rong căn nhà riêng ấm cúng trong một ngõ nhỏ trên đường Hoàng Hoa Thám (Hà Nội), ông Lưu Văn Lợi (ảnh) đã kể cho chúng tôi nghe những năm tháng đầy cam go trên mặt trận ngoại giao hơn 40 năm trước ở bàn Hội nghị Pari.
Cụ Lưu Văn Lợi khi đó là trợ lý Bộ trưởng Bộ Ngoại giao (sau này là Trưởng ban Biên giới Chính phủ - hàm Bộ trưởng), năm nay cụ Lợi đã tròn 100 tuổi. Cụ rất giỏi, được cử làm cố vấn pháp lý cho ông Lê Đức Thọ cùng với Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch hoàn thành văn bản Hiệp định Pari. Còn ông là Lưu Văn Lợi, làm việc ở Vụ Liên Xô, Đông Âu.
Qua câu chuyện với ông, chúng tôi được biết, ông sinh năm 1933, quê ở Duy Tiên, Hà Nam. Năm 1946, khi học hết lớp 3 thời Pháp thuộc, ông theo gia đình lên chiến khu. Sau đó ông vào học trường Thiếu sinh quân. Năm 1951, ông sang Trung Quốc học ở khu học xá Nam Ninh. Ba năm sau, ông được sang Liên Xô học lớp Nga văn đặc biệt. Năm 1956, ông làm việc ở Đại sứ quán Việt Nam ở Liên Xô.
Câu chuyện cái bàn
Trước khi khởi động họp bốn bên, một trong những tranh cãi nảy lửa và kéo dài cả tháng trời là câu chuyện về cái… bàn ở Hội nghị. Chuyện tưởng nhỏ nhưng thực chất lại có ý nghĩa chính trị quan trọng đối với cả ta và Mỹ, vì vị trí ngồi ra sao sẽ xác định tư cách pháp nhân của bên tham gia. Phía Mỹ đòi bàn hình chữ nhật hoặc tròn chia đôi để thể hiện rằng cuộc đàm phán chỉ có 2 bên: Mỹ - Việt Nam Cộng hòa và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Còn ta lại yêu cầu chiếc bàn hình vuông hoặc tròn có phân chia rõ 4 bên. Vì chỉ có 4 bên mới bình đẳng. Câu chuyện cái bàn nổi tiếng đến mức, các hãng làm đồ mộc lớn trên thế giới khi ấy đã gửi nhiều mẫu bàn tới chào hàng để các bên cùng chọn. Song do tranh cãi kéo dài và không đi đến thống nhất, cuối cùng, hai bên quyết định chọn cái bàn tròn bằng phẳng lớn và kê hai bàn thư ký hình chữ nhật ở hai bên. Không có cờ và biển ghi tên trước mặt các đoàn. Bố trí kiểu “nước đôi” như vậy, dư luận quốc tế hiểu đây là đàm phán “hai bên” cũng được mà “bốn bên” cũng được. Chuyện màu sắc chiếc khăn trải bàn cũng gây tranh luận khiến nước chủ nhà Pháp phải mang cả xấp khăn đủ các màu ra để các bên lựa chọn. Cuối cùng, ta với Mỹ nhất trí lựa chọn khăn trải bàn màu xanh lá cây thẫm.
Thái độ lật lọng và hành động leo thang chiến tranh của chính quyền Mỹ đã gây nên một làn sóng phản đối mạnh mẽ khắp thế giới. Ngày 20/1/1973, cùng với hàng trăm cuộc biểu tình chống chiến tranh nổ ra ở nhiều nước trên thế giới, nhân dân Mỹ tổ chức biểu tình lớn ở thủ đô Oasinhtơn, trong khi Richard M.Nixon làm lễ nhậm chức Tổng thống, đòi Mỹ ký ngay Hiệp định hòa bình, chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam. Ảnh: Tư liệu - TTXVN
|
Sau chuyện cái bàn, màu khăn trải bàn, nhiều chuyện nhỏ khác cũng phải trải qua những tranh luận gay gắt. Đó là quy định thứ tự phát biểu của các đoàn tại cuộc họp. Có nước gợi ý để cho nước chủ nhà bốc thăm, trúng bên nào thì bên đó được đọc trước. Cuối cùng vì không muốn để vấn đề thủ tục kéo dài, ta đã đồng ý để đoàn Mỹ phát biểu trước, đồng thời chấp nhận đề nghị của Mỹ tổ chức phiên họp thứ nhất của Hội nghị bốn bên vào ngày 18/1/1969. Nhưng về sau, cuộc họp trù bị của các phó trưởng đoàn đã họp vào ngày này vì trưởng đoàn chính quyền Sài Gòn chưa có mặt ở Pari.
Theo lời kể của ông Lưu Văn Lợi, những cuộc tranh luận căng thẳng về các tiểu tiết (nhưng lại rất quan trọng) như trên trong Hội nghị Pari có rất nhiều. Đặc biệt, nhiều khi phía Mỹ còn sử dụng cả những "tiểu xảo" hòng đưa phía ta vào thế khó. Như việc Kissinger cậy mình trẻ hơn Cố vấn Lê Đức Thọ tới hơn một giáp, thường tìm cách làm cho Cố vấn Lê Đức Thọ mệt mỏi. Biết ông hay bị mất ngủ, sức khỏe hạn chế trong các cuộc thương lượng kéo dài thâu đêm, nên trong những cuộc họp riêng Kissinger luôn lòng vòng lê thê đủ chuyện xa gần hết cả ngày trời. Song cứ nhè vào lúc chiều muộn nhập nhoạng tối, Kissinger mới đưa việc chính, những vấn đề “nóng” ra tranh luận, hòng có được những kết quả có lợi về phía mình, bởi Kissinger cho rằng, lúc đó ông già kia (Cố vấn Lê Đức Thọ) đã mệt mỏi rồi, chắc sẽ dễ ừ, dễ gật. Nhưng điều mà Kissinger không thể ngờ được, là tuy đã cao tuổi, nhưng Cố vấn Lê Đức Thọ là người dạn dày với chiến trường, lại rất cảnh giác trước những mánh lới này nên Kissinger đã không thể đạt được mục đích. “Có những cuộc họp kéo dài tới 12-13 tiếng đồng hồ, những người dự thay nhau lên gác nghỉ, chợp mắt, nhưng ông già thì không nghỉ, thỉnh thoảng chỉ uống một cốc nước sâm. Đàm phán càng muộn, ông Thọ càng tỉnh và diễn thuyết càng hăng, khiến cho chính Kissinger cũng phải thừa nhận: “Tôi rất ngán khi đang đàm phán căng thẳng, người cận vệ của ông Thọ lại mang nước tới. Vì tôi biết, nước đó là nhân sâm" - ông Lưu Văn Lợi nhớ lại.
Cho đến giờ, ông Lợi vẫn nhớ như in một lần họp riêng, Kissinger đưa cho Cố vấn Lê Đức Thọ khoảng 30 cái ảnh màu cỡ bằng cái khay, chụp từ vệ tinh rất rõ, toàn ảnh quân đội ta không đội mũ tai bèo mà đội mũ cối, vai đeo lon, rõ cả sao trên mũ. Kissinger nói: “Đã thỏa thuận là từ tháng 3 các ông thôi không đưa thêm quân vào nữa. Đây, ông đưa quân vào đây này”. Ông Thọ cười to, tiếng cười lạ lắm, cười khỏe kiểu vừa ở thế thắng, lại vừa có vẻ khinh miệt. Ông bảo Kissinger: “Mấy cái ảnh này các ông chụp ở đâu chẳng được, ông ra Bắc, rừng chỗ nào chả giống nhau. Tình báo các ông tồi lắm, lúc chúng tôi không đưa quân thì các ông lại bảo chúng tôi đưa quân, nhưng lúc chúng tôi đưa xe tăng và đại pháo vào sát Sài Gòn thì các ông chả biết tí gì cả. Cho nên các ông thua là phải!”. Kissinger ngồi im, không nói được câu nào.
Sau này, chính Kissinger cũng phải thốt lên: “Ông Thọ ở Pari đã mổ xẻ tôi bằng con dao rất nhọn, với tay nghề của một nhà giải phẫu cừ khôi. Có những lúc ông ấy nói cả tiếng đồng hồ về lịch sử ngàn năm đấu tranh, dựng nước và giữ nước của Việt Nam, tôi bảo cái điều này tôi đã nghe nhiều lần rồi, thì ông Thọ bảo: Ông nghe nhiều lần nhưng chưa thuộc, tôi nói lại để ông biết…” - ông Lưu Văn Lợi kể lại.
Diễn viên… đóng thế
Khi cuộc chiến tranh Việt Nam đã trở thành nỗi trăn trở của cả loài người, thành vấn đề lương tri của thời đại, thì không có gì ngạc nhiên là từ tất cả các nước, mọi người mong chờ, hướng về Hội nghị Pari này. Hàng nghìn nhà báo, điện ảnh, nhiếp ảnh, đã đổ về Pari, họ luôn tìm mọi cách để “săn” những cái tin thật “nóng” để thu hút dư luận.
Đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khi đó được báo giới phương Tây ví như một “nhà tu kín”, trước cửa trụ sở của đoàn ở thị trấn Choisy Le Roi luôn có hàng chục phóng viên “trực chiến”. Ngay khi phát hiện xe của phái đoàn Việt Nam rời khỏi nhà, họ lập tức dùng môtô phân khối lớn bám theo, mong lần ra địa điểm họp bí mật với phía Mỹ. Để tránh sự đeo bám của các phóng viên, có lúc, ông Lợi đã trở thành diễn viên… đóng thế vai Trưởng đoàn đàm phán. "Một lần, để đảm bảo bí mật, tôi cùng người bảo vệ quen thuộc ngồi lên xe của trưởng đoàn. Xe vừa từ sân trụ sở lăn bánh ra khỏi cổng đã phóng nhanh như mọi bận. Một tốp phóng viên trực sẵn trông thấy lập tức bám theo. Xe của “trưởng đoàn giả” cứ thế chạy lòng vòng khắp các phố với “cái đuôi” là đám phóng viên nước ngoài dính chặt. Trong khi đó, Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ và Bộ trưởng Xuân Thủy thì đã qua cửa phụ lên chiếc xe riêng của một trí thức người Pháp làm công tác phục vụ đoàn và tới nơi họp mà chẳng bị ai quấy rầy" - ông Lợi vui vẻ nhớ lại.
Tuy đã giữ bí mật như thế nhưng cũng nhiều lần các tay săn tin vẫn tìm ra được nơi họp kín giữa đoàn Việt Nam và Mỹ. "Họ thuê các ngôi nhà đối diện, dỡ cả mái ngói, tìm vị trí đặt ống kính, sẵn sàng chộp” lấy bất cứ hình ảnh nào của những nhân vật quan trọng trong cuộc họp".
Trong suốt gần 5 năm tham gia cuộc đàm phán ở Hội nghị Pari về Việt Nam, ông Lợi đã nhiều lần tháp tùng Cố vấn Lê Đức Thọ đi về giữa Pari và Hà Nội, nhiều lần ông đi cùng Cố vấn đến thăm và báo cáo với Hồ Chủ tịch. Ông xúc động nhớ lại: "Có lần, cả đoàn về Hà Nội, dự định về nơi ở tại khu biệt thự ở Hồ Tây chờ sự cho phép của các bác sĩ. Nhưng vừa về tới nơi, người bảo vệ đã chạy vào báo: Hồ Chủ tịch tới thăm!". Khi gặp Cố vấn Lê Đức Thọ, Chủ tịch Hồ Chí Minh bảo: "Nghe chuyện ở Pari tôi rất vui. Lần này nhất định sẽ có thưởng cho đoàn Pari". Nhưng Cố vấn Lê Đức Thọ đã nói: "Chiến tranh còn ác liệt, bao giờ chiến thắng, đất nước độc lập thống nhất rồi, Bác thưởng cũng không muộn"…
Phương Lan
Bài 3: Trường đời ở Pari
Gần 5 năm diễn ra cuộc đàm phán ở Pari, khi các chiến sỹ, nhân dân Việt Nam không quản ngại khó khăn, gian khổ để chiến đấu giữ gìn từng tấc đất với kẻ thù, thì trên bàn đàm phán, các “chiến sỹ ngoại giao” cũng từng giờ, từng phút đấu tranh bằng lý lẽ với đối phương để đi đến thỏa thuận về bản Hiệp định hòa bình, chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam.
“Không bao giờ khuất phục!”
Năm 1972 là giai đoạn đi vào thương lượng cụ thể. Hồi đó lập trường của hai bên khác nhau lắm, Mỹ muốn rút, nhưng muốn giữ nguyên chế độ Thiệu - Kỳ, mà lại không công nhận chính phủ Lâm thời. Lúc bấy giờ đã đi vào thảo luận về Hiệp định rồi, hôm trước vừa thỏa thuận như thế, nhưng hôm sau họ lật lại. Mỹ luôn lấy cớ rằng chính quyền Sài Gòn không chấp nhận. Ở nhà, đồng chí Lê Duẩn đã dặn đồng chí Lê Đức Thọ: “Anh sang bây giờ, anh sẽ là Tư lệnh ở mặt trận ngoại giao, làm thế nào thì làm, nhưng anh phải đạt được là “quân Mỹ rút ra, quân ta ở lại”. - ông Lưu Văn Lợi, nguyên thư ký của Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ nhớ lại.
Từ ngày 19/7 tới đầu tháng 10/1972, các cuộc gặp riêng đã có những tiến triển khả quan. Trong phiên họp riêng kéo dài lâu nhất trong suốt gần 5 năm đàm phán, từ 9 giờ 30 phút sáng 11/10/1972 tới gần 2 giờ sáng ngày hôm sau, nội dung Hiệp định về cơ bản đã được hai bên chấp nhận. Trong thông điệp ngày 20/10/1972 gửi Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Tổng thống Mỹ Nixon đã xác nhận “văn bản Hiệp định coi như đã hoàn thành” và cam kết Hiệp định sẽ được chính thức ký kết ngày 31/10/1972 tại Pari. Kissinger thông báo với báo giới: “Hòa bình trong tầm tay”! Tuy nhiên, khi Nixon tái đắc cử tổng thống Mỹ nhiệm kỳ 2 đã tìm cách lật lọng, đưa ra những yêu sách nhằm phá bỏ những thỏa thuận trước đó. Trong cuộc họp hẹp với Kissingger sáng 4/12/1972, Cố vấn Lê Đức Thọ nói: “Chúng tôi cũng đã dự tính là nếu không giải quyết được thì chiến tranh sẽ rất tàn khốc, có thể là các ông sẽ đem B52 đánh bom ồ ạt đất nước chúng tôi… Chúng tôi đã chịu đựng hàng triệu tấn bom đạn của Mỹ, nhưng chúng tôi không hề khiếp sợ, chúng tôi không bao giờ khuất phục, không bao giờ làm nô lệ. Cho nên những lời đe dọa của các ông và việc các ông không giữ đúng lời hứa chỉ chứng tỏ các ông không phải là những người đàm phán nghiêm chỉnh”.
Theo ông Lưu Văn Lợi, sau phiên họp ngày 13/12/1972, ngày 14/12 Kissingger rời Pari, ngày 15/12 phái đoàn ông Lê Đức Thọ cũng rời Pari. “Khoảng hơn 6 giờ chiều ngày 18/12/1972 đoàn về đến sân bay Gia Lâm. Khoảng hơn 2 tiếng sau thì B52 trút bom xuống Hà Nội và các nơi khác. Trời đất sáng rực vì tên lửa và cao xạ bắn lên, đất rung chuyển ầm ầm, ông Lợi nhớ lại.
Việc dùng B52 ném bom Hà Nội thất bại đã phá tan “giấc mộng” đảo ngược tình thế của Mỹ, dư luận thế giới phê phán và phản đối kịch liệt. Mỹ không còn lựa chọn nào khác là phải ngừng ném bom và quay lại bàn đàm phán.
Ngày 6/1/1973, Cố vấn Lê Đức Thọ tới Pari trong hào quang của "chiến thắng Điện Biên Phủ trên không". Ngày 8/1/1973, cuộc đàm phán bốn bên tại Pari được nối lại sau trận "Điện Biên Phủ trên không". Hôm ấy, khi đoàn Mỹ đến cổng, không có bất cứ thành viên nào của đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra cửa đón như thông lệ. Kissinger phải tự mình mở cửa vào nhà, tự tìm lối vào phòng họp. Ở đó, đoàn của ta đã ngồi đợi sẵn, ai nấy đều tỏ thái độ lạnh lùng. Ngay khi bắt đầu phiên họp, Cố vấn Lê Đức Thọ đã rất nhẹ nhàng và mỉa mai khi nói chuyện với Kissinger và giới ngoại giao ở Pari: "Mỹ đã đón tiếp khi tôi trở về Hà Nội "hết sức lịch sự"... Và rồi ông gay gắt: “Các ông kiếm cớ thương lượng bị gián đoạn, để dùng B52 đánh vào Hà Nội. Hành động của các ông thật là trắng trợn và rất thô bạo. Các ông tưởng rằng làm như vậy là có thể khuất phục được chúng tôi, nhưng các ông nhầm. Chính các ông đã làm cho cuộc đàm phán khó khăn, chính các ông, chứ không phải ai khác đã làm cho danh dự nước Mỹ bị hoen ố...”. Kissinger lúc đó rất lúng túng, chỉ biết phân bua: “Đó không phải là trách nhiệm của tôi. Việc ném bom B52 xuống Hà Nội không phải là lỗi của tôi”.
Chưa bao giờ, những người có mặt trong buổi gặp mặt hôm đó lại thấy cố vấn Lê Đức Thọ nổi nóng như vậy. Ông đập bàn và nói: “Hơn mười năm nay, Mỹ đã dùng bạo lực để khuất phục nhân dân Việt Nam, bom napan, B52. Nhưng các ông đã không rút ra được bài học nào từ những thất bại đó. Thật là ngu xuẩn, ngu xuẩn, ngu xuẩn”. Khi ông ngừng lời, người phiên dịch của đoàn Việt Nam nhìn xuống sàn nhà, không muốn dịch mấy từ cuối cùng. Nhưng các thành viên trong phái đoàn Mỹ không những đã dịch nốt, còn nhấn mạnh thêm mấy từ cuối: “Stupid! Stupid! Stupid!”. Khi đó, Kissinger càng lúng túng, đề nghị: “Tôi có nghe những tính từ, tôi đề nghị không dùng những từ đó”. Nhưng ông Lê Đức Thọ trả lời: “Những từ đó tôi dùng đã là kiềm chế lắm rồi, chứ dư luận thế giới, các nhà báo và cả những người Mỹ còn dùng những câu chữ dữ dội hơn nhiều”. Và ông Thọ tiếp tục nói liền một tiếng đồng hồ không hề bớt gay gắt. Thậm chí có lúc, Kissinger đã xin ông hạ giọng bớt để các nhà báo đang tụ tập bên ngoài không nghe được, nhưng ông phớt lờ.
Ngày 23/1/1973, Hiệp định Pari được ký tắt với nội dung cơ bản như bản Dự thảo mà ta đưa ra hồi tháng 10/1972. Khi ký tắt xong, Kissinger trao cây bút mà ông ta vừa ký cho ông Lê Đức Thọ và nói: “Tôi xin tặng ông cây bút này để nhớ mãi ngày lịch sử này”. Ông Lê Đức Thọ tươi cười nhận và tặng lại Kissinger cây bút mình vừa ký và nói: “Tôi tặng lại ông cây bút này - và xin ông nhớ cho ký rồi phải giữ lấy lời nhé!”. Sau đó, ngày 26/1, Cố vấn Lê Đức Thọ đi Mátxcơva nên ông Lợi không được dự lễ ký chính thức hôm 27/1/1973.
Và mùa xuân thắng lợi
Ông Lợi nhớ lại, Tết năm 1973 cũng rất đặc biệt, đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ăn Tết ở 3 nước. Tại Pari, các thành viên trong đoàn được ăn một cái Tết hoành tráng do hội Việt kiều tại Pháp tổ chức. Đêm đón Tết năm ấy có những người bạn quốc tế đặc biệt: Diễn viên điện ảnh nổi tiếng của Mỹ là Jane Fonda, cùng hai ca sỹ là Joan Baez (người Mỹ) và Hugues Aufray (người Pháp). Họ đã cùng cất cao tiếng hát ủng hộ, chia sẻ mất mát chiến tranh với Việt Nam. Hôm đó còn có khoảng 6.000 người Việt ở Pháp và các nước lân cận, các quan khách Pháp và quốc tế cũng đến vui Tết Việt ở Pari.
Đến sáng 26/1, Cố vấn Lê Đức Thọ về Mátxcơva. Ngay tối hôm đó, Liên Xô tổ chức mít tinh hoành tráng ở Nhà Công đoàn, có các nhà lãnh đạo Liên Xô đến dự. Máy bay đưa đồng chí Lê Đức Thọ lại quay sang Pari đón đồng chí Nguyễn Duy Trinh, rồi cả đoàn cùng về nhà. Máy bay dừng lại Bắc Kinh đúng chiều 30 Tết. Để chúc mừng Việt Nam đạt được thắng lợi ở Pari, các bạn Trung Quốc nhất định giữ đoàn ở lại đón giao thừa tại Bắc Kinh. Thật thú vị, trong bữa cơm đón giao thừa ở Bắc Kinh, cả đoàn ngạc nhiên và cảm động khi thấy mâm cơm ngày Tết lại có nem, có bánh chưng… Thì ra, bữa tiệc giao thừa năm đó được chế biến bởi một đầu bếp Trung Quốc vừa đi học nấu ăn ở Việt Nam về. Bữa tiệc liên hoan mừng năm mới đó cũng rất vui, nhưng vui nhất vẫn là khi về Việt Nam.
Đoàn về nước đúng hôm mùng 1 Tết, xông đất Việt Nam. Ngay ngày mùng 2 Tết năm Quý Sửu (tức ngày 4/2/1973), Cố vấn Lê Đức Thọ đã lên đường đến thăm các cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn tên lửa 77, Sư đoàn phòng không Hà Nội, Đại tá Trần Văn Giang, Chính ủy sư đoàn, thay mặt đơn vị chào mừng “lão tướng chiến thắng từ mặt trận ngoại giao trở về”. Cố vấn Lê Đức Thọ xua tay nói: “Không, không! Cán bộ, chiến sĩ phòng không không quân anh hùng mới chính là người chiến thắng. Không có chiến thắng của các đồng chí trên mặt trận quân sự, thì sẽ không có chiến thắng ở mặt trận ngoại giao. Các đồng chí đã bắn rơi B52 trên bầu trời Hà Nội và chính cái đó đã buộc Mỹ ký Hiệp định Pari ngày 27/1/1973. Chính các đồng chí đã cho tôi sức mạnh và sự kiên quyết trước kẻ thù trên bàn Hội nghị”.
Ông Lợi đã từng ví, Hội nghị Pari như một cái lò luyện cho những cán bộ tham gia Hội nghị. Ông bảo, gần 5 năm trời, Hội nghị như một trường học ngoài đời đã đào tạo nhiều người trưởng thành hơn, bản lĩnh hơn. Không chỉ tôi luyện trí tuệ, bản lĩnh cho các cán bộ của ta, mà Hội nghị Pari những năm ấy còn cảm hóa bao nhiêu thế hệ không chỉ người Việt Nam. Có những người Pháp đang đi làm ở công ty, đã xin nghỉ không lương, đăng ký với Đảng Cộng sản Pháp tình nguyện đến giúp đoàn ta, họ còn mang cả xe ô tô riêng đến, rồi đảm nhiệm luôn vai trò lái xe, sẵn sàng đưa đoàn đi bất cứ nơi đâu, đi đến chỗ họp, đi thăm kiều bào, đi vận động sự ủng hộ của bạn bè khắp nơi… Bà Tôn Nữ Thị Ninh, khi đó là người của Sài Gòn cử đi Pari học, đã chuyển hẳn sang làm việc cho đoàn của ta, sau này trở về Việt Nam đã đảm nhiệm nhiều nhiệm vụ quan trọng ở Bộ Ngoại giao và Quốc hội.
Đó là những ký ức không thể nào quên của nhà ngoại giao Lưu Văn Lợi, nguyên thư ký của cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ tại Hội nghị Pari. Bốn mươi năm đã qua, Cố vấn Lê Đức Thọ - vị “Tư lệnh” tài ba, đầy bản lĩnh trên “mặt trận ngoại giao” của Việt Nam đã đi xa, nhưng những câu chuyện về ông, những đóng góp to lớn của ông đối với đất nước vẫn còn mãi trong lòng nhân dân Việt Nam. Bây giờ, dù tuổi cũng đã cao, sức khỏe đã không còn như trước, nhưng ông Lưu Văn Lợi vẫn luôn dành thời gian để tham gia các công trình nghiên cứu về cuộc đàm phán ở Pari, cũng như về nhà ngoại giao nổi danh Lê Đức Thọ - người mà ông luôn coi như một người thày, một người anh, người thủ trưởng mà ông hằng kính trọng.