nam Á ? Sau một thời gian dài suy nghĩ và tìm
tòi, cuối cùng vào năm 1982 giáo sư O. W. Wolters đã tìm ra lời giải đáp cho
câu hỏi trên. Trong tác phẩm History, Culture and region in Southeast
Asian Perspertives xuất bản năm 1982, ông định nghĩa Mandala là “một trạng thái chính
trị và thường là không ổn định trong một khu vực địa lý được
xác định mơ hồ vì không có những đường ranh giới cố định, tại đó những trung
tâm nhỏ hơn có xu hướng vươn ra mọi phía”[10].
Chúng ta xem xét ở khu vực
Đông Nam Á, nơi mà dấu ấn của Ấn Độ được thể hiện rõ nét nhất. Ở Đông Nam Á,
mandala bao gồm một chính quyền trung ương và các chính quyền chư hầu
(tributary rulers). Vua đứng đầu chính quyền trung ương, nắm vương quyền và
thần quyền; vua phân phong đất đai cho các chư hầu và ràng buộc họ bằng quan hệ
tôn chủ - bồi thần (giống với phong kiến châu Âu đầu thời kỳ Trung đại). Tuy
nhiên do quyền lực địa phương còn lớn nên dẫn đến tình trạng quốc gia chư hầu
đòi xóa bỏ phụ thuộc trung ương và tự độc lập và thậm chí, một số chư hầu có
thể rời bỏ địa vị chư hầu của họ khi có cơ hội và nỗ lực xây dựng một mạng lưới
chư hầu cho riêng họ. Mandala không có biên giới nhất định, biên giới chỉ thay
đổi tùy theo quyền lực và sức mạnh, tầm ảnh hưởng của vương quyền thống trị.
Các quốc gia có thể chế mandala thời kỳ đó là Champa, Phù Nam , Chân Lạp, Pagan, Sukhothay –
Ayuthaya. Chúng ta cụ thể hơn một chút: ở Champa (và các quốc gia khác như
Sukhothay – Ayutthaya ;
Pagan, Chân Lạp…), dấu ấn của Ấn Độ ở phương diện chính trị là Vua nắm vương
quyền và thần quyền (ruộng đất, mở rộng lãnh thổ, khơi thông thủy lợi…). Sau
Vua là một bộ máy quan lại bao gồm nhiều vị quan, làm nhiều việc khác nhau: Vua
Chân Lạp tổ chức bộ máy nhà nước gồm Tể tướng và 4 Thượng thư; Vua Xiêm (Thái
Lan) tổ chức bộ máy quan lại là Tể tướng, sau ông có 4 bộ (Kun) là Kunna (bộ
điền địa), Kunvang (Bộ lễ); Kunklang (Bộ tài chính); Kunmuong (Bộ nội vụ); ở
Lan Xang thì Vua tổ chức bộ máy nhà nước đứng đầu là Tể tướng, kế là Hội đồng
Bô lão (Sen Muong) và bộ máy quan lại có 3 người gồm 2 vị quan tiền; 1 vị quan
hậu. Vị quan tiền lo việc quân đội (thời chiến) và đối ngoại, nghi lễ (thời
bình); còn vị quan hậu lo việc nội chính, tài chính….
Ngoài ra, dấu ấn Ấn Độ trong
chính trị Đông Nam Á còn thể hiện trong vấn đề kế thừa dòng Cha – Mẹ. D. G. E.
Hall trong sách Lịch sử Đông Nam Á,
dẫn lời của một nhà nghiên cứu về Đông Nam Á là Sahai thì cho rằng, hệ thống kế
vị (dòng nam – dòng nữ) là mối quan hệ giữa ảnh hưởng của con gái và con trai
trưởng, và có nhiều ví dụ về ảnh hưởng của trưởng nam hơn trưởng nữ. Sahai nói
thêm rằng các vị quan thượng thư có vai trò quyết định trong việc lựa chọn các
ứng viên để cho các giáo sĩ đưa lên ngôi. Ngoài ra, dấu ấn của Ấn Độ trong
chính trị Đông Nam Á thể hiện ở chỗ là tăng cường tính thần quyền của Vua: đồng nhất Vua – Thần. Nguồn gốc của tập
tục Vua – Thần này có thể là sự kết hợp tập tục này với tập tục thờ cúng tổ
tiên cổ xưa và gắn lên với truyền thuyết núi Meru của người Ấn Độ cổ xưa. Các
vị vua khi lên ngôi sẽ được giáo sĩ Balamon chúc tụng niệm, đồng nhất Vua với
Thần. Ở Myanmar ,
Vua được đồng nhất với Thagyamin (tức Indra). Ở Campuchia thì Vua đồng nhất với
thần Shiva (sau thì đồng nhất với Vishnu, Lokesvara), coi vua là trung tâm của
đất nước và các nơi xung phải thần phục, tôn sùng vua. Ở một số nước theo Phật
giáo, vua thường tự xưng mình là Đức Phật phôi thai. Ở Campuchia theo Phật giáo
Đại thừa, vua tự xưng là chakravartin, nghĩa là Đức Phật phôi thai. Ngay cả vua
đầu tiên của triều Konbaung (1752 – 1885) của Myanmar lấy vương hiệu là
“Alaungpya” (Đức Phật phôi thai). Các biểu trưng của vua đếu có chức năng thần
thông, đặc biệt là hoàng bào và thanh kiếm thần, lọng trắng…, vua sau khi băng
hà cũng được đặt thụy hiệu theo tên vương hiệu + tên vị thần. Các vị quan phò
tá vua gọi là “cột trụ của vua” có quyền hành lớn.
Dấu ấn của Ấn Độ trong giao
thoa với Đông Nam Á còn thể hiện nhiều trong lĩnh vực pháp luật. Theo PGS, TS
Nguyễn Văn Kim, các quốc gia Đông Nam Á đã tiếp
thu tinh thần và nguyên tắc biên soạn luật pháp của “Thiên Trúc”(Ấn Độ) vào việc biên soạn bộ luật
cho quốc gia của mình[11]. Về
nội dung, luật pháp thời kỳ này bảo vệ những lợi ích, đặc
quyền của giai cấp thống trị hay các thế lực tôn giáo. Những điều khoản về việc
bảo vệ tài sản, về quyền lực đối với nô lệ được đặc biệt coi trọng. Hiển nhiên,
cũng giống như nhiều bộ luật nổi tiếng trên thế giới, những tầng lớp xã hội bên
dưới, những “kẻ tiện dân”nếu vi phạm luật pháp thì đều bị trừng phạt vô cùng
hà khắc. Nói cách khác, cũng như chính trị, quân sự… luật pháp luôn là công cụ
của kẻ mạnh và bảo về lợi ích của những người quyền thế”[12].
2.2. Tôn giáo
Đồng thời với để lại dấu ấn
của mình trong thế chế chính trị, người Ấn Độ còn để lại dấu ấn của minh vào
Đông Nam Á trên phương diện tôn giáo, cụ thể là Ấn Độ giáo và Phật giáo.
Về Ấn Độ giáo thì: ngay từ khi
cư dân bắt đầu di cư sang Đông Nam Á thì các vị tu sĩ Balamon đã đi theo và khi
đến nơi thì đã truyền bá tôn giáo này của mình cho người dân khu vực Đông Nam
Á. Cư dân Đông Nam Á cũng như các thủ lĩnh thị tộc, bộ lạc đã nhanh chóng tiếp
thu và ứng dụng vào việc củng cố chính quyền; người dân cũng tiếp thu để giúp
cho cuộc sống của họ được sung túc, vui vẻ hơn. Vào buổi đầu khi vào Đông Nam
Á, các tu sĩ Balamon và các thủ lĩnh địa phương đã đóng một vai trò quan trọng
trong việc thể chế hóa tín ngưỡng, tổ chức nhà nước và xã hội ở Đông Nam Á;
nhiều tu sĩ Balamon khi sang Đông Nam Á đã được vua chúa nơi đây trọng dụng và
được cử vào nắm những chức vụ cao trong chính quyền. Để tỏ lòng biết ơn cho sự
ưu đãi đó, nhiều tăng lữ Balamon ban phước lành cho các Vua bản địa trở thành dòng dõi của các triều đại Mặt Trăng, Mặt Trời bên
Ấn Độ hoặc dòng dõi của những bậc thánh hiền có liên quan đến các thần. Các tu
sĩ Balamon thực hiện các nghi thức Ấn Độ giáo để tôn phong các Vua bản địa,
giúp vua cai trị tốt thông qua các điều phán bảo mà mình đưa ra và xây dựng
triều đình theo kiểu của vương triều Ấn Độ. Ngoài ra, các tu sĩ Balamon còn
dựng tượng các thần, nhưng đổi tên cho phù hợp; đồng thời đặt ra các lễ cúng
thần, phong tục của người Ấn Độ áp dụng vào Đông Nam Á. Thần Trời nguyên thủy
của bản địa được Ấn Độ giáo hóa thành
Shiva, tôn giáo thịnh hành nhất thời đó chính là Shiva giáo.
Ngoài Ấn Độ
giáo thì Phật giáo là tôn giáo thứ hai được người Ấn Độ du nhập vào Đông Nam Á,
và nó có ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng – tôn giáo của người dân nơi đây. Phật
giáo là tôn giáo do tầng lớp vương công – đại diện là thái tử xứ Kapilavastu
Siddharta Gautama (563 – 483 TCN) – thành lập với mục đích chống lại sự lũng
đoạn, mâu thuẫn giữa nhân dân – tầng lớp Balamon vốn có từ lâu khi người Arya
xâm nhập và thống trị người Dravida bản địa vào 1.500 – 1.000 TCN. Với tư tưởng
của mình (tư tưởng về sự diệt khổ, sự chống lại những cái ác – cái bất công để
xây dựng niềm tin cho con người), Phật giáo đã nhanh chóng lan tỏa và bắt rễ
sâu trong lòng quần chúng nhân dân. Vào thời Ashoka (273 – 232 TCN), đế quốc
Magadha ở Ấn Độ phát triển cực thịnh; ông đã thực hiện chính sách khoan dung
tôn giáo, đề cao Phật giáo và tạo điều kiện thuận lợi để nó phát huy ảnh hưởng
ra bên ngoài, nhất là vùng Đông Nam Á – khu vực láng giềng và gần gũi với Ấn
Độ.
Thời kỳ đầu
khi Phật giáo bắt đầu tạo chỗ đứng ở Ấn Độ (về sau bị tách thành phái Đại thừa
– phái Tiểu thừa), tôn giáo này đã dần dần có ảnh hưởng ra bên ngoài mà địa
điểm gần nhất với Ấn Độ là Sri
Lanka . Thời Ashoka chính là thời kỳ mà Phật
giáo phát triển nhất và truyền bá ra bên ngoài mạnh nhất và quy mô nhất. Theo
sử cũ, Phật giáo đã lan truyền ra khắp nơi: Campuchia, Myanmar, Lào, Thái Lan,
Việt Nam…, trong thời gian từ thế kỷ I đến thế kỷ VIII (tùy nơi), là những quốc
gia tiêu biểu và có ảnh hưởng tương đối rõ của Phật giáo vào các nơi này, nhưng
được lan truyền qua nhiều con đường khác nhau và mức độ lan truyền không giống
nhau, nên sẽ dẫn tới việc Phật giáo có ảnh hưởng không đều giữa các quốc gia
này. Và chúng tôi cũng không ngoa khi cho rằng, Phật giáo của Ấn Độ giao thoa
rất tốt với văn hóa bản địa mà dấu tích còn để lại đó chính là tượng Phật
(Myanmar, Phù Nam, Champa…), hình Phật (Thái Lan, Indonesia…), bánh xe luân
hồi; bia ký (Champa). Trong suốt nhiều thế kỷ sau đó, với sự hỗ trợ nhiệt tình
của triều đình cũng như các sư tăng, Phật giáo đã thâm nhập sâu và ngày càng có
vai trò to lớn trong các lĩnh vực ở Đông Nam Á, đặc biệt là lĩnh vực giáo dục.
Ngôi chùa không chỉ là trung tâm văn hóa mà còn là hình tượng “chân, thiện, mỹ”
đối với mọi người dân, trở thành nơi lưu giữ văn hóa, tri thức của dân chúng.
2.3. Chữ
viết:
Hai ngôn ngữ
cổ Ấn Độ là chữ Phạn (Sankrit) và chữ Pali góp phần quan trọng hình thành nên
các ngôn ngữ ở Đông Nam Á. Từ rất sớm, người Chăm đã dùng chữ Phạn để ghi chép
các sự kiện, hiện tượng diễn ra trong cuộc sống của con người và tình hình quốc
gia mà dấu tích còn để lại đó là các văn bia, bia ký. Bia Võ Cạnh với cách viết
gần với kiểu viết của các bia ký Amaravati ở Nam Ấn Độ đã được các nhà nghiên
cứu định niên đại ở thế kỉ III - IV là bằng chứng đầu tiên về sự du nhập của chữ Phạn vào Champa.
Trên cơ sở chữ Phạn, người Chăm sáng tạo ra chữ viết cho riêng họ. Chữ viết
Chăm cổ gồm có 31 phụ âm và 32 âm sắc; xuất hiện lần đấu tiên trong bia Đông
Yên Châu (Quảng Nam ).
Đây là tâm bia cổ nhất ghi bằng chữ địa phương ở Đông Nam Á[13].
Các nguồn sử liệu Trung Quốc cũng chép rằng ngay từ trước thế kỷ VII, người
Chăm dùng văn tự của mình để ghi chép kinh sách và trao đổi thư từ. Năm 605,
Lưu Phương, viên tướng của nhà Tùy (Trung Quốc) sau khi bình định Giao Châu đã
đem quân đánh Lâm Ấp, thu về 18 thần chủ bằng vàng và hơn 1.350 bộ kinh Phật và
nhiều sách viết bằng chữ Chiêm bà[14].
Theo các nhà nghiên cứu, chữ Chăm cổ có đến 16 nguyên âm, 31 phụ âm và 32 âm
sắc và chính tả[15].
Theo sự nghiên cứu của Antoine Cabaton (Pháp) thì trong suốt quá trình tồn tại
của mình, người Chăm dùng số kiểu chữ Ấn Độ như akhar rik (chữ thánh), akhar tapuk
( chữ sách), akhar ator (chữ treo), và phổ biến hơn cả là chữ thảo (akhar
thrah). Chữ thảo là loại chữ mà người Chăm hiện nay còn sử dụng. Loại chữ akhar thrah cũng có một số biến thể như:
akhar yok (chữ thần bí), akhar atwơt (chữ viết tắt, chữ treo) và akhar galinưng
(chữ viết tháu, chữ con nhện)[16].
Từ thế kỷ XI thì chữ Chăm phổ biến là nét cong, nhưng đến thế kỷ XIV – XV thì
chữ Chăm có nét vuông và được dùng phổ biến trong các bia ký Chăm.
Chữ Khmer bắt nguồn từ miền Nam Ấn
Độ và theo truyền thuyết thì xuất hiện vào khoảng thế kỷ II. Nhưng tấm bia đầu
tiên của người Khmer bằng chữ Khmer cổ mà hiện nay ta biết được đó là bia
Angkor Borey (tỉnh Takeo, Campuchia) có niên đại năm 611[17].
Bia này nói về việc dựng một ngôi đền trong đó có 22 nhạc công và vũ nữ, 58 nô
lệ làm ruộng, 100 bò và 20 trâu. Thế kỷ VIII, loại chữ này được phát triển và hoàn
thiện dần vào thế kỷ XV. Thời kỳ Angkor là
thời kỳ chữ Khmer hoàn thiện nhất và các văn bản, bia ký của nó được ghi chép,
trau chuốt rất tỉ mỉ. Chữ Khmer thời kỳ phong kiến Angkor có đặc điểm: coi
trọng phụ âm là chính, nguyên âm là phụ nên các phụ âm được bao quanh bởi các
nguyên âm; cách sắp xếp chữ cái thì giống Ấn Độ: phụ âm đứng trước nguyên âm,
và nguyên âm được tính từ trong ra ngoài theo vị trí của cấu âm. Ngoài ra,
người Khmer cũng rất thông minh khi đặt ra ký hiệu ghi phụ âm của người Ấn thành
nguyên âm của người Khmer; họ dùng 2 ký hiệu: khosak để ghi phụ âm có “âm thanh to”, akhosak để ghi phụ âm có “âm thanh nhỏ”; đó chính là cách giải
quyết chữ viết của người Khmer khi sử dụng ngôn ngữ Ấn Độ. Ở nước Myanmar thì
trên cơ sở chữ Pali, người Miến Điện (tức người Môn) sáng tạo ra chữ viết Môn
cổ mà dấu tích còn để lại là các văn bia viết bằng chữ Môn cổ xuất hiện ở thành
phố Thaton (thế kỷ VI) ở lưu vực sông Menam. Thế kỷ XI, chữ Miến xuất hiện thay
thế chữ Môn và phát triển mạnh ở Pagan, Srivijaya với hình thù của nó là chữ
nét tròn. Về cơ bản, tiếng Miến là đơn âm tiết và dùng nhiều tiểu từ có tiếp
thu từ Tây Tạng; từ đa âm tiết của tiếng Pali; có 4 thanh điệu[18].
Chữ Malay cổ xuất hiện sớm nhất vào năm 683 trên tấm bia Bangkar[19].
B. Prahike, một học giả Liên Xô nhận định: “có
thể có chữ viết Melayu cổ có chứa tải những bản dịch bằng tiếng Sankrit, nhưng
dấu tích đó đã bị mất đi như văn học sơ khai của Chăm và Khmer”[20].
Theo nhiều tài liệu khảo cổ đã
biết, chữ Thái cổ xuất hiện khoảng thế kỷ VII – VIII ở Bắc Đông Dương, Bắc Myanmar mà tổ
tiên của nó chính là chữ Pegu cổ và chữ Shan cổ vốn có nguồn gốc ở Ấn Độ truyền
sang từ lâu đời. Từ hai loại chữ đầu tiên này, cư dân Thái vốn sinh sống ở Bắc
Đông Dương vào thế kỷ X – XI tiếp thu và cải biên thành chữ Thái Lan vào thế kỷ
XIII. Bia đầu tiên khắc chữ Thái Lan cổ là bia Rama Kamheng có niên đại năm
1296. Bia này viết: “Trước đây chữ Thái
này chưa có. Năm 1205 Shaka (1283), Phà Khun Rama Kamheng đã tìm kiếm và ao ước
sử dụng chữ Thái. Cho nên đã có những dòng chữ này”[21].
Như vậy có thể nhận định chữ Thái xuất hiện đầu tiên vào năm 1283, mãi đến 1296
mới được ứng dụng rộng rãi trong khắc bia, viết văn, làm thơ…
Trên nền tảng chữ Thái, chữ
Lào có thể hình thành muộn hơn một chút, vào cuối thế kỷ XIV. Chữ Lào bắt nguồn
từ chữ Khmer và sau này chịu ảnh hưởng của chữ Môn, đã hình thành chữ Thăm[22]
dùng để viết kinh Phật. Một số triều đại cổ Lào đã sáng tạo ra kiểu chữ riêng,
nhưng về cơ bản đã có những nét chung: được hình thành từ dạng chữ Khmer gấp
khúc, nhiều cạnh với chữ Môn nét cong mềm mại. Nhưng mãi tới thế kỷ XVI thì mới
có chữ Lào chính thức xuất hiện ở mặt bên của tấm bia khánh thành bệnh viện Say
Phong. Điều này chứng tỏ chữ Lào đã được sử dụng song song với chữ Khmer. Lời
huấn thị của Vua Lào Pha Ngừm năm 1353 hoàn toàn bằng tiếng Lào phổ thông có
thể đã được viết bằng một thứ chữ Lào đã có từ thế kỷ XIV. Chữ Lào vừa gọn gàng
lại có đường nét duyên dáng, khác với chữ Khmer và Thái Lan[23].
Còn các văn khắc bằng chữ Lào mà chúng ta biết hiện nay có niên đại tương đối
muộn – đó là bia Vat That 1548, bia Donsai 1560 và Thạt Luông 1566.
2.3. Văn học
Các tác phẩm văn học Ấn Độ như
Mahabharata và Ramayana khi truyền xuống Đông Nam Á đã nhanh chóng thâm nhập
vào khu vực này, để lại dấu ấn không thể phai mờ trong lịch sử văn học thế giới.
Lĩnh vực văn học dân gian là
lĩnh vực mà văn học Đông Nam Á nhắc tới nhiều nhất. Từ các tác phẩm như
Mahabharata và Ramayana khi du nhập vào đời sống của cư dân Đông Nam Á, vốn rất
hiền hòa và sống động thì nó được dân gian hóa, được
tái sinh trong dân gian, chúng làm giàu thêm cho kho tàng văn học vùng này. Một
số tác phẩm văn học dân gian tiêu biểu: Punha – Nhunhơ của Lào, Prah Thong của
Khmer, Đẻ đất đẻ nước của người Mường Việt Nam …. Từ nền tảng là các câu
chuyện, bài văn mang tính truyền miệng trong các dân tộc Đông Nam Á, các triều
đại bản địa Đông Nam Á bị “Ấn hóa” đã chủ trương du nhập mạnh và cải biên chữ
viết Ấn Độ thành chữ viết của mình, tạo tiền đề quan trọng cho sự hình thành
văn học viết. Có nhiều loại hình văn học viết: bia ký, minh văn, sách… Ở
Champa, người dân dùng chữ viết của mình viết trên bia ký; bia ký của Champa
thời kỳ này phản ánh ý tưởng của vua quan muốn trình bày, ca tụng công đức và
sự nghiệp của mình: các bia ký ở Mỹ Sơn nói về sự thành kính của vua với các
thần như Mahesvara, Uma, Vishnu…; bia ký của Sambhuvarman, Vikrantavarman có
nói về đạo Shiva và ảnh hưởng của nó ở Champa. Bia nhấn mạnh Shiva: “đáng kính trọng hơn Brahma, Visnu, Indra, Surya, Asura, hơn những vị
Bàlamôn và hơn những Rsi, các vua chúa”;
bia Mỹ Sơn
D3 của vua Harivarman IV ca ngợi và so sánh vua
với các vị thần Ấn Độ: Krisna, Kama, Indra, Brahama và Siva – gần hết các vị
thần chính của Ấn Độ giáo (cả Siva và Visnu). Ở Phù Nam
là minh văn và sách. Minh văn là thể loại đầu tiên của văn học Phù Nam ,
được Coedes tìm ra vào năm 1931. Các minh văn này phần lớn là trường ca, điển
tích (kavya), dài khoảng 10 – 15 câu thơ với ngôn ngữ trau chuốt, tỉ mỉ đã đưa
người đọc vào những câu chuyện vốn được phổ biến trong xã hội Phù Nam thời đó.
Ngoài minh văn, người Phù Nam
còn biết viết sách. “Họ (người Phù Nam –
MQ chú) cũng có sách vở, có nhà lưu nhiều sách vở và tài liệu (…). Vua Phù Nam
lại có khả năng viết sách của Thiên Trúc (Ấn Độ), sách có khoảng 3.000 lời nói
về nguyên do kiếp trước của vua, cũng tương tự như kinh Phật”[24].
Ở Campuchia, người dân dựa trên những sự kiện đời thường và truyền thuyết để
sáng tạo ra các câu chuyện dân gian như: Thmeng Chay, Chàng Alêu thông minh,
Neang Cantoc – Neang Song Acat ở Campuchia; các câu chuyện dân gian về con khỉ,
con rùa, con gà mái đen của người Indonesia, và những tác phẩm trên đã khởi
xướng cho thể loại folklore (truyền miệng) ở Indonesia thời cổ trung đại.
Cũng từ các tác phẩm như
Mahabharata và Ramayana của Ấn Độ, khi du nhập vào Đông Nam Á thì tạo ra những
tác phẩm văn học viết dù có dấu ấn của Ấn Độ, nhưng vẫn mang tính dân tộc cao,
nhưng đa dạng về thể loại. Tiêu biểu cho văn học Đông Nam Á là tác phẩm Riêmkê (thế kỷ IX – XIV) của Campuchia. Đây là tác phẩm mang
nhiều dấu ấn thời đại và cũng là tác phẩm đầu tiên đặt ra vấn đề về thân phận
người phụ nữ trong văn học Campuchia với hình tượng nhân vật Sedha tượng trưng
cho người phụ nữ Campuchia chung thủy, hết lòng yêu thương chồng con, cùng chồng
gánh vác những việc khó khăn, không bị tình yêu, của cải, sức mạnh, quyền lực
cám dỗ. Tuy lấy đề tài từ sử thi Ramayana và Ramayana thì thần linh hóa các
nhân vật nhưng Riêmkê lại khác, họ đã kéo các nhân vật có nguồn gốc thần linh
lại gần cuộc sống bình thường của người dân Campuchia bằng cách đưa tính nhân
bản vào các nhân vật này: ghen tuông, mù quáng, cố chấp…đưa ra một kết cục bi
thảm. nó diễn tả hậu quả của những sai lầm của con người và có tác dụng răn đe
những người xem, người đọc. Tác phẩm thứ hai cũng rất hấp dẫn người đọc là Ramakien (Thái Lan) được vua Taksin của
triều Thonburi sáng tác (chuyển thể thành Iakhon – một dạng vũ kịch) vào cuối
thế kỷ XVIII. Vua Rama I cho thu thập nhiều dị bản của Ramakien tập hợp thành
tác phẩm thống nhất với 117 tập, cho vẽ tranh của tác phẩm này lên tường của
chùa Phật ngọc. Mãi đến thời Rama III, ông cho viết lại tác phẩm này gồm 36 tập
với nhiều tình tiết mới lạ, ngôn ngữ giàu chất thơ, đồng thời ông cho dàn dựng
kịch Ramakien mới[25]. Thơ ca cũng rất phát
triển, dồi dào âm điệu và cảm xúc trữ tình, phản ánh nội dung về tình hình xã
hội, quốc gia, tình yêu gia đình và quê hương đất nước. Thể loại trường ca (Malaysia là truyện sử - na ná như trường ca) và
sử thi cũng rất thịnh hành ở các quốc gia mang dấu ấn của Ấn Độ ở các nơi này:
ở Champa là các trường ca Đăm Săn – Xinh Nhã; Malaysia là Hikayat Seri Rama, Hikayat Pandawa[26]…
2.4.
Nghệ thuật kiến trúc
Cùng
với văn hóa Trung Hoa, văn hóa Ấn Độ ảnh hưởng nhiều đến Đông Nam Á qua các
lĩnh vực tôn giáo, âm nhạc, lễ hội… nhưng có lẽ nghệ thuật và kiến trúc là lĩnh
vực ở Đông Nam Á chịu nhiều ảnh hưởng nhất từ Ấn Độ; cụ thể nhất đó là qua kiến
trúc Angkor Wat, Angkor Thom, Borobudur… Mặc dù chịu ảnh hưởng của Ấn Độ, nhưng
ta không thể nói rằng những công trình kiến trúc Đông Nam Á đều sao chép hoàn toàn của
kiến trúc Ấn Độ, nhưng kiến trúc Ấn Độ đã được đồng hóa và biến thành tài sản
riêng của Đông Nam Á. Nhà nghiên cứu nghệ thuật nổi tiếng người Nga thế kỷ XIX
– P.I.Busleev nói: “Tính dân tộc của mỗi
dân tộc là một tương lai vĩ đại đã định sẵn cho họ rồi, thì bằng một sức mạnh
đặc biệt, nó có thể đồng hóa tất cả những gì bên ngoài vào thành sở hữu của
chính mình”[27].
Một điểm mà
chúng tôi cho là có dấu ấn của Ấn Độ trong nghệ thuật – kiến trúc Đông Nam Á,
đó là kiến trúc của Ấn Độ khi du nhập vào Đông Nam Á thì được người dân nơi ấy
tiếp thu, và họ không tiếp thu một cách thụ động, một chiều mà tiếp thu chủ
động; chọn lọc những cái hay, cái tinh túy và cái đẹp nhất của nghệ thuật Ấn Độ
đưa vào tác phẩm nghệ thuật của mình; đồng thời dùng nghệ thuật Ấn Độ kết hợp
với nghệ thuật bản địa rồi sáng tạo, để hình thành nền nghệ thuật kiến trúc
mang đậm dấu ấn của Ấn Độ, nhưng mang đậm tính dân tộc cao. Ngoài ra, một điểm
đặc biệt đó là các trường phái nghệ thuật Ấn Độ như Gandara, Amaravati, Gupta…
khi sang Đông Nam Á cũng lập lại các trường phái này, nhưng đổi tên gọi sao cho
phù hợp điều kiện địa lý và lịch sử phát triển của quốc gia. Mỗi quốc gia thì
hình thành sẽ kéo theo hình thành các trường phái nghệ thuật (có tài liệu ghi
là phong cách nghệ thuật). Nhưng có lẽ do tính dân tộc, điều kiện địa lý và ý
thức hệ cao nên mỗi quốc gia đều có trường phái nghệ thuật riêng. Các trường
phái thường đặt theo tên của triều đại, tên địa điểm phát tích ra nền nghệ
thuật đó; ví dụ: theo địa điểm phát tích thì có trường phái Mỹ Sơn, Hòa Lai,
Đồng Dương ở vương quốc Champa cổ; phong cách Phù Nam (4 phong cách), Phnom Da
ở quốc gia Phù Nam cổ; theo triều đại thì có phong cách Angkor của triều Angkor
(Campuchia), phong cách Sukhothai – Ayutthaya của Thái Lan… Cách đặt tên cho
phong cách nghệ thuật như vậy, vừa mang đậm dấu ấn của Ấn Độ và vừa mang tính
bản địa cao; hay nói đúng hơn: sự kết hợp Ấn + bản địa đã tạo nên cho nghệ
thuật Đông Nam Á một sức phát triển vượt bậc mà ít có nền nghệ thuật nào sánh
kịp, làm cho nền nghệ thuật Đông Nam Á vốn đã phát triển đa dạng thì lại càng
đa dạng và phong phú hơn nhiều.
Về nghệ thuật
ở Đông Nam Á, chúng tôi thống nhất chia thành 2 mảng là kiến trúc và điêu khắc.
Về kiến trúc thì ở Đông Nam Á có nhiều kiểu, loại kiến trúc nhưng tựu trung thì
có các kiểu kiến trúc sau:
1. Kiến trúc
đền – núi: Đây là kiểu kiến trúc rất đặc biệt ở Đông Nam Á, nó gồm một ngôi đền
xây theo kiểu hình ngọn núi Meru, núi thiên ở Ấn Độ thời cổ trung đại. Các công
trình kiến trúc xây theo kiểu này có: đền Angkor Wat, Angkor Thom ở Campuchia;
đền Borobudur ở Indonesia, quần thể đền núi Lara Jonggran ở Indonesia… Đầu tiên
là đền Angkor Wat. Angkor Wat là một đền – núi lớn, do vua Suryavarman II (1113
– 1150) xây dựng, là một trong những kỳ quan kiến trúc của Campuchia nói riêng
và vùng châu Á nói chung. Từ “Angkor Wat” dịch là Kinh đô Chùa (Angkor : gốc từ tiếng
Phạn negara nghĩa là kinh đô; Wat là
đền thờ, chùa). Khu Angkor Wat có chu vi gần 6 km và diện tích khoảng 200 ha,
nơi cao nhất là đỉnh tháp có độ cao 65,5 m. Angkor Wat là địa điểm duy nhất có
lối ra vào là hướng Tây, tức hướng Mặt Trời lặn. Khu đền tháp (khu trung tâm)
có 4 tầng nền (tầng đầu là 3,5 m, tầng hai: 7 m; tầng ba: 13 m và tháp trung
tâm: 42 m[28]),
cao lên cao thì càng thu nhỏ như mô hình núi vũ trụ Meru thu nhỏ của người Ấn
Độ. Quanh khu trung tâm có các hồi lang kín bằng đá và ở các hồi lang này đều
có các tháp ở góc và các cổng phòng ở giữa bốn mặt; đồng thời ở các hồi lang
này thì người ta đếm được 398 gian phòng với nghệ thuật chạm khắc đá trên trần
phòng, hành lang, các lan can… Bên dưới các tòa tháp lớn là các đường hành lang
dài hun hút, mát lạng với các phù điêu sống động, nhưng không làm mất vẻ linh
thiên của nó. Lúc đầu nó thờ Vishnu, sau thì thờ Phật. Sau khi Angkor bị Xiêm
đánh bại phải lui về Phnom Pênh (1434), Angkor Wat bị lãng quên và cuối cùng,
nó đã sống lại sau phát hiện của Henri Mouhot (Pháp) vào năm 1860.
Kiến trúc thứ
hai mà ta có thể kể đến là Angkor Thom. Angkor Thom là một đền núi lớn, được
Jayavarman VII (1181 – 1218) xây dựng để làm kinh đô quốc gia, đồng thời khẳng
định Phật giáo là quốc giáo của đế quốc Angkor .
Nằm cách Angkor Wat 2 km về phía Bắc, Angkor Thom là tổng thể kiến trúc đô
thành và tôn giáo rộng lớn: Angkor Thom xây trên bình đồ hình vuông với diện
tích 16 km2, cạnh đáy dài hơn 3 km, tường thành cao 6 m và hào nước
rộng 200 m bao quanh và có 4 đường trục vuông mở ra 4 phía. Trong Angkor Thom
có nhiều đền đài như: đền Bayon, đền Baphuon,
Sân Voi, Sân Vua Cùi, đền Phimeanakas, đền Khleang, Preah Palilay…, trong đó
nổi bật nhất là đền Bayon. Đây là đền tháp 3 tầng, có 4 tháp mặt người quay ra
4 hướng. Tháp chính Bayon cao 23 m với 52 tháp phụ hình mặt người cười tạo
thành khối tháp – nhìn giống như ngọn núi Meru hùng vĩ của Ấn Độ cổ. Trên một
cây cầu lớn dẫn vào đền, người ta chạm khắc được các dãy gồm 54 tượng thể hiện thần – quỷ ôm rắn Naga khuấy
biển sữa để lấy thuốc trường sinh. Kiến trúc đền – núi thứ ba có thể kể tới nữa
là đền – núi Borobudur ở Indonesia .
Đền Borobudur được xây vào khoảng năm 800 dưới
thời vua Warak của vương triều Núi Sailendra (800 – 819). Tên Borobudur bắt
nguồn từ chữ Vihara Buddha Ur (tiếng
Phạn) nghĩa là “nơi thờ Phật trên núi”. Borobudur cao 42 m (có tài liệu ghi là
31,5 m) bao gồm 12 tầng (vuông – tròn xen kẽ nhau), và chân nền vuông rộng 123
m (có tài liệu ghi là 110 m); đây là công trình kiến trúc, điêu khắc tuyệt mỹ
mang ảnh hưởng sâu sắc của vùng Đông Nam Á hải đảo. Cả ngôi đền xây trên lưng
đồi vào cách chân đồi 15,5 m; toàn bộ tháp là 300.000 viên đá lớn và không có
nội thất bên trong. Có 5 hồi lang vuông kế tiếp nhau theo chiều cao của tầng
dưới và 3 hồi lang tròn đồng tâm ở phía trên (co 72 tháp nhỏ bao quanh tháp
lớn), thể hiện quan điểm trời tròn đất vuông của người phương Đông cổ. Toàn bộ
tháp được trang trí bằng 1506 phù điêu, 1212 hình điêu khắc mang tính trang trí
và 504 tượng Phật (trong có 72 tượng Phật ở 3 hồi lang tròn trên cùng). Nếu
nhìn dưới góc độ Phật giáo thì khu đền này là một vũ trụ thu nhỏ. Các bậc thềm
từ tầng một đến tầng chín đều được phủ kín bởi những phù điêu kể về chuyện Phật
như Phật truyện, Nguồn gốc loài người, Tranh 53 điều… nói về cuộc đời Đức Phật,
bồ tát và các anh hùng giác ngộ Phật pháp… Ba tầng trên cùng bằng phẳng, có trổ
ra 72 tháp chuông bên trong chứa 72 tượng Phật ngồi. Đó thực sự là tác phẩm
điêu khắc Phật giáo – một kho tàng nghệ thuật điêu khắc bậc nhất thế giới, được
gọi là sử thi trên đá.
Tháp cũng là
kiểu đền – núi như các đền – núi khác ở Campuchia, Indonesia. Trong thời kỳ
phát triển của vương quốc Champa thì có khoảng 70 tháp (tập trung nhiều nhất ở
thánh địa Mỹ Sơn), nhưng cho đến năm 1994 thì Ngô Văn Doanh thống kê được chỉ
còn 19 khu tháp, 40 kiến trúc nhỏ[29] mà thôi. Về hình dáng,
các tháp Chăm có cấu trúc như kiểu đền – núi của người Ấn Độ gọi là Shikara (shikara là đỉnh núi nhọn), trên
các tầng tháp có các tháp nhỏ ở các góc. Tuy hình núi non có gốc là Ấn nhưng
với người Chăm, nó là hình tượng của núi cao trùng điệp và sinh thực khí nam;
mái của tháp cong hình thuyền – đặc trưng của kiến trúc nhà ở ở Đông Nam Á (Phù
Nam, Đông Sơn). Người Chăm tiếp thu và hòa quyện, đồng thời sáng tạo ra những
công trình mặt dù mang dấu ấn Ấn Độ nhưng tính bản địa hóa ngày càng ăn sâu bền
chặt và người Chăm gọi là kalan (lăng
mộ). Các kalan có chức năng là thờ Vua, thờ Thần, thánh đường thờ các vị thần
bảo trợ cho nhà vua[30]. Trong các đền tháp Chăm,
vị thần thờ là Shiva và linh vật để thờ là linga – giống như thờ sinh thực khí
nam và Shiva + linga xem như là một. Linga có nhiều loại: linga một thành phần,
linga hai thành phần, linga ba thành phần, linga hình mặt người… Các tháp Chăm
tiêu biểu: Tháp Poklong Giarai, tháp Po Rome, tháp Mẫm, tháp Bánh Ít, tháp Ba
Tháp… Trong xây dựng các tháp Chăm, tháp Khmer thì nguyên vật liệu và cách xây
dựng có phần khác nhau, nhưng nó đều giống một điểm là các công trình này đều
xây bằng gạch nung đỏ và không vữa, các viên gạch đặt rất khít nhau đến nỗi một
lưỡi dao mới lách qua nổi mà thôi. Ta có thể thấy điều này ở Angkor Wat, Angkor
Thom. Đền tháp Champa xây cũng bằng gạch (không vữa), nhưng hiện nay giới khoa
học cho rằng có vữa để xây và vữa chủ yếu là dầu rái. Thế nhưng hiện nay, người
ta vẫn chưa giải mã được kỹ thuật xây tháp của người Khmer, người Chăm (cũng
trong thời ký đó thì người Maya, Inca ở châu Mỹ cũng xây dựng theo kiểu này, tuy
nhiên việc xây dựng như thế nào vẫn còn là câu hỏi cần được các nhà khoa học
đầu ngành giải đáp tường tận).
Một điểm rất
đặc biệt của tháp Chăm là có tháp Vàng – tháp Bạc, điều xưa nay chưa từng thấy
trong kiến trúc Đông Nam Á. Ở Champa có tháp Bánh Ít là tháp Bạc, tháp Dương
Long là tháp Vàng. Hiện chưa rõ vì sao người ta đặt tên như vậy, theo chúng tôi
suy đoán thì có lẽ Vàng, Bạc ở đây dùng để chỉ vật liệu xây tháp, đồng thời
hiểu khác hơn nữa là Vàng là chốn giàu sang của Vua chúa, Bạc thể hiện cuộc sống
người dân. Do văn hóa Đông Nam Á coi trọng nông nghiệp nên khoảng cách giàu –
nghèo không rõ rệt, các vua có chính sách thân dân nên tạo được sự tín nhiệm
của dân với vua, đồng thời dân cũng giúp vua hình thành lực lượng mạnh để vua
tiến hành xâm lược bên ngoài. Chùa cũng thế, cũng Chùa Vàng – Chùa Bạc và xuất
hiện ở Campuchia, Thái Lan, Myanmar và có lúc lan sang Nhật Bản (thời Mạc Phủ
Muromachi, các shogun cho xây dựng Chùa Vàng – Chùa Bạc).
2. Kiến trúc
chùa: chùa là kiểu kiến trúc đặc biệt, là đặc trưng của Phật giáo ở khu vực
Đông Nam Á; khi nói tới Phật giáo Đông Nam Á thường là người ta nghĩ tới chùa.
Chùa chính là nơi thờ Phật, các vị bồ tát, các vị Phật trong kinh kệ Phật và
ngay cả các vị Phật trong dân gian. Ở Ấn Độ, vào thời cực thịnh của Ashoka thì
nhà vua cho xây rất nhiều chùa, tạo điều kiện cho đạo Phật ăn sâu vào lòng nhân
dân Ấn và đồng thời tạo điều kiện cho Phật giáo truyền bá ra ngoài, trong đó có
Đông Nam Á. Ở Đông Nam Á, chùa được xây rất nhiều và có nhiều tên gọi khác
nhau: Thạt, Vắt (Lào), Cetiya (Myanmar), Wat (Thái Lan). Ở Lào hiện có một số
ngôi Vắt sau: Vắt Hỏ Xiệng, Vắt In Peng, Vắt Long Khun, Vắt Pạ Khe… . Thạt là
ngôi chùa ở Lào, chức năng của nó là nơi chứa hài cốt của cao tăng Phật; các
Thạt là: Xỉkhốt Tạboong, Pu Xí, Xỉ Khôttabong…và nhất là Thạt Luông – kiến trúc
kinh điển của Phật giáo ở Lào; ở Thái Lan là các Bọt, Vihara. Vihara là tu viện Phật giáo ở Thái Lan,
Champa, có 3 kiểu là tu viện trong rừng, tu viện xa xôi – hiu quạnh; Bọt là chùa ở Thái Lan, dùng để thờ Phật.
Mỗi bọt thường có tường cao, mái rất dốc và trên mái thường chạm khắc hình quái
vật makara, rồng, chim… bằng gỗ; xung quanh bọt là các miếu (sema) nhỏ làm tôn
thêm vẻ linh thiên cho bọt. Và đôi khi, các bọt cũng được gọi là chùa cho hợp
với khẩu ngữ địa phương; ví dụ: chùa Bovornivet (thế kỷ XIX), chùa Aranik, chùa
Ana Bavannarama…. . Ở Myanmar ,
một quốc gia nổi tiếng là nhiều chùa Phật (4000 chùa) cũng có những chùa nổi
tiếng như: chùa Chantauji, Lokananda, Bupaya (thế kỷ VIII – IX), Chapata…. Có
những ngôi chùa rất lớn như chùa Ananda, chùa Shweidagon. Chùa Shweidagon (còn
gọi là Chùa Vàng) là ngôi chùa lớn và tiêu biểu nhất của Myanmar ; được
xây năm 1372 và được trùng tu nhiều lần (có cất giữ 8 sợi tóc Phật). Chùa hình
tháp nhọn, cao 120 m với cạnh đáy vuông dài 400 m, đặt trên nền bệ 8 cạnh. Đỉnh
chóp là quả cầu vàng được khảm bởi 54.448 viên kim cương to nhỏ khác nhau. Toàn
bộ thân tháp được phủ bởi 9.300 lá vàng, bên trọng treo 1.065 chuông vàng và
421 chuông bạc; trong chùa có chuông đồng lớn cao 4 m.
Điêu khắc cũng rất phát triển ở Đông Nam Á cổ trung đại; các
tác phẩm điêu khắc lúc này thường là các tượng Phật, tượng các vị thần trong
Phật - Ấn giáo và hình khắc trên tường các đền, chùa và hầu hết đều chịu ảnh
hưởng của các trường phái Ấn Độ: Gandara, Amaravati, Gupta…. Ở Champa chịu ảnh
hưởng của Ấn giáo và Phật giáo, các tượng xuất hiện rất nhiều. Người Chăm đã
chạm khắc rất nhiều tượng thần, ví dụ tượng Yasha có tư thế ngồi theo phong
cách Amaravati, Uma giết quỷ đầu trâu, chim thần Garuda, thần voi Ganesha theo
phong cách của Ấn giáo. Về Phật giáo có các tượng Phật ở Đồng Dương (hai tay
đưa ra trước, áo cà sa có gờ và hở vai phải), tượng Bồ tát Avalokitesvara 8
tay, Phật đứng ở Đăng Bình… nhưng nhiều nhất là tượng Phật đứng (Buddhapad).
Tượng Phật đứng (Buddhapad) xuất hiện đầu tiên ở Óc Eo (kinh đô của Phù Nam
thời cổ trung đại, người ta thống kê có 50 tượng như thế ở vùng Óc Eo (An
Giang) và Campuchia. Ở Indonesia cũng có tượng Phật đứng trên đảo Celebre (cà
sa để hở vai phải), tượng Bồ Tát ở Pura Subak Kedaagan (Bali). Thái Lan là
tượng Phật đa dạng với 4 tư thế: đi, đứng, nằm, ngồi với nhiều đường nét đa
dạng, phong phú. Ví dụ tượng Phật đi ở Pedi Wat Bencham Mapopit ở Bangkok (Thái
Lan). Điêu khắc trên tường (phù điêu) của các công trình có ở khắp nơi. Trên
các bức tường, lan can của Angkor Wat, Angkor Thom và Borobudur đều có các phù
điêu kể về cuộc đời đức Phật (Borobudur), phù điêu có nhiều tiên nữ (apsara),
các thần thánh trong Ấn Độ giáo thấy trong Angkor Wat , Angkor Thom; phù điêu
Vua múa Shiva trên tháp Chăm…
2.5.
Lễ hội, ẩm thực
Dưới
ảnh hưởng của Ấn Độ, lễ hội Đông Nam Á vốn đã hình thành từ thời cổ xưa thì đến
thời gian này vẫn phát triển và ngày càng phong phú và đa dạng hơn. Do ảnh
hưởng từ Phật giáo của Ấn Độ nên người dân Đông Nam Á tổ chức nhiều lễ hội đa
dạng, phong phú; nhất là lễ Tết. Tết của Lào cũng chịu ảnh hưởng từ Trung Quốc,
nhưng đặc biệt nhất là ảnh hưởng của Phật giáo Ấn Độ do Phật giáo đang là quốc
đạo của Lào và Tết Lào gọi là Bunpimay,
diễn ra vào giữa tháng 4 theo Phật lịch Lào. Tết của người Thái là Songkhran và rơi vào giữa tháng 4 âm
lịch theo lịch Thái; ở Tết này, người ta tổ chức hội Té nước; ở Campuchia là
Tết Chol Chnam Thmay, cũng vào tháng 4 hoặc tháng 5 dương
lịch, thời gian chuyển mùa từ mùa khô sang mùa mưa và cũng nhằm mục đích cầu
mưa qua những tục té nước tắm tượng Phật... Tết của Myanmar là mang tên vị thần
(nát) tối cao Thagyarmin. Nguồn gốc
của cái tên được truyền thuyết của người Miến truyền tụng trong những câu
chuyện huyền thoại đại để với nội dung như sau: "Xưa kia, cả mặt đất không hề có sự sống và đắm chìm trong bóng tối.
Thấy tình cảnh như vậy Chúa tể của các thần là Thagyarmin bèn ra lệnh cho mặt
trăng và mặt trời chiếu sáng mặt đất. Rồi thần tạo ra mọi vật. Khi mặt đất đã
có cuộc sống yên ổn rồi, thần về trời. Lúc chia tay, vị thần tối cao hứa là
hàng năm sẽ trở lại mặt đất với con người vào dịp năm mới. Bởi vậy, người dân
lấy tên thần gọi ngày tết của mình". Mặc dầu cái tên có vẻ không gắn
gì lắm với tính chất của lễ hội, nhưng Thagyarmin của người Miến bao giờ cũng
là lễ tết của té nước cầu mưa và bao giờ cũng rơi vào những ngày cuối của mùa
khô (vào một ngày nào đó trong tháng 4 dương lịch). Lễ hội ở Đông Nam Á chịu
ảnh hưởng của Ấn Độ nhiều nhất là lễ hội Deepvali,
Diwali có nghĩa là lễ hội ánh sáng,
tượng trưng cho nền văn hóa lâu đời của Ấn Độ. Ý nghĩa của hai lễ hội này là
dạy cho con người biết vượt qua sự ngu dốt và tìm đến ánh sáng của tri thức.
Vào dịp này, mọi gia đình dù giàu hay nghèo, đều thắp những ngọn đèn nhỏ nhấp
nháy ánh sáng vàng cam rực rỡ để chào đón Lakshmi, vị thần của sự giàu có và
thịnh vượng. Đặc biệt, lễ Diwali được người Ấn xem là quan trọng, được tổ chức vào
đêm 13 kỳ trăng khuyết (tức đêm 28) của tháng Ashwin cho tới ngày thứ 2 của
tháng Kartika trong lịch Ấn Độ. Đây còn được gọi là Lễ hội ánh sáng vì mọi người có phong tục thắp đèn dầu bấc vải (gọi
là dipa) để ăn mừng chiến thắng của thần Krishna trước Narakasura, biểu tượng
cho chiến thắng của các thiện trước cái ác. Lễ hội Deepvali được tổ chức nhiều
nơi, nhất là Singapore – nơi quan trọng nhất và tổ chức lễ hội tương đối rình
rang nhất. Ngoài ra, người dân Đông Nam Á còn tổ chức lễ hội Thaipuam, vốn xuất
hiện từ người Ấn di cư vào Đông Nam Á cuối thế kỷ XIX. Lễ hội này nhằm biểu
dương sức mạnh con người, thể hiện lòng mộ đạo của con người với các thần linh
bằng cách dùng vật thể nhọn xuyên qua cơ thể họ, cho tới cách làm trần tục khác
là dùng hoa và sữa tưới lên thân thể mình … để tỏ lòng tôn kính thần Chúa tể
Murugan (Subramanian). Người Chăm còn tiếp thu lễ hội của người Ấn, thể hiện rõ
trong các lễ hội đền tháp của người Chăm ở Trung Bộ.
Ngoài lễ hội,
ẩm thực của Ấn Độ cũng được lan truyền và để lại dấu ấn cho người dân Đông Nam
Á từ lâu đời. Món cà ri (kari: tiếng Ấn nghĩa là nước sốt) vốn nổi tiếng ở Ấn Độ từ lâu mà khi sang Đông Nam Á thì
được phổ biến rộng rãi. Nếu người Việt dùng cơm làm món ăn hàng ngày thì người
Ấn cũng dùng cà ri làm món ăn hàng ngày. Cà ri kiểu Ấn du nhập vào Việt Nam
được người dân ta cải biên phù hợp khẩu vụ từng vùng miền: người Nam thì nấu cà ri với nước cốt
dừa, còn người Bắc thì lại thích nấu với sữa bò tươi. Các loại nguyên liệu
chính trong món cà ri của người Việt thường là thịt gà, dê, bò kèm thêm cà rốt,
khoai tây, khoai môn... và một số gia vị. Món cà ri Ấn du nhập vào người Chăm
cũng được họ cải biên lại với khẩu vị khác lạ. Chẳng hạn trong bữa cơm bình dân
của người Chăm thường thấy có món pài ga
ghênh, bao gồm gạo rang xay nhuyễn thành thính rồi nấu chung với cà ri, cà
pháo, đu đủ sống, củ cải, cà rốt... Ngoài những gia vị thông thường còn có thêm
trái bứa chua và cả mắm bò hóc của người Khmer cho thêm phần đậm đà. Cũng về
món cà ri, người Việt nấu khá nhiều nước, không dùng nhiều gia vị nên cà ri người
Việt bớt mùi nồng (người Ấn cho ít nước, nhiều gia vị nên rất nồng). Đặc biệt,
người Ấn thường chỉ ăn cà ri với cơm và bánh mì, trong khi người Việt Nam còn
chan cà ri cả lên bún (ăn kèm giống như một loại nước lèo) và dùng đũa lua. Món
cà ri Ấn Độ khi du nhập vào Việt Nam đã trở nên rất phổ biến. Nó không chỉ được
biết đến ở các nhà hàng, quán ăn mà đã đi vào đời sống của mỗi gia đình bên mâm
cơm hàng ngày và trở thành một món ăn quen thuộc đối với mỗi người Việt Nam
Kết luận: Tóm lại, trong suốt 15 thế kỷ sau Công nguyên, Đông Nam Á đã
trở thành và đã là một khu vực văn hóa, chính trị - xã hội thống nhất với nét
đặc trưng lớn nhất là chịu tác động và ảnh hưởng rất lớn của Ấn Độ. Chính những
ảnh hưởng của Ấn Độ đã là một sợi dây vô hình, nhưng đầy sức mạnh, liên kết các
nhà nước, các quốc gia cổ đại ở Đông Nam Á vào một quỹ đạo văn hóa chung, hay
một thế giới văn hóa đồng nhất với một tôn giáo chung, một chữ viết chung, một
hệ tư tưởng chính trị chung, một nền văn học và nghệ thuật chung, một hệ thống
luật pháp và lịch pháp chung và khá nhiều phong tục và lễ hội chung. Có lẽ hiếm
thấy trong lịch sử nhân loại một khu vực địa lý phức tạp và đa dân tộc lại
thống nhất mạnh mẽ và sâu sắc về văn hóa trong suốt một thời gian dài cả hơn
chục thế kỷ như khu vực Đông Nam Á thời kỳ một thiên niên kỷ rưỡi sau công
nguyên. Tuy cùng chịu ảnh hưởng chung của Ấn Độ, nhưng mỗi quốc gia cổ đại Đông
Nam Á lại tạo ra cho mình một nền văn hóa, một mẫu hình tổ chức chính trị - xã
hội riêng rất đặc trưng của mình.
Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn
Huy Cận (1997), Các ngôn ngữ Đông Nam Á
trong giao lưu và phát triển, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
2. Coedes, G. (2008), Cổ sử
các quốc gia Ấn Độ hóa ở Viễn Đông, Nguyễn Thừa Hỷ dịch, NXB Thế giới, Hà Nội.
3. Ngô Văn
Doanh (1999), Từ điển văn hóa Đông Nam Á
phổ thông, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
4. Phạm Đức
Dương (2013), Lịch sử văn hóa Đông Nam Á,
NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
5. Nguyễn
Tấn Đắc (2000), Văn hóa Đông Nam Á, NXB
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
6. Grey, Maggie (2001) “Encountering the Mandala: The Mental and
Political Architectures of Dependency”, in trong: The Culture Mandala (The
centre for East-west Cultural and Economic Studies, Bond University, Gold
Coast, Australia), Vol.4, No.2, November, p..2
7. Hall, D. G. E (1997), Lịch
sử Đông Nam
Á (nhiều người dịch), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
8.
Nguyễn
Đức Hòa (2011), Lịch sử văn minh thế giới,
NXB Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
9.
Nguyễn
Đức Hòa (2013), Lịch sử thế giới (bản
đánh máy, lưu hành nội bộ), Đại học Sài Gòn, Tp. Hồ Chí Minh.
10.
Nguyễn
Quốc Lộc (1995), Đông Nam Á ngày nay,
số 3, NXB Đại học Mở - bán công Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh
11.
Khoa
Đông Phương học (2012), Văn hóa – xã hội
các nước Ả rập: truyền thống và hiện tại (Kỷ yếu Hội thảo khoa học), Trường
ĐH KHXH – NV Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.
12.
Hồ
Xuân Mai (2013), Ngôn ngữ sông nước vùng
đồng bằng sông Cửu Long (kỷ yếu Hội thảo khoa học), Đại học An Giang, An
Giang.
13.
Nehru,
Jawaharlal (1990), Phát hiện Ấn Độ, tập
1, NXB Văn học, Hà Nội.
14.
Vũ
Dương Ninh (2011), Lịch sử văn minh thế giới, NXB Giáo dục Việt Nam ,
Hà Nội.
15.
Vũ
Dương Ninh (2001), Một số chuyên đề lịch
sử thế giới, tập 1, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
16.
Thái
Nguyễn Đức Minh Quân (2012), Sự du nhập
và ảnh hưởng của Hồi giáo đến Malaysia
(thế kỷ XV_2000), Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Sài Gòn
17.
Trương Hữu Quýnh, Đào Tố Uyên (1998), Các
nền văn minh trên đất nước Việt Nam ,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
18.
Reid,
Anthony (1988), Southeast Asia in the Age
of Commerce 1450-1680, Vol. 1: The Land below the Winds, Yale University
Press.
19.
Trần
Ngọc Thêm (1998), Tìm về bản sắc văn hóa
Việt Nam, NXB Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.
20.
Wolters,
O. W. (1999), History, Culture
and region in Southeast Asian Perspertives xuất bản năm 1982, Asian Studies, Revised
Edition.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét