Thứ Sáu, 18 tháng 10, 2013

Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam giai đoạn hiện nay

Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam giai đoạn hiện nay
                                                                                                                 Thái Nguyễn Đức Minh Quân
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đồng thời cũng là đội tiên phong của các tầng lớp nhân dân Việt Nam. Đảng cũng là lực lượng lãnh đạo hệ thống chính trị, nhưng Đảng đồng thời cũng là bộ phận cấu thành chính trị, một bộ phận của xã hội. Có thể nói rằng vai trò lãnh đạo của Đảng trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền là một yêu cầu tất yếu, khách quan trong sự nghiệp Đổi mới để khẳng định Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Nhận thức được điều đó, văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001) khẳng định: “Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị, là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của dân, do dân và vì dân[1]. Trong khuôn khổ của bài viết này, tác giả xin trình bày khái lược vấn đề nhà nước pháp quyền trong lịch sử thế giới và lịch sử Việt Nam; về Đảng Cộng sản Việt Nam và vai trò của Đảng trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xa hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trước tiên khi muốn làm rõ vai trò lãnh đạo của Đảng với nhà nước pháp quyền, chúng ta tìm hiểu xem “Nhà nước pháp quyền” có từ bao giờ ? “Nhà nước pháp quyền” là gì ? Có rất nhiều quan điểm khác nhau về nhà nước pháp quyền; nhưng nhìn chung, các quan điểm này cho rằng nhà nước pháp quyền hình thành do các yếu tố cụ thể như: tính tối cao của luật, nghĩa vụ tuân thủ pháp luật của chính nhà nước[2]; cơ chế phân chia quyền lực thành 3 cơ quan quyền lực kìm chế và đối trọng nhau: lập pháp, hành pháp và tư pháp; dân chủ, xã hội công dân và quyền con người… Như vậy, “nhà nước pháp quyền” là một khái niệm có nội hàm khái niệm rộng lớn, thể hiện trong mối quan hệ biện chứng: Nhà nước và pháp luật, nhà nước và xã hội công dân, dân chủ. Từ những quan điểm đó, người ta đưa ra nhiều định nghĩa về “nhà nước pháp quyền” nhưng tựu chung thì có định nghĩa chung như sau: Nhà nước pháp quyền là hình thức tổ chức nhà nước với sự phân công lao động, khoa học và hợp lý giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tự pháp, có cơ chế kiểm soát quyền lực, nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở pháp luật, nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, pháp luật có tính khách quan, nhân dạo, công bằng, tất cả vì lợi ích chính đáng của con người. Nhà nước pháp quyền chỉ hoạt động được dựa trên nguyên tắc: chính quyền chỉ có nhiệm vụ thực thi quyền lực mà văn bản pháp luật đã soạn ra và công bố rộng rãi; nguyên tắc đó đặt ra nhằm ngăn ngừa sự cai trị độc đoán hay chuyên quyền[3]. Nhà nước pháp quyền (ở bất kỳ nước nào) đều đó những đặc điểm sau: (1) nó là nhà nước có hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, thống nhất để quản lý xã hội dựa nền tảng đạo đức; (2) xác lập và có cơ chế hữu hiệu để đảm bảo tính tối cao của luật trong các hệ thống văn bản pháp luật; (3) pháp luật trong nhà nước phải có tính khách quan và công bằng, nhân đạo phù hợp đạo đức và lợi ích chính đáng của con người; (4) quan hệ nhà nước – công dân là bình đẳng, công dân có nghĩa vụ tuân thủ pháp luật của nhà nước, ngược lại nhà nước phài chịu bồi thường thiệt hại tài sản, nhân phẩm cho nhân dân về các quyết định sai trái của mình; (5) nhà nước tổ chức hệ thống ba cơ quan phải cân bằng quyền lực, kiểm soát lẫn nhau; (6) nhà nước đảm bảo quyền tự do của cá nhân với tổ chức của họ trên pháp luật, đạo đức xã hội…
Nhà nước pháp quyền có từ bao giờ ? Câu hỏi này đã được nhiều người đặt ra từ rất lâu và các nhà khoa học đã cố gắng đi tìm câu trả lời. Trải qua một thời gian dài suy nghĩ và tìm tòi, cuối cùng họ tìm ra đáp án: nhà nước pháp quyền đầu tiên và sơ khai xuất hiện ở Hy Lạp – Roma cổ đại, là những nước có nền kinh tế thủ công nghiệp – thương nghiệp phát triển và người dân có quyền dân chủ cao hơn các nước cùng thời. Ở hai quốc gia này, bộ máy nhà nước đã được phân chia thành 3 cơ quan là hành pháp, lập pháp và tư pháp. Theo pháp lệnh của Périklès (Hy Lạp) thì: Đại hội nhân dân nắm quyền lập pháp, Hội đồng nhân dân nắm quyền hành pháp và Tòa án nhân dân nắm quyền tư pháp[4]. La Mã thì tổ chức cũng 3 cơ quan, nhưng chỉ thay đổi tên gọi. Với tổ chức bộ máy quy củ như vậy thì chính quyền có điều kiện đề ra luật pháp cai trị đất nước, kêu gọi nhân dân phát huy quyền dân chủ của mình trong bầu cử, ứng cử… vào các cơ quan nhà nước. Cũng chính cấu trúc nhà nước hoàn chỉnh như vậy đã nảy sinh ra ý tưởng về nhà nước pháp quyền đầu tiên. Socrates là người đầu tiên đề ra ý tưởng “nhà nước pháp quyền” . Bằng luận điểm: “Quyền lực căn cứ không phải trên luật pháp, mà trên thói chuyên quyền của người cầm quyền, quyền lực như vậy chống lại nhân dân[5], ông nhận định dân chủ không thể tồn tại nếu thiếu pháp luật; con người phải tuân thủ pháp luật nhà nước. Platon kế tục xuất sắc tư tưởng của Socrates. Trong tác phẩm “Nền cộng hòa”, ông cho rằng người cầm quyền phải cai trị theo pháp luật chứ không được theo ý chí, pháp luật thuộc về tập thể. Aristotle và Ciceron lại cho rằng, nhà nước khi được xây dựng thì phải công minh, công bằng và đúng đắn về mặt tổ chức bộ máy nhà nước và pháp luật, có như thế quốc gia mới phồn thịnh được.
 Đến thời trung – cận đại, ý tưởng này đã được củng cố và có nhiều bước phát triển mới. Vào thế kỷ XVII, John Locke (1632 – 1704) đưa ra Học thuyết phân chia quyền lực, đặt cơ sở cho việc thành lập nhà nước pháp quyền. Theo ông, nhà nước pháp quyền sẽ có 3 cơ quan chính: lập pháp, hành pháp và tư pháp; đồng thời đề ra khế ước xã hội nhằm tạo sự ràng buộc giữa các cơ quan trong chính quyền. Có thể nói, Locke là người đầu tiên xây dựng lý thuyết về nhà nước pháp quyền, “một chính thể nhà nước tự do chủ nghĩa đứng đối lập với chế độ quân phiệt, chế độ chuyên chế và nền bạo chính[6]. Tiếp theo, Montesquieu và Rousseau đã củng cố thêm học thuyết pháp quyền tư sản của Locke. Montesquieu chủ trương phân chia 3 loại quyền lực không phụ thuộc nhưng kiểm soát lẫn nhau đó là lập pháp, hành pháp và tư pháp. Người dân được làm chủ[7] (được tự do bầu cử, ứng cử vào chính quyền) và bình đẳng và không bị cưỡng bức, áp bức. Rousseau củng cố thêm một bước khi chủ trương thành lập nhà nước cộng hòa dân chủ, trong đó chủ quyền thuộc về những người sở hữu nhỏ. Các học thuyết trên góp phần tạo dựng cấu trúc nhà nước tư sản ở một số nước lớn như Anh, Pháp, Mỹ… thời kỳ đó.
Nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, K. Marx và Lenin đã nêu những luận điểm về nhà nước pháp quyền. Trong quan điểm của mình, Marx khẳng định: “Tự do là ở chỗ biến Nhà nước từ cơ quan đứng trên xã hội thành cơ quan phục tùng xã hội ấy[8]; Lenin cũng cho rằng, chính chế độ dân chủ và tự do là con đường duy nhất tiến tới xây dựng nhà nước pháp quyền. Đồng thời với quan niệm về nhà nước pháp quyền, Marx - Lenin đưa ra ý tưởng về sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước pháp quyền. Về mặt lý luận, chủ nghĩa Marx - Lenin khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản và vai trò của đội tiền phong của nó là Đảng Cộng sản có nhiệm vụ giải phóng con người khỏi ách áp bức bóc lột; hai ông cho rằng: “Chỉ có những người vô sản, nhiệt tình hừng hực vì nhiệm vụ xã hội mới mà họ có nhiệm vụ thực hiện cho toàn thể xã hội, tức là thủ tiêu tất cả các giai cấp và sự thống trị giai cấp, mới là những người có thể đập tan nhà nước, công cụ của sự thống trị giai cấp đó, đập tan quyền lực chính phủ tập trung và có tổ chức đó, cái quyền lực do tiếm đoạt mà trở thành chủ nhân của xã hội, chứ không phải là đầy tớ của xã hội[9]. Nhiệm vụ giành chính quyền và xây dựng chính quyền đòi hỏi tất yếu phải có Đảng lãnh đạo, và Lenin cho đó là nguyên tắc: “Về nguyên tắc Đảng cộng sản phải giữ vai trò lãnh đạo, đó là điều kiện không còn nghi ngờ được nữa”[10]. Sau này, Hồ Chí Minh đã cụ thể hóa và khái quát thành các vai trò của Đảng đối với nhà nước pháp quyền xạ hội chủ nghĩa Việt Nam. Các vai trò của Đảng đối với nhà nước là:
Thứ nhất, Đảng đã thiết lập một mô hình nhà nước phù hợp với thực tiễn nước ta. Mô hình nhà nước Đảng sử dụng là mô hình nhà nước pháp quyền[11], vốn có nguồn gốc từ thiết chế “tam quyền phân lập”, một thiết chế khá phổ biến ở các nước tư bản trên thế giới như Mỹ, Anh, Pháp, Philippines…; nó gồm 3 cơ quan chính: quốc hội (lập pháp), chính phủ (hành pháp) và tòa án (tư pháp). Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất quốc gia, quyết định những công việc quan trọng của Nhà nước; Chính phủ thực thi quyền hành pháp và Tòa án nhân dân thực thi quyền tư pháp. Với một cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước như vậy, Đảng có những quyết sách, quy định cụ thể về công việc của mỗi cơ quan. Quốc hội là cơ quan đứng đầu và có quyền lực cao nhất quốc gia, quyết định những vấn đề hệ trọng của quốc gia. Theo Hiến pháp 1992, Quốc hội là cơ quan có quyền ra và sửa đổi luật pháp; đề ra các chính sách đối nội và đối ngoại và giám sát tối cao các hoạt động của Nhà nước. Chính phủ là cơ quan thực thi quyền hành pháp, có quyền lãnh đạo các cơ quan khác trong chính phủ, trình dự luật, pháp lệnh. Tòa án nhân dân là cơ quan tư pháp, có quyền xét xử các tội danh của người dân theo đúng quy định của pháp luật; mỗi cơ quan quyền lực trên đều chia thành các cơ quan, bộ phận nhỏ hơn nhưng tất cả đều là quy củ và thống nhất. Với việc xác lập mô hình nhà nước như thế, Đảng ta đã tỏ rõ sự thức thời khi nhận định đầy đủ tình hình nước ta trong việc xây dựng mô hình nhà nước mới, một mô hình cần thiết để thực hiện có hiệu quả các mục tiêu đổi mới đất nước trong giai đoạn hiện nay và các giai đoạn tiếp theo; đồng thời, tiếp thu các giá trị phổ biến của Nhà nước pháp quyền trong xây dựng mô hình tổ chức nhà nước pháp quyền XHCN một cách sáng tạo. Mô hình nhà nước pháp quyền mà Đảng ta đã dày công xây dựng và lãnh đạo thực sự là là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mọi ý kiến đề xuất một mô hình Nhà nước pháp quyền tách rời bản chất ấy đều xa lạ và không thực tế đối với Việt Nam trong điều kiện hiện nay[12].
Thứ hai, đồng thời với việc xác lập mô hình nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã đề ra nguyên tắc, phương thức phù hợp lãnh đạo bộ máy nhà nước pháp quyền. Trong quá trình xây dựng nhà nước, Đảng ta quán triệt các nguyên tắc về xây dựng nhà nước pháp quyền: xây dựng và củng cố liên minh công – nông, đảm bảo tính dân tộc và nhân dân trong quốc gia; phát huy quyền làm chủ của nhân dân; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong Nhà nước; tiếp thu có chọn lọc để xây dựng bộ máy nhà nước hoàn thiện hơn. Các nguyên tắc này có mối quan hệ mật thiết và biện chứng với nhau, trong đó nguyên tắc củng cố liên minh công – nông là nguyên tắc quan trọng trong xây dựng quốc gia. Nguyên tắc này được Đảng kế thừa từ học thuyết về liên minh công – nông của Lenin (về sau thêm “trí” vào) và phát triển cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh lịch sử và trình độ của các cơ quan trong Đảng trong việc thực hiện các nguyên tắc trên. Củng cố liên minh công – nông giúp Đảng tăng cường sự thống nhất của Đảng đối mọi người dân trong nước, phát huy sức mạnh để lãnh đạo Nhà nước vững mạnh và phồn vinh. Các nguyên tắc kế tiếp chỉ là bổ sung, phát triển cho nguyên tắc quan trọng đầu tiên. Về phương thức lãnh đạo, Đảng ta đề xuất 3 điểm: nội dung lãnh đạo, phương thức lãnh đạo, lề lối và tác phong làm việc. Ba điểm trên có mối quan hệ biện chứng với nhau, nhưng phương thức lãnh đạo[13] là cái quan trọng. Có phương thức lãnh đạo tốt thì mới thực hiện được sự lãnh đạo của Đảng, chuyển tải nội dung lãnh đạo đến đối tượng lãnh đạo nhằm thực hiện mục đích đề ra. Phương thức lãnh đạo phụ thuộc vào người lãnh đạo, hoàn cảnh, điều kiện lịch sử và cả chủ thể lãnh đạo là Đảng. Trong thời Đổi mới, Đảng ta đã cải cách, đổi mới phương thức lãnh đạo cho phù hợp theo đúng tinh thần của các Hội nghị Trung ương Đảng[14] để tránh các trường hợp Đảng gặp phải sai lầm đáng tiếc trong khi lãnh đạo Nhà nước theo các phương thức hiện hành. Các phương hướng đối mới là: về nội dung lãnh đạo, Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng chiến lược, định hướng và chủ trương, chính sách; giới thiệu người ưu tú vào Đảng và chỉ đạo các hoạt động của các tổ chức Đảng, liên hệ mật thiết với nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; công khai tuyên truyền, giáo dục trên thông tin đại chúng giúp nhân dân hiểu được các chính sách và chủ trương của Đảng, từ đó ủng hộ nhiệt liệt và tin tưởng và sự lãnh đạo thành công của Đảng trong bộ máy nhà nước.
Thứ ba, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền được thể hiện thông qua việc thực hiện chính sách dân chủ ở các cơ sở Đảng, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân với Nhà nước chính là cơ sở để xây dựng và hoàn thiện sự lãnh đạo của Đảng với Nhà nước pháp quyền.
Như chúng ta đã biết, dân chủ chính là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển xã hội. Dân chủ ở Việt Nam chính là nền dân chủ của toàn thể nhân dân cả nước; nhân dân là người nắm quyền lực (họ chỉ cho Đảng nắm quyền lực chứ không sở hữu quyền lực hoàn toàn) và họ được thực thi quyền làm chủ trong các lĩnh vực chính trị, quản lý nhà nước – kinh tế xã hội của từng cấp, từng ngành và từng địa phương cụ thể. Để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, Đảng và Nhà nước cần có những chính sách thích hợp và cụ thể như mở rộng các hình thức đối thoại, tuyên truyền với nhân dân để lấy ý kiến của họ đóng góp vào các dự luật, văn bản pháp luật cũng như tổ chức nhà nước. Hình thức này được tổ chức đa dạng tùy theo tình hình địa phương và hoàn cảnh cho phép để thực hiện. Ở các địa phương, chính quyền tổ chức nhiều hình thức đa dạng để thu thập thông tin và lấy ý kiến của nhân dân đóng góp vào hoạt động của Đảng cũng như của Nhà nước, như: cho phép các cơ quan thông tấn, phương tiện truyền thông (báo chí, tài liệu tham khảo…) được kịp thời đưa tin, đăng tải các văn bản chỉ đạo cũng như những đóng góp của nhân dân, tổ chức hội nghị, sinh hoạt cơ quan – đoàn thể, hệ thống loa truyền thanh, áp phích, pa-nô… và nhiều hình thức khác. Gần đây, trong thời gian lấy ý kiến đóng góp của nhân dân vào Dự thảo Hiến pháp 1992, nhiều địa phương đã sáng tạo nhiều hình thức phong phú. Có địa phương in tờ rơi, phát hành đĩa VCD, xây dựng bản so sánh giữa Hiến pháp năm 1992 với Dự thảo sửa đổi,... sau đó đưa đến từng xã, thôn, bản, khum, sóc, từng hộ gia đình. Các tỉnh vùng cao như Lào Cai, Bắc Kạn,… đã tiến hành tuyên truyền nội dung Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 bằng nhiều thứ tiếng dân tộc khác nhau, cử cán bộ đến từng nương, rẫy để phổ biến và lấy ý kiến nhân dân. Nhờ đó, tính đến ngày 25-03-2013, theo số liệu của Ban Chỉ đạo tổng kết thi hành Hiến pháp 1992, trong cả nước đã tổ chức khoảng 28.014 hội thảo, hội nghị lấy ý kiến và tiếp nhận khoảng 15 triệu lượt ý kiến đóng góp cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân về nội dung của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Đây chính là kết tinh trí tuệ, nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân, là cơ sở để chúng ta từng bước bổ sung, hoàn chỉnh nội dung Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, trước khi trình Quốc hội thông qua, dự kiến vào tháng 10-2013[15].
Thứ tư, Đảng thể hiện vai trò lãnh đạo Nhà nước pháp quyền trong việc thi hành luật pháp và các văn bản dưới luật. Chúng ta đã biết, Hiến pháp là đạo luật cơ bản, là căn cứ chính thức để xây dựng hệ thống pháp luật từ Trung ương đến địa phương, điều chỉnh mối quan hệ giữa nhà nước với các tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội và công dân. Sự ra đời của Hiến pháp đã thể hiện “thành quả đấu tranh sau hàng loạt thắng lợi giành giật một cách khó khăn của chế độ mới chống lại chế độ cũ và hàng loạt thất bại mà chế độ cũ chống trả chế độ mới gây nên[16]. Do đó, việc Hiến pháp khẳng định về mặt nguyên tắc Đảng “là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Ðảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật[17] không phải do Đảng tự đề xướng, mà có tính chất bắt buộc đối với chính đảng duy nhất lãnh đạo và cầm quyền, thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiến pháp và pháp luật. Vi phạm nguyên tắc này là vi phạm pháp luật và phải bị xem xét, xử lý theo quy định của pháp luật.
Đồng thời, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền không chỉ được thể hiện trong Hiến pháp, mà còn được thể hiện ở các văn bản dưới luật về tổ chức hoạt động của Nhà nước tùy theo mối quan hệ cụ thể. Như vậy, có thể nói, vai trò lãnh đạo của Ðảng được xây dựng trên cơ sở pháp lý đồng bộ (hệ thống các văn bản pháp luật) và đồng thuận (điều lệ, quy định) của các tổ chức có liên quan, không phải do Ðiều lệ Ðảng "đơn phương" quy định. Ðây là một yếu tố quan trọng bảo đảm tính chính danh đầy đủ của quy định tại Hiến pháp và Ðiều lệ Ðảng, điều lệ các tổ chức chính trị - xã hội và tổ chức xã hội về mối quan hệ của Ðảng với các tổ chức khác.
Thứ năm, Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo Nhà nước thông qua quyền giám sát, việc thực hiện của các cơ quan, cán bộ viên chức theo đường lối do Đảng đề ra. Thật vậy, tại Điều 2 của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001) xác định quyền lực nhà nước là thống nhất thuộc về nhân dân, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Vì vậy, để bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, hoạt động của bộ máy các cơ quan nhà nước pháp quyền đều phải chịu sự kiểm tra, giám sát nhằm hạn chế những biểu hiện lạm quyền trong hoạt động của bộ máy nhà nước. Các cơ quan trong Nhà nước đều chịu sự kiểm tra, giám sát của Quốc hội, hội đồng nhân dân (giám sát nhà nước), kiểm tra trong nội bộ hệ thống các cơ quan nhà nước và chịu sự giám sát của nhân dân thông qua tổ chức đoàn thể của nhân dân, đồng thời cũng chịu sự kiểm tra, giám sát của Đảng. Kiểm tra và giám sát là phương thức cơ bản để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan nhà nước; khuyến khích nhân tố tích cực và hạn chế tiêu cực , qua đó góp phần củng cố, ổn định đường lối của Đảng đối với Nhà nước. Ngoài ra, Đảng còn thực hiện quyền kiểm tra, giám sát đối với các cán bộ, công nhân viên chức trong Nhà nước. Trong điều kiện một đảng cầm quyền ở nước ta thì đa số các cán bộ, công chức là Đảng viên, các tổ chức Đảng gắn liền với các cấp chính quyền và trong những cơ quan cao cấp của Nhà nước. Các cán bộ, công nhân viên chức và các Đảng viên luôn gương mẫu cháp hành các chính sách, chủ trương của Đảng, phù hợp với cương vị, chức trách, nhiệm vụ được giao. Các đảng viên ưu tú của Đảng được bổ nhiệm giữ các chức vụ lãnh đạo trong các cơ quan cấp cao nhà nước, hợp thành đội ngũ những người lãnh đạo, các công chức cấp cao, chuyên gia, chuyên viên... Thông qua đội ngũ này, đường lối, chủ trương của Đảng được chuyển hóa thành hoạt động cụ thể, sinh động của bộ máy nhà nước[18].
Ngoài ra, để thực hiện giám sát Nhà nước dễ dàng hơn thì Đảng ngoài việc tự mình kiểm tra và giám sát, Đảng còn trao cho nhân dân thay mặt mình quản lý, giám sát hoạt động của Nhà nước pháp quyền. Ví dụ, Đảng cho phép người dân được viết thư, gửi đơn và kiến nghị đến các cơ quan có thẩm quyềm để báo cáo việc giám sát của mình ở các cơ quan, cán bộ viên chức Nhà nước và các cơ quan nhận được đơn kiến nghị của dân thì sau 30 ngày phải trả lời cho dân biết. Nhờ thực hiện những chính sách đó nên Đảng tạo được vai trò với Nhà nước pháp quyền xạ hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên, có một vấn đề được đặt ra là hoạt động quản lý nhà nước của các cơ quan nhà nước không thể có sự bao biện làm thay của các tổ chức đảng và làm thế nào để phát huy vai trò của đảng viên là cán bộ, công chức trong hoạt động của các cơ quan nhà nước đó.
Thứ sáu, Đảng xác lập vai trò lãnh đạo Nhà nước thông quan năng lực lãnh đạo và uy tín của mình. Về năng lực lãnh đạo, Đảng trong quá trình lãnh đạo Nhà nước đã xác định năng lực chính là: năng lực xây dựng đường lối chính trị của Đảng; năng lực của các của đội ngũ cán bộ, đảng viên được Ðảng giới thiệu để bầu cử (bổ nhiệm) vào các vị trí lãnh đạo, quản lý trong bộ máy nhà nước và bởi năng lực kiểm tra, giám sát việc thực hiện đường lối chính trị của Ðảng trong hoạt động nhà nước. Vì vậy, để thực hiện được vai trò cầm quyền của mình mà không làm thay công việc Nhà nước, Ðảng cần tập trung trí tuệ và bộ máy của mình vào thực hiện tốt ba công tác cơ bản: Xây dựng và quyết định đường lối chính trị; đào tạo, rèn luyện một đội ngũ cán bộ đủ năng lực, trình độ và uy tín để thực hiện có hiệu quả đường lối chính trị của Ðảng thông qua các hoạt động của nhà nước; kiểm soát được quá trình thực hiện đường lối chính trị trong thực tiễn. Ba nhóm công tác cơ bản này, thực chất hợp thành nội dung cầm quyền của  Ðảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Uy tín của Đảng trong lãnh đạo Nhà nước cũng là vấn đề mà Đảng hết sức quan tâm và tìm cách áp dụng sâu vào thực tiễn Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong bối cảnh mới, Ðảng chỉ có thể tiếp tục giữ vững được vị trí cầm quyền của mình khi uy tín của Ðảng trong xã hội tiếp tục được khẳng định và không ngừng nâng cao, khi niềm tin của nhân dân đối với Ðảng tiếp tục được củng cố, hiệu quả lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội được tăng cường. Và một khi đã có sự lạm dụng vốn uy tín và niềm tin của quần chúng nhân dân đối với Ðảng được xây đắp trong các thời kỳ cách mạng sẽ dẫn đến nguy cơ làm suy giảm uy tín của Ðảng, xói mòn niềm tin của nhân dân đối với Ðảng. Ðúng như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nói: “Nếu Ðảng ta không thật vững vàng về chính trị, tư tưởng; không thống nhất cao về ý chí, hành động; không trong sạch về đạo đức, lối sống; không chặt chẽ về tổ chức; không được nhân dân ủng hộ, thì không thể đứng vững và đủ sức lãnh đạo đưa đất nước đi lên”[19].
Tóm lại, với những luận cứ mà chúng tôi nêu trên đây đã khẳng định rõ những vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Trong điều kiện hiện nay, các thế lực thù địch âm mưu đòi đa nguyên đa đảng, đòi xóa bỏ điều 4 Hiến pháp 1992 để thay đổi chế độ chính trị. Trong hoàn cảnh đó, Đảng ta cần có chính sách, đường lối phù hợp để xây dựng và củng cố nhà nước pháp quyền được vững mạnh, xứng đáng là Nhà nước “của dân, do dân và vì dân” như lời Bác Hồ và các văn kiện Đảng đã khẳng định.
Tài liệu tham khảo:
1.      Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2.      Nguyễn Đức Hòa (2011), Lịch sử văn minh thế giới, NXB Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
3.      Hiến pháp Việt Nam (năm 1946, 1959, 1980 và 1992), Nxb CTQG, Hà Nội
4.      Mác- Ănghen, Toàn tập , tập 16; tập 17.
5.      Hồ Chí Minh toàn tập, t.10, Nxb CTQG,Hà Nội, 1996.
6.      Viện nghiên cứu khoa học và pháp lý – Bộ Tư pháp (2002), Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo Đề tài KX.05.09, Hà Nội.



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 131 – 132.
[2] Viện nghiên cứu khoa học và pháp lý – Bộ Tư pháp (2002), Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo Đề tài KX.05.09, Hà Nội, tr.72.
[3] Nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền ra đời đầu tiên trong cuốn: Lex, Rex (1644), và sau này là Montesquieu trong cuốn Tinh thần Pháp luật xuất bản năm 1748.
[4] Nguyễn Đức Hòa (2011), Lịch sử văn minh thế giới, NXB Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh, tr.187.
[5] P. S. Taranov (2000), 106 nhà thông thái, NXB Chnh trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 475.
[6] Đỗ Minh Hợp (và những người khác) (2006), Đại cương lịch sử triết học phương Tây, NXB Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, tr. 401.
[7] Lê Tuấn Huy (2006), Triết học chính trị Montesquieu với việc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, NXB Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, tr. 96.
[8] Mác- Ănghen , Toàn tập , tập 16 tr.17; tập 17 tr.26
[9] Hồ Chí Minh toàn tập, t.10, Nxb CTQG,Hà Nội, 1996, tr. 716 – 717.
[10] Chính trị học đại cương, NXB Tp. Hồ Chí Minh, tr. 479.
[11] Các lý do thúc đầy Đảng chọn mô hình nhà nước pháp quyền: (1) duy trì truyền thống tốt đẹp và lâu đời của người Việt; (2) đấu tranh chống lại quan liêu, bao cấp và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng cầm quyền với Nhà nước; (3) xây dựng kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế; (4) đề cao quyền tự do, dân chủ của người dân trong đất nước. Xem: http://tailieutonghop.com/free/tinh-tat-yeu-hay-vi-sao-viet-nam-phai-xay-dung-nha-nuoc-phap-quyen_f176-9875.html

[12] Lê Minh Thông (2013), “Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam – mọi mô hình Nhà nước pháp quyền tách rời bản chất này đều xa lạ và không thực tế”, Báo điện tử Đại biểu nhân dân, xem: http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=76&NewsId=276442

[13]  Người ta định nghĩa phương thức lãnh đạo là: là một hệ thống các hình thức, biện pháp, phương pháp mà Đảng sử dụng để tác động đến đối tượng lãnh đạo nhằm thực hiện nhiệm vụ chính trị do Đảng đề ra. Xem: SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA, http://www.saigonminhluat.com/index.php?option=com_content&view=article&id=2773:s-lanh-o-ca-ng-i-vi-nha-nc-phap-quyn-xa-hi-ch-ngha&catid=359:ly-luan-nha-nuoc-va-phap-luat&Itemid=546
[14] Nghị quyết Trung ương 9 (khóa IX) nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng nhằm tránh cả hai khuynh hướng: hoặc buông lỏng sự lãnh đạo, hoặc bao biện, làm thay, nhất là phương thức Đảng lãnh đạo Nhà nước (Văn kiện Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004, tr 158). Điều đó khẳng định Đảng phải tăng cường thế lực thật mạnh mẽ, đổi mới mạnh về phương thức để xây dựng Nhà nước vững mạnh.
[15] Tạ Quang Đạo (2013), “Phát huy dân chủ, đề cao quyền làm chủ của nhân dân – thực tế không thể phủ nhận ở Việt Nam”, Tạp chí Đảng Cộng sản Việt Nam, xem: http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Tieu-diem/2013/20869/Phat-huy-dan-chu-de-cao-quyen-lam-chu-cua-nhan-dan.aspx
[16] Lenin toàn tập, tập 6, NXB Sự thật, tr.373 (tiếng Nga). Dẫn lại theo: Thái Vĩnh Thắng (2009), Giáo trình luật hiến pháp Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 42.
[17] Hiến pháp Việt Nam (năm 1946, 1959, 1980 và 1992), Nxb CTQG, Hà Nội, tr. 137 – 138.


[18] Lê Đinh Mùi (2013), “Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng trong nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan hành chính Nhà nước”, Tạp chí Cộng sản, xem: http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Xay-dung-nha-nuoc-phap-quyen/2012/19107/Phat-huy-vai-tro-lanh-dao-cua-Dang-trong-nang-cao-hieu.aspx
[19] Phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng bế mạc Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, xem: http://vov.vn/Chinh-tri/Phat-bieu-cua-Tong-Bi-thu-be-mac-Hoi-nghi-Trung-uong-4-khoa-XI/195969.vov

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét