Ngày 23-11-1940, cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ đã đi vào lịch sử như là một trong những điểm son chói lọi nhất của dân tộc trên con đường cởi ách nô lệ. Ngày 14-4-1948, thay mặt Đảng và Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Nhất cho “Đội quân khởi nghĩa Nam Bộ năm 1940, đã nổi lên chiến đấu oanh liệt với địch và đã biểu dương được ý chí quật cường của dân tộc” (Điều 1 Sắc lệnh 163-SL ngày 14-4-1948 của Chủ tịch Chính phủ), như một sự khẳng định tinh thần bất diệt của cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ. Ở vị trí sát cạnh trung tâm Sài Gòn, Long An (lúc bấy giờ là hai tỉnh Tân An và Chợ Lớn) trở thành một trong những địa bàn sôi động nhất mà những địa danh lịch sử ngày nay đã trở thành di tích lịch sử-văn hóa như nhắc nhở thế hệ hôm nay không được quên khúc bi tráng đầy tinh thần quật cường này trong lịch sử dân tộc.
Xà beng, phi tiêu, một trong số những vũ khí của lực lượng khởi nghĩa ở Trung Quận chuẩn bị cho việc “đi thành”.
|
Cây súng, quân khởi nghĩa do đồng chí Lê Văn Tưởng (sau này là trung tướng Quân đội nhân dân Việt Nam ) chỉ huy lấy được của tên thực dân Rylski ở đồn điền mía Roly, ấp Xuân Khánh, làng Hòa Khánh (quận Đức Hòa), ngày 26/11/1940.
|
Trước tình hình chuyển biến nhanh chóng của thế giới và Đông Dương sau khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (9-1939), Trung ương Đảng (đóng ở Sài Gòn) kịp thời chuyển hướng chỉ đạo chiến lược. Sau nhiều lần hội nghị, nhiều tranh luận, đến tháng 3-1940, chủ trương khởi nghĩa vũ trang của Xứ ủy, do đồng chí Võ Văn Tần làm bí thư đề ra dần dần hình thành với “Đề cương khởi nghĩa Nam kỳ” được phổ biến đến các tỉnh ủy và cơ sở. Thực dân Pháp phát hiện được tài liệu của Xứ ủy, đã ra tay đàn áp dữ dội. Nhiều đồng chí của Trung ương và Xứ ủy như Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy Tập, Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Hữu Tiến… bị bắt. Tình hình lại chuyển biến mới, Pháp đầu hàng phát xít Đức, địch ở Đông Dương hoang mang, Pháp điều quân lên biên giới Tây Nam để vãn hồi tình hình quân Xiêm do Nhựt giật dây tiến đến biên giới Lào và Campuchia; lính trại Ô Ma (có cơ sở Đảng làm binh vận) phản kháng, không chịu đi làm bia đỡ đạn, muốn nổi dậy khởi nghĩa. Tất cả diễn biến trên đã đưa đến cuộc hội nghị ở Tân Hương, Mỹ Tho (21 đến 27-7-1940) với sự có mặt của 24 đại biểu của 21/24 tỉnh thành, quyết định khẩn trương chuẩn bị mọi mặt về tổ chức, xây dựng và phát triển lực lượng, lập Mặt trận phản đế, mua sắm vũ khí, vận độntg binh lính, sắp xếp lực lượng… để chuẩn bị khởi nghĩa; đồng thời cử đồng chí Phan Đăng Lưu ra miền Trung, miền Bắc hợp đồng cùng phối hợp hành động. Nhật tràn vào Lạng Sơn, đồng thời đổ quân vào Hải Phòng (9-1940), Pháp bạc nhược đầu hàng, cả nước xôn xao; khởi nghĩa Bắc Sơn bùng nổ (27-9-1940). Ở Nam Kỳ, Xứ ủy sốt ruột chờ đợi tin đồng chí Phan Đăng Lưu, ngày 20-11-1940, Thường vụ Xứ ủy họp khẩn cấp hạ lệnh các địa phương nổi dậy vào lúc 0 giờ đêm 22 rạng 23-11-1940, hiệu lệnh: “đèn Sài Gòn tắt” hoặc có “tiếng súng nổ”. Khi đồng chí Phan Đăng Lưu bắt liên lạc được với Xứ ủy Bắc Kỳ và Trung Kỳ, trên đường vào Nam truyền đạt chủ trương hoãn khởi nghĩa do thời cơ chưa chín mùi, nhưng về đến Sài Gòn vào chiều 22-11-1940 thì bị địch bắt và lệnh khởi nghĩa đã truyền đi khắp các tỉnh.
Cầu Bà Thơm, làng Hiệp Thạnh, nơi lực lượng khởi nghĩa quận Châu Thành đốt phá đêm 22 rạng 23/11/1940.
|
Tất cả đã sẵn sàng chờ giờ khởi nghĩa. Địch đánh hơi và dựa vào chỉ điểm, khủng bố dữ dội, ngày 22-11-1940 đã giăng bẫy trong thành phố Sài Gòn đón bắt các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng, ra lệnh giới nghiêm, báo động khắp nơi, huy động cả hải, lục quân trợ lực cho cảnh sát, mật thám sẵn sàng chống khởi nghĩa, dù vậy, vẫn bị bất ngờ.
Một số đồng chí của Tân An-Chợ Lớn từ thời Nam Kỳ khởi nghĩa. Thứ tự từ trái sang phải: Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Hữu Tân, Nguyễn Văn Chính (Chín Cần), Trương Văn Bang, Huỳnh Thị Thinh, Trần Văn Giàu, Lê Hồng Vũ, Nguyễn Văn Trân, Nguyễn Thị Nguyệt.
|
Đến giờ khởi nghĩa, đèn Sài Gòn vẫn sáng, vẫn không có tiếng súng nổ, lực lượng “đi thành” được lệnh rút về chờ lệnh mới.Tuy nhiên, cuộc nổi dậy vẫn nổ ra mạnh mẽ ở khắp nơi trong hai tỉnh ngay trong đêm 22 rạng ngày 23-11-1940 và những ngày sau đó.Với nhiều mức độ khác nhau và khí thế chưa từng có, lực lượng khởi nghĩa ở các làng đã đánh đồn, tiến chiếm nhà việc, nhà hội, nổi trống mõ, tù và, đốt sổ bộ, tài liệu, đốt trụ sở, xuống đường tuần hành, mít tinh, hô hào khởi nghĩa, trừng trị tay sai ác ôn, cảnh cáo, giáo dục tề, kềm chế lính, tước súng tề, treo cờ đỏ, rải truyền đơn, ngã cây, phá đường, phá cầu, tạo chướng ngại vật, cắt dây thép, nổi lửa…, làm cho làng lính địa phương hoảng sợ lẩn trốn.Trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, toàn Tân An-Chợ Lớn có 94 làng /128 làng thực hiện kế hoạch cướp chính quyền và tham gia tham gia hưởng ứng khởi nghĩa với nhiều hình thức khác, tiến đánh 12 đồn bót, chiếm và đốt phá 37 nhà việc, ngăn lộ phá cầu ở 21 địa điểm, thu 52 súng, trừng trị 49 tên ác ôn, tay sai... Nhiều vụ trừng trị ác ôn ở Đức Hòa, Cần Giuộc, Trung Quận, Mộc Hóa, diệt đồn ở Thủ Thừa, treo cờ ở Cần Giuộc… đã gây tiếng vang lớn. Từ cuộc khởi nghĩa, đã xuất hiện nhiều tấm gương anh hùng, bất khuất, dũng cảm kiên cường, hy sinh oanh liệt trước pháp trường, như các đồng chí Nguyễn Thị Bảy, Nguyễn Văn Nhâm, Lê Văn Lao, Võ Văn Siêng (con đồng chí Võ Văn Tần), Nguyễn Văn Dường, Lê Công Phép…
Địch khủng bố dã man sau khởi nghĩa, đã đốt hàng trăm ngôi nhà, đưa quân ruồng bố, càn quét, bắn giết hàng trăm cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và đồng bào, lập đài xử bắn các chiến sĩ Nam Kỳ khởi nghĩa ở Đức Hòa, Cần Giuộc…Dù bị dìm trong bể máu, cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ ở Tân An-Chợ Lớn đã làm kẻ thù khiếp sợ. Lần đầu tiên kể từ khi quân xâm lược đặt chân lên mảnh đất này, cùng với các tỉnh ở Nam Kỳ, cuộc khởi nghĩa ở hai tỉnh Tân An và Chợ Lớn đã làm rung chuyển từng mảng lớn chính quyền địch ở cơ sở mà thực dân Pháp và tay sai đã thống trị hơn nửa thế kỷ qua.“Đó là những tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đấu tranh bằng võ lực của các dân tộc Đông Dương”.
Bài và ảnh: Nguyễn Tấn Quốc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét